Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng CN XXIII A

Đăng lúc: Thứ năm - 04/09/2014 21:23 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng

Chúa Nhật XXIII thường niên – năm A
Lời Chúa: 
Ed 33,7-9; Rm 13,8-10; Mt 18,15-20
***************

MỤC LỤC
1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: Kỷ luật của Giáo Hội và sự hiện diện của Đức Kitô
2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
3. Chú giải theo Fiches Dominicales: Có trách nhiệm với nhau
4. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt: Anh em sửa lỗi nhau
5. Suy niệm của Noel Quession
6. Vẽ chân dung (Radio Veritas Asia)
7. Cộng đồng huynh đệ (Cố Lm. Hồng Phúc)
8. Nghệ thuật sửa lỗi (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
9. Biết mình biết người (Lm. Fx. Trần Phương)
10. Sửa lỗi cho nhau (Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
11. Sửa lỗi anh em (ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)
12. Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
13. Cha Ta sẽ ban cho (Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
14. Sửa đổi huynh đệ là bổn phận của tình yêu (Lm. Phêrô Lê Văn Chính)
15. Bài giảng của Lm. Giuse Đinh Tất Quý
16. Giúp nhau sửa chữa lỗi lầm (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
17. Sửa lỗi cho nhau (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
18. Sống bác ái, hiệp thông để cùng nhau thăng tiến (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
19. Liên đới (Trầm Thiên Thu)
20. Lên tiếng hay không lên tiếng? (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
21. Khi anh em sửa lỗi nhau (AM Trần Bình An)
22. Hãy sửa lỗi cho nhau (Fx. Đỗ Công Minh)

23. Sửa lỗi cho anh em theo tinh thần của Chúa (Jos. Vinc. Ngọc Biển)

 

chuanhat23TNA

A. BẢN VĂN

Bài đọc I (Ed 33,7-9)

7 Phần ngươi, hỡi con người, Ta đã đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Ít-ra-en. Ngươi sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay Ta báo cho chúng biết. 8 Nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng: “Hỡi tên gian ác, chắc chắn ngươi phải chết”, mà ngươi không chịu nói để cảnh cáo nó từ bỏ con đường xấu xa, thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết vì tội của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó. 9 Ngược lại, nếu ngươi đã báo cho kẻ gian ác phải từ bỏ con đường của nó mà trở lại, nhưng nó không trở lại, thì nó sẽ phải chết vì tội của nó; còn ngươi, ngươi sẽ cứu được mạng sống mình.

Bài đọc II (Rm 13,8-10)

8 Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật 9 Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. 10 Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy.

Tin Mừng (Mt 18,15-20)

15 “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em. 16 Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. 17 Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.

18 “Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy.

19 “Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. 20 Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.”

[Mục Lục]

 

khoangcah

B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI VÀ SUY NIỆM

Bài 1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: Kỷ luật của Giáo Hội và sự hiện diện của Đức Kitô

1. Ngữ cảnh

Với ch. 18 của TM Mt, chúng ta đi vào Bài Diễn từ thứ tư, đề cập đến đời sống huynh đệ trong lòng Hội Thánh, cộng đoàn Kitô hữu. Bài Diễn từ được chia thành hai phân đoạn, phân đoạn thứ nhất đề cập đến “những kẻ bé mọn” (18,1-14) và phân đoạn thứ hai liên hệ đến “người anh em phạm tội” (18,15-35). Mỗi phân đoạn kết thúc với một dụ ngôn: con chiên lạc (18,12-14), và ông vua và người đầy tớ (18,21-35).

Sau đây là bố cục chung cho cả bài Diễn từ:

I. Mối quan tâm đến những kẻ bé mọn (18,1-14):

A. Người lớn và kẻ bé mọn (cc. 1-5),

B. Đừng khinh những kẻ bé mọn (cc. 6-10),

C. Kết luận bằng Dụ ngôn: Quan tâm đến những kẻ lầm đường lạc lối (cc. 12-14)

II. Kỷ luật và Tha thứ (18,15-35):

A. Kỷ luật của Giáo Hội và sự hiện diện của Đức Kitô (cc. 15-20),

B. Tha thứ không giới hạn (cc. 21-22),

C. Kết luận bằng Dụ ngôn: Tha thứ như một sự biết ơn (cc. 23-35).

2. Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Kỷ luật của Giáo Hội (18,15-17);

2) Cầm buộc và tháo cởi (18,18);

3) Sự hiện diện của Đức Kitô (18,19-20).

3. Vài điểm chú giải

- Người anh em (15): Từ ngữ adelphos này nói về những người có liên hệ huyết thống trong mộtgia đình, nhưng cũng để gọi những người có tương quan với nhau trong mộtcộng đoàn thiêng liêng. Cũng như các “con cái Israel” thuộc về cùng một“nhà”, các môn đệ Đức Kitô, được quy tụ nhân danh Người, làm thành một “nhà thiêng liêng” (x. 1 Pr 2,5).

- phạm tội (15): TM Mt chưa bao giờ xác định rõ “phạm tội” ([h]amartanô) có nghĩa là gì. Dựa vào ngữ cảnh, một đàng độc giả liên kết động từ này với động từ “làm cớ cho sa ngã” (skandalizô; cc. 6.8-9), thì hiểu tội là một cái gì nghiêm trọng. Đàng khác, khi liên kết với truyện con chiên lạc, độc giả biết là tội có thể được tha thứ. Bản văn ở đây nói riêng đến tội của “người anh em”.

- sửa lỗi nó, một mình anh với nó (15): Đây không phải là mộtlời khuyên mới do sáng kiến của Đức Giêsu. Đọc Lêvi 19,17, chúng ta ghi nhận một quy định tương tự (“Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó”). Phái Êxêni ở Qumrân cũng có những lời dạy tương tự (Thủ bản kỷ luật 5,25 truyền: “Không ai được nói với anh em với sự giận dữ hoặc hiềm khích hoặc trịch thượng hoặc với trái tim cứng rắn hoặc tâm trí gian tà”. Xem thêm Văn kiện Đamát 9,2-8).

- chinh phục (15): Động từ kerdainô có nghĩa là “thủ đắc được, chiếm được” vật gì. Thường các bản văn Hy Lạp và Kinh Thánh không dùng cho nghĩa bóng là “chinh phục một con người”. Thế nhưng động từ này được dùng hai lần khi nói về sứ mạng của Hội Thánh sơ khai (1 Cr 9,19-22; 1 Pr 3,1).

- không nghe (17): Động từ parakouô có nghĩa là “nghe những gì không nhắm cho tai họ; nghe không đầy đủ; nghe không đúng đắn”, nên cũng có nghĩa là “không nghe; không vâng lời”.

- một người ngoại … một người thu thuế (17): Ở đây, hai hạng người được nêu ra với giọng miệt thị dưới cái nhìn thông thường, để làm biểu tượng cho những người ngoan cố, không có tinh thần phục thiện.

4. Ý nghĩa của bản văn

Đức Giêsu không coi cộng đoàn các môn đệ như mộthiệp hội các cá nhân, trong đó mỗi người có thể làm bất cứ điều gì mình muốn và chẳng có ai quan tâm đến ai cả. Người đã dạy rõ ràng đâu là cách xử sự bắt buộc đối với những ai đang bước theo Người. Bắt buộc bởi vì cần thiết để vào được Nước Trời (x. Mt 5,20; 7,21). Trong cộng đoàn các tín hữu, mọi người đều được liên kết vào các quy tắc chung này và mọi người phải cảm thấy mình có trách nhiệm về việc không được để mộtai bị hư mất. Khởi đi từ mối quan tâm huynh đệ này, là mộthình thái cốt yếu của tình yêu đối với người thân cận tùy thuộc ý muốn của Thiên Chúa, có thể là cần phải nhắc đến đòi buộc quan tâm đến mộtngười anh em lầm lạc và mời người ấy hoán cải.

Đi trước các lời dạy về cách chăm sóc mộtngười anh em có lỗi là mộtđoạn cho thấy sự quan tâm vô giới hạn của Thiên Chúa đối với mỗi mộttín hữu, cho dù nhỏ bé nhất và không đáng kể gì (18,10-14). Mỗi con người có mộtgiá trị vô song, bởi vì họ luôn luôn hiện diện trước mặt Ngài. Không mộtai bị Thiên Chúa quên lãng mộtlúc nào cả; tình yêu cũng như sự trợ giúp của Ngài không hề phai nhạt đi.

* Kỷ luật của Giáo Hội (15-17)

Vấn đề là người anh em “phạm tội” (ho adelphos hamartêsê). “Tội” là một điều có tính trầm trọng, nhưng cũng là điều có thể được tha thứ. Những người có thể lấy sáng kiến can thiệp không phải là vì họ có trách nhiệm chính thức về cách thức mà các thành viên của Hội Thánh theo mà cư xử, nhưng bởi vì họ bị trực tiếp liên lụy đến do tội của người anh em (“đối với anh; chống lại anh”, eis se). Tuy thế, “tội” mà một thành viên phạm đối với một thành viên khác không phải là vấn đề riêng tư, không can dự gì đến Hội Thánh. Có một xác tín trong Kinh Thánh, trong Do Thái giáo và Kitô giáo là mỗi một tội đều ảnh hưởng đến toàn thể Hội Thánh.

Về mối quan tâm đến người anh em, phải nói là có nhiều cấp độ; nhưng dù ở cấp độ nào, sự quan tâm này cũng phải kín đáo, kiên nhẫn và thanh thoát khỏi mọi kiểu nhìn cá nhân riêng tư. Cách tốt nhất hẳn là tránh mọi cớ vấp phạm, bằng cách dàn xếp công chuyện giữa hai người: không có người chứng, người anh em có tội không bị ngượng ngùng. Vấn đề không phải là đề cập đến những thiếu sót của kẻ khác, nhưng là liên hệ với người đã sai lầm, để “tranh thủ” người ấy. Vậy, ở đây không được nóng giận (x. Lv 19,17). Câu Lv 19,17 đi trước điều răn về tình yêu đối với người thân cận ở Lv 19,18, để nói rằng việc khuyến cáo một người anh em Israel phải là cách diễn tả tình yêu đối với người thân cận và tình liên đới bên trong lòng Dân Thiên Chúa. Cách làm này có thể đạt một kết quả tích cực: “chinh phục (ekerdêsas) được người anh em” (x. 1 Cr 9,19-22; 1 Pr 3,1). Hẳn đây là đưa người anh em về lại với Dân Thiên Chúa hay với Hội Thánh.

Cấp độ tiếp theo tiên liệu có nhiều người khác can thiệp vào, khi việc đối thoại riêng tư không đạt kết quả (c. 16). Họ phải thuyết phục người có lỗi về sự thiếu sót đã xảy ra. Bằng cách đó, những người này cho thấy rõ ràng là lời nhắc nhở của người đầu tiên không phải chỉ là cái nhìn riêng tư cá nhân, nhưng cũng được các anh em khác chia sẻ. Như thế, càng rõ là cả người lầm lạc cũng như người nhắc nhở đều không được phán đoán theo các tiêu chuẩn chủ quan. Cả hai đều được tháp vào cộng đoàn các tín hữu, nên cả hai đều được liên kết vào những quy tắc mà Đức Giêsu đã ban cho cộng đoàn.

Tính cách cộng đoàn của đời sống Kitô hữu này và của các quy tắc của cộng đoàn càng hiển nhiên hơn nữa ở cấp độ thứ ba (c. 17). Nếu vụ việc không thể làm sáng tỏ giữa vòng ít người, “nếu nó không nghe (parakousê) họ”, thì phải đưa ra trước Giáo Hội (ekklêsia). Đây là cộng đoàn Kitô hữu địa phương, trong tư cách không tách biệt, nhưng được tháp vào trong Hội Thánh duy nhất mà Đức Giêsu đã thiết lập trên “tảng đá” Phêrô (x. 16,18). Không phải là từng người Kitô hữu, nhưng là Hội Thánh mới có thể tuyên bố mộtphán đoán dứt điểm, nhằm nói rằng mộthành vi có phù hợp hay không với các quy tắc của Hội Thánh. Ai không nghe lời có khả năng làm sáng tỏ của Hội Thánh, thì tự đặt mình ra ngoài Hội Thánh: “hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế”. Đây không phải là lời kết án chung cuộc, nhưng theo cái nhìn của các Kitô hữu gốc Do Thái vẫn trung thành với Lề Luật, là không còn gì để làm với người ấy nữa. Quả thế, người ta không thể cho rằng mình thuộc về mộtcộng đoàn, đồng thời lại từ chối các quy tắc điều hành và đảm bảo đời sống cho cộng đoàn ấy. Ở đây vấn đề không chỉ là vi phạm mộtquy tắc, mà là từ chối chính quy tắc do người ta chống lại phán đoán của Hội Thánh. Ai nhìn nhận mình sai lỗi và thiếu sót với quy tắc, thì được cứu (x. c. 15); ai từ khước quy tắc, thì rời bỏ cộng đoàn.

* Cầm buộc và tháo cởi (18)

Rất có thể câu nói về “cầm buộc và “tháo cởi” này đã thuộc về truyền thống có trước Mt. Nếu Hội Thánh có thể công bố mộtphán đoán dứt điểm về điều gì phù hợp và điều gì không phù hợp với lối sống của mình, là vì dựa trên quyền tháo cởi và cầm buộc Đức Giêsu đã ban (c. 18); quyền này phải được thực thi phù hợp với các cơ cấu mà Người đã ban cho Hội Thánh (x. 16,18t; 10,1-42; 28,16-20). Trong quyền này có hàm chứa khả năng biết cách thuyết phục bằng các quy tắc của Đức Giêsu, phán đoán cách đáng tin cậy các trường hợp riêng lẻ và cho thấy các ranh giới của sự thuộc-về Hội Thánh.

* Sự hiện diện của Đức Kitô (19-20)

Thêm vào nguyên tắc tổng quát của c. 18, một lần nữa (palin) tác giả nói đến một nguyên tắc về cơ cấu. Lời Đức Giêsu dạy về cầu nguyện chung và về việc hội họp nhân danh Người lại nêu bật tầm quan trọng của hành động chung (cấp độ thứ hai ở trên). Ý tưởng ở đây không phải là việc cầu nguyện chung thì quan trọng hơn việc cầu nguyện cá nhân. Tác giả chỉ muốn nói đến việc những người cầu nguyện đồng ý với nhau về điều mà họ đang cầu xin. “Hai” là số người tối thiểu có thể đồng ý hay không đồng ý về một điều gì. Vậy lời đáp cho việc cầu nguyện tùy thuộc tương quan giữa các thành viên trong Hội Thánh. Những lời thỉnh cầu chỉ tập trung vào cá nhân sẽ không được chấp nhận.

Ở cuối lệnh truyền giáo, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 18,19t). Người ta sẽ không còn thấy được Người, nhưng Người sẽ hiện diện và hỗ trợ mạnh mẽ khi họ đi chu toàn lệnh Người truyền. Các môn đệ không bị bỏ mặc mộtmình, nhưng được Người để ý cùng đi với và giúp đỡ hữu hiệu. Người cũng hứa hiện diện như thế với những ai quy tụ lại nhân danh Người. Nguồn gốc và trung tâm của cuộc quy tụ là “danh Đức Giêsu”. “Danh” là chính bản thân Đức Giêsu mà các môn đệ đều quen biết; “nhân danh” có nghĩa là: vì tình yêu đối với Người, trong sự hiểu biết rõ ràng Người là ai và trong sự tuyên xưng về địa vị của Người. Đây là mộtcuộc quy tụ với ý thức sống động và tin tưởng vào ý nghĩa của Đức Giêsu và của tất cả những gì thuộc về Người, của sứ điệp và hành trình của Người. Các Kitô hữu quy tụ lại trong tinh thần này thì không bao giờ bị bỏ mặc cho chính mình, nhưng họ có Đức Giêsu ở giữa họ. Chính Người sẽ nâng đỡ sự hiệp nhất và hoạt động của họ.

+ Kết luận

Tình huynh đệ chân chính đòi hỏi các môn đệ của Đức Giêsu không được bỏ mặc mộtngười anh em đi vào cuộc phiêu lưu nguy hiểm (“phạm tội”), nhưng phải hết sức cố gắng đưa họ trở lại với đường ngay nẻo chính. Đàng khác, do tôn trọng đặc tính bó buộc và cứu độ của sứ điệp của Đức Giêsu, trong Hội Thánh, ta không được tùy nghi xử sự theo bất cứ cách nào, nhưng phải tôn trọng những giới hạn, phải tiến hành theo những cấp độ khác nhau. Dù sao, tất cả những gì cổ võ sự hiệp nhất nhân danh Đức Giêsu thì đều có thể chắc chắn là sẽ được Thiên Chúa hỗ trợ đặc biệt, và như thế sẽ góp phần vào việc kiến tạo Hội Thánh.

5. Gợi ý suy niệm

1. Như người mục tử không bỏ rơi nhưng đi tìm mộtcon chiên lạc, Thiên Chúa cũng không bỏ rơi bất cứ người nào. Trên nền tảng là cách hành động đó của Thiên Chúa, không mộtai được phép nói về mộtngười anh em: Tôi không quan tâm đến anh/chị ta! Trái lại, chúng ta buộc phải quan tâm đến người anh em chị em đi lạc. Chúng ta không được phép tránh né vì ích kỷ, lười biếng hay sợ hãi, hoặc bi quan về kết quả. Cũng không được rơi vào thái cực kia, đó là chỉ trích, trịch thượng và tự hào mình công chính.

2. Đức Giêsu tha thiết quy tụ những con người lại quanh Người để làm thành mộtcộng đoàn tín hữu và huynh đệ. Chúng ta nhớ: Đức Giêsu kêu gọi từng người để họ sống với nhau và cùng đi thi hành sứ mạng (x. Mt 4,18-25). Cách sống này ngược lại với cách mỗi người đi theo con đường của mình và không quan tâm đến đặc tính cộng đoàn của đời sống Kitô hữu (x. 18,15). Đàng khác, mộtnhóm lo lắng săn sóc mộtanh em có tội (c. 16) thì phải được quy tụ không phải nhân danh chính mình, nhưng nhân danh Đức Giêsu, để Cha Người sẵn lòng nhận các lời họ cầu xin.

3. Đức Giêsu không hề có ý đề nghị các thành viên trong cộng đoàn phải theo giám sát nhau và phân loại con người theo bậc thang giá trị luân lý. Các cách thức Người đề nghị chỉ là nhằm diễn tả đức bác ái. Chính Mt 18,14 cho ta hướng đúng để hiểu những lời khuyên này: “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất”. Đây là bổn phận săn sóc anh em về mặt thiêng liêng. Giúp đỡ mộtngười anh em chị em đang gặp khó khăn, chìa tay ra cho mộtngười anh em chị em đang rơi vào tội lỗi, là mộtđòi hỏi của tình yêu, mộtsự trung thành với công trình của Đức Giêsu. Chúng ta chịu trách nhiệm về nhau.

4. Chúng ta đi cầu nguyện để thờ phượng Đức Giêsu hiện diện trong Lời Người và trong Thánh Thể, nhưng cũng là để gặp anh chị em để hòa với lời cầu nguyện của họ. Khi chúng ta khiêm tốn và sốt sắng hòa hợp tâm trí và giọng điệu với nhau mà cầu nguyện, chúng ta nên mộttrong Thân Mình Chúa Kitô, chúng ta làm thành Nhiệm Thể Đức Kitô.

[Mục Lục]

Bài 2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật nầy, hòa hợp với nhau, nêu bật một chủ đề chung: yêu thương đồng loại.

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật nầy, hòa hợp với nhau, nêu bật một chủ đề chung: yêu thương đồng loại.

Ed 33: 7-9

Tư tế Ê-dê-ki-en thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình bên cạnh những người đồng hương bị lưu đày như ông ở Ba-by-lon (đầu thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên); ông cảm thấy mình chịu trách nhiệm về cách ăn nếp ở của anh em của mình.

Tv 95 (94): 1-2, 6-7, 8-9

Tác giả thánh vịnh mời gọi cộng đồng Dân Chúa hãy tôn thờ Đức Chúa là Chúa Trời cao cả và là Vị Mục Tử nhân lành (cc. 1-7a) với trọn tấm lòng yêu mến Ngài (cc. 7b-11).

Rm 13: 8-10

Thánh Phao-lô khuyên bảo các tín hữu Rô-ma thực hành tình tương thân tương ái. Bổn phận duy nhất, món nợ duy nhất mà chúng ta phải có đối với anh chị em của mình là Đức Ái.

Mt 18: 15-20

Trong Tin Mừng, thánh Mát-thêu trích dẫn những lời của Đức Giê-su mời gọi các Kitô hữu đừng để cho một người anh em nào của mình phải lạc mất mà không tìm cách sửa lỗi cho người ấy, nhiều lần nhiều cách khác nhau với thái độ tế nhị cần thiết.

BÀI ĐỌC I (Ed 33: 7-9)

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en sống vào cuối thế kỷ thứ bảy và đầu thế kỷ thứ sáu sau Công Nguyên. Vào lúc đó, hoàn cảnh đất nước thật bi thảm. Vương quốc Giu-đa bị họa diệt vong bởi đế quốc Ba-by-lon. Vua Na-bu-cô-đô-nô-so bao vây thành đô Giê-ru-sa-lem lần thứ nhất, vào năm 598-597, tiếp đó một phần dân cư bị lưu đày, nhất là thành phần ưu tú. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thuộc vào số những người lưu đày đầu tiên nầy. Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình chủ yếu bên cạnh những người lưu đày cho đến khi ông qua đời, vào năm 571 trước Công Nguyên.

Ê-dê-ki-en trước khi ngôn sứ, đã là tư tế, vì thế, ông mang lấy ở nơi mình vừa tinh thần ngôn sứ vừa tinh thần tư tế. Bản văn mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật nầy làm chứng điều nầy. Trách nhiệm ngôn sứ và trách nhiệm tư tế hợp nhất bất khả phân ly ở nơi ông. Khung cảnh là làng Tel-Avi bên bờ sông Cơ-va không xa kinh thành Ba-by-lon, ở đó vị ngôn sứ cùng với một số người đồng hương bị lưu đày. “Tel-Avi” nghĩa là “đồi lúa mì”.

Từ những biến cố, ngôn sứ Ê-dê-ki-en biết rút ra bài học. Các ngôn sứ đã kêu gọi vua, các bậc vị vọng và toàn thể dân chúng hoán cải, nhưng lời của các ngài không được lắng nghe, vì thế sự trừng phạt bất ngờ xảy đến. Nét độc đáo của sứ điệp mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en gởi đến nhấn mạnh “trách nhiệm của mỗi cá nhân”. Đó là ‎ý nghĩa lời kêu gọi của Đức Chúa mà chúng ta đọc trong đoạn văn nầy.

1. “Hỡi con Người”:

“Hỡi con người” (dịch sát từ: “con của con người”), chữ “con người” là đặc ngữ Sê-mít, có nghĩa đơn giản là “một con người”, “một cá nhân”, như trong câu: “Hỡi con người, Ta đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Ít-ra-en”, ở đây, danh xưng “con người” quy chiếu đến vị ngôn sứ. Đặc ngữ nầy thường xuất hiện trong các sấm ngôn của Ê-dê-ki-en với một nét nghĩa tiêu cực: “Ngươi chỉ là một phàm nhân”. Mỗi lần Thiên Chúa giao phó cho ông sứ điệp của Ngài, Ngài đặt ông vào vị thế của ông để ông khỏi phải tự cao tự đại về những thị kiến hay xuất thần mà Thiên Chúa gởi đến cho ông. Vị ngôn sứ phải xoá mình thành một loại vô danh tiểu tốt.

2. “Người canh gác cho nhà Ít-ra-en”:

Những hình ảnh: “người canh gác”“người canh thức”“truyền lệnh sứ”, được dùng để nói về sứ vụ ngôn sứ thì rất quen thuộc trong Cựu Ước. Ở đây, vị ngôn sứ được Thiên Chúa công bố đích danh là “người canh gác cho nhà Ít-ra-en” chứ không là người canh gác ở trên vọng đài tường thành nào đó. Ông sẽ là người canh gác ở giữa một đám dân, như bao nhiêu những phàm nhân khác, thậm chí như một người lưu đày trong số họ, không hơn không kém.

Xa hơn một chút, chính Ê-dê-ki-en gợi lên hình thức đơn giản của sứ vụ mình: “Phần ngươi hỡi con người, con cái dân ngươi bàn tán về ngươi dọc theo các bức tường và trước các cửa nhà. Chúng bảo nhau, người nọ nói với người kia: ‘Nào chúng ta đến nghe xem Đức Chúa phán thế nào!’. Chúng đến với ngươi đông như trẩy hội. Dân Ta ngồi trước mặt ngươi; chúng nghe các lời ngươi nói…” (Ed 33: 30-32). Trong những cuộc chuyện trò thân mật nầy, trong bầu khí thân quen của những cuộc giao tiếp gần gũi giữa người với người này, vị ngôn sứ có thể gởi đến cho từng người những lời cảnh báo đậm đà tình nghĩa huynh đệ.

3. Trách nhiệm cá nhân:

Đối với dân Thiên Chúa, “sống” tức là đón nhận những phúc lành của Thiên Chúa và “chết” chính là đánh mất ân huệ của Thiên Chúa, bởi vì Ngài là nguồn mạch của mọi thiện hảo đối với dân Ít-ra-en. Đây là kiểu nói quen thuộc của Cựu Ước để trình bày những huấn lệnh của Thiên Chúa trong viễn cảnh của một sự chọn lựa giữa sự sống và sự chết, hạnh phúc và bất hạnh, lời chúc phúc và lời nguyền rủa.

“Nếu Ta bảo đứa gian ác: ‘Tên gian ác kia, nhất định mi phải chết’, mà ngươi không nói để cảnh cáo nó phải từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó, đứa gian ác ấy, sẽ chết vì tội của nó, nhưng còn máu của nó, Ta sẽ đòi ngươi”. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en nhấn mạnh trách nhiệm của người biết huấn lệnh của Thiên Chúa và luật luân lý của Ngài, người ấy phải giúp anh em mình được hiểu biết ngọn nguồn. Vả lại, ông là vị ngôn sứ đầu tiên và vĩ đại nhấn mạnh sự thưởng phạt cá nhân: “Ai phạm tội, kẻ ấy phải chết; con không mang lấy tội của cha; cha cũng không mang lấy tội của con” (Ed 18: 20). Tuy nhiên, số phận của mỗi người không bất di bất dịch như đinh đóng cột: người công chính có thể trở thành tội nhân; kẻ tội lỗi cũng có thể hoán cải để trở thành một vị thánh. Sứ vụ của vị ngôn sứ được định vị ở nơi hành động nầy mà chính Đức Giê-su sẽ khuyên bảo các môn đệ của mình.

THÁNH VỊNH 95 (94)

Về hình thức, thánh vịnh này là một “thánh vịnh hỗn hợp” bao gồm một thánh thi (cc. 1-7a) và một sấm ngôn (cc. 7b-11). Về nội dung, thánh vịnh này thường được xếp vào loại các thánh vịnh ca ngợi vương quyền của Đức Chúa, cũng có thể liệt vào số các thánh vịnh phụng vụ ngôn sứ. Về bối cảnh, thánh vịnh có lẽ được dùng trong cuộc rước kiệu tiến về Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Đoàn rước kiệu khởi hành chẳng hạn từ Ghi-khôn nằm trong thung lũng Kít-rôn (x. 1V 1: 33), rồi tiến lên núi Xi-on (Tv 95: 1-5). Trước Nơi Cực Thánh diễn ra nghi lễ thờ lạy Thiên Chúa và cầu nguyện (Tv 95: 6-7a), rồi đoàn người rước kiệu nghe đọc và diễn giải Sách Thánh. Nghi lễ kết thúc với lời tuyên sấm của một viên chức phụng tự hay một phát ngôn viên của Lời Chúa trong Đền Thờ (Tv 95: 7b-11). Thánh vịnh này được cấu trúc như sau:

A.Mời gọi tôn thờ Đức Chúa là Chúa Trời cao cả và là Vị Mục Tử nhân lành (cc. 1-7a)

B.Mời gọi trọn một lòng trung thành với Đức Chúa (cc. 7b-11)

1-7a. Những đề tài về Đức Chúa như Đấng Cứu Độ và Đấng Sáng Tạo được đan quyện vào nhau: a.Đấng Cứu Độ (c. 1), b.Đấng Sáng Tạo (cc. 4-5), b’.Đấng Sáng Tạo (c. 6), a’.Đấng Cứu Độ (c. 7a). 1. “Tung hô Người là Núi Đá độ trì ta”“Núi Đá” ở đây và ở câu 8 ám chỉ tảng đá mà ông Mô-sê đã đập vào theo lệnh Chúa để từ đó nước chảy ra cho dân uống (x. Xh 17: 16; Ds 20: 11). 3. “Bởi Đức Chúa là Chúa Trời cao cả (“El”)”: El là vị thần đứng đầu các thần linh của dân Ca-na-an và là tên của vị thần tối cao. “Đại Vương trổi vượt chư thần”“Đại Vương” là tước hiệu mà các hoàng đế Cận Đông xưa xưng tụng mình (Tv 47: 3; 48: 3). 7a. “Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt”: X. Tv 79: 13; 100: 3. 7b-11. Thánh vịnh bất ngờ chuyển giọng sang lời cảnh báo về sự bất trung với Đức Chúa ở đây (x. Tv 81, trong đó cũng xảy ra một chuyển giọng như thế). 8. “Tại Mơ-ri-va…ở Ma-xa”: Theo Tv 81: 8, chính Thiên Chúa thử lòng dân tại Mơ-ri-va (x. Xh 17: 1-7). Hai địa danh này có nghĩa “gây chuyện” và “thử thách” hay “thách thức”11. “Chúng sẽ không được vào chốn an nghỉ của Ta”: Đặc biệt theo truyền thống đệ nhị luật, đất hứa là đất Thiên Chúa ban cho dân Ngài được nghỉ ngơi sau một cuộc hành trình dài lâu và đầy cam go (Đnl 12: 10; 25: 19; Gs 22: 4), vì thế đất này được Thiên Chúa quy chiếu là “chốn yên nghỉ của Ta”.

BÀI ĐỌC II (Rm 13: 8-10)

Chúng ta tiếp tục đọc phần luân l‎ý của thư gởi tín hữu Rô-ma. Thánh Phao-lô vừa mới nêu lên những bổn phận công dân mà người tín hữu phải phục tùng: vâng lời chính quyền dân sự, nộp thuế. Dù tất cả những nghĩa vụ nầy phải chu toàn, chúng ta vẫn phải là những kẻ mắc nợ đối với anh em đồng loại: món nợ tương thân tương ái không bao giờ trả hết được.“Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì yêu mến người, thì chu toàn lề luật”. Thập Giới mời gọi phải tôn trọng nhân phẩm của tha nhân và của cải của họ, nhưng không đề cập cách minh nhiên bổn phận yêu thương đồng loại. Bổn phận yêu thương đồng loại được sách Lê-vi 19: 18 công bố và thánh Phao-lô cũng trích dẫn: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình”.

Theo Cựu Ước, anh em đồng loại trước hết những người cùng chung một chủng tộc, một quốc gia, như chữ “đồng bào” của người Việt Nam. Đức Giê-su đã mở rộng tầm mức của huấn lệnh yêu thương đến tất cả mọi thành viên của cộng đồng nhân loại, không có bất kỳ ngoại trừ nào, thậm chí phải yêu thương kẻ thù nữa. Thánh Phao-lô nêu lên không chỉ luật Mô-sê, nhưng cũng luật mới của Đức Ái Kitô giáo nữa. Ở đây, thánh nhân không đề cập đến huấn lệnh thứ nhất, huấn lệnh yêu mến Thiên Chúa, vì lời khuyên bảo của thánh nhân nhắm đến đức ái huynh đệ, vì thế huấn lệnh yêu thương đồng loại bất khả phân ly với huấn lệnh yêu mến Thiên Chúa: từ yêu mến Thiên Chúa mà yêu thương đồng loại được khơi nguồn. Nếu yêu thương đồng loại là vô giới hạn, vì mẫu gương của tình yêu Thiên Chúa đối với con người thì vô cùng. Ở đây, vị sứ đồ nhấn mạnh tình tương thân tương ái, đó là “chu toàn lề luật”.

TIN MỪNG (Mt 18: 15-20)

Trong chương 18 nầy, thánh Mát-thêu tập hợp lại những huấn lệnh của Đức Giê-su được ngỏ lời với nhóm Mười Hai, hoa trái đầu mùa của Giáo Hội Ngài. Diễn từ nầy cũng được gọi “diễn từ về Giáo Hội”.

1. Sửa lỗi anh em:

Việc sửa lỗi anh em mà Đức Giê-su mời gọi các môn đệ Ngài thực hành cho nhau được nhắm đến trong luật Mô-sê, được ghi trong sách Lê-vi: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó” (Lv 19: 17). Câu trích dẫn nầy đi gần sau huấn lệnh: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19: 18). Như vậy, việc sửa lỗi cho anh em thuộc về luật đức ái.

Theo truyền thống Do thái giáo, người ta không được truy tố kẻ phạm tội mà không cảnh báo trước trong chốn riêng tư. Vào thời Đức Giê-su, các kinh sư phàn nàn là người ta không thực hiện tập tục tốt đẹp nầy. Đức Giê-su phục hồi tập tục nầy trong tinh thần yêu thương. Ngài đề nghị ba giai đoạn trong việc sửa lỗi huynh đệ:

- Sửa lỗi anh em trong chỗ riêng tư kín đáo, không ai hay biết.

- Nếu lần đầu tiên không có kết quả, tiếp tục lần thứ hai với sự hiện diện của một hay hai người khôn ngoan để kẻ sai lạc thấu tình đạt lý. Biện pháp nầy tránh cho tội nhân khỏi bị sỉ nhục ở nơi cộng đoàn.

- Nếu lần nầy cũng thất bại nữa, lúc đó mới thưa với cộng đoàn. Nếu người anh em nầy không chịu nghe cộng đoàn, chỉ lúc đó người nầy mới có thể bị loại trừ hay bị kể như một người dân ngoại hay một người thu thuế, nghĩa là một người mà người ta tránh mọi giao tiếp.

Đức Giê-su dự phòng các môn đệ của Ngài – sau họ, các cộng đoàn Kitô hữu – tránh tất cả mọi hình thức loại trừ một thành viên quá tàn nhẫn. Nhưng Ngài còn muốn hơn nữa rằng chúng ta noi gương vị mục tử nhân lành ra đi tìm kiếm con chiên lạc. Chắc chắn không phải là ngẫu nhiên khi những lời khuyên sửa lỗi anh em nầy được xếp đặt ngay liền ngay dụ ngôn“con chiên lạc” (Mt 18: 12-14). Giáo Hội phải bày tỏ sự ân cần như thế đối với người sai phạm.

2. Viễn cảnh Giáo Hội:

Đức Giê-su định vị bổn phận sửa lỗi anh em và những biện pháp kỷ luật mà cộng đoàn Kitô hữu áp dụng trong khung cảnh thiết lập Giáo Hội của Ngài. Chính như vậy mà Ngài mở rộng quyền năng cho Tông Đồ Đoàn, mà trước đây Ngài đã trao phó cho thánh Phê-rô: “Tất cả những gì dưới đất anh em cầm buộc, trên trời cũng cầm buộc như vậy; tất cả những gì dưới đất anh em tháo cởi, trên trời cũng tháo cởi” (Mt 16: 19). Và Ngài sẽ lập lại quyền năng nầy cho họ sau khi Ngài phục sinh (Ga 20: 23).

Đức Giê-su thêm vào ở đây một lời hứa khác: Ngài sẽ luôn luôn hiện diện ở giữa các tín hữu của Ngài khi họ họp nhau lại mà cầu nguyện, dù chỉ hai hay ba người đi nữa. Cha Ngài, Đấng ngự trên trời sẽ lắng nghe và đáp trả lời cầu xin của họ, bởi vì Đấng cầu bầu cho họ không ai khác ngoài “Đức Giê-su đích thân ở giữa họ”. Xem ra Đức Giê-su ám chỉ đến truyền thống kinh sư, theo đó khi hai hay ba người Ít-ra-en họp nhau lại để học hỏi Lề Luật, Thiên Chúa ở với họ. Nhưng ở đây Đức Giê-su đặt mối liên hệ của các Kitô hữu với Chúa Cha nhờ và trong lời cầu nguyện. Sự hiện diện của Thiên Chúa được đảm bảo qua sự hiện diện của Ngôi Lời làm người, gần gũi với con người hơn bao giờ hết.

[Mục Lục]

Bài 3. Chú giải theo Fiches Dominicales: CÓ TRÁCH NHIỆM VỚI NHAU

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

1. Giáo Hội, một cộng đoàn huynh đệ.

Sau lần thứ nhất loan báo cuộc khổ nạn, Đức Giêsu cùng các môn đệ rời miền “Cêsarée Phiìipphê” đi lên Giêrusalem. Sau cuộc biến hình trên núi, giờ đây Ngài tới Capharnaum, tại đó, theo Matthêô Ngài đã loan báo diễn từ thứ tư trong Phúc âm Matthêu “diễn từ về đời sống Giáo Hội”. Những hướng dẫn, giúp cho cộng đoàn mà Ngài sáng lập phản ảnh được hình ảnh của “Cha trên trời”.

J. Potin báo trước: “Trong chương 13 này, Matthêu đã tập họp lại những lời nói khác nhau của Đức Giêsu về đề tài cộng đoàn. Rất nhiều lời đã được Đức Giêsu nói với các môn đệ trong tình thân mật, nhất là trong những tháng ngày Ngài bỏ Galilê để chuẩn bị lên Giêrusalem. Đức Giêsu chuẩn bị cho các môn đệ sống trong một bầu khí yêu thương huynh đệ, khi phải xa lìa Ngài sau cuộc khổ nạn. Bất kể tương lai có ra sao, tinh thần quan tâm tới những kẻ bé nhỏ, yếu ớt tinh thần tha thứ lẫn cho nhau này phải tràn ngập cộng đoàn. Bốn mươi năm sau, lúc Matthêô viết Phúc âm, những lời mời gọi của Đức Giêsu vẫn còn hiện thực. Cộng đoàn mà Ngài nhắn nhủ gồm các Kitô hữu gốc Do Thái lẫn gốc dân ngoại, thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Đời sống cộng đoàn giữa anh chị em đôi lúc có khó khăn. Tới những lời Đức Giêsu nói với nhóm các môn đệ vẫn còn là thực tế. Chính vì thế, tác giả Phúc âm đã gom chúng vào trong một diễn từ, quảng diễn một chút cho phù hợp với Giáo Hội “của ông”, nghĩa là cộng đoàn của ông. Trước tiên, Đức Giêsu miêu tả cộng đoàn các môn đệ của Ngài như một cộng đoàn đặc biệt quan tâm tới những kẻ “bé nhỏ” tin vào Chúa, những Kitô hữu mà đức tin còn rất mỏng manh (18,1-10) và lo lắng cho những “con chiên lạc, người Kitô hữu tránh xa cộng đoàn và liều mình hư mất (18,12-14). Ngài trình bày một cộng đoàn sống động thực hành sự nâng đỡ và tha thứ lẫn cho nhau. Đó là thái độ phải có đối với một người “anh em” đã “phạm tội”.. Đó là thái độ phải có khi anh chị em bất hoà, xung khắc.

2. …Thực hành sự tương trợ và tha thứ lẫn cho nhau

Sửa đổi anh em: một việc làm có tính chất Tin Mừng. Chỉ có sự âu yếm của Người Mục Tử tốt lành mới làm ta hiểu được hết chiều sâu của đoạn Phúc âm nói về người “anh em” đã “phạm tội” này. Bản văn không nói về tính chất của tội, nhưng lời Đức Giêsu cho thấy đó là một xúc phạm đến Thiên Chúa và xúc phạm đến một người anh em, đó cũng là một việc liên quan đến Giáo Hội, cộng đoàn Kitô hữu. Qua những luật lệ và các thực hành ít nhiều phịu ảnh hưởng của Do Thái giáo, việc xoá lỗi anh em vừa giúp duy trì sự hài hoà trong Giáo Hội vốn bị đe doạ vì lỗi của một thành viên trong cộng đoàn, vừa giúp che chở tội nhân khỏi những biện pháp khắc nghiệt, vội vã. Vì thế tác giả Phúc âm nhấn mạnh trên yếu tố xem ra nền tảng nhất đối với Ngài: đòi hỏi của Phúc âm về việc nâng đỡ, lòng thương xót và sự tha thứ lẫn cho nhau. Chính tinh thần ấy đã làm phát sinh ra những cuộc vận động tiệm tiến nhiều đợt nhằm chinh phục người anh em lầm lạc mà nếp sống làm tổn tưởng sự duy nhất và chứng tá của toàn thể cộng đoàn Kitô hữu. Mục đích không phải để hoà giải với một anh em như trong Luca 17,3, nhưng là để “chinh phục”người anh em này, để đưa người ấy về với Chúa, đồng thời cũng về với cộng đoàn mà anh đã xa lìa vì tội lỗi. Sửa lỗi anh em: một cuộc vận động tiệm tiến. Bước 1, nói chuyện riêng, kín đáo giữa một người anh em với một người anh em mà anh có quyền mong đợi sự giúp đỡ ngược lại trong trường hợp chính anh ta lầm lỗi. Đó không phải là hạ nhục người tội lỗi, nhưng là giúp anh nhận ra lầm lỗi. Bước 2: nếu bước 1 không đem lại kết quả mong đợi sẽ đến bước 2: gặp gỡ có 2 hoặc 3 chứng nhân, theo đề nghị của sách Đệ Nhị luật 19, 1 như đã từng dược thực hành, dưới sự chứng giám của Phaolô, trong cộng đoàn tín hữu tại Côrintô (2Cr 13,l). Sự hiện diện của các chứng nhân báo đảm cho tính khách quan, đồng thời đưa vào đó 1 yếu tố cộng đoàn, dù luôn luôn kín đáo. Bước 3: nếu vẫn không có kết quả, ta còn một phương thế cuối cùng: đưa ra trước Giáo Hội: “trình bày sự việc trước cộng đoàn Giáo Hội”. Nếu tội nhân từ chối nghe Giáo Hội, thì, theo như bài Phúc âm, “ta hãy coi họ như người ngoại và người thu thuế”. Một công thức dứt khoát không phải là một khinh miệt hoặc kết án: Đức Giêsu đã trở nên “bạn bè với những người thu thuế kia mà. Công thức ấy chỉ tuyên bố rằng người tội lỗi tự loại trừ mình ra khỏi cộng đoàn và Giáo Hội chỉ chứng nhận sự tách lìa này và sẵn sàng đón nhận lại người mà một ngày nào đó, hy vọng thế, sẽ được ơn thánh thay đổi, giải phóng sửa lỗi anh em: một cuộc vận động từ đầu đến cuối đều nhờ lời cầu nguyện của cộng đoàn. Lời cầu nguyện theo dõi và yểm trợ tiến trình này từ đầu đến cuối. Lời cầu nguyện vẫn tiếp tục cả khi tội nhân đã lìa xa Giáo Hội, van nài cho người anh em lầm lạc được ơn hối cải. Đó là một lời cầu nguyện có sức nặng của sự hiện diện của Đấng đã hứa: “Khi có 2, 3 người tụ họp lại nhân danh Ta, Ta ở giữa họ”? C. Tassin bình luận: “Vì chính danh thánh Đức Giêsu đã qui tụ các tín hữu lại, nếu họ thực sự tụ họp lại chỉ để hành động nhân danh Ngài trong những vấn đề khó, họ chắc chắn họ sẽ có sự hiện diện chủ động và hiệu quả của Ngài. Vậy một coi sự thực hành việc “sửa lỗi anh em” là một bổn phận của các cộng đoàn tín hữu Ngài nhấn mạnh đến bầu khí cầu nguyện và ý chí hành động “nhân danh” Đức Kitô. Chính Đức Kitô sẽ nối kết mọi người đã tham dư cuộc vận động này”.

BÀI ĐỌC THÊM:

1) Việc sửa lỗi anh em (Mgr. L. Daloz, Le Règne des cieux s’est approché, DDB )

Đoạn Phúc âm này đưa ra một tiến trình hoà giải một trường hợp tế nhị trong đời sống các cộng đoàn: “Phải lành gì khi anh em ngươi phạm tội”. Câu trả lời không dễ Đức Giêsu nói gì? Hãy đi tìm nó và trách móc! Đó không phải là cách hành động. Ta thường cho rằng đó là việc cá nhân của người đó “vấn đề của nó” và rằng nó có tự do! Can thiệp, tìm gặp và trách móc, chẳng phải là tôi đã pha mình vào những việc không có liên hệ đến tôi, xen vào đời tư cá nhân; không kín đáo, không khoan nhượng, và liều mình gây gổ với anh ta sao? Ngay trong mối tương quan giữa tín hữu với nhau, ta vẫn thường hành xử như người đời quen làm trong xã hội. Ta không muốn pha mình vào công việc của người khác, ta né tránh. Dĩ nhiên trước khi can thiệp ta phải kiểm chứng xem có nên trách móc không, làm cách nào cho có kết quả. Hơn nữa xã hội ta đang sống khác với xã hội thời Đức Giêsu. Ta ít cảm thấy liên đới hơn. Tự do cá nhân là một cuộc chinh phục tương đối mới, và tuyên ngôn Nhân quyền là một hiến chương phần lớn dựa trên những tự do cá nhân này. Ta không muốn phá huỷ nó vì người khác và ta cũng không muốn người khác can thiệp vào đời sống, tư cách của ta. Ta khó chịu khi có ai đến cho ta một bài học luân lý! Còn nữa, thường thường điều mà ta không muốn nói trước mặt người khác, ta lại ít tế nhị khi nói sau lưng họ…

Đức Giêsu đã nêu lên thái độ phải giữ trong cộng đoàn môn đệ của Ngài. Ta không thể rập khuôn cách làm của ta theo những gì diên ra chung quanh. Cảm thấy có liên hệ đến những hành vi của anh em, đó là chuyện bình thường. Chính vì thế mà Đức Giêsu nói: Nếu anh em ngươi phạm tội… Anh em ngươi, đâu phải là người xa lạ, ngươi không thể nói rằng tội lỗi của nó không liên hệ gì tới ngươi. Vì sự sống của anh em ngươi, sự sống vĩnh cửu của anh ta, liên đới ngươi lắm chứ. Khi yêu ai, ta đâu dửng dưng để mặc người ấy lún sâu vào sự dữ. Ta sẽ tìm dịp cảnh tỉnh, giúp đỡ không làm anh ta phật lòng, không la mắng anh. Lỗi khuyên dạy của Đức Giêsu giả thiết ta phải có mối liên lạc huynh đệ. Phải chăng đó là vấn đề cần đặt ra cho đời sống cộng đoàn chúng ta? Có tình thân rồi, ta có thể nói với nhau nhiều chuyện, giúp đỡ nhau nhiều việc. Trách móc không có nghĩa là nói nặng lời, hung hăng, dữ tợn. Trái lại lời khuyên của Đức Giêsu kêu gọi ta hành động với sự tế nhị: “Nếu anh em ngươi phạm tội, hãy đi gặp và trách móc nó giữa hai người với nhau. Sự kín đáo của cuộc vận động tránh đưa tội lỗi ra công khai. Điều này hoàn toàn phù hợp với một mối liên lạc cá nhân, huynh đệ. Và Đức Giêsu nhấn mạnh đến mục đích của cuộc vận động: đó là cứu lấy anh em, chinh phục anh em, để nó đừng hư mất: nếu nó nghe ngươi, ngươi đã lợi được một người anh em. Đó không phải là lời nói gắt gỏng, của thói phê bình chỉ trích, hay đối nghịch. Đó không phải là từ ngữ hạ nhục, là sự dò xét chế tài của kẻ bề trên. Ai tiến hành cuộc vận động ấy cũng phải sẵn sàng đón nhận sự trách móc ngược lại.

2) Mô hình của mọi cuộc hoà giải trong Giáo Hội.

Trong chương 18 mà ta quen gọi là “diễn từ về cộng đoàn các môn đệ”, là sự miêu tả một tiến trình hoà giải trong Giáo Hội tạo nên, một cách nào đó, mô hình căn bản cho mọi hoà giải trong Giáo Hội. Đó là một tiến trình bao gồm cả gặp gỡ của cá nhân lẫn vận động của cộng đoàn. “Nếu anh em ngươi phạm tội, hãy đến nói với nó…” (Mt 18,15). Một cuộc hoà giải thực sự luôn luôn đòi có một tiếp xúc cá nhân bằng cách nào đó. Giáo Hội luôn ý thức về tầm quan trọng của tiếp xúc này. Chính vì thế, ở mọi thời, dù phép cáo giải có mặc hình thức nào đi nữa, vẫn luôn luôn dành chỗ cho một đối thoại cá nhân. Một đối thoại như thế thường rất khó khăn – Chính Đức Giêsu đã có kinh nghiệm đau đớn về điều đó – nhưng không phải vì thế bỏ cuộc: “nếu nó không nghe ngươi, hãy nhờ 1 hoặc 2 ngươi khác đi với ngươi… nếu nó từ chối nghe họ, hãy đưa ra cộng đoàn Giáo Hội…” (Mt 18,16-18). Hãy ghi nhận sự tiệm tiến của những phương thế được sử dụng để thoát ra khỏi tình trạng gãy dỗ: đó là phối hợp những cố gắng để nối lại đối thoại, nói lên sự thực và tìm lại được sự hiệp thông. Chính nhờ cộng đoàn mà quyết định được thi hành, trước mặt cộng đoàn mà sự hoà giải phải được ký kết. Trong trường hợp sự hoà giải thất bại, Phúc âm nói tiếp: nếu nó từ chối nghe Giáo hội, hãy coi nó như người ngoại hoặc như người thu thuế…. Rất nhiều nhà bình luận đã chú giải lời nói như kết án, loại trừ này: nhưng ta có thể hiểu một cách hoàn toàn khác hẳn, dưới ánh sáng của Phúc âm: vào thời Đức Giêsu, từ ngữ “ngoại đạo” chỉ những người, tuy theo một đạo (thời đó ai mà không có đạo?) nhưng vẫn chưa quay trở về với Thiên Chúa Hằng Sống và Chân thật còn về “những người thu thuế vào thời chiếm đóng của đế quốc La-mã, họ khép mình trong một hệ thống bất công. Tuy nhiên, trong Phúc âm ta thấy Đức Giêsu, dù người Do Thái đạo đức lấy làm vấp phạm, vẫn ăn uống với những người thu thuế, dưới ánh sáng của thái độ của Đức Giêsu, đối xử ai như “kẻ ngoại đạo và người thu thuế là một lời mời gọi hãy có thái độ đồng hành với những người, mà vì lý do nào đó, vẫn chưa có đức tin hoặc đóng kín trong sự bất công và không thể tự mình thoát ra. Họ chưa đón nhận được Tin Mừng của một Thiên Chúa “không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn ám hối và được sông (Ez 18, 23). Chính trong bối cảnh cầu nguyện cộng đoàn mà sự hoà giải có thể được thực hiện. Điểm cốt yếu trong cuộc vận động không gì khác hơn là ơn tha thứ của Thiên Chúa. Ở đây ta gặp lại lời tuyên bố long trọng: “Thật, Ta bảo thật các người, điều gì các con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc và điều gì các còn cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở (Mt 18,18). Lời nói đó được sử dụng để nói lên uy quyền của Phêrô là đầu Giáo Hội (Mt 15,19). Nhưng Đức Giêsu nói thêm: “… Ta lại bảo các ngươi: nếu hai người dưới đất hiệp ý với nhau” và xin sự gì, Cha Ta trên trời sẽ ban cho họ (Mt 18,19-20). Đây không đơn thuần là một giải quyết giữa anh em loài người, nhưng là cùng nhau đến trước tình yêu Thiên Chúa, chỉ mình Ngài có quyền Trong một bối cảnh như thế, người thi hành tác vụ hoà giải phải cư xử không phải như chủ nhân của sự tha thứ nhưng phải như tôi tớ của sự tha thứ của Thiên Chúa mà chính đương sự là kẻ đầu tiên được thụ hưởng. Trong lịch sử, mô hình Phúc âm này có lẽ đã được ứng dụng nhiều cách khác nhau mà chúng ta đã phần nào được thừa kế.

[Mục Lục]

Bài 4. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt: ANH EM SỬA LỖI NHAU

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Nếu anh em ngươi trót phạm tội”: câu giả thiết này từ môi miệng Chúa Giêsu thốt ra trước tiên cho thấy rõ ràng al2 Giáo Hội không bao gồm những kẻ hoàn thiện, song là những tội nhân. Sáng kiến Chúa Giêsu khuyên kẻ chứng kiến lỗi anh em nên làm, xem ra mâu thuẫn với lời Người nói trong Diễn từ trên núi về “cọng rác và cái xà” (7, 1- 5). Nhưng động từ được dùng ở đây olegohô, (sửa lỗi, trách cứ) – cũng là động từ trong Ga 16, 8 xác định hành động của Chúa Thánh Thần “sẽ bắt lỗi thế gian” – cho thấy rõ một công việc như thế phải được thực hiện trong tình bác ái và phải diễn tả, không phải một sự khiển trách đầy khinh miệt hay quát mắng kiêu căng, nhưng là niềm hy vọng rằng một nỗ lực vì sự thật như thế sẽ tạo dịp cho hành động của Chúa Thánh Thần, Đấng duy nhất minh xác được tội trạng và dẫn tội nhân ăn năn thống hối. Nếu người đáng khiển trách chịu nghe lời sửa lỗi, đó sẽ là một chiến thắng của Chúa Thánh Thần? “Ngươi đã lợi được anh em người”. Không phải “lợi được” một người bạn hay một nạn nhân trong một cuộc chiến đấu, nhưng là lợi được một phần tử của Giáo Hội mà người đó sắp lìa bỏ đi.

“Hãy kèm theo ngươi một, hai người nữa”: Chỉ thị này nhấn mạnh đến sự kiên nhẫn phải có đối với tội nhân bướng bỉnh: bản văn Đnl 19, 15 mà chỉ thị này tham chiếu, đã đưa ra một lô biện pháp nhằm bảo vệ tội nhân khỏi sự độc đoán và việc vội vã áp dụng các biện pháp trừng giới. Đây không phải là những chứng nhân buộc tội mà ngươi ta đã kiếm lấy từ trước vì như thật thì thật là ghê tởm, song là những người trợ lực những kẻ có nhiều cơ may thành công nhất trong việc sửa lỗi tội nhân, trước khi phải nại đến thẩm quyền cao hơn hết.

“Hãy thưa với cộng đoàn (Thật là đáng tiếc khi BJ và Nguyễn Thế Thuấn dịch như thế, vì bản Hy ngữ nói rõ ràng “Giáo Hội”. Câu này, với 16, 18, là hai nơi duy nhất trong 4 Tin Mừng dùng chữ ekklêsia): Việc đưa tội nhân ta trước Giáo Hội không phải là một sự xét xử, song là một việc long trọng khuyên dụ hoán cải nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Trong trường hợp này, Giáo Hội chẳng còn làm gì khác hơn là công bố chính sứ điệp của mình: lời ân xá và tha thứ; nhưng lời này sẽ trở thành lời xét xử đối với những ai bác bỏ, khước từ. Chính vì công bố sứ điệp đó mà cộng đoàn nhận được quyền cầm buộc và tháo cởi (c. 18). Quyền bính của cộng đoàn không phải là quyền bính của một tòa án hay một cơ quan tài phán nhân loại đâu, vì nó hệ tại ở việc đặt lương tâm con người đối điện với Thiên Chúa công bình và nhân ái. Kết quả là kẻ “chẳng màng nghe Giáo Hội”, nghĩa là từ chối nghe lời mời gọi ăn năn, thì đương nhiên tự loại trừ khỏi cộng đoàn được xây dựng trên ân sủng trong Chúa Kitô đó; đương sự không còn là “anh em” nữa. Điều y đã làm khi phạm tội (cách riêng tư), giờ đây cộng đoàn chỉ còn công khai xác nhận và đòi y phải trả lẽ. Y đã tự tách khỏi cộng đoàn vì tội của y, nên cộng đoàn mới chứng thực sự kiện bằng cách ghi nhận y đã từ chối nắm bàn tay đưa ra để lôi y vào.

“Mọi điều dưới đất các ngươi cầm buộc”: Việc chuyển đột ngột từ số ít sang số nhiều nầy đặt ra vấn đề ý nghĩa của chữ “các ngươi”. Chúa Giêsu ngỏ lời với ai đây? Có kẻ nghĩ là các sứ đồ những người chấp chưởng và là yếu nhân trong phẩm trật Giáo Hội, hay một cách thái quá, là mỗi cá nhân Kitô hữu, cái nghĩa đã bị công đồng Trentô lên án nhưng không đưa ra một lời giải thích đích xác tích cực nào. Văn mạch bảo ta xem chữ các ngươi ấy là toàn thể các môn đồ có một trách nhiệm mục vụ trong cộng đoàn địa phương (xem cc.2. 10. 12. 13, nơi có cùng một chữ các ngươi như thế); nghĩa này đã được thánh Tôma bênh vực. Lời đây cũng song song với lời đã được nói dưới dạng thức một lời hứa cho Phêrô (16, 19). Chắc chắn Chúa Giêsu không có ý truất bãi quyền đã ban cho Phêrô như cho viên.quản gia của mình, nhưng đúng hơn Người muốn liên kết các môn đồ với kẻ nắm giữ chìa khóa ấy.

“Nếu hai người trong các ngươi “: Thoạt nhìn, giây liên lạc giữa các câu 19-20 với những gì đi trước không rõ ràng cho lắm. Kỳ thực có sự liên tục và khai triển cùng một chủ đề: mọi phán định chính thức của Giáo Hội sẽ được phê chuẩn ở trên trời và ngay cả mọi lời cầu xin của một số người hiệp nhau trong đức tin cũng sẽ được trên trời đoái nhậm. Khi hai người họp nhau trong đức tin trước nhan Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô là họ đứng với nhau trên cùng mảnh đất vững chắc của ân sủng, là họ nhận biết mình được hiệp nhất bởi cùng một lòng nhân ái, cùng một lòng tha thứ khiến họ thành anh em, thành conc ái của Cha trên trời. Nơi đâu người ta hiệp nhau “nhân danh Chúa Giêsu”, nghĩa là không phải trong niềm kiêu hãnh thiêng liêng và đức công chính riêng biệt, nhưng là trong việc cung xưng mình là “bé nhỏ”, trong việc nhìn nhận mình là tội nhân, thì chỉ nơi ấy mới có sự đợi chờ trong đức tin và vì thế sẽ được nhậm lời; Chúa Kitô ở đâu, Giáo Hội ở đó vậy.

“Ta ở giữa họ”: Trong sách “Tuyển tập danh ngôn tiên tổ”, một phần khả kính của truyền thống giáo sĩ Do thái, có một lời diễn tả cùng ý tưởng về lệ luật của dân Thiên Chúa: Khi hai người cùng ngồi bàn luận về những lời của sách Torah, thì Shékinah ở giữa họ” (Pirqé Abot 3,2). Thế mà Shékinah (tiếng Hy bá có nghĩa nơi ở”) thoạt tiên chỉ Đám mây sáng chói (Xh 40, 34-38;Cv 16,2) bay lượn giữa hai thần Kérubin trên nắp hòm bia. Đám mây sáng chói này được xem như là vật biểu lộ cách hữu hình việc cư ngụ thường xuyên của Giavê ở giữa dân Ngài. Bây giờ chính Chúa Giêsu hiển vinh đang ở giữa môn đồ Người, một cách gần gũi hơn bất cứ ai ở giữa những người khác.

KẾT LUẬN

Đoạn văn này cho ta thấy rõ mối giây liên kết mật thiết giữa tội lỗi của một cá nhân với đời sống của cả cộng đoàn. Tội ấy chẳng những liên can lời Giáo Hội chính thức, tới cái mà ngày nay la gọi là bí tích cáo giải, song còn liên hệ chặt chẽ với trách nhiệm của mọi phần tử trong cộng đoàn. Đây là một trách nhiệm được san sẻ và được diễn tả cách rõ ràng phân minh. Trước tiên mỗi người có bổn phận khuyên bảo anh em mình, rồi phải có nhiều người đến tiếp tay giúp đỡ, cuối cùng nại đến thẩm cấp tối cao, đến toàn thể cộng đoàn. Bình diện tích được nối kết với bình diện ngoại bí tích, và cả hai trực tiếp liên hệ đến việc cứu rỗi kẻ đã phạm tội.

Ngoài ra đoạn này còn cống hiến một hình ảnh rất sâu xa và rất đẹp về Giáo Hội. Giáo Hội hiện hữu khi người ta cùng tuyên xưa niềm tin vào danh Chúa Giêsu, cái danh mà nhờ đấy ta được cứu rỗi (Cv 4, 12). Và trong việc tuyên xưng đó. Chúa Giêsu trở nên hiện diện. Thiên Chúa ở giữa loài người như vậy đó. Ngài là Emmanuen, Thiên-Chúa-ở-cùng- chúng-ta. Chính sự hiện diện của Ngài qui hướng lời cầu nguyện chung và đảm bảo chắc chắn lời đó sẽ được chấp nhận. Chính nhờ sự hiện diện của Ngài mà lời phán quyết của cộng đoàn mới có sức mạnh thần linh. Sau cùng chính sự đảm bảo đó là lý do khiến Giáo Hội vững lòng cậy trông và không ngừng hân hoan trên cõi thế.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Không thể có vấn đề chú giải phần đầu của bài Tin Mừng hôm nay (việc anh em sửa lỗi nhau) như là lời khuyến khích dò xét các người cùng xứ đạo với mình và nhận định họ theo giá tn luân lý của họ. Tất cả mọi lời khuyên đây của Chúa Giêsu chỉ có thể được hiểu như một biểu thức của tình bác ái.

Vì ta thấy chúng đi tiếp sau câu: “Nơi Cha các ngươi Đấng ngự trên trời không hề có ý để mặc hư đi một người nào trong những kẻ nhỏ này”. Và thật thế, ở đây Chúa Giêsu muốn nhắc lại cho ta việc ân cần săn sóc anh em ta về mặt tinh thần, thiêng liêng. Giúp một người anh em đang gặp khó khăn, đưa tay đỡ nâng một người anh em đang trong vòng tội lỗi, là một yêu sách của tình yêu, một lòng trung tín với công việc của Chúa.

2. Nếu có một vài Kitô hữu chuyên xía vào chuyện thiên hạ, thì ngược lại có một số Kitô hữu khác lại kém dấn thân, chỉ biết mình với Chúa. Thế mà ở đây Chúa Giêsu dạy rằng tất cả chúng ta đều có trách nhiệm với nhau. Tôi không thể hững hờ trước tình cảm thiêng liêng của anh em tôi. Và vì chẳng ai thoát khỏi lầm lỡ hay yếu đuối nên rất có thể một ngày kia người khác cũng sẽ có dịp thi hành đối với tôi cái bổn phận nâng đỡ thiêng liêng ấy. Có lẽ họ sẽ sẵn sàng làm việc này, nếu họ đã thấy chính tôi thi hành với tất cả sự tế nhị và nhân ái cần thiết. Trong cộng đoàn môn đồ của Chúa Giêsu. “Không ai là một hòn đảo”….

3. Sở dĩ ta đến nhà thờ cầu nguyện, chính là để thờ lạy Chúa Giêsu đang hiện diện cách thể lý ở đó, dưới hình bánh hình rượu. Nhưng cũng là để gặp lại anh em ta và hiệp nhất với họ trong kinh nguyện. Và khi, trong một lời nguyện cầu đầy sốt sắng và khiêm tốn, ta đồng tâm nhất với trí kết hợp với anh em trong Giáo xứ, thì ta không chỉ ở trước Mình Thánh Chúa Kitô đang hiện hiện trong nhà tạm mà thôi, mà còn ở trong Mình thánh Người, và làm thành Nhiệm thể Người, vì Chúa Giêsu đã nói:Người sẽ hiện diện giữa ta. Và bấy giờ Chính Chúa Giêsu cầu nguyện ở trong ta. Làm sao chúng ta lại không được nhận lời vì Người đã long trọng tuyên bố: “Lạy Cha, con biết Cha hằng nhậm lời con” (Ga 11, 42)?

[Mục Lục]

Bài 5. Suy niệm của Noel Quession

Đức Giêsu bảo các môn đệ: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình”.

Đoạn Tin Mừng ngày hôm nay được trích từ bài giảng lớn thứ tư của Đức Giêsu, theo cách bố cục Tin Mừng của Matthêu. Đây là những giáo huấn về đời sống “cộng đoàn”.

“Cộng đoàn” mà chắc chắn Matthêu nghĩ đến chính là nhóm nhỏ Kitô hữu, tập hợp mỗi Chúa nhật để cữ hành Thánh Thể, và tạo thành một Giáo hội địa phương. Ngay từ đầu, chúng ta nhận thấy tính chất thực tế của Đức Giêsu: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội…” Giáo hội không phải là một cộng đoàn gồm những “người thanh khiết các thánh”, nhưng những “người tội lỗi”. Đức Giêsu đã rất sáng suốt tiên liệu rằng “các Kitô hữu không tốt hơn những người khác”, như thỉnh thoảng người ta vẫn nói. Giáo hội được tạo nên bởi những con người mỏng dòn như xã hội thế tục. Đức Giêsu không mơ đến một Giáo hội không có vấn đề. Người sẽ đưa ra một thủ tục để thử giải quyết những khó khăn mà có ngày sẽ phát sinh trong mọi nhóm người.

Thật vậy điều Đức Giêsu nói ở đây có thể được áp dụng cho mọi môi trường sống của chúng ta với một tỉ lệ nào đó:Gia đình, nhóm, hiệp hội, nhóm bạn, các đồng nghiệp… Biết bao nhiêu là xung đột, căng thẳng, chống đối nhau!

Đôi khi lúc mới khởi đầu, mọi sự xem ra đơn giản và hài hòa. Và rồi với thời gian trôi qua, nhiệt tình xuống dần, nhóm có nguy cơ tan rã nếu không ai quan tâm đến sự liên kết và hiệp thông.

Không một nhóm con người nào tránh được tội lỗi, sự khốn khổ của con người… kể cả Giáo Hội!”Nếu anh em của anh trót phạm tội…”

Phải làm gì, bây giờ?

Anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi của người anh em mình…

Chúng ta nhận thấy ngay, trong những chữ cô đọng ấy bầu khí mà Đức Giêsu đặt chúng ta vào. Đó là một bầu khí của tình yêu chứ không phải là của sự phán xét.

Than ôi, có những “vị quản giáo mắc khuyết điểm” lẫn lộn hết mọi sự, và lúc nào cũng sẵn sàng lên lớp những người khác trong một thái độ phê phán có hệ thống. Như thế là làm sai lạc tư tưởng của Đức Giêsu, vì đã có xu hướng “buộc tội” và “đè nặng” lên kẻ có tội. Tất cả Tin Mừng rõ ràng nói với chúng ta điều ngược lại. Và văn cảnh trực tiếp của bài giảng này về cộng đoàn chỉ nói về sự tế nhị và lòng nhân hậu đối với anh em mình. Ngay trước đoạn văn mà chúng ta đọc hôm nay, Đức Giêsu đã kể lại dụ ngôn con chiên lạc: “Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này… Hãy như người chăn chiên mất một con chiên chạy đi tìm nó…Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Matthêu 18,10-14). Và ngay sau bản văn của chúng ta về sự sửa lỗi anh em, Đức Giêsu sẽ đòi hỏi Phêrô “tha thứ bảy mươi lần bảy” (Matthêu 18,21-22) Kế đó Đức Giêsu sẽ lên án thái độ của người đầy tớ không biết thương xót, không có trái tim, không biết tha thứ một món nợ cho người bạn mình (Matthêu 18,23-35).

Như thế, chúng ta phải can thiệp, chỉ với một bầu khí của tình yêu thương. Người ta chỉ có quyền phê bình một người anh em nếu người ta ” yêu thương người ấy!Toàn bộ Tin Mừng cao rao với chúng ta Đức Giêsu nhân hậu với những người tội lỗi.

“Hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó…” “Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình ..”

Người ta cảm thấy rằng Đức Giêsu rất muốn đó là giải pháp cho sự xung đột. Khi một người được món lợi là anh em mình thì trời cao sẽ xuống với đất?Đó chính là niềm vui của giải pháp ấy!

Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh.

Đức Giêsu thực hiện thêm một bước với biết bao sự tế nhị tâm lý!

Trước tiên là mặt giáp mặt trong sự kín đáo, để cho nếu có thể không ai biết có điều xấu và người phạm lỗi có thể giữ được tiếng- tăm và danh dự của mình… và rồi, đến lúc phải đem theo một, hai anh em khác là để tránh những phán đoán quá chủ quan trong đó người ta có thể đánh giá sai lầm, và cũng để ý số đông tìm thấy những lập luận có thể thuyết phúc hơn. Phải làm mọi sự để tránh sự hấp tấp và sự độc đoán.

Chỉ sau khi đã dùng hết cách khuyên nhủ, người ta mới phải cắt bỏ một cách đau đớn.

Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.

Công thức này đụng chạm đến chúng ta, nhất là lại do Đấng là người ta đã gọi “bạn của những người thu thuế và những người tội lỗi (Matthêu 1 1, 19). Sự lên án khắc khe này chỉ có thể hiểu được một cách chính xác bởi người ta đã thử hết cách để cứu người anh em. Người ta cũng có thể nói rằng chính người anh em đã tự mình loại mình ra khỏi cộng đoàn với việc nhiều lần khước từ sửa lỗi. Đã ba lần, người ấy gạt bỏ bàn tay mà người ta đã giơ ra cho người ấy. Sau khi đã nhẫn nại đem lại cho người ấy mọi cơ may, cộng đoàn thấy mình bất lực đối với người anh em đó…

Nhưng phải nói thêm rằng, cả trong những trường hợp tối hậu ấy, chúng ta không giảm bớt lòng yêu thương người ấy, kẻ tội lỗi ấy… bới lẽ chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù của mình (Matthêu 5,43~8). Và Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai của Chúa nhật này, nhắc chúng ta rằng “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái” một món nợ không bao giờ trả hết (Rm 13,8).

Thầy bảo thật anh em:”Dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì trên trời cũng cầm buộc như vậy, dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì trên trời cũng tháo cởi như vậy.”

Đức Giêsu không bao giờ chỉ là một nhà luân lý, một hiền giả, một nhà nhân bản. Những lời khuyên mà chúng ta đã nghe cho đến nay là những nguyên tác tâm lý sơ đẳng, có giá trị đối với mọi quan hệ của con người. Nhưng Đức Giêsu giờ đây đưa ra thêm một khía cạnh “thần học”. Người mạc khải một mầu nhiệm ẩn giấu. Thiên Chúa hiện diện trong toan tính cứu vớt anh em mình… Thiên đàng liên quan với những gì xảy ra trên mặt đất.

Ý muốn của Thiên Chúa là không một con chiên nào bị hư mất, nên sự sửa lỗi anh em trở thành một con đường của lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, nhiều người chỉ khám phá sự tha thứ của Thiên Chúa (trên trời) nếu họ khám phá sự tha thứ của anh em (dưới đất) được thực hiện bằng một thái độ nhân bản của lòng yêu thương cứu độ.

Vại trò “cầm buộc và tháo cởi” mà Đức Giệsu đã ban cho cá nhân Phêrô một vài ngày trước đó (Matthêu 16,19), cũng được ban cho toàn thể cộng đoàn, trong cùng những từ ngữ (Matthêu 18,18). Giáo hội là môi trường của lòng thương xót, nhân hậu. Những Kitô hữu đưa về Thiên Chúa. Ôi trách nhiệm to lớn biết bao?

Giữa “đất” và “trời” có sự tương giao?
Giữa “thời gian” và “vĩnh cửu”, có sự tương giao?

Sự mạc khải của Đức Giêsu là ở điều này:Điều mà người ta cầm buộc được hay tháo gỡ được ở trần gian này, trong lúc này… được “cầm buộc” hoặc “tháo gỡ” nơi Thiên Chúa mãi mãi…

Và không chỉ cho chúng ta, nhưng cũng cho những người khác Giáo Hội là một cộng đoàn ở đó mỗi người chịu trách nhiệm về đời sống Đức Tin của anh em mình. Chúng ta có thật sự gánh trách nhiệm cho nhau không?Giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái?Thông thường, chúng ta hay -hèn nhát chúng ta không quan tâm đến đức tin của những người khác, Một vấn đề thời sự nóng bỏng… Biết bao đứa trẻ đã từ bỏ đức tin của cha mẹ chúng. Biết bao anh em dường như đi theo con đường rời bỏ cộng đoàn đức tin..

Vậy có nên tuyệt vọng không?

Thầy còn bảo thật anh em: “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời- cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho”

Đức Giêsu lặp lại công thức nhấn mạnh long trọng:Thầy còn bảo thật anh em!Công thức ấy thường chỉ một mạc khải về mầu nhiệm đức tin, được che khuất khỏi sự nhận xét của con người. Và Đức Giêsu trở về chủ đề về sự tương quan giữa “đất” và “trời”.

Có nên tuyệt vọng khi chúng ta không “nhìn thấy” kết quả của những nỗ lực đối với những anh em, tội lỗi từ chối sống đời thánh thiện theo ơn gọi Kitô hữu của họ? ít ra bề ngoài là như’ thế? Đức Giêsu đáp lại “không” với chúng ta!

Bỏ vì, Người nói, cộng đoàn – Giáo Hội không phải là một hiệp hội như – những hiệp hội khác. May mắn thay!

Cộng đoàn đức tin này ít lệ thuộc vào những nỗ lực của con người để có thể kết thúc bằng sự thất bại mà lệ thuộc nhiều hơn vào: Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Đức Giêsu yêu cầu chúng ta phải tin vào hiệu quả… ẩn giấu ở trên trời của lời cầu nguyện, những hiệu quả mà những phương tiện thông thường của con người không thể nhận thấy được. Sự cầu nguyện ấy không phải là sự lười biếng, bởi vì người ta đã làm hết sức trước đó. Nhưng là phương sách cuối cùng Đức Giêsu khẳng định với chúng ta phải tin vào hiệu quả của phương sách đó. Đối với nhiều bậc cha mẹ trong gia đình, lời nói ấy của Đức Giêsu phải là ánh sáng quyết định mặc dù không kiểm chứng được… “Nếu ở dưới đất hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì thì lời cầu nguyện của họ sẽ có hiệu quả với Chúa Cha; Đấng ngự trên trời”…

Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở đấy giữa họ.

Không, Giáo hội, cộng đoàn những người tội lỗi như mọi người khác, không phải là một hiệp hội như các hiệp hội khác:Đức Giêsu sống lại với tất cả quyền năng tinh thần của Thiên Chúa ở đấy giữa những người quy tụ nhân danh Người. ” ‘

Rõ ràng chúng ta không còn ở trong lãnh vực luân lý xã hội học, hay nhân bản. Chúng ta ở trong lãnh vực đức tin. Sự thống nhất của Giáo Hội ở bên trên những xung đột chia rẽ con người. Mọi nỗ lực hòa giải luôn phải được thực hiện. Nhưng khi những bàn tay chúng ta đưa ra không được tiếp nhận, thì chúng ta vẫn phải tin rằng điều mà con người không làm được, Thiên Chúa làm được” (Mt 17,20-19.26; Lc 1,37).

Một giấc mơ điên rồ chăng? Một ảo tưởng không có thật chăng? Không phải thế! Nhưng đó là một bí quyết tuyệt vời của chủ nghĩa lạc quan đi đến mức tin rằng không môt người nào, không một hoàn cảnh nào mà sau cùng không thể cứu vãn được (1Cr 8,11).

“Người anh em này mà Đức Kitô đã chịu chết để cứu chuộc…”. Làm thế nào mà chúng ta lại thất vọng vì người ấy.

[Mục Lục]

Bài 6. Vẽ chân dung
Radio Veritas Asia

Lời Chúa hôm nay dạy các môn đệ của Ngài, dạy cho dân chúng cũng như dạy cho tất cả chúng ta một việc rất quan trọng trong đời sống hằng ngày, đó là tinh thần bác ái trong việc xét đoán, phê bình người khác. Chúng ta cùng nhau chia sẻ một vài ý tưởng qua bài Phúc Âm theo thánh Mátthêu (x. Mt 18,15-20).

Khi đọc lại đoạn Tin Mừng trên, hẳn mỗi người chúng ta đều bật cười và lẩm bẩm rằng: Chúa Giêsu dạy thật có lý, vì rõ ràng đức bác ái dạy rất phù hợp với đạo tự nhiên của con người, bằng chứng là lúc chưa được may mắn nghe Tin Mừng của Chúa, mọi người chúng ta đã từng dạy con cháu trong đạo xử thế: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng lặp lại cùng một tư tưởng đó nhưng với kiểu văn châm biếm: “Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt ngươi trước đã thì ngươi sẽ thấy rõ để lấy hạt bụi ra khỏi mắt anh em ngươi”. Qua đó chúng ta nhận thấy rằng, trong cái triết lý đời sống nơi trần gian này cũng như của đời sống vĩnh cửu, chúng ta phải tôn trọng vì theo nguyên tắc: “Muốn cho đi thì phải có trước đã, vì không ai có thể cho cái mình không có bao giờ”. Cũng như muốn làm việc gì, chúng ta phải biết mình có khả năng hay không. Và trong lời dạy của Chúa Giêsu bao giờ cũng tiềm tàng đức bác ái và tinh thần khiêm nhượng trong đó. Trong việc giúp đỡ người khác là anh em thì tôi phải kính trọng họ, tôi phải nhận thấy rõ chính tôi cũng là người tội lỗi yếu đuối như bao người khác trước mặt Thiên Chúa chí tôn chí thánh.

Trong đời sống thực hành hằng ngày, cụ thể qua việc sửa sai cho nhau, phải thực sự là một việc giúp đỡ chứ không phải là cuộc xét xử, chỉ trích, lên án nhau. Để được như thế, mỗi người chúng ta phải hiểu rằng, con người được Chúa dựng nên không phải để xét xử, chỉ trích, lên án anh chị em mình, nhưng để sống đời sống làm con Thiên Chúa và để giúp đỡ anh chị em khác trở thành con Chúa và cùng chung sống đời sống gia đình mà có Thiên Chúa là Cha. Đó chính là đức bác ái Công Giáo mà Chúa Giêsu đã dạy trong Tin Mừng.

Hôm nay trong tinh thần bác ái của Chúa dạy, chúng ta hãy xin lỗi Chúa vì những lời phê bình, kết án, xét đoán, chỉ trích, thiếu bác ái. Xin Chúa giúp chúng con biết sống tinh thần tha thứ cho anh em trong cùng một Cha trên trời là Đấng luôn ban cho người công chính cũng như cho những kẻ lầm đường lạc lối. Chính vì thế mà trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã kêu gọi tất cả con cái của Giáo Hội hãy làm một cuộc tự vấn lương tâm và sám hối về những lầm lỗi của mình trong quá khứ. Giáo Hội đã nhận ra rằng, trong quá khứ con cái của mình đã có những hành động thiếu khoan nhượng trong khi loan báo Tin Mừng. Chúng ta không thể quên được những cuộc thập tự viễn chinh để triệt hạ người Hồi Giáo, các tòa điều tra để thiêu sống những người bị xem là lạc giáo trong thời Trung Cổ, những cuộc chiến tranh giữa Công Giáo và Tin Lành hồi thế kỷ XVII. Chúng ta cũng khó quên được những hoạt động truyền giáo, vì nhiệt tình loan báo Chúa Kitô, các tín hữu đã không ngần ngại dùng võ lực và nhiều sức ép khác để bóp nghẹt niềm tin và tư tưởng của người khác.

Lịch sử đã sang trang, ngày nay Giáo Hội thấy cần phải sám hối và quay trở lại gần với Tin Mừng của Chúa hơn. Tin Mừng của Chúa thiết yếu là chính con người của Chúa Giêsu, Đấng đã đồng bàn ngồi với những người bị xã hội gạt ra bên lề, cảm thông tha thứ không ngừng cho những người tội lỗi. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy cư xử như Ngài. Từ sáng chói nhất mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong Tin Mừng hôm nay phải là hai chữ “Anh Em”. Khi người anh em lỗi phạm thì ngươi hãy đến với nó, chuyện vãn với nó, khuyến dụ nó, dù tội lỗi đốn mạt xấu xa đến đâu thì tha nhân vẫn là người anh em của chúng ta. Chúa dạy ta hãy đến với người anh em không phải với thái độ miệt thị, loại trừ, mà bằng sự cảm thông tha thứ.

Tựu trung đi bước trước để gặp gỡ, lắng nghe, đối thoại, cảm thông tha thứ, đó là cách cư xử giữa những người anh em con cùng một Cha trên trời. Mỗi ngày Chúa Nhật chúng ta đến gặp gỡ trong tình anh em ấy, Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Nếu ngươi đến dâng của lễ nơi Bàn Thờ mà chợt nhớ có điều bất bình với người anh em, hãy bỏ của lễ mà đi làm hòa với người anh em trước đã, rồi hãy đến dâng của lễ” (Mt 5,23-24).

Nguyện xin Chúa tha thứ và ban ơn giúp sức cho chúng ta, để mỗi ngày Chúa Nhật, sau khi ra khỏi nhà thờ chúng ta cảm thấy được bổ sức hơn, hầu sống và làm chứng cho Tin Mừng của Chúa một cách tốt đẹp hơn.

[Mục Lục]

Bài 7. Cộng đồng huynh đệ
Cố Lm. Hồng Phúc

Chúa Giêsu đã muốn thiết lập Giáo hội của Ngài như một cộng đồng Tình yêu, trong đó luật bác ái thương yêu là một giới răn mới, một dấu chỉ để biết ai là môn đệ của Chúa.

Nhưng Chúa cũng biết rằng đâu đâu cũng có những yếu đuối con người, đâu đâu cũng có những vấn đề giữa con người. Trong cộng đoàn bé nhỏ 12 môn đệ sống với Ngài, Chúa đã nghiệm thấy như vậy.

Giáo hội là một cộng đồng anh em, nhưng là một cộng đồng gồm người tội lỗi bên cạnh người lành.

Chúa phán: “Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó”. Nhưng sửa dạy làm sao? Theo tinh thần Phúc Âm, việc sửa lỗi anh em là một việc rất tế nhị và gồm 3 công tác sau đây:

- “Hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Nếu không kết quả thì hãy nhờ đến hai ba người làm nhân chứng. Và sau cùng mới trình với cộng đoàn”. Đây là một thủ tục tình thương và bác ái dạy làm hết mọi sự để giữ một người anh em đang muốn xa lìa cộng đoàn. Vì thế, việc sửa lỗi anh em là một việc tế nhị, đòi hỏi vừa sự can đảm vừa sự thanh nhã, đồng thời phải có sự khiêm nhường và thông cảm với anh em. Đừng khơi thêm hố chia rẽ, nhưng hãy cầu nguyện để thành công, để đưa người anh em về đường công chính.

Chị Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, chung sống trong tu viện với một chị bạn tên là Marthe. Chị này có một tật xấu là quá quyến luyến Bà Mẹ bề trên. Têrêxa, sau nhiều tháng chờ đợi và cầu nguyện, chị quyết định nói. Trước khi nói, chị đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy đúng sự thật”, Chị đã nói với người bạn “với tất cả tâm hồn và với tất cả kinh nghiệm đã có”. Chị Marthe như được giải tỏa tâm hồn và cũng nhìn nhận rằng “Vị chăn chiên đừng nghe theo những lời dua nịnh dối trá, vì không có gì tai hại cho bằng những lời ca tụng đầy nọc độc”.

- Giáo hội theo lối quảng diễn của Matthêô còn là một cộng đồng tha thứ và liên đới, trong đó mỗi người có trách nhiệm về đức tin của anh em mình. Nếu sau nhiều cố gắng để đưa người anh em lầm lỗi trở về mà không có kết quả thì hãy trông cậy vào tình thương xót của Đấng chăn chiên tối thượng.

Cái quyền “tuyệt thông” đối với một người anh em làm cho ta nhớ lại một lời khác của Chúa về quyền năng của Giáo hội: “Sự gì các con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc và sự gì các con tháo gỡ dưới đất trên trời cũng tháo gỡ”. Quyền năng tha thứ đó, Chúa đã hứa cho Phêrô thì nay Chúa cũng ban cho các môn đệ. Đó là tập đoàn 12 Tông đồ Chúa đã tuyển chọn và sai đi, trong đó Phêrô giữ một vai trò trọng yếu. Chúa trao cho họ sứ mạng hòa giải và cứu rỗi. Như vậy dần dần Chúa đã thiết lập các cơ cấu của Giáo hội.

- Sau cùng, Giáo hội là một cộng đồng cầu nguyện. Nếu tội lỗi làm chia rẽ thì sự cầu nguyện nối kết và hiệp nhất chúng ta lại với nhau. Vì thế, cả những lúc có sự bất bình không đồng ý kiến, nếu có “hai hay ba người tụ họp với nhau nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy”. Chúa ở đó như gạch nối niềm tin. Tám ngày sau phục sinh, một bầu khí chia rẽ cũng bao trùm các môn đệ. Tôma nằng nặc không muốn tin rằng Thầy đã sống lai. Chúa xuất hiện, sự hiện diện của Chúa đánh tan mối nghi ngờ, chia rẽ, đem lại sự hiệp nhất.

Khi viết đoạn Phúc Âm này, hẳn là Matthêô muốn nhắc nhở cho Giáo hội, đã lan rộng ra ngoài biên cương Do thái, đến Cận đông, đến cả Lamã rằng Chúa là sự hiệp nhất. Muốn có sự hiệp nhất, muốn tránh sự chia rẽ vì mầu sắc chủng tộc, văn hóa, thì Giáo hội phải cầu nguyện, phải tập họp “nhân danh Thầy” vì có Thầy ở giữa. “Thầy là trung tâm hội tụ mọi động lực” (Kinh của Teilhard de Chardin).

Lạy Chúa, xin dạy con biết khiêm tốn hòa nhã khi phải sửa lỗi anh em, xin dạy con biết cầu nguyện khi phải đương đầu với chia rẽ hiểu lầm, vì chỉ có Chúa là rường mối sự Hiệp nhất.

[Mục Lục]

Bài 8. Nghệ thuật sửa lỗi
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Tuân Tử, một hiền triết Trung hoa đã nói rằng: Kẻ khen ta mà khen thật mới chỉ là bạn ta, kẻ chê ta mà chê thật là thầy ta, còn kẻ nịnh hót tâng bốc ta là những kẻ chỉ làm hại ta mà thôi.

Chê mà chê thật là sửa lỗi cho nhau trong tình huynh đệ. Là con người ai mà chẳng lầm lỗi. Không ai trên trần thế có thể tự hào mình vô tội. Chính Thánh Gioan đã quả quyết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình và sự thật không ở trong chúng ta” (1Ga 1,8). Thú nhận mình tội lỗi không có nghĩa là chấp nhận thất vọng. Ngược lại ý thức được sự yếu đuối của mình sẽ giúp con người mạnh tin hơn. Thánh Gioan cũng viết: “Nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” (1Ga 2,1b). Sửa lỗi huynh đệ là cần thiết để giúp nhau thăng tiến và trưởng thành. Vì thế sửa lỗi cho nhau là một nghệ thuật đòi hỏi người ta phải tuân theo một số kỹ thuật.

Trang Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy nghệ thuật từng bước sửa lỗi cho anh em và mời gọi hãy cùng nhau cầu nguyện.

1. Sửa lỗi cho nhau:

- Bước 1: “Nếu anh em ngươi phạm tội hãy đi sửa lỗi một mình ngươi với nó”. Một mình với anh em là rất kín đáo. Sửa lỗi cá nhân, tôn trọng và giữ thể diện, biểu lộ sự tin tưởng giữa hai người không để người thứ ba đựoc biết. Đây là cuộc nói chuyện riêng tư, không phải hạ nhục người có lỗi nhưng là giúp người ấy nhận ra lỗi lầm của mình. Phải nói sự thật, nhưng có những sự thật không nên nói hết.

Sự góp ý huynh đệ này đòi hỏi phải tế nhị, xây dựng:

+ Người góp ý: Nhẹ nhàng, nói đúng lúc, đúng chỗ, khôn khéo, thiện chí, nếu không sẽ phản tác dụng, khi đó góp ý chỉ là chỉ trích, phê phán.

+ Người được góp ý: Khiêm nhường nhận lời khuyên, không nóng nảy tự ái, sẵn sàng đón nhận, nhận ra sai lầm, không cố chấp cứng đầu, can đảm sửa đổi. Có như thế việc sửa đổi cho nhau mới có kết quả.

- Bước 2: “Nếu nó không chịu nghe thì hãy đem theo một hay hai người nữa để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba nhân chứng”. Như thế, nếu bước một không đem lại kết quả mong đợi, sẽ đến bước hai là gặp gỡ có hai hoặc ba nhân chứng. Đây không phải là gây áp lực. Sự hiện diện của các chứng nhân bảo đảm cho tính khách quan và cộng đoàn. Luật Môsê dạy: “Một nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ tội lỗi nào, phải căn cứ vào lời của hai hay ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét” (Đnl 19,15). Tuy nhiên chỉ thị của Chúa Giêsu nói đây không phải là nhân chứng buộc tội nhưng là những người trợ lực có uy tín để giúp tội nhân dễ dàng sữa lỗi. Cần kiên nhẫn đối vơi người cố chấp.

+ Người sửa lỗi chú ý hình thức xây dựng và bác ái. Có nhiều khuyết điểm có thể tự nhiên được sửa chữa qua tính trung gian, nhất là những khuyết điểm nhỏ.

+ Người được sửa lỗi chú ý nội dung được góp ý.

- Bước 3: “Nếu nó không chịu nghe họ thì hãy đi thưa Hội Thánh”. Hai bước không đạt kết quả, đưa ra trước cộng đoàn Hội Thánh địa phương vì Hội Thánh được Chúa ban cho quyền cầm buộc tháo cởi (x. Mt 18,18). Đưa ra Hội Thánh không phải để bị xét xử nhưng để tỏ lòng sám hối và sẽ được ân xá. Nhưng nếu kẻ đó vẫn cố chấp không chịu sữa lỗi thì tự loại mình ra khỏi Hội Thánh không còn thuộc về cộng đoàn.

- Bước 4: “Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe thì hãy kể nó như một người ngoại”. Cộng đoàn mà không chịu nghe thì phải chấp nhận thái độ tự cô lập của họ. Họ cố chấp không muốn ở trong Hội Thánh thì họ sống trong lầm lạc về đức tin và luân lý. Hội Thánh không còn trách nhiệm trực tiếp phải lo cho họ nữa, chỉ còn phó thác họ cho lòng nhân từ của Chúa mà thôi.

2. Hiệp lời cầu nguyện:

Nếu nhìn cách sửa lỗi anh em của Chúa Giêsu là một cách diễn tả tình yêu thì hiệp thông trong lời cầu nguyện lại là một diễn tả khác của tình yêu “Khi hai hoặc ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở giữa họ”.

Khi yêu ai, chúng ta không dửng dưng để mặc người ấy lún sâu vào sự dữ. Ta sẽ tìm dịp cảnh tỉnh, nhắc nhở, khuyên bảo, không “makeno”, không “đèn nhà ai nấy sáng”. Tương quan bác ái huynh đệ này rất cần trong cộng đoàn, trong Giáo xứ. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến mục đích của việc sửa lỗi. Đó là chinh phục, cứu lấy anh em để nó đừng hư mất, liên đới trách nhiệm sữa lỗi cho nhau để nhờ đó cộng đoàn “lợi thêm một người anh em”. Thánh Giacôbê nhấn mạnh tới tình bác ái đáng khen của việc sửa sai huynh đệ “Ai đưa một người tội lỗi ra khỏi sai lầm của họ là đã cứu được linh hồn người ấy khỏi chết và đã bù đắp được vô số tội lỗi”.

Chúa Giêsu còn xác định rằng: “Thầy bảo thật các con: nếu ở dưới đất hai người trong anh em hiệp ý cầu xin bất cứ sự gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho họ”. Đây không đơn thuần là một giải quyết giữa anh em loài người, nhưng là cùng nhau đến trước tình yêu Thiên Chúa. Sự hiện diện của Chúa sẽ xóa giải mọi bất hòa giữa anh em. Chúng ta tin và can đảm sống điều đó “Vì ở đâu có có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ”.

Trong Đạo Phật người ta thường nói “Phật tại tâm”. Trong Đạo Thiền, người ta sống cuộc sống con người cách đơn sơ thanh thản, không chấp mê, sống tự nhiên như bông hoa nở, như dòng suối chảy, như áng mây bay, như làn gió thổi. Sống an bình với chính mình an hoà với tha nhân, là “phá chấp ngã” nghĩa là không chấp, không chấp cả cái không chấp.

Đạo lý Chúa Kitô tự bản chất sâu xa là Đạo nhân, Đạo của lòng nhân ái, Đạo của tình thương. Tình thương không phải là một tư tưởng, cũng chẳng phải là một học thuyết. Tình thương là con đường ta phải đi, một tình yêu để ta sống, để chia sẻ với người khác.

Đức Kitô đã làm người để chia sẻ tình yêu của Chúa Cha cho chúng ta. Người mời gọi chúng ta chia sẻ lại tình yêu ấy cho anh em. Tất cả đạo lý Chúa Kitô nằm gọn trong chân lý đó. Trong điều mà Người gọi là điều răn mới: “Anh em hãy yêu thương như Thầy đã yêu thương anh em”.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn can đảm để con nhận sự sửa lỗi của anh em, và ban cho con ơn khôn ngoan để con biết chân thành sửa lỗi cho nhau, nhờ đó con xứng đáng nhận được lòng nhân từ Chúa xót thương.

Lạy Chúa Giêsu, trước khi sửa lỗi ai, xin Chúa nhắc con nhớ rằng con cũng là tội nhân, cũng yếu đuối và hay lầm lỗi, có khi còn nặng nề hơn họ. Nếu vì bổn phận, con phải sưả lỗi cho người khác, xin cho con biết lấy tinh thần bác ái và tôn trọng nhân vị mà cư xử, nâng đỡ hơn là chỉ trích thoá mạ anh em. Xin cho cúng con luôn biết rộng lượng, bao dung với người khác vì con biết chắc rằng Chúa vẫn tha thứ cho con từng ngày. Amen.

[Mục Lục]

Bài 9. Biết mình biết người
Lm. Fx. Trần Phương

Các bài đọc Lời Chúa hôm nay cùng nói đến vấn đề cứu độ, nhắm đến trách nhiệm của chúng ta đối với nhau trong cộng đoàn. Không ai là một hòn đảo, vì trong Đức Kitô, chúng ta đều là anh chị em, những phần tử của chung một gia đình.

Cuộc đời con người thật ngắn ngủi, do đó tất cả chúng ta cần phải nỗ lực hết mình để làm những việc lành phúc đức khi chúng ta còn có cơ hội, bằng cách quan tâm tới những kẻ yếu đuối và hèn kém, khi họ cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Điều đó không có nghĩa làm cho chúng ta trở thành những kẻ tò mò, thích xen vào chuyện của người khác hay can thiệp vào cuộc sống riêng của họ. Tình yêu dành cho tha nhân phài được xử lý một cách lịch thiệp và khôn ngoan và phải luôn nhớ rằng khía cạnh quan trọng nhất của một đời sống tốt đẹp chính là quên đi tất cả những việc mình đã làm cho người khác.

Thật vậy, không có cuộc sống chung nào mà con người không phải đau khổ vì đồng loại mình. Bài Phúc Âm hôm nay gợi ý cho chúng ta một phương pháp hữu hiệu để khuyên giải cho những kẻ lầm đường lạc lối. Tuy nhiên, việc sửa lỗi cho nhau rất khó thực hiện trong đời sống thường ngày. Vì thế, khi phải can thiệp vào chuyện khó xử này, chúng ta phải thật sự tế nhị, khéo léo và khôn ngoan. Bởi vì, thực tế đã chứng minh rằng, một lời nói bất cẩn hoặc khuyên giải một cách thái quá có thể gây nên sự đổ vỡ lớn lao hơn.

Xét trên một khía cạnh nào đó, việc sửa lỗi cho nhau giống như một “con dao hai lưỡi”, vì rất dễ dàng gây nên sự đụng chạm, thậm chí có thể cướp mất đi tình bạn thân thiết mà ta đã có trước đây. Cha ông ta thường nói, ‘im lặng là vàng’ nhưng cũng có lúc thì ‘im lặng là đồng lõa’. Trong một số trường hợp, chúng ta cần có một quyết định dứt khoát vì nếu không hành động kịp thời thì những việc làm sai trái đó tiếp tục có cơ hội hoành hành. Hơn nữa, nếu chúng ta ngoảnh mặt làm ngơ trước những lỗi lầm của anh em mình thì chúng ta nên xét lại ý nghĩa và đòi hỏi của giới luật yêu thương mà chúng ta hằng tuân giữ. Trong những hoàn cảnh đặc biệt đó, những gì chúng ta làm phải được phát xuất từ lòng bác ái, chứ không phải là thái độ ‘bới lông tìm vết’ hoặc lên lớp dạy bảo người khác.

Chúng ta không thể gây nên đau khổ cho những người chung quanh, nếu chúng ta nói mình yêu thương họ. Thật vậy, một chút tâm tình kèm theo những lời nói chân thành có thể làm cho bầu khí trở nên nhẹ nhàng và làm cho vấn đề trở nên tốt đẹp hơn. Nên nhớ rằng, không một ai trong chúng ta là người hoàn hảo, nên khi nói lên điều sai lỗi của người khác, chúng ta cũng cần chuẩn bị để lắng nghe họ nhận định về những thiếu sót của mình.

Nếu mỗi người có thể chấp nhận sửa lỗi cho nhau và nếu chúng ta nhận thấy mình có sự khác biệt so với người khác, hãy sẵn sàng chấp nhận thiếu sót của mình và mở rộng lòng mình để giao hòa với nhau. Những ngôn từ nặng nề và thái độ hung hãn không phải là lối xử sự của những người được mệnh danh là Kitô hữu. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc giao hoà với anh chi em đồng loại khi Ngài nói: “Khi các con đến bàn thờ để dâng của lễ, nếu nhớ ra rằng mình đang có đìều bất hoà với anh chị em, hãy để của lễ đó, quay về làm hoà với anh chị em mình trước, rồi hãy đến dâng của lễ.” (Mt 5, 23-24).

Thử hỏi ai trong chúng ta là người chấp nhận Lời Ngài và đem ra thực hành trong cuộc sống hằng ngày của mình?

[Mục Lục]

Bài 10. Sửa lỗi cho nhau
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Thời đại hôm nay là thời đại kinh tế thị trường. Mọi quan hệ giữa người với người đều dựa trên lợi nhuận kinh tế. Tôi quan hệ với anh tôi có lợi điều gì? Tôi làm việc này tôi có hưởng được lợi lộc gì? Tôi đầu tư công sức vào việc này, tôi sẽ được lời lãi bao nhiêu? Thế nên, những việc không có lợi, người ta thường tìm cách tránh né. Người ta thường suy xét thiệt hơn. Không ai dại gì gánh nợ cho người khác. Không ai dại gì can thiệp vào chuyện của người khác. Con người hôm nay là vậy, nhưng bác ái kytô giáo không cho phép chúng ta dửng dưng với đồng loại. Một tình yêu đích thực không thể làm ngơ trước nguy hiểm của người mình yêu. Đức ái đòi hỏi phải dấn thân và làm cho người anh em của mình được sống và sống ngập tràn hạnh phúc.

Một cuộc sống hạnh phúc đích thực không hệ tại ở tiền bạc, danh vọng, lạc thú mà quan yếu ở tâm hồn bình an. Bình an ở tại lòng người. Lòng người không chạy theo điều gian dối. Không chạy theo thói xa hoa trụy lạc. Không làm điều bất chính hay vương vấn lỗi lầm mới có bình an tâm hồn.

Như vậy đứng trước những hành vi xấu xa tội lỗi của anh em, tôi nên làm ngơ hay nói sự thật. Tôi nên giúp họ nhận ra điều sai lỗi hay tôi theo chủ nghĩa “mackeno”. Tôi có bổn phận giúp người anh em tìm lại bình an tâm hồn khi sống theo đạo lý làm người, và làm con Chúa hay tôi để họ mãi sa lầy trong vũng bùn tội lỗi và bóng đêm của gian tà.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải can đảm và kiên nhẫn sửa lỗi cho nhau. Sửa lỗi cho nhau là hành vi bác ái, là giúp anh em mình sống đúng phẩm giá làm người, là nỗ lực đưa anh em mình trở về nẻo chính đường ngay. Sửa lỗi cho nhau không chỉ là điều cần thiết mà còn là bổn phận của các bậc làm cha mẹ, anh chị, hay của những người có nghĩa vụ giáo dục và hướng dẫn người khác. Vì “nuôi con chẳng dạy chẳng răn – Thà rằng nuôi lợn lấy lòng mà ăn”.

Nhưng sửa lỗi khác với trừng phạt. Sửa lỗi cần kín đáo, tế nhị, còn trừng phạt thường mạt sát, hạ bệ và công khai. Người được sửa lỗi là người được yêu thương. Người bị trừng phạt là người bị loại ra khỏi xã hội và cộng đồng nhân loại.

Thế nên, sửa lỗi anh em trong đức ái không có nghĩa là dò xét, vạch lá tìm sâu, bé xé ra to, ít xít ra nhiều. Càng không được kể lỗi lầm của anh em ra bất cứ ai, mà cần ý thức rằng “nhân vô thập toàn”, là người ai cũng có lầm lỗi, là người ai cũng có khiếm khuyết, nên cần cảm thông hơn là kết án, nên giúp họ làm lại cuộc đời hơn là tẩy chay.

Bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra những bước sửa lỗi anh em.

Bước thứ nhất là đối thoại. Đối thoại là giúp họ nhận ra việc họ làm, lời họ nói là sai. Đối thoại để họ nhận ra lầm lỗi, để họ ý thức được việc họ làm, lời họ nói là xấu, là sai với đạo lý làm người.

Bước thứ hai cần thêm người khác tác động. Có thể là bạn bè thân hữu của người phạm lỗi, hay có thể là người có uy tín trong cộng đoàn. Người khác tác động là người có liên quan đến người phạm lỗi chứ không phải bạ ai cũng nói, gặp ai cũng chia sẻ, làm như thế người có lỗi chỉ thêm mặc cảm vì lỗi của mình, và oán ghét chúng ta hơn là biết ơn chúng ta.

Bước thứ ba là đưa ra cộng đồng. Người ta vẫn thường nói “xã có phép tắc của xã. Làng có khuôn phép của làng”. Mỗi một đơn vị đều có những lề thói giúp nhau sống kỷ cương và đảm bảo an ninh xã hội. Thế nên, cộng đồng sẽ giúp cho con người sống tốt hơn và cho môi trường sống được lành mạnh và an bình hơn

Bước thứ tư: hãy cùng nhau hợp lời cầu nguyện cho họ. Trên hết mọi sự là hãy cầu nguyện cho người anh em chúng ta. Lời cầu nguyện của chúng ta vì nhu cầu cộng đoàn và cho cộng đoàn sẽ được Chúa chấp nhận.

Như vậy, bác ái kytô giáo không cho phép chúng ta dửng dưng hay làm ngơ trước lầm lỗi của tha nhân, nhất là những lầm lỗi có thể gây ảnh hưởng xấu trong cộng đoàn, hay mất an ninh cho xã hội. Dửng dưng hay làm ngơ là chúng ta thiếu tình yêu liên đới với tha nhân và thiếu trách nhiệm bảo vệ, gìn giữ sự trong sạch cũng như sự lành mạnh cho cộng đoàn.

Bác ái kytô giáo đòi hỏi chúng ta cảm thông với yếu đuối của tha nhân, nhưng không dung dưỡng sự xấu trong cộng đoàn. Chúng ta không được thanh trừng hay tẩy chay anh em nhưng phải thanh tẩy môi trường chúng ta đang sống khỏi những thói hư tật xấu, những tệ nạn gây ảnh hưởng xấu đến đời sống chung của cộng đoàn.

Xin Chúa ban cho chúng ta một tấm lòng khiêm tốn để nhận ra sự yếu đuối tội lỗi của mình mà sẵn lòng đón nhận lời góp ý, sửa lỗi của anh em. Vì “kẻ dám chê ta mới thật là thầy và là bạn ta, còn kẻ nịnh hót, tâng bốc ta chỉ làm hại cuộc đời ta”.

Xin Chúa soi lòng mở trí để chúng ta luôn dám nói sự thật với anh em, cho dẫu sự thật mất lòng nhưng là cách tốt nhất để kiện toàn anh em nên trọn hảo hơn. Amen.

[Mục Lục]

Bài 11. Sửa lỗi anh em
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Con người ai cũng có lầm lỗi. Vậy mà thái độ ứng xử trước lầm lỗi của người khác lại không giản đơn. Đối với lỗi lầm của người khác, ta thường có hai thái độ, hoặc quá khắc nghiệt loại trừ, hoặc quá thờ ơ lãnh đạm. Cả hai thái độ đó đều thiếu xây dựng. Quá khắc nghiệt loại trừ sẽ khiến ta can thiệp thô bạo vào đời tư, sẽ gây ra bất mãn, đổ vỡ. Quá thờ ơ lãnh đạm sẽ buông thả mặc cho sự xấu tràn lan, sẽ làm cho xã hội suy thoái.

Giáo Hội là một cộng đoàn những con người. Lầm lỗi là không thể tránh khỏi. Vì thế muốn cộng đoàn phát triển, việc sửa lỗi là cần thiết, nhất là đối với những lầm lỗi công khai ảnh hưởng đến đời sống cộng đoàn.

Tuy nhiên sửa lỗi là việc khó. Không khéo thì lợi bất cập hại. Lời Chúa hôm nay đưa ra những hướng dẫn cần thiết giúp việc sửa lỗi có kết quả.

Muốn sửa lỗi phải quan tâm. Chúa nói: Khi anh em ngươi sai lỗi. Vâng, người sai lỗi đó không phải ai xa lạ. Đó là anh em tôi, là người nhà của tôi, là một thành phần của đời tôi. Nếu lầm lỗi giống như một cơn bệnh, làm sao tôi không lo lắng chạy chữa cho người thân, nhất là cho chính bản thân khi bị mắc bệnh? Nếu lầm lỗi giống như mất mát người thân, làm sao tôi không đau xót lên đường đi tìm ngay tức khắc?

Muốn sửa lỗi cần can đảm. Càng ngày người ta càng muốn tránh đụng chạm, mích lòng. Dại gì nói những chuyện không vui để mua thù chuốc oán vào thân. Vì thế, để sửa lỗi, cần phải can đảm. Can đảm đến với người lầm lỗi. Can đảm nói sự thật về lỗi lầm của họ. Can đảm chấp nhận những rủi ro do việc sửa lỗi đưa đến như sự giận ghét, sự công kích, chấp nhận bị phê bình ngược lại.

Muốn sửa lỗi phải trân trọng. Trân trọng vì người lầm lỗi đó là người anh em tôi, là đáng quí trọng đối với tôi. Trân trọng vì người anh em tuy có lầm lỗi, vẫn có khả năng sửa đổi. Sửa lỗi là tin vào thiện chí, vào mầm mống tốt đẹp Chúa gieo vào lương tâm mỗi người. Sự khinh miệt, lên mặt kẻ cả sẽ chỉ chuốc lấy thất bại.

Muốn sửa lỗi phải rất tế nhị. Tâm hồn người lầm lỗi rất mong manh. Vừa đầy tự ái vừa đầy mặc cảm. Một lời nói không khéo sẽ dẫn đến đổ vỡ. Một thái độ vô tình sẽ càng khơi thêm hố ngăn cách. Vì thế Chúa dạy tôi phải rất tế nhị khi sửa lỗi. Thoạt tiên chỉ gặp riêng một mình. Gặp riêng là một thái độ tế nhị. Sự tế nhị tạo nên cảm giác an toàn, kính trọng và yêu thương. Sự tế nhị tạo ra một bầu khí tín nhiệm thuận lợi cho việc cởi mở tâm tình, khai thông bế tắc. Sự tế nhị sẽ trở thành chiếc cầu đưa người lầm lỗi trở về cộng đoàn.

Sau cùng, muốn sửa lỗi phải kiên trì. Việc sửa lỗi không giản đơn. Không phải làm một lần là thành công ngay. Vì thế phải rất kiên trì và có nhiều phương án. Kiên trì để vẫn tiếp tục dù đã một lần thất bại. Có nhiều phương án để cương quyết đi đến thành công. Hôm nay Chúa đưa ra cho ta ba phương án để chinh phục người anh em: Gặp riêng, gặp có người làm chứng và sau cùng mới đưa ra cộng đoàn.

Như thế, việc sửa lỗi hoàn toàn là một việc làm được thúc đẩy do tình yêu. Chính bầu khí tin yêu đó sẽ khiến cộng đoàn phát triển. Ai cũng mong được sống trong một cộng đoàn yêu thương như thế. Vì khi lầm lỡ ta biết mình không bị loại trừ nhưng sẽ được quan tâm giúp đỡ, một sự giúp đỡ chân thành, tế nhị và đầy yêu thương.

Lạy Chúa, xin ban cho con tâm hồn bác ái đầy tế nhị của Chúa.

GỢI Ý CHIA SẺ

1/ Sửa lỗi anh em, góp ý phê bình, dễ hay khó?
2/ Khi biết anh em lầm lỗi, bạn làm gì? Vạch mặt chỉ tên hay giả điếc làm ngơ?
3/ Trong gia đình, trong xứ đạo bạn, đã có sự góp ý tốt đẹp chưa
?

[Mục Lục]

Bài 12. Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Tin Mừng Thánh Matthêu chương 18 tập chú vào chủ đề đời sống đoàn. Thoặt nghe bài Tin Mừng Mt 18,15-20 với những lời căn dặn của Đấng Cứu Thế về việc sửa bảo anh em, chúng ta dễ liên tưởng đến việc cần có thái độ tế nhị tôn trọng anh em trong khi sửa bảo nhau. Điều này thì không ai chối cãi. Yêu thương và tôn trọng là hai động thái tất yếu phải đi sóng đôi. Tuy nhiên, qua những lời dạy của Thầy Chí Thánh, chúng ta còn phải lưu ý đến tính triệt để của việc sửa sai, dạy bảo nhau. Nghĩa là khi thấy anh em, thấy tha nhân sai lỗi thì cần phải tích cực sửa bảo nhau cách triệt để, tức là cho đến cùng.

Số phận của tha nhân cũng là số phận của chính ta:

Ngôn sứ Êdêkiel đã minh nhiên lời dạy của Thiên Chúa: “Ngươi sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay Ta nói cho chúng biết. Nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng: “Hỡi tên gian ác, chắc chắn ngươi phải chết”, mà ngươi không chịu nói để cảnh cáo nó từ bỏ con đường xấu xa, thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết vì tội của nó, thì Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” (Ed 33,8). Không ai được phép vào Nước Trời một mình. Thiên Chúa không phải là Cha của mình tôi. Người là Cha của “chúng ta”, của mọi người (x.Kinh Lạy Cha). Thái độ dửng dưng, kiểu sống mặc kệ nó, là kiểu sống, là thái độ không xứng với người con cái Chúa.

Người ta có thể không ghét bỏ tha nhân, không tìm cách mưu hại tha nhân, thế nhưng chính khi không màng đến số phận của tha nhân cũng là khi ta góp phần hãm hại tha nhân cách gián tiếp. Đã nhiều lần Chúa Kitô nhấn mạnh chân lý này khi Người trách cứ tấm lòng dửng dưng của những luật sĩ biệt phái trước bao nổi khổ của đồng loại. Thấy anh em đang sai lỗi cũng như thấy anh em đang đứng bên bờ vực thẳm mà ta không lên tiếng cảnh báo hay sửa sai thì chính ta đã vô tình, đúng hơn là đã vô tâm để người anh em rơi xuống vực. Không cứu người theo khả năng và hoàn cảnh của mình là đã giết người. Dưới cái nhìn này chúng ta mới hiểu những lời đanh thép của Thiên Chúa qua miệng Ngôn sứ Êdêkiel ở trên: “Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó”.

Khi vạch rõ lộ trình sửa bảo anh em, bắt đầu từ hình thức cá nhân đến cộng đoàn, thì ngoài việc tôn trọng phẩm giá, danh dự người có lỗi, Chúa Kitô đã minh nhiên dạy ta tích cực sửa bảo người anh em cho đến cùng. Khi người anh em lỗi phạm không nghe cộng đoàn thì hãy xem họ như người ngoại giáo hay người thu thuế thì vẫn không là buông xuôi mà là trao phó cho Chúa, Đấng không có sự gì là không thể (x.Mt 19,26). Ngay cả khi trao phó người anh em lỗi phạm cho Chúa thì ta vẫn còn đó bổn phận góp phần bằng lời cầu nguyện. Để làm rõ hiệu quả của lời cầu, thì liền sau đó Chúa Kitô đã khẳng định: “Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20).

Chúng ta cần phân biệt các hành vi sai trái mang tính cá nhân và hậu quả của hành vi lỗi phạm thì hạn chế với những sai lầm mang tính tập thể và hậu quả di hại cho xã hội là rộng lớn hoặc hành vi lỗi phạm của cá nhân trở thành gương xấu gương mù cho xã hội, cho những kẻ bé mọn. Cung cách hành xử của Chúa Kitô thật rõ ràng. Nguời từ tâm, nhân hậu với những trường hợp đầu mà trái lại rất thẳng thắn và cương quyết với những trường hợp sau. Người tỏ lòng nhân hậu với chị phụ nữ phạm tội ngoại tình. Người thật khoan dung với sự yếu hèn của Phêrô khi chối Người, nhưng Người lại nghiêm khắc trước sự sai trái cũng của chính Phêrô khi ông ngăn cản Người lên Giêrusalem để thực thi công trình cứu độ bằng sự khổ nạn. Và với nhiều vị lãnh đạo Do Thái giáo hay các bậc vị vọng thời bấy giờ là Biệt Phái, Luật sĩ…thì thái độ của Chúa Kitô là rất thẳng thừng và cương quyết. Tuy nhiên dù cương quyết hay nhân hậu, dù nghiêm khắc hay dịu dàng thì các hành vi của Chúa Kitô đều ắp đầy lòng xót thương. Đến trần gian, một sứ mạng của Đức Kitô là mạc khải cho nhân trần chân dung của Thiên Chúa, Đấng từ bi và hay thương xót, Đấng không muốn bất cứ một ai phải hư mất.

Đức ái là động lực, là hình thức và là mục đích của việc sửa sai nhau:

Chúng ta dễ dàng chân nhận sự cần thiết của việc sửa bảo nhau. Tuy nhiên cần biết sửa bảo nhau vì yêu thương nhau, muốn cho nhau đổi thay và nên tốt lành, thánh thiện hơn, bằng những hình thức, những phương thế chính đáng và phải đạo. Làm sao minh chứng được động cơ và mục đích của việc ta sửa bảo nhau là vì yêu thương nhau? Quả là khó khi thẩm định những gì thuộc chiều sâu của tâm hồn. Với lời mạc khải, qua tấm gương của các ngôn sứ, đặc biệt của Chúa Kitô chúng ta có thể xác định rằng đức ái chính là động cơ và mục đích của việc sửa bảo nhau dựa vào một vài dấu chỉ sau:

- Có nhổ thì có trồng; có phá thì có xây: Ta không chỉ nói lên cái sai trái, sự lầm lỗi của nhau mà ta còn vạch ra cách thế sửa đổi, còn đề xuất phương hướng khắc phục cho nhau.

- Sẵn sàng đón nhận những sự hiểu lầm, những nghịch cảnh và cả những ngược đãi khi ta chân thành sửa bảo nhau bằng lòng khoan dung, tha thứ.

“Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tình yêu” (Rm 13,8). Đã mắc nợ là phải trả. Một trong những món nợ tình yêu chúng ta cần phải trả liên lĩ đó là món nợ liên đới trong lỗi phạm của nhau. Để trả món nợ này, chúng ta không chỉ can đảm đón nhận các hậu quả do tội lỗi của nhau mà còn phải tích cực sửa bảo nhau trong đức ái. Nếu ngươi không sửa bảo kẻ có tội thì “Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” là một lời cảnh báo thật đáng sợ. Tuy nhiên để cho việc sửa bảo nhau đạt kết quả thì chúng ta đừng quên rằng ngoài việc cầu xin ơn Chúa soi sáng, nâng đỡ, thì bản thân chúng ta trước hết cần làm thanh sạch bản thân mình một cách nào đó. Vì khi đã lấy cái xà ra khỏi mắt mình thì mình mới thấy rõ và biết cách lấy cái rác ra khỏi mắt anh em (x.Mt 7,1-5). Xin đừng viện cớ rằng tôi chưa hoàn thiện, nghĩa là vẫn còn vương nhiều lầm lỗi, nên tôi không được phép sửa bảo ai. Ngoại trừ Mẹ Maria, chúng ta thảy đều là tội nhân, mức này, mức kia. Hãy nhớ lời dạy của thánh Giacôbê: “Thưa anh em, nếu có người nào trong anh em lạc xa chân lý và có ai đưa người ấy trở về, thì anh em hãy biết rằng: kẻ nào làm cho một tội nhân bỏ đường lầm lạc mà trở về, thì cứu được linh hồn người ấy khỏi chết và che lấp được muôn vàn tội lỗi của mình.” (Gc 5,19-20)

[Mục Lục]

Bài 13. Cha Ta sẽ ban cho
Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến

Đoạn 18:15-20 nằm trong văn mạch chương 18 bàn về đời sống cộng đoàn. Các chủ đề chính được bàn đến là các trẻ nhỏ và những người bé mọn (18:1-14), hoà giải và tha thứ (18:15-35). Ngay sau khi nói về sự lầm lạc của một trong những người bé mọn (18:10-14), Matthêô bàn về việc sửa lỗi anh em, hoà giải (18:15-20), và tha thứ (18:21-35).

Trong đoạn nầy, từ ean, “nếu” xuất hiện nhiều lần (cc. 15[2x], 16.17[2x], 18[2x], 19[2x]). Các câu 15-17 dùng các đại danh từ ngôi thứ hai số ít, “anh”, sy ; trong khi các câu còn lại, 18-20, dùng “các anh”, hymin. Có thể phân chia đoạn nầy như sau: – Sửa lỗi người anh em (cc. 15-17); – Quyền bính buộc tội và tha tội (c. 18); – Chúa Cha nhậm lời và Chúa Giêsu hiện diện (cc. 19-20).

Sửa lỗi người anh em (cc. 15-17)

Matthêô đặt ra vấn đề là phải đối xử như thế nào với người anh em của mình khi họ phạm lỗi đến mình. Ở đây tất cả mọi chuyện được đặt ra bằng những câu điều kiện, ean, “nếu”. Có thể phân bố cục các câu nầy như sau: – Đặt ra một trường hợp xúc phạm đặc thù (15a), – Các cách sửa lỗi (cc. 15b-17a), – Cách đối xử với người không hoán cải (c. 17b).

Mở đầu câu thánh sử nói đến việc “phạm lỗi”, hamartanò. Trong mạch văn của chương 18, động từ nầy chỉ tội “gây vấp ngã”, skandalizò, cho một trong những người bé mọn tin vào Chúa Giêsu (cc. 6.8.10). Cấu trúc hamartanò + eis + một người: chỉ phạm lỗi đến cá nhân một người (Kh 20:6.9; 34:9). Tội “gây vấp ngã” là tội làm tổn hại đến lòng tin vào Chúa Kitô. Tội nầy tuy phạm trực tiếp đến một cá nhân, nhưng cũng có ảnh hưởng trên cộng đoàn. Bởi đó, việc sửa lỗi cần đến cả cá nhân lẫn cộng đoàn.

Chúa Giêsu muốn “người anh em” được sửa lỗi (c. 15). Cách sửa lỗi đầu tiên là giữa cá nhân người phạm lỗi và người bị xúc phạm. Động từ elenchò là hapax trong Matthêô. Trong tin mừng Luca động từ nầy được dùng trong ngữ cảnh khác, và rất hữu ích giúp chúng ta hiểu nghĩa của động từ. Gioan Tẩy Giả “khiển trách”, elenchò, Hêrôđê vì đã lấy bà Hêrôđia làm vợ” (Lc 3:19). Gioan cho ông Hêrôđê thấy việc ấy là sai, và không nên làm. Elenchòtrong ngữ cảnh của Matthêô cũng mang ý nghĩa tương tự là “mở ra, trải ra, chỉ cho một người thấy những sai lỗi của mình”, và “thuyết phục họ nhận mình sai lỗi” (x. Lc 3:19; Dt 12:5; Khải huyền 3:19; Lv 19:17).

Kết quả của việc sửa lỗi có thể là tích cực, “nếu người anh em nghe ngươi”. Động từ akouò, mang ý nghĩa nhiều hơn là “nghe”, mà là “làm theo điều đã được soi sáng/cho biết”, đúng hơn là “hoán cải” (7:24; 10:14; 13:9); Luca dùng từ metainoia “hoán cải” trong trường hợp nầy (Lc 17:3). Động từ kerdainò, “kiếm được”, mang ý nghĩa sự sở hữu, sở hữu vật chất (16:26; 25:16tt). Giúp hoán cải một người anh em là “kiếm được” người ấy cho Chúa Giêsu Kitô và cộng đoàn (18:15; 1 Co 9:23; 1Ph 3:1); tuy nhiên một cách nào đó việc ấy cũng được kể là thuộc về người đi sửa lỗi, “anh em của ngươi”.

Kết quả có thể là tiêu cực, “Người anh em không nghe ngươi” (c. 16.17), việc sửa lỗi đòi hỏi nhiều cố gắng hơn. Phải cần đến người khác và cộng đoàn. Trước tiên là cần đến hai hoặc ba người, như thấy điều nầy được áp dụng ở vài nơi trong Tân ước (x. 26:60; Ga 8:17-18; 2 Co 13:1). Và nếu không có kết quả nữa, phải cần đến cộng đoàn. Ekklèsia ở đây chỉ cộng đoàn kitô hữu địa phương, chứ không mang nghĩa phổ quát như trong 16:18.

Nếu cách sửa lỗi cuối cùng vẫn không đạt kết quả tốt, “người đó đối với ngươi như người ngoại, người thu thuế”. Câu kết luận quy chiếu lại trên người bị phạm lỗi (c. 15a) 1à chỉ “đối với ngươi” mà thôi. Xem họ như “người ngoại, người thu thuế”, nghĩa là như người chưa hoán cải, chưa có một cách sống của các môn đệ của Chúa Kitô (x. 4:56-57). Bản văn không nói đến cách cư xử của cộng đoàn đối với người nầy.

Việc Matthêô kể ra đến ba giai đoạn sửa lỗi cho thấy thánh sử nhấn mạnh đến sự rất cần thiết của việc giúp người anh em sửa lỗi. Cá nhân cũng như tập thể phải cố gắng hết sức và bằng mọi cách đưa người anh em trở về.

Quyền buộc tội và tha tội (c. 18)

Từ thái độ đối với người không “chịu nghe” (c. 17), Chúa Giêsu đưa ra một nguyên tắc về quyền buộc tội và tha tội của các môn đệ (18:18). So sánh giữa câu nầy và câu 16:19 mà Chúa Giêsu nói với Phêrô trong trình thuật trước, chúng ta thấy có nhiều điểm khác biệt. Trong câu 16:19, các động từ deomai, “buộc” và luò, “tháo” đểu ở ngôi thứ hai số ít. Chúa ban quyền nầy cho Phêrô; trong khi ở câu 18:18, các động từ được dùng số nhiều. Quyền nầy được ban cho các môn đệ. Do ngữ cảnh của câu nầy, nói về gây cớ vấp phạm (cc. 6.8.10), phạm tội (c. 15), việc sửa lỗi (cc. 16-17), việc “buộc” và “tháo” nầy được hiểu như là phán quyết về tội.

Chúa Cha nhậm lời và Chúa Giêsu hiện diện (cc. 19-20)

Hai câu 19 và 20 được đặt chung với nhau vì chúng được dẫn vào bởi cùng một câu: “Quả thật, Ta lại bảo các ngươi”. Các câu cuối nầy liên hệ với các câu trên bởi cấu trúc câu: ean (c. 19), “nếu”, “hai”, “ hoặc ba” (c. 16 và 19.20), “trên mặt đất”, “trên trời” (cc. 18.19). Như các câu 15-17 đề cập đến giữa hai người trong vấn đề “phạm lỗi”, ở đây cũng nói đến “hai người” (c.19), “hai hoặc ba người” (c.20), nhưng trong việc “đồng tâm” (c.19) và “tụ họp nhân danh Ta” (c. 20); và kết quả là “Cha Ta sẽ nhậm lời” (c. 19) và Chúa Giêsu “sẽ ở giữa họ” (c. 20).

Ở đây Chúa Giêsu thêm một nguyên tắc nữa. Đó là “Nếu trong các ngươi hai người dưới đất đồng thanh xin về bất cứ việc gì, thì Cha Ta, Ðấng Ngự trên trời sẽ ban cho” (c. 19). Xét về mặt hình thức, hai câu 19-20 nầy có liên hệ với các câu trước như đã phân tích ở trên. Xét về nội dung, xem ra Matthêô đưa vào đây một chủ đề mới. Thật ra, điều Matthêô nói trong các câu 19-20 có liên hệ rất mật thiết với các câu trước.

Sau khi nói đến việc một người anh em sai lỗi (18:12.15), việc sửa lỗi, chủ yếu là không thành công (cc. 16-17) và quyền buộc tội và tha tội của các môn đệ (c. 18), thánh sử nói đến sự hoà hợp của các môn đệ trong cầu nguyện và tụ họp như là điều kiện để được Chúa Cha nhậm lời về “những điều họ kêu xin”, và Chúa Giêsu “hiện diện giữa họ” (c. 20). Động từ symphòneò, nghĩa đen của nó là “vang lên cùng một giọng”, nghĩa là “hòa hợp”, “có một lòng một ý” (x. 20:3.13), aiteò ở đây có nghĩa là “cầu xin” trong bối cảnh cầu nguyện (21:22), và panta pragma, “bất cứ điều gì”; hiểu theo nghĩa là “việc liên quan đến luật lệ” (Thayer; x. Rom 16:2; 1 Co 6:1). Nếu đúng như thế, panta pragma nầy ám chỉ những chuyện “gây vấp ngã” (cc. 6.8.10), đi lạc (c.12), phạm lỗi (c. 15a). Và điều các môn đệ cầu xin chính là sự hoán cải của những người ấy, vì các môn đệ đã tìm cách sửa lỗi họ mà không thành công.

Câu 20 khai triển ý tưởng việc cầu nguyện trong trường hợp cụ thể ở câu 19; gar, “vì” (c.20) mang ý nghĩa giải thích. “Tụ họp nhân danh Chúa Giêsu Kitô” là tụ họp để cầu nguyện, là tụ họp của các môn đệ của Chúa Kitô. Lời hứa nầy được tuyên bố lại trong 28:20 bởi Chúa Giêsu Kitô phục sinh. Vậy Chúa Giêsu Kitô phục sinh hiện diện giữa những người tụ họp lại cầu nguyện nhân danh Ngài.

Sửa lỗi người anh em phạm lỗi là việc phải làm. Nhưng cầu nguyện cho người ấy thì có sức mạnh và hiệu quả hơn cả việc sửa lỗi, vì lúc ấy chính Thiên Chúa hành động. Hãy cầu nguyện để mọi người được ơn cứu độ.

[Mục Lục]

Bài 14. SỬA ĐỔI HUYNH ĐỆ LÀ BỔN PHẬN CỦA TÌNH YÊU
Lm. Phêrô Lê Văn Chính

Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ cách thế giải quyết những tranh chấp, xích mích, những cá nhân lầm lỗi trong cộng đoàn. Ðây là công việc khó khăn vì phải thực hiện cách tế nhị nhưng trực tiếp, thẳng thắn và liên tục nhiều lần nhằm đạt được kết quả hòa giải và thống hối cho các thành viên trong cộng đoàn. Ðiều quan trọng không phải chỉ là nhằm một mục tiêu giới hạn là sửa chữa tính tình cá nhân nhưng mục tiêu còn rộng lớn hơn là nhằm làm cho đời sống của Giáo hội được phát triển tốt đẹp, cho mọi người đều được thăng tiến trong đời sống đạo đức. Thiên Chúa luôn mong muốn huấn luyện và sửa dạy dân Chúa trong đường lối tinh toàn để họ biết nhìn nhận Thiên Chúa và nhờ đó xứng đáng hưởng ơn cứu độ là sự sống của Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu mời gọi mọi người trong cộng đoàn biết quan tâm giúp đỡ lẫn nhau để cộng đoàn là nơi qui tụ những con người bắt đầu sống những thực tại mới của ân sủng.

Trích đoạn lời Chúa tuần này là thành phần của bài giảng thứ tư của Ðức Giêsu. Chủ đề là nhằm giúp đời sống cộng đoàn huynh đệ, sự thăng tiến của cá nhân, và trách nhiệm của mỗi người đối với nhau. Bởi vì những tranh chấp xích mích, những lỗi phạm cá nhân là điều không thể tránh được trong cộng đoàn, nên cần phải có những phương thế giải quyết. Trong bất kỳ cộng đoàn nào, những tranh chấp giữa các cá nhân là điều dễ gây đổ vỡ, trong cộng đoàn các môn đệ Chúa Giêsu, những tranh chấp này lại còn cao hơn nữa bởi vì chứng tá của những chứng nhân đời sống cộng đoàn sẽ làm cho Tin mừng được khả tín hơn hay đe doạ sự khả tín của Tin mừng.

Vì giải pháp cho tranh chấp có thể dẫn đến biện pháp kỷ luật nghiêm trọng là việc khai trừ khỏi cộng đoàn, nên điều Ðức Giêsu dạy được xem là có mức độ tiệm tiến từ hòa giải đến biện pháp kỷ luật nghiêm khắc: cố gắng ban đầu để giải quyết chỉ bao gồm giữa hai người liên hệ và nhằm nhắc nhở, khuyên nhủ. Nếu như không giải quyết được thì cần phải mời những người làm chứng. Những người làm chứng này kiểm chứng những biện pháp giải quyết của hai bên đang tranh cãi, và quan sát phản ứng của bị cáo nhằm bảo vệ cho người đứng ra cáo buộc, và cũng bảo vệ cho bị cáo khỏi những lời cáo buộc vô căn cứ. Nếu như hai giải pháp ban đầu, gồm có việc trao đổi cá nhân, và sau đó có thêm hai nhân chứng đều thất bại, thì những giải pháp sau nghiêm trọng hơn sẽ gồm có việc nhờ đến sự can thiệp của cộng đoàn. Khi cộng đoàn quyết định mà bị cáo còn từ chối không chịu hối cải, thì bị cáo bị sa thải, loại trừ và bị kể là người tội lỗi. Như thế, việc sửa đổi và hối cải là điều rất quan trọng đối với đời sống của người môn đệ đến độ từ chối sửa đổi tật xấu của mình tức đương nhiên quyết định tự loại khỏi cộng đoàn những môn đệ của Ðức Giêsu cũng như không cố gắng mạnh dạn góp ý cho người khác cũng là lỗi trách nhiệm. Sự chuẩn nhận của cộng đoàn là quan trọng trong việc nhìn nhận cá nhân sai lỗi đã sửa đổi tật xấu của mình hay không chịu sửa đổi. Phán quyết và quyền bính của Giáo hội hành động trong những sự việc này là chính quyền bính của Ðức Giêsu đã ban cho Phêrô.

Câu chuyện giải quyết tranh chấp trong đời sống cộng đoàn lại được tiếp nối bằng lời tuyên bố hiệu lực của lời cầu nguyện khi có hai hay ba người họp lại nhân danh Chúa Giêsu. Ðiều này được hiểu là hai ba người cầu nguyện này cũng chính là những người đến làm chứng cho việc dàn xếp tranh chấp trong cộng đoàn. Khi cộng đoàn đã đi đến quyết định, thì chính Chúa sẽ chấp thuận quyết định này của cộng đoàn, qua việc ưng thuận lời cầu nguyện của cộng đoàn.

Đây cũng chính là giáo huấn của các tiên tri, đặc biệt chúng ta nghe đọc trong sách tiên tri Êzêkiel. Hình ảnh được tiên tri mô tả sứ vụ của mình là người lính canh của nhà Israel. Công việc của người lính canh quan trọng cho sự bình an của người dân trong thành thế nào thì công việc sửa lỗi huynh đệ cũng như thế. Người lính canh này nhận lệnh từ chính Thiên Chúa để nhắc nhở mọi người biết sống theo đường đạo lý ngay thẳng, giúp cho người tội lỗi biết bỏ đường gian ác mà trở về con đường hoàn thiện để được sống. Người lính canh này mang một trách nhiệm nặng nề trước mặt Chúa, bởi vì nếu như người tội lỗi phải chết trong đường gian ác mà không được nghe lời nhắc nhở cảnh tỉnh của người lính canh, thì Thiên Chúa bắt lỗi nặng người lính canh này, bởi vì ông đã không chu toàn bổn phận của mình do Chúa trao phó.

Thánh Phaolô trong bức thư Rôma thì so sánh bổn phận giúp đỡ lẫn nhau là bổn phận do tình yêu nối kết mọi người với nhau đến mức độ giúp đỡ nhau được xem như một món nợ của tình yêu mà chúng ta phải chu toàn. Người tín hữu trong cộng đoàn cố gắng giúp nhau để mọi người sống những giới răn luân lý như không ngoại tình, không giết người, không làm chứng gian, không mê tham. Cộng đoàn các Kitô hữu là một cộng đoàn không phải lý tưởng, tức không có những tội lỗi. Nhưng đây là một cộng đoàn mà mọi người cùng giúp nhau để tiến bộ, để lần hồi biết từ bỏ những tội lỗi của mình. Vì thế, đời sống đạo của chúng ta không chỉ là sống tương quan thẳng với Chúa mà thôi mà còn phải sống tương quan ngang với anh em, bởi vì giúp nhau để trở nên tốt đẹp hơn là bổn phận của tình yêu và là đòi hỏi của Thiên Chúa.

Không ai trong chúng ta muốn bị sửa lỗi, bởi vì ai cũng tự ái. Thế nhưng, ai trong chúng ta cũng phải nhìn nhận là mình không hoàn hảo, dù chúng ta dễ thấy tật xấu của người khác hơn là của chính mình. Ðiều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh không chỉ là việc sửa lỗi cá nhân, mà còn là nhằm gìn giữ đời sống toàn vẹn của cộng đoàn cũng như của mỗi người để được sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa. Ðây là một công việc nhẫn nại bởi vì phải giải quyết trực tiếp, thẳng thắn và nhiều lần nhằm đạt được mục đích là làm cho người này hoán cải và được hòa giải với cộng đoàn và với Thiên Chúa. Ðiều quan trọng không phải chỉ là việc sửa chữa việc tranh chấp của một cá nhân mà còn là vì chính đời sống của cộng đoàn.

Thống hối, hòa giải, chữa lành là những thực tại cánh chung, loan báo Nước Trời gần kề. Ở trong cuộc đời này, chúng ta không bao giờ là cộng đoàn hoàn hảo, hoặc là Giáo hội hoàn hảo, bởi vì chúng ta luôn là những con người yếu đuối với nhiều bất toàn. Ðời sống của Giáo hội, như là một cộng đoàn, đòi hỏi không ngừng hoán cải, bởi vì Giáo hội, xét như là Thân mình của Chúa Kitô, loan báo sự hiệp nhất chưa hoàn tất qua những con người yếu hèn của chúng ta. Nói cho cùng, khi chúng ta hành động như Giáo hội để hòa giải, chúng ta đang hành động như là Thân mình của Chúa Kitô hiệp nhất với Ðầu. Hòa giải là điều quan trọng thiết yếu trong Giáo hội bởi vì chúng ta là những phần chi thể của thân mình duy nhất của Chúa Kitô.

Vì thế, sửa lỗi người khác và được sửa lỗi là những điều rất khó khăn mà chúng ta phải cố gắng. Việc sửa lỗi huynh đệ cần phải có động lực chân thật nhằm đạt được việc thống hối và hòa giải thực sự. Có thể có những động lực không chính đáng xen lẫn khi chúng ta sửa lỗi nhau như chỉ vì tự ái, hoặc là để làm vui lòng nhau. Trái lại, động lực chân thực phải là sự xác tín rằng chúng ta cùng chia sẻ cùng một thân mình của Chúa Kitô như lời Người hứa hiện diện nơi nào có hai hay ba người họp lại nhân danh Người. Qua việc sửa lỗi huynh đệ, chúng ta muốn gìn giữ cho đời sống cộng đoàn được hiệp nhất trong cùng một Thân mình Chúa Kitô cũng như muốn giúp đỡ nhau sống những giá trị của Tin mừng đang hướng dẫn chúng ta. Chính đó là sức mạnh của Chúa Kitô Phục sinh đang hoạt động trong thân mình Giáo hội là chúng ta. Như thế, chúng ta lần hồi kinh nghiệm những chiều kích khác nhau của đời sống mới.

[Mục Lục]

Bài 15. Bài giảng của Lm. Giuse Đinh Tất Quý

“Nếu người anh em của anh trót phạm tội,thì anh hãy đi sửa lỗi nó.” (Mt 18,15)

Con người ai cũng có lầm lỗi. Trước lỗi lầm của người khác, ta thường có hai thái độ, hoặc quá khắc nghiệt loại trừ, hoặc quá thờ ơ lãnh đạm. Cả hai thái độ đó đều thiếu xây dựng. Quá khắc nghiệt loại trừ sẽ khiến ta can thiệp thô bạo vào đời tư, sẽ gây ra bất mãn, đổ vỡ. Quá thờ ơ lãnh đạm buông thả cho sự xấu tràn lan, sẽ làm cho xã hội suy thoái.

Giáo hội là một cộng đoàn của những con người. Lầm lỗi là không thể tránh khỏi. Vì thế muốn cộng đoàn phát triển, việc sửa lỗi là cần thiết, nhất là đối với những lầm lỗi công khai ảnh hưởng đến đời sống cộng đoàn.

Lời Chúa hôm nay đưa ra những hướng dẫn cần thiết giúp việc sửa lỗi có kết quả.

Muốn sửa lỗi phải quan tâm. Chúa nói: “Khi anh em ngươi sai lỗi”. Vâng, người sai lỗi đó không phải ai xa lạ. Ðó là anh em tôi, là người nhà của tôi, là một thành phần của đời tôi. Nếu lầm lỗi giống như một cơn bệnh, làm sao tôi phải lo lắng chạy chữa cho người thân, nhất là cho chính bản thân khi bị mắc bệnh? Nếu lầm lỗi giống như mất mát một người thân, làm sao tôi lại không đau xót đi tìm?

Muốn sửa lỗi cần can đảm. Càng ngày người ta càng muốn tránh đụng chạm, mích lòng. Dại gì nói những chuyện không vui để mua thù chuốc oán vào thân. Vì thế, để sửa lỗi, cần phải can đảm. Can đảm đến với người lầm lỗi. Can đảm nói sự thật về lỗi lầm của họ. Can đảm chấp nhận những rủi ro do việc sửa lỗi đưa đến như sự giận ghét, công kích, chấp nhận bị phê bình ngược lại.

Muốn sửa lỗi phảitrân trọng. Trân trọng vì người anh em tuy có lầm lỗi, vẫn có khả năng sửa đổi. Sửa lỗi là tin vào thiện chí, vào mầm mống tốt đẹp Chúa gieo vào lương tâm mỗi người. Sự khinh miệt, lên mặt kẻ cả sẽ chỉ chuốc lấy thất bại.

Muốn sửa lỗi phải rất tế nhị. Tâm hồn người lầm lỗi rất mong manh, đầy tự ái và đầy mặc cảm. Một lời nói không khéo sẽ dẫn đến đổ vỡ. Vì thế, Chúa dạy tôi phải rất tế nhị khi sửa lỗi. Thoạt tiên chỉ gặp riêng một mình. Gặp riêng là một thái độ tế nhị. Sự tế nhị tạo nên cảm giác an toàn, kính trọng và yêu thương. Sự tế nhị tạo ra một bầu khí tín nhiệm thuận lợi cho việc cởi mở tâm tình, khai thông bế tắc. Sự tế nhị sẽ trở thành chiếc cầu đưa người lầm lỗi trở về cộng đoàn.

Sau cùng, muốn sửa lỗi phải kiên trì. Việc sửa lỗi không đơn giản. Không phải làm một lần mà thành. Vì thế phải rất kiên trì và có nhiều phương án. Kiên trì để vẫn tiếp tục dù đã một lần thất bại. Có nhiều phương án để cương quyết đi đến thành công. Hôm nay Chúa đưa ra cho ta ba phương án để chinh phục người anh em: Gặp riêng, gặp có người làm chứng và sau cùng mới đưa ra cộng đoàn.

Như thế, việc sửa lỗi hoàn toàn là một việc làm được thúc đẩy do tình yêu. Chính bầu khí tin yêu đó sẽ khiến cộng đoàn phát triển. Ai cũng mong được sống trong một cộng đoàn yêu thương như thế. Vì khi lầm lỡ ta biết mình không bị loại trừ nhưng sẽ được quan tâm giúp đỡ, một sự giúp đỡ chân thành, tế nhị và đầy yêu thương.

Thánh Philipphê Nêri một ngày kia muốn sửa lỗi cho một người phụ nữ có cái tật hay nói hành nói xấu người khác. Ngài bảo chị ta mua một con gà rồi làm cho nó chết đi… sau đó hãy đem con gà đó đến gặp Ngài với điều kiện là phải vặt hết lông con gà trên đường đi. Người phụ nữ hơi thắc mắc nhưng vì lòng yêu mến thánh nhân nên cũng vui lòng làm như Ngài dạy. Khi tới nơi, Ngài không khuyên lơn gì cả, mà lại ra lệnh cho bà đó trở về… vừa đi vừa lượm lại cho Ngài hết số lông con gà mà bà đã vứt ở dọc đương.

Chúng ta thừa biết phản ứng của người phụ nữ đó như thế nào.

Sau đó Ngài cắt nghĩa: “Những lời nói vu oan cáo vạ cho người khác khi ra khỏi miệng cũng sẽ nhanh chóng loan truyền từ tai người này sang tai người khác như vậy, khó mà con thể thu lượm lại được… chẳng khác gì phải thu lượm lại những cái lông gà… của con vậy”. Rồi Ngài thêm “Còn khi muốn nói về một người nào làm khổ mình thì chỉ nên nói với Chúa mà thôi… hãy cầu nguyện cho họ để họ biết sửa lỗi”.

Lạy Chúa Giêsu

Chỉ có Chúa mới có thể làm cho chúng con những điều kỳ diệu.

Xin Chúa đừng để cho những lỗi lầm chúng con gây ra cho nhau trở thành nguyên cớ cho những mất mát và phân ly.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nhân danh Chúa để sống trong sự thật, trong yêu thương.

Xin cho chúng con biết hết lòng giữ gìn, chăm sóc, vun tưới cho cuộc sống hiệp nhất giữa những người con của Chúa mỗi ngày mỗi tốt đẹp hơn. Vì chỉ có như thế chúng con mới xứng đáng là những người con và xứng đáng với tình yêu thương của Chúa mỗi ngày. Amen.

[Mục Lục]

Bài 16. Giúp nhau sửa chữa lỗi lầm
Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Sửa lỗi cho người khác là một việc rất khó làm

Đôi khi với tinh thần xây dựng, ta chỉ cho người khác biết lầm lỗi của họ; thế rồi, thay vì được người khác biết ơn, bản thân ta lại bị họ oán hờn: Họ sẽ giận hờn ta, chửi mắng ta, xa lánh ta, ghét bỏ ta… Quả là “làm ơn mắc oán.”

Những lần sau, vì sợ hậu quả như thế xảy ra, ta tự nhủ lòng: “Thôi, ai lầm lỗi thì mặc người ta, hồn ai người đó giữ”; đôi khi ta cũng có chọn lựa như Ca-in khi trả lời với Thiên Chúa: “Tôi đâu phải là người canh giữ em tôi!”

Thế là vô tình, ta trở thành người dửng dưng, vô cảm, ngoảnh mặt làm ngơ trước những sai phạm của người khác.

Đây là cách hành xử tai hại, vì làm như thế sẽ tạo đà cho lầm lỗi và tội ác gia tăng. Thái độ nầy cũng đi ngược lại với lòng yêu thương bác ái và bổn phận xây dựng trần thế của người Ki-tô hữu.

Sửa lỗi cho người khác là một bổn phận không được thoái thác

Con người có mắt nhìn ra mà không có mắt nhìn vào nên việc nhận ra lầm lỗi của mình là điều rất khó. Có người ví von rằng mỗi người đều mang một gùi đầy tội sau lưng và một gùi công đức trước ngực. Vì thế, người ta chỉ thấy công đức mà không thấy được lầm lỗi của mình.

Ông Dale Carnegie, một học giả trứ danh người Mỹ, tác giả của nhiều cuốn sách nổi tiếng được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, quả quyết rằng: “Tôi đã bỏ ra gần 70 năm trong đời để khám phá ra chân lý nầy là dù người ta có lỗi nặng đến đâu, thì trong 100 lần phạm lỗi thì có tới 99 lần người ta tự cho mình là vô tội.”

Chính vì thế, giúp cho người lầm lỗi nhận biết được tội lỗi của bản thân để giúp họ sửa mình là một việc làm rất cần thiết.

Đối với các tín hữu của Chúa, thì đây không chỉ là việc cần làm mà còn là một bổn phận bắt buộc, không được thoái thác.

Lời Chúa trong sách ngôn sứ Ê-dê-kiên đòi buộc cách quyết liệt như sau: “Nếu ngươi không cảnh cáo kẻ gian ác, giúp nó từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó phải chết vì sự gian ác của nó, nhưng còn máu nó, Ta sẽ đòi ngươi” (Edêkien 33, 7-9). Và qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su truyền dạy: “Nếu anh em của ngươi trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó …” không phải một lần mà nhiều lần, cách nầy không được thì phải vận dụng cách khác, cố sao giúp người anh em sửa được lỗi mới thôi. (Mát-thêu 18,15)

Cần sửa lỗi cách tế nhị và đầy lòng yêu thương

Hy vọng việc sửa lỗi sẽ không trở thành việc “làm ơn mắc oán” hay phát sinh nguy cơ “lời thật mất lòng”, nếu việc nầy được thực hiện với sự tế nhị và tấm lòng yêu thương.

Hôm nọ, khi thấy một thanh niên ngồi ngoài hành lang hút thuốc trong khi Thánh Lễ đang được cử hành bên trong nhà thờ, cha Phó tiến lại gần bên anh, thay vì quở trách, ngài mỉm cười, vỗ vai thân mật chàng thanh niên đó như một người bạn rất thân quen và đề nghị: “Nếu bạn hy sinh không hút thuốc giờ nầy thì bạn sẽ có một lễ tế cao đẹp dâng lên Thiên Chúa, chắc chắn Chúa sẽ rất hài lòng về bạn và sẽ ban cho bạn nhiều ơn phúc!”

Thế là chàng trai mỉm cười, giụi tắt điếu thuốc đang hút dở, rồi vui vẻ bước vào bên trong thánh đường.

Lạy Chúa Giê-su,

Vì muốn sửa chữa lỗi lầm cho nhân loại, Chúa phải trả giá rất cao: Chúa đã từ bỏ ngai trời, hạ mình xuống thế, trở nên người phàm sống giữa các tội nhân, hoà mình với họ, yêu thương họ và chấp nhận hiến thân chịu chết thay cho họ.

Hôm nay, Chúa chưa đòi chúng con phải chết thay cho người lầm lỗi, mà chỉ mời gọi chúng con phải dùng việc làm, lời nói, cách cư xử… để giúp người khác khỏi đắm chìm trong tội mà thôi. Vậy mà chúng con chưa có đủ yêu thương và thiện chí để thực hiện sứ mạng cao đẹp nầy, trái lại còn viện đủ cách để thoái thác.

Xin ban cho chúng con thêm nghị lực và lòng yêu thương để chúng con mạnh dạn đến với bao người lầm lỗi hầu giúp họ cải thiện cuộc đời.

[Mục Lục]

Bài 17. SỬA LỖI CHO NHAU
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo Hội ở trần gian này, nghĩa là Ngài dựng xây Hội Thánh. Trong Hội Thánh có người tốt nhưng cũng có người chưa tốt, có sự lành và sự dữ. Chúa Giêsu muốn mọi thành phần trong Hội Thánh có trách nhiệm tùy mức độ đối với lỗi lầm của anh em mình, là tìm cách giúp đỡ họ nên tốt hơn, hoàn hảo hơn. Anh em trong Hội Thánh hiệp lời cầu nguyện với nhau chắc chắn sẽ có Chúa hiện diện và được Chúa Cha nhận lời, sinh hiệu quả tốt đẹp.

Thực tế, Chúa thiết lập Hội Thánh, là mong muốn cho mọi người nên thánh, tuy nhiên, trong một tập thể, đặc biệt trong Giáo Hội chắc chắn sẽ có những người chưa tốt, sẽ có những người có tội chứ không hẳn mọi người đều thánh như Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế Giáo Hội đã viết : “Chúa Kitô thánh thiện, vô tội, tinh tuyền, không hề phạm tội (2Cr 5, 21), chỉ đến để đền tội, gánh tội cho dân (Dt 2, 17), còn Giáo Hội luôn ấp ủ những kẻ tội lỗi trong lòng, trong đôi tay của mình, nên vừa thánh thiện, vừa phải thanh tẩy, luyện sạch mình. Chính vì thế, Giáo Hội luôn thực hiện việc sám hối và canh tân đổi mới” (GH 8). Giáo Hội luôn chú trọng đến việc sửa đổi, sửa lỗi cho nhau sao cho phù hợp với lời Chúa, và phù hợp với cách Chúa dạy bảo. Khi có người lỗi phạm, Giáo Hội chú tâm dạy bảo người đi sửa lỗi hơn là tội nhân. Chúa kêu mời con người chúng ta có trách nhiệm về sự hoàn thiện, sự tiến bộ của anh em mình, nhưng để đạt được điều đó đòi hỏi con người phải kiên nhẫn, cẩn trọng, từ từ… nếu có phải chờ đợi, dùng tới 2, 3 người cũng là để nhờ sự kiên nhẫn, khéo thuyết phục mà tội nhân sẽ hối cải, trở về, thanh luyện để tốt hơn chứ không phải để bắt lỗi họ, cáo lỗi họ mà để sửa lỗi làm cho họ nên hoàn thiện hơn. Giáo Hội vững mạnh nhờ sức mạnh của Chúa Phục Sinh, để toàn thắng các thử thách, khó khăn sầu muộn nội tâm cũng như bên ngoài bằng yêu thương và kiên trì. Đi thưa cộng đoàn: ở đây cộng đoàn nghĩa là Hội Thánh để Hội Thánh dùng quyền của mình mà tha thứ tội nhân sau khi đã dùng lời lẽ khôn ngoan mà chỉ dạy. Nếu họ không chịu nghe Giáo Hội thì họ được coi là người ngoài và là người không hiểu biết gì về Giáo lý của Chúa. Đặc biệt, Chúa xác định lại lời đã tuyên bố với Phêrô (16, 9) và mở rộng quyền đó cho các tông đồ. Chúa cũng nhắc nhở là một mình cầu nguyện đã tốt, tuy nhiên nếu hai ba người cầu nguyện nhân danh Chúa, chắc chắn Chúa sẽ hiện diện và Chúa Cha sẽ nhận lời vì Chúa Giêsu luôn làm đẹp lòng Đức Chúa Cha.

Từ xưa đến nay, thực tế đã có rất nhiều người hiểu sai về Giáo Hội, họ tưởng rằng Giáo Hội hoàn toàn lúc nào cũng chỉ có những người thánh hoặc cho rằng Giáo Hội bao che những người phạm tội, cứ làm lỗi, cứ phạm tội rồi đi xưng tội là xong và rồi họ lại tiếp tục phạm tội. Giáo Hội cho nhân loại hay Giáo Hội qua muôn thế hệ luôn bảo toàn kho tàng thánh đức, làm phát triển kho tàng ấy, nhưng Giáo Hội luôn đòi hỏi con người phải canh tân, đổi mới, phải ăn năn sám hối để trở nên hoàn thiện mỗi ngày. Mọi người đều có nhiệm vụ giúp mình và giúp người khác tốt hơn, hoàn thiện hơn để cùng nhau hiệp lời cầu nguyện, và nhờ lời cầu nguyện chân thành Chúa sẽ hiện diện, và rồi lời khẩn cầu Chúa, cùng cộng đoàn dâng lên Thiên Chúa Cha, chắc chắn sẽ được Chúa Cha nhận lời và ban ơn.

Xin mượn lời Đức Cha Georges Pontier để kết luận bài chia sẻ này : “Chúng ta hãy chú tâm nghe lời khuyên mà Đức Kitô cho thêm : tất cả việc này (việc sửa lỗi nhau) phải được thực hành trong một bầu khí cầu nguyện.Điều phải làm cho được là những gì thật sự tốt cho người anh em : chinh phục được anh.Điều tốt này được trao vào tay Chúa Cha, Đấng không thể từ chối những gì hai hay ba người cầu xin Người ban cho, nhân danh Chúa Con. Phần thánh Phaolô, ở một trong những bài đọc Chúa Nhật hôm nay, ngài nhắc lại rằng “yêu thương là chu toàn Lề Luật”. Không phải nhân danh Lề Luật mà ta đi “cảnh báo” anh em mình, nhưng là nhân danh tình yêu hoặc nhân danh sứ mạng làm “ngôn sứ” mà chúng ta lãnh nhận ngày chịu phép thanh tẩy. Chính trong cầu nguyện mà ta đón nhận những nẻo đường đưa tới một thái độ đứng đắn cho tình huynh đệ.Và những gì còn lại thì thuộc về Thiên Chúa”.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết nhận ra sự yếu hèn của mình và mau mắn sửa lỗi anh em mình với tình thương để họ mỗi ngày mỗi hoàn thiện, mỗi tốt hơn. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1. Sửa lỗi và bắt lỗi khác nhau thế nào?
2. Khi sửa lỗi anh em thái độ của người đi sửa lỗi phải làm sao?
3. Khi hai ba người cầu nguyện nhân danh Chúa, Chúa sẽ thế nào?
4. Khi sửa lỗi nhau chúng ta nhân danh Lề Luật hay nhân danh tình yêu
?

[Mục Lục]

Bài 18. Sống bác ái, hiệp thông để cùng nhau thăng tiến
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Bước vào Chúa nhật XXIII, chủ để nổi bật hơn cả là “bác ái huynh đệ trong cộng đoàn tín hữu“.

Sống trong Giáo hội Chúa Kitô

Hiệp nhất nhân danh Chúa Giêsu“, bác ái, tha thứ cho nhau và giúp nhau thăng tiến là điều ai cũng muốn và cần làm. Đây không đơn giản chỉ là tương quan xã hội trong cuộc sống hàng ngày. Việc sửa lỗi huynh đệ đã có trong sách Lêvi : “Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó ” (Lv 19, 17). Vì bác ái với dân Israel, Chúa đã làm cho Êdêkiel “trở nên người lính canh nhà Israel“, và truyền ông phải nói cho “kẻ gian ác bỏ đường lối mình“, để được sống, nếu không “thì chính kẻ gian ác sẽ chết” (x.Ed 33, 7-9).

Thánh Phaolô nói : “Anh em chớ mắc nợ ai ngoài việc phải yêu mến nhau” (Rm 13, 8). Thì ra chúng ta phải mắc nợ nhau về tình mến. Cùng một thân thể mầu nhiệm Đức Kitô, thánh Phaolô mời gọi ta mặc lấy tâm tình của Đức Kitô, sống hiền lành, khiêm nhường và liên đới với nhau. Bởi tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng, được Đức Giêsu Kitô cứu chuộc, chúng ta là anh em với nhau trong Chúa, nên hãy đối xử với nhau bằng tình yêu và lòng mến, vì toàn bộ luật của Thiên Chúa được nên trọn trong tình yêu, kể cả Mười Điều Răn “và nếu có điều luật nào khác, thì cũng tóm lại trong lời này là: Ngươi hãy yêu mến kẻ khác như chính mình” (x. Rm 13, 8-10).

Tình yêu và sự kiên nhẫn

Lời thánh Phaolô trong bài ca đức ái: “Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác“(1Cr, 9), cho thấy Giáo hội được qui tụ làm thành Thân Thể Chúa Kitô, lãnh nhận sứ mạng bày tỏ Thân Thể này theo ý muốn của Thiên Chúa. Chúng ta là những chi thể của cùng một Thân Thể, tuy khác nhau, nhưng cùng qui về Giáo hội, liên đới với nhau như một bản giao hưởng tình bác ái. Nên ai phạm lỗi, người ấy thiếu tình bác ái không chỉ với một người, mà con đối với toàn thân thể.

Cứ sự thường ai xúc phạm đến ta, ta không can thiệp gì hết. Viện cớ : nó đã xúc phạm đến tôi ! Tôi sẽ không nói gì hết, dứt khoát là không. Vậy làm gì bây giờ ? Nó đã xúc phạm đến tôi : Mắt đền mắt, răng đền răng ư ? Đây không phải là giải pháp, làm thế sự xấu sẽ xấu hơn. Tôi sẽ đi gặp anh em và nói: Anh đã làm tổn thương tôi, không được ! Anh được Thiên Chúa tạo dựng, vì tình bác ái, tôi phải kéo anh về. Chúng ta không loại trừ vì lỗi cá nhân họ, nhưng giúp họ sửa mình để trở nên xứng đáng trong cộng đoàn mà họ là thành viên.

Chúa Giêsu đưa ra các cấp độ hành xử với anh em trong cộng đoàn, dựa trên sự tôn trọng và yêu thương lẫn nhau miễn sao lợi được người anh em. Tin Mừng (Mt 18, 15-20) cho thấy, tình yêu huynh đệ chất chứa trách nhiệm hỗ tương, nếu anh em có lỗi, tôi phải thể hiện tình yêu với họ, trước hết, nói chuyện riêng với anh về sai lầm mà anh đã nói hay làm là không tốt. Hành vi này được gọi là sửa lỗi huynh đệ: đây không phải là phản ứng đối với hành vi người phạm lỗi, nhưng là cử chỉ yêu thương dành cho người anh em. Thánh Augustinô nói: “Anh ấy đã xúc phạm bạn, và khi xúc phạm, anh ấy đã làm cho bạn tổn thương : bạn không quan tâm đến thương tích của người anh em bạn sao ? (…) Vậy, hãy quên đi những sai lầm họ đã xử với bạn, chứ không phải là vết thương bạn phải chịu vì người anh em” (Discours 82, 7).

Và nếu nó không chịu nghe ngươi? Cấp tiếp theo, hãy nói chuyện về anh ta với hai hoặc ba người để giúp anh ý thức hơn về những gì anh đã làm; nếu anh ta vẫn bỏ ngoài tai, bất chấp điều này, phải nói cho cộng đoàn; và nếu anh ta không nghe cộng đoàn, thì phải làm cho anh ta nhận ra rằng chính anh tự tách biệt khỏi cộng đoàn Hội Thánh. Đặt ra khỏi cộng đoàn thành viên không chịu hối cải, không có nghĩa là lên án. Chúng ta cần phải giữ liên hệ với nhau, vì đây là mối liên hệ do Thánh Thần thêu dệt. Chúng ta bước vào trong cộng đoàn và xây đắp bình an để mang lại cho sức sống cho cộng đoàn.Dù giới hạn cũng như khuyết điểm cá nhân ta, chúng ta vẫn được mời gọi đón nhận sửa lỗi nhau trong tình huynh đệ và giúp đỡ người khác qua việc sự tế nhị này. Đây trách nhiệm sống của chúng ta với nhau.

Hoa quả của đức ái

Khi áp dụng hết mọi cách, vẫn không có hiệu quả, chúng ta hãy phó thác người anh em cho lòng nhân hậu của Thiên Chúa : “Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác. Vậy yêu thương là chu toàn cả lề luật ” (Rm 13, 10).

Hoa quả của đức ái trong cộng đoàn là cầu nguyện : “Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy “(Mt 18, 19-20). Chúng ta quả quyết : Ở đâu có tình yêu, ở đó có Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần ngự trị. Cầu nguyện cá nhân chắc chắn là quan trọng, cần thiết, nhưng Chúa bảo đảm sự hiện diện của mình trong cộng đoàn ngay cả cộng đoàn nhỏ, vì nó qui chiếu vào sự hiệp thông hoàn hảo của Thiên Chúa Ba Ngôi. Origen nói rằng “chúng ta phải thực hiện bản giao hưởng này” nghĩa là sự hòa hợp trong cộng đoàn tín hữu.

Có người sẽ nói: chúng tôi đang tụ họp với nhau trong cùng một khuôn viên nhà thờ, đang lắng nghe tiếng của mục tử chúng tôi, cùng hát thánh ca và hiệp nhất trong lời cầu nguyện, chúng tôi chẳng đang nhân danh Chúa mà tụ họp với nhau đó sao ? Làm gì có sự bất hòa?

Đúng, chúng ta là một gia đình đang được cùng một mục tử hướng dẫn, không có chia rẽ, nếu bình tĩnh lại, thinh lặng ra khỏi nhà thờ, những lời chỉ trích, xúc phạm người khác, kèm theo là ghen tị, đố kỵ và tham lam, hận thù, dối trá và gian lận … tình bác ái được đặt ra. Vì vậy, chúng ta hãy tôn trọng Bàn Tiệc Thánh, Chúa Kitô đã hy sinh vì chúng ta, chúng ta hãy thông hiệp với nhau.

Giờ đây chúng ta hướng lòng lên Chúa và dâng lên Ngài lời tha thiết nguyện xin cho cộng đoàn tín hữu khắp nơi được hiệp nhất trong Chúa Kitô, nhờ sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta.

[Mục Lục]

Bài 19. Liên đới
Trầm Thiên Thu

Liên đới là sự ràng buộc lẫn nhau về trách nhiệm và nghĩa vụ. Bất cứ cái gì cũng có tính liên đới, ngay cả tội lỗi cũng có tính liên đới. Thật vậy, khi một chi thể trong Nhiệm thể Chúa Kitô phạm tội, tất cả chúng ta đều chịu đau khổ, một số người ảnh hưởng trực tiếp. Tội của mình có ảnh hưởng tới người khác, tội của người khác có thể “dính líu” tới mình.

Là phàm nhân, tất cả chúng ta đều yếu đuối. Do đó, khi chúng ta muốn hòa giải với Thiên Chúa, chúng ta cũng phải giải hòa với Giáo hội, không chỉ với người này hay người nọ mà có thể chúng ta đã làm tổn thương. Vì thế, “cấu trúc tội lỗi” cũng có “chiều kích xã hội”. Tại sao? Vì nó nằm trong cách mà chúng ta có thể phạm tội – không chỉ là hành động trực tiếp của mình, mà còn là động thái gián tiếp liên can các tội lỗi do người khác phạm trực tiếp.

Nói chung, dù là điều tốt hay xấu cũng đều có tính liên đới với nhau. Về tính liên đới, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo (gọi tắt là Giáo huấn Xã hội Công giáo – GHXHCG, Compendio della Dottrina Sociale della Chiesa, Compendium of the Social Doctrine of the Church) gọi liên đới là một nguyên tắc cốt lõi của GHXHCG [1]: “Liên đới nhấn mạnh đặc biệt đến bản tính xã hội nội tại của con người, sự bình đẳng của mọi người về phẩm giácác quyền và con đường chung của các cá nhân và các dân tộc hướng đến một sự hợp nhất ngày càng gắn bó hơn… Việc gia tăng tương thuộc giữa các cá nhân và các dân tộc cần phải được kèm theo những nỗ lực mãnh liệt không kém trên bình diện đạo đức xã hội, để tránh những hậu quả nguy hiểm của việc đưa bất công lên tầm mức toàn cầu. Việc tăng tốc tình trạng tương tác giữa các cá nhân và các dân tộc cần phải được đi kèm với những nỗ lực mãnh liệt không kém trên bình diện đạo đức xã hội, để tránh những hậu quả nguy hiểm của việc đem bất công lên phạm vi toàn cầu”. [2]

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Tình liên đới phải góp phần vào việc thực hiện ý định của Thiên Chúa trên bình diện cá nhân lẫn bình diện của xã hội quốc gia và quốc tế” (Sollicitudo Rei Socialis, 1987, số 40).

Ngày xưa, Thiên Chúa đã nhắn nhủ với con người: “Phần ngươi, hỡi con người, Ta đã đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Ít-ra-en. Ngươi sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay Ta báo cho chúng biết” (Ed 33:7). Đó là trách nhiệm của chúng ta, không của giới nào hoặc giai cấp nào.

Không chỉ vậy, Ngài còn cảnh báo: “Nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng: ‘Hỡi tên gian ác, chắc chắn ngươi phải chết’, mà ngươi không chịu nói để cảnh cáo nó từ bỏ con đường xấu xa thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết vì tội của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó. Ngược lại, nếu ngươi đã báo cho kẻ gian ác phải từ bỏ con đường của nó mà trở lại, nhưng nó không trở lại thì nó sẽ phải chết vì tội của nó; còn ngươi, ngươi sẽ cứu được mạng sống mình” (Ed 33:8-9). Rõ ràng chúng ta có trách nhiệm và bổn phận đối với nhau. Điều đó vừa là TÍNH liên đới vừa là TÌNH liên đới. Thấy điều sai trái thì phải lên tiếng (bằng cách này hay cách nọ, trực tiếp hoặc gián tiếp). Ai thấy điều sai trái mà im lặng, đó là đồng lõa hoặc hèn nhát. Thật vậy, chỉ muốn lên thiên đàng một mình là ích kỷ!

Thiên Chúa là Tình Yêu và Chân Lý: “Sự thật sẽ giải phóng anh em” (Ga 8:32). Thật hạnh phúc khi chúng ta biết tôn thờ chính vị Thiên Chúa duy nhất này. Hạnh phúc đó không thể giữ trong lòng mà phải thể hiện ra cho mọi người khác cùng biết: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn” (Tv 95:1-2).

Bổn phận của chúng ta không chỉ là chúc tụng Ngài, mà chúng ta còn phải tôn thờ Ngài và vâng theo Thánh Ý Ngài: “Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt” (Tv 95:6-7a).

Phàm nhân yếu đuối nhưng rất “chảnh” và bướng bỉnh. Xơ gan là chứng bệnh quái ác. Xơ cứng bất cứ cơ phận nào cũng nguy hiểm. Xơ cứng lòng tin còn nguy hiểm hơn nhiều. Cứng lòng là cố chấp. Cố chấp là phạm tới Chúa Thánh Thần. Mà tội phạm tới Chúa Thánh Thần thì không được tha cả đời này lẫn đời sau (x. Mc 3:28-29; Mt 12:31-32). Thật đáng sợ vì cực kỳ nguy hiểm! Vâng lời Chúa thì phải canh tân đời sống, không thể trì hoãn, thay đổi cách sống càng sớm càng tốt. Rất cấp bách!

Vì yêu thương, vì thương xót, Thiên Chúa lại tiếp tục nhắn nhủ mỗi chúng ta, Ngài thực sự không muốn ai cố chấp mà phải hư mất đời đời: “Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa! Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơ-ri-va, như ngày ở Ma-xa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm” (Tv 95:7b-9). Hoán cải ngay hôm nay, ngay bây giờ, thì hiện tại, chứ không là “sẽ” của thì tương lai – dù là tương lai gần nhất.

Trong tương quan của tình liên đới, Thánh Phaolô khuyên: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13:8). Yêu thương là chu toàn luật Chúa. Rất đơn giản và ngắn gọn, xem chừng dễ nhưng lại khó lắm, vì khi “xòe” chiếc-quạt-yêu-thương ra, chúng ta thấy cả một bầu trời bao la lắm, chỉ trong “hình quạt” đó thôi cũng chứa biết bao vấn đề liên quan chữ YÊU. Đó là sự liên quan, cũng là tính liên đới vậy.

Thật vậy, Thánh Phaolô đã giải thích: “Các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chínhmình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13:9-10). Cụm từ “không làm hại” cũng ẩn chứa biết bao điều liên quan thể lý và tinh thần, liên quan đức ái. Khó lắm, nhưng ai thực sự có lòng yêu thương của Đức Kitô thì có thể làm được.

Chúa Giêsu nói về tính liên đới tâm linh giữa những con người đối với nhau: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh thì anh đã chinh phục được người anh em. Còn nếu nó không chịu nghe thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. Nếu nó không nghe họ thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế” (Mt 18:15-17).

Thấy điều sai trái thì phải lên tiếng. Có bốn giai đoạn: Nói riêng (nói nhỏ), nói bán công khai, nói công khai, loại bỏ. Dạng “cấp bốn” là “hết thuốc chữa” vì cố chấp, nói theo ngôn ngữ thời @ là BoTay.com, không còn hy vọng gì nơi họ nữa!

Vì muốn cứu tội nhân, Chúa Giêsu đã trao quyền tha tội cho các môn đệ qua thiên chức linh mục: “Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy” (Mt 18:18). Chúa Giêsu nói “cầm buộc” hoặc “tháo cởi” ở đây không có nghĩa là ưa thì “cởi”, ghét thì “buộc”, mà là phải luôn cố gắng tìm cách “tháo cởi” cho người khác. Ngài thiết lập chức linh mục là để thay Ngài yêu thương và tha thứ, để phục vụ chứ không để hưởng thụ hoặc “chảnh” (Mt 20:28), thật buồn khi vẫn có một số linh mục lại “thích” làm ngược lại điều Chúa dạy: Phục vụ ít, hưởng thụ nhiều! Linh mục chỉ là các phàm nhân bình thường, nhưng được Thiên Chúa tuyển chọn và được hành động nhân danh Đức Giêsu Kitô, là bình sành nhưng chứa đựng kho tàng của Thiên Chúa (2 Cr 4:7). Kỳ diệu quá! Ước mong sao các linh mục phải thực sự nghiêm túc với ý thức đó, đừng tự tôn mà làm đau lòng Đức Kitô!

Về việc hiệp lời cầu nguyện, Chúa Giêsu nói: “Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18:19-20). Cầu nguyện là điều cần thiết và tốt lành, nhưng việc cầu nguyện chung được Chúa Giêsu đề cao. Việc cầu nguyện chung luôn cần thiết là “giờ kinh gia đình”, nhất là buổi tối, nhưng việc làm tốt lành này lại đang bị “xói mòn” vì người ta đưa ra nhiều lý do để biện hộ cho cái sự “quên lãng” của mình!

Dĩ nhiên chúng ta vẫn có thể và cần phải cầu nguyện riêng. Tuy nhiên, có điều cần lưu ý: Có lẽ chúng ta thường chỉ cầu xin nhiều hơn cầu nguyện, và chúng ta cũng thường “quên” nhân danh Đức Giêsu Kitô, đúng như Ngài đã trách các môn đệ: “Cho đến nay, anh em đã chẳng xin gì nhân danh Thầy” (Ga 16:24). Một lời trách nhẹ nhàng mà đau điếng. Và đó cũng là lời trách mà Đức Giêsu Kitô đang nói với mỗi chúng ta hôm nay vậy!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết thật lòng yêu thương và thứ bằng cả tấm lòng như chính Ngài đã nhân hậu với chúng con, hành động bằng cả con người của chúng con, không chút gì vì danh lợi của riêng mỗi chúng con, tất cả chỉ vì sáng danh Ngài mà thôi. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

[1] Bảy nguyên tắc trong GHXHCG: (1) Tôn trọng con người, (2) Cổ vũ gia đình, (3) Bảo vệ quyền tư hữu, (4) Lao động vì công ích, (5) Tuân giữ nguyên tắc bổ trợ, (6) Tôn trọng lao động và người lao động, (7) Theo đuổi hòa bình và chăm nom người nghèo. Rút gọn là bốn nguyên tắc chính: (1) Nhân phẩm, (2) Công ích, (3) Bổ trợ, (4) Liên đới.
[2] Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hòa bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công giáo (2005), số 192.

[Mục Lục]

Bài 20. LÊN TIẾNG HAY KHÔNG LÊN TIẾNG ?
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

Xin nói ngay rằng: đây không phải là bài tham luận về việc Giáo Hội Công Giáo Việt Nam phải lên tiếng hay không phải lên tiếng trước những điều tội tệ trong xã hội hiện nay. Lên tiếng hay không lên tiếng được nêu ra ở đây chỉ liên quan tới trách nhiệm của các thành phần Dân Chúa phải xây dựng cho nhau, phải nhắc bảo nhau sống cho đúng với tư cách và chức danh Kitô hữu là giáo dân hay là giáo sĩ. Sấm ngôn của Thiên Chúa trong Sách ngôn sứ Êdêkien và những chỉ thị của Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay quả quyết là chúng ta phải lên tiếng nhằm sửa lỗi anh em trong cộng đoàn để mọi người sống đạo đức thánh thiện và tránh gương mù gương xấu cho người khác. Trong cách sống của người công giáo Việt Nam, có một rào cản về mặt văn hóa, mà có người gọi một cách văn hoa là “nền văn hóa nể trọng”. Đó là sự/tính cả nể sợ mất lòng người khác, nhất là làm mất lòng những người có quyền có chức, khiến nhiều người không dám/muốn nói lời thật (lời thật mất lòng) với anh chị em mình lỡ sai phạm và trở thành đồng lõa với cái sai, cái xấu của những người ấy. Vậy thì chúng ta cần nghe lại Lời Chúa mà suy gẫm và đem ra thực hành.

II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH

2.1 Trong bài đọc 1 (Ed 33,7-9): Nếu ngươi không nói để cảnh cáo đứa gian ác, thì máu nó, Ta sẽ đòi ngươi.

2.2 Trong bài đọc 2 (Rm 13,8-10): Yêu thương là chu toàn Lề Luật.

2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 18,15-20): Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em.

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH

3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:

- là Đấng đã giao phó cho ngôn sứ Ê-dê-ki-en trọng trách lên tiếng cảnh cáo những người sống vô đạo, làm mất lòng Thiên Chúa. Thiên Chúa cột chặt số phận của ngôn sứ vào sự trở lại của những kẻ gian ác.

- là Chúa Giê-su, Đấng đã đưa ra quy luật sống cho các tín hữu. Trong cộng đoàn, các tín hữu có trách nhiệm phải giúp nhau sửa đổi cách sống cho mỗi ngày một hoàn thiện, vì họ thực sự là anh em của nhau, là chi thể của Thân Mình Chúa Ki-tô là Hội Thánh. Chúa Giê-su còn khẳng định sự kết liên chặt chẽ giữa cách hành xử của những người có trách nhiệm trong cộng đoàn và cách hành xử của chính Thiên Chúa. Chúa Giê-su cũng quả quyết sức mạnh của lời cấu nguyện tập thể của những kẻ tin hiệp thông với nhau trong một tâm tình cầu xin.

- là Chúa Thánh Thần, Đấng hiện diện và cùng hành động với Chúa Cha khi Thiên Chúa giao sứ mạng nói lời Thiên Chúa cho ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Chúa Thánh Thần cũng luôn ở bên Chúa Giê-su khi Người giáo huấn về cách sống trong cộng đoàn kẻ tin. Chúa Thánh Thần cũng hiện diện nơi Thánh Phao-lô khi ngài chỉ ra rằng chỉ vì thiếu yêu thương bác ái mà người ta phạm tội.

3.2 Sứ điệp của Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?):

Qua ba bài Sách Thánh, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó.”

IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI

4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, như môn đệ sống với Thầy. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và tuyệt đối tin cậy !

4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa liên quan tới việc sửa lỗi anh em,chúng ta phải trang bị cho mình một số điều kiện thiết yếu sau đây:

- Một là xác định và thể hiện động cơ của việc góp ý, sửa lỗi cho anh em là do tình tương thân tương ái đối với những người được góp ý, sửa lỗi. Thánh Phao-lô đã nói với giáo đoàn Rô-ma: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái… Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” Lời khuyên quí báu này càng phải được áp dụng trong trường hợp chúng ta muốn góp ý, sửa lỗi anh em.

- Hai là chúng ta phải cảnh giác đừng để mình rơi vào cảnh Chúa Giê-su đã cảnh cáo trong Phúc âm theo Thánh Mát-thêu: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới?” (Mt 7,3). Nói cách khác phải có sẵn một tinh thần khiêm hạ, đơn sơ, vô vị lợi khi thi hành trách nhiệm sửa lỗi anh em. “Tiên kỷ hậu nhân” phải là nguyên tắc hành xử trong lãnh vực tế nhị này, có nghĩa là trước khi sửa lỗi người khác, chúng ta phải sửa lỗi của bản thân mình đã.

- Ba là để có thể góp ý, sửa lỗi cho người khác, chúng ta cần phải có lòng kiên nhẫn và dũng cảm vì rất nhiều khi chúng ta sẽ chỉ nhận được một thái độ oán trách, giận dữ, bắt bẻ và tố cáo lại chúng ta mà thôi.

V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI

5.1 «Nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng: “Hỡi tên gian ác, chắc chắn ngươi phải chết”, mà ngươi không chịu nói để cảnh cáo nó từ bỏ con đường xấu xa, thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết vì tội của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các quốc gia dân tộc trên thế giới hôm nay, nhất là cho các nhà lãnh đạo các dân tộc ấy, để họ tránh gây tội ác và thực thi công lý cho cộng đồng xã hội.

X. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Đ. Xin Chúa nhận lời chúng con.

5.2 «Phần ngươi, hỡi con người, Ta đã đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Ít-ra-en. Ngươi sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay Ta báo cho chúng biết.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các vị lãnh đạo Giáo Hội, cách riêng cho Đức Thánh Cha, các Hồng Y, Giám Mục và Linh Mục để các ngài luôn luôn chu toàn sứ mạng nói lời Thiên Chúa cho mọi người.

5.3 «Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các tín hữu trong giáo xứ/cộng đồng chúng ta, để mọi người biết sống yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau như những người con cùng một Cha, anh chị em cùng một nhà.

5.4 «Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả những người đã vì yếu đuối hay đam mê mà sa ngã và sống trong tội lỗi, để họ mau trở về với Thiên Chúa.

5.5 «Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho» Chúng ta hãy cầu nguyện cho chính chúng ta, để chúng ta tin tưởng vào sức mạnh của lời cầu nguyện “tập thể” mà hợp lòng hợp ý với nhau nài xin Thiên Chúa ban hòa bình và công lý cho những người chịi cảnh bất công và áp bức trong xã hội hôm nay.

[Mục Lục]

Bài 21. Khi anh em sửa lỗi nhau
AM Trần Bình An

Chập tối, tôi trèo tường, lẻn ra Ciné Nha Trang coi Vết Thù Trên Lưng Ngựa Hoang. Mãi đến 23: 30 tôi mới trở về chủng viện. Tới góc đường Võ Tánh – Duy Tân (Trần Phú bây giờ), phía bên trong là dãy nhà tắm lộ thiên, tôi nhẹ nhàng trèo vào. Núp cạnh phòng học lớp 12, (nay đã dỡ bỏ, xây mới) phóng tầm nhìn vào trong sân Tòa Giám Mục, hoàn toàn trống vắng! Tất cả im lặng như tờ, chắc mọi người đều đã yên giấc. Dẫu vậy, tôi vẫn cẩn thận đi nhón móng cò, lom khom bước qua khoảng sân rộng. Bỗng ai đó hắng giọng, rồi sang sảng cất giọng: “Ai đấy?” Tôi giật nảy mình. Thì ra Ông Nội, vận một bộ đồ thung đen, đang tập thể dục, kề bên khóm cây cảnh tối hù, ngay bên ngoài căn phòng của ngài còn sáng đèn. “Dạ thưa, con tên là…” Như thế Nội đã nhìn thấy tôi ngay khi tôi leo trường trở về, vì ngài đứng trong bóng tối, nhìn ra phía ngoài sáng trưng ánh đèn. Nhưng nét mặt ngài vẫn bình thản, trìu mến, như chẳng có điều gì bất thường. Tôi lại càng lo sợ hơn nữa. Sáng mai Ông Nội sẽ trao áo chùng thâm cho 21 Anh Em chúng tôi. “Con đi đâu về khuya vậy?” “Dạ, con đi…đi dạo ngoài bãi biển!” “Giờ này khuya khoắt, mà con còn đi dao nữa sao? Vậy có ghé ăn chè Võ Tánh không? Con cứ kể rõ cha nghe. Đừng có ngại!” Tôi không thể nói dối được nữa, vì Ông Nội còn biết chúng tôi hay tranh thủ ăn chè, mỗi khi có dịp ra bên ngoài. Chắc ngài biết hết trơn rồi, nên đành phải thú thật. “Dạ, con đi xem phim.” “Con cứ kể rõ cha nghe. Đừng có ngại!” “Dạ, con đi xem phim.” “Phim gì hở con?” “Dạ. Phim Vết Thù Trên Lưng Ngựa Hoang.” “Hay không? Con kể cho cha nghe xem.” “Bộ phim kể về…” Thu hết can đảm, tôi tóm tắt thuật chuyện phim. Ông Nội có vẻ vui vui, khuyến khích tôi kể tiếp. Vừa dứt chuyện, Nội hỏi tôi có nhớ đến viêc ngày mai chăng? Tôi lý nhí đáp, cúi đầu ăn năn sám hối lỗi lầm. Một lát sau, Nội liền ban vỉệc đền tội: Một kinh Lạy Cha, ba kinh Kính Mừng và kinh Sáng Danh, rồi còn dịu dàng dặn dò: “Con đã tỏ ra biết hối lỗi, vậy hãy về ngủ và nhớ đừng tái phạm nữa. Ngày mai cha vẫn cho phép con lên lãnh nhận áo dòng.” “Con xin cám ơn cha.” Tôi thoát nạn nhẹ cả người, vội chạy lên lầu về phòng ngủ, tuy vẫn còn thình thịch con tim…Sáng hôm sau, trong nhà nguyện Tòa Gíam Mục Nha Trang, người ta vẫn thấy đầy đủ 21 Anh Em lớp Đi Gieo IV, hân hoan xếp hàng, lên nhận lãnh áo soutane từ chính bàn tay Đức Cha FX Nguyễn Văn Thuận trao ban. Tôi thầm tạ ơn Chúa và nhớ mãi tấm lòng bao dung thánh thiện của Ông Nội. (Một vụ cá độ, Kể chuyện Nội, LâmBich.net)

Trích thuật Tin Mừng Thánh Matthêu hôm nay, Đức Giêsu giảng dạy làm thế nào để sửa lỗi anh em. Với ba bước ứng xử với người lỗi lầm, Người muốn chiêu hồi con chiên lạc quay trở về với đàn.

Mỗi khi phạm tội là tự tách mình ra khỏi cộng đoàn, ra khỏi tình yêu thương, hồng ân của Thiên Chúa. Vậy các thành viên cộng đoàn đều có bổn phận và trách nhiệm quan trọng giúp người vấp phạm sám hối, tin cậy vào Lòng Thương Xót Chúa. Bởi vì “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.” (Mt 18, 14) Kẻ bé mọn ám chỉ những người bình dân, nghèo nàn, yếu đuối, bị bỏ rơi, bị xua đuổi, hư hỏng, tội lỗi, những con chiên lạc loài, đi hoang đáng thương.

“Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi.” (Mt 18, 15) Như thế giúp tha nhận sửa lỗi là mệnh lệnh, một đòi hỏi cấp bách của Đức Giêsu dành cho những ai chấp nhận đi theo Người. Không thể vô cảm, bình chân như vại, mặc kệ anh em. Tuy vậy, để thực hành việc tế nhị, khó khăn và thách đố này, cần đến tình huynh đệ, lòng khoan dung và tâm tình cầu nguyện, mà Đức Giêsu vạch ra cho người thiện tâm.

Tình huynh đệ

“Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái. Vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật.”(Rm 13, 8) Thánh Phaolô còn khuyên nhủ mọi người sống bác ái huynh đệ, thực tình giúp đỡ nhau, không vờ vịt, đóng kịch với nhau, cũng như không vênh váo rẻ rúng, khinh miệt, chế giễu, mà trái lại, chân thành hỗ tương nhau mọi lúc. “Lòng bác ái không được giả hình, giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành, thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình, nhiệt thành không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa.”(Rm 12, 9-11) Với thái độ yêu thương, khiêm nhường, kính trọng, Kitô hữu mới có thể chân tình ngỏ lời khuyên nhủ, giác ngộ hữu hiệu kẻ lỗi phạm.

“Nếu Ta bảo đứa gian ác: “Tên gian ác kia, nhất định mi phải chết”, mà ngươi không nói để cảnh cáo nó phải từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó, đứa gian ác ấy, sẽ chết vì tội của nó, nhưng còn máu của nó, Ta sẽ đòi ngươi”. (Ed 33, 8-9) Việc sửa lỗi cho nhau không chỉ là trách nhiệm huynh đệ liên đới, mà còn nghĩa vụ của Kitô hữu đối với chính Thiên Chúa. “Tất cả những gì anh em làm cho những kẻ bé mọn nhất của Ta là anh em làm cho chính Ta.” (Mt 25, 40)

Lòng khoan dung

Thiên Chúa đầy lòng khoan dung, nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi con người để cải hóa, Ngài lần hồi sửa trị họ, nhắc nhở và cho biết đã phạm lỗi ở chỗ nào, để họ tin tưởng vào Ngài mà được cứu rỗi. “Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải.” (Kn 11, 23)

Kitô hữu cũng noi theo lòng khoan dung của Thiên Chúa, mà cư xử với tha nhân, bởi chưng ai mà không phạm tội. Đức Giêsu đã từng công khai thách đố mọi người: “Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8, 7) Sau này Thánh Gioan cũng xác quyết vô cùng mạnh mẽ về thân phận yếu đuối của con người: ”Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta.” (1Ga 1, 8)

Như thế, với sự soi sáng khôn ngoan của Đức Chúa Thánh Thần, người Kitô hữu cần chân thành khiêm tốn, khoan dung, hiền hòa, dịu dàng, thông cảm, khuyên nhủ, sửa dạy tha nhân. “Thưa anh em, nếu có ai vướng mắc tội nào, thì anh em, những người được Thần Khí thúc đẩy, hãy lấy tinh thần hiền hoà mà sửa dạy người ấy; phải tự đề phòng kẻo chính mình cũng bị cám dỗ. Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô.” (Gl 6, 1-2)

Tâm tình cầu nguyện

“Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.” (Mt 18, 19-20)

Khi hai người đối thoại, thuyết phục nhau, gặp nhau vì Thánh Danh Chúa, thì đương nhiên có Chúa hiện diện. Hãy nhớ cầu xin Người giúp đỡ cảm hóa người vấp phạm biết phục thiện. Chắc chắn Chúa không nỡ từ chối nguyện vọng chánh đáng này.

“Người hy sinh biết rộng lượng trước khuyết điểm người khác và nghiêm khắc trước khuyết điểm của mình.” (Đường Hy Vọng, số 169)

Lạy Chúa Giêsu, xin ban chúng con ơn can đảm nhắc nhở nhau, cũng như biết nghe lời khuyên răn, chỉ dẫn khi lỗi lầm, để chúng con luôn thương yêu, khắng khít, đoàn kết trong đàn chiên Chúa.

Lạy Mẹ Maria, Đấng vô nhiễm tinh tuyền, xin giúp chúng con nhận biết tội lỗi vấp phạm, mà ăn năn sám hối, cũng như khiêm tốn lắng nghe người khác nhắc nhở, hướng dẫn, sửa sai, để luôn được sống mãi trong Lòng Thương Xót vô hạn của Chúa. Amen.

[Mục Lục]

Bài 22. HÃY SỬA LỖI CHO NHAU
Fx. Đỗ Công Minh

Bài Tin mừng CN XXIII thường niên, Chúa chỉ cho con một cách xử thế ở đời mà cũng là trong đạo. Chơi với nhau trong quan hệ bè bạn, cùng một cơ quan và ngay cả mối quan hệ trong một gia đình: cha mẹ con cái, anh chị em ruột với nhau. Rồi trong Hội Thánh, giữa những người đồng đạo, trong cùng một tập thể, một cộng đoàn hay chỉ là một nhóm nhỏ 2,3 người cùng sống với nhau trong một nhà xứ, tu viện… không ít thì nhiều cũng có lúc người này gây phiền hà cho người kia. Người này, người khác vi phạm qui định chung hay những giao ước với nhau, khiến cho bầu khí sinh hoạt trở nên nặng nề, gây khó chịu lẫn nhau. Trong những lúc như thế, khi nào và lúc nào cũng sẽ có ai đó tự cảm thấy phải lên tiếng. Hoặc vì trách nhiệm, hoặc vì bổn phận, và cao hơn là lòng bác ái mong muốn người có lỗi nhận ra khiếm khuyết của mình, bởi “Tam nhân đồng hành, tất hữu ngã sư”. Bài học xử thế không phải hôm nay mới có, không phải đợi các nhà tâm lý giáo dục, các nhà Sư Phạm học mới nghĩ ra gần đây, trong các loại sách học làm người, dạy nhân bản… mà chính là phát xuất từ lòng yêu thương của Thiên Chúa với con người, như Thánh Gioan đã diễn tả “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban con một của Ngài”.Bài học sửa lỗi, Đức Giêsu , Ngài đã chỉ cho chúng ta từ gần 2000 năm nay vẫn còn nguyên giá trị .

Sai lầm là bản chất của con người. “Nhân chi sơ, tính bản thiện”, cái gốc của con người là tính THIỆN. Nhưng ngay từ khi cái ác gieo vào thế gian, khởi đi từ nguyên tổ, rồi CAIN, con người bị cám dỗ dẫn đến ganh ghét, ghen tị, ích kỷ, tham sân si… khiến người này bất bình với người kia. Do vô tình hoặc yếu đuối con người có thể lúc nào đó sa ngã, mắc lỗi lầm. “Ai trong anh em là người vô tội ?”, Lời Đức Giêsu vẫn nhắc nhở. Vậy sửa lỗi cho nhau là tất yếu.

Sửa lỗi cho nhau là một việc phải diễn ra thường xuyên trong cuộc sống. Không chỉ là người trên sửa lổi người dưới theo một trật tự đã được xếp đặt. Không chỉ là người có quyền chức thì được phép chỉ ra lỗi của người dưới quyền, người thấp cổ bé miệng, mà là sửa lỗi cho nhau. Sửa lỗi với mục đích là giúp cho người có lỗi nhận ra chân lý, nhận ra lẽ phải một cách khách quan và sẵn sàng tự nguyện bỏ lỗi. Không sửa lỗi theo ý chủ quan của mình, theo ý cấp trên hay nhóm lợi ích hay để vừa lòng tập thể theo kiểu “Dĩ hoà vi qúi”. Không sửa lỗi theo kiểu ai cũng có lỗi, mỗi người nhịn đi một ít cho có hoà khí với nhau. Không hẳn chỉ sửa lỗi cá nhân mà còn có lỗi cũa tập thể. Khi đó, có thể bản thân, cá nhân bị qui là có lỗi lại là người đứng lên sửa lỗi cho anh em mình. Xem ra việc sửa lỗi cho nhau không đơn giản, không dễ dàng .

Ngày hôm nay, sống trong một xã hội mà nhiều giá trị chân lý vĩnh cửu bị dần mai một, con người lại càng dễ mắc sai lầm. Sai lầm là những hành vi, tư tưởng không phù hợp với chân lý đích thực của nhân loại chứ không là của một chủ nghĩa, một chế độ, một tôn giáo… bởi có triết gia đã từng nói “Chân lý bên này dãy Py-Rê-Nê, bên kia là sai lầm”. Vậy đâu là sống chân lý đích thực? Đó là lòng nhân ái, là” ăn ở tốt lành, thật thà, ngay thẳng, không gian dối, yêu thương giúp đỡ mọi người. Không làm hại ai, chu toàn mọi bổn phận của một người tín hữu và của một người công dân, Không ích kỷ, sống hoà hợp với mọi người” (Xem Thiện Cẩm-CGvDT số 1823). Nhưng “trong cuộc đời trần thế, con người phải đối diện với tha nhân, và những hoàn cảnh khác nhau, thậm chí có thể đối nghịch. Con người thì bá nhân bá tánh, hoàn cảnh, đặc biệt là chính trị, kinh tế xã hội có khi trái nghịch nhau. Cùng một hành vi, một thái độ, có khi bị đánh giá trái ngược, tuỳ theo quan điểm của người đối diện với chúng ta. Cái khó là mỗi thời, mỗi nơi, người ta đều có những quan điểm chính trị, xã hội khác nhau…” (xem Bđd). Không nên chỉ vì người khác có quan điểm khác mình là người có lỗi, không cùng đứng về phía mình là có lỗi, hay không cùng có chung một mục tiêu nhắm tới của mình là có lỗi; rồi từ đó, mệnh danh là sửa lỗi để mạt sát, vu cáo, thêu dệt, nói xấu, thậm chí kết án. Có khi còn vận dụng lời Chúa để biện minh cho thái độ kẻ cả của mình… Lời dạy của các bậc tiền nhân trong văn hoá Việt Nam vẫn còn đây: “Chân mình thì lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”. Đức Giêsu cũng dạy : Đừng chỉ thấy cái dằm trong mắt anh em mà quên đi cái xà trong mắt mình .

Xin Chúa ban ơn cho con biết luôn tìm được ý Chúa trong cuộc sống, trong mối quan hệ với cộng đồng con được Chúa sai đến; để sống cùng, sống với anh chị em mình. Biết hợp sức để sửa lỗi cho nhau, bổ túc cho nhau, nhận nhau là anh em, là con một Cha. Biết đau nỗi đau của anh chị em mình khi vấp phạm. Biết đặt mình vào hoàn cảnh những người mắc lỗi để tìm cách cứu vớt lẫn nhau, hầu tất cả trở nên dần hoàn thiện như Cha trên Trời.

Xin cho con luôn nhớ rằng khi sửa lỗi cho nhau chúng con không quên hợp nhau cầu nguyện cho người mắc lỗi như lời Chuá dạy: “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, đấng ngự trên trời Người sẽ ban cho” AMEN.

[Mục Lục]

Bài 23. SỬA LỖI CHO ANH EM THEO TINH THẦN CỦA CHÚA
Jos. Vinc. Ngọc Biển

Khi đảm nhận vài trò sửa lỗi cho anh chị em, hẳn chúng ta đều cảm thấy quá khó! Khó là vì không ai muốn nhận lỗi về mình, và nếu có nhận ra lỗi của mình thì cũng khó lòng chấp nhận sửa sai vì cái “tôi” quá lớn.

Tại sao vậy? Thưa! Đơn giản là vì tâm lý chung của mọi người đa phần là bảo thủ nên dễ nhận thấy lỗi của người khác hơn là lỗi của mình, còn người khác thì dễ nhận ra lỗi của ta hơn là lỗi của họ.

Hôm nay, Đức Giêsu đã dạy cho các môn đệ của mình hãy sửa lỗi cho anh em. Tuy nhiên, theo lẽ thường, muốn thành công, người môn đệ phải có được tâm tình như: yêu thương chân thành, tôn trọng, tế nhị, kiên trì và cầu nguyện. Bỏ một trong các bước trên, thành công là điều khó có thể xảy ra!

1. Sửa lỗi nhau trong yêu thương chân tình:

Trước tiên, khi muốn sửa lỗi cho người khác, chúng ta phải luôn tâm niệm rằng: “Nhân vô thập toàn” và lỗi của người anh em đôi khi cũng là lỗi của mình. Chính thánh Gioan đã quả quyết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1Ga 1,8). Khiêm tốn nhận ra mình tội lỗi, yếu đuối và bất toàn sẽ mang lại cho ta bài học về sự thông cảm, nhẹ nhàng và bao dung. Ngược lại, nếu không khiêm tốn, ta dễ rơi vào tình trạng vô cảm, dửng dưng với người tội lỗi. Và như một lẽ tất yếu, hẳn chúng ta không những không được Thiên Chúa tha thứ cho chính mình, nhưng Người sẽ đòi nợ ta theo lẽ công bằng. Lúc ấy, chúng ta cũng là những người sẽ bị kết án vì sự bất nhân của mình với anh chị em đồng loại.

Điều này được quảng diễn qua dụ ngôn người mắc nợ không biết thương xót, ông chủ đã lên án con người “cạn tình ráo máng” này khi nói: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao? Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông” (Mt 18,32-34).

Như vậy, khi sửa lỗi cho nhau dựa trên tình yêu nhờ động lực của đức ái, chúng ta mới có thể đi vào tình yêu của Thiên Chúa để đón nhận sự tha thứ cho chính mình và diễn tả tình yêu đó cho người khác trong khi sửa lỗi cho họ.

2. Sửa lỗi trong tâm sự nhẹ nhàng, kín đáo, tế nhị và tôn trọng:

Thứ đến, là sửa lỗi cho anh chị em mình trong tâm sự nhẹ nhàng, kín đáo, tế nhị và tôn trọng: Đức Giêsu đã nói rất rõ: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình” (Mt 18, 15).

Thường thì con người dễ nghe những lời tâm sự, kín đáo, tế nhị, chân tình hơn là những sự nạt nộ, kết tội… hơn nữa, một mình ta với người được sửa lỗi nói lên tính riêng tư và mang lại cảm giác an toàn, kính trọng vì họ đang được yêu thương.

Thật vậy, nếu không có sự tôn trọng, nhẹ nhàng, tế nhị và kín đáo, chúng ta không thể hiểu được tâm trạng của người tội lỗi!!! Bởi vì, thường những người phạm tội luôn mang hai trạng thái, một là tự ái, hai là mặc cảm, xấu hổ. Mặt khác, người sai lỗi thường rơi vào tình trạng bất ổn về lương tâm, nên tinh thần, thái độ của họ rất mỏng dòn, yếu đuối và dễ buông xuôi. Chỉ cần một lời nói thiếu tế nhị là có thể đổ bể mọi vấn đề… và vô tình, chúng ta lại đào thêm hố ngăn cách cho anh chị em, làm cho sự việc trở nên trầm trọng hơn. Thiếu đi sự tôn trọng thì chỉ còn những lời chỉ trích, nguyền rủa. Có được sự tôn trọng, chúng ta sẽ nhẹ nhàng, khiêm tốn khi sửa lỗi.

Như vậy, cần phải có thái độ trân trọng với người mà tôi đang muốn giúp đỡ họ. Trân trọng vì người lầm lỗi đó là người anh em, là bạn, và trên hết là hình ảnh Thiên Chúa. Trân trọng nữa là vì nơi họ vẫn còn đó những suy tưởng tích cực và lương tâm chân chính thủa ban đầu mà Thiên Chúa đã phú bẩm nơi tâm hồn họ, vì thế, tận sâu thẳm của tâm hồn, họ vẫn được tiếng nói lương tâm thúc đẩy để “làm lành lánh dữ” và cách nào đó họ vẫn khao khát tìm về Chân, Thiện, Mỹ.

Mặt khác, khi chúng ta nhẹ nhàng để chỉ cho người anh chị em của mình thấy được lỗi của họ mà sửa, ấy là lúc biểu hiện của tâm hồn một người thánh thiện, chân thành chứ không phải nhân cơ hội này, mình hạ thấp nhân phẩm và nhấn chìm họ xuống để mình được vươn lên trong sự huênh hoang, tự mãn… hãy mặc lấy tâm tình của một người bạn hơn là người chỉ giáo; có tâm tình của một người cha hơn là một quan tòa…

Làm được điều đó, chúng ta sẽ loại bỏ điều oán ghét, giận hờn… để chỉ vì một động lực duy nhất là tình yêu, một mục đích nguyên tuyền là muốn cho người anh chị em chúng ta được trở nên tốt hơn mà thôi.

3. Sửa lỗi trong kiên trì và cầu nguyện:

Cuối cùng, khi thi hành việc sửa lỗi là cả một quá trình. Chuyện liên quan đến toàn thể con người, nó đụng đến tận gốc rễ của cái “tôi”, vì thế, không phải là chuyện làm một lần là xong. Cần phải có nhiều phương án. Đức Giêsu đã vạch ra cho chúng ta những phương án như sau: gặp riêng, gặp có người làm chứng và sau cùng mới đưa ra cộng đoàn (x. Mt 18,15-17). Hãy nhớ lại sự kiên trì của thánh nữ Mônica với thánh Âu tinh!

Tuy nhiên, kiên trì là điều cần, nhưng không thể đóng vai trò quyết định. Thật vậy, mọi chuyện sẽ không thể thành công và sẽ trở thành “công dã tràng” nếu phủ nhận ơn Chúa và cậy dựa vào khả năng thuần túy của ta.

Như thế, đời sống cầu nguyện, kết hợp với hy sinh là điều quan trọng để quyết định thành công hay thất bại. Chúng ta nên nhớ rằng sửa lỗi là việc của chúng ta, nhưng kết quả là việc của Chúa. Chúng ta không có khả năng để thay đổi người khác. Bởi vì: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”.

Bên cạnh đó, người sửa lỗi phải có sự can đảm chấp nhận sự thiệt thòi về mình khi dám nói lên sự thật, bởi vì đôi khi bị hiểu lầm, ghen ghét, ganh tỵ và bị trả thù ngang qua những sự thật mà ta đã nâng đỡ…

Mong sao, khi đứng trước lỗi lầm của người khác, chúng ta đừng rơi vào tình trạng: khắt khe hoặc vô cảm. Bởi vì khắt khe, chúng ta sẽ hướng chiều về sự loại trừ khi can thiệp cách thô bạo nhằm đẩy lui người anh chị em vào bóng tối. Còn thờ ơ, chúng ta lại rơi vào tình trạng lãnh cảm, tức là không cần quan tâm, bỏ rơi. Tất cả những điều đó hoàn toàn là một“tấm vải đen”, “một bầu trời u ám” cho cả người sửa lỗi và người được sửa lỗi.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết ý thức mình cũng là con người bất toàn nên cần đến ơn Chúa trợ giúp. Đồng thời, xin cho chúng con biết sửa lỗi anh chị em trong tinh thần khiêm tốn và thánh thiện. Xin Chúa cũng ban cho chúng con ơn can đảm, trung thành trong sự thật khi thi hành công việc khó khăn này. Amen.

Từ khóa:

anh em, cầu xin, nhân danh

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận