Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật XVIII

Đăng lúc: Thứ sáu - 01/08/2014 02:55 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng
Chúa Nhật XVIII thường niên – năm A
Lời Chúa: Is 55,1-3; Rm 8,35.37-39; Mt 14,13-21

***************
MỤC LỤC
1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: Đức Giêsu chữa bệnh và nuôi đám đông dân chúng
2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm Inhaxiô Hồ Thông
3. Chú giải theo Noel Quesson
4. Thế giới này sẽ hết nghèo đói nếu người ta biết chia sẻ cho nhau (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
5. Chính anh em hãy liệu cho họ ăn (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
6. Đón nhận Chúa và chia sẻ cho anh em (Lm. Đan Vinh)
7. Hãy có lòng thương xót (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
8. Ai nấy đều được ăn no nê (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
9. Bữa Tiệc Tình Thương (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
10. Dĩ thực vi tiên (JM. Lam Thy ĐVD.)
11. Không chỉ là lương thực thân xác (Phêrô Trần Đình Phan Tiến)
12. Phép lạ của sự lắng nghe (Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
13. Tấm bánh liên đới (ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)
14. Đói khát tâm linh… SOS!!! (Lm Anmai)
15. Các con hãy cho họ ăn (Lm Đam. Trần Văn Điều)
16. Bài học tiết kiệm (Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
17. Năm chiếc bánh và hai con cá (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
18. Chia sẻ cơm áo (R. Veritas)
19. Nhu cầu vật chất và tâm linh (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)


A. BẢN VĂN

Bài đọc I (Is 55, 1-3)
Đây Chúa phán: “Hỡi tất cả những ai khát nước, hãy đến uống nước; hỡi kẻ không tiền bạc, hãy đến mua lúa mà ăn; hãy đến mà mua rượu và sữa, không cần trả tiền, không cần đổi chác gì. Tại sao các ngươi không dùng tiền mà mua bánh, sao không dùng tiền lương mà mua đồ nuôi thân? Vậy hãy lắng tai nghe, hãy đến ăn đồ bổ, và các ngươi sẽ được thưởng thức món ăn mỹ vị. Hãy lắng tai và đến cùng Ta, hãy nghe, thì các ngươi sẽ được sống; Ta sẽ ký kết với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, đó là những hồng ân đã hứa cho Đavít”.

Bài đọc II (Rm 8, 35. 37-39)
Anh em thân mến, ai sẽ tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô được? Hay là gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo sao?
Nhưng chúng ta vượt thắng được trong tất cả những sự ấy, vì Đấng đã yêu thương chúng ta. Tôi chắc chắn rằng dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay các bậc quyền quý, tài sức, dù những sự hiện tại hay tương lai, hoặc sức mạnh, dù cao hay sâu, dù tạo vật nào khác, cũng không có thể tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.


Tin Mừng (Mt 14, 13-21)
Khi ấy Chúa Giêsu nghe tin Gioan Tẩy Giả đã chết, thì Người rời bỏ nơi đó, xuống thuyền đi đến nơi hoang địa vắng vẻ. Dân chúng nghe biết, thì từ các thành phố đi bộ theo Người. Ra khỏi thuyền, Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ, và chữa những người bệnh tật trong họ.
Chiều tới, các môn đệ đến gần thưa Người rằng: “Đây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi, xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn”. Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: “Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn”. Các ông thưa lại rằng: “Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá”. Người bảo các ông rằng: “Hãy đem lại cho Thầy”.
Khi Người đã truyền cho dân chúng ngồi trên cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các ông này phân phát cho dân chúng. Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn. Số người ăn là năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ.



B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI VÀ SUY NIỆM

Bài 1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofmĐỨC GIÊSU CHỮA BỆNH VÀ NUÔI ĐÁM ĐÔNG DÂN CHÚNG
Mỗi khi tham dự thánh lễ, các tín hữu sống một biến cố mang tính Giáo Hội: họ vây quanh Đức Giêsu, họ chia sẻ chính Mình Máu Người. Sau đó, họ được mời gọi ra đi.
1. Ngữ cảnh
Chúng ta nên đặt đoạn văn này vào trong ngữ cảnh của nó là toàn khối từ cuối chương 13 đến chương 17. Đọc khối này, chúng ta nhận ra những ý tưởng quan trọng:
1) Chương 13 cho hiểu rằng Nước Trời đang tăng trưởng và bất cứ người nào hiểu rằng mình được kêu gọi đi vào đấy, thì phải lựa chọn dứt khoát. Kể từ nay, chúng ta thấy cộng đoàn của Đức Giêsu xuất hiện rõ nét dần, được củng cố dần, mở ra dần với đức tin (x. 14,33; 16,16), đào sâu dần mầu nhiệm Đức Giêsu. Chính là nơi cộng đoàn này mà người ta nhận ra Nước Thiên Chúa đang hiện diện và ngày càng rõ nét. Chúng ta có thể đặt tên cho toàn khối ch. 13–17 này: “Tiến tới việc loan báo Giáo Hội” hoặc “Giáo Hội, hoa quả đầu mùa của Nước Trời” hoặc “Hành trình đức tin trong Giáo Hội”, bởi vì qua các chương này, Mt đề cập đến việc đào tạo tiệm tiến cộng đoàn Giáo Hội.
2) Khối này mở ra với việc dân Nadarét từ khước Đức Giêsu (13,53-58) và kết thúc với câu chuyện cho thấy Phêrô được Đức Giêsu cho gắn bó với Người (17,24-27). Xuất hiện gương mặt đe dọa của vua Hêrôđê, người đã giết Gioan Tẩy Giả (14,13). Nhóm Pharisêu ngày càng tỏ rõ thái độ hiềm thù đối với Đức Giêsu (15,1tt.12; 16,1.4). Những thái độ đe dọa thù nghịch khiến Đức Giêsu lo sợ, Người rút lui về những nơi an toàn hơn hoặc tách biệt hơn (14,13; 15,21).
3) Toàn khối này được xây dựng quanh hai điểm: đức tin và hiểu biết:
- Tác giả nói đến những người kém tin trong câu truyện Phêrô đi trên mặt nước (14,31) và câu truyện các môn đệ bàn tán về việc quên bánh (16,8). Trong câu truyện Đức Giêsu chữa đứa trẻ bị kinh phong, có một lời than: “Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin …” (17,17). Mtlà tác giả duy nhất xác định rằng các môn đệ không chữa lành được em bé vì họ kém tin. Ngài cũng là người duy nhất ghi nhận đức tin mạnh của bà Canaan (15,28).
- Ngài đã sử dụng động từ hiểu 9 lần trong các chương này. Ở 15,10, các đám đông được mời gọi nghe và hiểu. Ở 15,16, các môn đệ bị gọi là ngu tối (= không hiểu). Và cũng chỉ một mình tác giả Mt đã ghi nhận rằng các môn đệ khi ấy mới hiểu ra (16,12; 17,13) những gì cho tới nay họ vẫn không hiểu.
Các ghi nhận này cho thấy, dọc theo các chương này, tác giả Mt đặc biệt quan tâm đến đức tin, nhất là đức tin của các môn đệ, nhìn như một hành trình và như một nỗ lực đào sâu và củng cố đức tin.
2. Bố cục
Bản văn này có thể chia làm ba phần:
1) Đức Giêsu chữa bệnh cho đám đông (14,13-14):
a) Hoàn cảnh (c. 13),
b) Đức Giêsu chữa bệnh (c. 14);
2) Đức Giêsu nuôi đám đông (14,15-21):
a) Đức Giêsu đối thoại với các môn đệ (cc. 15-18),
b) Đức Giêsu nuôi đám đông nhờ trung gian các môn đệ (c. 19-20a);
3) Kết luận: Ghi nhận về bánh hóa nhiều (cc. 20b-21).
3. Vài điểm chú giải
nơi hoang vắng (13): dịch sát là nơi “sa mạc”. Phép lạ hóa bánh ra nhiều tại sa mạc này khiến chúng ta nhớ đến Môsê đã xin Chúa ban man-na cho đoàn dân trong thời gian họ tiến đi trong sa mạc để về Đất Hứa (x. Xh 16; Ds 11).
chạnh lòng thương (14): dịch sát là “đau đớn quặn thắt trong ruột”. Nhiều lần Mt ghi nhận là Đức Giêsu “động lòng thương” (esplanchnisthê: 9,36; 15,52) và bày tỏ lòng thương bằng những hành vi cứu chữa.
chiều đến (15): Ghi nhận là bài tường thuật Đức Giêsu lập bí tích Thánh Thể cũng bắt đầu với công thức chỉ thời gian này (26,20).
- năm cái bánh và hai con cá (17): Bánh và cá muối hoặc ngâm dấm là những món thuộc về bữa ăn thông thường của dân chúng.
ngả mình trên cỏ (19): Chi tiết này cho hiểu đây là thời gian trong mùa xuân, tức ám chỉ đến lễ Vượt Qua. Anaklithênai, “ngả mình”, là động từ gợi ý đến một bữa tiệc, bởi vì khi ăn, các thực khách Do Thái “ngả mình” trên những chiếc bàn thấp (đi-văng). Bài tường thuật bí tích Thánh Thể cũng dùng một động từ tương tự (“Chiều đến, Đức Giêsu vào bàn tiệc” = ngả mình [anekeito] trên giường tiệc; Mt 26,20).
cầm lấy … dâng lời chúc tụng … bẻ ra … trao cho (19): Đây là chuỗi động từ được dùng trong bài tường thuật về bí tích Thánh Thể (so sánh: Mt 14,19 // Mt 26,26: “cầm lấy”:labôn/labôn; “bánh”: artous/arton; “dâng lời chúc tụng”: eulogêsen/kai eulogêsas; “bẻ ra”:klasas/eklasen; “trao cho các môn đệ”: edôken tois mathêtais/dous tois mathêtais) . Việc bẻ bánh luôn luôn là mộtnghi thức được thực hiện trong bữa tiệc.
… trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho dân chúng (19): Các môn đệ là trung gian giữa Đức Giêsu và đám đông. Mt dùng mộtđộng từ duy nhất (didômi, “cho, trao cho”) để nói về hành động của Đức Giêsu và của các môn đệ. Trong khi trong Mc (6,41) và Lc (9,16), các tông đồ “mang; phân phát” (McparatithôsinLcparatheinai) bánh cho đám đông, trongMt, các ông có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu của dân chúng bằng cách tiếp nối công việc của chính Đức Giêsu.
những mẩu bánh còn thừa (20): Trong các bữa tiệc Do Thái, có việc bẻ bánh trao cho nhau như một nghi thức. Những mẩu bánh thừa khiến nhớ lại “nghi lễ bẻ bánh”, tức bí tích Thánh Thể, mà các tông đồ và môn đệ cử hành sau khi Đức Giêsu đã về trời (x. Cv 2,42; 20,7).
năm ngàn đàn ông (21): Không chắc đây là con số chính xác (làm sao đếm xuể?). Có lẽMt muốn so sánh Đức Giêsu với ngôn sứ Êlisa và cho thấy Đức Giêsu vượt xa ngôn sứ này: Trong sách 2 V 4,42-44, Êlisa đã hóa hai mươi cái bánh lúa mạch ra nhiều để nuôi 100 người (từ 1 thành 5). Ở đây Đức Giêsu đã hóa năm cái bánh ra nhiều để nuôi 5000 người (từ 1 thành 1000). Vậy Đức Giêsu cũng là một ngôn sứ có khả năng làm phép lạ, nhưng cao trọng hơn Êlisa nhiều.
- giỏ (20): Cái giỏ (kophinos) để đựng các đồ vật cũng là một đồ dùng để đo thể tích (khoảng 10 lít).
4. Ý nghĩa của bản văn
Câu truyện Đức Giêsu nuôi đám đông hôm nay có thể khiến chúng ta nhớ đến giai thoại man-na trong hoang địa (Xh 16,11-36; Ds 11), Êlisa nuôi đám đông (2 V 4,32-44), câu truyện tiệc cưới Cana (Ga 2,1-12), cũng như các bữa ăn Đức Giêsu chia sẻ với những người khác. Dù thế, hẳn là có thật một hoàn cảnh ngặt nghèo, đói khát.
Đức Giêsu chữa bệnh cho đám đông (13-14)
Hoàn cảnh lúc đó là một lần nữa, Đức Giêsu lại muốn lánh đi về một nơi hoang vắng riêng biệt vì bị giới lãnh đạo đe dọa (x. 12,15). Tuy nhiên, đám đông dân chúng biết tin liền đi theo Người. Đây không phải là lần đầu tiên Mt cho thấy Đức Giêsu có đám đông đi theo (x. 8,1; 12,15). Vẫn chính là Người hướng dẫn cộng đồng những kẻ lưu đày về quê hương. Lần này, đám đông thậm chí còn đi trước Người, đưa theo những người bệnh, và hẳn là cả các niềm hy vọng của họ (c. 14). Đức Giêsu không bực bội nóng giận vì dân chúng làm mất sự yên tĩnh, cũng không tỏ ra lãnh đạm với đoàn dân; Người thương cảm họ sâu xa (esplanchnisthê), hẳn cũng vì một lý do như ở 9,36 (x. 15,32; 20,34; đọc thêm: vì “thương xót” [eleeô]: 9,27; 15,22; 17,15; 20,30-31): “vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt”. Thế là Người lại hòa mình vào giữa đám đông để chữa bệnh cho họ. Hành vi đầu tiên Người làm lúc này là chữa bệnh: các sự dữ không chỉ được khoan nhượng, mà còn bị loại trừ. Sau những ca chữa bệnh “cụ thể”, khó mà nói rằng việc nuôi đám đông chỉ có tính biểu tượng hoặc bí tích; hẳn đây cũng là một phép lạ “cụ thể”.
Đức Giêsu nuôi đám đông (15-21)
Khi chiều đến, các môn đệ là những người thực tế, đánh giá tình hình khách quan, đã đến đề nghị Đức Giêsu giải tán đám đông, để họ có thể tùy nghi vào các làng mạc mà mua lương thực. Chi tiết này cho thấy họ không nhất thiết là những người “khố rách áo ôm”. Chẳng những không đồng ý, Đức Giêsu còn yêu cầu các ông cho đám đông ăn. Đây là một yêu cầu rất thiếu thực tế, mà chính Đức Giêsu biết. Tác giả phác họa ra Người như một bề trên, Chúa tể tối cao ra lệnh cho các môn đệ làm một việc dường như không thể làm nổi, nhưng người thì biết chính xác Người sẽ làm gì. Người chỉ muốn các môn đệ cộng tác với Người để làm công việc cung cấp lương thực cho dân chúng. Khi các môn đệ tỏ ra ngại ngùng, vì chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá (c. 17), Người không trả lời họ; Người bảo mang cá và bánh lại cho Người (c. 18).
Với một lệnh một lần nữa gợi ra uy quyền tối thượng của Đức Giêsu, tác giả đưa vào truyện phép lạ. Ngài không ghi lại chi tiết phân thành các nhóm một trăm và năm mươi như Mc6,40. Đức Giêsu cầm lấy bánh và cá, ngước mắt lên trời (không phải là cử chỉ thông thường của người Do Thái khi cầu nguyện, dù có thể làm), dâng lời chúc tụng Thiên Chúa (chứ không phải là làm phép bánh và cá), rồi bẻ ra, trao cho các môn đệ; các môn đệ phân phát cho dân chúng. Với những công thức này, một độc giả Kitô hữu gốc Do Thái nhớ tới những bữa ăn trong gia đình, tại nhà thờ và Bữa Tối của Chúa. Họ hiểu rằng bài tường thuật trước tiên kể lại một phép lạ, nhưng cũng nhắc họ nhớ đến bữa tiệc Thánh Thể. Quả thật tác giả nhắc lại những công thức của bài tường thuật về bí tích Thánh Thể nhằm nhắc lại và cũng giới thiệu trước bài tường thuật về việc thiết lập bí tích Thánh Thể.
Biến cố này là một hình ảnh về Giáo Hội, nên cũng cần được giải thích theo hướng đó. Đức Giêsu ở tại trung tâm, Người là nguồn mạch ban phát mọi ân huệ, Người ban Lời và bánh. Rồi đến nhóm nhỏ các môn đệ bao quanh Người. Họ ở sát bên Người, họ chuyển thông các ân huệ của Người, họ như là cánh tay Người nối dài ra. Đám đông được Đức Giêsu quy tụ lại thì ngồi xung quanh các ngài: họ vui sướng được ở với Người. Đức Giêsu ngước mắt lên trời khi đọc lời chúc tụng. Người làm những việc “Chúa Cha giao cho Người hoàn thành” (x. Ga 5,36). Người không còn chỉ là vị trung gian như Môsê, hay chỉ là một ngôn sứ nhỏ như Êlisa ngày xưa. Nay Người chính là Đấng ban sự sống, bởi vì Người là nguồn sự sống. Tương quan giữa hai mươi cái bánh của Êlisa với mộttrăm người được ăn no (1thành 5) và năm chiếc bánh của Đức Giêsu với năm ngàn người được no nê (1 thành 1000) nêu bật sự trổi vượt của phép lạ thứ hai. Đức Giêsu là mộtngôn sứ và mộtĐấng làm phép lạ, nhưng cao cả hơn Êlisa nhiều.
* Kết luận: ghi nhận về bánh hóa nhiều (20b-21)
Chi tiết “mười hai giỏ đầy” (c. 20) những mẩu bánh thừa không có điểm tựa nào khác trong bài để độc giả có thể nói rằng chi tiết này quy về mười hai môn đệ hay mười hai chi tộc Israel. Chúng ta chỉ có thể nói: như vậy đám đông đã được ăn no.
Bản văn hẳn cũng song song với truyện phép lạ man-na, cũng xảy ra trong hoang địa trước đám đông dân chúng (x. Xh 16; Ds 11). Bánh và cá hôm nay thay thế cho man-na và chim cút ngày xưa. Với những dấu lạ này, Đức Giêsu xuất hiện như nhà giải phóng của thời cuối cùng. Nhờ năm chiếc bánh, tượng trưng năm quyển sách của Torah mới (Ortensio da Spinetoli), Đức Giêsu nuôi đoàn dân Thiên Chúa đang tiến về đất hứa. Những chi tiết này đặt sánh đôi Đức Kitô với Môsê, Hội Thánh với cộng đoàn Xuất Hành. Hôm nay, nhà giải phóng đích thực, vị mục tử, nhà lãnh đạo dân Thiên Chúa, dẫn dắt mộtđoàn dân bị bỏ rơi và đang tiến đi trong sa mạc trần gian này, là mộtmình Đức Giêsu.
Trong nền văn chương kinh sư, bữa tiệc là biểu tượng của cộng đoàn cánh chung (hiệp thông đời sống: St 31,54; Xh 18,12; 1 Sm 9,12; Am 2,8; Hs 8,13; và niềm hạnh phúc thời thiên sai: Is 48,21; 49,9-10; 55,1; 65,13; Dc 5,1; Is 25,6; Tv 23,1-5). Việc Đức Giêsu quy tụ các môn đệ và dân chúng ở bờ hồ như thế trở thành nghi thức khai mạc thời đại mới. Sa mạc, nơi đầy những thử thách và gai góc, đã trở thành một khuvườn.
+ Kết luận
Đức Giêsu quả là Đấng có quyền trên bệnh tật và sự đói khát. Một lần nữa, dân chúng trải nghiệm về quyền lực và sự quan tâm của Đấng Mêsia.
Biến cố được kể trong bản văn này là mộthình ảnh về Hội Thánh. Đức Giêsu ở ngay trung tâm, Người là nguồn mạch từ đó phát xuất mọi ân huệ, Người chữa lành, ban Lời và bánh. Kế đó là nhóm nhỏ các môn đệ. Các ông ở ngay bên Đức Giêsu, các ông chuyển giao các ân huệ Người ban, các ông là như cánh tay nối dài của Người. Dân chúng được quy tụ lại thì ngồi chung quanh Người; họ sung sướng được ở với Người. Đức Giêsu ngước mắt lên trời mà đọc lời chúc tụng. Người hướng về Thiên Chúa là Cha của Người, là Đấng mà Người luôn tìm biết ý muốn để chu toàn (x. Mt 11,25-27). Bây giờ Đức Giêsu không chỉ còn là mộttrung gian như Môsê xưa kia nữa; Người chính là Đấng ban sự sống, bởi vì Người là nguồn mạch từ đó phát xuất ra sự sống.
5. Gợi ý suy niệm
1. Các môn đệ cần quan tâm học hỏi cách xử sự của Đức Giêsu: cứu chữa. Nhưng họ chỉ có thể học được bài học này, nếu họ có trái tim của Đức Giêsu: thương cảm sâu sắc trước tình cảnh của người anh em chị em, tức là biết quan tâm đến hoàn cảnh sống của anh chị em mình, với trái tim đầy tình yêu thương.
2. Phép lạ đặc biệt nhắm đến các môn đệ. Có thể họ còn yếu đức tin, nhưng họ đã trải nghiệm quyền năng từ bi của Chúa họ. Họ sẽ còn trải nghiệm về điều này lần nữa (x. 15,32-39). Qua những kinh nghiệm đó, họ sẽ hiểu (16,5-12). Đàng sau các môn đệ là Hội Thánh: trong cuộc sống chia sẻ với Đức Chúa Phục Sinh, qua những bữa ăn, và trong mỗi Thánh Lễ, Bữa tiệc của Chúa, Hội Thánh lại sống biến cố hóa bánh ra nhiều tại bờ hồ hôm ấy.
3. Không được quá đề cao cơm bánh vật chất (x. Mt 6,25-26), nhưng cũng không được quên cơm bánh vât chất (6,11). Phải nghĩ đến việc nuôi dưỡng bản thân (6,11), nhưng cũng phải quan tâm đến việc nuôi sống người khác. Người Kitô hữu không được ăn uống mộtmình, vì luôn ở giữa mộtđoàn anh chị em đang chờ đợi thức ăn họ thiếu. Họ phải đi ra khỏi tình trạng cô lập mà sống trong cộng đoàn và trong sự hiệp thông với mọi người. Bài học hôm nay cho hiểu rằng họ chỉ việc dâng cho Đức Giêsu chút tài nguyên ít ỏi của mình, rồi làm theo sự hướng dẫn của Người.
4. Trong khi trong bản văn Ga 6, các tông đồ không có sáng kiến nào, trong các TMNL, chính các ông lưu ý Đức Giêsu, trao đổi về cách cung cấp các nhu yếu phẩm cho đám đông, cuối cùng nhận được nhiệm vụ phân phát bánh và thu gom các mảnh vụn còn dư. Các môn đệ nhận lệnh đưa bánh và cá, chuẩn bị và phục vụ bữa ăn. Công việc của các ông nối dài công việc của Đức Giêsu. Hôm nay, các mục tử cũng không thể bỏ mặc đoàn chiên thiếu lương thực thiêng liêng và nhất là lương thực Thánh Thể.
5. Mỗi khi tham dự thánh lễ, các tín hữu sống một biến cố mang tính Giáo Hội: họ vây quanh Đức Giêsu, họ chia sẻ chính Mình Máu Người. Sau đó, họ được mời gọi ra đi (Ite, missa est: “Lễ đã xong, anh chị em hãy ra đi [loan báo Tin Mừng]”) để, cũng như Đức Giêsu, họ trở thành “tấm bánh” nuôi dưỡng nhân loại và kiến tạo một thế giới mới.
[Mục Lục]


Bài 2. Chú giải và gợi ý suy niệm củaLm Inhaxiô Hồ Thông

Đức Giê-su không sống cho chính mình; Ngài đến để hiến dâng mạng sống mình cho con người.
Trong Kinh Thánh, cái đói và cái khát mà con người cảm nhận ngay trong thân xác mình được dùng để sánh ví với cái đói và cái khát của con người đối với những thiện hảo thần linh. Đặc biệt ơn cứu độ được hình tượng về một bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi những người Ngài tuyển chọn.
Is 55: 1-3
Trong bài đọc I, ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, ngôn sứ của thời lưu đày, loan báo cho những người lưu đày về cuộc giải phóng sắp đến gần của họ dưới ẩn dụ một bàn tiệc thịnh soạn mà Thiên Chúa thiết đãi dân Ngài. Qua ẩn dụ này, ông muốn nói rằng Thiên Chúa tha thứ cho họ, làm mới lại Giao Ước với họ và ban cho họ muôn vàn ân phúc.
Rm 8: 35, 37-39
Bài đọc II, trích thư thánh Phao-lô gởi các tín hữu Rô-ma, mời gọi chúng ta tiếp tục suy niệm về tấm lòng của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thánh nhân hết lời ca ngợi tình yêu của Thiên Chúa, được mặc khải ở nơi Đức Giê-su Ki-tô.
Mt 14: 13-21
Tin Mừng Mát-thêu thuật lại phép lạ bánh hóa nhiều. Sau khi nuôi đám đông dân chúng đói khát được ăn no nê, Đức Giê-su cho họ một dấu chỉ tiên trưng về lương thực đích thật mà Ngài sẽ thiết đãi nhân loại: bàn tiệc Thánh Thể.
BÀI ĐỌC I (Is 55: 1-3)
Lời mời gọi đến mà ăn và uống cho thỏa thích được gởi đến những người bất hạnh, những người lưu đày Ba-by-lon này suốt nhiều năm dài phải chịu cảnh túng thiếu đủ điều. Vào giữa những năm 550 và 540 trước Công Nguyên, ở giữa họ, xuất hiện một vị ngôn sứ, ông không ngừng khích lệ họ và nuôi dưỡng niềm hy vọng của họ: ông hứa với họ thời kỳ giải phóng sắp đến rồi. Thiên Chúa sắp ra tay cứu họ khỏi cảnh lưu đày ở đất khách quê người và tuôn đổ muôn vàn thiên ân cho họ.
Vị ngôn sứ này biệt danh là I-sai-a đệ nhị. Sứ điệp của ông, gồm các chương 40-55 sách I-sai-a, được gọi là “Sách An Ủi”. Bản văn chúng ta đọc hôm nay là đoạn mở đầu của phần kết.
1. “Đến cả đi, hỡi những người đang khát”:
Vị ngôn sứ để cho chính Đức Chúa nói. Đây là văn phong quen thuộc của các ngôn sứ, mà tác giả của chúng ta đặc biệt trung thành. Ông tự xóa mình trước sứ điệp ông truyền đạt đến mức người ta không biết chút gì về ông, thậm chí ngay cả tên ông.
Vị ngôn sứ gán cho Đức Chúa ngôn hành của một người bán nước rong rảo qua các đường phố và các công trường rao bán mặt hàng của mình; nhưng với một sự khác biệt, những mặt hàng Thiên Chúa rao bán lại được cho không, không phải trả tiền. Những lời đề nghị của Thiên Chúa được trình bày theo một sơ đồ rất quen thuộc đối với Cựu Ước: lời hứa ban“của ăn thức uống vật chất”, xưa kia là vườn địa đàng đầy những hoa thơm trái ngọt, bánh man-na trong hoang địa, Đất Hứa chảy sữa và mật ong, ở bên kia của ăn thức uống này ẩn hiện những “của ăn thức uống tinh thần”, chủ yếu, Lời Chúa, lương thực tuyệt diệu. Sau cùng, lời mời gọi tham dự bàn tiệc nghĩa là lời hứa ban “Giao Ước”.
2. Của ăn thức uống vật chất:
“Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng, đến mua rượu và sữa, không phải trả đồng nào”.
Ngôn từ của vị ngôn sứ hàm chứa hai khía cạnh: vừa thực vừa biểu tượng. Đừng vội giãm thiểu quá mức khía cạnh thực: những người lưu đày sắp được tự do và có thể lại được nếm thứ rượu ngon từ những vườn nho sai trái xứ Pha-lệ-tinh, lại được uống thứ sữa ngọt từ đàn gia súc của họ và lại được thưởng thức thứ thịt béo của những bữa ăn hy tế mà đã bao năm qua họ đã bị tước đoạt. Rượu luôn luôn là biểu tượng của niềm vui và sữa là dấu chỉ của sự thịnh vượng phú túc.
3. Của ăn thức uống tinh thần:
Nhưng sâu xa hơn, những của ăn thức uống này mang ý nghĩa tinh thần. Trong Cựu Ước, những ân huệ mà Thiên Chúa dành cho những ai yêu mến Ngài thường được diễn tả bằng hình ảnh bàn tiệc cao lương mỷ vị. Ơn cứu độ thời Mê-si-a, tức niềm vui tương lai dành cho những người công chính vào thời cánh chung, được diễn tả bởi những ẩn dụ như thế. Còn về hình ảnh “nước tuôn trào” biểu tượng sự sống thần linh, chạy xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh. Vào tuần lễ Lều, Đức Giê-su sẽ lấy lại lời của vị ngôn sứ: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống!” (Ga 7: 37). Cũng vậy, Chúa Ki-tô quang vinh của sách Khải Huyền công bố: “Ai khát, hãy đến; ai muốn, hãy đến lãnh nước trường sinh mà không phải trả tiền” (Kh 22: 17).
Trong một bản văn của sách Châm Ngôn sóng đôi với bản văn hôm nay, Đức Khôn Ngoan rao lớn tiếng ngoài đường phố, nơi quảng trường, nơi ồn ào náo nhiệt, nơi đông người qua lại, để mời gọi tất cả những ai muốn nếm những ân huệ Ngài ban hãy đến dự bàn tiệc của Ngài: “Hãy đến mà ăn bánh của Ta và uống rượu do Ta pha chế!” (Cn 9: 5). Bàn tiệc mà Đức Khôn Ngoan thiết đãi rõ ràng thuộc lãnh vực tinh thần. Ở đây cũng vậy: “Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công lao vất vả vào các thứ chẳng làm cho ấm dạ no lòng”. Lương thực đích thật duy nhất rõ ràng là Lời Chúa: “Hãy lắng tai, và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống”. Lời mời gọi này gợi nhớ lời kêu gọi của Đức Giê-su:“Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6: 27).
4. Bữa ăn Giao Ước:
Sấm ngôn này muốn nhắn gởi sứ điệp gì cho những người lưu đày? Nó loan báo cho họ Thiên Chúa sắp hoàn lại sự tự do cho họ; và hơn nữa, nó hứa ban một giao ước mới giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Mọi giao ước đều được cam kết trong một bữa ăn. Thức ăn thật hay thức ăn biểu tượng mà Thiên Chúa thiết đãi những người lưu đày là những dấu chỉ của Giao Ước Mới muôn năm bền vững như lời hứa cho nhà Đa-vít.
Vài thập niên trước đó rồi, ở nơi những biến cố nghiêm trọng: thành thánh Giê-ru-sa-lem bị tàn phá, Đền Thờ bị tiêu hủy, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã nhận ra dấu chỉ tiên báo về những mối liên hệ mới giữa dân Ít-ra-en và Thiên Chúa của mình. Giao Ước Mới sẽ được ghi khắc, không còn trên bia đá, nhưng trong tận đáy lòng. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã lập lại tư tưởng này. Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đến phiên mình công bố giao ước mới này. Khi nhắc lại mẫu gương của vua Đa-vít, ông truyền đạt cho những người lưu đày những tư tưởng rất thân thiết: những lời hứa xưa về thành thành Giê-ru-sa-lem và nhà Đa-vít là mãi mãi bền vững. Như vậy, Thiên Chúa đã không hề quên dân Ngài.
5. Khía cạnh ngôn sứ:
Khía cạnh ngôn sứ của sứ điệp thì hiển nhiên: sấm ngôn loan báo việc dự phần vào bàn tiệc thời Mê-si-a, tức là ơn cứu độ. Đức Giê-su sẽ là Thiên Chúa hiện thân, Ngài sẽ hiện diện trên mọi nẻo đường và trong các nơi đông người tụ họp. Trước tiên, chính Ngài cũng sẽ đề nghị những lương thực vật chất: rượu ngon dồi dào cho tiệc cưới Ca-na, bánh và cá dư dật cho đám đông đói và khát trong hoang địa, chữa lành bệnh cho các bệnh nhân, vân vân, qua đó Ngài muốn nói rằng Ngài là Đấng cứu độ và ban sự sống. Cuối cùng, Ngài mời gọi dự phần vào bữa ăn làm no thỏa mọi đói và khát: bàn tiệc Thánh Thể.
Bản văn của vị ngôn sứ chuẩn bị cho chúng ta hiểu Tin Mừng hôm nay một cách sâu xa.
BÀI ĐỌC II (Rm 8: 35, 37-39)
Thánh Phao-lô kết thúc chương 8 thư gởi các tín hữu Rô-ma, tức phần về đạo lý, bằng những thổ lộ tâm tình làm xao động lòng người này.
Sau khi đã minh chứng làm thế nào mọi người, Do thái cũng như dân ngoại, bị giam hãm trong tội lỗi, và làm thế nhờ Đức Ki-tô họ được giải thoát khỏi tội lỗi, thánh nhân trình bày cuộc sống mới mẽ của người Ki-tô hữu: sống theo Thần Khí và chứa chan niềm hy vọng là được dự phần vào vinh quang Thiên Chúa.
Khi suy nghĩ kế hoạch đầy yêu thương của Thiên Chúa dành cho loài người, thánh Phao-lô để mặc cho tình cảm của mình trào dâng thành một bài thánh thi bộc phát, tôn vinh tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại. Những dòng chữ cuối cùng này chất chứa biết bao hơi thở nồng nàn của thánh nhân.
1. Người Ki-tô hữu đối mặt với những gian nan thử thách:
Thánh Phao-lô chọn hình thức nghi vấn: “Ai có thể làm chúng ta xa lìa tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, cùng khốn, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?”. Chắc chắn thánh Phao-lô nghĩ đến trước hết mọi nỗi gian truân mà thánh nhân đã kinh qua. Thánh nhân đã nêu lên những nỗi gian truân này nhiều lần (1Cr 4: 9-13; 2Tm 11), và như linh cảm, thánh nhân thêm vào ở đây “gươm giáo”, đó sẽ là dụng cụ tử đạo của thánh nhân. Nhưng, đại từ “chúng ta” mà thánh Phao-lô sử dụng chứng thực rằng thánh nhân cũng nghĩ đến hết mọi tín hữu đang gặp phải những gian truân vì mang tên Ki-tô hữu.
Thánh Phao-lô quả quyết rằng dù phải đối mặt với mọi nỗi gian nan thử thách, những Ki-tô hữu là những người toàn thắng trong cuộc chiến này, nhờ Đấng đã yêu mến họ. Họ càng yếu hèn, thì họ càng nghiệm thấy tính hiệu quả nội tại và mối thân tình của Thiên Chúa: thánh Phao-lô biết được điều này từ kinh nghiệm của mình.
2. Người Ki-tô hữu đối mặt với thế gian thù ghét:
Để những ví dụ mà mình đưa ra cho được đầy đủ, thánh Phao-lô loại bỏ nỗi sợ hải mà người Ki-tô hữu có thể có về những quyền lực huyền bí trong vũ trụ, cũng như về mọi nghịch cảnh: “Cho dẫu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên chúa thể hiện nơi Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta”.
Người xưa tin rằng quỷ thần hiện diện khắp nơi trong vũ trụ, chúng tác hại ít nhiều trên cuộc sống của con người. Những mê tín dị đoan này lại càng thêm thuận lợi nhờ sự phát triển của khoa chiêm tinh bói toán. Nhờ đó, các tà giáo lại càng dể dàng phổ biến, do bởi sự sa sút của các niềm tin trong các tôn giáo chân chính.
“Thiên thần hay ma vương quỷ lực” chắc chắn ám chỉ đến những thiên linh , những sức mạnh quỷ thần, có thể những quyền lực của các thiên thần sa ngã (x. Ep 1: 21; 3: 18; Cl 1: 16; 2: 10-15).
“Bất kỳ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác” có lẽ gợi lên từ vựng của khoa chiêm tinh bói toán và những thuyết “định mệnh” đè nặng trên số mệnh của con người.
Còn những diễn ngữ “sự sống hay sự chết”“hiện tại hay tương lai”, đây là cách nói đối ngẫu. Thánh Phao-lô sử dụng chúng ở nơi khác trong một mạch văn lạc quan hơn. Thánh nhân viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Dù cả thế gian này, sự sống hay sự chết, hiện tại hay tương lai, tất cả đều thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Ki-tô, và Đức Ki-tô lại thuộc về Thiên Chúa” (1Cr 3: 22). Ở đây, thánh Phao-lô nhắm đến khía cạnh bi quan: biết bao xao xuyến khi nghĩ đến cái chết, ngàn nỗi bận lòng khi nghĩ đến cuộc sống, thấp thỏm lo âu khi nghĩ đến hiện tại, muôn vàn bấp bênh khi nghĩ đến tương lai.
Thánh Phao-lô không muốn nói rằng những nỗi niềm bi quan này là của chính mình. Với một tấm lòng thanh thản bình yên, thánh nhân khẳng định rằng không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã bày tỏ tận mức tình yêu của Ngài đối với con người khi ban cho họ Con của Ngài. Đó là nền tảng xác tín của người Ki-tô hữu và là lý do họ sẽ toàn thắng trên những quyền lực đến từ bên ngoài, dù đó là gì đi nữa. Người Ki-tô hữu “trong Đức Giê-su Ki-tô” được nuôi sống bằng tình yêu này.
TIN MỪNG (Mt 14: 13-21)
Phép lạ bánh hóa nhiều là phép lạ duy nhất được cả bốn sách Tin Mừng thuật lại (Mt 14: 13-21; Mc 6: 31-44; Lc 9: 10-17; Ga 6: 1-6), đó là chưa kể đến thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô tường thuật phép lạ này đến hai lần qua một dị bản với bảy chiếc bánh và hai con cá (Mt 15: 32-39; Mc 8: 1-10). Quả thật, dường như đây là một trong những phép lạ đặc trưng nhất mà Đức Giê-su thực hiện. Bốn bài trình thuật bổ túc cho nhau và soi sáng cho nhau.
Mở đầu bài trình thuật của mình, thánh Mát-thêu cho biết rằng khi nghe tin vua Hê-rô-đê sát hại Gioan Tẩy Giả, Đức Giê-su dẫn các môn đệ xuống thuyền vượt biển Ga-li-lê lánh vào nơi hoang vắng. Nhưng đám đông đã nhận ra nên đi bộ dọc theo bờ và đến nơi trước Ngài. Dữ kiện này cho thấy dân chúng đã quen hơi bén tiếng với Ngài.
1. Một ngày đầy ân phúc:
Đức Giê-su không sống cho chính mình; Ngài đến để hiến dâng mạng sống mình cho con người. Dù đám đông cản trở dự định của Ngài là muốn được sống một mình với các môn đệ ở nơi hoang vắng này, Ngài vẫn ân cần tiếp đón họ. Ngài động lòng thương trước những nỗi khổ của họ và “chữa lành các bệnh nhân của họ”. Thánh Mác-cô và thánh Lu-ca còn nói thêm rằng Ngài ban Lời Hằng Sống cho họ suốt ngày hôm đó (Mc 6: 34; Lc 9: 11). Khi chiều xuống, Ngài hoàn tất ngày hôm ấy bằng một cử chỉ báo trước cuộc tự hiến của Ngài cho họ.
2. Những dấu chỉ của phép lạ bánh hóa nhiều:
Đức Giê-su đã không lưu lại trên bờ nhưng đã dẫn đám đông vào nơi hoang vắng. Hoàn cảnh, thời điểm và những chi tiết mà các tác giả Tin Mừng thuật lại nêu bật sự đồng nhất của những dấu chỉ.
Thánh Mát-thêu nhấn mạnh đến hai lần nơi hoang vắng. Như vậy, thánh ký hướng tư tưởng người đọc về thời Xuất Hành và ân ban bánh man-na. Quả thật, thuở xưa, ông Mô-sê đã dẫn dân Ít-ra-en vượt qua biển Đỏ, đưa vào hoang địa Xi-nai, ở đó Thiên Chúa ban cho họ bánh man-na kỳ diệu từ trời. Ngày nay, Đức Giê-su, Mô-sê mới, dẫn các môn đệ xuống thuyền vượt qua biển, và Ngài dẫn các môn đệ cùng với đám đông dân chúng vào hoang địa Ga-li-lê, ở đó Ngài sắp ban bánh kỳ diệu cho họ được ăn no nê.
Thánh Mát-thêu nói: “Người truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ”. Thánh Gioan cũng nói:“Chỗ ấy có nhiều cỏ” (Ga 6: 10). Thánh Mác-cô còn nói: “Người truyền cho các ông bảo họ ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh” (Mc 6: 39). Chỉ vào mùa xuân, miền đất Pha-lệ-tinh mới có cỏ non xanh trên các cánh đồng và trên các triền đồi. Không phải chi tiết này muốn nói rằng Đức Giê-su là vị mục tử nhân lành, được các ngôn sứ loan báo, Ngài dẫn đàn chiên của mình đến đồng cỏ xanh tươi sao? Thánh Mác-cô gợi lên điều đó: “Đức Giê-su chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt” (Mc 6: 34). Đối diện với thái độ thờ ơ lãnh đạm của các mục tử nhà Ít-ra-en, Đức Giê-su hành xử như “người mục tử Mê-si-a”, Ngài tận tình chăm lo dân Ngài.
Thời điểm biến cố xảy ra được thánh Gioan xác định hơn nữa: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua” (Ga 6: 4). Sự kiện này trước hết giải thích tầm quan trọng của đám đông. Chính vào thời điểm sắp đến lễ Vượt Qua mà những đoàn người hành hương từ khắp nơi quy tụ lại ở thành Ca-phác-na-um và các thành phố ven biển hồ Ghê-nê-sa-rét, rồi từ đó, họ khởi hành thành từng nhóm tiến về thành thánh Giê-ru-sa-lem để tham dự đại lễ Vượt Qua. Mặt khác, làm thế nào không nghĩ rằng thời điểm sắp đến lễ Vượt Qua đem lại một sắc thái đặc biệt cho cử chỉ của Đức Giê-su? Đây là một cử chỉ ngôn sứ, loan báo Lễ Vượt Qua mới.
“Những mẫu bánh còn thừa” ám chỉ đến nghi thức bẻ bánh trao cho nhau trong các bữa ăn của người Do thái và đồng thời cũng gợi nhớ đến “nghi lễ bẻ bánh”, tức bí tích Thánh Thể, mà các tông đồ và các tín hữu tiên khởi cử hành sau khi Chúa Giê-su về trời (x. Cv 2: 42; 20: 7).
“Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con”. Chắc hẳn, thánh ký không cố ý đưa ra một con số chính xác. Có lẽ thánh Mát-thêu muốn so sánh Đức Giê-su với ngôn sứ Ê-li-sa và cho thấy Đức Giê-su vượt xa ngôn sứ này. Ở 2V 4: 42-44, ngôn sứ Ê-li-sa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều từ hai mươi chiếc bánh lúa mạch cho một trăm người ăn. Ở đây, Chúa Giê-su làm phép lạ hóa bánh ra nhiều từ năm chiếc bánh và hai con cá để cho năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ được ăn dư dật. Như vậy, qua phép lạ bánh hóa nhiều, Đức Giê-su cũng là ngôn sứ nhưng cao trọng hơn ngôn sứ Ê-li-sa nhiều.
3. Dấu chỉ Thánh Thể:
Phép lạ bánh hóa nhiều rõ ràng loan báo bàn tiệc Thánh Thể. Các Tông Đồ đã hiểu như vậy, các tác giả Tin Mừng cũng hiểu như vậy. Cả hai biến cố đều được xác định theo cùng một thời điểm: “Chiều đến” (Mt 14: 15 và Mt 26: 20) và với cùng một cử chỉ: “Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho các môn đệ” (Mt 14: 19 và Mt 26: 26).
4. Dấu chỉ thời Mê-si-a:
Cử chỉ của Đức Giê-su không chỉ tiên báo bàn tiệc Thánh Thể, nhưng còn nêu bật ý nghĩa trực tiếp: bàn tiệc thời Mê-si-a.
Các sấm ngôn ((Is 55: 1-3; 49: 10), các Thánh Vịnh (132: 15; 78: 24-27), cũng như các sách minh triết đã loan báo triều đại Mê-si-a, triều đại này sẽ được đánh dấu bởi việc Thiên Chúa ban cho của ăn thức uống dồi dào cả về lượng cũng như phẩm. Những dấu chỉ này tiên báo bàn tiệc cánh chung, bàn tiệc mà Thiên Chúa sẽ thiết đãi cho những người được tuyển chọn trong Nước Trời. Chúng ta đã đọc một trong những bản văn này ở bài đọc I: việc những người lưu đày được ban cho của ăn thức uống một cách dồi dào mà không phải trả tiền ám chỉ đến giờ Thiên Chúa giải thoát họ, tha thứ tội lỗi cho họ và ân cần chăm sóc họ.
Đó cũng là ý nghĩa của bữa ăn mà Chúa Giê-su ban cho đám đông: thời điểm cứu độ đã đến, giờ Thiên Chúa hiện diện và hành động giữa con người, giờ Thiên Chúa biểu lộ tình yêu của Ngài. Đó chính là giờ Đức Giê-su bày tỏ tấm lòng từ bi nhân hậu của Ngài đối với đám đông dân chúng, những người đã đi bộ một quảng đường dài để được gặp Ngài và được lắng nghe Ngài suốt ngày. Khi chiều xuống, họ không có gì ăn. Nếu họ đã theo Ngài như thế, đó không phải là họ đang tìm kiếm những nhu cầu thiết yếu mà họ cảm thấy một cách lờ mờ sao? Đức Giê-su làm no thỏa cơn đói phần xác của họ để giúp họ hiểu rằng Ngài còn có thể cho họ no thỏa cơn đói phần hồn nữa.
5. Dấu chỉ về Lời Chúa:
Dấu chỉ khác về thời Mê-si-a không được bày tỏ một cách minh nhiên nhưng chúng ta không thể không nghĩ đến: “bánh chính là Lời Chúa”. Mối liên hệ thường hằng trong Kinh Thánh giữa bánh: lương thực ban sự sống cho thân xác con người, và Lời Chúa: lương thực thần thiêng ban sự sống đời đời. Qua việc ban bánh một cách dư dật, Đức Giê-su tỏ mình ra Ngài là Ngôi Lời, lời Thiên Chúa hiện thân ở giữa loài người như trong Am 8: 11: “Đây sắp đến những ngày Ta sẽ gieo nạn đói trên xứ này, không phải đói bánh ăn, cũng không phải khát nước uống, mà đói khát được nghe lời Đức Chúa”, hay trong Đnl 8: 3: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra”.
6. Dấu chỉ về Giáo Hội:
Thánh Mát-thêu nhấn mạnh hơn các tác giả Tin Mừng khác dấu chỉ về Giáo Hội. Phép lạ bánh hóa nhiều là phép lạ duy nhất Đức Giê-su cho các môn đệ can dự vào. Chính các ông gợi ý với Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn. Nhưng Đức Giê-su đáp: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy liệu cho họ ăn”. Các môn đệ cố lẫn tránh; họ không có gì cả chỉ vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá. Về phương diện con người, với số lượng người như thế, các ông bất lực. Bài học thật khủng khiếp. Trong cuộc sống thực tế, Giáo Hội thường phải chạm trán với những vấn đề mà bên ngoài xem ra không có bất kỳ một giải pháp nào có thể, nếu như không có đức tin. Rõ ràng Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ Ngài phải đặt trọn niềm tin tưởng vào Ngài.
Tiếp đó, chính họ mà Ngài trao phó cho việc ân cần phân phát phép lạ bánh và cá: họ là những thừa tác viên của những thiên ân. Nhờ họ, thiên ân Lời Chúa và Thánh Thể sẽ được tiếp diễn mãi: “Ngài trao cho các môn đệ. Và các môn đệ trao cho dân chúng”. Chúng ta lưu ý rằng thánh Mát-thêu dùng cùng một động từ “trao” để chỉ hành động của Chúa Giê-su và hành động của các môn đệ, trong khi thánh Mác-cô và thánh Lu-ca cũng dùng động từ “trao” để chỉ hành động của Chúa Giê-su, nhưng lại dùng động từ “dọn ra” (Mc 6: 41) (Lc 9: 16) để chỉ hành động của các môn đệ. Như vậy, qua việc sử dụng cùng một động từ này cho cả hành động của Chúa Giê-su và hành động của các môn đệ, thánh Mát-thêu muốn nhấn mạnh rằng các ông không chỉ là những người trung gian giữa Chúa Giê-su và đám đông, nhưng còn có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu của dân chúng bằng cách tiếp tục công việc của Thầy mình. Việc trao ban bánh hóa nhiều trên đồi Ga-li-lê tiên trưng việc trao ban bánh hóa nhiều khác, tức bánh Thánh Thể, nghĩa là họ tiếp tục trao ban sự hiện diện hóa nhiều của Thân Thể vinh quang của Đức Giê-su, không còn chỉ cho vài ngàn người, nhưng cho hằng triệu người, mỗi phút giây và khắp hoàn vũ, cho đến ngày tận thế.
Còn về đông đảo dân chúng quy tụ chung quanh Đức Giê-su và dự phần vào cùng một bữa ăn, họ tiên trưng những cộng đồng nhân loại hình thành nên Giáo Hội, như câu thành ngữ“Thánh Thể làm nên Giáo Hội”.
Bánh được ban dư dật ở trên đồi Ga-li-lê như rượu được ban dồi dào ở tiệc cưới Ca-na. Người ta thu lại những mẫu bánh còn thừa được mười hai thúng đầy: con số mười hai ám chỉ đến mười hai chi tộc Ít-ra-en, cũng như mười hai Tông Đồ, họ đại diện dân Thiên Chúa mới. Hơn nữa, những mẫu bánh còn thừa muốn nói lên rằng có đủ chỗ cho những người khách mời khác vào dự bàn tiệc Thiên Chúa.
Như thánh Mác-cô và thánh Lu-ca, thánh Mát-thêu không nêu lên những phản ứng của đám đông dân chúng sau khi đã được ăn no nê. Vả lại, đa số trong họ đã không biết bánh và cá mà họ ăn từ đâu đến. Chỉ một mình thánh Gioan nói về sự cuồng nhiệt của đám đông “họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua” (Ga 6: 15).
Dù sao, phần tiếp theo sau cho thấy những dấu chỉ được đề nghị, dù quá minh nhiên, đã không được họ hiểu. Phép lạ bánh hóa nhiều xem ra như một trong những toan tính cuối cùng của Đức Giê-su ở Ga-li-lê nhằm khai lòng mở trí cho họ để họ hiểu con người và sứ điệp của Ngài.
Khi mỗi người biết chia bánh cho nhau thì thế giới sẽ không còn nạn đói.
[Mục Lục]

Bài 3. Chú giải theo Noel Quesson

Khi nghe tin Gioan Tẩy Giả bị giết chết, Đức Giêsu lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt.
Cảnh hóa bánh ra nhiều mà chúng ta sắp đọc và xảy ra trong bối cảnh bi thảm: Đức Giêsu vừa bị xua đuổi khỏi Nadarét (Mt 13,53-58) và vua Hêrôđê vừa mới giết chết Gioan Tẩy Giả, người anh họ của Người (Mt 14, 1-12) Khi nghe tin cái chết thảm khốc ấy, Đức Giêsu “chạy trốn” vào một nơi hoang vắng. Trong năm Chúa nhật sắp đến, chúng ta sẽ thấy Đức Giêsu “chạy trốn”, rút lui (Mt 14,13; 15,21; 16,13). Chúng ta thường quá tưởng tượng cho rằng Đức Giêsu như một người được thiên tính của Người để riêng ra. Thật ra Người chịu những cái đánh của số phận, bị liên hệ đến những biến cố mà Người đã không muốn. Phản ứng đầu tiên của Người là chạy trốn một mình.
“Người đến một chỗ hoang vắng riêng biệt…”
Sự ghi nhận này phải có một ý nghĩa cho chúng ta: các Kitô hữu – chẳng cần đôi lúc rút vào nơi riêng biệt đó sao? Phải chăng họ có thể sống đời sống Kitô hữu của họ mà thỉnh thoảng không gặp nhau ngày Chúa nhật? Phải chăng họ có thể không bị lây nhiễm bởi một thế giới ngoại đạo và vô thần nếu như họ không bao giờ biết rút lui ra chỗ riêng biệt, chỗ hoang vắng.
Nghe biết vậy đám đông từ các thành đi bộ mà theo Người. Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu trông thấy một đoạn người đông. đảo…
Thế là giờ đây Người đã bị đám đông đuổi kịp, Người chỉ ở riêng biệt khoảng thời gian đi thuyền qua họ, Người không làm cách nào để sống cô tịch được, Người bắt buộc phải gặp lại đám đông. Chắc chắn chúng ta phải suy niệm về đề tài những sự “bó buộc”? Thực hành đức vâng lời, trong những điều kiện sống thực của chúng ta, và cũng là vâng lời theo những ý định khôn dò của Chúa Cha, như thánh Phaolô có nói (Pl 2,8). Đó là điều mà chúng đã không tiên liệu. Điều xảy đến với chúng ta và làm đảo lộn những kế hoạch của chúng ta: Một cơn bệnh đến bất ngờ, một nỗi lo lắng mới, một trách nhiệm được đặt lên chúng ta, một cuộc thăm viếng, một cú điện thoai, một công việc được yêu câu, một sự hiện diện miễn cưỡng với những người khác, những đám đông mà chúng ta muốn chạy trốn.
Thì Người chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ.
Chúng ta đã gặp từ này: “chạnh lòng thương”; “xúc động trong lòng”: phải cho từ ngữ này tất cả sự phong phú của nó. Lòng “nhân hậu” không chỉ là lòng nhân từ hay tha thứ nhưng cũng là lòng thương xót chia sẻ nỗi đau khổ của người khác. Đức Giêsu không thể nhìn một ai đau khổ mà Người lại không xúc động, giống như bản năng của một bà mẹ đối với đứa con của mình.
Tôi phải dành thời gian để chiêm niệm (nguyện gẫm)
Đức Giêsu “chạnh lòng thương”. Hãy tưởng tượng ánh mắt, khuôn mặt, giọng nói, những cử chỉ dịu dàng đối với các bệnh nhân. Ngày nay cũng thế, Đức Giêsu cũng có những tình cảm thương xót như thế đối với mọi người đang đau khổ.
Chiều đến…
Cũng chính những chữ này mà Matthêu sẽ dẫn nhập vào Bữa Tiệc Ly (Mt 26,20) và việc mai táng Đức Giêsu (Mt 27,57). Các Kitô hữu tiên khởi có thói quen cử hành Thánh Thể như một “bữa ăn chiều”, một bữa tiệc ly. Ở bình diện tượng trưng, Thánh Thể xuất hiện với chúng ta như một “bí tích của sa mạc” trong đó chúng ta được ban cho một của ăn đi đường (Thánh Gioan sẽ nói đó là manna xuống từ trời để chú giải cùng một biến cố).
Đó cũng là bí tích của những đêm tối của chúng ta ở đó ánh sáng mầu nhiệm sẽ chiếu rọi đêm đen…
…Các môn đệ lại gần thưa với Người: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn!”
Đây là một giải pháp hoàn toàn “nhân bản” và “khôn ngoan”. Theo gương Thầy mình, các môn đệ của Đức Giêsu trong suốt sứ vụ có thói quen tìm kiếm lương thực khi chiều xuống. Một cách tự phát các môn đệ đề nghị giải pháp giải tán đám đông. Nhưng rõ ràng Đức Giêsu nhìn xa hơn. Đàng sau “bữa ăn trong sa mạc”, có một mầu nhiệm nuôi đám đông bằng của ăn vật chất trong khi vẫn để họ đói một cách sâu xa; bởi lẽ con người không chỉ sống bởi bánh! Khi chạy theo sau Đức Giêsu, những đám đông ấy trước tiên không đến để ăn, nhưng bởi vì họ cảm thấy trong Người có một “sức mạnh” siêu nhiên: các đám đông ấy đói Thiên Chúa, họ đói Đức Giêsu? Và không bao giờ một cái bánh mà họ mua ở chỗ này hay chỗ khác trong các làng mạc có thể làm cho họ no thỏa.
Nhưng Đức Giêsu bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả chính anh em hãy cho họ ăn”.
Không! Không có Đức Giêsu, không thể có giải pháp. Không phải bỏ đi mà đám đông sẽ tìm được sự no thỏa.
Các ông đáp: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá!”
Các môn đệ cũng rất tử tế. Họ thấy việc họ phải làm nhưng họ không có những phương tiện để thực hiện. Hầu hết thời gian, chúng ta cũng giống y như họ. Cái mà các môn đệ có sẵn thật nực cười: năm cái bánh và hai con cá.
Người bảo: “Đem lại đây cho Thầy!”
Thiên Chúa cần có những con người góp một tay. Biết rõ điều mình sẽ làm, hẳn Đức Giêsu có thể hoàn toàn không cần đến những cái bánh đáng thương và vô nghĩa ấy. Thiên Chúa cần đến tôi… Hãy đặt những phương tiện nghèo nàn của con người trong tay Chúa! Và lạy Chúa? Con đang hình dung trong sự nguyện gẫm của con năm cái bánh nhỏ tội nghiệp ấy và hai con cá nhỏ đơn sơ ấy, trong đôi bàn tay của Chúa!
Rồi sau đó, Người truyền cho đám đông ngả mình trên cỏ. Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ.
Rõ ràng đây cũng là những động tác, cử điệu dùng để mô tả lại bữa Tiệc Ly trong ngày thứ Năm Tuần Thánh (Mt 26,26). Không một tình tiết nào trong đời sống của Đức Giêsu lại có tính chất xác quyết như thế: các sách Tin Mừng thuật lại cho chúng ta sáu lần hóa bánh ra nhiều (Mt 14,13.21; 15,32-39; Mc 6,30-44; 8,1-9; Lc 9,10-17; Ga 6,1-15). Khi người ta biết được vị trí của Thánh Thể trong đời sống của các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, người ta không còn ngạc nhiên về vai trò đặc biệt nổi bật mà việc hóa bánh ra nhiều thể hiện trong đời sống của Đức Giêsu.
Khi thực hiện những động tác này, Đức Giêsu có thái độ của người cha trong gia đình đang chủ tọa một bữa ăn. Không có bữa ăn của người Do Thái nào mà không có “sự chúc lành” bánh … mà không có hành động tạ ơn Thiên Chúa (chữ “hành động tạ ơn” dịch ra tiếng Hy Lạp là “eucharistia”).
Sau đây là lời “chúc lành” mà các người Do Thái sùng đạo hôm nay vẫn luôn luôn đọc: “Chúng con chúc tụng Đấng ban cho chúng con lương thực nuôi sống chúng con vì lòng nhân từ của Ngài. Lạy Chúa, Đấng Hằng Hữu, chúng con cảm tạ Ngài đã nuôi sống mọi tạo vật”. Lương thực mà chúng ta ăn là một “hoa quả của đất đai và của lao công con người “. Nhưng trước hết nó là “một ơn của Thiên Chúa”.
Hạt lúa mì trong đất sẽ không bao giờ cho ra một bông lúa nếu Thiên Chúa không cho nó lớn lên. Nền văn minh kỹ thuật của chúng ta sau cùng đã quên đi chân lý sơ đẳng ấy. Vả lại, không có gì tự nhiên cho bằng cầm một mẩu bánh mì trong đôi tay, hoặc một bát cơm, một củ khoai mì để làm dịu cơn đói của mình? Thế mà hỡi ôi, chúng ta biết rằng “lao động con người” không đủ để nuôi sống mọi người, và nền kỹ thuật công nghiệp của chúng ta có thể trở thành một công cụ của tính ích kỷ và sự nô dịch con người: Những chủ nghĩa duy vật không có Thiên Chúa, từ Đông sang Tây đã quên mất “lời chúc tụng” cũng đã trở thành những kẻ phá hủy nhân phẩm con người.
Đức Giêsu còn có nhiều điều để nói với chúng ta, khi chính Người chúc tụng Thiên Chúa vì đã ban lương thực hàng ngày, và đã bảo chúng ta cầu xin “lương thực hàng ngày”.
Người trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông.
Tất cả các nhà chú giải đều nhấn mạnh ở đây vai trò của các tông đồ: chúng ta đã có một phục vụ đích thực.
Ở đó các tông đồ đóng vai trò nhiều hơn công việc của một người phân phát. Họ tham dự vào chính công việc của Đức Giêsu và làm như Người. Họ là những người làm trung gian giữa Đức Giêsu và dân chúng.
Đức Giáo Hoàng trong thông điệp tại Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế ở Lộ Đức nhắc lại vai trò thiêng liêng của các linh mục: “Các linh mục đã nhận lãnh bí tích truyền chức đảm nhận ở giữa dân Chúa gồm những người đã chịu phép Thánh tẩy vai trò của Đức Kitô, là Đầu của Giáo Hội Người: tác vụ thiêng liêng của họ là cần thiết để biểu thị rằng việc “bẻ bánh” được họ thực hiện là một ơn nhận được từ Đức Kitô hoàn toàn vượt qua quyền lực của cộng đoàn”.
Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu được mười hai giỏ đầy. Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con.
Sự dư dật này là một dấu chỉ được loan báo cho thời kỳ của Đấng Mêsia trong Kinh Thánh (Đệ nhị luật 6,11; Thánh Vịnh 132,15; Is 65,10).
Trang Tin Mừng này đang tra hỏi chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng Đức Giêsu qua cử chỉ quảng đại ngày hôm đó, đã không loại trừ được cái khốn cùng to lớn của nạn đói trên thế giới. Ở đây giá trị nổi bật không phải là khía cạnh mầu nhiệm, phi thường mà là ‘dấu chỉ’ Đức Giêsu đã làm. Vả lại, điều được biểu thị qua dấu chỉ này chính là sự ân cần đầy lòng yêu thương của Đức Giêsu, Người đã chạnh lòng thương đám đông. Như thế mỗi bữa tiệc Thánh Thể phải trả chúng ta về những bổn phận chia sẻ trong tình huynh đệ: Đức Giêsu Kitô là tấm bánh được bẻ ra, được chia sẻ cho một thế giới mới!
[Mục Lục]

Bài 4. Thế giới này sẽ hết nghèo đói nếu người ta biết chia sẻ cho nhau

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Phép lạ bánh rất đáng quan tâm vì được cả bốn tác giả Tin Mừng cùng thuật lại và có tác giả thuật đến hai lần như Mat-thêu (Mt 14, 13-21/ Mt 15, 32-38) và Mác-cô (6,35-44 / Mc 8, 1-10). Như vậy, chắn chắn sự kiện nầy chứa đựng một sứ điệp rất quan trọng.
Sứ điệp đó là: khi mỗi người biết chia bánh cho nhau, thì thế giới sẽ không còn nạn đói.
Hôm ấy, dân chúng theo Chúa Giê-su, say mê nghe lời Ngài giảng dạy đến nỗi quên cả giờ về. Khi ngày tàn, các môn đệ đề nghị Chúa giải tán đám đông để họ kịp trở về các làng mạc chung quanh kiếm thức ăn, vì mọi người đang ở nơi hoang vắng.
Chúa Giê-su bảo các môn đệ: “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Các môn đệ đáp: “Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá, lấy gì nuôi đủ cả năm ngàn người ăn?”
Thế rồi “Chúa Giê-su truyền cho dân chúng ngồi xuống. Ngài cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông.”
Các môn đệ trố mắt nhìn Chúa Giê-su kinh ngạc. Chừng nầy cá và bánh thì ai nhịn ai ăn? Thôi thì cứ theo lệnh Chúa mà làm. Các vị phân phát phần bánh và cá ít ỏi cho dân.
Người thứ nhất nhận được mẩu bánh nhỏ từ tay các môn đệ, quảng đại bẻ đôi chia cho người bên cạnh. Người nầy lại bẻ đôi mẩu bánh nhỏ nhoi, sớt chia cho người bên cạnh mình. Thế là người nầy trao qua, người kia chia lại, mọi người tỏ lòng hào phóng với nhau. Và đang khi họ chấp nhận trao phần bánh ít ỏi của mình cho người khác thì phép lạ xảy ra: bánh càng trao đi thì càng được tăng thêm nhiều, cá càng được chia ra thì lại phát sinh gấp bội, nhiều đến nỗi cả năm ngàn người ăn không hết còn dư lại cả mười hai thúng đầy!
Qua phép lạ nầy, Chúa Giê-su muốn tỏ cho mọi người biết rằng: Nếu ai cũng biết chia sớt số bánh ít ỏi đang có cho nhau, thì tất cả mọi người đều no đủ.
Mẹ Têrêxa Cacutta cũng nhận định như thế qua câu chuyện do chính mẹ kể lại như sau: Ngày nọ, có một thiếu phụ có tám đứa con đói lả đến gõ cửa xin gạo. Từ nhiều ngày qua, bà và các con trong nhà không được một hạt cơm trong bụng. Mẹ Têrêxa liền trao cho bà một túi gạo. Người đàn bà nhận gạo, cám ơn và chia ra làm hai phần… Ngạc nhiên về cử chỉ ấy, Mẹ Têrêxa hỏi tại sao lại chia túi gạo thành hai. Người đàn bà nghèo khổ ấy trả lời: “Tôi dành lại một phần cho gia đình người Hồi Giáo bên cạnh nhà, vì đã mấy ngày qua họ cũng không có gì để ăn.”
Mẹ Têrêxa kết luận: Thế giới này sẽ hết nghèo đói nếu người ta biết chia sẻ cho nhau.
Đúng thế, con người hiện nay phải lâm cảnh túng đói không phải vì địa cầu thiếu lương thực mà là vì con người nghèo tình thương nhưng giàu ích kỷ, không chia sớt những gì mình có với những người chung quanh.
Một chủ tiệc hào phóng dọn ra một ngàn phần ăn đủ cho một ngàn người ăn uống no say. Nhưng có mười người khách to khoẻ hơn, nhanh tay hơn và tham lam hơn đã xông vào phòng tiệc vơ vét gần hết thực phẩm trên bàn, lại còn tọng đầy những bị lớn mang theo để lấy thêm phần ăn dành cho những tháng ngày sắp tới. Thế là 990 khách mời đến sau phải chịu đói vì thực phẩm còn rơi rớt lại chẳng có là bao.
Thế giới hôm nay cũng là một phòng tiệc vĩ đại mà Thiên Chúa dọn ra cho mọi người. Lương thực trên mặt đất cùng chim trời cá nước có đủ cho mọi người hưởng dùng. Nếu mỗi người biết chia sớt cho nhau, thì chắc chắn không có ai phải thiếu đói.
Nhưng tiếc thay, có những người vận dụng những phương tiện sản xuất hiện đại, nắm bắt những công nghệ tiên tiến, đã thu vén cho riêng mình dư đầy của cải mà chẳng chia sớt cho ai, khiến cho những người sa cơ thất thế phải lâm cảnh thiếu đói triền miên.
Lạy Chúa Giê-su,
Lòng tham là một thế lực tuy vô hình nhưng rất mạnh mẽ đang thống trị tâm hồn nhiều người, luôn thúc đẩy người ta chiếm đoạt, thu vén, vơ vét… thật nhiều cho mình, bất chấp cảnh túng thiếu của người khác.
Lòng ích kỷ cũng là một thế lực, tuy vô hình nhưng rất đáng sợ, xui khiến người ta thờ ơ, vô cảm với những người chung quanh, chỉ bo bo tích góp của cải cho mình mà chẳng mở tay chia sớt cho người khác.
Xin thương giải thoát chúng con khỏi ách thống trị của hai thế lực đen tối nầy để chúng con khỏi làm nô lệ cho tham lam và ích kỷ, khư khư nắm giữ tất cả cho mình, để chúng con được tự do chia sẻ những gì mình có với anh chị em chung quanh. Amen.
[Mục Lục]

Bài 5. CHÍNH ANH EM HÃY LIỆU CHO HỌ ĂN
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Các Chúa Nhật trước, Chúa Giêsu đã loan báo Nước Trời. Ngài cho hay rằng Nước Trời bắt đầu rất nhỏ bé nhưng cứ từ lớn dần đến nỗi không ai có thể hiểu nổi tại sao Nước Thiên Chúa lại lớn mạnh đến thế ! Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng hôm nay nhờ các tông đồ cộng tác với Ngài để Ngài huấn luyện các ông tham gia vào việc thành lập Giáo Hội ở trần gian…
Tin Mừng diễn giải khi được tin ấy, nghĩa là khi nghe kẻ gian ác là Hêrôđê, người đã giết Gioan Tẩy Giả, nhắc tới tên của mình, Chúa Giêsu bỏ nơi đó, lánh đi nơi khác vì chưa tới giờ Ngài được tôn vinh. Chúa Giêsu thường đi vào nơi hoang vắng, yên tĩnh trước mỗi sự việc, biến cố xảy ra với dân chúng và đặc biệt khi người Pharisêu phản kháng lại lời rao giảng của Ngài hay sự cứng đầu cứng cổ, sự cứng tin của dân chúng, để cầu nguyện, tâm sự và lãnh ý Thiên Chúa Cha. Khi thấy đám đông dân chúng đi theo Ngài, Chúa Giêsu thương họ, Ngài không nỡ lòng nào để họ ra đi bụng đói. Do đó, Chúa Giêsu mời gọi các tông đồ tham gia vào việc lo cho dân , dù rằng các ông ngại vất vả, ngại không có giờ nghỉ ngơi, và nếu không có Chúa, các ông chẳng làm được gì cả… Chúa muốn các ông cộng tác,tham gia vào công việc của Chúa.Câu: “…trao cho các môn đệ, để các ông phân phát cho dân’, cho chúng ta hiểu rõ Chúa mời các môn đệ cộng tác vào phép lạ của Chúa. Cử chỉ của Chúa Giêsu giờ này, khiến chúng ta liên tưởng tới Bí tích Thánh Thể mà Chúa sẽ thiết lập trong Bữa Tiệc Ly chiều ngày thứ năm tuần thánh.Chúa Giêsu cho các môn đệ cộng tác vào việc Chúa làm là tìm bánh,và cá để Chúa làm phép lạ. Các môn đệ lãnh nhận trước, rồi trao lại cho dân, sau đó thu những thứ còn sót lại (Mt 14, 20). Những điều các môn đệ làm lúc này, làm chúng ta liên tưởng đến các ngài là trung gian ban phát các bí tích trong Giáo Hội. Trong đoạn này, thánh Matthêu muốn ám chỉ Chúa Giêsu là Môsê mới, cho dân chúng ăn no nê (Xh 16).
Chúa Giêsu với tấm lòng thương xót bao la, tình thương vô biên, Ngài đã không để dân chúng đi theo Ngài, nghe Ngài giảng dạy bị đói, bị khát. Ngài đã làm cho năm chiếc bánh và hai con cá hóa nên nhiều để nuôi dân chúng. Tình thương, lòng nhân từ của Chúa vẫn tồn tại tới ngày hôm nay và cho tới muôn thế hệ. Hôm nay, Ngài không làm phép lạ như xưa, nhưng Ngài đã dùng Lời của Ngài nuôi dưỡng Giáo Hội, dùng Giáo lý của Ngài hướng dẫn Dân Chúa để qua Giáo lý, qua Lời yêu thương, bác ái, qua sự soi trí lòng con người, qua tác động của Chúa Thánh Thần, con người sẽ làm ra lương thực, của cải, sẵn sàng chia sẻ với tha nhân, với người nghèo. Mười hai tông đồ của Chúa lúc xưa không làm phép lạ như Chúa để nuôi dân, nhưng lãnh nhận bánh, cá từ tay Chúa, phân phát cho dân, nuôi dân. Ngày nay, các môn đệ của Chúa không làm được phép lạ hóa bánh, cá ra nhiều để nuôi dân, nhưng bằng Lời Chúa, bằng Giáo lý, các môn đệ của Chúa loan truyền để người người cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa, để người người được hạnh phúc vì có Thiên Chúa là Cha, là Đấng nhân từ giầu lòng thương xót v.v… Chúa luôn luôn mong muốn con người được hạnh phúc, được có cơm ăn, áo mặc. Chúa luôn soi sáng, nuôi dưỡng con người bằng Lời Chúa và bằng sự trợ giúp của ân sủng của Ngài.
Xin mượn lời của Henri Caro để kết luận bài chia sẻ này : “Đức Giêsu nghe tiếng kêu của đám đông.Khi họ xin bánh, Người biết họ đói một thứ khác, đói một tình yêu trung thành để cho và để nhận. Người cho một dấu hiệu khác : thứ bánh Người ban làm thỏa tất cả mọi cơn đói, và khi mọi người đã no nê thì còn dư lại mười hai thúng, đủ để nuôi cả dân Israen. Bánh này một ngày kia sẽ là Mình Người, sẽ vì yêu mà bị nộp vào tay loài người”.
“Anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14, 16). Đây là lời kêu gọi cho ngày hôm nay. Giờ đây, đến phiên chúng ta phải nuôi sống các đám đông, bằng cách chia sẻ cơm bánh của chúng ta và làm chứng cho đức tin của mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết luôn quảng đại chia sẻ cơm bánh, và tình thương cho những người khác vì chính khi chết đi là khi vui sống muôn đời. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1. ÔBAC coi của cải trần thế như thế nào?
2. ÔBAC có biết chia sẻ cơm bánh cho tha nhân không?
3. Chúa có muốn bần cùng hóa con người không?
4. Tại sao Chúa lại mời gọi các tông đồ cộng tác vào phép lạ của Chúa?
5. “Anh em hãy cho họ ăn”, lời của Chúa xưa còn tác dụng với chúng ta hôm nay không ?
6. Thánh Phaolô nói : “Ai không làm việc thì không có quyền ăn”. Câu nói này có ý nghĩa gì
?
[Mục Lục]

Bài 6. ĐÓN NHẬN CHÚA VÀ CHIA SẺ CHO ANH EM
Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 14,13-21
2. Ý CHÍNH: ĐỨC GIÊ-SU NHÂN BÁNH RA NHIỀU LẦN THỨ NHẤT
Như ông Mô-sê trong thời Xuất Hành, Đức Giê-su cũng đưa dân chúng tin Người vào trong hoang địa. Tại đây Người đã thể hiện tinh thương bằng việc làm phép lạ nhân bánh ra nhiều để nuôi “năm ngàn người đàn ông không kể đàn bà con trẻ” được ăn no, giống như Mô-sê đã cầu xin và được Đức Chúa ban man-na cho dân Ít-ra-en suốt thời gian bốn mươi năm trước khi về tới “Hứa Địa”. Phép lạ nhân bánh ra nhiều này tiên báo bí tích Thánh Thể mà Đức Giê-su sẽ thiết lập trong bữa tiệc ly trước cuộc Tử nạn và Phục sinh.
3. CHÚ THÍCH:
- C 13-14: + Lánh khỏi nơi đó: Khi nghe biết Gio-an Tẩy Giả bị vua Hê-rô-đê bỏ tù thì Đức Giê-su đã lánh sang miền Ga-li-lê (x. Mt 4,12). Giờ đây, nghe tin Gio-an đã bị vua Hê-rô-đê chém đầu thì Đức Giê-su lại lánh vào nơi hoang vắng, vì chưa đến “giờ của Người” (x.Ga 8,59;11,53-54). Cái chết của Gio-an Tẩy Giả là điềm báo về cái chết của Người sắp xảy đến. + Đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt: Theo Mác-cô và Lu-ca, lý do chính rút lui của Đức Giê-su là để thầy trò có thời giờ ở riêng với nhau, tránh sự quấy rầy của đám đông dân chúng (x. Mc 6,31). Thuyền các ngài hướng về phía hoang địa gần thành Bét-sai-đa (x. Lc 9,10), về phía Đông Bắc và cách biển hồ Ga-li-lê khoảng một cây số. Đây là thời gian gần đến lễ Vượt qua của dân Do Thái (x. Ga 6,4). + Đám đông từ các thành đi bộ mà theo Người: Đông đảo dân chúng đi theo Đức Giê-su gợi lên hình ảnh dân Ít-ra-en xưa đã theo Mô-sê vào trong sa mạc Xi-nai. + Chạnh lòng thương: Khi chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân, Đức Giê-su chứng tỏ Người chính là mục tử lý tưởng mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm (x. Ed 34,11-16).
- C 15-18: + xin Thầy giải tán đám đông: Các môn đệ đã biết nghĩ đến nhu cầu của dân chúng đang cần được ăn uống, nhưng các ông lại bất lực trước nhu cầu to lớn ấy, nên đã đề nghị Đức Giê-su giải tán đám đông để ai nấy tự lo phần lương thực cho mình. + Chính anh em hãy cho họ ăn: Đức Giê-su biết rõ sự bất lực của các môn đệ, nhưng Người đã lệnh cho các ông phải lo cho đám đông kia được ăn. Qua đó, Người muốn Hội Thánh không những phải lo chu toàn sứ vụ rao giảng Tin Mừng Nước Trời, mà còn có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu vật chất cho họ với hết khả năng của mình nữa. + chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá ! : Số lượng quá nhỏ bé so với nhu cầu lớn lao của đám đông. Riêng Tin Mừng Gio-an còn cho biết năm chiếc bánh đó làm bằng lúa mạch, tức là loại bánh rẻ tiền của người nghèo. + Đem lại đây cho Thầy! : Với mấy chiếc bánh rẻ tiền như vậy, các môn đệ chắc sẽ không thể làm được gì lớn lao. Nhưng Đức Giê-su chỉ cần các ông tỏ thiện chí đóng góp hết khả năng là Người sẽ thực hiện phần việc còn lại là nhân ra nhiều.
- C 19: + Người truyền cho đám đông ngả mình trên cỏ: Cỏ chỉ mọc vào mùa xuân, nghĩa là phép lạ nhân bánh xảy ra khoảng tháng ba dương lịch trước lễ Vượt Qua (x. Ga 6,4.10; Mc 6,39). Việc cho dân chúng ngồi trên cỏ nhằm mục đích duy trì trật tự thường bị mất mỗi khi có việc phân phát đồ ăn cho đám đông. + Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá:Trong các gia đình Do thái, vào trước bữa ăn, người cha thường đọc kinh tạ ơn Thiên Chúa về những ơn lành Người đã thương ban. Ở đây khi làm việc này, Đức Giê-su cho thấy Người chính là gia chủ của đại gia đình nhân loại mới được hứa ban ơn cứu độ. + Ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng và bẻ ra, trao cho các môn đệ: Các cử chỉ và hành động nói trên giống như các cử chỉ của Người trong bữa tiệc ly khi thiết lập bí tích Thánh Thể vào buổi tối ngày Thứ Năm trước cuộc khổ nạn (x. Mt 26, 26).
- C 20-21: + Ăn no và còn dư: “No và dư” là hai yếu tố nói lên sự dồi dào của bữa tiệc Thiên Sai mà ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm trước đó như sau: “ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thì béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25,6). + Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại đựơc mười hai giỏ đầy: Mười hai tông đồ đi thu được mười hai giỏ. Con số 12 tượng trưng cho 12 chi tộc dân Ít-ra-en. Qua đó cho thấy sự nghiệp của Đức Giê-su lan rộng đến toàn dân Do thái chứ không dừng lại ở con số người được ăn bánh hôm ấy. + Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con: Vì con đường theo Đức Giê-su vào hoang địa hơi xa nên có lẽ chỉ những người đàn ông mới quyết tâm và đi được đến nơi. Có thể đàn bà con nít cũng có mặt, nhưng không được tác giả Tin mừng nhắc đến theo quan niệm “trọng nam khinh nữ” của dân Do thái thời bấy giờ.
4. CÂU HỎI:
1)Tại sao Đức Giê-su phải lánh vào nơi hoang địa? Nơi đó nằm ở đâu? 2) Đông đảo dân chúng đi theo Đức Giê-su gợi lên hình ảnh nào trong thời kỳ Xuất Hành? Thái độ chạnh lòng thương và chữa lành bệnh tật của Đức Giê-su cho thấy Người là ai? 3) Tại sao các môn đệ lại đề nghị Đức Giê-su giải tán đám đông? Khi đòi chính các ông phải lo cho dân chúng ăn, Đức Giê-su muốn dạy bài học gì cho các mục tử của Hội Thánh? 4) Đức Giê-su đã làm gì trước khi nhân bánh ra nhiều để nuôi dân chúng? Phép lạ nhân bánh ra nhiều tiên báo về bí tích nào sẽ được Đức Giê-su thiết lập sau này ? 5) Hai đặc tính của bữa tiệc là ăn no và ăn dư dật đã ứng nghiệm lời tuyên sấm nào của Ngôn sứ I-sai-a? Ý nghĩa của con số 12 giỏ đầy những mẩu bánh thừa nói lên điều gì? 6) Phải chăng đàn bà và trẻ con không được ăn bánh nhân ra nhiều trong phép lạ này?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Đức Giê-su bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả. Chính anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14,16).
2. CÂU CHUYỆN: BẠN CHÍNH LÀ ĐÔI TAY CỦA CHÚA:
Vào cuối Thế Chiến Thứ Hai, để thu phục nhân tâm của dân chúng trong một làng quê ở miền cực Nam nước Ý mới được giải phóng khỏi bọn phát xít Đức, toán quân Đồng Minh đã cố gắng phục hồi lại bức tượng Thánh Tâm Chúa Giê-su bằng thạch cao, đã bị bể tan trong cuộc chiến trước đó. Bức tượng này cao khoảng 2 mét, được dựng trên đài phía trước nhà thờ của làng. Sau nhiều ngày tìm kiếm, toán lính kia đã tìm ra các mảnh bị vỡ và gắn lại thành bức tượng Thánh Tâm đẹp đẽ như trước, duy chỉ còn thiếu đôi tay của bức tượng, có lẽ đã bị bể tan do bom đạn chiến tranh. Sau khi đã làm hết cách, cuối cùng tóan lính đành chịu bỏ dở công việc dựng lại bức tượng nói trên. Bấy giờ một người trong bọn bật ra sáng kiến hay. Anh ta đi lấy hai khúc gỗ gắn giả để thay cho hai cánh tay của bức tượng Chúa, rồi viết vào tấm bảng nhỏ đặt trước bức tượng một hàng chữ: “BẠN CHÍNH LÀ ĐÔI TAY CỦA CHÚA”. Hàng chữ này không những đã đánh động tâm hồn của dân chúng trong làng, mà còn thu hút nhiều du khách từ các nơi đến chiêm ngưỡng bức tượng Thánh Tâm Chúa với hai cánh tay bằng gỗ của loài người.
Ngày nay khi chúng ta biết chạnh lòng xót thương những người đau khổ bệnh tật và đói khát rồi tìm cách đáp ứng nhu cầu của họ là chúng ta đang làm theo lời Đức Giê-su dạy trong Tin Mừng hôm nay: “Người chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh tật của họ” (Mt 14,14). Người cũng muốn chúng ta cộng tác với Người để chăm lo phục vụ giúp đỡ những kẻ đau khổ nghèo đói, khi Người nói với các môn đệ rằng: “Họ không cần phải đi đâu cả. Chính anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14,16).
3. SUY NIỆM:
- DIỄN TIẾN PHÉP LẠ: Tin Mừng thuật lại câu chuyện nhân bánh ra nhiều với ba điểm nhấn như sau:
+ Đem lại đây cho Thầy !: Đức Giê-su không chê phần đóng góp nhỏ bé của các môn đệ để làm phép lạ nhân chúng ra nhiều. Người chỉ cần chúng ta trao cho người những gì chúng ta có là sự quảng đại và lòng nhiệt tình.
+ Người cầm lấy năm chiếc bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông: Con đường đi của năm chiếc bánh nhỏ là từ tay các môn đệ đến tay Đức Giê-su, được Người dâng lên cho Chúa Cha, rồi trao lại cho các môn đệ, để cuối cùng đến tay từng người trong đám đông dân chúng.
+ và trở nên nhiều: Phép lạ nhân bánh ra nhiều đã xảy ra khi nó đang ở trong tay ai ? Bình thường chúng ta sẽ tưởng tượng Đức Giê-su nhân bánh và cá thành một đống bánh và cá lớn, rồi các môn đệ đến lấy mang đi phân phát cho dân chúng, nhưng ở đây thánh Mát-thêu viết tiến trình biến hóa bánh và cá ra nhiều như sau: “Người bẻ bánh ra trao cho các ông”, và sau đó chắc các ông cũng tiếp tục bẻ bánh ra và chia cho đám đông. Và có lẽ mỗi người trong đám đông cũng phải bẻ tấm bánh của mình ra để chia sẻ cho người bên cạnh. Chẳng mấy chốc ai nấy đều có bánh ăn. Như thế những tấm bánh từ tay Đức Giê-su đã được bẻ ra, trao đi và nhân ra nhiều khi nó di chuyển từ tay người này sang tay người khác. Đó là điều mấu chốt mà phép lạ này muốn nói lên.
- ANH EM HÃY LÀM VIỆC NÀY MÀ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (Lc 22,19):
+ Phép lạ Bánh được nhân ra nhiều là hình ảnh của bí tích Thánh Thể Đức Giê-su sắp thiết lập trong bữa Tiệc ly trước khi chịu tử nạn: Bữa tiệc này trùng với bữa tiệc Vượt Qua của dân Do thai. Đức Giê-su đã sử dụng Bánh Không Men dùng trong tiệc Vượt Qua theo truyền thống, để biến thành Bánh Ban Sự Sống tức là Thân Mình của Người, sắp chịu hiến tế vì nhân loại. Người cũng dùng chén rượu nho để biến thành Máu Huyết Người sắp đổ ra để đền tội thay cho nhân loại. Cuối cùng Người truyền cho các môn đệ: “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (x. Lc 22,19-20).
+ Điều kiện để tham dự Bữa Tiệc Thánh của Chúa là quảng đại tha thứ và yêu thương hiệp nhất (x. Mt 5,23-24; 6,14-15): Thánh Phao-lô đã quở trách các tín hữu Cô-rin-tô họp nhau mà không làm theo cách thức như bữa ăn tối của Chúa. Vì mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước, và như thế kẻ thì đói, người lại no say (x. 1 Cr 11,17-21). Thánh nhân cảnh cáo họ về tội chia rẽ và thái độ lỗi đức bác ái với nhau: “Anh em không có nhà để ăn uống sao? Hay anh em khinh dể Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của? ”(1 Cr 11, 20-22). Vì thế bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa” (1 Cr 11, 27).
- PHÉP LẠ BẺ BÁNH GIỮA ĐỜI THƯỜNG: Phép lạ nhân Bánh ra nhiều không dừng lại ở việc Bẻ Bánh tại nhà thờ, mà còn phải đựơc tiếp tục kéo dài trong cuộc sống: bẻ ra, trao đi và hóa nhiều.
+ Đừng sợ tấm bánh bị bẻ ra và cho đi sẽ bị hao hụt và không còn đủ phần bánh cho mình và người thân: Nếu các môn đệ xưa cũng nghĩ như vậy và không chịu trao cho Đức Giê-su năm chiếc bánh và hai con cá thì số bánh cá đó vẫn chỉ có bằng đó. Nhưng nhờ quảng đại trao cho Đức Giê-su, để Người bẻ ra trao lại cho các ông để các ông chia cho dân chúng mà bánh đã được nhân ra nhiều.
+ Ngày nay cũng có nhiều người đang cần các thứ bánh vật chất và tinh thần: bánh công lý, bánh yêu thương, bánh cảm thông tha thứ và phục vụ. Đừng ngại khi phải hy sinh nhiều. Nếu bạn dám bẻ đôi những gì bạn có thì chắc thế giới này sẽ không còn người đói, mà tất cả sẽ được no nê bánh ăn vật chất và còn được no đầy cả bánh tinh thần là sự bình an, niềm vui, hạnh phúc và hy vọng.
4. THẢO LUẬN:
1) Ngoài việc cho kẻ đói bánh ăn vật chất, bạn có thể cho họ những thứ bánh tinh thần nào nữa ? 2) Trong những ngày sắp tới bạn quyết tâm sẽ trao bánh tinh thần nào cho người sống bên cạnh như: Một nụ cười, một lời khen thành thật, một sự giúp đỡ tận tình và còn gì nữa không…?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn chúng con noi gương Chúa “Luôn chạnh lòng xót thương” những kẻ đói nghèo đang sống bên cạnh chúng con. Xin cho chúng con cảm nghiệm được sự đói khát đang giày vò bao người, để sẵn sàng làm theo lời Chúa dạy: “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Nhưng Lạy Chúa, bản thân con và gia đình con cũng đang gặp khó khăn, phải “ăn bữa nay lo bữa mai”, thì làm sao chúng con có thể chia sẻ cơm ăn áo mặc cho người khác được? Khả năng của chúng con thì giới hạn và không thấm vào đâu so với nhu cầu to lớn của tha nhân. Xin cho chúng con biết noi gương quảng đại của các môn đệ Chúa xưa để dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa, và Chúa sẽ ban ơn cứu độ cho chúng con, rồi chúng con sẽ noi gương Chúa tiếp tục chia sẻ cơm bánh tiền của và tình thương cho những người nghèo khổ đang ở chung quanh chúng con.
- LẠY CHÚA. Con xin mượn lời cầu nguyện của một thi sĩ để dâng lên Chúa lời cầu nguyện như sau: “Con chỉ là một tia lửa, xin biến con thành ngọn lửa hồng. Con chỉ là một sợi dây, xin biến con thành một cây đàn. Con chỉ là một quả đồi, xin biến con thành một rặng núi. Con chỉ là một giọt nước, xin biến con thành đại dương. Con chỉ là một cọng lông, xin biến con thành đôi cánh lớn. Con chỉ là một gã ăn xin, xin biến con thành một vương hầu”. Khi nhìn lại bản thân, con cảm thấy thân xác con quá yếu đuối, suy nghĩ con thật nông cạn, trái tim con lại nhỏ bé, địa vị con quá thấp hèn, tài sản con chỉ là đôi bàn tay trắng! Nhưng con tin rằng, nếu con biết quảng đại hiến dâng những gì chúng con có cho Chúa, thì Chúa sẽ biến hóa nó nên sức mạnh giúp con làm được những việc lớn lao. Xin cho con luôn sẵn sàng đóng góp phần nhỏ bé của con cho Chúa để chu tòan sứ mạng loan báo Tin Mừng cứu độ cho anh em con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
[Mục Lục]

Bài 7. HÃY CÓ LÒNG THƯƠNG XÓT
Jos. Vinc. Ngọc Biển

Trên các trang mạng, khi vào google.com và đánh típ: “Vị Tổng thống nghèo nhất thế giới”chỉ trong 18 giây, chúng ta đã có ngay kết quả lên tới 1.210.000 chuyên mục liên quan đến vị tổng thống này. Ông là ai? Thưa ông là Mujica, Tổng thống Uruguay.
“Dinh thự” của Tổng thống Uruguay là ngôi nhà cũ nát nằm ở ngoại ô thủ đô Montevideo, Uruguay. Ông đã sống ở đó gần hết cuộc đời với người bạn thân thiết là 1 chú chó 3 chân. Tài sản giá trị nhất của vị tổng thống này là chiếc ô tô cũ kỹ có giá chưa đến 2 ngàn đô la Mỹ. Ông là vị Tổng thống không thích sống trong nhung lụa.
Tuy nhiên, Mujica được nhiều người trên thế giới ngưỡng mộ không hẳn vì ông sống giản dị và nghèo, nhưng vì đã dành 90% tiền lương của mình, cho công tác từ thiện.
Chúng ta không cần biết ông có theo đạo Công Giáo hay không! Nhưng chúng ta biết chắc rằng: “ông là người biết ‘thương xót’ người nghèo”.
Hôm nay, bài Tin Mừng cũng cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã “thương xót” dân chúng. Ngài đã chữa lành bệnh tật và làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi họ. Qua đó, Đức Giêsu cũng mời gọi các môn đệ và cả chúng ta hãy tiếp bước trên con đường “thương xót” của Ngài, để làm toát lên vẻ đẹp của Thiên Chúa là Tình Yêu nơi hành động của chúng ta.
1. Đức Giêsu là Đấng “thương xót”
Trong suốt hành trình loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu luôn yêu thương, quan tâm đến con người, nhất là những người ốm đau, bệnh tật, những người thấp cổ bé họng và đói khát.
Khởi đi từ việc rời bỏ vinh quang Thiên Quốc để nhập thế và sinh ra trong cảnh nghèo, lớn lên trong sự thiếu thốn, hẳn Đức Giêsu hiểu rõ hơn ai hết nỗi bần cùng của con người. Vì thế, đã nhiều lần, Tin Mừng cho thấy: khi dân chúng đến với Ngài, mang theo những bệnh tật trên thân xác, Ngài đã “thương xót” và chữa lành họ.
Không chỉ chữa lành bệnh tật thể lý, Ngài còn đi xa hơn để chữa trị tâm hồn cho những ai đang hoang mang, bất hạnh và thất vọng.
Vẫn tình thương đó, hôm nay, khi thấy dân theo mình nghe giảng, và khi trời đã xế bóng, Đức Giêsu không nỡ để dân chúng bụng đói ra về, nên Ngài đã ra tay để làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng.
Tuy nhiên, điều mà Đức Giêsu đã làm, đã nói và hành động, Ngài không muốn để các môn đệ ngoài cuộc, bởi vì mai đây chính các ông là những người sẽ thay Ngài để thi hành lòng“thương xót” của Thiên Chúa cho dân. Vì thế, khi được hỏi: “Ðây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi, xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn”.Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: “Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn”.Như thế, qua câu nói của Đức Giêsu, không phải vì vô lý, cũng chẳng phải Ngài thách thức các ông, nhưng:
Trước hết, Đức Giêsu muốn các ông hãy ra khỏi sự ích kỷ của bản thân, sự an phận của vật chất để biết chia sẻ với những ai bất hạnh, nghèo đói, vì: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (Gaudium et Spes,số 1).
Thứ đến, Đức Giêsu muốn mặc khải cho các ông về sứ mạng của chính mình, Đấng đến “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (x. Ga 10,10).
Cuối cùng, Đức Giêsu cũng dạy cho các ông bài học về sự tin tưởng, cậy trông vào quyền năng của Thiên Chúa. Vì: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng Người, Người sẽ ra tay” (Tv 37,5).
Còn chúng ta, những người tin và theo Đức Giêsu, hẳn mỗi người cũng được mời gọi để thi hành công việc mà chính Đức Giêsu đã làm và muốn các môn đệ thi hành khi xưa. Vậy chúng ta phải làm gì?
2. Sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôn nay mời gọi mỗi chúng ta hãy vươn xa tầm nhìn để thấy được trong xã hội loài người gồm hơn 7 tỷ người, trong đó có hàng ngàn trẻ em mồ côi, bệnh tật, bị bóc lột sức lao động và buộc làm nô lệ cho tình dục…
Số người chết vì đói, vì thiếu thuốc chữa bệnh cũng lên cả triệu người trên năm. Hàng triệu người vô gia cư, thất nghiệp, mù chữ… Rồi những người mắc phải những căn bệnh thế kỷ, nạn buôn bán phụ nữ để làm gái bán dâm, buôn bán ma túy và tham nhũng cũng tăng lên từng ngày.
Tình trạng loạn luân, phi đạo đức nhan nhản trong xã hội hiện nay. Những chuyện như: cha giết con, con giết cha; vợ giết chồng và ngược lại. Nhiều nạn nhân chết oan uổng chỉ vì một cái nhìn bị cho là “nhìn đểu”, hay chỉ là một câu nói vô tình nào đó…
Như vậy, ngày nay, người ta “bội thực” đủ thứ… nhưng lại “đói khát” đời sống đạo đức và tâm linh hơn bao giờ hết.
Sự thật thà dường như vắng bóng trong học đường, và ngoài xã hội. Niềm tin tưởng lẫn nhau có lẽ quá xa vời đối với thương trường. Sự tương thân tương ái có lẽ không còn mấy ý nghĩa, mà thực ra chỉ là lợi dụng. Đạo đức gia đình, nghề nghiệp là thứ gì đó xa xỉ phẩm đối với giới trẻ, các ông chủ và ngay cả những người được coi là mang danh đạo đức… Tình trạng thờ ơ, vô cảm và ngăn cấm tôn giáo là điểm “hot”; “nhạy cảm” tại nhiều nơi.
Tất cả những hiện tượng đó, Đức Giêsu không ngừng mời gọi chúng ta phóng tầm nhìn để có một tấm lòng biết “thương xót”. Đồng thời, hãy ra khỏi sự yên thân để cùng nhau lên đường nhằm góp chút men, chút muối và trở thành ánh sáng để ướp đời và soi sáng thế gian.
3. Sống sứ điệp Lời Chúa
Thực ra, chúng ta không thể nào làm thay đổi nổi màu đen trên thế giới!!! Thế nhưng, ngay thời điểm hiện tại và nơi chúng ta sinh sống, không thiếu gì những con người tương tự.
Họ là những người đang đi lạc hướng trong niềm tin, lệch lạc trong lối sống, cách nhìn và suy nghĩ; những người sống trong tội; ham tiền, mê bạc và hám dục… sống dửng dưng, vô cảm với anh chị em đồng loại. Vì thế, không thiếu những Lazarô nghèo ngay bên cạnh người Phú hộ giàu có…
Những hình ảnh trên có thể là chính chúng ta. Nếu quả là vậy, thì chúng ta hãy hối cải và trở về với Chúa. Bằng không, đó là hình ảnh mà người anh chị em chúng ta đang mang trên mình, thì không phải ai, mà là chính chúng ta hãy bắt tay vào việc dù chỉ là một cái gì đó bé nhỏ như:
- Một cái nhìn thân thiện, cảm thông;
- Một ly nước cho người đỡ khát, một chén cơm cho khách qua đường;
- Một hành động khước từ sự bất chính như cờ bạc, rượu chè, trai gái;
- Một thái đội khẳng khái với sự bất công, tham nhũng;
- Một lời cầu nguyện, hy sinh để xin Chúa “thương xót” và làm động lòng những người dư giả, để họ giúp cho những người đói khát, bần cùng, để kẻ giàu không no và người nghèo không đói.
Lạy Chúa, xin cho chúng con có được “con mắt của Chúa” để chúng con có cái “nhìn giống Chúa”. Xin cho chúng con “con tim của Chúa” để chúng con cũng biết “chạnh lòng thương” như Chúa. Amen.
[Mục Lục]

Bài 8. Ai nấy đều được ăn no nê
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Một thế giới huynh đệ đại đồng là lý tưởng con người hằng mơ ước. Phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá (Mt 14, 17) cho năm ngàn người cùng ngồi trên một thảm cỏ ăn no hôm nay vẫn thật thức thời.
Những con số cụ thể như : năm chiếc bánh, hai con cánăm ngàn người với mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn (x. Mt 14, 13-21) thật ấn tượng. Làm sao chúng ta không thể nghĩ đến những con số khác: có tới trăm ngàn người thiệt mạng trong các cuộc giao chiến, hàng trăm triệu euros cho việc chuyển giao một cầu thủ bóng đá, hàng tỷ người đói hiện nay trên thế giới. Những con số không biết nói nhưng đã trở thành lời. Một bên là tiếng hoan hô ngưỡng mộ trước phép lạ; bên kia là sự khiếp sợ.
Con số: “năm chiếc bánh và hai con cá với năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ” (Mt 14, 21), cho thấy sự mất cân bằng quá lớn giữa thực phẩm với nhu cầu của con người. Chúng ta cũng đang phải đối diện với những vấn nạn tương tự về các thảm họa chết người, chiến tranh và nạn đói, và cảm thấy bối rối, bất lực: chúng ta có thể làm gì?
Đoạn Tin Mừng này gửi đến chúng ta cách thời sự trong thế giới chúng ta đang sống. Làm sao không thể nghĩ tới nạn đói đang hoành hành một phần lớn nhân loại? Ngay cả ở các nước phương Tây, nhiều người vẫn không có cái tối thiểu để mà sống. Vì vậy, chúng ta cảm thấy nhu cầu rất lớn của nhân loại mà chúng ta bất lực. Nhiều người đặt câu hỏi: Thiên Chúa đang ở đâu ? Tại sao ngày nay Thiên Chúa không còn làm như vậy? Tại sao Người không hoá bánh ra nhiều cho triệu triệu người đang đói trên mặt đất này?
Một chi tiết trong bài Tin Mừng có thể giúp chúng ta tìm ra lời giải đáp cho những vấn nạn trên. Chúa Giêsu không búng ngón tay để rồi bánh và cá xuất hiện cách ma thuật theo ý muốn. Nhưng Người hỏi các môn đệ có gì và truyền: “các con hãy cho họ ăn“(Mt 14, 16); Người kêu gọi các ông chia sẻ điều các ông có : “năm cái bánh và hai con cá ” (Mt 14, 17).
Ngày nay Chúa Giêsu cũng làm như vậy. Người xin chúng ta chia sẻ những tài nguyên trái đất. Điều được biết rõ, ít nhất về thức ăn, là trái đất chúng ta có khả năng nâng đỡ hơn một tỷ người nữa đang ở trên mặt đất này.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta, “hãy cho họ ăn“. Chỉ cần ít mà có một chút tình yêu, tí chút vật chất để khắc phục nạn đói, thân xác và tâm hồn. Chút ít ấy, chúng ta đặt vào tay Chúa. Thiên Chúa sẽ thực hiện những điều kỳ diệu.
Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta nhìn lại phép lạ hóa bánh ra nhiều theo một cách khác. Trước hết, Người khiêm tốn bảo các ông rằng: “Hãy đem lại cho Thầy” (Mt 14, 18), và chấp nhận dùng bánh của các ông. Sẽ chẳng có gì, nếu các ông không đồng ý cho bánh. Thiên Chúa cần những cử chỉ chia sẻ của chúng ta để thực hiện những điều cao cả. Do đó, năm cái bánh và hai con cá đã được Chúa Giêsu dùng để nuôi ngần ấy ngàn người, tất cả đều no nê. Người hoàn toàn tin tưởng ở Chúa Cha. Người biết rằng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể.
Một câu hỏi khác được đặt ra: Chúa Giêsu đã nuôi sống đám đông trong một ngày. Nhưng ngày hôm sau, họ tiếp tục bị đói. Họ tìm thấy mình ở trong một tình trạng khác của khổ đau. Vậy tại sao Chúa Giêsu không thay đổi tình trạng này?
Mục đích của Chúa Giêsu không phải là để thay đổi tình thế, cho bằng thay đổi lòng người. Khi con người thấm nhuần sứ điệp tình yêu Chúa, họ không còn như trước nữa. Điều quan trọng là con người cho đi những điều tốt nhất là hành vi yêu thương và chia sẻ làm cho cuộc sống có giá trị.
Bánh cần thiết cho cuộc sống, nhưng chúng ta không bị giới hạn vào thứ bánh vật chất, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi xa hơn. Người muốn nói, Thiên Chúa hiện diện trong tất cả mọi thực tại và sự kiện trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta đang sống trong tình yêu của Chúa. Trước đây, Người đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Cử chỉ này là một dấu hiệu của sự gia tăng tình yêu Chúa vẫn tiếp tục thể hiện nơi nhân thế. Vì con người, ngoài nhu cầu vật chất, con người còn đói khát một cái gì hơn nữa, cần một cái gì hơn nữa. Bánh Giêsu, Bánh bởi Trời mang lại sự sống đời đời, biến con người thành các chứng nhân của tình yêu Thiên chúa đối với từng anh chị em một. Người trao cho chúng ta, để chúng ta phân phát cho những ai đói khát tình yêu. Như thế, tình yêu tùy thuộc vào chúng ta và phép lạ của tình yêu giữa con người với nhau sẽ không bao giờ dừng lại.
Làm sao con người có thể trách cứ Thiên Chúa không cung cấp thức ăn cho mọi người đang khi mỗi năm người ta tiêu hủy hàng triệu tấn thức ăn mà thông tin đại chúng nói là quá nhiều hầu phòng chống sự giảm giá thức ăn? Có giải pháp nào chăng ? Sự phân phối càng tốt thì tình liên đới càng lớn và sự chia sẻ càng nhiều.
Báo chí ngày nay cũng cho biết, chưa bao giờ con người có nhiều của cải như thế. Ông Bill Gates tỷ phú người Mỹ, có tài khoản tại các ngân hàng trên thế giới tương đương với thu nhập quốc dân của 40 nước nghèo ; Một tên lửa được Mỹ bắn lên đốt cháy hàng tỷ đô la. Chiến tranh tiêu huỷ biết bao tiền của, bao sinh mạng con người. Ấy vậy mà, chưa bao giờ có nhiều người nghèo đói như ngày nay. Tại sao có sự chênh lệch giầu nghèo trên thế giới như thế. Sở dĩ như vậy chỉ tại chúng ta giữ chặt lấy bánh và cá và không muốn chia sẻ với mọi người đó thôi. Thay vì tích luỹ làm giầu, chế tạo súng ống chạy đua vũ trang, thì con người chế tạo ra bột mỳ, lương thực, thuốc men để giúp cho đồng loại đỡ khổ thì tốt biết bao.
Lạy Mẹ Maria, xin mở rộng con tim chúng con, để chúng con biết sống yêu thương và chia sẻ với anh em đồng loại, hầu xây dựng một xã hội công bằng, huynh đệ đầy ắp tình yêu thương Chúa. Amen.
[Mục Lục]

Bài 9. Bữa Tiệc Tình Thương
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Trong chuyến hành hương Thánh Địa tháng 5 vừa rồi, chúng tôi có ghé thăm miền đất Tabgha với nhiều địa danh quen thuộc được kể trong Phúc Âm.Vùng Tabgha màu mỡ trải dọc theo hướng Tây Bắc bờ Biển hồ Galilê. Tên Tabgha bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “Heptapegon” nghĩa là “7 con suối” và được thu gọn lại theo tiếng Ả Rập là Tabgha.
Theo truyền thống, tại miền đất này đã diễn ra những sự kiện quan trọng trong sứ vụ của Chúa Giêsu: Phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều; Chúa giảng Bài giảng trên Núi; sau khi Phục sinh, Chúa đã hiện ra với các môn đệ trên bờ hồ và trao quyền lãnh đạo cho Simon Phêrô…
Chúng tôi đến thăm “Nhà Thờ Bánh Hóa Nhiều”, giữa một khu vườn rất nhiều cây ôliu và hoa cỏ xanh tươi xinh đẹp. Ngôi Nhà thờ nguyên thủy được xây dựng dưới thời Byzantine, trong nhiều giai đoạn khác nhau và được trùng tu vào các thế kỷ sau đó. Nhà thờ vẫn còn lưu giữ một sàn nhà khảm đá (mosaic) đã được khám phá tại Thánh địa. Có lẽ biểu tượng nổi bật nhất, nằm ngay trên đỉnh của bức tranh phía dưới bàn thờ chính là 5 chiếc bánh và 2 con cá, kính nhớ việc Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ tại đây.
Người Ba Tư xâm chiếm vùng này và phá hủy Nhà thờ vào năm 614. Vương cung Thánh đường mới được xây dựng trên nền cổ của ngôi Nhà thờ, vẫn còn giữ nguyên phong cách cũ đồng thời kết hợp hài hòa những nét cổ xưa và hiện đại. Ngày nay, các thầy dòng Biển Đức chăm sóc ngôi Nhà thờ này.
Chúng tôi đọc Phúc Âm câu chuyện phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều và thinh lặng suy niệm. Matthêu chương 14 mô tả hai bữa tiệc xảy ra nối tiếp nhau để độc giả so sánh và suy nghĩ: bữa tiệc sang trọng với cái đầu của Gioan Tẩy Giả và bữa tiệc của dân nghèo với 5 cái bánh và 2 con cá.
Mt 14,1-12: Tại bữa tiệc ở cung điện của vua Hêrôđê với các quan khách sang trọng quý phái. Họ có tất cả mọi sự trên đời: quyền hành, danh vọng, tiền bạc, sắc đẹp, lạc thú, thức ăn cao lương mỹ vị, rượu ngon thoả thích, vũ nữ duyên dáng chân dài chân ngắn…và có cả hận thù ích kỷ, máu đổ đầu rơi.
Mt 14,13-21: Tại bữa tiệc nơi hoang vắng với đám dân nghèo đói. Họ chẳng có gì ngoài sự tin tưởng, hy vọng vào tình thương và sự chia sẻ của Chúa Giêsu. Đây là phép lạ của tình thương. Các môn đệ cũng đóng vai trò quan trọng là cộng tác với Chúa, đi phân phát thức ăn cho dân chúng. Mọi người chia sẻ cho nhau, bánh và cá cứ thế mà tiếp tục nhiều lên. Chúa không làm phép lạ một núi bánh và cá cho mọi người đến lấy. Chúa làm phép lạ khi mọi người liên đới với nhau, cùng bẻ ra và trao cho nhau. Bữa ăn hôm đó là một biểu tượng của bữa tiệc Thánh Thể. Không còn ranh giới, không còn giai cấp, không còn kẻ trên người dưới. Một tinh thần hoà đồng, tất cả đều là anh chị em trong Chúa Giêsu. Trong tiệc Thánh Thể, người ta tìm thấy bình an và nguồn hạnh phúc trào dâng trong tâm hồn. Người ta tận hưởng hoa trái tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại, người ta nhận biết giá trị của bình an nội tâm do ân sủng Chúa ban đến.
1. Bánh Trường Sinh
Phép lạ hoá bánh là dấu chỉ báo trước Thánh Thể: “Ngài cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ” (Mt 14,20). Trong Tiệc Ly “Ngài cấm lấy bánh, chúc tụng” (Mc 14,22). Cử chỉ Bẻ Bánh đã trở thành nét đặc trưng của Chúa Giêsu ( Lc 24, 30) và của Giáo hội (Cv 2, 42).
Ðược bánh ăn, dân chúng muốn “bắt lấy Ngài tôn lên làm vua” (Ga 6,15). Họ tiếp nối Satan cám dỗ Ngài lần nữa. Chúa Giêsu nhắc nhở họ rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh “Hãy ra công làm việc, đừng vì lương thực hư nát nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời mà Con Người sẽ ban cho các ngươi” (Ga 6, 27). Họ xin cho được ăn mãi thứ bánh ấy và Chúa đã bảo họ: “Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến với ta không hề phải đói, ai tin vào ta, chẳng khát bao giờ” ( Ga 6, 35). Chóp đỉnh của mạc khải về Bánh Hằng Sống chính là “Ai ăn thịt ta và uống máu ta thì được sống muôn đời, và ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6,54). Ăn thịt, uống máu nhấn mạnh đến cái chết trên thập giá của Chúa.
Bánh Ta sẽ ban” hướng về cái chết của Chúa Giêsu và gợi đến Tiệc Thánh Thể lưu niệm vĩnh viễn sự chết cứu độ của Chúa trên Thập giá. Giá trị cứu rỗi của cái chết trên Thập giá được hiện tại hoá luôn mãi trong Tiệc Tạ Ơn của Giáo Hội. Người tín hữu được sống dồi dào khi ăn uống Mình Máu Chúa Giêsu.
Chúa vẫn tiếp tục đồng hành cùng Giáo hội, thực hiện công trình cứu độ trong Giáo hội, qua Giáo hội và với Giáo hội. Trao cho chúng ta Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể, Chúa mời gọi chúng ta bẻ ra và trao cho anh em mình.
2. Bánh Lời Chúa
Lời đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Lời Thiên Chúa là Lời Quyền Năng, nhưng Ngài lại trao cho con người sứ mạng công bố lời Ngài “Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã nói với cha ông chúng ta qua các Ngôn sứ” (Dt1, 1). Cũng một sứ mạng ấy được tiếp nối trong Giáo hội hôm nay “Ngài sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân” (Lc 9,2). Sứ mạng đó là nhiệm vụ cốt yếu của các tông đồ “Chúng tôi không thể sao nhãng Lời Thiên Chúa để lo giúp việc bàn ăn” (Cv 6, 2) và chính Thánh Phaolô kêu lên “khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng“. Thế là, con người tội lỗi được giao trách nhiệm công bố Lời thánh hoá; con người yếu đuối công bố Lời quyền năng; con người giới hạn công bố Lời vĩnh cửu. Một vinh dự quá đổi lớn lao.
Lời Chúa có thể đọc và giải thích ngoài phụng vụ, trong phạm vi cá nhân hoặc khi làm việc đạo đức. Khi đó Lời Chúa là cơ hội ban ơn hiện sủng và hiệu năng ở đây là hiệu năng “do nhân” (ex opere operantis), tuỳ thuộc thái độ tâm hồn của người đọc và người nghe. Lời Chúa được công bố khi cử hành phụng vụ, đó là Lời do Chúa Giêsu hoặc Giáo hội ấn định, được công bố nhân danh Chúa và Giáo hội bởi Thừa tác viên chính thức. Lời Bí Tích mang hiệu năng “do sự” (ex opere operato), qua các bí tích Chúa Kitô ban ân sủng cho người lãnh nhận.
Sứ vụ công bố Lời Chúa được thực hiện trong tác động của Thánh Thần. Bởi thế người rao giảng Tin mừng chỉ có thể thực rao giảng Lời Chúa nhờ quyền năng và tác động của Thánh Thần. Chính Thánh Thần tác động lên người nói cũng như người nghe, để Lời được công bố không còn là Lời của người phàm nhưng là Lời Thiên Chúa. Dù ta có cố gắng đến đâu cũng không thể cải hoá lòng người vì: “Không ai có thể tuyên xưng Ðức Giêsu là Chúa mà không do Thánh Thần” (1Cor 12,3) và “Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả chỉ là uổng công“(Tv 127,1).
Các con có mấy chiếc Bánh Lời Chúa để trao cho anh em? Chúa vẫn luôn hỏi chúng ta điều ấy mỗi ngày. Bởi đó, cần trau dồi Lời Thiên Chúa, vì người được sai đi để công bố Lời Chúa chứ không phải lời của thế gian, cho dẫu lời ấy có khôn ngoan đến đâu chăng nữa. Ðồng thời cũng phải trau dồi lời con người, là khả năng nói, loan báo, kỹ năng diễn đạt tư tưởng và rao giảng để Lời Chúa chinh phục các tâm hồn.
Công bố Lời Chúa vừa là một hồng ân vừa là một trách nhiệm. Là hồng ân vì con người tầm thường được Thiên Chúa mời gọi làm ngôn sứ. Là trách nhiệm vì phải nỗ lực để chu toàn sứ vụ.
3. Bánh Thánh Thể
Bánh và rượu tương trưng đầy đủ chính con người chúng ta. Bánh là kết quả công lao khó nhọc của con người. Người ta thường nói: Ðổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có mà ăn. Bánh như thế tượng trưng công lao khó nhọc và chính sự sống con người. Bên cạnh đời sống vật chất còn có đời sống tinh thần. Vì thế cùng với bánh chúng ta dâng rượu. Rượu tượng trưng cho mọi nỗi vui buồn sướng khổ của đời người: khi vui ta uống chén rươụ mừng nhưng khi buồn ta uống chén rượu giải khuây. Dâng lên Chúa bánh và rượu là chúng ta dâng lên tất cả đời sống với mọi nỗi vui buồn sướng khổ, tất cả dệt nên cuộc sống hiện tại của mình.
Ðến Nhà Thờ dâng Lễ, mỗi tín hữu mang lễ vật riêng là chính đời sống của mình, nhưng khi dâng lễ, nó được thu hợp lại thành lễ vật chung của cộng đoàn dâng lên Chúa. Tấm bánh được hình thành bởi trăm ngàn hạt lúa miến đã được xay nát ra và hoà trộn với nhau trong chậu bột. Ly rượu là kết quả của nhiều trái nho được ép ra và hoà tan với nhau. Cả hai tượng trưng đầy đủ ý nghĩa cộng đồng cho lễ vật mỗi người cũng như lễ vật toàn thể cộng đoàn. Linh mục đọc Lời Truyền Phép là Lời Chúa Kitô, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa Kitô. Đồng thời Chúa Kitô cũng biến đổi những hy sinh, những hạnh phúc đau khổ, những trách nhiệm của cộng đoàn trong hiến lễ để rồi khi mỗi người rước lễ, họ đón nhận Mình Máu Chúa là đón nhận lại của lễ mình dâng lên mà giờ đây đã được thánh hiến. Người tín hữu được lớn lên trong đức tin, trong lòng mến nhờ ân sủng của Thánh Thể Chúa Kitô. “Chính tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói;ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” (Ga 6,35). “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,51). Thánh Thể như thế là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người; là quà tặng Thiên Chúa trao ban cho nhân loại, và chính là lương thực thiêng liêng, bảo đảm hạnh phúc trường cửu của chúng ta. Bởi đó tham dự thánh lễ cách đầy đủ tích cực trọn vẹn với tất cả con người là cách tốt nhất đáp lại tình thương của Chúa, yêu mến Thánh Thể.
ĐHY FX Nguyễn Văn Thuận viết “Con muốn hỏi: ‘Cách gì đẹp lòng Chúa hơn cả?’. Hãy tham dự Thánh lễ, vì không kinh nào, không tổ chức, nghi thức nào sánh bằng lời nguyện và hy lễ Chúa Giêsu trên Thánh giá”. (Đường Hy Vọng #349).Bí tích Thánh Thể là ‘nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kitô hữu’ (GH 11), là trung tâm điểm của Phụng Vụ vì cử hành mầu nhiệm Vượt Qua, ‘mầu nhiệm Chúa Kitô hoàn tất công trình cứu độ chúng ta’(GLCG 1068).
Tham dự Thánh Lễ cách “trọn vẹn, ý thức và linh động”, và “qua cuộc sống biểu lộ cho người khác thấy mầu nhiệm Chúa Kitô và bản tính đích thực của Hội Thánh chân chính” (PV 2) là cách tốt nhất thể hiện lòng yêu mến Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một niềm tin nhạy cảm để biết nhận ra bàn tay quan phòng của Chúa. Xin ban cho chúng con tấm lòng quảng đại, để biết sống chia sẻ, hầu cảm nhận được tình yêu của Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Amen!
[Mục Lục]

Bài 10. DĨ THỰC VI TIÊN
JM. Lam Thy ĐVD.

Với con người sống trên đời thì chuyện ăn uống để bảo dưỡng thân xác là điều tất yếu. Cứ nhìn trẻ sơ sinh khi cất tiếng khóc chào đời, chỉ cần đưa vú mẹ vào miệng là nín ngay và bú cách ngon lành. Ấy là chưa kể ngay từ khi hình thành bào thai trong lòng mẹ, thì thai nhi cũng không thể thiếu máu huyết của người mẹ truyền cho để tăng trưởng. Tục ngữ có câu: “Nhân dĩ thực vi tiên 人以食為先” (con người lấy sự ăn làm điều quan trọng hàng đầu). Do đó, khi đói thì tìm kiếm lương thực, cơm bánh là chuyện dĩ nhiên. Câu tục ngữ trên còn một cách viết khác nhưng nghĩa không thay đổi: “Nhân dĩ thực vi thiên 人以食為天” (chữ “thiên” ở đây chỉ có nghĩa là cái tối quan trọng để tồn tại; không dùng theo nghĩa “thiên” là trời, ông Trời). Nhưng lại có câu cũng nói về chuyện ăn uống, lương thực ( 粮食 ), nhưng dùng chữ “thiên” ( 天 ) theo nghĩa ông Trời: “Nhân hữu thực do thiên 人有食由天” (Con người có thức ăn là do Trời ban). Với nghĩa này, suy niệm Lời Chúa sẽ thấy tỏ tường:
Thực thế, ngay từ khi vì tình yêu mà dựng nên con người, Thiên Chúa luôn luôn lo thức ăn (lương thực) cho con người (“Ngay cả chuyện ăn uống và hưởng những thành quả do công lao khó nhọc mình làm ra, thì đó đã là một món quà Thiên Chúa ban tặng rồi.” – Gv 3, 13; “Điều tốt lành và thích hợp cho con người là ăn uống và hưởng những thành quả do công lao khó nhọc mình làm ra dưới ánh mặt trời trong suốt cuộc sống Thiên Chúa ban cho mình. Quả thế, đó là phần con người được hưởng.” – Gv 5, 17). Lịch sử đã chứng minh khi dân Do-thái đi trong sa mạc về đất hứa không có lương thực, không có nước uống, Mô-sê đã cầu khẩn Thiên Chúa, được Người chấp nhận. Người đã ban Manna cho họ (“Con cái Ít-ra-en đã ăn man-na suốt bốn mươi năm, cho đến khi họ tới đất định cư; họ đã ăn man-na cho đến khi tới ranh giới đất Ca-na-an.” – Xh 16, 35); “Ta sẽ đổ xuống muôn hồng ân, cho Xi-on được lương thực dồi dào, và ban cho kẻ nghèo được no nê cơm bánh.” (Tv 132, câu 15).
Lòng thương xót Thiên Chúa dành cho nhân loại là vô cùng vô tận, “Vì có ai ăn uống, có ai cảm thấy vui mừng phấn khởi mà không nhờ Thiên Chúa ban cho?” (Gv 2, 25). Một bằng chứng hiển nhiên là bài Tin Mừng hôm nay (CN XVIII/TN-A – Mt 14, 13-21) trình thuật Đức Giê-su làm phép lạ hóa bánh ra nhiều: Trước một đám đông dân chúng, Đức Giê-su Thiên Chúa chạnh lòng thương xót họ. Các môn đệ cũng thương dân, nên mới thưa với Đức Ki-tô: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn.” Tuy nhiên, khi Đức Giê-su bảo “chính anh em hãy cho họ ăn” thì các ngài thưa: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá!” Lực bất tòng tâm, với số bánh và cá ít như vậy thì làm sao cho hơn 5.000 người no bụng? Chỉ có Đức Giê-su Thiên Chúa mới làm cho bánh và cá hóa ra nhiều để nuôi dân chúng. Và chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa đã làm phép lạ để nuôi “năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà trẻ con” (Mt 14, 21) được ăn no nê và còn dư tới 12 giỏ đầy.
Điều đó cho thấy, nơi Đức Giê-su, Thiên Chúa luôn bày tỏ sự liên đới với cái đói khát của con người trần thế (từ cơn đói thể xác đến cơn đói tinh thần). Cơn đói thể xác thì cần nỗ lực tìm kiếm cơm bánh vật chất. Còn cơn đói tinh thần thì cũng cần – rất cần – nỗ lực, gắng sức tim bánh trường sinh là chính Thịt và Máu Chiên Thiên Chúa. Đó chính là Lời Thiên Chúa, bởi vì “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4, 4). Lời dạy của Đức Giê-su cho thấy giữa cơn đói thể chất và cơn đói tinh thần luôn có một liên hệ khăng khít. Người không dạy là con người sống không cần cơm bánh, mà vẫn cần lương thực bảo dưỡng thân xác; tuy nhiên cũng rất cần lo cho cơn đói tinh thần, đó là Lời Chúa.
Đói nghèo về vật chất đã là điều đáng sợ, nhưng đến nghèo đói tinh thần thì càng đáng lo hơn. Khi cả hai cơn đói cùng tồn tại trong một con người thì rất dễ sinh ra “Bần cùng sinh đạo tặc”, “Đói ăn vụng, túng làm liều”. Vì thế, tục ngữ Việt Nam lai có câu: “Đói cho sạch, rách cho thơm”. Dân gian mượn hai yếu tố thiết yếu nhất trong cuộc sống hàng ngày là “ăn” và “mặc” để thông qua đó phản ánh quan niệm sống cao đẹp. Một vấn nạn nảy sinh: “Lúc đói, bản năng tự nhiên của con người trỗi dậy rất mạnh để bảo tồn sự sống. Liệu có còn đủ lý trí để giữ cho sạch sẽ? Khi nghèo nàn, rách rưới, mấy người còn nghĩ tới thơm tho?”
Thực ra, câu tục ngữ này không chỉ đề cập đến cái đói, cái rách thể chất, mà cao hơn thế, nó nêu lên một triết lý sống, một quan điểm sống làm nền tảng đạo đức con người. Đói thì phải kiếm miếng ăn, rách thì phải lo cái mặc; nhưng kiếm ăn, tìm mặc phải bằng chính sức lao động của mình, không trộm cướp, gian tham, lường gạt. Một cách cụ thể là sống bằng, sống với đạo đức và lương tâm chính trực. Quan điểm này là sự đối nghịch với quan điểm sống tiêu cực của giai cấp giàu sang quyền quý nhờ bóc lột, hút máu hút mủ đồng bào. Họ không hề nhìn lại bản thân xem “cái sà trong mắt mình” (cách làm giàu của bản thân), mà chỉ chăm chú vào “cọng rác nơi mắt người”, để cho rằng “Bần cùng sinh đạo tặc”, “Đói ăn vụng, túng làm liều”.
Như vậy thì với Đức Giê-su, lương thực có cần thiết cho Người không? Với chàng thanh niên Giê-su Na-da-ret thì cũng cần và nhờ lương thực mà “ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta.” (Lc 2, 52). Khi vào hoang địa ăn chay 40 đêm ngày, Người cũng đói và vì thế quỷ mới đem cơm bánh ra cám dỗ Người (Mt 4, 1-11). Tuy nhiên, ngoài cơm bánh nuôi thể xác, Người còn một thứ lương thực khác nữa, đó là “thi hành ý muốn và hoàn tất công trình của Chúa Cha” (“Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng: “Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa.” Người nói với các ông: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết.” Các môn đệ mới hỏi nhau: “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?” Đức Giê-su nói với các ông: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.” (Ga 4, 31-34). Lương thực đó chính là lương thực tinh thần – lương thực trường tồn – là Lời Hằng Sống vậy.
Rõ ràng là con người thì chuyện cơm bánh lương thực (cả vật chất lẫn tinh thần) là chuyện thiết yếu. Vấn đề đặt ra là phải luôn tâm niệm: Lương thực vật chất (cơm bánh) chỉ là thứ dưỡng nuôi thể xác, con người cần nó nhưng phải làm chủ nó, đừng để nó làm chủ mình để rồi thì “Đói ăn vụng, túng làm liều”, “Bần cùng sinh đạo tặc”. Còn lương thực tinh thần thì đừng quên “Lời nhắn nhủ trở nên nghèo khó, sống thanh bần theo tinh thần Tin Mừng” (Sứ điệp Mùa Chay 2014). Ấy cũng bởi vì “Quả thật, anh em biết Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có.” (2Cr 8, 9).
Nói cơm bánh lương thực là chuyện thiết yếu đối với con người nhưng lại khuyên người Ki-tô hữu hãy “trở nên nghèo khó, sống thanh bần” thì có gì là mâu thuẫn? Thực ra vấn đề là phải hiểu vì sao Đức Giê-su trở nên nghèo khó? “Cái nghèo của Chúa Ki-tô làm cho chúng ta được giàu sang chính là sự kiện Ngài làm người, gánh lấy những yếu đuối của chúng ta, tội lỗi của chúng ta, thông truyền cho chúng ta lượng từ bi vô biên của Thiên Chúa. Cái nghèo của Chúa Ki-tô là sự giàu sang lớn nhất: Chúa Giê-su giàu lòng tín thác vô biên nơi Thiên Chúa Cha, tín thác nơi Cha trong mọi lúc, luôn luôn và chỉ tìm kiếm thánh ý và vinh danh Thiên Chúa” (Sứ điệp Mùa Chay 2014). Sống nghèo khó như Đức Giê-su tức là sống vị tha, bác ái, bởi vì “Cho thì có phúc hơn là nhận”(Cv 20,35).
Thực ra, cứ đọc tiếp Thư 2 gửi tín hữu Cô-rin-tô của Thánh Phao-lô (đoạn kế tiếp đoạn được trích trong Sứ điệp Mùa Chay nêu trên) thì vấn đề sẽ sáng tỏ ngay: “Vấn đề không phải là bắt anh em sống eo hẹp để cho người khác bớt nghèo khổ. Điều cần thiết là phải có sự đồng đều. Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu, để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em, lúc anh em lâm cảnh túng thiếu. Như thế, sẽ có sự đồng đều, hợp với lời đã chép: Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không thiếu.” (2Cr 8, 13-15). Thánh Gio-an Tẩy Giả cũng từng khuyên: “Ai có hai áo hãy chia cho người không có, ai có của ăn thì cũng hãy làm như vậy” (Lc 3,11). Có 2 áo thì chia bớt 1 áo cho người không có, chớ không nhất thiết là cho luôn cả 2, để rồi thì mình cởi trần. Tinh thần nghèo khó là như vậy.
Người Ki-tô hữu ngày hôm nay hãy sống Đức Tin bằng “hành động qua đức ái” (Gl 5, 6) để trở thành một chuẩn mực mới giúp thông hiểu và hành động, làm thay đổi toàn thể cuộc sống con người, “Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (Gl 5, 14). Sống không chỉ là sống cho riêng mình mà còn phải sống cho tha nhân. Không thể tách rời giữa “cái tôi” và “chúng ta”. Nói cách cụ thể là đừng quên sự hiện diện của anh chị em, nhất là những người đói khát và bệnh tật, không quên những nhu cầu thiết thực của họ. Hãy mở lòng ra bằng trái tim của vị Mục Tử Nhân Lành, chạnh lòng thương đối với mọi người. Đoạn Tin Mừng hôm nay không chỉ là những gì đã xảy ra hai ngàn năm trước tại Ga-li-lê; nhưng nó cần phải được lập lại ở đây và lúc này trong gia đình, trong Giáo Hội và rộng ra toàn xã hội.
Tóm lại, lời khuyên mãi mãi vẫn là “Đói cho sạch, rách cho thơm”. Nếu dư dả thì hãy nghĩ tới anh em, đừng sống như ông nhà giàu mà hãy sống như anh nghèo khó La-da-rô trong dụ ngôn “Ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó” (Lc 16, 19-31). Ôi! Lạy Chúa! Nếu con được Chúa ban cho của cải nơi trần thế, thì xin Chúa cũng ban dũng khí và can đảm cho con sống theo gương Tổ phụ Ap-ra-ham, sống tinh thần nghèo khó là biết đem những của cải dư thừa phù du ấy gửi vào ngân hàng Nước Trời, đầu tư vào những công trình thiện ích mà Chúa đã làm và đã dạy con thực hiện. Còn nếu Chúa thử thách con trong hoàn cảnh nghèo khó, thì xin Chúa cũng ban Thần Khí cho con để con có đủ nghị lực và kiên tâm sống như anh La-da-rô trong dụ ngôn nêu trên (Lc 16, 19-31). Amen.
[Mục Lục]

Bài 11. KHÔNG CHỈ LÀ LƯƠNG THỰC THÂN XÁC
Phêrô Trần Đình Phan Tiến

Kinh thưa quý vị, thưa các bạn, Lời Chúa Chúa Nhật 18 (TN ) 2014 hôm nay trình bày cho chúng ta về chủ đề “THẦN LƯƠNG”. Có nghĩa là Lương Thực Thần Linh, tức Sự Sống của Thiên Chúa.
Chúng ta thấy, sự sống thân xác của chúng ta cần gì? Há chẳng phải là : LƯƠNG THỰC hay sao ? Vâng, lương thực là thứ cần thiết cho đời sống tự nhiên, đời sống hữu hình của loài hữu thể nói chung, đời sống hữu thể cao cấp là con người. Nhưng con người không những chỉ có đời sống tự nhiên, mà còn có đời sống siêu nhiên nữa. Đó là linh hồn.
Vậy thân xác cần của ăn, còn linh hồn thì cần gì? Thưa, linh hồn cần “THẦN LƯƠNG”. Vậy, “THẦN LƯƠNG” của linh hồn là gì? Thưa, chính là : “ĐỨC GIÊSU-KITÔ”.
Vậy, chủ đề Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một Mặc Khải qua ý nghĩa tiên trưng về Thần Lương, đó chính là Bí Tích Thánh Thể : Chúa Giêsu-Kitô, Thần Lương đích thực của chúng ta.
Theo Tin Mừng thánh Mat-thuê, Đoạn Lời Chúa hôm nay nằm ở phần V – thuộc phần 1, phần ký thuật. Sau khi, Chúa Giêsu dùng bảy Dụ Ngôn để nói về Nước Trời. Đây là phần thứ nhất nói về GIÁO HỘI – BƯỚC ĐẦU CỦA NƯỚC TRỜI. Như vậy, bảy dụ ngôn mà Chúa Giêsu chỉ về Nước Trời là có ý nói về Giáo Hội, vì Giáo Hội chính là nơi khởi sự và đồng hành về Nước Trời.
Nội dung Đoạn Tin Mừng (Mt 14, 13 -21) hôm nay nói về : Đức Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất.Trong bối cảnh, Người trở về Nazaret, giảng dạy tại quê hương, nghe tin Gioan Tẩy Gỉa bị chém đầu. Vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế, đồng thời thánh Gioan Tẩy Gỉa chính là vị tử đạo đầu tiên của Tin Mừng và là vị tử đạo tiên khởi của Tân Ứơc.
Theo đó, sự trường sinh không phải là thân xác, mà chính là sự sống vĩnh cửu của linh hồn khi thân xác được kết hiệp ngày sau hết. Nên chi, dù nhu cầu thân xác là cơm bánh, nhưng không thể duy trì sự sống trường sinh cho thân xác. Nên chi, dù Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi hơn năn ngàn người ăn, chỉ bởi năm chiếc bánh và hai con cá, và còn dư mười hai thúng đầy. Thì điều nầy cũng chưa phải là ơn cứu độ, mà là dấu hiệu của THẦN LƯƠNG qua Bí Tích Thánh Thể sau nầy. Vì qua cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô, thì ơn cứu độ mới được hoàn tất, lúc đó giá trị ơn cứu độ mới hiển nhiên. Vì thế cho nên, sự sống nơi thân xác của con người chỉ là tam thời, nghĩa là có thời hạn, vì vậy, đời sống siêu nhiên của linh hồn cần đến chính THẦN LƯƠNG là ĐỨC KITÔ-GIÊSU.
Đoạn Tin Mừng hôm nay cũng còn cho thấy ý nghĩa Tông Đồ Thừa sai : “…chính anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14, 16). Như vậy, người môn đệ Chúa một mặt lo cho phần siêu nhiên, phần tâm linh, thì họ còn có một bổn phận không kém phần quan trọng là “lo cho phần thân xác” của nhân loại có cái ăn. Từ đó, giáo hội cho đến hốm nay vẫn thực thi lời Chúa trong việc “thương thân xác bảy mối”, dây là điều đầu tiên của việc thương thân xác bày mối : đó là : “Cho kẻ đói ăn”, bên cạnh việc “thương linh hồn bảy mối”.
Như vậy, đoạn Tin Mừng (Mt 14, 13 -21) hôm nay có ba ý chính:
1/ Chúa Giêsu chạnh lòng thương xót con người (c 14) (kể cả nhu cầu thân xác)
2/ Chúa Giêsu truyền việc tông đồ thừa sai đối với nhu cầu lương thực thân xác (c 16)
3/ Chúa muốn cho con người cộng tác trong việc thiết lập bí Tích Thánh Thể (c 17)
4/ Ý nghĩa tiên trưng của Bí Tích Thánh Thể (c 19)
Nhưng trên hết, ý nghĩa tâm linh là lương thực siêu nhiên, Bí Tích Thánh Thể được xuất phát từ lòng xót thương của Thiên Chúa, đến độ Chúa sẵn sàng trao ban chính Thánh Thể của Người cho nhân loại.
Khởi đi từ bài đọc I hôm nay, chúng ta thấy, Isaia loan báo ; “Hết thảy các ngươi khát nước hãy đến suối nước mà uống ! Ai không tiền bạc hãy đến mua lấy thức ăn mà ăn ! … Hãy lắng tai đến cùng Ta, hãy nghe Lời Ta cho hồn mình vui sống…” (Is 55, 1- 3).
Như vậy, thức ăn ở đây không hoàn toàn theo nghĩa đen, mà là sự khát khao, khát vọng chân lý, sự đói khát tâm linh, chỉ có Chúa mới làm cho no thỏa, chỉ có tình yêu và lòng thương xót của Người mới lấp đầy. Tình yêu và ơn cứu độ của Chúa mới chính là “THẦN LƯƠNG “vĩnh tồn cho chúng ta. Đến đây, chúng ta không quên Lời mời gọi của Chúa Giêsu : “Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với Ta. Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các ngươi… Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền hậu và khiêm nhường. Tân hồn các ngươi sẽ được nghĩ ngơi bồi dưỡng. Vì ách của Ta thì êm ái, gánh Ta thì nhẹ nhàng” (Mt 12, 28 -30).
Như vậy, có Chúa Giêsu là có tất cả, vì Người chính là viên ngọc quý, mà Thiên Chúa đã chôn giấu trong kho báu là thế gian nầy. Aí khám phá và tìm ra “Viên Ngọc Qúy“ ấy, và sẵn sàng đánh đổi tất cả, thì người đó có được “Nước Trời”.
Nên chi, thánh Phao-lô, trong bài đọc II hôm nay (Rm 8, 35 ; 37 – 39) đã khuyên chúng ta một cách minh định rằng: “Không gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô, cho dù là thần thánh, hay ma vương, quỷ lực nào, đói khát hay tù khám. Sự chết hay sự sống, thiên đàng hay hỏa ngục, hiện tại hya tương lai , gian truân hay khốn khổ”.
Vì, “Chúa là Đấng hay thương xót khoan nhân. Chậm cơn nghĩa nộ, mau tràn ơn thiêng” (Thánh vịnh 144, câu 8).Căn cứ vào lời thánh vịnh hôm nay, chúng ta cùng cầu xin Chúa, Đấng giàu lòng xót thương, ban cho hồn chúng ta luôn no thỏa Người, đó là lương thực muôn đời vĩnh tồn.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng và giàu lòng thương xót. Cha đã ban Thánh Tử Giêsu-Kitô, là Con Một Cha cho thế gian. Vì Người chính là THẦN LƯƠNG Hằng Sống từ Cha, để ban cho những ai khao khát chân lý được no thỏa, khi họ biết kín múc từ Đức Giêsu – Kitô là nguồn chân lý nơi Cha. Amen.
[Mục Lục]

Bài 12. Phép lạ của sự lắng nghe
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Mỗi lần được nghe bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thường liên tưởng đến phép lạ Chúa hoá bánh ra nhiều hay là hình ảnh tiên báo về bí tích Thánh Thể. Đây là cái nhìn thông thường. Thế nhưng, theo tường thuật của thánh Mat-thêu, phép lạ đã diễn ra ngay từ lúc đám đông tìm kiếm Chúa. Họ vượt qua mọi trở ngại của ngăn sông cách núi. Họ rỉ tai nhau. Họ lũ lượt mời gọi nhau lên đường tìm kiếm Chúa. Họ đến với Chúa không phải vì miếng ăn. Họ không xin Chúa bánh ăn. Họ tìm Chúa để được nghe lời Người rao giảng. Họ muốn tìm ra chân lý của cuộc đời. Họ muốn hiểu về giá trị và mục đích của cuộc sống. Thực sự họ đã say mê khi nghe Chúa giảng về Nước Trời. Họ đã bị lôi cuốn bởi lời rao giảng của Chúa đến mức độ quên cả thời gian. Trời đã tối mà xem ra đám dân chúng này vẫn chưa muốn rời xa Chúa. Họ vẫn muốn được nghe lời hằng sống phát ra từ môi miệng Chúa.
Thánh Matthêu còn kể tỉ mỉ là số lượng khoảng trên 5.000 người đàn ông, không kể phụ nữ và trẻ em. (Nếu tính tổng cộng phải trên 10.000 người). Đây cũng là một sự kiện lạ. Một sự kiện mà cho tới hôm nay dù rằng có âm thanh hỗ trợ, có phương tiện tối tân vẫn khó khăn truyền tải sứ điệp đến với thỉnh giả tại bãi biển đầy sóng gió ồn ào. Nơi mà người ta nói “ăn sóng nói gió”, phải nói thật to, phải gào thật lớn mới nghe được nhau. Thế mà, lời rao giảng của Chúa Giê-su lại đến với tai mọi người. Mặc dù không micro, không loa phóng thanh. Ngài nói trong gió trời lồng lộng, trong sóng vỗ miên man mà ai cũng nghe được. Ai cũng hiểu. Ai cũng say sưa nghe giảng. Quả thực, đây là một phép lạ! Phép lạ của sự tôn trọng và lắng nghe. Họ tôn trọng Chúa là người đang nói và cũng tôn trọng tha nhân là người đang lắng nghe. Thông thường ai cũng muốn nói, nhưng ở đây hầu như ai cũng muốn lắng nghe. Chính nhờ thế mà đám đông đã tạo thành một không gian thanh bình, một nơi chốn của thinh lặng cho con tim rung cảm chan hoà yêu thương và tôn trọng lẫn nhau.
Và hôm nay phép lạ đó vẫn có thể tái diễn trong cuộc sống khi chúng ta biết lắng nghe, tôn trọng lẫn nhau. Khi mỗi người biết nhường nhịn nhau và tha thứ cho nhau. Thế giới hôm nay rất cần phép lạ này để thế giới được thanh bình hơn. Để con người biết đối thoại với nhau trong chân thành, cởi mở và yêu thương. Một thế giới mà con người biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhau, đó cũng là một thế giới hòa bình, một thế giới của bình an mà người người biết trao cho nhau niềm vui và hoan lạc hạnh phúc. Một thế giới mà còn đầy những hiềm khích, nói xấu, bỏ vạ cáo gian thì làm sao có những giây phút bình yên. Kẻ gieo gió đã gây tai họa tổn thất cho người khác và chính họ cũng sẽ không có được tâm hồn thanh thỏa bình an.
Một gia đình hạnh phúc là một gia đình biết lắng nghe nhau. Vợ chồng lắng nghe nhau trong chân thành cởi mở. Con cái vâng lời cha mẹ. Kính yêu ông bà và cùng nhau kiến tạo một gia đình hạnh phúc yêu thương. Một thôn ấp văn hóa là một thôn ấp người người biết nhường nhịn nhau. Tối lửa tắt đèn có nhau trong sự chia cơm sẻ áo. Không thể có một ấp văn hóa nếu hàng xóm láng giềng vẫn lời qua tiếng lại. Chê bôi, dè bửu nhau. Chỉ gây thêm hận thù. Đánh mất truyền thống tổ tiên. “Thương người như thể thương thân. Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Một xứ đạo hiệp nhất là một xứ đạo cảm thông tha thứ và sống chan hòa tình huynh đệ. Một xứ đạo đúng nghĩa phải mô phỏng lại lối sống của cộng đoàn Giáo hội thời sơ khai mà sách tông đồ công vụ đã ghi lại. “Ngày ngày họ chuyên chăm cầu nguyện, lắng nghe lời các tông đồ giảng dạy và gom góp của cải thành của chung”. Một con người biết đóng góp và xây dựng giáo xứ trước tiên phải hỏi chính mình: “Tôi đã làm gì cho giáo xứ”, hay tôi chỉ là một lữ khách, sống bàng quan với công việc của giáo xứ.
Nét đẹp của Bài Phúc âm hôm nay không chỉ dừng lại ở việc con người biết lắng nghe và tôn trọng nhau mà còn quan yếu ở chỗ sự chia sẻ lương thực được trao tặng cho nhau. Cho dù chỉ với phần lương thực quá ít ỏi của một đứa bé. Thế nhưng, với 5 chiếc bánh và hai con cá được trao ban từ lòng quảng đại đã được Chúa nhân lên đến nỗi nuôi đủ 5 ngàn người ăn, không kể đàn bà và trẻ con.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn quảng đại cho đi chính bản thân của mình, để trở nên nguồn sống cho tha nhân. Xin giúp cho mỗi người chúng ta luôn biết cho đi chính sự sống mình để gieo mần sống đức tin cho các thế hệ mai sau. Xin cho chúng ta luôn đơn sơ nhỏ bé ngõ hầu dễ dàng lắng nghe và tôn trọng lẫn nhau để xây dựng một thế giới văn mình tràn đầy tình thươngAmen.
[Mục Lục]

Bài 13. Tấm bánh liên đới
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Bài Tin Mừng hôm nay chứa đựng rất nhiều bài học. Như về Nước Trời, về Dân Thiên Chúa, về bí tích Thánh Thể. Nhưng có lẽ bài học thiết thực nhất cho chúng ta hôm nay làbài học liên đới. Đó cũng chính là bài học Chúa muốn dạy cho các môn đệ của Người.
Liên đới là biết cảm thương. Nhìn thấy đám đông, Chúa Giêsu chạnh lòng thương. Đó là một đám đông nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, bơ vơ không người chăn dắt. Đám đông tội nghiệp đi tìm Chúa không phải chỉ để được ăn no, nhưng còn để được chữa lành bệnh, nhất là được an ủi, được dạy dỗ, được chỉ bảo. Khi chạnh lòng thương, Chúa Giêsu dạy ta hãy nhìn những người chung quanh bằng ánh mắt liên đới. Những người này đói vì tôi đã ăn quá nhiều. Những người kia rách vì tôi đã mê mải đuổi theo “mốt”. Những đứa trẻ này hư hỏng vì tôi đã thiếu quan tâm chỉ bảo. Những đứa trẻ kia rơi vào tội phạm vì tôi đã không làm gương tốt cho chúng. Thế giới này chưa tốt một phần có trách nhiệm của tôi. Thế giới này chưa công bằng trong đó phần lỗi của tôi.
Liên đới là nhận lấy trách nhiệm. Các môn đệ đã nhìn thấy đám đông đói khát. Các ngài muốn thoái thác, phủi tay: “nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn”. Đó là một giải pháp hợp lý. Lo cho năm ngàn người ăn là ngoài tầm tay của các môn đệ. Đó cũng là giải pháp nhẹ nhàng. Ai lo phần nấy. Thật dễ dàng. Nhưng đó là giải pháp không được Chúa chấp nhận, vì thiếu tình liên đới. Chúa muốn các môn đệ Chúa nhận lấy trách nhiệm: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy lo cho họ ăn”. Họ đói, các con phải lo cho họ ăn. Một trách nhiệm nặng nề vượt quá sức các môn đệ. Nhưng đã cảm thương thì phải có trách nhiệm. Trái tim cảm thương thật sự phải hướng dẫn bàn tay làm việc.
Liên đới là đóng góp phần của mình. Chúa không cần những phép tính vĩ mô. Năm ngàn người thì cần bao nhiêu bánh? Những tính toán lớn lao là không thực tế và làm ta lo sợ. Chúa dạy các môn đệ khởi đi từ thực tế: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá”. Thật là ít ỏi, nghèo nàn. Nhưng Chúa không chê cái ít ỏi nghèo nàn đó: “Đem lại đây cho Thầy”. Có ít hãy đóng góp ít. Nhưng quan trọng là phải bắt đầu, là phải góp phần của mình. Liên đới không đòi ta phải quán xuyến mọi sự, nhưng đòi ta thật sự có trách nhiệm, góp phần của mình vào việc chung.
Liên đới là chia sẻ. Chúa chúc tụng để làm phép bánh và cá như cho ta thấy, những đóng góp dù ít ỏi của ta đã thành thiêng liêng cao quí. Chúa không làm phép lạ tức khắc biến ngay cá và bánh ra một núi lương thực cho người tự do đến lấy. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực cho mọi người. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ. Các môn đệ trao cho mọi người. Và mọi người trao lại cho nhau. Đó là bài học lớn của phép lạ. Chính khi mọi người trao cho nhau, Chúa làm phép lạ. Bánh và cá cứ tiếp tục sinh sôi bao lâu những bàn tay còn trao nhau. Bánh và cá vẫn tiếp tục nhân lên bao lâu mắt con người vẫn còn nhìn nhau. Những tấm bánh của tình liên đới. Những đàn cá của sự chia sẻ. Chúng nhân lên theo nhịp của trái tim. Khi trái tim chan chứa yêu thương, quan tâm, liên đới, lương thực trở nên phong phú, dư thừa.
Thế mà các môn đệ đã vội lo. Cũng như ta thường lo thế giới này quá chật hẹp không đủ chỗ cho mọi người. Cũng như ta vẫn thường lo lương thực trên thế giới không đủ nuôi mọi người. Hôm nay Chúa dạy ta mỗi người hãy chia sẻ những gì mình có thì thế giới sẽ dư thừa lương thực. Khi trái tim mở ra thế giới sẽ có đủ chỗ cho mọi người.
Lạy Chúa xin mở trái tim con để con biết cảm thương và chia sẻ. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Tục ngữ Việt nam có câu: Nhiều no ít đủ. Bạn nghĩ gì về nét văn hoá Việt nam trong câu này. Có gần với bài Tin Mừng hôm nay không?
2) Càng cho đi càng phong phú. Bạn cảm nghiệm điều này bao giờ chưa?
3) Ta có trách nhiệm với những người chung quanh. Những người nghèo chất vấn cách tiêu dùng của ta. Bạn có nghĩ thế không
?
[Mục Lục]

Bài 14. Đói khát tâm linh… SOS!!!
Lm Anmai

Các bài đọc trong Thánh lễ 18 thường niên hôm nay phảng phất lên những phép lạ, những dấu lạ mà Thiên Chúa vẫn làm chỗ này chỗ kia trong cuộc sống hiện tại. Những dấu lạ ấy thật ý nghĩa với con người thời hiện tại.
Thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta là dân chúng vì đi theo Chúa Giêsu, vì nghe Chúa Giêsu giảng nhiều quá nên rồi họ đói và họ khát. Chúa thấy hiện trạng của họ để rồi Chúa chạnh lòng thương, Chúa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều. Không chỉ hoá bánh ra nhiều mà thôi mà Chúa còn chữa lành nhiều bệnh nhân của họ nữa.
Thời đại ngày hôm nay, gần nhất là con người Việt Nam đây thật sự mà nói thì cuộc sống vẫn còn đó, vẫn còn ngổn ngang những mảnh đời khó khăn thiếu thốn nhưng thật ra thì đời sống vẫn ổn hơn thời bao cấp nhiều. Ngày hôm nay thật sự mà nói thì đói khát cơm bánh thì ít mà đói khát tâm linh thì nhiều.
Ai đã trải qua thời đó thì đều có cảm nghiệm, đều trải nghiệm được những khó khăn vất vả của thời ấy. Thế nhưng có điều lạ là chính trong những lúc thiếu thốn cơm bánh thể xác, cơm bánh vật chất ấy thì Thiên Chúa được con người đón nhận, tin nhận nhiều. Ngày nay thì hoàn toàn ngược lại, đời sống vật chất, sự phát triển khoa học kỹ thuật nó tỷ lệ nghịch với niềm tin. Những ngày bao cấp, sống trong cái bấp bênh của cuộc sống, sống trong cái lo lắng thiếu ăn thiếu mặc nhưng mà tình thương, tình huynh đệ, lòng tin nó cứ rực lên như lửa, nồng nàn và ấm áp dường bao.
Và như vậy, cái trống vắng, cái thiếu vắng niềm tin, cái mất mát về tình huynh đệ, cái đói khát về tâm linh nó quan trọng hơn đói khát về vật chất nhiều. Đành biết rằng vật chất, của cải, bánh ăn, nước uống cần cho đời sống con người như thế nào nhưng nó vẫn chưa là điều căn cốt của con người. Con người còn cần hơn cái lương thực, cái bánh ăn hay hư nát đó chính là Lời Chúa như trong sách ngôn sứ Isaia mà chúng ta vừa được nghe:
“Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng? Hãy chăm chú nghe Ta, thì các ngươi được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị. Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống”. (Is 55,3).
Không chỉ trong đoạn sách Isaia này Chúa mới nói về chuyện lắng tai, nghe nhưng mà chúng ta thấy phảng phất đâu đó rất nhiều trong Thánh Kinh từ Cựu Ước đến Tân Ước Chúa vẫn nhắc với dân của Ngài về tầm quan trọng của Lời, tầm quan trọng của thức ăn thiêng liêng, thức ăn tâm linh. Phảng phất rất nhiều, rất nhiều trong áng văn Tân Ước Chúa gợi lên cho chúng ta về chuyện khát Lời, khát tâm linh.
Có lẽ chúng ta hoặc là vô tình hay cố ý nên không phân biệt được lương thực nào là cần hơn cho cuộc sống chúng ta. Chúa không phủ nhận nhu cầu của thân xác để rồi hôm nay Chúa làm dấu lạ để nuôi thân xác. Nhưng bên cạnh đó Chúa muốn gửi đến cho con người dấu lạ. Vấn đề ngày hôm nay là Chúa vẫn làm dấu lạ này dấu lạ khác cho con người thời đại nhưng chuyện quan trọng là con người có nhận ra dấu lạ của Chúa, có nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời này hay không mới là chuyện quan trọng.
Thời gian gần đây chúng ta thấy khá nhiều dấu lạ đấy chứ! Không phải là dấu lạ ban cho con người được nhiều bánh như trong tin mừng theo Thánh Matthêu nhưng dấu lạ cảnh báo cho con người biết rằng con người đang thiếu về tâm linh, đang thiếu về niềm tin.
Chuyện lạ ở La Vang, chuyện lạ ở Tapao, chuyện lạ ở nhà thờ Đức Bà, chuyện lạ ở giáo xứ Bạch Lâm (Gia Kiệm) không phải là chuyện lạ nói lên đời sống tâm linh của con người ngày nay xuống dốc đó sao? Tại sao Đức Mẹ khóc? Tại sao Đức Mẹ nhắn nhủ phải ăn năn lần hạt Mân Côi?
Tại vì con người ngày hôm nay đã quá tôn sùng của cải vật chất. Tại con người ngày hôm nay quá tôn sùng chủ nghĩa danh giá, chủ nghĩa bề ngoài, chủ nghĩa chức quyền, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa hưởng thụ.
Đáng tiếc là ngày hôm nay con người cứ mãi miết sống trong lời trách than của Đức Chúa: “Sao lại phí tiền bạc…”. Vâng! Đức Chúa đã phán đúng như vậy, nhiều lần nhiều lúc trong cuộc sống chúng ta đã quá phí sức vào để tìm cái ăn, cái mặc, cái vật chất nuôi thân mà chúng ta quên đi tình trạng thiêng liêng của mình.
Mới đây, một người chị họ đến với tôi nhờ tôi giúp cho con của chị vì con của chị đang bị “sơ cứng” về tâm linh. Chúng gần như bỏ đạo!
Nhìn lại gia đình chị, cuộc đời của chị hoá ra là gia đình chị may mắn hơn nhiều người là có của ăn của để và thậm chí dư ăn dư để nữa nhưng hiện tại đang phải đối đầu với sự đói khát tâm linh. Giàu có đó nhưng chắc gì là hạnh phúc? Nhà lầu xe hơi bạc tỷ đó nhưng lấy gì bình an? Hình như bên dưới sự dư dật về của cải vật chất thì gia đình chị vẫn đói, vẫn khát về tâm linh. Và chuyện đói khát tâm linh này chẳng ai có thể bù đắp cho chị, cho chồng, cho con ngoài Chúa. Linh mục, các soeurs, các giáo lý viên, các đoàn thể cũng chẳng có thể giúp gì được cho chị nếu như chị không “lắng tai và đến với Ta, hãy nghe Ta thì các ngươi sẽ được sống”. Thế thôi! Đứng trước sự lựa chọn là lắng nghe Chúa hay bôn ba vất vả đi tìm cái đời tạm này đó chính là lựa chọn không phải của riêng chị mà của mọi kitô hữu.
Lý do tại sao? Lý do chắc ai cũng biết rồi: đó chính là không kết hợp mật thiết với Chúa. Như Thánh Phaolô tông đồ, chúng ta ai cũng biết, gần như cả đời Ngài đã không biết Chúa, Ngài đã bắt Chúa nhưng khi cảm nghiệm được tình yêu thương của Chúa dành cho mình Ngài đã hoán cải cuộc đời. Chính tình yêu sâu đậm giữa Ngài và Chúa thắm thiết để rồi Ngài gửi tấm chân tình của mình cho cộng đoàn Rôma mà chúng ta cũng vừa nghe: “Thưa anh em, ai có thê tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô, phải chăng là gian truân, khốn khó, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8, 35)
Thế đấy! Ngài nói rằng dù khốn khó, dù có đói đi chăng nữa cũng không thể tách được ra tình yêu của Chúa trong khi đó nhân loại, con người ngày nay lại được dư đầy vật chất của cải nhưng lại đói, lại khát tâm linh!
Ngài còn khẳng định với chúng ta: “Nhưng trong mọi thử thách, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta”. (Rm 8,37).
Nhìn lại cuộc đời mỗi người chúng ta, Chúa yêu chúng ta lắm rồi, quá yêu, yêu cho đến chết nhưng chúng ta có tin vào tình yêu của Chúa hay không mà thôi.
Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta nhận ra cơn đói cơn khát tâm linh của mỗi người chúng ta để chúng ta chạy đến Chúa kín múc nguồn mạch tâm linh từ nơi Chúa để chúng ta được mạnh sức, được bình an trên con đường lữ thứ về nhà Cha trên trời.
Nguyện xin Chúa là nguồn mạch sự sống, nguồn mạch tân linh đến và ở lại với mỗi người chúng ta để dẫu rằng trong cuộc sống chúng ta còn thiếu điều này khát điều kia nhưng chúng ta không khát về tâm linh, không khát về Chúa.
[Mục Lục]

Bài 15. Các con hãy cho họ ăn
Lm Đam. Trần Văn Điều

Trung Hoa và Ấn Độ là 2 quốc gia có tỷ lệ dân số cao nhất thế giới hiện nay. Trung Hoa nhờ áp dụng chính sách kinh tế hợp lý, đang triển vọng vươn lên thành một nước giàu có; trong khi đó, Ấn Độ do tài nguyên thiên nhiên không dồi dào, đường lối kinh tế chưa ổn định, xã hội quá phân biệt nhiều giai cấp khác nhau, nên quốc gia còn đang phát triển, đời sống dân chúng vẫn vất vả lầm than.
Cách đây vài thập niên, Calcutta khi ấy là một thành phố đông dân: ban ngày, người nghèo ngồi la liệt khắp phố, mong chờ lòng rộng rãi giúp đỡ của khách thập phương; ban đêm, họ không nơi cư trú phải nghỉ đêm trên các vỉa hè, hẻm cụt của thành phố. Một nữ tu trung niên người Albanie vốn đang phục vụ truyền giáo tại Ấn Độ, đã động lòng xót thương họ. Đêm ngày đối diện những cảnh nghèo hèn đau khổ của cư dân thành phố Calcutta, Chị đã tự hỏi: “Ta phải làm gì cho đám đông những người đáng thương này?”. Trở lại nhà dòng, Chị gom hết số tiền mình có, mua một căn nhà rẻ mạt và sửa chửa nó thành nơi cư trú qua đêm cho những kẻ không nhà. Bằng khả năng nhỏ bé nhưng với tấm lòng quảng đại to lớn, Chị muốn ra tay làm một cái gì đó giúp người khốn cùng không còn phải bơ vơ hiu quạnh nữa.
Không những lo cho họ có chỗ định cư, lại còn phải tìm nguồn cung cấp lương thực giúp họ sống qua ngày. Làm thế nào Chị nữ tu ấy- mà sau này người ta quen gọi là Mẹ Têrêsa- có thể nuôi đủ 9000 miệng ăn mỗi ngày? Chúa đã không chịu thua lòng bác ái của Mẹ. Nhiều bàn tay yêu thương sẵn sàng liên đới công việc từ thiện của Mẹ: một đôi bạn trẻ sắp lập gia đình, hy sinh không tổ chức tiệc cưới dành toàn bộ chi phí giúp người nghèo; Ủy Ban Nobel trao tặng Mẹ giải thưởng Nobel Hoà Bình năm 1979; nhiều phụ nữ thiện chí dâng hiến cuộc đời trong hội dòng Thừa Sai Bác Ái nối dài việc cứu tế.
Biết nhận ra những người nghèo đói quanh mình, sẵn sàng giúp đỡ tình trạng đau khổ của họ là phương thế đáp ứng lời mời gọi của Chúa: “Các con hãy cho họ ăn” (Mt 14,16).
A. Tình trạng đói khát trong cuộc sống
1. Sách Các Vua quyển thứ II thuật lại: tiên tri Êlisa, môn đệ thân tín của Êlia, đến vùng Baal- Salisa rao giảng. Dân chúng hàng trăm người khát Lời Chúa tuôn đến nghe Êlisa nói đến nỗi không mang lương thực đi đường (2V. 4,42-44). Với 20 bánh mạch nha và lúa mì đầu mùa của một người dâng cúng, Êlisa đã xin Chúa giúp dân no nê cơm bánh đường dài.
2. Tin Mừng hôm nay (Mt 14,13-21) cũng cho thấy: đám đông dân chúng từ các thành thị đến nghe Chúa giảng. Nơi hoang địa xa nhà, họ không đủ thuận lợi để mua thức ăn dọc đường. Với 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé mang theo (Ga. 6,9), Chúa đã làm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều nuôi trên năm ngàn người ăn dư dả.
3. Cha Mark Linh, SJ. cho biết: Báo Chicago Sun Times có thực hiện một nghiên cứu thì biết rằng thế giới hiện nay trên 6 tỉ người, trong đó hàng đêm khoảng 450 triệu người đi ngủ (13%) mà bụng vẫn đói cồn cào. Họ không đủ điều kiện để có cơm bánh qua ngày, suy dinh dưỡng trầm trọng.
4. Phi Châu xưa nay vốn là một lục địa có nhiều quốc gia nghèo đói trong vùng. Thập niên 1990, nước Rwanda xảy ra tình trạng tranh chấp giữa 2 sắc tộc: Tutsi và Hutu. Đất đai kém cỏi, hạn hán thường xuyên, lại thêm cuộc nội chiến phe phái, đời sống dân Rwanda mỗi ngày một cùng cực hơn. Liên Hiệp Quốc phải kêu gọi Quốc Tế cứu đói Rwanda.
B. Giúp đỡ kẻ khốn cùng: hãy cho họ ăn
1. Thiên Chúa luôn yêu thương con người. Ngài không ngừng thi ân cứu giúp khi con người lâm cơn đói khát.
* Nơi sa mạc nắng cháy da người, dân Do Thái lo sợ đói ăn, khát uống. Thiên Chúa đã nuôi dân bằng manna và chim cút, Ngài lại còn cho Maisen cầm gậy gõ vào đá khiến nước vọt ra tràn trề dân uống thoả thuê (Xh. 16-17,1-6).
* Tiên tri Êlia bị hoàng hậu I-de-ven truy nã vì đã ra lệnh sát hại các sư sãi thần Ba-al. Trên đường tránh nạn, Êlia khiếp sợ và lo lắng cho mạng sống mình. Suốt bốn mươi ngày đi đến núi Khô-rếp, Chúa đã nuôi Êlia bằng bánh và nước, giúp ông an tâm ẩn mình, tiếp tục phục vụ Thiên Chúa (1V. 19,1-8).
* Sách tiên tri Isaia còn cho thấy: Thiên Chúa dọn sẵn cho dân Người một bữa tiệc miễn phí đầy cao lương mỹ vị, người nghèo khổ đói khát không có gì để trả cũng được mời tham dự (Is 55,1-3). Bữa tiệc ấy chính là hình ảnh Nước Trời, nơi con người được no nê sung mãn mọi sự.
2. Chúa Giêsu cũng thúc giục các Tông Đồ: “Các con hãy cho họ ăn” (Mt 14,16). Ngài mời gọi con người hãy quan tâm đến nhu cầu thiếu thốn của tha nhân.
Thánh Martin de Porrès: “đứa con bị từ chối” bởi người cha là một hiệp sĩ Tây Ban Nha. Tuy gia đình nghèo khổ, mẹ Ngài vẫn kiên tâm giáo dục 2 chị em Martin nên người tốt lành, hữu ích cho xã hội. Một ngày nọ đi chợ, Martin gặp người nghèo túng bên đường, Martin đã bớt xén tiền chợ, bố thí giúp kẻ khốn cùng. Cậu biết mình cơ cực nhưng nghĩ đến còn nhiều người khác neo đơn hơn: Martin đã rộng tay san sẻ cái mình có.
Cơn bão Katrina 2005 làm nhiều cư dân VN vùng New Orleans và Bilosi gặp khó khăn. Ngày ngày, họ nhận hàng viện trợ Red Cross cung ứng, tháng tháng lãnh phiếu Food Stamps chi tiêu cho qua ngày đoạn tháng. Bất ngờ vài tháng sau đó, quê nhà Việt Nam bị cơn bão số 9 tàn phá miền Trung dấu yêu: đồng hương đất Mẹ không nhà cửa trú thân, mỗi bữa ăn chỉ được giúp tiêu chuẩn một gói mì tôm, cơn đói hành hạ thê thảm. Kiều bào VN hải ngoại đã không ngại đóng góp tiền của, nhanh tay cứu giúp anh chị em quê nhà còn khốn khổ hơn nỗi xót xa Katrina của mình.
Mahatma Gandhi đã nói: “Theo quan niệm cá nhân tôi, tất cả chúng ta xét ý nghĩa nào đó đều là tên ăn cắp. Vì: ta có quá nhiều cái dư thừa không cần thiết, trong khi người anh em quanh ta còn thiếu thốn đang cần đến nó. Chúng ta có vật nào đó không cần, thì vật ấy chính là của ăn cắp mà chúng ta lấy từ những người nghèo cần đến nó”.
C. Thiên Chúa cần những bàn tay cộng tác của con người
Tiên tri Êlisa không thể giúp dân chúng vùng Baal-Salisa thoát khỏi cơn đói lả, nếu không có người dâng cúng cho tiên tri 20 bánh mạch nha và lúa mì đầu mùa. Chúa Giêsu muốn giúp cho dân chúng đi nghe Ngài giảng được ăn no nê, Chúa mời gọi em bé dâng cúng 5 chiếc bánh và 2 con cá. Ngài đã thực hiện phép lạ hoá bánh ra nhiều vì yêu thương con người. Ngài sẵn sàng chúc phúc cho con người, khi con người biết cộng tác, đóng góp khả năng mình vào chương trình của Thiên Chúa. “Thánh ý Ngài là gia nghiệp con mãi mãi…Con hướng lòng quyết thực thi thánh chỉ, mãi mãi cho đến cùng” (Tv.118:111-112).
Trong một lớp Kinh Thánh, khi học hỏi tìm hiểu về phép lạ hoá bánh ra nhiều, một học viên tân tòng đã hỏi Cha xứ rằng: “Thưa Cha! Ngày xưa Chúa đã làm phép lạ nuôi 5000 người ăn, tại sao thời nay Chúa không tiếp tục làm phép lạ thêm, để chúng ta khỏi phải đi làm đầu tắt mặt tối như thế này?”. Cha xứ đã khéo léo trả lời: “Chúa là Đấng quyền năng, Ngài vẫn thường xuyên làm phép lạ cho con người. Ngài vẫn nuôi dân Chúa mỗi ngày bằng lương thực Lời Chúa và Mình Thánh Chúa. Nhưng Chúa vẫn muốn chúng ta cộng tác với Ngài vì nếu Chúa cứ làm phép lạ hoài, con người sẽ lười biếng, cậy dựa vào Chúa hoàn toàn, không trưởng thành được”.
Có một lần đi sang Hoa Kỳ, nghiên cứu cơ sở để lập các chi nhánh dòng Thừa Sai Bác Ái tại quốc gia này, Mẹ Têrêsa Calcutta đã tâm sự: “Nhiều trẻ em sinh sống tại Mỹ không nghèo vật chất nhưng thật tội nghiệp, chúng lại nghèo tình thương”. Đời sống sung túc đưa con người đến tình trạng hưởng thụ quá đáng, quên cả sự hy sinh tiết kiệm để chia sẻ cho người nghèo,cộng tác với Thiên Chúa giúp thế giới này bớt đau khổ hơn.
D. Lời nguyện kết thúc:
Lạy Chúa là Thiên Chúa của tình thương,
Chúa yêu thương chúng con quá đỗi, khi tự hiến thân mình
làm Bánh Thánh Thể, bẻ ra nuôi muôn người chúng con
được no nê và được sống dồi dào.
Xin giúp chúng con luôn liên kết cộng tác với Chúa
biết dâng mọi sức lao công vui buồn cùng giọt mồ hôi nước mắt
làm của lễ dâng tiến Chúa mỗi ngày. Amen.
[Mục Lục]

Bài 16. Bài học tiết kiệm
Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Phép lạ “Hóa bánh ra nhiều” có nội dung phong phú về Thần học và Giáo lý Bí Tích Thánh Thể, đồng thời cũng chứa đựng rất nhiều bài học về Nước Trời, về Dân Thiên Chúa, tình liên đới, sự cộng tác… Hôm nay xin được chia sẻ về bài học tiết kiệm.
1. Chúa dạy bài học tiết kiệm
Phép lạ hoá bánh ra nhiều được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn Phúc âm (Mt 14,13-21; Mc 6,31-34; Lc 9,10-17; Ga 6,1-13). Matthêu và Maccô còn kể thêm lần thứ hai Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. (Mt 15,32-38; Mc 8,1-10).
Lần thứ nhất, Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều; cả ba thánh sử Mátthêu, Máccô, và Luca đều ghi nhận: sau khi dân chúng được ăn bánh no nê, người ta đã không bỏ phí những mẫu bánh còn dư thừa nhưng “đã thu lại tất cả được mười hai thúng đầy” (Mt 14, 20; Mc 6,43; Lc 9, 17). Riêng thánh Gioan nhấn mạnh, chính Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các môn đệ: “Anh em (hãy đi) thu lại những miếng thừa kẻo phí đi” (Ga 6,1-12). “Họ liền đi thu những miếng thừa…và được mười hai thúng đầy”.
Lần thứ hai, Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, người ta cũng thu lượm lại tất cả những mẫu bánh thừa, tất cả “được bảy thúng đầy” (Mt 15,37; Mc 8,8).
Năm ngàn người đàn ông không kể đàn bà con nít. Số người phải là đông lắm. Hơn cả chục ngàn người. Có ngàn ngàn chiếc bánh được phát ra. Bánh nhiều như vậy, tại sao Chúa Giêsu lại tiếc những miếng bánh vụn còn dư? Tại sao Chúa lại bảo thu lại những mãnh vụn: “Anh em hãy thu lấy những miếng thừa kẻo phí đi”?.
Chắc chắn nguyên nhân của phép lạ hoá bánh ra nhiều là: “Ta thương đoàn dân này”, vì “Ta không muốn để họ đói”, vì “Ta sợ rằng họ lả dọc đường” (Mt 15,32).
Chúa Giêsu quý những mẫu bánh vụn vì nó là phép lạ Chúa đã làm. Những phép lạ là tình thương, là ơn sủng, là ơn cứu độ của Chúa trao ban. Tình yêu và ân sủng như ngọn pháo bông, khi tung vỡ trên bầu trời tạo thành trăm ngàn vụn nhỏ càng rực rỡ huy hoàng. Khi tấm bánh được bẻ ra trên bàn thờ, bánh thánh nhỏ bé mỏng manh nhưng vẫn đầy tràn quyền năng và ơn thánh.Khi hiến lễ đền tội cho nhân loại của Đức Kitô trên đồi Calvê tan ra,vóc dáng Chúa Cứu Thế sụp xuống, đó cũng chính là lúc ơn cứu độ như nắng vỡ, lan ra, chảy tràn kín vũ trụ.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn. Chúa bảo thu lại để dạy các môn đệ và chúng ta bài học tiết kiệm.
Những người vừa trải qua cơn đói, nay được một bữa no nê. Họ vất bỏ những mẫu bánh dư thừa. Khi dư giả người ta dễ phung phí. Chúa Giêsu sai các môn đệ đi thu lượm những mẫu bánh thừa. Tiết kiệm là trân trọng những của cải Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức của cải là của mọi người. Tiết kiệm thể hiện sự quý trọng kết quả lao động của bản thân và của người khác.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn. Chúa bảo các môn đệ thu lại để dạy chúng ta đừng lãng phí ân huệ Chúa ban. Sự sống, sức khoẻ,thời gian,tài năng,trí tuệ, tài nguyên đều là ân huệ được ban tặng,cần trân trọng nâng niu gìn giữ.Trong ơn sủng của Chúa không có gì là những mẫu vụn bé nhỏ tầm thường. Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận đã từng khuyên rằng: “Muốn nên Thánh, con hãy làm những việc thường, có khi xem ra vô ý nghĩa nhất. Nhưng con đặt vào đó tất cả niềm mến yêu của con” (ĐHV 814); “Nhìn cây cổ thụ sum sê, con đừng quên rằng, từng trăm năm trước nó đã khởi sự từ một hạt giống tí ti” (ĐHV 816); “Tự nhiên có ai lên đỉnh núi Hy mã lạp sơn được? Tự nhiên có ai lên cung trăng được? Thử thách, hiểm nguy, ôn luyện, chuyên cần mỗi ngày, nhiều ngày mới đạt được đích họ hy vọng”. (ĐHV 817).
2. Tiết kiệm và lãng phí
Tác giả Gã Siêu viết: “Muốn phát triển, phải cần kiệm. Đó là qui luật của muôn đời. Các nước văn minh đã sống qui luật này một cách nghiêm ngặt và chặt chẽ”.
Ở bên Mỹ, trong các trường tiểu học, người ta đã dạy cho con nít biết: Muốn có một đồng thì phải bắt đầu từ một xu; Muốn có một triệu thì phải bắt đầu từ một đồng. Ở bên Nhật cũng vậy. Trong các gia đình, người ta luôn nhắc nhở con cái sống theo phương châm: Mua gì ăn nấy; Ăn đâu hết nấy; Không để thừa mứa, lãng phí. Ở bên Israel cũng thế. Vào các nhà hàng, khách sạn, người ta không thấy đồ ăn thức uống để dư. Ngay tại các bến xe, bến tàu đều có những khẩu hiệu: Hãy tiết kiệm điện; Hãy tiết kiệm nước… Tại các công sở và xí nghiệp, để trừ khử thói lề mề, người ta trừ ngay vào lương những ai đến làm việc chậm trễ.
Thấy người mà nhớ tới ta.
Trên báo “Tuổi trẻ Chủ nhật”, tác giả Phạm Đình Nghiệp đã đưa ra một vài trường hợp lãng phí điển hình.
Trước hết, đó là việc lãng phí sức người, được thể hiện dưới nhiều dạng vẻ khác nhau: thất nghiệp, lao động trái ngành, chéo nghề được đào tạo, sử dụng nhân lực bất hợp lý, nhân tài không được trọng dụng, chảy máu chất xám… Tiếp đến là việc lãng phí tài sản, tiền bạc của dân và của nước. Người ta sẵn sàng tiêu phí hàng chục triệu đồng “của chùa” cho một đêm liên hoan gặp gỡ hay chia tay nào đó.
Việt Nam chúng ta là một đất nước có thu nhập quốc dân tính theo đầu người vào loại thấp nhất, nhưng đã “hội tụ” được đủ mặt các loại bia ngon nhất. Trong nhiều cuộc “bù khú” nhậu nhẹt, người ta thi nhau không phải uống bia, mà là “gội bia”, “tắm bia” với hàng chục, thậm chí hàng trăm lít.
Hằng ngày chúng ta đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh lãng phí tiền bạc, làm nghèo cho dân cho nước. Cơ quan nào, xí nghiệp nào cũng cố xây cho mình những cơ sở bề thế và lộng lẫy.
Hễ có chức một tí là vội sắm cho mình những chiếc xe đời mới đất tiền, trang bị cho mình điện thoại di động, đúng với “mô đen” thời thượng mà nghênh ngang với đời.
Mới đây, trên báo “Tuổi trẻ cười”, có một bài mang tựa đề “hình như là lãng phí”, tác giả đưa ra một sự kiện… rất bình thường nhưng lại rất xót xa. Đó là bộ giáo dục năm nào cũng đổi mới, năm nào cũng cải cách, nên năm nào số sách giáo khoa mới in ra cũng được tha hồ đem bán ký.
Tác giả viết: “Ai ngờ đâu, tôi bỗng trở thành người thu gom giấy phế liệu để kiếm sống và đến nay tôi đã cân cả tấn sách giáo khoa còn thơm mùi giấy mới. Ở đủ mọi lớp, thuộc đủ loại môn học. “Vốn dòng họ “tiếc”, mỗi khi gặp loại sách mới này (mà gặp hoài), tôi đều lấy mẫu về cho con tôi, nhưng chúng lại bảo: Không phải loại sách của trường con (dù đúng cấp, đúng lớp của chúng). Nhìn lại bìa thì thấy là của bộ Giáo dục và năm xuất bản mới cách đó một hai năm mà thôi!!!
“Tôi nhớ ngày xưa, khi anh tôi vào lớp 12, tôi vẫn xài sách lớp 7 của anh ấy để lại. Và khi tôi lên lớp 12, tôi vẫn xài sách anh ấy đã xài mà không có trở ngại gì và vẫn “anh dũng” thi đậu, cha mẹ vui mừng khỏe re… Ôi sao mà dễ dàng tiện lợi và đỡ tốn kém quá cho cho mẹ và lớp học sinh thập niên 60, 70.
“Tôi đã qua cái cảnh ba ngày ròng đi tìm một cuốn sách học cho đứa cháu mới lớp 4. Nhiều lần nhịn ăn nhịn uống để dành tiền mua sách học cho con và bây giờ đứng trước hằng trăm ký sách giáo khoa chưa có tay người lật mà đành cân ký làm giấy gói đồ, hỏi sao không xót cho học sinh, phụ huynh đất nước?
“Tôi cũng rất ngạc nhiên phát hiện ra chỉ một môn học ở lớp 3, lớp 4 mà có đến ba, bốn thứ sách. Nào là quyển bài giải, bài mẫu … rồi quyển cho giáo viên … tất cả còn mới nguyên mà đem cân ký, không biết vì lý do gì và có lãng phí không?
“Năm nào đọc báo cũng thấy bộ giáo dục than thiếu tiền, thiếu giấy in, thiếu sách cho học sinh đến độ có những cuộc phỏng vấn tùm lum về vấn đề này. Ấy thế mà năm nào tôi cũng có dịp cân hết trăm ký lô này đến trăm ký lô khác sách giáo khoa … lòng tôi không khỏi cảm thấy bùi ngùi”.
Trên đây là những chuyện lãng phí của quí vị có chức, tai to mặt lớn. Còn trong phạm vi cá nhân, gã cũng nghiệm ra còn có nhiều loại lãng phí khác nữa, mà chính bản thân gã cũng đã từng mắc phải. Gã chỉ xin đưa ra một thí dụ điển hình mà thôi, đó là lãng phí thời gian.
Người Tây thì bảo: Le temps, c’est l’argent. Thời giờ là bạc. Còn người Tàu thì nói: Nhất thốn quang âm nhất thốn kim. Một tấc thời gian là một tấc vàng.
Thế nhưng, lắm lúc người ta đã không ý thức được sự quí giá của thời gian nên đã lãng phí nó một cách lãng xẹt.
Nơi gã đang cắm dùi là một thị trấn chỉ nhỏ bằng chiếc móng tay, thế mà có đến mấy chục quán cà phê. Đường nào cũng có, góc phố nào cũng có. Bất kể sáng, trưa, chiều và tối, hễ đặt chân ra đường hay xuống phố, đều thấy quí vị thanh niên ngồi thiền ở trong những quán ấy. Đáng lẽ ra: Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên.Thế nhưng, quí vị này lại chẳng biết làm gì cả, ngoài việc giết thời giờ trong quán, nhấm nháp vị đắng cà phê và đốt những điếu thuốc, lim dim thả hồn theo khói, ra dáng siêu nhân hay người cõi trên chi đó.
Tiếp đến là quán nhậu. Mỗi bữa nhậu kéo dài hai ba tiếng đồng hồ, quả là lãng phí. Hồi xưa thấy một kẻ say xỉn ngoài đường phố quả là chuyện họa hiếm, còn hôm nay lại là chuyện thường ngày ở huyện. (Nguồn: dunglac.org).
Lafontaine kể câu chuyện ngụ ngôn. Con ve sầu suốt mùa hè chỉ biết ca hát, khi mùa đông trở về gió bấc thổi tới, nó bị chết đói. Trong khi đó dòng họ nhà kiến, suốt ngày thu tích lương thực, dè sẻn từng hạt gạo, dù có mưa bão hay lạnh giá, đời sống vẫn được bảo đảm an toàn.
3. Cần phải tiết kiệm
Linh mục Nguyễn Hồng Giáo viết: “Ý thức về tiết kiệm (một hình thức của sống nghèo) nói chung còn kém nơi tu sĩ, chủng sinh và linh mục ngày nay. Có vẻ như nhiều người không coi đó là chuyện quan trọng, được nhắc nhở thì để ý, xong rồi lại đâu vào đó, rất khó “đưa vào bộ nhớ”. Trời không lấy gì làm nóng, nhưng hễ vào phòng là mở quạt máy. Nhiều khi tập vở viết chưa hết, cái áo, cái quần, đôi dép cũ còn dùng tốt được nhưng đã bị phung phí vất đi. Cả một chồng sách báo cũ có thể để cho người thu mua đồ vụn hay ít nhất đưa cho nhà bếp làm mồi lửa, vẫn đem đốt một cách “vô tư”. Từ xưa, tục ngữ Việt Nam có câu: xài của chùa. Nghĩa là xài mà không phải trả tiền nên cứ việc thoải mái, khỏi cần chừng mực, tiết kiệm. Và cha chung không ai khóc, của chung không ai quan tâm. Tâm lý đó không chỉ phổ biến nơi cán bộ công chức (như được phản ánh trên Tuổi Trẻ) mà cả nơi quần chúng nhân dân và … trong các tập thể Giáo Hội ta nữa. Trong nội bộ chúng ta cũng có những lãng phí rất quen thuộc. Như khi làm thiệp báo tin một lễ mừng nào đó, người ta thích in thật hoành tráng (giấy sang, in hai ba màu…) dù biết rằng người nhận coi xong là bỏ.
Thật tế nhị, nhưng tôi xin nói tới tiệc tùng trong giới Công giáo ta. Tiệc quá to, rất tốn kém và thường là thừa thãi. Nước ta xưa kia rất nghèo, người dân ăn không no, mặc không ấm nên rất chú trọng chuyện ăn uống. Tuy thế, hay chính vì thế mà lại có tâm lý coi miếng ăn là miếng nhục (muốn ăn lắm nhưng phải làm ra vẻ không cần để tránh làm cho người khác đánh giá mình vì chuyện ăn uống…). Tây phương thì khác. Họ giàu nên các tiệc tùng của họ thường rất đơn giản, chỉ dọn vừa đủ ăn. Ăn uống chỉ là một phần của cuộc họp mặt. Ở nước ta, dù đã bắt đầu có thay đổi, nhưng tâm lý chung của người Việt vẫn còn thích phô trương, thích giữ thể diện bằng vẻ hào nhoáng bên ngoài, đặc biệt trong tổ chức tiệc tùng, phải mâm cao, cỗ đầy, càng nhiều món càng sang cho dù biết trước là sẽ thừa mứa. Và tục lệ xã hội vẫn còn gây áp lực nặng nề. Có những lễ tạ ơn tân linh mục dọn bảy, tám chục mâm, thậm chí cả trăm và hơn nữa.
Thời nay việc truyền chức linh mục trở thành chuyện bình thường, có nên bình thường hoá việc ăn mừng không? Thay đổi một tục lệ xã hội là rất khó. Có khi chính người trong cuộc cũng rất ngại, rất lo khi phải tổ chức linh đình tốn kém, nhưng họ khó có thể làm “cách mạng” …! Tôi nghĩ nếu có một chủ trương chung nào đó từ trên xuống, – dòng tu, giáo xứ, địa phận – thì người giáo dân chắc sẽ chấp nhận. Đây mới chỉ nói tới tạ ơn tân linh mục, nhưng khấn dòng, lễ vàng, lễ bạc, các lễ kỷ niệm này nọ và lễ cưới cũng thuộc diện này. Giáo Hội Việt Nam có nên đi trước xã hội trong vấn đề này không? Nhờ cơ cấu tổ chức rất chặt chẽ và uy tín rất lớn của hàng giáo sĩ đối với giáo dân, thiết nghĩ nếu Giáo Hội quyết tâm và quyết liệt, cơ may thành công sẽ rất lớn. Đây cũng là nhiệm vụ giáo dục con người của Giáo Hội có thể làm ngay, không cần đợi đến khi được phép chính thức mở trường mở lớp. (Nguồn: nguoitinhuu.com).
Tiết kiệm khác với hà tiện, keo kiệt, bủn xỉn.
Tiết kiệm là biết sử dụng một cách hợp lý, đúng mức của cải vật chất, thời gian, sức lực của mình và của người khác. Tiết kiệm thời gian, tiết kiệm công sức, tiết kiệm tiền của.
Người Ý nói: Sự sung túc có được do hai bàn tay. Bàn tay này là tài năng, bàn tay kia là tiết kiệm. Người Thổ Nhĩ Kỳ bảo: Người ta trở nên giàu có, đó là do cần cù lao động và biết tiết kiệm trong chi tiêu.Tại nơi mở trương mục tiết kiệm ở các ngân hàng, người ta thường vẽ hình con gà mái ấp quả trứng vàng, có ý muốn nói những đồng tiền tiết kiệm bỏ vào đó sẽ sinh nhiều lợi lộc, sẽ đem lại cho chủ nhân những trái trứng bằng vàng.
Tiết kiệm đi chung với giản dị.
Sống giản dị là sống phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân, gia đình và xã hội. Người giản dị thì không xa hoa, không lãng phí, không chạy theo những nhu cầu vật chất và hình thức bề ngoài. Sống giản dị sẽ tiết kiệm được thời gian, tiền của, công sức để làm những việc có ích cho bản thân, cho gia đình và xã hội. Người tiết kiệm sẽ biết sống giản dị phù hợp với hoàn cảnh bản thân, gia đình, xã hội.
Việc nhỏ mà mỗi người chúng ta có thể thực hiện dễ dàng trong cuộc sống thường nhật, đó là sử dụng điện, nước, của cải vật chất một cách hợp lý, biết dùng thời gian vào những việc có ích và biết gìn giữ của công.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng, bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp, không còn những cô gái đứng đường hay những người ăn xin.
Con mơ ước những người thợ được hưởng lương xứng đáng, các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình, các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con, con ước mơ một thế giới đầy màu xanh, xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển, và xanh của bao niềm hy vọng nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ, thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó. Amen (Mana).
[Mục Lục]

Bài 17. Năm chiếc bánh và hai con cá
Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Bước ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu đã tỏ lòng thương xót, ủi an, dậy dỗ, chữa lành và ban phát của ăn nuôi dân. Gặp những người cùng khổ và bệnh tật, Chúa xót thương chữa lành họ: Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ, và chữa những người bệnh tật trong họ (Mt 14,14). Chúa dậy dỗ và mở mang kiến thức để họ hiểu biết về mầu nhiệm Nước Trời và tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn yêu thương và quan phòng cho mọi loài thọ tạo. Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? (Mt 6,26).
Để tiếp tục ban phát ơn lành, Chúa Giêsu cần lòng quảng đại và sự góp phần nhỏ bé của chúng ta. Thánh Matthêô diễn tả: Các ông thưa lại rằng: “Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá”. Người bảo các ông rằng: “Hãy đem lại cho Thầy”( Mt 14,16). Chúa nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá nhỏ, Chúa đã đọc lời chúc tụng, tạ ơn và phân phát cho mọi người. Chúa ban cho dân đầy dư tràn trề và ăn uống thỏa thuê. Chúa Giêsu duỡng nuôi con dân bằng của ăn tinh thần và cả của ăn thể xác.
Năm bánh hai cá là biểu tượng nguồn tốt lành mà mỗi người chúng ta đang sở hữu. Mỗi cá nhân đều có một kho tàng vô giá ẩn sâu trong tâm hồn. Tôn giáo giúp chúng ta khơi dậy những tâm tình, những ân huệ và những khả năng được trao ban.
Chúng ta không thể nói rằng chúng ta không có gì để cho đi. Mỗi người có cả một kho tàng tình yêu, sự cảm thông, tình xót thương và lòng quảng đại. Cái gì cũng có thể cho được, chúng ta có thể cho đi một nụ cười thân thiện, một lời nói êm nhẹ, một cử chỉ yêu thương, một thái độ tử tế, một ánh mắt thông cảm, một vòng tay ấm áp, một tâm tình chia sẻ tế nhị và một chút bánh, một ly nước.
Khi chúng ta biết cho đi, chúng ta sẽ nhân đôi niềm vui cả vốn lẫn lời. Cho đi là làm giầu thêm cho chính mình. Khi lồng ngực còn thở và trái tim còn đập, chúng ta còn có cái để cho, cho đi niềm tin, niềm hy vọng và cậy trông. Càng cho càng có thêm. Xởi lởi trời lại cho mà.
Ngày xưa, khi đi giảng đạo tại những nước nghèo đói xa xôi, các nhà truyền giáo đã dùng mọi cách thế để đi vào lòng dân. Một trong những cách cụ thể, là lo cho dân có nơi ăn chốn ở, giúp đỡ, dậy dỗ và dùng thuốc thang chữa lành bệnh tật. Có nhiều người theo đạo vì: Theo đạo có gạo mà ăn. Điều này không sai, nhưng nếu lạm dụng sự giúp đỡ thì mất đi ý nghĩa của việc truyền đạo. Chúng ta thường nghe nói: Có thực mới vực được đạo. Đúng vậy, con người không sống trên mây trên gió, mà là cuộc sống cụ thể chân chạm đất. Những nhu cầu thể xác về ăn mặc không thể thiếu. Không phải ngày xưa khi mơi truyền đạo, mà cả ngày nay cũng thế, những nơi vùng sâu vùng xa nghèo đói cũng cần sự trợ giúp về cái ăn cái mặc. Không thỏa mãn nhu cầu thể xác thì khó có thể tập trung cầu nguyện, thờ phượng và trau dồi kiến thức văn hóa về đạo giáo hay về xã hội.
Ở Ấn Độ, người dân bị phân biệt giai cấp, những người cùng đinh nghèo đói và bị khinh bỉ. Mẹ Têrêxa đã phục vụ lâu năm tại đây. Mẹ đã lập nhiều nhà Tế Bần. Có nơi, các chị Dòng Bác Ái mỗi ngày phải lo phục vụ cả 9 ngàn người ăn. Một ngày không nấu là một ngày họ không có gì ăn. Vào ngày nọ, có một cặp vợ chồng mới cưới đến thăm và dâng cúng món tiền lớn. Mẹ Têrêxa hỏi: Ở đâu anh chị có món tiền lớn thế? Anh chị trả lời: Họ mới cưới nhau được hai ngày. Chúng tôi quyết định không tổ chức đám cưới vì muốn dành số tiền này để nuôi người nghèo. Mẹ hỏi: Tại sao anh chị lại muốn làm như thế? Họ trả lời rằng vì chúng tôi yêu nhau và muốn bắt đầu cuộc sống hôn nhân với hành động hy sinh này. Biết rằng họ thuộc hàng quý phái. Cử chỉ thật đẹp từ cõi lòng.
Tu thân tích đức là hướng nội. Từ bi hỉ xả và từ thiện bác ái là hướng ngoại. Khi có nội công thâm hậu, thì con người sẽ có sức mạnh phi thường. Ý chí là nguồn sức mạnh. Không phải mọi người to lớn, khỏe mạnh và cường tráng là người có nội lực thâm sâu. Ý chí giúp con người thành nhân và thành thánh. Vị thánh nào cũng có một ý chí kiên cường. Vị thánh nào cũng biết xả thân và cho đi. Cho đi mà không cạn kiệt. Cho đi là hướng ra tha nhân. Càng xả thân càng làm cho sự hiện hữu của mình thêm phong phú. Các thánh nhân đã cho đi không ngừng để làm giầu cho tha nhân và cho chính mình. Chúa Giêsu xuống trần gian, Ngài cho đi với cả trái tim yêu thương, sự tha thứ, thông cảm, chữa lành, sự bình an và cả mạng sống của chính Ngài.
Khi Chúa Giêsu chữa lành, Chúa chữa tận căn và bệnh tật chấm dứt. Khi Chúa ban của ăn, Chúa ban dư tràn. Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn (x. Mt 14,20). Khi Chúa yêu thương, Chúa hiến cả thân mình đến giọt máu cuối cùng. Chúa không ban ơn nửa vời.
Bước theo Chúa, Chúa cũng đòi hỏi một sự dứt khoát: Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được (x. Lc 14,33).
Xem ra sự đòi hỏi của Chúa không dễ. Làm sao chúng ta có thể từ bỏ hết những gì chúng ta có? Chúng ta thường tìm cách tránh né vấn đề và nêu ra nhiều lý do để chối từ. Các tông đồ xưa đã thực hành lời Chúa một cách triệt để. Các ngài sống trọn vẹn lý tưởng và chết cho sứ mệnh của mình. Thánh Phaolô đã lên tiếng nói rằng: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gal 2,20).
Chúa trao quyền năng cho các tông đồ và sai các ngài ra đi trong tin yêu và phó thác: Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn (x. Mt 10,10).
Tôi nghe kể các tu sĩ Dòng Tên trong những năm huấn luyện tập tu. Mỗi tu sĩ ra đi vào đời trong một tháng thử thách, họ không được mang theo đồ dùng tiền bạc. Họ phải tự lo liệu tất cả, khát xin uống, đói xin ăn, tự tìm nơi ăn chốn ở và mọi nhu cầu thể xác tự giải quyết. Sống hoàn toàn trong sự phó thác nơi Chúa và cậy nhờ lòng tốt người khác. Trong những ngày lang thang giữa chợ đời, cũng có khi các tu sĩ bị xua đuổi, bị khinh rẻ, bị nghi ngờ và bị coi là kẻ ăn bám xã hội. Luyện tập nhân đức cần trải qua những gian truân và nhẫn nại sẽ giúp họ trưởng thành trong đời sống phục vụ sau này.
Thiên Chúa quan phòng cho mọi loài thảo mộc sinh hoa trái và ban nguồn thực phẩm để dưỡng nuôi con người trong thiên nhiên. Trong lịch sử cứu độ, một đôi khi Thiên Chúa can thiệp ban phát ân sủng trực tiếp như nước uống, Manna và chim cút cho dân Do-thái suốt hành trình lữ hành trong hoang địa. Nay Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh và cá hóa nhiều để nuôi dân. Bánh và cá là hình ảnh của bánh hằng sống mà Chúa sẽ ban chính là Mình và Máu Thánh Chúa. Chúa Giêsu đã chọn chính bánh rượu là của ăn hằng ngày để hiến thánh. Khi bánh rượu được hiến dâng trên bàn thờ, qua lời truyền phép của linh mục, bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần, bánh rượu đã trở nên Mình và Máu Thánh Chúa để dưỡng nuôi toàn dân. Của ăn thần lương này đã giúp thỏa mãn mọi khát khao của con người dẫn vào cuộc sống đời đời.
Chúa ban cho dư tràn nhưng Chúa cũng nhăc nhở con người không được phung phí. Sau khi dân chúng ăn no thỏa, Chúa kêu gọi mọi người thu dọn: Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn (x. Mt 14,20).
Không một ân huệ nào là vô ích. Dù là một chút ít miếng vụn, đó cũng là hồng ân. Trong thế giới chúng ta đang sống, đang có biết bao nhiêu người lên giường ngủ mà bụng còn đói, trong khi nhiều người ăn uống thừa thãi và hoang phí. Xã hội bất công đưa dẫn đến con người tham lam và ích kỷ. Chỉ muốn gom góp và làm giầu cho chính mình. Chúng ta biết rằng thu vào là tiêu hao và tan biến. Có biết bao nhiêu nguồn sung túc của thế giới đã bị chiếm đoạt bất công. Có những người sống như nhà phú hộ giầu có, hằng ngày yến tiệc linh đình, trong khi bên cạnh nhà có Lazarô đói khổ, bệnh tật và thèm khát chén cơm thừa mà chẳng ai cho. Câu truyện đời như thế vẫn xảy ra hằng ngày. Hậu qủa thưởng phạt ngày sau tách biệt mỗi người một nơi.
Năm bánh hai cá là vốn liếng mà mỗi người chúng ta có được. Chúng ta đừng đem chôn vùi, nhưng hãy trao tặng lại cho Chúa, để Chúa biến hóa ra nhiều phân phát cho mọi người. Mỗi người hãy cùng chung góp khả năng, sức lực, của cải và thời giờ để sinh hoa kết qủa trong cuộc sống này. Không có một cuộc sống nào là vô ích. Ai cũng có thể góp phần làm tốt cho xã hội và Giáo Hội.
Lạy Chúa, xin khơi dậy kho tàng ân sủng trong lòng con, để chúng con biết đem ra phân phát và chia sẻ với mọi người.
Tất cả là hồng ân!
Chúng con cảm tạ danh Chúa đến muôn ngàn đời.
[Mục Lục]

Bài 18. Chia sẻ cơm áo
R. Veritas

Chúng ta không cần câu truyện nào khác để dẫn vào đoạn Tin Mừng hôm nay. Các Tông đồ của Chúa lo sợ trước một thách thức không thể vượt qua được trên bình diện con người, đó là 5.000 người đàn ông không kể đàn bà con trẻ đang gặp cảnh đói không có gì ăn, và vào lúc trời sắp tối, có nghĩa là mọi sinh hoạt buôn bán giữa người với người dường như bị đóng lại. Các ông lo sợ và nói theo khuynh hướng tự nhiên là phủi tay chạy trốn trước thách thức khóa khăn ấy, từ đó đổ trách nhiệm cho kẻ khác, và cuối cùng cũng muốn Chúa Giêsu làm như vậy: “Xin Thầy hãy cho họ về, hoặc cho họ vào làng để mua gì ăn, vì trời đã tối và họ có thể kiếm được gì lót dạ qua cơn đói chăng?”.
Thế giới ngày nay có rất nhiều tiến bộ, với những phát minh khoa học kỹ thuật tân tiến, nhưng theo thống kê của cơ quan lương thực Liên Hiệp Quốc cho biết, mỗi ngày có khoảng 400.000.000 người phải đi ngũ với bụng đói không có gì để ăn, và 15.000 người phải chết đói hằng ngày. Điều này không phải vì thế giới thiếu tài nguyên, thiếu lương thực, nhưng vì tài nguyên của quốc gia bị mánh mung, ăn cắp một cách khéo léo bởi một số người không còn lương tâm.
Chúng ta không cần dẫn chứng đâu xa, hãy nhìn vào môi trường trong cuộc sống của chúng ta. Nơi cộng đoàn chúng ta sinh sống, thử hỏi có bao nhiêu người đang đói khổ? Bao nhiêu người trẻ thiếu phương tiện đến trường học? Bao nhiêu người bị bóc lột sức lực và làm việc với đồng lương bất công? Tại Phi Luật Tân 70% dân chúng sinh sống dưới mức phân biệt nghèo túng. Chúng ta đang đứng trước những thách thức bao la và có lẽ cũng muốn bỏ chạy trốn, hoặc đổ trách nhiệm sang cho kẻ khác với những lý do an ủi mình như, nhiều người đói khổ quá làm sao tôi có thể lo cho họ được, sức tôi có hạn làm sao tôi có thể chia sẻ với từng ấy người đang cần đến lương thực để sinh sống.
Thật lạ lùng, một cộng đoàn đông đến 5.000 người đàn ông, không kể đàn bà con trẻ mà không còn chút lương thực, không còn chúng gì để ăn tối, hay là mỗi người đã đem giấu phần thức ăn của mình? Hay có thể vì sợ không đủ cho kẻ khác? Nếu không có năm cái bánh và hai con cá của một em nhỏ nào đó thì làm sao Chúa Giêsu có thể nhân thêm để nuôi sống hàng mấy ngàn người như vậy. Em bé này đáng được khen ngợi, vì tâm hồn rộng lượng của em, một tâm hồn đơn sơ không nghĩ ngợi, dám dâng cho Chúa phần đóng góp nhỏ nhoi của em.
“Chúng con hãy cho họ ăn”. Đó là mệnh lệnh mà Chúa truyền lại cho các Tông đồ xưa và cũng là mệnh lệnh của Chúa cho mỗi người Kitô hữu hôm nay. Chúng con hãy cho họ ăn, chúng con có trách nhiệm không thể chạy trốn được, chúng con không thể phủi tay đổ trách nhiệm cho kẻ khác. Hãy biêt sống chia sẻ, đóng góp những gì mình có thể làm để mưu cầu hạnh phúc cho đồng loại. Mỗi người hãy thắp lên một que diêm để làm cho căn phòng đầy ánh sáng, nhất là khi cùng thắp que diêm đó với Chúa và nhờ Chúa, cộng tác với Chúa để gìn giữ que diêm đó khỏi gió thổi tắt.
Thánh Matthêu mô tả hành động phép lạ của Chúa Giêsu giống như hành động Chúa cử hành bí tích Thánh Thể với các Tông đồ trong bữa tiệc ly: “Chúa cầm lấy bánh, tạ ơn và trao cho các môn đệ để các ngài đem đi phân phát”. Bí tích Thánh Thể được gọi là “Bữa tiệc chia sẻ tình yêu, Agapae: Bữa tiệc bẻ bánh”. Trong thời Giáo Hội sơ khai, bí tích Thánh Thể là phương tiện hữu hiệu nhất để giúp cho các đồ đệ có được sức sống của Ngài, có được tình yêu và sức mạnh của Chúa.
Đừng chạy trốn trước sự mời gọi chia sẻ của anh em. Chúng ta hãy xét lại xem mình đã cử hành Bí Tích Thánh Thể như thế nào? Bí Tích Thánh Thể có tác dụng thế nào trong đời sống chúng ta? Bí Tích Thánh Thể được chúng ta cử hành, chia sẻ trong nhà thờ và chúng ta có kéo dài nó trong cuộc sống bên ngoài nhà thờ hay không?
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được trở nên giống Chúa một ngày một hơn nhờ việc lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể, cũng như qua việc chia sẻ sự sống của Chúa, xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được lớn lên, được trưởng thành trong đức bác ái, sẵn sàng đóng góp phần nhỏ của mình để phục vụ anh em, xin Chúa giúp chúng ta trưởng thành trong Đức tin mà chúng ta chia sẻ qua kinh Tin kính.
[Mục Lục]

Bài 19. NHU CẦU VẬT CHẤT VÀ TÂM LINH
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Trên mặt báo cũng như trên làn sóng phát thanh và truyền hình, nhu cầu vật chất của con người được nêu lên càng ngày càng nhiều hơn và người ta quảng cáo đủ thứ sản phẩm để đáp ứng những nhu cầu ấy. Thế còn nhu cầu tâm linh của con người ngày nay thì sao? Vì là loài có xác và có hồn nên con người không chỉ có nhu cầu của thân xác mà còn có nhu cầu của tâm hồn nữa. Nhu cầu của thân xác thì mỗi người biết tìm ở đâu, còn nhu cầu của tâm hồn thì chúng ta phải biết chạy đến với Thiên Chúa là Đấng có thể thỏa mãn mọi khát vọng thâm sâu của chúng ta.
Đó chính là ý nghĩa của các bài Sách Thánh hôm nay: Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến với Người để tâm hồn chúng ta được thỏa thuê. Thiên Chúa đáp ứng cách “miễn phí” hoàn toàn. Vậy thì dại gì mà chúng ta không đến với Người!
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Is 55,1-3): Hãy đến mà ăn.
2.2 Trong bài đọc 2 (Rm 8,35.37-39): Không một loài thọ tạo nào có thể tách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 14,13-21): Ai nấy đều ăn và được no nê.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
* Là Thiên Chúa Cha, Đấng đã mời gọi hết mọi người đến uống nước, sữa, rượu cho khỏi khát, cho mạnh sức mà không phải trả tiền. Nước đây là nước giếng, nước suối, nước sông mà cũng là Lời, là Giáo Huấn xuất phát (chẩy ra) từ miệng Thiên Chúa. Tương tự như thế, sữa đây là sữa dê, sữa bò mà cũng là vi-ta-min thần linh. Còn rượu đây là rượu nho, rượu gạo mà cũng là sức mạnh vô song của Thiên Chúa. Lương thực hay Lời Thiên Chúa ban cho là cao lương mỹ vị đem lại sự sống đích thực cho những ai mở lòng đón nhận.
* Là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã vì chạnh lòng thương đám đông dân chúng đi theo Người để nghe Người giảng dậy, mà thực hiện một phép lạ ngoạn mục, giúp họ qua cơn đói. Phép lạ thể lý (hóa bánh và cá ra nhiều) chỉ là hình bóng của một phép lạ thiêng liêng mà Chúa Giê-su sẵn sàng thực hiện cho nhũng ai đi theo Người, tìm kiếm và đón nhận Lời rao giảng của Người. Chúa Giê-su sẽ liên kết chặt chẽ những kẻ tin vào với Người khiến không gì có thể tách rời họ ra khỏi tình yêu thương của Người.
* Là Chúa Thánh Thần, Đấng luôn hiện diện và cùng hành động với Chúa Cha khi Thiên Chúa ban nước, sữa và rượu cho con dân của Người. Thánh Thần cũng hiện diện và cùng hành động với Chúa Giê-su khi Người giảng dậy về Nuớc Trời và làm phép lạ cho dân chúng ăn uống no nê từ 5 chiếc bánh và 2 con cá của các Tông đồ.
3.2 Sứ Điệp Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?):
Qua ba bài Sách Thánh, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là:
Những ai đói khát về vật chất và nhất là về tâm linh hãy tìm đến với Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô vì chẳng những Người có quyền năng mà còn có lòng thương yêu và cảm thông trước nhu cầu thiết yếu và chính đáng của con người. Thiên Chúa sẽ ban nước, bánh, sữa và rượu cho những ai cần những thứ ấy để sống. Nước, bánh, sữa và rượu là lương thực vật chất và là hình bóng của những ân huệ thiêng liêng mà con người cần đến để có sự sống đích thực và trường cửu. Thiên Chúa sẵn sàng ban những ơn huệ ấy một cách nhưng không, miễn phí. Thiên Chúa của Ki-tô giáo là Đấng hào phóng!
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, như môn đệ sống với Thầy. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và tuyệt đối tin cậy !
4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa hôm nay: Một ngày tôi cần ba bữa ăn để sống và có sức làm việc. Đó là đời sống thể lý. Để đời sống tâm linh của tôi được duy trì và phát triển, tôi cần ơn thánh Chúa. Tôi cần tìm đến Chúa trong các giờ đọc kinh cầu nguyện, khi tham dự thánh lễ và trong/qua mọi việc tôi làm trong ngày để được Người ban cho những ơn cần thiết.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 “Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho thế giới loài người hôm nay, nhất là cho những người nghèo khổ, túng thiếu và bị tước mất quyền sống tương xứng với tư cách và phẩm giá làm người, để họ cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa là Cha nơi Chúa Giê-su Ki-tô.
X. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Đ. Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Ki-tô – nhất là cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ Nam Nữ và mọi giáo dân -, để mọi Ki-tô hữu được vui sống trong tình yêu vô biên của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su.
5.3 “Hãy chăm chú nghe Ta, thì các ngươi sẽ được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người trong gia đình và giáo xứ/cộng đồng chúng ta, để mọi người biết lắng nghe tiếng/lời Chúa trong Sách Thánh và trong cuộc đời, ngõ hầu tìm được hạnh phúc và sự sống vĩnh cửu Thiên Chúa hứa ban.
5.4 “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây!” Chúng ta hãy cầu nguyện cách đặc biệt cho những người khao khát Thiên Chúa, để họ gặp được Nguồn Nước Hằng Sống mà được no thỏa tâm hồn.
 
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận