Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng CN XXII A

Đăng lúc: Thứ sáu - 29/08/2014 14:28 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng

Chúa Nhật XXII thường niên – năm A

Lời Chúa: 
Gr 20,7-9; Rm 12,1-2; Mt 16,21-27

***************

MỤC LỤC

1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: Đức Giêsu tiên báo cuộc khổ nạn lần thứ nhất
2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm. Ignatiô Hồ Thông
3. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt: Loan báo cuộc khổ nạn lần thứ nhất
4. Chú giải của Noel Quession
5. Đầu tư cho cuộc sống mai sau (Linh mục Inhaxiô Trần Ngà)
6. ‘Ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy’ (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
7. Từ bỏ mình để được tự do thi hành sứ vụ (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
8. Tư tưởng con người (JM. Lam Thy ĐVD.)
9. Theo Chúa phải từ bỏ mình, vác thập giá mình (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
10. Mất để được (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
11. Bài học vỡ lòng của các môn đệ Chúa Giêsu (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
12. Tính cách (Trầm Thiên Thu)

13. Chúa Giêsu Kitô là ai? (Radio Veritas Asia)
14. Mất trước được sau (ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt)
15. Đau khổ và hạnh phúc (Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
16. Sống mầu nhiệm Thập Giá (Cố Lm. Hồng Phúc)
17. Hai con đường (Lm Nguyễn Ngọc Long)
18. Bài giảng của Lm. Giuse Đinh Tất Quý

chuanhat22TNAA. BẢN VĂN

 

Bài đọc I (Gr 20,7-9)

7 Lạy Đức Cha, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng. Suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con.8 Mỗi lần nói năng là con phải la lớn, phải kêu lên : “Bạo tàn ! Phá huỷ !” Vì lời Đức Cha mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày.9 Có lần con tự nhủ : “Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa.” Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được !

 

Bài đọc II (Rm 12,1-2)

1 Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người. 2 Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa : cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo.

Tin Mừng (Mt 16,21-27)

21 Khi ấy, Đức Giê-su bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết : Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. 22 Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người : “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy !” 23 Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô : “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy ! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”

24 Rồi Đức Giê-su nói với các môn đệ : “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. 25 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. 26 Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình ?

27 “Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.”

[Mục Lục]

khoangcahB. CÁC BÀI CHÚ GIẢI VÀ SUY NIỆM

Bài 1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofmĐỨC GIÊSU TIÊN BÁO KHỔ NẠN LẦN THỨ NHẤT

Khi phải đối đầu với đau khổ, Phêrô suy nghĩ như “loài người”, tức là duy lý, ích kỷ, đi từ một tình yêu loài người. Đức Giêsu trả lời bằng một kiểu đối lập sắc bén.

1. Ngữ cảnh

Lời tiên báo đầu tiên về Thương Khó được trực tiếp nối kết với “cuộc thẩm vấn” Xêdarê Philipphê (cc.13-16.20), nhất là với câu trả lời của các môn đệ. Tâm trí của các ông hình như đang hướng về một lý tưởng thiên sai trần thế và có tính quốc gia. Lúc đầu Đức Giêsu đã yêu cầu các ông phải giữ kín (c. 20), còn bây giờ Người bắt đầu vén mở cho các ông thấy số phận bi đát đang chờ đợi Người. Cứ cho đi là cuối cùng cũng đi đến mục tiêu mà họ đang hết sức khao khát (x. 17,4; 20,20-28), nhưng con đường đưa tới đó lại hoàn toàn đi ngược lại mọi cách nhìn và mọi sự chờ đợi của các ông. Công thức “Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu …” được tác giả dùng hai lần để đánh dấu hai phần lớn của tác phẩm (4,17; 16,21): ở đây, công thức ấy cho thấy một khúc quanh trong cuộc đời hoặc trong sinh hoạt của Đức Giêsu.

Trong phép rửa của Đức Giêsu, Chúa Cha đã cho thấy Người là tôi tớ (3,17 dựa theo Is42,2). Trong các cám dỗ, Đức Giêsu đã chứng tỏ Người đi theo hướng làm Mêsia khiêm nhường (4,1-11). Khi giảng Bài Giảng trên núi, Người đã chúc phúc cho những người nghèo (5,2). Khi trả lời cho các sứ giả của Gioan Tẩy Giả, Người đã ám chỉ Người là Đấng Mêsia của người nghèo (11,5), của những người đau khổ phiền sầu (11,28-30). Thất bại của sứ vụ Galilê không tiên báo một tương lai màu hồng. Nhưng các tông đồ không để ý đến các hoàn cảnh đó, cũng như không quan tâm đến những ám chỉ hoặc những tuyên bố rõ ràng của Đức Giêsu. Các ông chờ đợi mọi sự, trừ những gì phải xảy ra thật sự. Các câu trả lời ở Xêdarê Philípphê cho thấy tâm trí các ông vẫn còn đang hướng về các lý tưởng vinh quang và uy hùng trần thế.

2. Bố cục

Bản văn này có thể chia làm ba phần:

1) Đức Giêsu tiên báo cuộc Thương Khó (16,21):

a) Khúc quanh quan trọng (c. 21a),

b) Mô tả chi tiết tương lai đang chờ Người tại Giêrusalem (c. 21b);

2) Phêrô ngăn cản Đức Giêsu đi vào Khổ Nạn (16,22-23):

a) Phêrô ngăn cản Đức Giêsu (c. 22),

b) Đức Giêsu xác định vị trí của Phêrô (c. 23).

3) Đức Giêsu giáo huấn về đời môn đệ (16,24-27):

a) Quy luật tổng quát của đời môn đệ (c. 24),

b) Nghịch lý “cứu – mất” (c. 25),

c) Một suy tư mục vụ: nên khôn ngoan cân nhắc mà chọn lựa (c. 26),

d) Một biến cố tương lai, “Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang”: nên khôn ngoan cân nhắc mà chọn lựa (c. 27).

3. Vài điểm chú giải

Từ lúc đó (21): Công thức này đánh dấu hai phần lớn của Tin Mừng Mt: phần một là 4,17–16,20 được dành để nói về Nước Trời; phần hai là 16,21–28,20 được dành cho Con Người trên đường đi tới Thương Khó và Phục Sinh. Công thức “Từ lúc đó, Người bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết” cho thấy tất cả mức hệ trọng của quyết định Đức Giêsu đã lấy và mối nguy hiểm mà Người đang đi vào.

- tỏ cho biết (21): Tác giả không dùng động từ “giảng dạy” (didaskô; x. Mc 8,31), vì ngài coi động từ này ưu tiên diễn tả giáo huấn luân lý.

Người phải đi (21): Động từ “phải” (Hy Lạp dei = cần thiết) có ý nói đây là một điểm thuộc ý muốn, hoặc chương trình của Chúa Cha.

đi Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại (21): Đức Giêsu mô tả chi tiết chương trình Người đang đi vào. Điều này cho thấy Người biết trước và Người làm chủ tình hình. Bị giết chết(apoktanthênai, aor. inf. pass. apokteinôvà … sống lại (egerthênai, aor. inf. pass. egeirô): Đây là những động từ ở thái bị động cho thấy Đức Giêsu không chủ động, nhưng là các thủ lãnh Do Thái, hoặc nói cho cùng, là chính Thiên Chúa.

ngày thứ ba (21): có nghĩa là một thời gian ngắn.

Phêrô liền kéo riêng … bắt đầu trách … (22): Phản ứng của Phêrô cũng là phản ứng của sự khôn ngoan loài người khi đứng trước sứ điệp về thập giá. Vị tông đồ muốn có sự thoả hiệp, sự thích nghi, chấp nhận buông xuôi theo những áp lực của tính ích kỷ hoặc của quyền lực. Mới đây còn là gương mẫu của người tin (16,17), nay ông thành người tiếp tay cho Satan, bởi vì ông đã đề nghị cho Đức Giêsu một con đường như Tên Cám Dỗ đã đề nghị (4,1-11).

Anh cản lối Thầy (23): dịch sát “Anh đang trở thành tảng đá làm cho Thầy vấp”. Mới đây là “tảng đá trên đó Thầy sẽ xây Hội Thánh”, bây giờ Phêrô thành tảng đá “cản lối Thầy [làm cho Thầy vấp]”. Thật ra, tảng đá xây Hội Thánh không phải là bản thân bác thuyền chài Simôn, mà là niềm tin của ông đặt nơi Đức Giêsu. Thiếu niềm tin này, tất cả công việc của ông đều sụp đổ.

từ bỏ chính mình (24): có nghĩa là bỏ đi cả những khát vọng, những đòi hỏi chính đáng của mình mà nhận lấy khát vọng và đòi hỏi của kẻ khác. Tức là không phải chỉ chiến thắng các cám dỗ, mà còn bỏ ra sau những quyền lợi chính đáng của riêng mình.

đi (bước) theo (24): đồng nghĩa với “học với; làm môn đệ” (x. 11,29). Động từ này không có nghĩa là “đồng hành”, “tháp tùng” để làm vinh dự cho thầy, nhưng là bắt chước các phong thái của thầy, lặp lại những chọn lựa của thầy, tức là nối tiếp công trình mà thầy đã bắt đầu với biết bao hy sinh đau khổ.

- việc họ làm (27): Praxis có nghĩa là “lối sống, lối cư xử”, hàm ý là có các kinh nghiệm nữa. Tác giả Mt chọn từ này rất có thể bởi vì ngữ cảnh không ưu tiên nói về các “hành vi” (erga) hiện tại của người môn đệ, nhưng nói về sự đau khổ tích cực của họ.

4. Ý nghĩa của bản văn

* Đức Giêsu tiên báo cuộc Thương Khó-Phục Sinh (21)

Sau lệnh im lặng ở c. 20, làm cho các môn đệ trở thành những người ở bên trong, có sự hiểu biết đặc biệt mà dân chúng không có, Đức Giêsu loan báo cho họ những dau khổ và sự phục sinh của Người. Bây giờ Người đào sâu sự hiểu biết đặc biệt của các môn đệ.

Với công thức “Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu”, chúng ta hiểu rằng lời tiên báo Thương Khó-Phục Sinh này không phải là một lời sấm biệt lập, nhưng là một chương mới mà Đấng Cứu thế đang mở ra trước mắt các môn đệ, chứ không riêng Phêrô. Các ông vẫn đang mơ những hào nhoáng thế gian, một cung cách cứu thế vinh quang trần tục, nên không dễ gì mà đưa các ông đến chỗ quan niệm ngược lại. Tuy nhiên, Đức Giêsu cương quyết đi vào đề tài mới. Người trình bày chi tiết: (“tỏ cho biết”, deiknyein) nơi sẽ xảy ra biến cố, bản án tử hình phải chịu, những người sẽ xét xử, và cuộc Phục Sinh ngay sau đó. Đây là điều nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa Cha. Các động từ ở thái bị động (apoktanthênai vàegerthênai) cho thấy Đức Giêsu không chủ động, nhưng là các thủ lãnh Do Thái, hoặc nói cho cùng, là chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, bài tường thuật cuộc Thương Khó sẽ cho thấy Đức Giêsu cũng chủ động. Người đi theo con đường được chỉ định trong tư cách là Con vâng phục của Thiên Chúa.

Qua phản ứng của các môn đệ mà đại diện là Phêrô, tác giả cho thấy sự vấp phạm của cọng đoàn tín hữu sơ khai khi đứng trước chướng kỳ thập giá (x. 1 Cr 1,17-25; Rm 1,16).

Phêrô ngăn cản Đức Giêsu đi vào Khổ Nạn (22-23)

Phản ứng của Phêrô giúp hiểu sự kháng cự của trí khôn loài người khi đứng trước sứ điệp về thập giá. Mới trước đó, với lời tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô (= Đấng Mêsia)”, được Thầy khen là đã phát biểu dưới ánh sáng mạc khải của Chúa Cha, Phêrô nghĩ rằng lời nói này hẳn cũng có giá trị như thế! Ông không ngờ bây giờ ông đã trở thành hiện thân của Satan đang tìm cách cản bước Đức Giêsu đi theo kế hoạch của Chúa Cha. Tảng đá xây dựng Hội Thánh thật mong manh nếu không tin tưởng cạy dựa vào Đức Giêsu.

Ở đây, còn có thể hiểu thêm một tầng ý nghĩa nữa: Phêrôi là người phát ngôn thay cho nhóm môn đệ, giống như ông đã tuyên xưng đức tin ở c. 16 với những lời lẽ của các môn đệ và lời tuyên xưng của Giáo Hội. Vậy hẳn là Phêrô không chỉ phản đối nhằm phi bác đau khổ của Đức Giêsu, mà còn phi bác đau khổ của người môn đệ và của Giáo Hội. Trong tư cách là môn đệ, ông sống tình trạng nhị giá giữa tin tưởng và hoài nghi, giữa tuyên xưng và sợ hãi hậu quả của lời tuyên xưng ấy, giữa phản bội và hối hận (x. 26,69-75). Phêrô chẳng xấu hơn các môn đệ vì ông đã phản bội Thầy chẳng hạn, cũng như ông không tốt hơn các bạn vì ông đã tuyên xưng Thầy ở 16,16-19.

Đức Giêsu đã phản ứng rất mạnh lại với lời can gián của Phêrô: “Xatan, lui lại đàng sau Thầy (Hypage… Satana)” (c. 23). Lời này nhắc lại chước cám dỗ cuối cùng ở 4,10, khi Đức Giêsu loại bỏ việc thống trị thế giới theo đề nghị của quỷ. “Anh cản lối Thầy”, anh là tảng đá vấp (skandalon) cho Thầy. Skandalon là một từ mạnh để diễn tả dịp tội. Hình ảnh này đối lập lại với “tảng đá” là chính Phêrô ở 16,18. Các câu 17-18 và c. 23 cho thấy rõ sự đối lập căn bản giữa Thiên Chúa và loài người: do ân huệ Thiên Chúa ban, Phêrô là một “tảng đá (xây dựng Hội Thánh)”; do chính suy nghĩ của ông, ông là một “tảng đá vấp”. “Lui lại đàng sau Thầy” (opisô mou) nhắc lại 4,19 và chuẩn bị cho 16,24, xác định vị trí duy nhất được dành cho Phêrô.

Đức Giêsu giáo huấn về đời môn đệ (24-27)

Quy luật sống của người môn đệ được tổng hợp trong ba điểm: từ bỏ chính mình, vác thập giá mình và bước theo. “Từ bỏ chính mình” là bỏ đi cả những khát vọng, những đòi hỏi chính đáng của mình mà nhận lấy khát vọng và đòi hỏi của kẻ khác; tức là không phải chỉ chiến thắng các cám dỗ, mà còn bỏ ra sau những quyền lợi chính đáng của riêng mình. “Vác thập giá mình” là chấp nhận bản án thập giá; tức là từ bỏ những tiện nghi thoải mái và cả mạng sống mình vì muốn trung thành với Đức Giêsu và với sứ mạng của Người. “Bước theo” không có nghĩa là “đồng hành”, “tháp tùng” để làm vinh dự cho thầy, nhưng là bắt chước các phong thái của thầy, lặp lại những chọn lựa của thầy, tức là nối tiếp công trình mà thầy đã bắt đầu với biết bao hy sinh đau khổ. Đau khổ của Đức Giêsu và đời môn đệ với các đau khổ thuộc về nhau. Ta chỉ có thể thực sự hiểu Đức Giêsu bằng cách bước theo Người trong đau khổ. Hẳn là Phêrô đã hiểu Đức Giêsu là ai, nhưng ông không sẵn sàng sống sự hiểu biết ấy.

Chương trình trên đây không dễ; nó đòi hỏi rất nhiều ý chí và can đảm. Người môn đệ sẽ bị cám dỗ trốn chạy để cứu lấy mạng sống mình khỏi những đau khổ và một cái chết tàn bạo, nhưng đó là một ảo tưởng. Rõ ràng là đau khổ không phải chỉ là chấp nhận thụ động, nhưng là một hình thái sống tích cực: “Nếu ai muốn… (ei tis thelei…)”. Qua nghịch lý “cứu – mất”, tác giả giúp hiểu rằng nếu kiên trì trong đời môn đệ, người tín hữu có thể phải chết sớm nhưng sau đó sẽ được sống muôn đời; trái lại, nếu người ấy chối từ Đức Giêsu, cuộc sống trần thế của người ấy có thể được kéo dài thêm một thời gian nữa, nhưng sau đó sẽ kết thúc bằng một cái chết thật sự.

Một suy tư mục vụ (c. 26) bổ túc câu nói về “mất” và “cứu” mạng sống. Viễn tượng được mở rộng ra nữa: Người ta có thể đạt được tối đa thành tích trần thế trong cuộc đời này, tới mức chinh phục được cả thế giới, nhưng nếu phải mất tình nghĩa, sự hiệp thông với Thiên Chúa, là nguồn sự sống chân thật, thì tất cả những lợi lộc có đó sẽ vô ích, bởi vì với các của cải trần thế đã tích lũy lại đó, người ta vẫn không thể vớt lại được những gì đã mất và không thể chinh phục những gì họ không có.

Thế rồi, Đức Giêsu quay về Con Người, Đấng sẽ đến với các thiên thần để xét xử thế gian. Đây là việc xét xử về lối sống (praxis) của loài người mà tác giả sẽ mô tả chi tiết ở 25,31-46. Lời nói về cuộc quang lâm của Đức Giêsu “Con Người” cũng nhắc nhở người ta biết chọn lựa đúng đắn. Tuy nhiên, Đức Giêsu, là “Con người” và là “Thẩm phán thế gian”, cũng là Đấng đang ở cùng các môn đệ, để dạy dỗ họ, đi trước họ vào trong đau khổ và phục sinh, gọi họ là “có phúc”, vẫn kêu gọi họ “bước theo Người” khi họ sa sút, và ở cùng họ như là Đấng được tôn vinh “cho đến tận thế” (28,20). Sự phán xét mất tính cách đáng kinh hãi, bởi vì Con Người đang được chờ đợi không là ai khác ngoài Đức Giêsu, Đấng mà Hội Thánh biết và Đấng xuyên qua dòng lịch sử đã đi trên nẻo đường họ sẽ đi. Ngoài ra vị Thiên Chúa mà Người Con sẽ cho thấy vinh quang lại không là ai khác ngoài Cha của Đức Giêsu “Con Người”, Đấng nghe các lời cầu nguyện của Hội Thánh.

+ Kết luận

Lời phản đối của Phêrô được dùng như một điển hình. Khi phải đối đầu với đau khổ, ông suy nghĩ như “loài người”, tức là duy lý, ích kỷ, đi từ một tình yêu loài người. Đức Giêsu trả lời bằng một kiểu đối lập sắc bén. Các tiêu chuẩn này của loài người không có giá trị gì trước nhan Thiên Chúa. Các môn đệ phải chấp nhận công việc của Đức Giêsu và phản ánh lối sống và sự đau khổ của Người. Vậy, sống và chịu đau khổ như Đức Kitô chính là nét tiêu biểu của đời môn đệ, của Hội Thánh.

Về phương diện Kitô học, tác giả đã diễn tả mầu nhiệm Đức Kitô bằng cách đóng khung lời tuyên xưng của Phêrô về “Con Thiên Chúa” bằng một phân đoạn nói về “Con Người”. Hẳn là Phêrô đã hiểu Đức Giêsu là ai, nhưng ông không sẵn sàng sống sự hiểu biết ấy. Nếu với lời tuyên xưng của Phêrô về “Con Thiên Chúa” nhắm giới thiệu tính duy nhất của Đức Giêsu, mà chỉ Chúa Cha mới có thể mạc khải cho biết, thì với lời tuyên xưng về “Con Người”, mục đích là giới thiệu con đường mà vị Thầm phán thế gian với các môn đệ phải đi xuyên qua sự khiêm nhường, sự thù nghịch, đau khổ, và sự sống lại; các môn đệ thông phần vào tất cả các tình trạng này. Đối với tác giả Mt, điều đã rõ là không một văn phòng huấn quyền nào hay một phân khoa thần học nào có thể là thẩm phán xét đoán tính đúng đắn trong lời tuyên xưng về Con Thiên Chúa, nhưng chỉ có Con Người mới có thể xét đoánpraxis của các môn đệ đang tuyên xưng người.

5. Gợi ý suy niệm

1. Làm tín hữu là “bước theo Đức Giêsu”. Vừa chào đời, mạng sống của Người đã bị đe dọa; sau đó Người đã làm nghề thợ mộc ở Nadarét trong mộtthời gian dài. Khi bắt đầu cuộc đời trần thế, Người đã bắt đầu đi dưới bóng cái chết: cái chết càng lúc càng tỏ hiện rõ ràng hơn. Các môn đệ của Đức Giêsu cần ý thức rằng họ đang đi theo một vị Thầy đã chấp nhận một cuộc sống hiểm nghèo, thì mới đưa lại hạnh phúc cho người khác.

2. Cuộc Khổ Nạn nằm trong chương trình cứu độ: đây là điều “cần thiết”, tức thuộc về kế hoạch của Thiên Chúa nhằm cứu độ loài người. Đây là phần thâm sâu nhất, mầu nhiệm nhất, “mới mẻ” nhất của tâm hồn Đức Giêsu và của sứ mạng Người. Nhưng đây cũng là lý do từ bao đời vẫn gây nên cớ vấp phạm: mầu nhiệm này vừa là cớ vấp phạm đối với thế giới Do Thái, và cũng là đề tài gây thắc mắc cho Giáo Hội tiên khởi cũng như cho Giáo Hội ngày hôm nay và ngày mai nữa. Đấy đã là vấn đề của sách Gióp: sau thời Lưu đày, Israel đã tự hỏi về ý nghĩa của “đức công chính” của Thiên Chúa. Nói cách khác, làm dân được tuyển chọn, dân của Thiên Chúa, làm đối tượng của tình yêu Người, nghĩa là gì? Nhờ mạc khải của Đức Giêsu, chúng ta thấy điều mà sách Gióp còn coi như một ngoại lệ (= đau khổ của người công chính), đã trở thành tiêu chuẩn: tình yêu của Thiên Chúa đi qua Thập giá.

3. Kinh nghiệm của Phêrô rất quý cho chúng ta. Chúng ta rất mong manh, hay thay đổi, mà lại dễ ảo tưởng là mình “trước sau như một”. Một tư tưởng thánh thiện có trước, phù hợp với tư tưởng của Thiên Chúa, không bảo đảm là tư tưởng tiếp theo cũng thánh thiện, nếu chúng ta không quan tâm tìm biết ý muốn của Thiên Chúa. Do đó, phải biết ngờ vực chính mình, đồng thời không thất vọng về những mâu thuẫn nhận ra nơi bản thân.

4. Nên đề phòng một cách hiểu méo mó về thần học thập giá: đau khổ trở thành mục tiêu, một giá trị tự nó thay vì chỉ là một phương tiện, một con đường đưa tới giải thoát. Người ta hiểu Tin Mừng chỉ nói về hy sinh, từ bỏ, hãm mình, chứ không nói đến niềm vui sướng hân hoan, sự vui thỏa (coi đây là những điều xấu!). Thật ra, đau khổ không bao giờ được nâng lên hàng “sự thiẹn Kitô giáo” cả. Bổn phận của người Kitô hữu không phải là dạy chịu đau khổ, nhưng là dạy sống; không phải là dạy tích lũy các thiếu thốn, từ bỏ, hy sinh, nhưng là loại trừ chính những nguyên nhân gây ra những điều đó. Mục tiêu của con người là hạnh phúc, ơn gọi của con người là thực hiện một thiên đàng trên trái đất trước khi đạt tới thiên đàng trên trời. Đau khổ, hy sinh, đau đớn là cái giá phải trả để có niềm vui mà người Kitô hữu được mời gọi chinh phục cho được. Điểm nhắm của ngươi Kitô hữu thì ở trên cao, nhưng để đến được đó, phải chấp nhận vượt qua một con đường dốc gian khổ. Phải hy sinh một cái gì đó để không đánh mất điều chính yếu. Thiên Chúa không muốn con cái Ngài phải đau khổ, nhưng Ngài có thể yêu cầu họ chấp nhận đau khổ, nếu đó là nguồn làm phát sinh niềm vui cho kẻ khác.

[Mục Lục]

Bài 2. Chú giải và gợi ý suy niệm củaLm. Ignatiô Hồ Thông

Cả ba bài đọc của Chúa Nhật nầy đều đưa ra cùng một bài học: đường lối của Thiên Chúa không là đường lối của con người. Vì thế, những người Ki tô hữu phải có thái độ không theo thời, không tìm cách thích nghi với đời.

Ngôn sứ Giê-rê-mi trung thành loan báo sứ điệp Thiên Chúa, cho dù đi ngược lại với bản tính của ông và những ước muốn của những người đương thời với ông.

Gr 20: 7-9

Thánh Phao-lô cảnh giác cộng đoàn tín hữu Rô-ma, sống giữa môi trường dân ngoại, “đừng có rập theo đời nầy”.

Rm 12: 1-2

Trong Tin Mừng, thánh Phê-rô, phản ứng hoàn toàn như một con người, phẩn nộ trước ‎ ý định Thiên Chúa dẫn Đấng Mê-si-a bước đi trên con đường đau khổ.

Mt 16: 21-27

BÀI ĐỌC I (Gr 20: 7-9)

Trong lịch sử trào lưu Ngôn Sứ Kinh Thánh, chắc chắn ngôn sứ Giê-rê-mi là một trong những nhân vật hấp dẫn nhất. Vốn hiền hòa, đa cảm và không muốn làm mất lòng một ai, ấy vậy, ông phải trung thành loan báo những sứ điệp Thiên Chúa, ngược lại với bản tính của mình và những kỳ vọng của những người đương thời với ông, vì thế, ông rất khổ tâm và không ngừng bị chống đối.

1. Bối cảnh lịch sử:

Ông thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem, giữa năm 626 và 587 BC; nghĩa là ông đã sống thời kỳ bi thảm của hậu vương quốc Giu-đa: hai lần thành thánh Giê-ru-sa-lêm bị đế quốc Ba-by-lon vây hãm (598-587), và cuối cùng thành thánh bị tàn phá và Đền Thánh bị phá hủy. Ông loan báo tai họa sắp giáng xuống mà không được ai chú ý đến, kêu gọi hoán cải để được thứ tha mà không được ai lắng nghe. Trở nên trò đùa, bị nhạo báng, bị xem như kẻ phản quốc, bị tống giam, thật sự là một bi kịch diễn ra trong tận đáy lòng của vị ngôn sứ.

2. Bi kịch nội tâm:

Đoạn văn được trích dẫn hôm nay là một trong những đoạn văn thống thiết nhất mà vị Ngôn Sứ đã viết. Qua phép ngoa dụ và những hình ảnh mạnh mẽ, đoạn trích nầy nói lên tất cả tấn bi kịch của trào lưu Ngôn Sứ: đón nhận ơn đặc sủng mà không thể nào cưỡng kháng lại được, biệt phân ý muốn của Thiên Chúa ngược lại với tất cả bằng chứng, đấu tranh không hề mõi mệt với sự dữ và dối trá mà không nhận được bất cứ điều gì ngoài những lời nhục mạ và cam chịu vì không được ai hiểu.

Ngôn sứ Giê-rê-mi phàn nàn với Thiên Chúa của mình. “Suốt ngày trở nên trò cười và bị nhạo báng”, vì ông tố cáo sự dữ và bạo lực, đó thật sự là một sự thử thách nặng nề. Ông mong muốn được thoái thác sứ mạng của mình: “Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa”. Nhưng vô ích! Ông đã phải ra sức cố dồn nén lại tiếng nói nội tâm, nhưng như “một ngọn lửa cháy bừng trong lòng, ầm ỉ trong xương cốt” không làm sao nén lại được.

Không bản văn nào hơn bản văn nầy giúp chúng ta thấu hiểu bản chất ơn gọi ngôn sứ, nguồn gốc siêu nhiên của nó, và đồng thời, quyền năng của nó ở cõi thâm sâu nhất của con người. Ngôn sứ Giê-rê-mi, bị người đời ruồng bỏ, quay về Thiên Chúa trong một lời khẩn nguyện khôn nguôi, dưới hình thức đối thoại hay độc thoại rất cô động. Ông thật xứng danh là “cha của lời khẩn nguyện”. Cũng chính ông loan báo “giao ước mới được ghi khắc trong lòng” và cũng là người đầu tiên sống giao ước mới mà ông loan báo.

BÀI ĐỌC II (Rm 12: 1-2)

Với chương 12, khởi sự phần luân l‎ý của thư gởi các tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô ngỏ lời với toàn thể cộng đoàn tín hữu Rô-ma (dù họ đến từ đâu, Do thái hay dân ngoại). Phần nầy tự phát và rời rạc hơn phần đạo lý. Thánh nhân vừa mới ca ngợi lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa, vì thế ngài khai triển chủ đề nầy.

Trong phần trích nầy, chúng ta đọc thấy hai lời khuyên “ít lời nhiều ý” của thánh nhân: phụng thờ đích thật và đổi mới tâm thần.

1. Phụng thờ đích thật:

“Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”. Của lễ sống động là cả một đời sống được dâng hiến cho Thiên Chúa, đối nghịch với của lễ chết của những gia súc được hiến dâng trên bàn thờ. Tất cả cuộc đời Ki-tô hữu phải là một đời phụng vụ. Đó mới thật là của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Thánh Phao-lô đã áp dụng từ ngữ tế tự vào chính mình. Thánh nhân xem sứ vụ của mình như một hành vi tế tự như trong lời kết của thư gởi các tín hữu Rô-ma nầy: “Ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi là làm người phục vụ Đức Giê-su Ki tô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, để các dân ngoại được Thánh Thần thánh hóa mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa.” (Rm 15: 16). Trong thư gởi tín hữu Phi-líp, khi ám chỉ đến việc mình bị kết án tử, có lẽ sắp đến gần, thánh nhân thấy “máu của mình phải đổ ra hợp làm một với hy lễ” (Pl 2: 17).

Hiến chính bản thân mình dâng lên Thiên Chúa, đó là “cách thế xứng hợp để anh em thờ phượng Thiên Chúa”. Tỉnh từ Hy lạp “logikon”, được dịch “xứng hợp”, thuộc về ngôn ngữ tôn giáo Do thái hay Hy lạp để đánh dấu một sự khác biệt giữa tế tự hình thức và tế tự đòi hỏi dấn thân toàn bộ con người. Tế tự đòi hỏi dấn thân toàn bộ con người là cách thức phụng thờ Thiên Chúa xứng hợp nhất.

2. Đổi mới tâm thần:

Lời khuyên thứ hai nhắm đến việc đổi mới tâm thần. Việc đổi mới nầy đòi hỏi hai chuyển động đồng lúc: đừng rập theo đời nầy và trở thành một con người mới.

Do thái giáo phân biệt thế giới hiện tại và thế giới sắp đến: vương quốc Thiên Chúa. Đối với thánh Phao-lô, thế giới hiện tại là thế giới tội lỗi, thế giới ngoại giáo. Đối với thế giới nầy, người tín hữu phải có thái độ không theo thời, không tìm cách thích nghi với đời. Đó thật sự là một thử thách khủng khiếp thường ngày đối với các Ki tô hữu hiện sống trong thủ đô của Đế Quốc Rô-ma.

Thánh Phao-lô sẽ không ngừng lập đi lập lại: Hãy trở nên một con người mới “hầu có thể nhận ra đâu là ‎ý muốn của Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo”.

TIN MỪNG (Mt 16: 21-27)

Đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật nầy nối tiếp với đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật tuần trước.

Sau khi đã nghe thánh Phê-rô tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Đức Giê-su nghĩ rằng đây là giây phút thuận tiện đễ dẫn đưa các môn đệ của mình vào trong mặc khải mầu nhiệm của Ngài: đây là lần đầu tiên (sẽ còn hai lần khác nữa) Ngài loan báo cho họ cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Người phải chịu nhiều đau khổ, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Mỗi lần loan báo về cái chết của mình, Ngài liên kết những viễn cảnh của cuộc Tử Nạn của Ngài với biến cố Phục Sinh.

“Người phải…” Điều tất yếu mà Đức Giê-su nêu lên ở đây không là tất yếu của một định mệnh; nhưng là tất yếu thuộc trật tự thần học, cái tất yếu của kế hoạch Thiên Chúa. Tử Nạn không là một tai nạn mà biến cố Phục Sinh sẽ đền bù, nhưng dự phần vào mầu nhiệm cứu độ con người. Đức Giê-su không cho các môn đệ bất cứ giải thích nào khác ngoài cái tất yếu “phải” nầy (tất cả các từ “phải” quan trọng của Tân Ước đều quy về ơn cứu độ).

1. Phản ứng của Thánh Phê-rô:

Chúng ta hiểu phản ứng của thánh Phê-rô. Ông quan niệm Đấng Mê-si-a vinh quang và chiến thắng. Trong tư tưởng của ông, những viễn tượng trần thế chắc chắn vẫn còn hiện diện.

“Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” Chắc chắn thánh nhân lầm khi lôi kéo Thiên Chúa vào việc gìn giữ Thầy mình cho “tai qua nạn khỏi”. Tuy nhiên, tiếng kêu của ông không chỉ bày tỏ những kỳ vọng mà ông đặt vào Đức Giê-su, nhưng cũng trọn tấm lòng yêu mến của ông đối với Thầy mình. Chúng ta không thể nào chấp nhận người mình yêu phải chịu đau khổ. Thánh Phê-rô tế nhị kéo riêng Thầy mình ra. Đức Giê-su phản ứng dữ dội. Vào lúc nầy, Ngài phản kháng sự thử thách mà Ngài đã trải qua ở sa mạc trước đây: “Đấng Mê-si-a quyền năng” mà dân Ít-ra-en mong đợi hay “Người Tôi Tớ đau khổ”mà Kinh Thánh loan báo? Đức Giê-su đã từng xua đuổi Sa-tan bởi lời quyền năng: “Xa-tan, hãy xéo đi”. Ngài đáp lại thánh Phê-rô cũng một cách tương tự như thế: “Xa-tan, hãy xéo đi đằng sau Thầy!” Tiếng híp-ri: “xa-tan” có nghĩa “kẻ cản lối”, tự nguồn gốc là một danh từ chung.

Với việc thêm vào: “đằng sau Thầy”, Đức Giê-su không xua đuổi vị tông đồ, nhưng mời gọi ông “hãy đi theo sau Ngài” để khỏi cản lối đi của Ngài. Ngài muốn Phê-rô hiểu rằng đức tin mà ông đã tuyên xưng, việc tấn phong mà ông đã lãnh nhận, đòi hỏi ông dứt khoát dấn thân vào trong cùng một vận mệnh với Ngài: từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Ngài. Ngay lúc đó, quay về các môn đệ, Ngài cũng nói với họ một cách như thế: “Ai muốn theo Thầy…”

2. Theo Đức Giê-su:

Sau nầy, mỗi lần Đức Giê-su gợi lên cuộc Tử Nạn sắp đến của Ngài, Ngài đều liên kết các môn đệ vào với Ngài, yêu cầu họ bước đi trên cùng một con đường của Ngài.

Đức Giê-su sử dụng từ: “thập giá”, từ nầy không thể gợi lên ở nơi các môn đệ của Ngài tất cả ý nghĩa của nó sao? Trước đây, thánh Mát-thêu đã gợi lên hình phạt thập giá nầy rồi: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy.” (Mt 10: 38). Thuật ngữ “thập giá” nầy không bị loại trừ. Việc đóng đinh vào thập giá là một hình phạt được chính quyền Rô-ma đưa vào và những cuộc hành hình tập thể đã xảy ra rồi ở Giê-ru-sa-lem. Thánh Lu-ca, trong một đoạn văn song song (Lc 9: 23), đã thêm chữ “hằng ngày” làm chữ“vác thập giá” mang nghĩa bóng, “vác thập giá hằng ngày” nghĩa là chấp nhận mọi khốn khó của cuộc đời.

“Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy.” Lời nầy của Đức Giê-su được cả bốn thánh ký tường thuật, thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca đến hai lần (Mt 10: 38; 16: 25; Mc 8: 35; Lc 9: 24; 17: 33; Ga 12: 25). Một âm vang như thế hàm chứa rằng họ đã hiểu tất cả ‎ý nghĩa của chúng và ghi khắc chúng vào lòng như một bài học lớn lao về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô. Theo bối cảnh của những lần tiên báo về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, cái chết của Ngài không đưa đến hư vô, nhưng đưa đến sự sống: “Mạng sống của tôi không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ‎ ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy.” (Ga 10: 18). Thánh Mát-thêu viết những lời nầy trong bối cảnh của những năm 80, bối cảnh của những ngày bách hại cay nghiệt nhất, người tín hữu nào liều mất mạng sống mình vì Đức Giê-su và Tin Mừng, chính là đảm bảo cho mình một cuộc sống trong Vương Quốc Nước Trời.

“Vì nếu người ta được cả thế giới, mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?” Lời của Đức Giê-su được trình bày như vậy, để lại phân vân, bởi vì nó diễn tả điều đương nhiên quá thường tình. Tin Mừng không quen nói những điều tầm thường như vậy. Có một vấn đề ngôn ngữ ở đây.

Chữ “mạng sống” được dịch từ tiếng Hy lạp: “psyché” có nghĩa “linh hồn”. Theo cách dịch truyền thống: “Vì nếu người ta được cả thế giới, mà phải thiệt mất linh hồn, thì có lợi gì?” Bản dịch hiện nay chọn từ “mạng sống” thay cho “linh hồn” bởi vì chữ “linh hồn”gợi lên nhị nguyên thuyết của Pla-ton, xa lạ với tư tưởng Kinh Thánh. Thực ra, Đức Giê-su đã sử dụng tiếng A-ram (hay Híp-ri) “nephesh” có nghĩa: sự sống, linh hồn hay con người, tùy theo mạch văn. Rõ ràng Đức Giê-su đối chọi giữa sở hữu của cải vật chất – mà “người ta được cả thế gian” gói trọn tất cả ý nghĩa nầy – và thiệt mất của cải tinh thần, thiệt mất“Sự Sống”, được hiểu theo nghĩa mạnh, “sự sống đời đời”.

Động từ Hy lạp: “zémioô” được dùng ở đây chứa đựng ý tưởng về một sự thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng (để diễn tả một sự thiệt hại nhẹ, động từ Hy lạp thường được dùng là:“blaptô”). Vì thế, bản dịch gần sát ‎ý nghĩa nhất phải là: “Vì nếu người ta được cả thế gian, mà phải thiệt mất ơn cứu độ của mình, thì có lợi gì?”

“Người ta sẽ lấy gì mà đổi lấy mạng sống mình?” cũng diễn tả cùng một tư tưởng như thế. Bản văn Hy lạp ở đây cũng sử dụng “psyché” theo nghĩa “ơn cứu độ” đời đời, vô giá. Vả lại, Đức Giê-su kết hợp viễn cảnh chung cuộc nầy vào ngày quang lâm của Ngài, “mỗi người sẽ nhận được thưởng hay phạt xứng với việc họ làm”.

Vì thế, để được Sự Sống Đích Thật, một con đường duy nhất được ban cho các môn đệ – và sau họ, cho tất cả các Ki tô hữu – : noi gương Đức Giê-su, từ bỏ chính mình, như Ngài, cho đến chết. Lời nghiêm trang, không hoa mỹ, nhưng tuôn đổ vào một niềm hy vọng vinh quang. Chúng ta ghi nhận rằng Đức Giê-su không đòi buộc nhưng đề nghị: “Ai muốn …”.

[Mục Lục]

Bài 3. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt: LOAN BÁO CUỘC KHỔ NẠN LẦN THỨ NHẤT

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Chúa sẽ có đâu như thế!”: Đó luôn luôn là Satan với lời xúi giục cổ điển: “Các ngươi chẳng chết chóc gì đâu, nhưng sẽ trở nên như các thần” (Mt 3,4-5), chính nó lại đối diện với Chúa Giêsu ở đây, cũng như hồi Người bắt đầu sứ vụ: “Nếu Ngài là Con Thiên Chúa…”, “các thiên thần sẽ nâng Ngài trên bàn tay họ” (Mt 4, 5). Tiếng kêu của Phêrô, kèm theo những lời trách cứ đúng là có nghĩa “Nếu Ngài là Chúa Kitô – vì Ngài là Chúa Kitô – điều đó không thể nào xảy ra được”. Thế mà chính vì là Kitô mà Chúa Giêsu phải chết.

“Xéo đi sau Ta, hỡi Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta”: Cái đập vào mắt ta trong biến cố này, là những tiếng dữ dội Chúa Giêsu dùng để trả lời Phêrô; dĩ nhiên Matthêu không chủ ý kể lại một vụ hiểu lầm sơ sài, chóng qua. Vị trí của câu mắng sau lời tuyên xưng và thiên sai tính và sau lời loan báo đầu tiên về cuộc Khổ nạn mặc cho nó một sự nặng nề đặc biệt. Vừa mới được khen là có phúc, giờ đây Phêrô bị gọi là Satan; lúc ấy ‘Ngươi là đá’, bây giờ ‘Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta’ (cách dịch của BJ: ‘Ngươi cản ngăn Ta’ rõ ràng quá yếu). Ở đây sự tương phản gần như là mâu thuẫn: Từ địa vị Tảng đá nền móng khá vững chắc trên đó Chúa Giêsu xây dựng Giáo Hội Người, môn đồ Phêrô trở nên viên đá vấp phạm mà chính Người suýt phải vấp. Khi hiểu sự nghiêm khắc của Chúa Giêsu đối với những người gây gương xấu cho kẻ khác cùng sự thẳng tay của các giải pháp Người đưa ra để chống lại hạng làm gương xấu (18, 6-9), ta mới lượng được sự khắt khe tàn nhẫn của lời người khiển trách Phêrô. Người đáp lại ông với những từ ngữ đã dùng để trả lời Satan khi bị cám dỗ trong sa mạc: “Xéo đi, Satan” (4, 10). Chính vì trong cả hai trường hợp, Phêrô và Satan đều nghĩ rằng, vì là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu sẽ lợi dụng tư cách đó như một đặc quyền cá nhân để chiếm đoạt một vinh quang, thuần túy phàm trần.

“Vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa”: Đây là một song đối tiêu cực với điều Chúa Giêsu đã nói ở câu l7: “Không phải thịt máu đã mặc khải cho ngươi, mà là Cha Ta, Đấng ngự trên trời “. Trong việc gần như tự phát chống đối cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu, Phêrô đã để thịt và máu nói, do đó tư tưởng của ông không thể phù hợp với mặc khải của Chúa Cha. “Quả thế, ý nghĩa của Ta không phải là ý nghĩ của các ngươi, và đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi” (Is 55, 8).

“Nếu ai muốn đi sau Ta”: Dù trực tiếp ngỏ với các môn đồ chỉ thị này vẫn không coi như một lời khuyên sống trọn lành dành cho một nhóm Kitô hữu ưu tú: ‘bất cứ ai’ (Hy ngữ tis) muốn theo Chúa Giêsu, thì phải nghe và vâng theo chỉ thị đó, vì nó mô tả chính cuộc sống Kitô hữu cơ bản. Dĩ nhiên, đây chẳng phải là một điều kiện nhiệm ý, nhưng là một sự dấn thân tích cực mà người môn đồ không được trốn tránh.

“Vì kẻ muốn cứu lấy sự sống mình thì sẽ mất; còn kẻ nào mất sự sống mình vì Ta thì sẽ tìm lại được “: Câu này là câu kế tiếp dùng chữ sự sống với hai nghĩa khác nhau. Chữ ấy trước tiên chỉ con người cụ thể với sự sống thể lý trong thời gian của nó, nhưng đồng thời cũng chỉ sự sống vĩnh cửu theo nghĩa Gioan. Thành thử ta có thể giảng giải ra như sau: kẻ nào muốn cứu lấy sự sống trong thời gian của mình sẽ mất sự sống vĩnh cửu, còn kẻ nào đành mất sự sống trong thời gian của mình vì Ta, thì sẽ tìm được sự sống vĩnh cửu.

Câu 26 cũng phải được hiểu trong cùng chiều hướng như câu trước, nghĩa là phải mặc cho chữ sự sống hai nghĩa trên đây. Nếu không, sự nghịch lý Chúa Giêsu nói lên sẽ thành một câu lý luận tầm thường: dù lời lãi cả và thế gian, con người cũng không thể hưởng thụ được nó nếu bị thiệt mất sự sống trong thời gian của mình, tức là chết đi. Ở đây ý nghĩa hoàn toàn trái ngược: nào có ích gì cho con người khi được lời lãi tất cả thế gian, nếu vì đó mà lại thiệt mất sự sống vĩnh cửu.

“Hay người ta sẽ cho gì để chuộc lại sự sống mình?”: Đây là một câu tục ngữ mà nếu hiểu một cách thông thường thì sự sống con người quý giá hơn tất cả mọi cái. Nhưng theo văn mạch và đem áp dụng vào sự sống vĩnh cửu thì nó có nghĩa: cái gì có thể bù đắp lại việc mất sự sống vĩnh cửu? Câu trả lời diễn dịch từ câu trước: Không gì bù đắp được, ngay cả vũ trụ.

Câu 27 đưa ra lý do sâu xa cho những chọn lựa cơ bản của môn đồ: đó là Con người một ngày kia sẽ đến phán xét các chọn lựa đó. Và cuộc phán xét này sẽ định đoạt số phận tương lai của họ.

KẾT LUẬN

Cuộc Khổ nạn là một yếu tố trong chương trình cứu rỗi: nó rất “cần thiết”. Đó là phần thâm sâu nhất, mầu nhiệm nhất, “mới mẻ” nhất của tâm hồn và sứ mệnh Chúa Giêsu. Nhưng đó cũng là lý do trường cửu của sự vấp phạm; nó đã là cớ vấp phạm cho dân Do thái, cũng như là đề tài thắc mắc của Giáo Hội sơ khai và Giáo Hội mọi thời. Trước đấy, nó đã là vấn đề của sách Gióp: sau cuộc lưu đầy, Israel tự thắc mắc về ý nghĩa sự “công chính” của Thiên Chúa. Nói cách khác, được làm tuyển dân của Thiên Chúa, được làm đối tượng của tình yêu Ngài có nghĩa là gì? Qua lời mặc khải của Chúa Giêsu, điều mà trong sách Gióp xem như là một luật trừ (sự đau khổ của người công chính) thì nay thành luật chung: tình yêu Thiên Chúa đi ngang qua thập giá. Gương Phêrô từ chối nhìn nhận dung mạo đau khổ của Chúa Kitô là một bài học cho Giáo Hội và cho mọi kẻ tin.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1) Chúa Giêsu bình thản loan báo cái chết của Người. Đấng mà nguyên việc xuất hiện đã làm nẩy sinh mùa xuân của thế giới, nay sẽ phải nếm cơn hấp hối của sự từ bỏ hoàn toàn. Người ý thức sáng suốt định mệnh của mình, tuy nhiên vẫn biết rõ rằng, theo cách tính toán nhân loại, điều sắp xảy đến lẽ ra chẳng được xảy đến. Nhưng Người không buồn tủi, mà hoàn toàn tín thác vào Chúa Cha: Người biết hòn đá bị loại bỏ dù thế nào đi nữa cũng sẽ trở thành viên đá đỉnh góc.

2) Chúng ta luôn có phản ứng như Phêrô khi phải chạm trán với thập giá. Cô đơn, nghèo khổ, đau ốm, bấp bênh tương lai mất người thân thuộc, bất lực chữa trị tật xấu, tất cả hầu như không thể chấp nhận đối với chúng ta. Thế nhưng, chính đó là cái Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta vác lấy để đi theo Người.

Vì thiếu đức tin nên ta thường phẫn uất, bất bình khi gặp thử thách. Như Phêrô, ta không thực sự tin Thiên Chúa thừa sức mạnh để làm phát sinh sự sống từ cái chết, thừa nhân hậu để từ chính thập giá làm phát xuất niềm vui. Tuy nhiên, chính hôm trước ngày tử nạn, Chúa Giêsu đã nói đến niềm vui của Người, lúc mà quân canh rình chực Người để bắt lấy. “Kẻ nào mất sự sống mình sẽ tìm được lại”. Mầu nhiệm vĩ đại, cái mầu nhiệm mà các thánh đã từng kinh nghiệm trong cuộc đời chịu đóng đinh của họ, đó là niềm vui bất khả phân ly với thập giá. Vâng, nếu được chấp nhận vì tình yêu, thập giá sẽ trở nên nhẹ nhàng. Điều này không ngừng bị sự khôn ngoan trần gian phản đối, vì trần gian chỉ rêu rao sự tiện nghi và việc chạy theo khoái lạc: nó luôn hứa ban hạnh phúc nhưng bao giờ cũng chỉ đem đến thất vọng ê chề. Nó là kẻ thù không đội trời chung của thập giá. Nhưng khốn nạn thay, chính khi quay lưng với thập giá là trần gian quay lưng với niềm vui, với sự sống đích thực. Trần gian không biết và mãi mãi sẽ không biết rằng niềm vui và đau khổ có thể hòa hợp với nhau khi có sự hiện diện biến đổi của tình yêu.

[Mục Lục]

Bài 4. Chú giải của Noel Quession

Ông Si-mon Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.”

Trang Tin Mừng hôm nay chính là phần tiếp theo bài đọc Tin Mừng Chúa nhật vừa qua. Phêrô, nhân danh nhóm Mười Hai tông đồ đã thừa nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia hay Đấng Kitô. Và lúc đó Phêrô được Đức Giêsu khen là có phúc vì đã nhận được “mạc khải” ấy từ Thiên Chúa. Kế đó Đức Giêsu trao cho Phêrô một sứ mạng: Trở thành Tảng Đá trên đó Người sẽ xây dựng Hội Thánh Người!

Tuy nhiên khi kết thúc lời hứa cao cả ấy, Đức Giêsu cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô.

Tại sao Người bắt các tông đồ giữ kín bí mật đó?

Phần tiếp theo bài tường thuật mà chúng ta suy niệm hôm nay cho chúng ta thấy Phêrô và các bạn ông đã có quan niệm sai lầm như thế nào, và quan niệm ấy cần được thanh luyện khỏi mọi thứ chủ nghĩa đắc thắng.

Từ lúc đó…

Matthêu qua những chữ đó muốn nhấn mạnh rằng trong lộ trình của Đức Giêsu, việc “tuyên xưng đức tin” tại Xêdarê Philipphê là một khúc quanh quan trọng. Trong đời sống chúng ta cũng thế, một số biến cố đánh dấu sự đoạn tuyệt với cái cũ để mời gọi chúng ta đến với một điều khác. Chúng ta có sẵn sàng biến đổi đời mình theo lời Thiên Chúa mời gọi chúng ta không? “Từ lúc đó”, Đức Giêsu hoàn toàn thay đổi phương hướng.

Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người phải đi Giêrusalem.

Từ mấy tuần nay, Đức Giêsu đã “chạy trốn” ra nước ngoài, đi về những xứ ở miền Bắc Palestine. Xêdarê, Philípphê, đầu nguồn sông Giođan là điểm cực xa, đối với thành Giêrusalem “thành phố giết các ngôn sứ (Mt 23,37). Thình lình Đức Giêsu quay ngược lại hoàn toàn để lên đường đi về Giêrusalem.

Quyết định này, Đức Giêsu đã phải suy nghĩ chín chắn: Người ‘phải’ đi và chữ phải ở đây có đầy đủ ý nghĩa Kinh Thánh. Phải đi thôi!

Trong đời sống chúng ta cũng thế, có những sự cần thiết bắt buộc chúng ta. Chúng ta phải chịu những sự bó buộc mà mình không tự ý chọn lựa. Đức Giêsu thấy mình đứng trước hoàn cảnh ấy: phải đi thôi!

Từ ngữ ấy, trong Kinh Thánh không bao hàm bất cứ một thứ định mệnh nào mà người ta phải tuân theo một cách thụ động bởi vì người ta không thể làm khác được.

Từ ngữ “Người phải” luôn luôn có nghĩa là một quy chiếu vào ý muốn mầu nhiệm của Chúa Cha; ý định khôn dò ấy của Thiên Chúa bắt đầu với việc bẻ gãy ước muốn tự phát nhất của chúng ta. Dù các biến cố ấy, có khó sống và làm chúng ta chán nản đến đâu, chúng ta cũng phải nhận ra trong Đức Kitô rằng các biến cố ấy không thoát khỏi sự điều khiển tối cao của Thiên Chúa. Đến lượt chúng ta khi nói rằng “mình phải”, chúng ta gắn bó với ý muốn của Chúa Cha trong bóng tối của sự vâng lời của đức tin, và chúng ta khẳng định rằng chính Thiên Chúa sẽ có quyết định sau cùng. Nỗi đau này không đè bẹp chúng ta dù chỉ trong một lúc.

Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.

Từ ngày đó, Đức Giêsu sẽ loan báo ba lần cuộc khổ nạn của Người (Matthêu 16,21; 17,22-23; 20,18-19). Như thế Đức Giêsu đã sống từ tuần này sang tuần khác với tư tưởng về cái chết của Người. Lúc đó, Người khoảng 30 tuổi. Sứ vụ của Người rất quan trọng, không bao lâu nữa sẽ hoàn tất một cách tàn nhẫn. Về phương diện con người mà xét, đó là sự thất bại, là chấm dứt mọi sự. Không cần phải là thần thánh để thấy trước những kỳ hạn nào đó không thể tránh khỏi. Đức Giêsu đã thấy sự thù nghịch của các quyền bính cũng như sự bỏ rơi của dân chúng ngày càng tăng lên. Người phân tích rất kỹ sự chống đối này, nó đang phát triển và sẽ lôi kéo toàn bộ Giêrusalem “các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư…”, mọi viên chức, mọi nhà lãnh đạo tại thủ đô và Người tình nguyện đi đến nơi đó! Lạy Đức Giêsu xin cho chúng con lòng can đảm để đối đầu với những hoàn cảnh khó khăn.

Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy?!”. Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô: “Xatan, lui lại đàng sau Thầy. Anh cản lối Thầy…”

Phêrô bị kết án là “kẻ cám dỗ” đối với Đức Giêsu “Xatan hư hại!”

Qua tiếng kêu ấy của Đức Giêsu, chúng ta nhận thấy rằng Người đã cảm thấy trong da thịt sự ghê sợ mà chúng ta cảm thấy trước những gì ngược lại với cảm xúc và ước muốn phát triển lập tức. Chính Đức Giêsu cũng cảm thấy ước muốn tránh xa thập giá, điều mà Phêrô đề nghị: “Nếu có thể , xin cất chén này xa con” Cảnh tướng hấp hối ở vườn Ghết-sê-ma-ni không chỉ là một giai đoạn thoáng qua: Nhiều lần trong đời Người, Đức Giêsu đã cảm thấy ghê sợ đau khổ và bị cám dỗ bất tuân những ý định khôn dò của Chúa Cha.

“Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nổi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội … Người đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết… Dẫu là Con Thiên Chúa, Người đã trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 4,15; 5,7-8). Ở đây, tôi chiêm ngắm Đức Giêsu biết rõ Người đau khổ dường nào khi sống vâng lời. Chính sự nhẫn tâm trong lời Đức Giêsu đáp lại Phêrô cho thấy cơn cám dỗ ấy mạnh mẽ biết bao.

Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.

Chúng ta khám phá suối nguồn sức mạnh cho phép Đức Giêsu vượt qua những thử thách của Người: Con mắt tâm hồn của Người không ngừng hướng về Thiên Chúa. Thiên Chúa nhìn những sự việc của chúng ta theo một cách khác. Trong những hoàn cảnh mà chúng ta phải sống và bó buộc, chúng ta được mời gọi vượt qua “quan điểm con người” để chấp nhận “quan điểm của Thiên Chúa”.

Thời đại của chúng ta hiện nay, hơn bao giờ hết bị cám dỗ “giản lược” cả những vấn đề của đức tin về những cách suy nghĩ của con người. Tất cả những gì vượt quá lý trí con người không dễ dàng được người ta chấp nhận.

Người ta từ đó đi đến chỗ cấm Thiên Chúa là Thiên Chúa! Thiên Chúa phải như chúng ta. Thiên Chúa phải uốn mình theo những tư tưởng của chúng ta.

Nhưng lúc đó, chúng ta chỉ có một Thiên Chúa ở tầm vóc của chúng ta và theo hình ảnh của chúng ta; một Thiên Chúa do chúng ta phát minh ra.

Rồi Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo…”

Chúng ta chớ lướt qua quá nhanh những lời đáng kinh ngạc này.

Tất cả tâm thức hiện đại, ở xung quanh chúng ta và thấm nhập vào những phản ứng riêng tư của chúng ta đều nói về sự phát triển, lạc thú, tự do, sáng tạo thú vui: “Tôi muốn sống đời sống của tôi! ” .

Nhưng Đức Giêsu đề nghị một lý luận hoàn toàn khác hẳn. Lý luận của thập giá! Lý luận của tình yêu! Hoàn toàn trái ngược với điều mà thế gian đề nghị với chúng ta, Đức Giêsu nói: “phải từ bỏ chính mình”. Không có tình yêu thương chân thật nếu không có sự từ bỏ chính mình. Và chỉ cần đưa ra một số hoàn cảnh đau thương trong đó tình yêu bị nguy ngập, để hiểu rằng tình yêu phải trả giá đắt: Tha thứ cho một kẻ thù. Có đủ can đảm để nói rằng mình theo Giêsu trong một môi trường vô tín hoặc nhạo báng. Yêu thương người phối ngẫu một cách trung tín. Tiếp tục phục vụ con cái xem ra đang chế giễu bạn. Giữ vững ý thức chia sẻ khi mọi sự đều kích thích ta tích lũy và tiêu xài cho chính bản thân. Luôn giữ sự lương thiện trong các thương vụ khi mà những quy luật về kinh tế hoặc chính trị là những luật rừng, cá lớn nuốt cá bé. Để yêu thương cho đúng nghĩa, phải chịu trả giá.

Như Phêrô, vào thời kỳ đó, chúng ta bị cám dỗ làm cho êm dịu Tin Mừng. Nhiều người, nhất là các bạn trẻ được nhân cách của Đức Giêsu lôi cuốn, họ phóng chiếu vào Người mọi ước mơ của tình huynh đệ, công bằng và yêu thương. Nhưng rồi Đức Giêsu yêu cầu họ phải từ bỏ chính mình để theo Người. Không còn là chuyện mơ ước leo lên núi cao: Người trưởng đoàn leo núi mời cả đoàn theo sau ông, ông cầm dây đi trước và hoàn toàn từ bỏ mình. Người nhắc chúng ta ở mỗi thánh lễ “phải nộp thân mình và đổ máu mình”. Thế mà, người ta không còn đi theo Người đến đó.”

Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế gian mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta lấy gì mà đổi mạng sống mình?

Đây là nghịch lý của Đức Giêsu: Phải “mất” để “được”.

Công thức điên rồ chăng? Nó chỉ được soi sáng thật sự trong sự Phục Sinh.

Bất chấp vẻ bề ngoài, đấy không phải là tự hành khổ hay bệnh hoạn: Đức Giêsu không yêu cầu chúng ta yêu thích sự đau khổ hay từ bỏ. Người chỉ muốn chúng ta yêu thương cho đến cùng, sống cho trọn vẹn và đạt được điều chủ yếu. Và sự gợi ý này của Người không có gì là phi nhân, bất chấp vẻ bề ngoài: “Con có yêu Thầy đến độ có thể từ bỏ chính con không? Nếu không, con đừng nói với Thầy về tình yêu nữa dù là tình yêu con người hay tình yêu Thiên Chúa”.

Không, Đức Giêsu không lỗi thời. Người không ngừng nói lại với thế giới điều mà thế giới cần nhất.

Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người cùng với các thiên thần của Người, và bây giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.

Đức Giêsu nói về sự thành công, sự thành công hoàn toàn và chung cuộc. Đức Giêsu đến Giêrusalem để chịu nhiều đau khổ và bị giết chết và sẽ sống lại ngày thứ ba. Đó là chiến thắng ở cuối con đường đau khổ. Khi chúng ta vác thánh giá theo Đức Giêsu, chúng ta cũng hãy nghĩ đến vinh quang và niềm vui đến gần.

[Mục Lục]

Bài 5. Đầu tư cho cuộc sống mai sau

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

“Từ bỏ chính mình” và “Vác thập giá mình” chính là đầu tư cho cuộc sống mai sau.

Đầu tư tất cả cho cuộc sống đời nầy

Hầu như mọi hoạt động, mọi nỗ lực của nhiều người đều quy về việc củng cố, đầu tư cho thân xác, cho cuộc đời tạm thời vắn vỏi của mình.

Bản thân tôi như một quả bong bóng mà tôi cố thổi cho phồng lên tối đa.

24 giờ mỗi ngày đều được người ta dành trọn vẹn cho thân xác: giờ để ăn, giờ để ngủ, giờ để giải trí vui chơi, giờ để làm việc nuôi thân xác…

168 giờ mỗi tuần, 720 giờ của mỗi tháng cũng được dành trọn cho thân xác.

8.766 giờ của mỗi năm cũng chỉ được dành trọn để thổi phồng thân xác dòn mỏng nầy cho đến lúc nó nổ tung ra như quả bong bóng đầy hơi.

Châm ngôn của người ta là : Tất cả cho thân xác. Tất cả cho cuộc sống đời nầy.

Người ta cố đầu tư xây dựng cho cuộc sống đời nầy như những con dã tràng đua nhau xe cát, tạo nên những đụn cát nhỏ bé trên bãi biển bao la để rồi một lát sau sóng biển sẽ xoá đi chẳng để lại vết tích gì.

Bao nhiêu thời gian, công sức, tiền của, tài năng, trí tuệ, nghị lực… đều được dốc ra để đầu tư cho thân xác, cho cuộc sống tạm bợ đời nầy, để rồi kết cuộc đời người, theo như thi hào Nguyễn Du, chỉ còn là một nấm đất:

“Trăm năm còn có gì đâu?

“Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì!”

Tiếc thay, ngày nay đất đai khan hiếm, kết cục đời người không còn được một nấm cỏ khâu như xưa, nhưng chỉ là một lọ nhỏ chứa nắm tro tàn sau khi thiêu xác!

Thế là đúng như lời Chúa Giê-su dạy: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình (ai đầu tư tất cả cho cuộc sống mình) thì sẽ mất”; và cho dù người ta có thu tóm “được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”

Đầu tư hết vốn liếng và khả năng để bồi đắp thân xác và xây dựng cuộc sống đời nầy để rồi rốt cục chỉ còn là “một nấm cỏ khâu” hay đơn giản hơn, là “một lọ tro tàn” thì kiếp người đúng là một thảm kịch bi đát nhất. Trong lĩnh vực kinh tế, có ai rồ dại đến nỗi dốc toàn bộ vốn liếng mình có vào một cuộc kinh doanh mà biết trước rằng kết cục chỉ là tay trắng không?

Đầu tư cho đời sống mai sau

Nhưng làm sao để tránh khỏi thảm kịch bi đát nầy? Có giải pháp nào làm cho đời sống triển nở tốt đẹp hơn không?

Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su đề nghị một giải pháp tốt nhất. Ngài dạy chúng ta đầu tư đúng hướng để được hưởng lợi nhuận vững bền. Đó là đầu tư cho đời sống mai sau, mà điều kiện tiên quyết là hãy từ bỏ mình và vác thập giá.

“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?”

Phanxicô Xavie lúc còn thanh xuân muốn đầu tư hết tài trí, sức lực để chiếm hữu địa vị xã hội và vinh hoa thế gian.

May thay, Thiên Chúa đã gửi đến cho anh người bạn tốt, đó là thánh Inhaxiô, một người bạn lớn tuổi học cùng trường. Inhaxiô thường dùng câu lời Chúa chúng ta nghe hôm nay để nhắc bảo Phanxicô Xavie: “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”

Ánh sáng của Lời Chúa đã loé lên trong tâm hồn chàng trai đầy tham vọng trần thế và đã làm xoay chuyển cuộc đời anh. Phan-xi-cô giã từ việc theo đuổi phù du ảo ảnh đời nầy (đó là từ bỏ mình) để dấn thân không mệt mỏi vào những vùng đất xa xôi (đó là chấp nhận vác thập giá) để chinh phục các linh hồn cho Thiên Chúa nên đã được hạnh phúc vinh hiển muôn đời.

“Từ bỏ chính mình” tức là đừng đầu tư tất cả mọi vốn liếng ta có để vun đắp cho cuộc sống đời nầy; cụ thể là không dành toàn bộ công sức, thời gian, tài năng, trí tuệ để phụng sự thân xác.

“Vác thập giá mình” là chấp nhận khổ chế, cụ thể là khước từ những đòi hỏi vô độ của thân xác – sự khước từ nào cũng là một thập giá, đều để lại đau thương – để dành thời giờ và nghị lực cho sự phát triển tâm linh.

Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho Lửa Thánh Linh soi chiếu tâm hồn để chúng con nhận ra rằng con người gồm cả hồn lẫn xác. Thân xác nầy nay còn mai mất và rốt cục chỉ còn là tro bụi thì chỉ cần đầu tư vừa phải. Còn linh hồn trường tồn bất diệt thì phải đầu tư cho hồn nhiều lần hơn để mai sau được hưởng vinh phúc muôn đời với Chúa. Amen.

[Mục Lục]

Bài 6. ‘AI LIỀU MẠNG SỐNG MÌNH VÌ THÀY, THÌ SẼ TÌM ĐƯỢC MẠNG SỐNG ẤY’

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Các môn đệ xưa theo Chúa Giêsu, vẫn có quan niệm sai lầm rằng Thầy Giêsu sẽ khôi phục lại Vương Quốc Israen và rồi các Môn đệ sẽ được chia chác ghế ngồi trong nội các của Chúa. Tuy nhiên, chân tướng của Vị Cứu Tinh không phải như Phêrô và các bạn của ông lầm tưởng mà “ lên Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ, bị giết và ngày thứ ba mới sống lại “ (Mt 16, 21), vì “ chỉ ai liều mất mạng sống mới được sống “ (Mt 16, 25 )…

Các môn đệ, đặc biệt là thánh Phêrô đã tuyên xưng lòng tin nơi Chúa. Lòng tin của Phêrô đã cho hay chính Thiên Chúa Cha mặc khải để ông nói lên điều kỳ diệu ấy. Tuy nhiên, liền sau lời tuyên tín của tông đồ Phêrô, Chúa Giêsu đã tỏ lộ sứ vụ cứu thế của Ngài gắn liền với đau khổ và phục sinh của Ngài.Việc này xảy ra đang khi Chúa Giêsu ở Galilêa đến thủ đô Giêrusalem.Đi Giêrualem với Chúa Giêsu còn là chấp nhận cái chết như các ngôn sứ.Ở đây, thánh Phêrô không thề nào hiểu nổi Thầy mình là một Vị Cứu Tinh làm sao lại có thể bị chết ô nhục như thế. Do đó, Phêrô cản ngăn Thầy. Và Chúa Giêsu đã mắng Phêrô thậm tệ, coi Phêrô có ý tưởng như là Satan. Phêrô và các bạn vẫn chưa hiểu được thế nào là con đường của Thầy. Bởi vì con đường của Chúa Giêsu không giống với lối suy nghĩ của con người, lối tính toán hơn thiệt của con người, nhưng muốn đón nhận Giáo Lý của Người, họ phải bỏ chính họ, lối suy nghĩ, cái nhìn trần gian để chính Chúa soi đường dẫn lối họ đi theo Người, theo ánh sáng đạo lý chân thật, vững chắc của Chúa. Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, ở đây, Chúa nói đến người nào chỉ khư khư giữ lấy sự sống mau qua, tạm bợ trần gian. Còn ai liều mạng sống nghĩa là người dám hy sinh, từ bỏ để theo Chúa thì sẽ được sự sống vĩnh cửu. Tin Mừng đoạn này cũng cho thấy được lời lãi thế gian ( Mt 16, 26 ) so với Nước Trời, so với sự sống đời đời không thể nào sánh ví được.Chúa sẽ trở lại trần gian trong ngày cùng tận để phán xét con người theo lẽ công thẳng của Người.

Chúa Giêsu tin tưởng các tông đồ, do đó, Ngài đã biến hình trên núi Tabôrê để các ngài nhìn thấy vinh quang của Chúa và như thế các ngài càng bám chặt lấy Chúa, tin sâu thẳm vào Chúa. Chính vì tin tưởng các tông đồ, Chúa Giê su đã thổ lộ tất cả, bộ bạch tất cả cho các tông đồ mà Ngài quí mến về con đường Ngài sẽ đi và mời gọi các tông đồ cũng đi theo con đường của Ngài. Các tông đồ và các tín hữu của Chúa ‘ hẳn không khác Thầy mình ‘ (Mt 10, 24 ). Chúa đã chịu đau khổ, chịu chết và sống lại. Là môn đệ của Chúa, chúng ta không thể đi con đường nào khác được. Bởi vì, sống như Chúa là hy sinh, từ bỏ,dám liều mạng sống vì tha nhân dù rằng có nhiều thiệt thòi theo cái nhìn của người đời.

Xin mượn lời Nữ tu Véronique Thiébaut để kết thúc bài chia sẻ này :” Trong các bài đọc ngày hôm nay, chúng ta thấy rất nhiều người mang một bầu tâm huyết sôi sục : Ông Giêrêmia đã để Lời Thiên Chúa quyến rũ và nắm bắt toàn diện con người mình; ông Phêrô và những người khác đã bỏ hết mọi sự để đi theo Đức Kitô; chính Đức Giêsu thì được thánh ý Chúa Cha huy động, bởi được tình yêu Chúa Cha chiếm hữu.Tương quan với Thiên Chúa khởi đầu như thế đó: phải để cho người chạm đến trái tim và đi vào đời của chúng ta.Điều này đòi hỏi một sự chuyển dời mình đi nơi khác. Bấy giờ, có chuyện gì xảy ra ? Cả một sự biến đổi con người mình.Như các tín hữu Rôma, chúng ta được mời đổi mới cách suy tư và hành động.Ông Giêrêmia lên tiếng, mặc cho nguy cơ có thể ập xuống đầu mình. Ông Phêrô chưa vượt sang một cách hiểu biết khác về Đức Kitô, nhưng đang được mời gọi. Nếu được biến đổi nhờ gặp gỡ Thiên Chúa, thì mọi người, cả nam lẫn nữ, sẽ có khả năng trở nên dũng cảm. Họ ước muốn sống có trước có sau : lòng nhiệt tình nung nấu họ từ bên trong, thôi thúc họ sống theo Tin Mừng, giúp đỡ anh chị em mình cũng sống như vậy…Để cho tha nhân đến với mình, để cho tha nhân biến đổi mình, can đảm sống có trước có sau, biết rằng con đường hãy còn dài phía trước, không bao giờ dứt điểm thật sự : cuộc đời người môn đệ là thế đó ! “.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã luôn hiếu thảo với Thiên Chúa Cha, luôn tuân theo thánh ý Cha và luôn hy sinh vì người khác để đem lại hạnh phúc cho họ. Xin cho chúng con biết sống như Chúa để dám quên mình, hy sinh, từ bỏ và liều thân vì người khác miễn là đem lại hạnh phúc cho họ và làm cho họ nhận ra lòng nhân từ của Chúa, tin Chúa và theo Chúa. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1. Tại sao Phêrô lại ngăn cản Chúa ?
2. Con đường của Chúa là con đường nào ?
3. Tại sao Chúa Giêsu lại bộc bạch tất cả cho các tông đồ ?
4. Chấp nhận đi theo Đức Giêsu chúng ta phải làm sao
 ?

[Mục Lục]

Bài 7. TỪ BỎ MÌNH ĐỂ ĐƯỢC TỰ DO THI HÀNH SỨ VỤ

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Được sinh ra làm người là một hồng ân. Được làm con Chúa là một hạnh phúc. Nhưng, khi lớn lên, hồng ân và hạnh phúc đó phải được triển nở không ngừng trong tương qua với Thiên Chúa và tha nhân. Tuy nhiên, để hoàn thiện, cần phải có những chọn lựa khôn ngoan.

Hôm nay, Đức Giêsu lên tiếng mời gọi các môn đệ theo mình để được hạnh phúc trọn vẹn. Con đường mà Ngài mời gọi lại không phải là con đường dễ dãi, thênh thang, mà là con đường hẹp. Con đường đó là “… từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24).

Tại sao vậy? Thưa! Vì đây là ý định cứu độ của Thiên Chúa muốn Đức Giêsu thi hành. Quả thật, Đức Giêsu đã đón nhận cũng như thi hành cách trung thành và trọn vẹn trên con đường ấy. Đến lượt chúng ta, phần vì muốn được cứu độ; phần vì muốn cộng góp với Đức Giêsu trên hành trình cứu độ nhân loại, hẳn chúng ta không còn con đường nào khác là con đường: “… từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24).

1. Từ bỏ mình, có mất tự do không?

Tin Mừng kể lại: sau khi Đức Giêsu tỏ cho các môn đệ biết về sứ mạng Thiên Sai của Ngài là phải chết để cứu chuộc con người. Song song với việc tiên báo đó, Đức Giêsu lên tiếng mời gọi các môn đệ cũng đi vào con đường của Ngài để cùng chung chia sứ mạng mà Ngài đang thực hiện. Tuy nhiên, điều kiện rất quan trọng mang tính quyết định, đó là: “… từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24).

Thoạt nghe, chúng ta cảm thấy buồn cười và có sự mâu thuẫn! Vì tại sao Đức Giêsu lại muốn các môn đệ đánh mất sự tự do, từ bỏ cái tôi, tức là hủy mình ra không!!! Điều đáng nói là chính Thiên Chúa đã trao ban cho con người tự do, và Ngài chấp nhận con người dùng tự do theo ý hướng của họ. Vậy thì đòi hỏi này của Đức Giêsu có nghịch lý chăng?

Để trả lời cho câu hỏi trên, chúng ta cùng nhau khám phá ý nghĩa đích thực của nó dựa trên mặc khải của Thánh Kinh.

Theo lối hiểu của Kinh Thánh và ý muốn của Đức Giêsu thì sự đòi hỏi này mang tính tích cực cho người đón nhận chứ không phải vì ép buộc.

Khởi đi từ câu hỏi rất thân tình: “Ai muốn theo Thầy?”. Khi hỏi các môn đệ như thế, Đức Giêsu muốn các ông bước đi trong tinh thần thanh thoát, nhẹ nhàng chứ không phải vì nặng nề, mất tự do. Một lời mời gọi rất thân tình, làm cho người được mời gọi cảm thấy an vui, bình an và hạnh phúc khi tự mình quyết định lựa chọn lối sống mới theo tinh thần Tin Mừng.

Khi mời gọi như thế, Đức Giêsu muốn người môn đệ tự nguyện từ bỏ một cuộc sống dễ dãi, an nhàn, thích ăn trên ngồi trước, thích được người khác phục vụ…, để lựa chọn một cuộc sống thiếu thốn, khổ hạnh vì ích lợi cho phần rỗi của mình và niềm vui, hạnh phúc của kẻ khác.

Thật thế, con đường mà Đức Giêsu muốn cho môn sinh của mình đi không phải là con đường nhung lụa, thênh thang, cũng không phải con đường dễ dãi, bằng phẳng, mà là con đường hẹp, gồ ghề và chông gai… Con đường đó là con đường của từ bỏ: “… từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24). Trong hoàn cảnh này, Đức Giêsu muốn các môn đệ ra khỏi sự ích kỷ, tự phụ, kiêu ngạo, để ý Chúa rợp bóng trên cái tôi của mình, và chính từ đó, tôi được trở thành tôi đúng nghĩa trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

2. “Từ bỏ mình vác thập giá mà theo” có ý nghĩa gì?

“… từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24), tức là chấp nhận đi trên con đường mà chính Đức Giêsu đã đi. Con đường đó là một con đường khó khăn, thiệt thòi, con đường của hy sinh, tự hủy. Con đường khiêm tốn và là con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha hoàn toàn.

Từ bỏ chính mình là một điều khó. Khó vì nhiều lý do: ai sinh ra trên trần gian này cũng đều là một cá thể riêng biệt, độc đáo, không ai giống ai. Ai cũng muốn khẳng định tôi là tôi chứ không phải ai khác. Khi khẳng định như thế, chủ thể tôi cũng muốn xác định lập trường của mình rằng: không ai có quyền lấy đi hay bắt buộc tôi phải từ bỏ những ý định riêng tư mang tính cá biệt của chính tôi.

Xét theo tâm lý học hay triết học thì đây phải chăng là một đòi hỏi vô lý và một lựa chọn tiêu cực. Nhưng với người môn đệ của Đức Giêsu thì khác! Theo Chúa và từ bỏ ý riêng không có nghĩa là đánh mất mình; nhưng còn được tất cả. Hay nói cách khác, từ bỏ mình để kết hợp hay tháp nhập vào với Chúa là trở về với chính mình cách trọn vẹn nhất. Bởi vì ngay từ đầu, Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, nay ta tháp nhập với Ngài, thì ta trở về với chính nguồn cội nơi ta phát xuất ra. Được như thế là ta trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài.

Từ bỏ chính mình cũng là thể hiện một sự dấn thân cách trọn vẹn. Thật vậy: “Bỏ tất cả mà chưa bỏ mình thì con chưa bỏ gì cả, vì chính mình con sẽ dần dần quơ góp lại những gì con bỏ trước” (Đường Hy Vọng, số 3).

Từ bỏ chính mình là thể hiện sự quyết tâm, sự hy sinh để sống triệt để cho đức vâng lời.

Từ bỏ chính mình là một cách minh nhiên cho thấy ta sẽ ưu tiên cho việc đi theo Chúa hơn là công việc của Chúa.

Nếu không từ bỏ chính mình, thì hẳn ơn gọi và sứ vụ của người môn đệ không thể hướng tha, mà chỉ là quy về mình và sống trong sự ích kỷ, vụ lợi mà thôi.

Nếu theo Chúa mà cồng kềnh thì khó lòng vượt qua những khó khăn thử thách, và cái tôi của mình là một rào cản lớn có tầm ảnh hướng đến việc được hay mất.

Đức Giêsu không muốn các môn đệ đi theo mình với những nỗi niềm chờ mong sai lạc, nhưng Đức Giêsu muốn họ vui chọn cuộc sống thiếu thốn và cực khổ vì hạnh phúc của kẻ khác, biết từ bỏ cái tôi xác thịt, ham muốn hưởng thụ riêng mình mà chọn lấy niềm vui khi chia sẻ với người khác.

3. Người Kitô hữu là người được gọi và bước theo Đức Giêsu

Mỗi người Kitô hữu, ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta đều được mời gọi trở nên giống Đức Giêsu và được mời gọi đi theo Ngài trên con đường mà chính Ngài đã đi.

Muốn đi theo Chúa, chúng ta cũng không thể nào mang trên mình và trong tâm trí nhưng thứ cồng kềnh như: quyền lực; tiền bạc; danh lợi; ý riêng; tự kiêu; bảo thủ… Bao lâu ta còn luyến tiếc những thứ đó, thì bấy lâu ta đặt ý ta hơn ý Thiên Chúa, và ta không thể nhận ra kế hoạch của Thiên Chúa để thi hành.

Mặc lấy Đức Giêsu tức là ta trở nên giống Ngài. Nên giống Ngài là gì nếu không phải là từ bỏ ý riêng của mình để thay vào đó là ý Chúa như Đức Giêsu đã hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa Cha đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Mặc lấy Đức Giêsu cũng là lúc phải ra khỏi những định kiến riêng tư để biết cảm thông và có tinh thần phục vụ như Đức Giêsu khi xưa bằng một tình yêu hy hiến trong tình huynh đệ.

Nếu từ bỏ chính mình là thể hiện một sự quyết tâm, sẵn sàng lên đường với Đức Giêsu, thì vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa chính là đón nhận mọi thử thách, chết cho thế gian, để chỉ sống cho một mình Thiên Chúa. Vác thập giá hằng ngày chính là chu toàn chính bổn phận của mình cách trung thành và hợp lý.

Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, mỗi chúng ta xác định thật rõ căn tính của mình là thuộc về Đức Giêsu, một Đức Giêsu đã từ bỏ ý riêng, để sống cho Thiên Chúa và yêu thương con người cách trọn vẹn qua cái chết và phục sinh của Ngài.

Đến lượt chúng ta là những người mang trong mình hình ảnh, tâm tư của Đức Giêsu, chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường từ bỏ, tự huỷ để đón nhận thập giá hằng ngày và chu toàn cách trung thành, ngõ hầu chỉ sống cho Thiên Chúa cách trọn vẹn và yêu thương anh chị em đồng loại bằng một tình yêu của Chúa và như Chúa.

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết tìm thánh ý Chúa và mau mắn thi hành thánh ý Chúa trong cuộc sống. Xin cũng cho chúng con được từ bỏ mọi sự, vác thập giá để theo Chúa trên con đường cứu độ mà Chúa muốn chúng con thi hành. Amen.

[Mục Lục]

Bài 8. TƯ TƯỞNG CON NGƯỜI

JM. Lam Thy ĐVD.

Bài Tin Mừng Chúa nhật trước (Mt 16, 13-20) trình thuật việc Thánh Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, được Thầy khen ngợi và tin tưởng trao cho một trách vụ hết sức quan trọng: “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16, 17-18). Ấy vậy mà tiếp liền sau đó (bài Tin Mừng hôm nay – CN XXII/TN-A – Mt 16, 21-27), thánh nhân lại bị quở trách rất nặng: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”

Cũng vì Đức Giê-su gọi thánh Phê-rô là Xa-tan, nên đã có nhiều bài chia sẻ cho rằng Thánh Phê-rô cám dỗ Chúa Giê-su, cũng giống như khi mở đầu cho hành trình công khai rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su vào hoang địa ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày, bị quỷ cám dỗ (Mt 4, 1-11). So sánh như vậy thì có vẻ hơi khập khiễng, vì với lần vào sa mạc, quỷ đem những mồi nhử vinh hoa, phú quý, danh vọng cám dỗ Chúa, mục đích của chúng chỉ là để hạ bệ, làm nhục Chúa, và cũng vì thế, chúng thất bại nhục nhã, phải lủi thủi “bỏ Người mà đi”. Còn việc “Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16, 23) có mục đích khác hẳn mục đích của quỷ dữ. Thánh nhân thấy Thầy mình tỏ cho biết hành trình khổ nạn tại Giê-ru-sa-lem mà Thầy sắp phải gánh chịu, thì vì quá thương Thầy, nên Thánh nhân mới thốt ra những lời nói làm phật ý Thầy. Như vậy thánh nhân chỉ cầu xin Thiên Chúa cho Thầy khỏi gặp cảnh ấy, chớ có mời mọc, dụ dỗ Thầy mình làm chuyện gì đâu, mà gọi là cám dỗ?

Thánh Phê-rô chỉ vì thương Thầy quá nên mới cầu xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy phải gánh chịu cuộc khổ nạn, mà cứ theo như lởi kể của Thầy thì quá sức khủng khiếp. Không thể vì thấy những lời quở trách của Đức Giê-su (gọi Thánh Phê-rô là Xa-tan) để rồi coi lời nói xuất phát tự đáy lòng của một con người chất phác bộc trực ấy là lời cám dỗ được, dù cho có nói chệch đi là ma quỷ mượn thánh Phê-rô để cám dỗ Chúa (theo từ nguyên thì “Cám dỗ” là”khêu gợi lòng ham muốn đến mức làm cho sa ngã”). Thiết tưởng mỗi Ki-tô hữu cần phải nhìn lại bản thân xem, đặt giả thử trực diện với hoàn cảnh tương tự (khi thấy Người Thầy mà mình vẫn tuyên xưng là Con Thiên Chúa sắp phải chịu thương khó cho đến chết), mình có được như Thánh Phê-rô hay không? Đã không được như Thánh Phê-rô thì chớ, biết đâu lại chẳng nghĩ rằng “Số của Thầy, Thiên Chúa đã định như thế, thì phải chịu, vậy thôi!” Không tin vào Thầy, mà lại đi tin vào cái thuyết định mệnh “ấm ớ hội tề”, đó phải chăng mới chính là một cách gián tiếp vô hình chung đồng loã với tội ác? Vâng, và vì thế mới cần phải đi xa và sâu hơn một chút, sẽ thấy Thánh Phê-rô cũng chỉ là một con người không hơn không kém, mà đã là con người thì tất yếu sẽ có những suy nghĩ rất con người (“vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”).

Như vậy thì đâu mới là tư tưởng của Thiên Chúa? Và đây: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16, 24-26). Khó hiểu quá! Đi theo Chúa thì chẳng phải mục đích là “cứu lấy mạng sống mình” hay sao? Vậy tại sao lại “ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất”? Nhưng, suy cho cùng thì Lời Chúa dạy chính là để diễn cho rõ ý nghĩa “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Đi theo Thầy không phải là để được sống một cuộc sống vật chất dư thừa, đi theo Thầy cũng không phải là để được làm ông nọ ông kia, quyền lực danh vọng đầy mình – kiểu như Gia-cô-bê và Gio-an muốn làm Tả Hữu Thừa Tướng của Vua Giê-su (“Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.” – Mc 10, 35-40).

Đi theo Thầy là phải từ bỏ tất cả, kể cả cha mẹ, vơ con, thậm chí hy sinh cả mạng sống mình; như vậy thì chẳng phải là vác thập giá đó sao? Còn những ai còn quyến luyến cuộc sống phù phiếm, mê đắm với bả vinh hoa, tức là muốn “cứu lấy mạng sống mình” nơi cõi thế, như vậy thì làm sao mà tìm được mạng sống mình nơi cõi phúc trường sinh? Chuyện đã rõ ràng như 2 với 2 là 4: Đi theo Thầy tức là muốn trở nên hạt lúa giống để Người đem gieo,“Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất, mà không thối đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 24). Chỉ có “liều mất mạng sống mình” nơi trần thế khổ đau, mới “cứu được mạng sống mình” nơi Quê Trời vĩnh cửu. Hiểu được tư tưởng Thiên Chúa qua Lời Thầy dạy đã thấy khó khăn, nhưng để sống được, thực hành được Lời Thầy dạy, mới là thiên nan vạn nan. Ấy cũng bởi vì “tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”.

Ôi chao! Loài người mà! Nếu chẳng vậy thì Chúa đâu có phải chịu “đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết”. Chung quy cũng chỉ tại cái tư tưởng loài người mà ra thôi. Thật vậy, “Vì lời ĐỨC CHÚA mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày. Có lần con tự nhủ: “Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa.” Tuy nhiên, nếu được tư tưởng của Thiên Chúa soi sáng thi “Lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (Gr 20, 8-9). Không nén được thì phải để cho ngọn lửa ấy bừng lên, bởi chính đó là ngọn lửa Thần Khí.

Tóm lại, hãy để cho “Lời Chúa như ngọn lửa bừng cháy trong tim”. Nói cách cụ thể là “Hãy sống theo Thần Khí” và dứt khoát “không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa. Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn” (Gl 5, 16-17). Vâng, “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo.” (Rm 12, 2). Chỉ có như thế mới có hy vọng “sẽ tìm được mạng sống” mình nơi cõi phúc trường sinh.

Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa thương ban Thần Khí cho con để con hiểu được đâu là tư tưởng của loài người đang chế ngự con, để con biết vượt qua “cái tôi” hẹp hòi, ích kỷ, mà sẵn sàng mở lòng ra đón nhận tư tưởng của Thiên Chúa; ngõ hầu tiến bước theo Thầy Chí Thánh Giê-su Ki-tô. Ôi! “Lạy Chúa! Con đường nào Chúa đã đi qua, con đường nào Ngài ra pháp trường, mão gai nào hằn sâu trên trán. Lạy Chúa! Thánh giá nào Ngài vác trên vai, đau thương nào phủ kín tâm tư, đường tình đó Ngài dành cho con. Lạy Chúa! Xin cho con bước đi với Ngài, xin cho con cùng vác với Ngài thập giá trên đường đời con đi. Lạy Chúa! Xin cho con đóng đinh với Ngài, xin cho con cùng chết với Ngài, để được sống với Ngài vinh quang” (Văn Chi – “Con đường Chúa đã đi” – TCCĐ).

[Mục Lục]

Bài 9. Theo Chúa phải từ bỏ mình, vác thập giá mình

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Sau lời tuyên xưng : “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16) Simon con ông Giona được khen là người “có phúc” (Mt 16, 16),vì được Chúa Cha,”Đấng ngự trên trời mạc khải cho” (Mt 16, 16-17). Lời khen kèm theo lời hứa : “Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời“. Nhưng liên sau đó ông bị khiển trách nặng nề vì đã bày tỏ ý tưởng sai lạc của con người về Đấng Cứu Thế : “Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người “(Mt 16, 22-23), lý do vì ông can gián Chúa.

Quả thật, một thụ tạo sao hiểu được ý Đấng Sáng Tạo, một con người sao biết được Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa qua miệng Isaia đã quả quyết : “Ý nghĩ của Ta không phải là ý nghĩ của các ngươi, và đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi” (Is 55, 8).

Chúng ta phải cám ơn các tác giả Tin Mừng đã mô tả cách chân thực về con người môn đệ Chúa Giêsu, họ thực sự không phải là nhân vật lý tưởng tuyệt vời, hay là thần thánh gì hết, họ nhưng là những con người bằng xương bằng thịt với đức tính và khuyết điểm như chúng ta. Có thế họ mới gần gũi chúng ta, và giúp chúng ta nhận ra rằng tất cả chúng ta cần phải hoàn thiện mỗi ngày, bởi không ai là hoàn hảo ngay từ khi mới sinh.

Vậy, đâu là ý Thiên Chúa?

Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu rằng Người phải “đi Giêrusalem và chịu đau khổ nhiều vì các bô lão, các thủ lãnh các tư tế và các ký lục, bị giết chết và sống lại ngày thứ ba” (Mt 16, 21). Tất cả xem ra bị đảo lộn trong con tim của các môn đệ. Làm sao “Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16) lại có thể bị đau khổ cho tới chết được? Tông đồ Phêrô nổi loạn, không chấp nhận con đường ấy, nên mới lên tiếng : “Xin Thiên Chúa đừng để Thầy gặp chuyện ấy” (Mt 16, 22). Ý muốn của Thiên Chúa là chấp nhận thập giá.

Đúng là : “Trời cao hơn đất (bao nhiêu), cũng vậy, đường lối của Ta vượt hơn đường lối của các ngươi, và ý nghĩ của Ta vượt hơn ý nghĩ của các ngươi” (Is 55, 9). Xem ra sự khác biệt giữa chương trình tình yêu của Chúa Cha và dự án, ước muốn của các môn đệ là điều hiển nhiên. Không chấp nhận thập giá là phủ nhận chương trình tình yêu của Chúa Giêsu, và hầu như ngăn cản Người thi hành ý muốn của Chúa Cha. Vì thế Chúa Giêsu mới nặng lời với Phêrô: “Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm“(Mt 16, 23).

Khi con người thực hiện cuộc đời mình chỉ hướng tới chỗ thành công xã hội, giầu sang vật chất và kinh tế, con người gạt bỏ Thiên Chúa sang một bên, không lý luận theo Thiên Chúa nữa, mà theo con người. Và khi nào chúng ta để cho những suy nghĩ, tình cảm hay lý luận nhân loại chiếm ưu thế, không để cho đức tin, hay Thiên Chúa dạy dỗ và hướng dẫn, lúc ấy chúng ta sẽ trở nên những tảng đá cản trở chương trình tình yêu của Người.

Theo Chúa phải từ bỏ

Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ : ” Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống” (Mt 16, 24).

Chúng ta tự hỏi : “Từ bỏ” mình có nghĩa gì? Và tại sao ta phải tử bỏ mình?

Thật khó chấp nhận điều Chúa Giêsu yêu cầu là từ bỏ và hy sinh. Sống trong một xã hội được lập trình sẵn, khuyến khích thành công nhanh, tận dụng tối đa làm ít, hưởng nhiều, đỡ tốn thời giờ và sức khỏe, nên không có lạ khi chúng ta làm và nhìn mọi sự theo kiểu con người chứ không theo cái nhìn của Thiên Chúa. Chính Phêrô, chỉ sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, ông mới ý thức được rằng, ông phải qua con đường ông đi và sống trong hy vọng.

Cần phải phân biệt, Chúa Giêsu không đòi chúng ta từ bỏ “điều chúng ta là“, nhưng điều “chúng ta đã trở nên“. Chúng ta là những hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa thấy tốt đẹp sau khi tạo dựng người nam và người nữ (x. St 1, 31). Điều chúng ta phải từ bỏ không phải là điều Chúa đã làm, nhưng điều chúng ta lạm dụng quyền tự do làm, cụ thể như : kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và làm biếng… là những khuynh hướng xấu, tội lỗi, bao phủ trên hình ảnh Thiên Chúa. Thánh Phaolô gọi ảnh biến hình này là “ảnh dưới đất“, ngược với “ảnh trên trời“, giống như Chúa Kitô. Do đó “từ bỏ chính chúng ta“, là từ bỏ ý loài người để mặc lấy ý Chúa, hợp và giống Chúa hơn.

Kierkegaard đã lấy một ví dụ : Hai người trẻ ngôn ngữ khác nhau yêu nhau. Muốn cho tình yêu của hai người sống còn và lớn mạnh, một trong hai người phải học tiếng nói của người kia. Bằng không, họ không có khả năng truyền đạt và tình yêu của họ không bền. Và ông kết luận, điều này chỉ xảy ra giữa chúng ta và Chúa. Chúng ta nói ngôn ngữ xác thịt, Chúa nói ngôn ngữ thần khí; chúng ta nói ngôn ngữ tính ích kỷ, Chúa nói ngôn ngữ tình yêu.

Muốn theo Chúa, phải từ bỏ chính mình là học ngôn ngữ của Chúa để chúng ta có thể giao tiếp với Chúa. Chúng ta sẽ không có khả năng nói “vâng” với người khác nếu chúng ta trước hết không khả năng nói “không” với chúng ta.

Theo Chúa là chấp nhận thập giá

Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đanh. Con đường “đánh mất chính mình“, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường “đánh mất chính mình“, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).

Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính minh, vác thập giá mình và theo Thầy” (Mt 16, 24). Theo Chúa khi chấp nhận thập giá của mình với lòng yêu mến. Dưới con mắt thế gian, “đánh mất đi sự sống” là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận … chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo” (Es. ap. Gaudete in Domino 9 maggio 1975, AAS 67 (1975) 300-301). Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Ðức Giêsu mang lấy thập giá của tất cả mọi người và trở thành suối nguồn ơn thánh cứu độ cho toàn dân. Thánh Cirillo thành Giêrusalem giải thích rằng: “Thập giá chiến thắng đã soi sáng những ai bị mù lòa vì ngu muội, đã giải thoát người bị tội lỗi giam cầm, đã đem lại ơn cứu độ cho toàn nhận loại” (Catechisis Illuminandorum XIII,1; de Christo crucifixo et sepulto: PG 33, 772 B).

Lạy Chúa, xin cho chúng con thêm lòng tin yêu Chúa, để những gì tốt đẹp nơi chúng con ngày càng phát triển và được Chúa chăm sóc giữ gìn. Amen.

[Mục Lục]

Bài 10. MẤT ĐỂ ĐƯỢC

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Có câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Một con chồn muốn vào một vườn nho, nhưng vườn nho lại được rào dậu cẩn thận. Tìm được một chỗ trống, nó muốn chui vào nhưng không thể được. Nó mới nghĩ ra một cách: nhịn đói để gầy bớt đi.

Sau mấy ngày nhịn ăn, con chồn chui qua lỗ hổng một cách dễ dàng. Nó vào được trong vườn nho. Sau khi ăn uống no nê, con chồn mới khám phá rằng nó đã trở nên quá mập để có thể chui qua lỗ hổng trở lại. Thế là nó phải tuyệt thực một lần nữa.

Thoát ra khỏi vườn nho, nó nhìn và suy nghĩ: “Hỡi vườn nho, vào trong nhà ngươi để được gì? Bởi vì ta đã đi vào với hai bàn tay không, ta cũng trở ra với hai bàn tay trắng”.

Khi bước vào trong trần thế này, con người muốn mở rộng bàn tay để chiếm trọn mọi sự. Khi nhắm mắt xuôi tay cũng đành phải ra đi với hai bàn tay trắng mà thôi.

1. Lời Chúa dạy

Chúa Giêsu dạy các môn đệ : “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích lợi gì?”. Xuất thân từ bụi đất, con người rồi cũng trở về với đất bụi. Chỉ có sự sống vĩnh cửu mới tồn tại muôn đời.

Chúa còn dạy rằng: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất. Không phải cứ thu vào là được, buông ra là mất. Trái lại nhiều khi phải chịu mất trước rồi mới được sau. Mất nhỏ để được lớn. Mất ít để được nhiều. Sống ở đời ai cũng tranh phần được và không muốn mất. Vấn đề là phải xác định xem đâu là cái được thực sự, lâu bền, trọn vẹn, đâu là cái được quan trọng nhất, cần thiết nhất. Kitô hữu là người say mê cái được vĩnh cửu, vì thế họ chấp nhận những mất mát tạm thời. Họ tin rằng cuối cùng chẳng có gì mất cả. Mọi sự nếu họ mất vì Thầy Giêsu thì họ sẽ được lại. Mất tạm thời để giữ được mãi mãi. Từ bỏ chính mình là để tìm lại cái tôi trong suốt hơn, ngời sáng hơn.

Chúa cũng quả quyết: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mà theo”.Muốn làm môn đệ Chúa Giêsu, phải “đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo“. Theo Thầy không phải để vinh thân phì gia. Theo Thầy để tìm một lẽ sống cho cuộc đời, vì Thầy là con đường dẫn về nguồn sống là Chúa Cha. Thầy là sự thật giải thoát muôn dân. Muốn theo Thầy, không những phải “từ bỏ chính mình“, tức là “tư tưởng của loài người“, mà còn phải mang thân phận như Thầy với thập giá riêng trên vai. Thực tế, theo hay không theo Thầy, con người vẫn không thoát khỏi khổ giá. Nhưng nếu theo Thầy, môn đệ sẽ tìm được hướng giải thoát. Muốn theo Thầy “anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1).

2. Theo Chúa là đi vào con đường từ bỏ

Từ bỏ là một quy luật.

- Quy luật của sinh tồn: có nhiều thứ nếu ta không chịu bỏ thì ta sẽ chết. Chẳng hạn ta có một khúc chân đang bị hoại tử. Nếu không cắt bỏ nó đi thì chứng hoại tử sẽ lan dần đến toàn cơ thể làm ta phải chết.

- Quy luật của phát triển: cơ thể ta hằng ngày hằng giờ hằng phút đều bỏ đi những chất thải, bỏ đi một số tế bào già nua để thu nhận vào những chất dinh dưỡng, để sinh những tế bào mới. Nhờ đó cơ thể lớn dần lên. Trong quá trình phát triển, con người phải từng giai đoạn bỏ đi đứa bé sơ sinh, đứa trẻ con ấu trĩ… có thế mới phát triển dần thành người lớn.

- Quy luật của cải thiện: cải thiện là bỏ đi những cái chưa tốt để lấy vào những cái tốt hơn.

- Quy luật của tiếp nhận: có bỏ thì mới có nhận. Thí dụ ta có một cái chai đang đựng nước. Muốn có một lít rượu thì trước hết phải đổ bỏ một lít nước kia ra khỏi cái chai.

Chẳng những phải bỏ bớt, bỏ cái này, bỏ cái kia… mà có khi phải bỏ hoàn toàn, bỏ tất cả nữa. Chẳng hạn chiếc xe gắn máy của tôi đã hư quá nặng, nếu tiếp tục sử dụng thì có ngày sẽ gây tai nạn, có sửa bộ phận này bộ phận khác cũng không bảo đảm an toàn. Vì thế tôi phải bỏ hẳn để mua một chiếc xe khác. (sợi chỉ đỏ).

Làm môn đệ Chúa Giêsu là làm một người khác hẳn, cho nên không lạ gì khi Người bảo chúng ta phải “từ bỏ mình“. Cái phần “mình” được bỏ đi bao nhiêu thì cái phần “Chúa” được gia tăng bấy nhiêu. “Từ bỏ mình” hoàn toàn thì sẽ trở thành “Kitô khác” hoàn toàn.

Như thế từ bỏ nhưng không mất, mà lại được; không thiệt thòi mà lại có lợi hơn.

3. Theo Chúa là đi vào con đường sự sống

Theo Chúa Giêsu là đi vào con đường thánh giá dẫn đến phục sinh. Con đường từ bỏ là con đường dẫn đến vinh quang. Phải qua sự chết mới đến sự sống. Phải qua tủi nhục mới đến vinh quang. Phải qua gian khổ mới đến hạnh phúc. Khi mời gọi “Hãy theo Thầy”, Chúa muốn chúng ta triển nở đến viên mãn.

Theo Thầy Giêsu, các môn đệ bị người đời chê là khờ dại vì sống từ bỏ và vác thập giá hàng ngày. Thế nhưng họ vui mừng sống một nghịch lý căn bản “mất mạng sống mình vì Thầy“. Con người ta cứ tưởng rằng, chiếm hữu càng nhiều thì càng làm cho mình giàu có thêm. Thực ra, chẳng có gì quí hơn mạng sống. Nhiều người đánh đổi mạng sống để có của cải vật chất. Thực tế chưa ai giàu có đến nỗi làm chủ được cả trần gian. Nhưng “nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình ?” (Mt 16,26). Chỉ một cách duy nhất có thể tìm lại được mình là “mất mạng sống mình vì Thầy” (Mt 16,25). Như thế, phải chăng Thầy có sức thu hút khiến người ta không thể cưỡng lại được ? Giống như ngôn sứ Giêrêmia, họ phải thốt lên : “Lạy Ðức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng” (Gr 20,7). Thầy có sức quyến rũ mãnh liệt, vì đã vận dụng được nghịch lý của cây thập giá để “ngày thứ ba sẽ chỗi dậy” (Mt 16,21) từ cõi chết. Cả thế giới cũng không đem lại sự sống. Chỉ một mình Thầy mới có thể làm cho người môn đệ “tìm được mạng sống ấy” (Mt 16,25), vì Thầy là “sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25). Bởi thế, Thầy có sức quyến rũ hơn cả vũ trụ vì Thầy là “con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6).

Lời Chúa hôm nay gởi đến cho chúng ta sứ điệp: từ bỏ không phải để mất mà để được, được lại một cách sung mãn, hoàn hảo và cao cả phong phú hơn gấp bội. Mất hiện tại để được tương lai. Mất đời này để được đời sau. Mất phàm tục để được thần thiêng. Mất tạm bợ để được vĩnh cửu.

Thánh Phanxicô Assisi đã cảm nghiệm sâu xa chân lý này nên đã thốt lên lời ca bất hủ: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.

Các vị tử đạo là những người say mê sự sống, đến nỗi dám chấp nhận cái chết. Các ngài coi trọng sự sống vĩnh cửu của mình hơn cả thế giới phú quý vinh hoa.

Cầu nguyện

“Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã chịu chết và sống lại, xin dạy chúng con biết chiến đấu trong cuộc chiến mỗi ngày để được sống dồi dào hơn.

Chúa đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc đời cũng như mọi đau khổ của thập giá, xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn.

Xin dạy chúng con biết rằng, chúng con không thể nên hoàn thiện nếu như không biết từ bỏ chính mình và những ước muốn ích kỷ.

Ước chi từ nay, không gì có thể làm cho chúng con khổ đau và khóc lóc chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa Phục Sinh.

Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha, là hy vọng hạnh phúc bất diệt, là ngọn lửa tình yêu nồng nàn; xin lấy niềm vui của Người mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ và trở thành mối dây yêu thương, bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen.” (Mẹ Têrêxa Calcutta).

[Mục Lục]

Bài 11. BÀI HỌC VỠ LÒNG CỦA CÁC MÔN ĐỆ CHÚA GIÊ-SU

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

Bài giáo lý cơ bản và sơ đẳng nhất của các Sách Phúc âm là nhận biết Chúa Giê-su là Ai và muốn đi theo Người thì phải đi con đường nào? Lời tuyên tín của Phê-rô “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” trong bài Phúc Âm tuần trước (Mt 16,16) là câu trả lời cho vế thứ nhất. Những lời công bố của Chúa Giê-su “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” trong bài Phúc âm hôm nay (Mt 16,24) là lời giải đáp cho vế thứ hai. Con đường từ bỏ chính mình và vác thập giá mình mà theo Chúa Giê-su chính là bài học vỡ lòng của các môn đệ Chúa Giê-su là các Ki-tô hữu. Bài học thật dễ hiểu nhưng không dễ thực hành chút nào, vì đi ngược với xu hướng tự nhiên của con người là muốn có thêm chứ không muốn mất đi, là thích hưởng thụ chứ không thích hy sinh từ bỏ!

II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH

2.1 Trong bài đọc 1 (Gr 20,7-9): Vì Lời Đức Chúa mà con đây bị sỉ nhục.

2.2 Trong bài đọc 2 (Rm 12,1-2): Anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động.

2.3 Trong bài Tin Mừng: Mt 16,21-27: Ai muốn theo Thầy, phãi từ bỏ chính mình.

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH

3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:

- Là Đấng đã dùng sức mạnh (quyền năng) mà “quyến rũ”, “lôi cuốn” Giê-rê-mi-a vào sứ mạng và chức vụ làm ngôn sứ là nói lời Thiên Chúa cho vua chúa quan quyền cũng như cho dân chúng Ít-ra-en biết đường lối của Người mà tuân giữ. Để chu toàn trách nhiệm khó khăn ấy nhiều khi ngôn sứ phải nói thẳng, phải lên tiếng cảnh cáo nặng lời. Và vì thế mà bị người đời ghét bỏ. Nhưng dù gặp chống đối, Giê-rê-mi-a cũng không làm sao rời xa được sứ mạng vì dường đã như ngôn sứ được Thiên Chúa mê hoặc (= chinh phục) rồi

- Là Chúa Giê-su, Đấng đã từ từ biểu lộ cho các tông đồ biết căn tính hay chân tướng của mình và mời gọi họ bước theo Người. Vì là Thiên Chúa, nên Chúa Giê-su biết trước và biết rõ từng chi tiết những sự kiện sẽ xẩy ra trong cuộc Khổ Nạn. Người nói ra những điều ấy không phải để hù dọa các môn đệ mà để sau này, sau khi các sự việc đã xẩy ra, các môn đệ nhớ ra là Người đã tiên báo trước cả rồi mà tin vào Người. Cùng lúc Người vạch ra con đường cho những ai muốn bước theo Người, muốn trở thành môn đệ Người: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.”

- Là Chúa Thánh Thần, Đấng hiện diện và cùng hành động với Chúa Cha khi Thiên Chúa kêu gọi Giê-rê-mi-a và giao sứ mạng cho ông cũng như khi ông thực hiện sứ mạng nói lời Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần cũng là Đấng luôn ở nơi Chúa Giê-su khi Người mạc khải Cuộc Khổ Nạn Thập Giá và vạch ra con đường bỏ mình và vác thập giá cho những ai muốn làm môn đệ Chúa Giê-su và mời gọi họ bước theo.

3.2 Sứ điệp của Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?):

Qua ba bài Sách Thánh, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.”

IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI

4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, như môn đệ sống với Thầy. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và tuyệt đối tin cậy !

4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa hôm nay bằng ba cách sau đây:

Một là từ bỏ chính mình: là không lấy mình, mà lấy người khác, làm trung tâm của mọi suy nghĩ, lời nói và hành động của mình. Nghĩa là lấy người khác làm đối tượng để mình yêu thương và phục vụ.

Hai là vác thập giá mình: là đón/chấp nhận mọi chuyện vui/buồn xẩy đến với mình, nhất là những chuyện mình không thích, không ưa, những chuyện đòi mình phải hy sinh, thiệt thòi, mất mát.

Ba là bước theo Thầy Giê-su: là đi vào con đường Thầy đã đi và đã vạch ra cho các môn đệ đi theo: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn dân” (Mc 10,45).

V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI

5.1 «Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho hết mọi người đang sống trên mặt địa cầu này, nhất là cho những người thành tâm thiện chí và hướng thượng, để họ nhận ra những điều tốt lành thiện hảo mà tìm kiếm.

X. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Đ. Xin Chúa nhận lời chúng con.

5.2 «Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Ki-tô – nhất là cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ Nam Nữ và mọi giáo dân -, để các Ki-tô hữu hiến dâng mình làm của lẽ thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa.

5.3 «Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho hết mọi người trong gia đình và giáo xứ/cộng đồng chúng ta để mọi người có lòng khát khao sống theo Thầy Giê-su Chí Thánh mà đi vào con đường thập giá cứu độ.

5.4 «Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?»Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người chạy theo danh vọng, chức quyền, của cải và lạc thú trần gian, để họ nhận thức rằng sau cuộc sống đời này còn có cuộc sống đời sau mới là cuộc sống vĩnh cửu.

[Mục Lục]

Bài 12. Tính cách

Trầm Thiên Thu

Tính cách là tính chất, là đặc điểm nội tâm của mỗi con người, có ảnh hưởng trực tiếp đến cách suy nghĩ, lời nói và hành động của người đó. Trong văn nói, tính cách gọi là “tính tình” hoặc nói gọn là “tính” – tính hiền, tính thẳng thắn, tính giản dị,… Một người có thể có nhiều tính cách và nhiều người có thể có cùng một tính cách.

Tính cách là yếu tố quan trọng của một con người. Người ta thường đánh giá các động thái – đôi khi kể cả cách suy nghĩ – của một người, từ đó suy ra tính cách của người đó, cuối cùng là kết luận về bản chất của người đó.

Thường thì tính cách được chia làm hai loại: tính tốt và tính xấu. Tốt và xấu là theo quan niệm của đa số. Tuy nhiên, đối với những tính cách mà số người cho là xấu bằng số người cho là tốt, hoặc không ai cho là tốt hay xấu gì cả, chúng ta nên xem xét lại trong từng trường hợp cụ thể hoặc “gắn” cho nó cái quan niệm trung lập.

Cha mẹ sinh con, Trời sinh tính. Người ta không thể hiểu hết một con người, có gọi là “đi guốc trong bụng” thì cũng chỉ là một phần mà thôi. Ngay cả vợ chồng sống nên “một xương, một thịt” với nhau vài chục năm rồi mà cũng chẳng hiểu hết tính tình của nhau. Và rồi vì không hiểu hết nhau, người ta đâm ra dị đoan bằng cách đoán tính cách qua giờ sinh, ngày sinh, năm sinh, chòm sao,… Hoàn toàn vô ích!

Trong cuộc sống đời thường, ai cũng thích may mắn và sợ xui xẻo, thế nên người ta thường nói: “May hơn khôn”. Điều gì xảy ra hợp ý mình thì người ta cho đó là may mắn, là hên; điều gì xảy ra không hợp ý mình thì người ta cho đó là xui xẻo. Thật ra chẳng có gì là hên hoặc xui, chỉ là cách so sánh của con người mà thôi. Tuy nhiên, sách Huấn Ca cho biết:“Người khôn ngoan biết thinh lặng chờ dịp tốt, còn kẻ bép xép, dại khờ lại bỏ lỡ cơ may. Kẻ nhiều lời sẽ bị chán ghét, người hiếu thắng thì bị khinh chê” (Hc 20:7-8). Người ta cũng thường nói: “Mình tính không bằng trời tính”. Một khái niệm đầy chất tâm linh. Rõ ràng tất cả đều là Ý Chúa. Thật vậy, có những mơ ước cháy bỏng nhưng rồi tan thành mây khói, có những điều mình không dám nghĩ tới thì lại xảy ra bất ngờ.

Thật vậy, có những điều “trời cho” mà chỉ là “trò chơi”, nhưng có những điều tưởng chỉ là “trò chơi” thì lại là điều “trời cho”. Thực tế cho chúng ta thấy có những điều nghịch lý mà lại “thuận” – gọi là nghịch-lý-thuận, và có những điều thuận lý mà lại “nghịch” – gọi là thuận-lý-nghịch. Một điều hiển nhiên: Thập Giá là đau khổ, là xui xẻo, nhưng chính Thập Giá lại trở nên hạnh phúc, là cái hên. Con người không thể hiểu hết hoặc biết chính xác. Hên hoặc xui, may mắn hoặc không may mắn, đó chỉ là quan niệm của con người mà thôi. Ngay cả khoa tâm lý học cũng chỉ suy luận từ những gì đã xảy ra nhiều lần ngẫu nhiên trùng hợp.

Kinh Thánh cũng đề cập những điều nghịch lý: “Có khi lâm nạn lại thành công, gặp may mà hoá thiệt thòi” (Hc 20:9). Vì không biết vấn đề ra sao nên chúng ta gọi là “hên – xui”. Có một câu chuyện mà chắc hẳn nhiều người đã biết: Tái Ông mất ngựa. Chẳng biết đâu là hên hoặc xui. Cái mà chúng ta gọi là xui thì lại là hên, cái mà chúng ta cho là tốt thì có thể lại là xấu. Chỉ có Thiên Chúa biết, vì Ngài quản lý và sắp xếp mọi sự. Ngay cả những gì chúng ta cho là tự nhiên thì cũng chẳng tự nhiên, mà là cách sắp đặt của Thiên Chúa – tức là Ngài quan phòng và tiền định. Chúa biết tức là Ý Chúa muốn điều đó xảy ra cho chúng ta – dù chúng ta cho đó là hên hoặc xui: “Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi” (Lc 12:7).

Thiên Chúa toàn năng, quan phòng và tiền định. Chúng ta không thể nào hiểu hết Ý Chúa nhiệm mầu, vì thế chúng ta chỉ có thể cúi đầu và thân thưa: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước. Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện, để thấy uy lực và vinh quang của Ngài” (Tv 63:2-3). Chúng ta làm như vậy không phải vì miễn cưỡng hoặc “bị triệt buộc”, mà vì khiêm nhường chân nhận Thiên Chúa duy nhất. Tác giả Thánh Vịnh vừa lý giải vừa xác tín đại diện cho mỗi chúng ta: “Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương. Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng, và giơ tay cầu khẩn danh Ngài. Lòng thoả thuê như khách vừa dự tiệc, môi miệng con rộn rã khúc hoan ca” (Tv 63:4-6).

Niềm vui trào dâng, chúng ta thật hạnh phúc trong Chúa: “Quả thật Ngài đã thương trợ giúp, nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui. Trót cả tâm tình, con cùng Ngài gắn bó, giơ tay quyền lực, Ngài che chở phù trì” (Tv 63:8-9).

Tính cách của mỗi Kitô hữu phải là sống khiêm nhường. Không khiêm nhường sao được, vì chúng ta chỉ là tội nhân khốn nạn, đáng án tử, nhưng lại được Thiên Chúa thương xót nâng lên khỏi chốn bùn nhơ hôi tanh để được làm con cái của Ngài. Phép lạ lớn quá! Chúng ta đang “bị xui” mà “gặp hên” vì Thiên Chúa nhân hậu. Đó là chúng ta thực sự “gặp may”. Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người. Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12:1-2).

Để đáp lại lòng thương xót vô biên và vô điều kiện của Chúa, chúng ta phải tự chấn chỉnh đời sống, tu tâm sửa tính, thay đổi tính nết để có thể hoàn thiện mỗi ngày một hơn như lòng Chúa mong muốn: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Ai biết thay đổi tính cách không chỉ có lợi về phương diện xã hội đời thường – được người khác quý mến, mà còn có lợi cả về phương diện tâm linh – được Thiên Chúa thương xót.

Người ta ghét cay ghét đắng đến nỗi giết chết Đức Giêsu Kitô vì Ngài có tính cách “khác người”, nhưng rất độc đáo: Thẳng thắn, cương trực, nhưng khiêm nhường và nhân hậu. Ngài nói ít mà làm nhiều. Ngài rất ghét những người ba hoa, nói hay mà làm dở, ưa chỉ tay năm ngón, thích ăn trên ngồi trước, phe cánh, ưa hình thức, tự tôn, ra vẻ ta đây,… Nói chung là những dạng giả hình, những người có “máu” Pharisêu (Mt 23:2-7; Mc 12:38-40; Lc 11:39-46; Lc 11:52; Lc 20:45-47). Với những người khoái làm “ông này, bà nọ”, Ngài nói thẳng:“Hãy phục vụ, đừng hưởng thụ” (Mt 20:28; Mc 10:45). Tuy nhiên, thực tế người ta chỉ thích vế thứ hai, chứ không muốn đề cập vế thứ nhất!

Một hôm, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. Vốn dĩ ngư dân chân chất, tính nóng như Trương Phi và thẳng như ruột ngựa, ông Phêrô liền kéo riêng Ngài ra và bắt đầu trách: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16:22).

Có lẽ ông Phêrô tưởng sẽ được cảm ơn, ai dè Đức Giêsu quay lại “phang” liền: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16:23). Thầy kỳ ghê đi! Phêrô là “tổ trưởng” mà Thầy cũng chẳng nể nang chi ráo trọi. Không thể được! Tính cách của Chúa Giêsu là “thẳng thắn thật thà”, không phải cứ làm lớn thì có thể làm láo, càng lớn càng phải làm gương.

Có thể nói rằng Chúa Giêsu không nguyền rủa ai nặng như lời trách dành cho Phêrô, giáo hoàng tiên khởi. Phải bị vậy thì Phêrô mới không dám lên mặt, phải xem lại mình mà khiêm nhường. Chúng ta cũng có những lúc đã từng “ảo tưởng” như ông Phêrô, cứ nghĩ mình “ngon” hơn người khác về lĩnh vực này hoặc phương diện nọ, nhưng thực ra chỉ là “thùng rỗng kêu to”, đôi khi còn quá lố nên bị hố.

Về điều kiện phải có để làm môn đệ, Đức Giêsu nói: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16:24-26). Chắc chắn chẳng có ai ra điều kiện “ngược đời” và “chói tai” như Chúa Giêsu. Thường thì khi muốn người khác về phe với mình, người ta đưa ra những điều kiện “béo bở”, được lợi này ích nọ, chứ chẳng ai dám hứa hẹn về sự đau khổ. Các công ty muốn có nhân viên giỏi thì hứa hẹn lương bổng cao, các tổ chức muốn có nhiều thành viên thì hứa hẹn nhiều lợi lộc (cả lợi và lộc). Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược. Ấy vậy mà càng ngày người ta càng nghiệm ra “ẩn số” trong tính cách độc đáo của Ngài và muốn theo Ngài tới cùng. Lạ thật!

Khi sinh thời, ông Mohandas Karamchand Gandhi (1869–1948), một nhà ái quốc chủ trương bất bạo động, được dân Ấn Độ coi là người cha (Bapu) và thánh sống (Mahatma), cũng đã từng thần tượng Chúa Giêsu sau khi đọc Kinh Thánh, đặc biệt là Bài Giảng Trên Núi (Bát Phúc, tám Mối Phúc). Quả thật, chỉ có người giỏi mới nhận ra tài năng độc đáo và cái giỏi của người khác. Người ta càng giỏi càng tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.

Với các môn đệ và những người muốn theo Ngài, Chúa Giêsu không hứa hẹn mà chỉ giải thích: “Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm” (Mt 16:27). Thời cánh chung đang dần thu ngắn lại, hãy hoán cải để được cứu độ!

Lạy Chúa, xin mở mắt đức tin của chúng con để chúng con biết hoán cải như lòng Ngài mong muốn. Con đường dài nhất là con đường từ miệng tới tay, xin giúp chúng con biết làm đúng với lời nói chứ không giả hình. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

[Mục Lục]

Bài 13. Chúa Giêsu Kitô là ai?

Radio Veritas Asia

Có một bài thơ cổ do tác giả vô danh về “Trang Giấy Gấp Lại”. Bài thơ này bằng tiếng Anh, nên khi chuyển dịch sang tiếng Việt, chúng ta chỉ đọc lấy ý mà thôi, đại ý bài thơ như thế này:

“Trên gác nhỏ ngôi nhà mái lá

Những giọt mưa trên mái lá.

Tôi vẫn mở những quyển tập cũ

Bất chợt cho tôi gặp thấy

Một trang tập đã bị gấp lại

Và bên ngoài tôi đọc thấy

Dòng chữ do chính tay tôi viết

Lúc còn thiếu thời như sau:

Thầy giáo chúng ta bảo ta rằng,

Hãy tạm gác lại vấn đề.

Vì ở đây ngay trong lúc này

Nó quả thật là khó hiểu.

Tôi mở trang tập bị gấp lại

Đọc vấn đề tôi đã viết,

Mỉm cười tôi gật đầu rồi nói

Đúng vậy, thầy giáo nói có lý

Bây giờ tôi mới hiểu ra.

Có nhiều trang sách của cuộc đời

Đã ghi lại thật khó hiểu.

Bây giờ ta hãy xếp lại đây

Và để lại nơi bên ngoài.

Thầy cao cả của chúng ta bảo

Hãy để những vấn đề này nằm yên,

Vì chúng thật khó hiểu,

Rồi ngày kia trên thiên đàng

Chúng ta hãy mở ra và đọc,

Rồi chúng ta có thể nói

Thầy cao cả thật là có lý,

Bấy giờ chúng ta mới hiểu.

Bài thơ này như là một kinh nghiệm sống, có những điều bây giờ trong cuộc đời chúng ta không thể hiểu, trên thiên đàng, đọc lại chúng ta sẽ hiểu. Điều Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong Phúc Âm hôm nay quả thật là khó hiểu, khó hiểu cho các ngài và cũng khó hiểu cho chúng ta hôm nay khi phải đối diện với điều mà Chúa Giêsu gọi là thập giá trong cuộc đời: “Ai muốn theo Thầy hãy từ bỏ mình vác Thập Giá mình mà theo Thầy”.

Bài Phúc Âm hôm nay trích liền với bài Phúc Âm tuần trước (x. Mt 16,12-23) trả lời cho câu hỏi: “Các con bảo Thầy là ai?”, thánh Phêrô đã nhanh nhẹn trả lời: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”. Đây là một lời tuyên xưng Đức Tin trọn vẹn, nhưng không phải do tự sức người của Phêrô mà là do ơn mạc khải của Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu lúc đó đã khen Phêrô là kẻ: “Có phúc”, vì được Thiên Chúa Cha chúc phúc mạc khải cho biết sự thật về Chúa Giêsu, và liền đó có thể nói chúa Giêsu đã lên chức cho Phêrô, đặt ngài làm đá tảng nâng đỡ trọn vẹn Giáo Hội của Chúa: “Phêrô con là đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy”.

Nhưng sau đó, Phêrô đã không hiểu và sống trọn vẹn điều ngài đã tuyên xưng. Phêrô đã sa ngã và trở lại theo tâm thức tầm thường của con người, là không chấp nhận Thầy cao cả về quyền năng mà bị hạ nhục, bị giết chết trên thập giá ở Giêrusalem. Vì thế, khi nghe Chúa nói về cuộc khổ nạn của Ngài tại Giêrusalem, thánh Phêrô đã cản đường: “Lạy Thầy không thể thế được, Thầy sẽ chẳng phải như vậy đâu!”. Nhưng Chúa Giêsu trách Phêrô là Satan, là kẻ cản đường, là kẻ thù của Chúa, không hiểu trọn vẹn về Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa Nhập Thể chịu đóng đinh, chịu chết và sống lại.

Con đường cứu rỗi phải đi qua thập giá, Chúa Giêsu đã đi trọn vẹn con đường này và Ngài cũng muốn cho đồ đệ của Ngài đi theo con đường đó: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mà theo Ta”. Thầy Cao Cả của chúng ta có lý, bây giờ chúng ta không thể hiểu. Chúng ta chỉ hiểu khi chúng ta được gặp Ngài trên thiên đàng như bài thơ đã nói: “Thầy Chúng Ta Thật Có Lý”, khi chúng ta mở lại những trang cuộc đời của mình với những khó khăn, những thập giá, những điều khó hiểu trên thiên đàng.

Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng con can đảm, trung thành cho đến cùng mà đi trọn con đường Chúa muốn cho mỗi người đi qua, con đường này không phải chỉ với những vinh quang mà thôi, nhưng với nhiều thập giá đau khổ.

Trong bài đọc II hôm nay (Rm 12,1-12), thánh Phaolô Tông Đồ đã mời gọi mỗi người hãy dâng hiến đời mình làm của lễ sống động và thánh thiện làm đẹp lòng Thiên Chúa. Chúng ta hãy dâng hiến trọn cuộc đời làm của lễ dâng hiến sống động, thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa.

Xin Chúa giúp chúng con củng cố đức tin mà chúng con tuyên xưng qua kinh Tin Kính.

[Mục Lục]

Bài 14. Mất trước được sau

ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt

Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất. Nhưng làm thế nào để được và không mất thì không phải ai cũng biết cách làm. Vì không phải cứ thu vào là được. Không phải cứ buông ra là mất. Trái lại rất nhiều khi phải chịu mất trước rồi mới được sau. Mất nhỏ để được lớn. Mất ít để được nhiều. Đó hầu như là qui luật trong đời sống hằng ngày. Ta dễ hiểu điều này trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay. Nhà đầu tư muốn được lợi nhuận cao, sẽ không giữ kỹ tiền của trong nhà, buộc chặt lại rồi đem chôn giấu đi, trái lại phải huy động hết vốn liếng hiện có trong nhà đổ vào đầu tư. Vốn lớn thì lời mới lớn.

Muốn được phải chịu mất trước. Đời sống đạo đức không đi ra ngoài qui luật đó. Chúa Giêsu dạy ta: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mà theo”.

Đi theo Chúa là đi vào con đường của Chúa.

Con đường của Chúa là con đường từ bỏ. Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc từ bỏ không ngừng. Từ bỏ trời để xuống đất. Từ bỏ địa vị Thiên Chúa để làm người. Từ bỏ cuộc sống an nhàn nơi thôn làng để đi vào cuộc phiêu lưu rao giảng Tin Mừng. Từ bỏ cứu thế bằng con đường dễ dãi do ma quỉ xúi giục, để đi vào con đường chật hẹp khó khăn theo ý Đức Chúa Cha. Cuộc từ bỏ cam go nhất chính là từ bỏ ý riêng mình. Đó là một cuộc chiến khốc liệt khiến Người phải toát mồ hôi máu. Nhưng Người đã đi đến cùng con đường từ bỏ. Hình ảnh Người chết trần trụi trên thánh giá là hình ảnh một người từ bỏ tất cả đến tận cùng. Không còn một chút hơi thở. Không còn một giọt máu. Không còn một chút danh dự. Không còn gì cả.

Con đường của Chúa là con đường thánh giá. Người đã ôm lấy thánh giá và vác. Không phải chỉ là thánh giá gỗ trên đường lên Núi Sọ, nhưng là thánh giá cuộc sống trải dài suốt đời người. Thánh giá kiếp người. Thánh giá kiếp nghèo. Thánh giá bị chống đối. Thánh giá bị hiểu lầm. Thánh giá bị bỏ rơi. Thánh giá bị phản bội. Thánh giá thách thức. Thánh giá thất bại. Thánh giá oan ức. Thánh giá tủi nhục. Thánh giá cô đơn. Thánh giá nặng lắm nên nhiều lần Người đã ngã xuống. Thánh giá ghê sợ lắm nên Người đã có lần muốn chối bỏ. Nhưng rồi Người lại đứng lên tiếp tục vác đi cho đến cùng, cho trọn con đường.

Nhưng nếu đường của Chúa Giêsu chỉ dừng tại đây thì đó là một con đường bế tắc. Nếu định mệnh của Chúa Giêsu kết thúc tại Núi Sọ thì đó là một định mệnh diệt vong. Không! con đường của Chúa còn là con đường phục sinh. Định mệnh của Chúa là một định mệnh vinh quang.

Con đường thánh giá là con đường dẫn đến phục sinh. Con đường từ bỏ là con đường dẫn tới vinh quang. Phải qua sự chết mới đến sự sống. Phải qua tủi nhục mới đến vinh quang. Phải qua gian khổ mới đến hạnh phúc. Thánh Phaolô đã hiểu biết tường tận con đường của Chúa nên đã nói: “Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chuá mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Chúa Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2, 6-11).

Cũng thế, khi mời gọi ta bước theo Người, Người không muốn ta đi vào tàn lụi diệt vong, nhưng muốn ta triển nở đến viên mãn. Nên Người nói tiếp: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”.

Như thế từ bỏ không phải để mất mà để được, được lại một cách sung mãn, hoàn hảo và cao cả phong phú hơn gấp bội. Mất hiện tại để được tương lai. Mất đời này để được đời sau. Mất phàm tục để được thần thiêng. Mất tạm bợ để được vĩnh cửu.

Thánh Phanxicô Khó Nghèo đã cảm nghiệm sâu xa chân lý này nên đã thốt lên lời ca bất hủ: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.

Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình để được chính Chúa, nguồn mạch hạnh phúc của con.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Mất trước được sau. Bạn áp dụng câu này trong đời sống đạo thế nào?
2) Chúa Giêsu mời gọi: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo”. Bạn nghĩ sao về đòi hỏi này của Chúa, có quá khắt khe không?
3) Hạnh phúc không có sẵn nhưng phải phấn đấu mới đạt được. Bạn có tâm đắc điều này không
?

[Mục Lục]

Bài 15. Đau khổ và hạnh phúc

Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Cuộc đời luôn có đau khổ và hạnh phúc. Hai trạng thái này luôn đan quyện vào một đời người. Con người vốn dĩ sợ đau khổ và mong tìm hạnh phúc. Thế nhưng đau khổ lại cứ bám riết lấy đời người, còn hạnh phúc lại thật mong manh.

Phật Thích Ca khi nhìn vào cuộc đời chỉ thấy toàn là bể khổ. Sinh – bệnh – lão – tử dường như là định mệnh bể khổ dành cho con người. Phật Thích Ca đã đưa ra một con đường giải thoát chúng sinh khỏi bể khổ. Đó là con đường diệt dục. Diệt mọi lòng ham muốn mới mong tìm được hạnh phúc.

Biết bao nhà lãnh tụ các quốc gia luôn nỗ lực hạn chế nỗi khổ và gia tăng niềm vui hạnh phúc cho người dân.

Phải chăng là một nghịch lý khi Đức Giêsu đề nghị ta hãy đi vào đau khổ? Phải chăng Ngài chỉ muốn các tín đồ của Ngài sống trong đau khổ?

Nhìn vào cuộc đời của Chúa, đó là một cuộc đời đi vào đau khổ. Từ trời cao Ngài đã đi vào dòng đời trong thân phận con người. Sinh ra trong thân phận thấp hèn, nghèo khó, thuộc giai cấp cùng đinh và hòa lẫn trong giới lao động cùng khổ. Ngài đến trần gian không nhằm mục đích xóa bỏ đau khổ mà là hiện diện cùng với những con người đau khổ. Suốt 30 năm sống đời ẩn dật trong một xóm nghèo lao động. Phải chăng Ngài đã phí thời gian khi ở với gia đình, khi cùng với cha mẹ lao động để kiếm sống như bao con người khác? Tại sao Ngài đã làm phép lạ hóa bánh nuôi trên năm ngàn người ăn mà lại phải chắt chiu từng hạt cơm, chén mắm từ công thợ khi có khi không?

Bài Phúc âm hôm nay còn cho thấy, khi danh tiếng Ngài đã vang dội khắp nơi. Uy tín Ngài đã bao trùm mọi nơi. Khi mọi người chỉ còn chờ Ngài đi vào thành Giêrusalem là họ sẽ tung hô Ngài làm vua để giải thoát dân khỏi cảnh đói khổ lầm than. Thế mà Ngài lại nói đến đau khổ và sự chết. Ngài còn đòi hỏi các môn sinh của mình phải từ bỏ danh lợi thú để đi vào con đường thập giá, con đường mà nhiều người đang muốn vượt ra, nay Ngài lại mời gọi đi vào.

Tuy nhiên, con đường Chúa Giêsu đi không dừng lại ở đau khổ và sự chết. Nếu kết thúc cuộc đời của Ngài chỉ dừng lại ở bi kịch thập giá thì cửa mồ của sự chết sẽ khép lại toàn bộ sự nghiệp của Ngài đã vun trồng. Ngài đã đi qua đau khổ để tiến tới vinh quang. Ngài đã đi qua sự chết để mở ra cánh cửa phục sinh vinh hiển. Giá trị đau khổ Ngài chịu đã đem lại niềm vui cứu độ cho toàn thể nhận loại. Sự chết của Ngài đã khai mở cánh cửa thiên đàng cho tất cả những ai tín trung theo Ngài.

Con đường Chúa Giêsu đã đi không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang. Đó là con đường hẹp và đầy chông gai. Con đường từ bỏ hằng ngày. Từ bỏ thiên tính của mình để hòa nhập với khối đông của nhân loại. Từ bỏ quyền lợi của mình để phục vụ lợi ích nhân loại. Từ bỏ những tiện nghi vật chất để sống rầy đây mai đó, để thi ân giáng phúc cho tha nhân. Đó là con đường Ngài mời gọi chúng ta. Hãy từ bỏ lòng tự cao tự đại để sống hòa đồng với anh em. Hãy từ bỏ lòng tham của danh lợi thú để sống thanh khiết và công bình bác ái với tha nhân. Từ bỏ đòi hỏi hy sinh. Hy sinh bản thân để đem lại niềm vui cho tha nhân. Hy sinh thời giờ để phục vụ anh chị em chung quanh. Từ bỏ và hy sinh không làm cho ta bé nhỏ đi nhưng được lớn lên và trưởng thành hơn. Một người trưởng thành là một người biết hy sinh và nhường nhịn cho người nhỏ hơn. Một người được gọi là trưởng thành là người dám lãnh lấy trách nhiệm với gia đình và với xã hội.

Thế nên, sợ hãi đau khổ là sợ hãi trách nhiệm. Trốn chạy đau khổ là trốn tránh trách nhiệm. Kẻ sợ hãi trách nhiệm đó là người vô dụng, và người trốn tránh trách nhiệm chỉ là gánh nặng cho gia đình và xã hội.

Là người kytô hữu, Chúa mời gọi chúng ta vác lấy thập giá hằng ngày của mình mà theo Chúa. Thập giá ở đây là chính bổn phận và trách nhiệm trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Người chồng và người vợ phải có bổn phận và trách nhiệm quan tâm, lo lắng và đem lại hạnh phúc cho nhau. Người cha và người mẹ phải có bổn phận và trách nhiệm nuôi nấng, dạy dỗ con cái nên người. Con cái phải có bổn phận thảo hiếu, kính yêu và vâng lời cha mẹ, đồng thời cũng biết chia sẻ trách nhiệm với gia đình trong khả năng và sức lực của mình.

Nếu mỗi người đều biết chu toàn bổn phận của mình một cách ý thức và trách nhiệm là chúng ta đang trồng cây hạnh phúc ở giữa gia đình và xã hội mà chúng ta đang sống. Thập giá của bổn phận sẽ không còn là nỗi khổ mà là niềm vui, vì chúng ta đang cống hiến tài sức và trí tuệ của mình để đem lại hạnh phúc cho gia đình và xã hội. Ngược lại, nếu chúng ta bỏ bê và thiếu trách nhiệm trong bổn phận là chúng ta đang hủy diệt cây hạnh phúc và trồng cây Thập giá đau khổ cho gia đình cũng như xã hội.

Xin Chúa giúp chúng con biết noi gương bắt chước Chúa luôn can đảm đón nhận thập giá của bổn phận hằng ngày đối với Chúa và tha nhân. Cho dẫu có chịu nhiều thiệt thòi mất mát khi phải chu toàn bổn phận với Chúa và tha nhân, vì “được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào ích gì? Amen.

[Mục Lục]

Bài 16. Sống mầu nhiệm Thập Giá

Cố Lm. Hồng Phúc

Phúc Âm Thánh Matthêô mô tả diễn tiến cuộc đời của Chúa và đoạn đường ở Cêsarê Philipphê là một khúc quanh lịch sử. Chúa đi về phía cực bắc xa thành Giêrusalem “hay giết các tiên tri”. Bỗng nhưng Ngài quyết định quay trở lại. Ngài tỏ cho các môn đệ biết rằng “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ hào, luật sĩ và thượng tế, sẽ bị giết và ngày thứ ba thỉ sống lại”. Mấy lúc gần đây, lời tiên tri về “người tôi tớ đau khổ” hay phảng phất trong trí khôn Ngài, trong khi các môn đệ không hay biết gì cả. Ngài quyết định bầy tỏ rõ ràng những gì sắp xẩy ra. Đối với Ngài, việc phải đến sẽ đến, vì đó là Thiên Ý Chúa Cha và Ngài là “tôi tớ”, là Con sẽ thực hiện tất cả.

Nhưng khi Ngài vừa tiết lộ tất cả sự thật thì Phêrô, con người vừa được đặt làm nền tảng Giáo hội và được trao cho chìa khóa Nước Trời đã đứng lên phản đối. Ông kéo Thầy ra một nơi để can gián: “Lạy Thầy, không thể thế được”. Chúa Giêsu phản ứng lại mạnh mẽ: “Hỡi Satan, hãy lùi ra đàng sau, con làm cớ cho Thầy vấp phạm”. Lần này, chính “xác thịt và máu huyết” đã soi sáng cho Phêrô. Phêrô không hiểu nổi mối tương quan mật thiết giữa Cha và Con, giữa ý muốn của Cha và Con. Ngày xưa, nguyên tổ nhân loại đã nói lên hai chữ “bất tuân”, ngày nay Con Thiên Chúa đáp lại bằng hai chữ “xin vâng”, cho dầu phải đau khổ tột độ, cho dầu phải để cứu vãn nhân loại. Đây là lần đầu tiên Chúa loan báo cuộc Tử nạn của Ngài.

Cũng trong giòng tư tưởng đó, Chúa Giêsu, theo Matthêô đã nói lên luật hy sinh cho những ai muốn làm môn đệ, gồm 3 điểm: từ bỏ mình, vác thập giá, và theo Chúa. Ba điểm đó, tuy là ba nhưng cũng chỉ là một: theo Chúa trên con đường khổ giá. Chúa lấy sự nhẫn nại đau khổ như một điều kiện để theo Ngài, làm đồ đệ Ngài. Ngài long trọng tuyên bố: “Ai muốn theo Ta thì hãy bỏ mình, vác Thập giá và theo Ta” (Mt 16, 24).

Chúa phán cùng các Tông đồ: “Này, chúng ta lên Giêrusalem”. Chúa không nói: Thầy lên Giêrusalem, mà chúng ta cùng lên, nghĩa là cả Thầy, cả môn đệ, Chúa và chúng ta. Vì thế mà Thánh Phaolô cũng nói: “Tôi phải hoàn tất trong thân xác tôi những gì thiếu sót trong cuộc thương khó của Chúa Kitô” (Col 1, 24).

Tại Lộ Đức, hàng năm có cuộc hành hương của nhóm “Tự nguyện chịu đau khổ” do Đức Cha Novarese sáng lập. Họ đặt dưới chân Đức Mẹ những bó hoa đỏ để nói lên ý chí muốn thông phần vào cuộc tử nạn của Chúa. Và phép lạ lớn lao hơn cả mà Đức Mẹ đã làm cho bệnh nhân, không phải là 64 phép lạ được công nhận trong số 6000 được ghi nhận, mà là việc Đức Mẹ ban cho họ biết vui lòng lãnh nhận thánh giá.

Văn hào Mauriac nói: “Chúa Giêsu không đến để xóa bỏ đau khổ, nhưng Ngài đã đến để cùng hiện diện với người đau khổ”.

Lạy Chúa, xin cho con biết sống mầu nhiệm Thánh giá.

[Mục Lục]

Bài 17. Hai con đường

Lm Nguyễn Ngọc Long

Các con thương,

Ở tuổi thiếu niên ai trong các con cũng từng nghe những bài hát Con đường đến trường:“Một chiều đi trên con đường này, hoa điệp vàng trải dưới chân tôi, ngập ngừng trong tôi như thầm hỏi, đường về trường ôi sao lạ quá…”

Ngoài con đường đến trường, mỗi ngày các con còn đi trên nhiều con đường khác nữa: đường đến nhà thờ, đường đi chơi, đường đến siêu thị… rồi mỗi đường có những đặc điểm khác nhau: đường nhựa, đường đá sỏi, đường rộng, đường hẹp, có đường sình lầy nếu đi không cẩn thận sẽ xuống ao!…

Tâm lý bình thường ai cũng muốn đi đường nhựa rộng rãi, thích đi trên những con đường bằng phẳng thoải mái. Còn những con đường chật hẹp sình lầy ai cũng ngán và sợ hãi. Vừa qua Cha và một số cha đi đến vùng sâu vùng xa, trên những con đường vừa chật hẹp vừa sình lầy trơn trợt, tí nữa là cả người lẫn xe xuống kinh uống nước chết rồi…

Các con thương, con đường ở trần gian là như thế, còn con đường về nước trời thì thế nào? Có phải thênh thang rộng mở nhiều người muốn đi, và con đường xuống hoả ngục thì chật hẹp ít người muốn đến? Lời Chúa hôm nay muốn các con đi con đường nào?

Trong bài đọc 1, các con nghe lời than van của ông Giêrêmia: vì làm tiên tri cho Chúa, ông phải chịu biết bao nhiêu gian nan khốn khổ, nào là bị người khác chế nhạo, nào là bị phản đối, bị khinh chê thậm chí ông bị mưu sát nữa.. Và đã nhiều lần ông không muốn đi theo Chúa làm tiên tri nữa, ông không muốn làm theo ý Chúa nữa… nhưng ông đã không thể bỏ sứ mạng đó được vì Chúa đã lôi cuốn ông…

Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tiên báo mình sẽ phải chịu khổ hình, chịu người khác bắt bớ thế nào “Người sẽ đi Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ… sẽ bị giết chết và ngày thứ ba thì sống lại. Và Ngài còn mời gọi con người theo Ngài, đi với Ngài trên con đường thập giá với điều kiện: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”

Các con thương,

Con đường của Chúa Giêsu là con đường thập giá, con đường hy sinh và đau khổ. Chúa Giêsu đã đi đường này ngay khi Ngài xuống thế: chấp nhận sinh làm người phàm; đi trên con đường sang Ai Cập tránh sự truy sát của bạo chúa Hêrôđê, con đường rao giảng rày đây mai đó, Ngài đi trên đường tới Giêrusalem, con đường thập giá tiến về núi Sọ- con đường cứu độ. Tất cả chuẩn bị cho con đường về trời ngự bên hữu Chúa Cha.

Con đường đó các tông đồ và các thánh cũng đã theo, Giáo hội ngày hôm nay đang tiếp bước theo chân Chúa. Chúa Giêsu hôm nay vẫn mời gọi các con hãy đi theo Ngài. Chúa cho thấy rõ điều kiện của những ai muốn theo Chúa: “từ bỏ mình và vác thập giá mình”. Từ bỏ con người cũ của mình để mặc lấy con người mới, con người theo hình ảnh của Thiên Chúa dựng nên từ ban đầu. Chấp nhận bỏ mình đi đồng nghĩa với việc thay da đổi thịt, thay con người của ích kỷ nhỏ nhen, con người tội lỗi, của tính tự ái, kiêu căng tự phụ… từ bỏ hết để nhận thập giá của mình mà theo Chúa với lòng yêu mến.

Có một vị thánh đã tưởng tượng chuyện như sau: Một hôm Chúa Giêsu bảo Phêrô và Gioan theo Ngài lên núi. Ngài dặn mỗi ông mang theo một hòn đá. Phêrô suy nghĩ một lúc rồi nhặt một hòn đá nhỏ bỏ vào túi; còn Gioan, do lòng quảng đại, vác cả một tảng đá to. Dĩ nhiên, đường dài, vác nặng, Gioan thở hổn hển và lên đến nơi sau cùng. Phêrô bước thảnh thơi và còn nói với Gioan: “Sao anh nhọc công vác tảng đá to như thế!”. Tới nơi, Chúa Giêsu bảo hai môn đệ ngồi xuống. Ngài đọc lời chúc tụng và biến hai viên đá thành bánh. Dĩ nhiên, Phêrô chỉ được một chiếc bánh nhỏ xíu không đủ cho cơn đói cồn cào của ông.

Lần khác, Chúa lại bảo hai ông theo Ngài lên núi và cũng mang theo đá. Rút kinh nghiệm lần trước, Phêrô mang một tảng đá thật to. Đến nơi, ông ngồi chờ phép lạ. Nhưng Chúa Giêsu chỉ nói “Nào, mỗi người hãy ngồi lên tảng đá mà mình mang theo. Không phải lúc nào Thầy cũng biến đá thành bánh đâu”. Rồi Ngài nói riêng với Phêrô: “Lòng quảng đại thật không phải là lòng quảng đại tính toán”.

Xin Chúa giúp các con đón nhận những hy sinh hằng ngày, chấp nhận đi trên con đường thập giá là những khó khăn, những mệt nhọc trong việc học tập và rèn luyện những nhân đức.

Xin giúp con ghi nhớ rằng công khó của học tập và rèn luyện hôm nay, chính là hoa trái của niềm vui và hạnh phúc mai sau.

Xin giúp chúng con trung thành theo đạo Chúa, giữ đạo Chúa cho đến cùng.

Xin giúp chúng con biết tiếp bước con đường thập giá của Chúa mỗi ngày với lòng quảng đại vì yêu mến Chúa.

[Mục Lục]

Bài 18. Bài giảng của Lm. Giuse Đinh Tất Quý

“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16,24)

Trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu đã nói đến sự sống và sự chết, cái được cái mất của người Kitô hữu. Ngài nói rõ :

“Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Tôi thì sẽ được sống.” (Mt 16,25).

Đây không phải là một lối chơi chữ, dùng những cách nói đối chọi nhau để làm cho ý tưởng có vẻ thêm hấp dẫn. Nhưng đây là những qui luật sống thật quan trọng và thật khắt khe Chúa Giêsu đưa ra để chỉ đường dẫn lối cho những ai muốn theo Chúa, những qui luật mà chính Ngài đã theo và Ngài muốn tất cả cùng theo. Nhưng qui luật đó là qui luật nào?

  1. Trước hết là Qui luật đầu tư

Bất cứ cuộc sống nào, công trình nào, tinh thần hay vật chất đều đòi hỏi phải có một sự đầu tư tương xứng về tư tiền của, thời giờ, sức lực hay chất xám. Dầu trong lãnh vực nào, dưới hình thức nào, nếu không đầu tư thì sẽ không có thu lợi.

Trong bất cứ cuộc đầu tư nào, cái mất và cái được, cái bỏ ra và cái thu vào luôn gắn liền nhau. Cái mất luôn đi trước để mở đường cho cái được sẽ đến sau. Có mất trước thì mới được sau. Chúa Giêsu đã chỉ rõ: “Nếu hạt lúa không phân hóa đi thì vẫn chỉ là một hạt lúa, nhưng nếu nó phân hóa đi thì sẽ sinh nhiều bông hạt khác.” (Ga 12,24).

Đó là định luật chung cho bất cứ cuộc đầu tư nào. Những cuộc đầu tư càng dài hạn, càng đòi hỏi nhiều vốn thì càng sinh nhiều lợi. Có những công trình phải kéo dài đến cả thế kỷ sau mới bắt đầu có lãi.

2. Thứ đến: chính Chúa Giêsu đã thực hiện một cuộc đầu tư rất lớn

Cuộc đời Chúa Giêsu cũng theo qui luật nói trên.

Khi sinh xuống trần, Ngài đem chính vị thế Thiên Chúa của Ngài ra đầu tư vì phần rỗi của thế giới. Đó là một cuộc đầu tư lạ thường: Thiên Chúa như đã khước từ danh dự Thiên Chúa của mình để chuộc lấy loài người. Chắc là việc cứu chuộc loài người phải là chuyện quan trọng tới mức độ nào thì Thiên Chúa mới đầu tư tới mức độ lớn như thế: đầu tư chính Con Một Ngài.

Thập giá cũng là một cuộc đầu tư khủng khiếp. Thiên Chúa nhận lấy phần xấu nhất là sự chết để đánh đổi lấy sự sống cho loài người. Nếu giá đầu tư cao như vậy thì cái lợi Thiên Chúa muốn mang đến cho loài người tất phải lớn, phải quý giá như thế nào. Vì thế Chúa mới đặt ra câu hỏi: “Nếu được lợi cả trần gian mà mất sự sống đời đời thì dược ích gì?” (Mt 16,26).

3. Bây giờ đến lượt chúng ta: mỗi người phải thực hiện cuộc đầu tư cho chính mình

Đoạn Tin Mừng này diễn tả cuộc đầu tư ấy bằng những lời “tử bỏ mình”, “vác thập giá mình”.

Đây là cuộc đầu tư cho đời vĩnh cửu, cho phần rỗi đời đời của mình.

Thomas Morus (1478-1453) thủ tướng nước Anh, dưới thời vua Henry VIII, bị tống ngục vì không chịu chối đạo. Sau đó ông bị kết án tử hình. Vợ ông liền tới thăm và hỏi chồng:

- Tại sao mình không lo cứu sống?

- Này em! Theo em nghĩ thì anh còn sống ở trần gian này được bao lâu nữa?

- Sức khỏe anh hứa hẹn ít nhất được 20 năm nữa.

- Em đề nghị với anh một hành động hết sức điên dại: để sống thêm 20 năm mà phải hy sinh cả cuộc sống đời đời sao!

Thomas Morus đã hiểu được giá trị đời sống siêu nhiên, thà mất đời này để được đời sau.

Chắc chắn cuộc đầu tư này sẽ không trực tiếp mang lại chén cơm đầy hơn, túi tiền nặng hơn, nhà cửa tiện nghi hơn. Những bài toán kinh tế phải được giải quyết bằng những biện pháp kinh tế. Còn cuộc đầu tư cho cuộc đời vĩnh cửu nằm trên một bình diện khác. Nó không làm cho ta giàu thêm về mặt tiền của, mang lại cho ta thêm nhiều tiện nghi vật chất, nhưng nó nâng phẩm chất con người chúng ta, giá trị cuộc đời chúng ta lên. Nhờ nó mà chúng ta vươn lên tới cuộc đời hoàn thiện hơn, nhận được Thiên Chúa trọn vẹn hơn, đạt tới cuộc sống vĩnh cửu viên mãn hơn.

Có lẽ những ngôn ngữ đó, các giá trị đó còn xa lạ đối với chúng ta nhất là với cuộc sống thực dụng của chúng ta hôm nay. Như vậy chúng ta cần phải làm quen với chúng dần dần. Làm quen bằng nỗ lực gỡ bỏ đi, giải thoát chính mình từng bước. Gỡ bỏ tới đâu thì cảm thấy mình tự do, hiểu sâu và lên cao tới đó.

Một lần, có một người đàn bà người Hindou giàu có đến thăm Mẹ Têrêsa. Bà ta nói với Mẹ:

- Thưa mẹ, con ước ao được chia sẻ với mẹ và cộng tác với mẹ trong các hoạt động từ thiện.

- Tốt lắm! – Mẹ đáp lại một cách vui vẻ.

Rồi bà ta thú thực với mẹ là bà ta có một điểm yếu rất khó bỏ, đó là tính khoe khoang, ưa làm dáng. Bà thích mặc những chiếc áo xari, những bộ đồ Ấn Độ lộng lẫy và đắt tiền. Hôm ấy, bà mặc một bộ áo xari giá trị 65 dollas, trong khi chiếc áo xari của Mẹ Têrêsa đang mặc chỉ trị giá 65 xu, chưa đầy một dolla. Như được ơn trên soi sáng mẹ Têrêsa bỗng nảy ra được tư tưởng hay. Mẹ đề nghị với bà ấy bắt đầu cộng tác với mẹ về những bộ áo xari đó. Mẹ khiêm tốn đền nghị:

- Từ nay trở đi, thay vì mua sắm những bộ áo xari giá 65 hoặc 100 dollas, thì bà chỉ nên mua những bộ rẻ tiền hơn, chừng 45 hoặc 50 dollas thôi. Số tiền còn lại, bà hãy mua những bộ áo xari khác dành cho người nghèo.

Bà ấy vui vẻ hưởng ứng lời đề nghị của mẹ rồi dần dần bà cũng biết dùng những bộ áo xari rẻ tiền hơn. Sau này chính bà đã thú nhận với Mẹ Têrêsa rằng:

- Thưa mẹ, từ ngày con bắt đầu từ bỏ những vẻ hào nhoáng bên ngoài vô ích đó, tâm hồn con cảm thấy được tự do hơn, nhẹ nhàng hơn. Con đã học biết và hiểu rõ hơn thế nào là cho đi, thế nào là chia sẻ. Và trong cách chia sẻ như thế, con phải thú nhận rằng chính con đã được lãnh nhận nhiều hơn thứ con cho đi và chia sẻ với anh chị em nghèo khổ!

Mới đây khi ngỏ lời với các đức Giám mục Á Châu nhân chuyến tông du Đại Hàn ngày 19-8-2014, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đề cập đến mối hiểm hoạ đang đe dọa đến căn tính vững chắc của Kitô hữu chúng ta hôm nay: Đó là sự nông cạn: khuynh hướng chỉ biết chạy theo những mốt mới nhất, những tiện nghi và những trò tiêu khiển hấp dẫn nhất, thay vì biết tham gia vào những điều thực sự quan trọng (x. Phil 1,9-10).

Rồi ngài nói thêm: Điều tôi khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên, để nhận ra cái gì là tốt hơn.

Lạy Chúa, Chúa đẵ chịu chết và sống lại,
xin dạy chúng con biết chiến đấu
trong cuộc chiến mỗi ngày
để được sống dồi dào hơn.

Xin dạy chúng con biết rằng
chúng con không thể nên hoàn thiện
nếu như không biết từ bỏ chính mình
và những ước muốn ích kỷ.

Ước chi từ nay,
không gì có thể làm cho chúng con
khổ đau và khóc lóc
chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa phục sinh.

Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha,
là hy vọng hạnh phúc bất diệt,
là ngọn lửa tình yêu nồng nàn;
xin lấy niềm vui của Người
mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ
và trở thành mối dây yêu thương,
bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen.
 (Mẹ Têrêxa Calcutta).

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận