Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng CN XIX TN – năm A

Đăng lúc: Thứ năm - 07/08/2014 15:31 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng
Chúa Nhật XIX thường niên – năm A
Lời Chúa: 1 V 19,9a.11-13a; Rm 9,1-5; Mt 14,22-33
***************

MỤC LỤC
1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm PX Vũ Phan Long, ofm: Đức Giêsu đi trên mặt biển hồ
2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm Inhaxiô Hồ Thông
3. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt: Chúa Giêsu đi trên mặt biển hồ với Phêrô
4. Chú giải của Noel Quesson
5. Hãy an tâm vì luôn có Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
6. Sóng đời (Trầm Thiên Thu)
7. Điểm tựa duy nhất trên cõi đời (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
8. Hãy an tâm vì luôn có Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
9. Đừng sợ! Thầu đây mà (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
10. Trên Biển Đời (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
11. Chúa đi trên biển (R. Veritas)
12. Dìu nhau tiến bước (Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
13. Khi hành trình đức tin có sóng gió (Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
14. Chúa Giêsu đi trên mặt biển (Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
15. Con tưởng! (Lm. Gioan B. Phan Kế Sự)
16. Con đường của Chúa (ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)
17. Chính Thầy đây, đừng sợ (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
18. Kém tin hay hoài nghi? (JM. Lam Thy ĐVD.)
19. Thầy đây, đừng sợ! (P. Trần Đình Phan Tiến)



A. BẢN VĂN
Bài đọc I (1 V 19,9a.11-13a)
9 Khi ngôn Ê-li-a tới núi Khô-rếp là núi của Thiên Chúa, ông vào một cái hang và nghỉ đêm tại đó. Có lời Đức Chúa phán với ông : “Ê-li-a ngươi làm gì ở đây ?” 11 Người nói với ông : “Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt Đức Chúa. Kìa Đức Chúa đang đi qua.” Gió to bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá tảng trước nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa không ở trong cơn gió bão. Sau đó là động đất, nhưng Đức Chúa không ở trong trận động đất. 12 Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa có tiếng gió hiu hiu. 13a Vừa nghe tiếng đó, ông Ê-li-a lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang.

Bài đọc II (Rm 9,1-5)
1 Thưa anh em, coù Đức Ki-tô chứng giám, tôi xin nói sự thật, tôi không nói dối và lương tâm tôi, được Thánh Thần hướng dẫn, cũng làm chứng cho tôi rằng : 2 lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không ngơi. 3 Quả vậy, giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Ki-tô, thì tôi cũng cam lòng. 4 Họ là người Ít-ra-en, họ đã được Thiên Chúa nhận làm con, được Người cho thấy vinh quang, ban tặng các giao ước, lề luật, một nền phụng tự và các lời hứa ; 5 họ là con cháu các tổ phụ ; và sau hết, chính Đức Ki-tô, xét theo huyết thống, cũng cùng một nòi giống với họ. Người là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn thuở muôn đời. A-men.

Tin Mừng (Mt 14,22-33)
22 Sau khi dân chúng được ăn no nê, Đức Giê-su liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. 23 Giải tán họ xong, Người lên núi một mình mà cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình. 24 Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ đến cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió. 25 Vào khoảng canh tư, Người đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. 26 Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau : “Ma đấy !”, và sợ hãi la lên. 27 Đức Giê-su liền bảo các ông : “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ !” 28 Ông Phê-rô liền thưa với Người : “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.” 29 Đức Giê-su bảo ông : “Cứ đến !” Ông Phê-rô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giê-su. 30 Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên : “Thưa Ngài, xin cứu con với !” 31 Đức Giê-su liền đưa tay nắm lấy ông và nói : “Người đâu mà kém tin vậy ! Sao lại hoài nghi ?” 32 Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay. 33 Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói : “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa !”

[Mục Lục]


B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI VÀ SUY NIỆM

Bài 1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm PX Vũ Phan Long, ofmĐỨC GIÊSU ĐI TRÊN MẶT BIỂN HỒ

Sự hiện diện của Đức Giêsu giữa lòng bão tố giúp hiểu rằng các tín hữu phải dựa vào Đức Giêsu để sống niềm tin của mình.
1. Ngữ cảnh
Xin xem CN XVIII TN – A.
Về thể văn, truyện Đức Giêsu đi trên mặt biển thường được gọi là thể văn “hiển linh” (épiphanie. Xem truyện Dẹp sóng gió, Mt 8,23-27). Thể văn này được định nghĩa là: Một cách bố trí các yếu tố văn chương để tường thuật mộtcuộc tỏ mình bất ngờ và lạ thường của mộthữu thể thần linh hoặc thiên quốc, được mộtsố người chọn lọc trải nghiệm, trong đó, hữu thể thần linh mạc khải mộtphẩm tính, mộthành động hoặc mộtmạc khải thần linh. Đặc điểm của thể “hiển linh” là nó cho thấy mộtvài phương diện của hoạt động Thiên Chúa nhằm cứu độ dân Người .
Ở bên trong tác phẩm Mt, truyện Đi trên mặt biển (14,22-33) đóng các vai trò sau đây: (1) Trả lời cho câu hỏi về chân tính và tính cách của Đức Giêsu đã được truyện Dẹp sóng gió (8,23-27) gây ra và được ngữ cảnh gần trước đó ở 13,53–14,21 tiếp nối; (2) Cung cấp mộtlời tuyên xưng mào đầu của các môn đệ, chuẩn bị cho lời tuyên xưng cao đỉnh của Phêrô ở 16,13-20; (3) Góp phần với TM để minh họa bản tính và ý nghĩa của quyền lực thần linh của Đức Giêsu trong tư cách là Con Thiên Chúa.
2. Bố cục
Bản văn này có thể chia làm bốn phần, theo cấu trúc chuyển hoán:
A – Hoàn cảnh của các môn đệ trên biển (14,22-24):
a) (22)
b) (23a)
b’) (23b)
a’) (24)
B – Đức Giêsu đi trên mặt biển (14,25-27):
a) (25)
b) (26)
a’) (27)
B’- Đức Giêsu cứu Phêrô (14,28-31):
a) (28-29a)
b) (29b)
b’) (30)
a’) (31)
A’- Lời tuyên xưng của các môn đệ (14,32-33):
a) (32)
b) (33)
3. Vài điểm chú giải
- Chiếc thuyền bị sóng đánh vì ngược gió (24): Trong TM Mt, “con thuyền” là biểu tượng của Họi Thánh (x. 8,23-27). Biểu tượng này càng được xác nhận khi tác giả viết rằng con thuyền bị “tra tấn (hành hạ)” (basanizô) bởi các con sóng (chứ không nói như Mc 6,48: “các ông phải vất vả chèo chống”). Kiểu nói này cũng lạ thường như khi tác giả bảo có “động đất” (seismos) trên biển (8,24). Trong cả hai trường hợp, có thể cho rằng tác giả đang nghĩ đến các đau khổ Họi Thánh sẽ phải trải qua khi thi hành sứ mạng.
Theo ngôn ngữ Kinh Thánh, “biển” là nơi có các sức mạnh tà thần cư ngụ và hoạt động (x. G 7,12; Is 27,1; 51,9t; Đn 7…). Nói rằng “đang ở trên mặt biển” có nghĩa là đang ở trong tình trạng bị các sức mạnh của bóng tối đe dọa. Vậy “biển” ở đây là mộttrở ngại ngăn cách các môn đệ với Đức Giêsu.
- Chính Thầy đây (27): Trước tiên, đây là mộtlời để điều chỉnh, với nghĩa là: chính là Thầy, chứ không phải là ma như anh em tưởng. Nhưng công thức này cũng là tên mà Thiên Chúa dùng dể tự giới thiệu với Môsê (Yhwh: x. Xh 3,13-15). Mt kín đáo gợi ý là có mộtsự song đối giữa Đức Giêsu và Yhwh.
4. Ý nghĩa của bản văn
Có thể nói bài tường thuật chuyến vượt “biển” (cũng như truyện Dẹp sóng gió) là một dụ ngôn với cái nền lịch sử, nhằm nêu bật mộtphương diện mới và có mộtkhông hai trong ý nghĩa của bản thân Đức Giêsu: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo nghĩa là Đấng được Thiên Chúa trang bị cho quyền lực thần linh tuyệt đối để cứu độ dân Người. Sự kiện Đức Giêsu với quyền lực của Người, không những cứu các môn đệ khỏi bị sóng hành hạ trên biển, mà còn cứu cả Phêrô khỏi chìm xuống biển (14,28-31), chuẩn bị cho chúng ta đón lấy lời tuyên xưng của Phêrô nói rằng Đức Giêsu là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (16,16). Đàng khác, việc biểu lộ quyền năng thần linh tuyệt đối của Đức Giêsu khi cứu các môn đệ và Phêrô bằng cách đi trên mặt biển cũng giúp nhận mạc khải nói rằng Đức Giêsu là Đấng có thể xây dựng và che chở Họi Thánh Người trên “tảng đá” là Phêrô (16,18-19).
Chiều kích cứu độ học của bài tường thuật quả là hiển nhiên, được diễn tả qua việc đi trên biển. Khi đi trên biển, Đức Giêsu không những tỏ ra mình là Thiên Chúa chế ngự biển mà còn đi qua biển, và cứu các môn đệ bằng cách làm cho họ cũng có thể đi qua biển. Như thế, cùng mộttrật, Đức Giêsu chứng tỏ Người sở hữu quyền lực thần linh tuyệt đối (phương diện Kitô học), và quyền lực ấy là để cứu vớt các môn đệ (phương diện Cứu độ học).
Tuy nhiên, phương diện cứu độ học phải được cứu xét trong tương quan hữu cơ với chiều kích Kitô học. Cho dù các môn đệ được cứu, mối bận tậm không phải chỉ là việc cứu hộ, nhưng là điều mà cuộc cứu hộ lạ lùng này nói về bản thân Đức Giêsu. Điều này nổi rõ lên trong câu nói của các môn đệ: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!” (14,33; x. 8,27). Như thế, chiều kích Kitô học vượt quá truyện cứu hộ, và tập trung vào quyền lực và bản thân của Đấng cứu hộ. Khi cứu các môn đệ bằng cách vận dụng quyền năng thần linh tuyệt đối để mà bước đi trên biển, Đức Giêsu đã cho thấy không những Người có thể cứu khỏi bất cứ trận giông bão nào trên biển, mà còn có thể cứu dân Người khỏi mọi tình cảnh khốn quẫn. Nói cách khác, nếu Đức Giêsu có thể cứu các môn đệ Người bằng cách siêu vời là đi trên biển nổi sóng, thì Người cũng có đầy đủ quyền năng cần thiết mà thực hiện ý muốn của Thiên Chúa là cứu độ dân Người.
Phương diện giáo hội học được diễn tả qua các vai trò của các môn đệ và Phêrô. Nhờ nhớ lại các kinh nghiệm đã trải qua khi sống các hoàn cảnh túng cực, các độc giả có thể hiểu được hoàn cảnh của các môn đệ và của Phêrô. Các môn đệ và Phêrô, do đã trải nghiệm quyền năng phi thường của Đức Giêsu và do đã tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì nhắc các độc giả nhớ rằng không những họ phải tin vào Đức Giêsu như Đấng có thể cứu hộ họ khỏi các hoàn cảnh đen tối nhất, nhưng còn phải hiểu rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo nghĩa Người là Đấng duy nhất có quyền năng Thiên Chúa để cứu được cộng đồng những kẻ tin vào Người. Cử tọa Mt tin tưởng rằng Họi Thánh gồm những ai tin và đi theo Đức Giêsu thì được che chở bởi chính quyền lực của Thiên Chúa.
Có thể nói hoạt cảnh cuối cùng (cc. 32-33) giới thiệu Họi Thánh mới của Đức Kitô, đã vượt thắng thử thách, nay vây quanh Đức Kitô là Chúa tể của họ. Hoạt cảnh này báo trước cuộc quy tụ các Kitô hữu để cử hành mầu nhiệm Đức Kitô, trong đó nhắc lại sự hiệp nhất và hiệp thông đặc biệt của Người với Thiên Chúa, nay được bày tỏ ra qua các hành vi quyền lực và cũng đầy nhân ái.
+ Kết luận
Mt trình bày mộtcuộc thần hiển cho “những người đang ở trong thuyền”, nghĩa là Họi Thánh của Đấng Phục Sinh: trong và qua Đức Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống, chính Thiên Chúa cứu độ của cuộc Xuất Hành tiếp tục giải thoát Israel mới khỏi những làn nước đang đe dọa nuốt trửng họ (x. Xh 14 và 15). Sự hiện diện của Đức Giêsu giữa lòng bão tố là nền tảng cho đức tin của các tín hữu.
5. Gợi ý suy niệm
1. Khác với LcMt hiếm khi cho thấy Đức Giêsu cầu nguyện (c. 23). Đây là mộtđòi hỏi thông thường của tinh thần Người, mộtnhu cầu có thực là được hiệp thông với Chúa Cha và tìm sự trợ giúp, sự an toàn và nâng đỡ. Nhất là vào lúc này, thời gian quyết liệt, hành trình đã trở nên cam go hơn và các đòi hỏi làm sáng tỏ đã trở nên cấp bách hơn. Đây là lần đầu tiên, Mt nhấn mạnh rằng Người ở mộtmình; một sự cô độc không chỉ về thể lý, mà dường như là mộtbáo trước sự cô độc ở Ghếtxêmani. Đức Giêsu cầu nguyện cho mình, cho các nhu cầu của cá nhân mình. Rồi Người cũng mau chóng đi cứu giúp các môn đệ, nhưng sức mạnh và sự an toàn Người cung cấp phát xuất từ tương quan với Chúa Cha. Người là Đấng cứu độ họ, nhưng cũng là điển hình cho họ về đời sống đức tin.
2. Đối với tác giả Mt, con thuyền là biểu tượng của Họi Thánh (x. 8,24). Các môn đệ đang ở trên đó, và có thể Phêrô là người cầm lái (x. c. 28). Không có mặt Thầy, tinh thần của các ông hẳn không cao mấy; đã thế, hoàn cảnh lại thêm gay go vì gió ngược (c. 24). Con thuyền bị “tra tấn” vì cơn giông trên biển. Lúc này là “đêm tối” (c. 25), là giờ của thử thách, của “quyền lực bóng tối” (x. Lc 22,53). Tuy nhiên, Đức Giêsu vẫn không vắng mặt, dù là Người còn ở cách xa họ. Nếu có đức tin, hẳn là họ phải cảm thấy Người vẫn có mặt, vẫn ở gần. Quả thật, các khoảng cách không thể ngăn cản Đức Giêsu hiệp thông với các môn đệ Người (x. 18,20). Người đến với họ cách bất ngờ, từ trên cao, vào những lúc không ngờ.
3. Đáng tiếc là các môn đệ lại thường quên mất Người. Phản ứng kinh hoàng của các ông khi thấy Thầy đi trên biển cho ta hiểu như thế (c. 26). Đây là mộthình ảnh báo trước cuộc Hiển Dung và các cuộc hiện ra sau Phục Sinh. Đức Giêsu tiến đi ngay giữa lòng đêm tôi chính là lời loan báo về Đức Kitô Phục Sinh.
4. Phêrô là cái nhiệt kế đo đức tin của Họi Thánh. Ông phản ứng nhân danh mình và tất cả các môn đệ khác. Đòi hỏi các dấu lạ, các bằng cớ chứng tỏ lòng tốt cũng như sự toàn năng của Thiên Chúa là mộtđòi hỏi không thể bỏ qua của loài người. Các nhân vật Kinh Thánh đều cần những dấu chỉ, để có thể dấn thân đi theo nẻo đường Thiên Chúa đề nghị. Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh đang hiện diện trong lòng Họi Thánh, cũng cần có những bằng cớ mới, nhưng ta không có bằng cớ nào chắc chắn hơn lời của Đức Giêsu: “Chính Thầy đây” (= Ta là), “Cứ đến!” (cc. 27-29).
5. Bước đi vững vàng trên mặt nước có nghĩa là chấp nhận mộtchiều kích hiện sinh khác với chiều kích lịch sử, hoặc chiều kích thể lý, là mở tâm hồn ra với thế giới của thực tại vô hình, của thực tại siêu nhiên. Đây là vượt lên trên những luật lệ của cuộc hiện sinh này. Muốn thế, cần tin vượt quá cái hữu hình và cái đụng chạm đến được; cần phải chấp nhận “hỏng chân”. Khi Tôma tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28), ông cũng phải chấp nhận bỏ mọi điểm tựa vững chắc kiểu loài người.
[Mục Lục]

Bài 2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật nầy giới thiệu cho chúng ta Thiên Chúa là nguồn bình an.
1V 19: 9, 11-13
Trong sách Các Vua quyển thứ nhất, Thiên Chúa tỏ mình ra với ngôn sứ Ê-li-a trên núi Khô-rếp. Ngài không đến với ông trong cảnh sấm chớp kinh thiên động địa, cũng không trong cảnh trời đất rung chuyển đến hồn xiêu phách lạc, nhưng trong “làn gió mát hiu hiu thổi”, tức là “trong tiếng động của cõi thinh lặng tinh tế”. Ngài đến với ông trong bầu khí chứa chan ân tình.
Rm 9: 1-5
Bài đọc thứ hai, trích từ thư của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Rô-ma, là lời tâm sự đầy xao xuyến của thánh nhân trước sự cứng lòng tin của đồng bào Do thái của mình, tuy họ đã được đổ tràn biết bao thánh ân.
Mt 14: 22-33
Tin Mừng tường thuật việc Đức Giê-su đi trên mặt nước để đến cứu giúp các môn đệ đang lâm nạn. Ngay khi Ngài gặp lại các môn đệ trên thuyền, bảo tố trở nên dịu êm. Sự hiện diện của Ngài đem lại sự bình yên cho thiên nhiên và cõi lòng của con người.
BÀI ĐỌC I (1V 19: 9, 11-13)
Sách Các Vua quyển thứ nhất và quyển thứ hai dành một chỗ ưu tiên cho các ngôn sứ, đặc biệt cho ba ngôn sứ: Ê-li-a, Ê-li-sa và I-sai-a.
Ngôn sứ Ê-li-a là một nhân vật thật lạ lùng, kỳ bí và có quyền năng hô phong hoán vũ, nhưng trên hết, một con người của đức tin. Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình ở vương quốc phương Bắc, vào triều đại của vua A-kháp (874-853 BC). Sứ mạng của ông gặp nhiều gian truân. Vua A-kháp là một vị quân vương vô đạo. Vợ vua, hoàng hậu I-de-ven, ngoại đạo, công chúa của vua Xi-đon, ông này vừa là vua đồng thời cũng là tư tế của thần Ba-an. Vua A-kháp sùng bái việc cúng tế ngẫu tượng. Vì thế, vua không chịu được những lời khiển trách của ngôn sứ Ê-li-a. Trong khi đó, hoàng hậu I-de-ven quyết tâm truy sát vị ngôn sứ này.
1. Hành trình tâm linh của ngôn sứ Ê-li-a
Trước cuộc bách hại của vương triều, ngôn sứ Ê-li-a rời bỏ vương quốc phương Bắc, trốn chạy vào vương quốc phương Nam cho đến tận biên giới sa mạc xa xôi. Ở đó, ông quyết định thực hiện một cuộc hành hương về cội nguồn của đức tin, đến núi thánh Khô-rếp (cũng còn gọi núi Xi-nai theo truyền thống vương quốc miền Bắc), nơi Chúa đã hiện ra cho ông Mô-sê. Chán nản vì những công sức của mình đã thành mây khói, vị ngôn sứ cố gắng tôi luyện niềm tin của mình ở chính nơi Thiên Chúa đã tỏ mình ra.
Bốn thế kỷ cách biệt giữa ngôn sứ Ê-li-a và ông Mô-sê. Dường như núi Khô-rếp đã trở thành địa danh hành hương vào thời ngôn sứ Ê-li-a. Vị ngôn sứ nằm nghỉ trong một chiếc hang xưa kia ông Mô-sê đã trú ngụ, nơi mà truyền thống đã xem như thánh địa.
2. Tấm lòng trìu mến của Thiên Chúa
Hai hoàn cảnh thần hiện không như nhau. Xưa kia, dân Do thái cắm lều ở dưới chân núi Xi-nai. Vào lúc đó, Thiên Chúa đã ngỏ lời với dân trong tiếng sấm chớp rền vang đến kinh thiên động địa, trời đất rung chuyển đến hồn xiêu phách lạc, ngỏ hầu toàn dân nhận biết sự hiện diện đầy quyền uy của Ngài mà lắng nghe ông Mô-sê, người trung gian của Ngài.
Trái lại, ngôn sứ Ê-li-a đã đơn thương độc mã chống lại với các thế lực thờ ngẫu tượng, không gặp thấy nơi nương tựa nào ngoài một mình Thiên Chúa. Vì thế, Thiên Chúa tỏ mình ra cho vị ngôn sứ không trong cơn bão tố, cũng không trong trận động đất, cũng không trong lửa, nhưng trong “làn gió mát hiu hiu thổi”, dịch sát từ: “trong tiếng động của cõi thinh lặng tinh tế”. Chính để an ủi ông, Thiên Chúa đến với ông trong bầu khí chan chứa ân tình.
Đây không phải là cách thức khác Thiên Chúa bày tỏ sự thánh thiêng của Ngài sao? Thiên Chúa là Đấng cao vời khôn sánh, nhưng cũng là Đấng rất mực thân tình và gần gũi. Vì thế, Ngài không tất yếu nói với chúng ta trong những biến cố ngoạn mục, nhưng thường nhất là trong cõi thinh lặng của tâm hồn. Vì thế, chỉ những ai biết chăm chú lắng nghe Ngài trong tâm tình yêu mến chân thật, thì mới nhận ra sự hiện diện của Ngài: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3: 20).
Trong trường hợp của ngôn sứ Ê-li-a, Thiên Chúa muốn ông hiểu rằng Ngài đang lắng nghe lời ông cầu nguyện. Chính trong bầu khí ân tình trìu mến mà Ngài muốn chuyện trò với ông. Ngoài ra, không ngoại trừ rằng tác giả muốn cho dân Do thái bất tín và thờ ngẫu tượng một bài học. Thần Ba-an của dân Ca-na-an là thần bão tố; còn Đức Chúa, Thiên Chúa chân thật, thì hoàn toàn khác.
Phụng Vụ hôm nay chủ ý đối chiếu bản văn này với Tin Mừng để giới thiệu Đức Giê-su là Đấng dẹp yên bão tố. Sự hiện diện của Ngài đem lại bình an cho thiên nhiên và cõi lòng con người. Chính Ngài là nguồn mạch bình an.
BÀI ĐỌC II (Rm 9: 1-5)
Bài đọc thứ hai là phần mở đầu chương 9 thư thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Rô-ma. Trong phần mở đầu này, thánh Phao-lô thổ lộ những tâm tư sâu kín khi thú nhận nỗi phiền muộn bao la của ngài trước sự cứng lòng tin của đồng bào mình.
1. Nỗi ưu phiền bao la
Nỗi phiền muộn của thánh nhân lớn lao đến mức ngài sợ người ta không tin. Vì thế, thánh nhân viện dẫn Đức Ki-tô ra làm chứng: “Có Đức Kitô chứng giám”, đoạn Chúa Thánh Thần: “Lương tâm tôi, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, cũng làm chứng cho tôi”. Khi viện dẫn hai nhân chứng này, thánh nhân cho thấy ngài vẫn trung thành với truyền thống Do thái, theo đó một sự kiện được cho là thật nếu có hai nhân chứng.
Thánh nhân vừa mới trình bày hết mực nồng nàn vận mệnh vinh quang được chuẩn bị cho người Ki-tô hữu (chương 8). Quả thật là nỗi đau đến xé lòng nếu như đồng bào của mình đã không dự phần vào vinh quang nầy. Thánh nhân chấp nhận chịu nguyền rủa để cứu anh em đồng bào của mình theo huyết thống, dù phải hy sinh bản thân mình, thì ngài cũng cam lòng. Tiếng kêu tận đáy lòng, tiếng kêu quá đổi bi thương cùng cực, có lẽ được gợi hứng từ tiếng kêu của ông Mô-sê trước sự bất trung của dân Do thái cúi mình thờ lạy con bê vàng: “Lạy Đức Chúa, xin hãy tha thứ tội lỗi của họ! Nếu không, xin hãy xóa tôi ra khỏi Sách sự sống mà Ngài đã viết” (Xh 32: 32).
2. Một dân phản loạn
Thánh nhân nhắc lại tất cả những ân ban mà Thiên Chúa đã ban cho dân Ngài: “Họ đã được Thiên Chúa nhận làm con, được Người cho thấy vinh quang, ban tặng giao ước, lề luật, nền phụng tự và những lời hứa” và sau hết, đặc ân cao vời nhất, đó là “Đức Ki-tô, xét theo huyết thống, cũng cùng một nòi giống với họ”. Thánh nhân còn nói thêm: “Người là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn đời”. Đây là một trong những điển hình hiếm hoi, ở đó thánh Phao-lô gọi Đức Kitô là Thiên Chúa. Chúng ta còn gặp một điển hình duy nhất khác ở Tt 2: 13: “Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa vĩ đại và là đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang”.
TIN MỪNG (Mt 14: 22-33)
Chuyện tích Đức Giê-su đạp trên mặt biển phong ba bão táp mà đến với các môn đệ đang lâm nguy trong một con thuyền giữa biển khơi được định vị vào ban đêm sau phép lạ bánh hóa nhiều. Vào buổi chiều hôm trước, Đức Giê-su đã hối thúc các môn đệ xuống thuyền đi sang bờ hồ bên kia trước, còn Ngài ở lại giải tán đám đông dân chúng và lên núi cầu nguyện một mình thâu đêm.
Thánh Mát-thêu không đưa ra cho chúng ta bất kỳ lời giải thích nào về việc Đức Giê-su hành xử như vậy. Chúng ta biết được nhờ Tin Mừng thứ tư: “Đức Giê-su biết người ta sắp tôn Ngài làm vua, một lần nữa, một mình rút lui lên núi” (Ga 6: 15). Đức Giê-su cẩn trọng tách riêng các môn đệ của mình ra khỏi đám đông, vì sợ rằng các ông bị đám đông lôi cuốn mà nẩy sinh trong lòng ước muốn tái lập vương triều Ít-ra-en.
1. Tách riêng một mình để cầu nguyện
Bất cứ khi nào các thánh ký kể ra việc Đức Giê-su cầu nguyện, họ đều nhấn mạnh bầu khí thanh vắng và đơn độc của Ngài: “Đức Giê-su cầu nguyện riêng một mình, trên núi cao, ở một nơi vắng vẽ”. Ngài cầu nguyện vào những thời điểm trang trọng (phép rửa, Biến Hình), trước khi đưa ra những quyết định quan trọng (thử thách trong hoang địa, ở vườn Cây Dầu). Việc Đức Giê-su cầu nguyện sau phép lạ bánh hóa nhiều chính xác đóng vai trò bản lề của câu chuyện. Đám đông tán dương Ngài như một nhà thần thông biến hóa; họ ước mơ một Đấng Thiên Sai quyền năng trần thế; họ để ngoài tai sứ điệp của Ngài. Thất vọng, Đức Giê-su sắp hướng sứ vụ của Ngài theo một hướng đi khác: để hết tâm trí vào việc ưu tiên đào tạo các môn đệ của Ngài. Trước khi đưa ra quyết định nầy, Đức Giê-su cầu nguyện thâu đêm. “Vào khoảng canh tư, Đức Giê-su đi trên mặt biển mà đến với họ”. Ngày xưa, đêm được chia thành bốn canh: canh một từ sáu giờ chiều đến chín giờ đêm, canh hai từ chín giờ đêm đến mười hai giờ khuya, canh ba từ mười hai giờ khuya đến ba giờ sáng, canh tư từ ba giờ sáng đến sáu giờ sáng.
2. “Thầy đây, đừng sợ”:
Các môn đệ đang ra sức chèo chống con thuyền trong cơn bảo tố giữa biển khơi trong đêm vắng. Vì thế, các ông hốt hoảng khi thấy một bóng người trong đêm tối đang đạp trên sóng biển dữ dội mà tiến đến con thuyền của mình. Trước tiếng kêu hoảng hốt của các môn đệ, Đức Giê-su đáp trả: “Thầy đây, đừng sợ”. “Thầy đây” theo nguyên bản Hy lạp “Ego Eimi”(tiếng La-tin: “Ego sum”) nghĩa là: “Ta là”. Với thành ngữ nầy, Đức Giê-su khẳng định thần tính của Ngài. “Ta là” quy chiếu đến việc Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài cho ông Mô-sê (Xh 3: 13-15). Không phải Kinh Thánh đã không nói: “Trên đại dương là đường Ngài” (Tv 77) sao?
“Lạy Chúa, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”. Chúng ta tự hỏi phải chăng khi thánh Phê-rô gọi Thầy “Lạy Chúa”, lời kêu cầu chỉ dành riêng cho Đức Chúa, thánh nhân thật sự hiểu lời trấn an này của Thầy là mặc khải thần tính của Ngài? Được Chúa nhận lời, ông hăm hở và liều lĩnh lao mình xuống nước. Ba lần trong Tin Mừng của mình, thánh Mát-thêu nêu bật bản tính của Phê-rô, ông hành động theo cảm tính chứ không suy nghĩ chính chắn, không cân nhắc kỷ lưỡng, như trong câu chuyện nầy, hay vào lúc tuyên xưng đức tin ở Xê-da-rê, hoặc vào lúc Biến Hình.
Tuy nhiên, thánh Phê-rô không hoàn toàn vững tin, thấy sóng to gió lớn, ông hoảng hốt la lên: “Lạy Chúa, xin cứu con”. Đây là lần đầu tiên, một trong các tông đồ đã kêu cầu Đức Giê-su là “Đấng Cứu Độ”. Điều kỳ diệu của thánh Phê-rô chính là cứ mỗi lần hành động theo tính khí nông nỗi của mình, ông vấp ngã; nhưng mỗi lần vấp ngã, ông lại chỗi dậy. Những lần vấp ngã càng giúp ông hiểu Thầy mình hơn và càng gần Thầy hơn.
Ngay lập tức, thánh Phê-rô và các bạn phủ phục trước Đấng, không chỉ chế ngự biển dậy sóng, nhưng còn dẹp yên bão tố, nghĩa là, những thế lực hung dữ, cuồng dại. Các ông đồng thanh tuyên xưng: “Quả thật, Thầy là Con Thiên Chúa”.
3. Con thuyền Giáo Hội giữa trần thế:
Chuyện tích này ẩn chứa một hậu cảnh Giáo Hội. Sự kiện Chúa Giê-su dùng quyền năng của Ngài, không những cứu các môn đệ khỏi bị vùi dập trong bảo tố, mà còn cứu cả thánh Phê-rô khỏi chìm xuống biển, chuẩn bị cho chúng ta đón nhận lời tuyên xưng của thánh Phê-rô: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (16: 16) và lời công bố của Chúa Giê-su: “Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (16: 18-19). Ngoài ra, thánh Mát-thêu mô tả con thuyền bị sóng dữ vùi dập bằng động từ Hy-lạp “tra tấn”“hành hạ”, chứ không như thánh Mác-cô “Các ông vất vả chèo chóng” (Mc 6: 48). Có lẽ khi thuật lại câu chuyện này, thánh Mát-thêu nhằm gởi sứ điệp đầy hy vọng đến cho Giáo Hội trong cơn bách hại. Quả thật, câu chuyện một con thuyền mong manh nổi trôi trên mặt biển cuồng nộ trong cơn bão tố vào đêm tối mù mịt và việc Đức Giê-su can thiệp để con thuyền được đến bến bình yên là hình ảnh gợi lên trong người đọc biết bao ý tứ về Giáo Hội tại thế. Tét-tu-liên, và sau nầy thánh Âu-tinh, sẽ khai triển chủ đề con thuyền Giáo Hội, dù bị vùi dập trong phong ba bão tố, nhưng Đức Giê-su không bỏ mặc Giáo Hội của Ngài.
[Mục Lục]

Bài 3. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt: CHÚA GIÊSU ĐI TRÊN MẶT BIỂN VỚI PHÊRÔ

CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Người bắt buộc”: Một thành ngữ dị thường! Tại sao Chúa Giêsu phải ép các môn đồ ra đi? Phải chăng vì họ không muốn để Người một mình trong đêm vắng? Hay vì Người sợ các môn đồ nhiễm lây sự kích thích muốn tôn Người làm vua của đám đông phấn khởi trước phép lạ hóa bánh ra chiều (x Ga 6,14-15).
“Còn đò thì… lắc lư với sóng”: Matthêu nói về con đò như nói về một thực thể cộng đồng mà ta có thể coi là biểu tượng của Giáo Hội ở câu 33 cũng thế, tác giả không bảo là các môn đồ mà là “những kẻ ở trong đò”.
“Canh tư’ đêm tối, người đi trên biển đến cùng họ”: Canh tư tương ứng với khoảng thời gian 3-6 giờ sáng. Phép lạ được kể ở đây gợi nhớ nhiều đoạn Cựu Ước cũng nói Thiên Chúa đi trên biển (G 9, 8; 38, 16; Tv 77, 20; Hb 3, 15; Hc 24, 5), nhưng theo một ngôn ngữ ẩn dụ. Thành ra có sự song song giữa Chúa Giêsu và Giavê vậy.
“Chính là Ta”: Qua kiểu nói đây, chắc hẳn Chúa Giêsu trước tiên muốn sửa sai ngộ nhận của các môn đồ (Người không phải là ma) và đồng thời trấn an họ, vì họ chẳng nhận ra đó chính là Người. Nét này gặp lại trong các trình thuật diễn tả Đấng Phục sinh hiện ra dưới một hình dạng khác lạ(x. Lc 24, 36tt). Nhưng vì ở đây Chúa Giêsu tỏ mình qua việc thi thố một quyền năng siêu phàm trên vũ trụ, nên cần phải nối kết với các cuộc thần hiển của Cựu Ước, trong đó Giavê vẫn thường giới thiệu mình bằng một thành ngữ tương tự: ‘Chính là Ta’ hay ‘Ta là’ (St 17, 1; 26, 24; 28, 13; 35, 11; 46, 3; Xh 3, 6. 14). Một lần nữa, Matthêu kín đáo nhấn mạnh rằng có một tương hợp giữa Chúa Giêsu và Giavê.
“Và Phêrô bắt đầu đi trên nước”: Người môn đồ được một quyền lực thần thông như Thầy, đó là chi tiết làm nổi bật hơn nữa ý nghĩa Giáo Hội học của đoạn văn. Đây là một đặc điểm của thần học Matthêu, theo đó Chúa Giêsu cũng san sẻ quyền tha tội (9, 6) cho các môn đồ Người (9, 8; 16, 19; 18, 18). Tuy nhiên Phêrô chỉ đi được trên nước nhờ niềm tin của ông. Thánh sử còn nhấn mạnh ở nhiều đoạn khác quyền năng ấy của đức tin cùng hiệu lực lạ lùng và tức khắc của nó. Như với viên sĩ quan đến xin người chữa bệnh cho tên đầy tớ, Chúa Giêsu đã trả lời rằng: “Ông hãy đi, ông đã tin sao, thì sẽ được như vậy”. Và ngày giờ ấy tên đầy tớ đã được khỏi (8, 13). Vì đối với người có lòng tin thì “không có gì mà không làm được” (17, 20).
“Lạy Ngài, xin cứu tôi”: Như tiếng kêu của những người đi đò gặp cơn bão tố (“Lạy Ngài, xin mau cứu, chúng tôi chết mất”: 8, 24), tiếng kêu của Phêrô làm vang vọng nhiều lời cầu khẩn của nhiều Thánh Vịnh, trong đó người tín hữu xin Thiên Chúa đến giúp mình khỏi luồng nước đang dọa đe (Tv 69, 2 và 15; 144, 7; xem thêm Tv 18, 17; 32, 6; Is 43, 2- 3). Thành thử đây là một lời cầu nguyện nói lên niềm tin vào Chúa Giêsu dù với chút ít nghi ngờ.
“Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa”: Như các chỗ khác trong Tin Mừng, lời tuyên tín này chắc hẳn không có giá trị như việc các môn đồ nhìn nhận tử hệ tự bản tính của Chúa Giêsu; song là nhìn nhận tử hệ theo nghĩa rộng; đây chỉ là lời công bố về thiên sai tính của Người. Tuy nhiên, có thể cộng đoàn Kitô hữu hậu-phục-sinh sau đó dùng lại lời tuyên tín của Phêrô và thêm vào ý nghĩa đầy đủ là Thánh Thần soi sáng. “Những kẻ ở trong đò” nghĩa là ở trong Giáo Hội, theo gương Phêrô và các môn đồ, tuyên xưng Chúa Giêsu thực là Người Con duy nhất của Thiên Chúa tối cao.
KẾT LUẬN
Matthêu trình bày một cuộc thần hiện dành riêng cho “các kẻ ở trong đò”, nghĩa là cho Giáo Hội của Đấng Phục Sinh: trong Chúa Giêsu, chính Thiên Chúa Cứu Thế của thời Xuất Hành tiếp tục giải thoát Israel mới khỏi những luồng nước khủng khiếp hằng rình chực nuốt lấy họ (x. Xh 14 và 15). Sự hiện diện đáp cứu của Người giữa cơn bão táp là nền tảng niềm tin của các tín hữu và cho phép họ nói lên cách vững lòng: “Ngài thật là Con Thiên Chúa”.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Điều đã xảy đến cho Phêrô, thủ lãnh các sứ đồ, sẽ mãi là kiểu mẫu và gương soi cho mọi kẻ tin. Ở đây, Phêrô đại diện toàn thể Giáo Hội đang đứng trước mặt Thầy mình. Giáo Hội biết rằng mình được bảo đảm vượt thắng mọi thử thách nguy biến, rằng mình sẽ chẳng bao giờ đắm chìm, mất hút trong giòng lịch sử, với điều kiện cương quyết giữ vững đức tin. “Nếu không gắn bó với Ta, các ngươi sẽ chẳng đứng vững được” (Is 7, 9). Điều này có giá trị đối với dân Giao ước mới như đối với dân Giao ước cũ.
2) Sau khi Chúa Giêsu lên thuyền, gió bỗng lặng yên. Người không cần ra lệnh như đã làm trong cơn bão táp (8, 26). Sự hiện diện của Người đủ sức đem lại yên tĩnh và chế ngự ngũ hành cuồng điên. Trong đời ta cũng thế. Nếu biết đặt Chúa Giêsu ở trung tâm đời mình như một hiện diện đích thực và sinh động, ta sẽ được an bình nội tâm, dù bên ngoài phải tư bề sóng gió.
3) Chúa Giêsu ra nơi vắng vẻ để cầu nguyện, một lối cầu nguyện thật đặc biệt như giòng sông êm ả giữa Chúa Cha và Người. Không phải Người chẳng thích lối cầu nguyện phụng vụ hay cầu nguyện công khai đâu (ta đã thấy Người cầu nguyện trước đám đông lúc hóa bánh ra nhiều: 14,19), nhưng thỉnh thoảng Người cảm thấy cần có một lối cầu nguyện đơn sơ và cá nhân như thế. Trong việc này cũng như trong mọi chuyện khác của đời Người, Người là gương mẫu cho ta: không thể tưởng tượng ra một môn đồ Chúa Giêsu không biết bắt chước Người trong việc cầu nguyện.
4) Tin là nhảy xuống nước để đi gặp Chúa Giêsu. Nếu lúc ấy ta sợ, thế của ta sẽ trở nên nguy hiểm hơn lúc ta bằng lòng ở lại trên đò với các kẻ khác. Một khi đã liều, thì phải liều cho đến cùng tận. Nếu không nỗi sợ hãi sẽ nhận chìm ta. Tuy nhiên, dù bấy giờ sợ hãi, dù không còn sức tin tưởng trước cơn bão hoài nghi và chướng ngại, ta vẫn còn có thể kêu lên: “Lạy Chúa, xin cứu con”. Và Người sẽ không bỏ lỡ cơ hội để nói với ta: “Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ!”.
5) Phêrô bắt đầu chìm xuống “lúc thấy gió mạnh” (c.30), ông đã chia trí không nhìn đến sự hiện diện trấn an của Chúa Giêsu. Nhưng ông lại được cứu một khi quay nhìn về Người.
6) Thử thách, khổ đau, thất bại không vùi dập nhận chìm Kitô hữu, nhưng cảnh tỉnh, thanh luyện niềm tin.
[Mục Lục]

Bài 4. Chú giải của Noel Quesson

Đức Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán đám đông.
Tại sao Đức Giêsu bắt buộc các môn đệ xuống thuyền? đi trước? Tại sao Đức Giêsu giờ đây giải tán đám đông sau khi đã nói rằng đám đông không cần đi đâu cả (tức vào các làng mạc mua thúc ăn)? Những chi tiết này không phải là không quan trọng. Chúng có một ý nghĩa và được Matthêu và Máccô thuật lại, nhưng chỉ có Gioan đem lại cho chúng ta một lời giải thích: Việc ban bánh trong sa mạc có một ý nghĩa chỉ về Đấng Mêsia đã làm cho nhiệt tình của đám đông bốc cao lên, họ hoàn toàn cuồng nhiệt bởi sự xuất hiện rất nhiều vị thiên sai ở thời kỳ lịch sử này của Israel.
Các đám đông, với những cảm nghĩ mơ hồ thường thấy và những động tác không kiềm chế lúc đó đã muốn kéo Đức Giêsu trong một cuộc phiêu lưu chính trị tôn giáo như đã có nhiều trong những quốc gia bị La Mã đô hộ và sau cùng tất cả đều kết thúc trong sự đàn áp đẫm máu. “Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên người lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (Ga 6,15). Đức Giêsu cũng biết rất rõ các môn đệ của Người, còn gắn bó với quan điểm về một Đấng Mêsia trần thế “. Họ dễ dàng buông mình theo sự say sưa muốn biểu dương ấy Đức Giêsu buộc họ phải xuống thuyền đi trước.
Vâng Đức Giêsu đôi lúc thấy mình phải đương đầu với những kiểu vấn đề như thế. Một mình người đối phó với mọi người.
Sau khi giải tán đám đông, Người đi riêng lên núi mà cầu nguyện.
Người ta có thể thử tưởng tượng Đức Giêsu tranh luận tay đôi với những kẻ ngoan cố nhất và cuồng nhiệt nhất không muốn giải tán: không tôi không đến để làm chính trị: nước tôi không thuộc về thế gian này… tôi đâu có trách nhiệm cho các ông ăn mỗi ngày… các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát nhưng để có lương thực thường tồn” (Ga 6,27).
Mệt mỏi vì những cuộc tranh luận ấy, khi còn lại một mình, Đức Giêsu cảm thấy nhu cầu cần phải cầu nguyện. Và chúng ta tưởng tượng Người giờ đây trong màn đêm buông xuống, bước theo con đường sỏi đá để lên núi. Bài đọc đầu tiên của Chúa nhật này nhắc nhở chúng ta nhớ rằng “núi” trong Kinh Thánh là nơi ưu việt để “gặp gỡ Thiên Chúa” (1V 19,9) Đó là một chủ đề mà Matthêu ưa thích một cách đặc biệt: núi của các mối Phúc Thật (5,1 )… núi của sự cám dỗ (4,8)… núi của sự biến hình (17,1)… núi của Đấng sống lại (28,16)… Trong những tháng hè này, một số người đi nghỉ hè ở trên núi. Khi chúng ta có cơ hội lên núi, chúng ta có biết tranh thủ để cầu nguyện trong cô tịch và sự im lặng hay không?
Chiều đến, Người vẫn ở đó một mình…
Phải để cho hình ảnh ấy thâm nhập vào tâm hồn chúng ta thật lâu: Đức Giêsu trên đỉnh núi trong bóng đêm, trong sự im lặng từ trái tim đến trái tim đơn độc, trong sự hiệp nhất với Chúa Cha.
Người ta dễ dàng đoán ra Người đọc kinh nào, đêm hôm đó. Người ta đã thử lái Người ra khỏi sứ mạng chủ yếu. Nhưng như một bản năng Người trở lại sứ mạng của mình: Vai trò của Người thuộc về tinh thần dù vai trò ấy có những hậu quả quan trọng trong lãnh vực vật chất. Một lần nữa, Đức Giêsu phải chiến đấu chống lại ma quỷ của thứ chủ nghĩa Mêsia quốc gia đã “hứa hẹn cho Người tất cả các nước thế gian” (Mt 4,8-10). Một sự cám dỗ khủng khiếp, ám ảnh gần gũi; và lặp lại mãi. Sự quyến rũ của sự thành công tức thời mà Đức Giêsu can đảm đẩy lui bởi sự cầu nguyện. Không, người sẽ không là vị “vua” vinh quang và được tôn vinh. Người sẽ là Đấng Mêsia nghèo khó, sống tróng bóng tối, bị đau khổ và cái chết đánh gục. Chiến thắng của Đức Giêsu sống lại từ cái chết chỉ dành cho những ai tin.
Đức Giêsu cũng cầu nguyện nhiều cho các “môn đệ” Người vừa sai đi trước. Người phải nghĩ về Giáo Hội mà người thành lập, và cơn cám dỗ thường xuyên muốn đưa những phương tiện của con người lên hàng đầu. Phần tôi, tôi có tin vào giá trị cầu nguyện không? Nếu xét về bề ngoài và theo tính chất của con người, thời gian mất đi ấy lại vô cùng quan trọng về mặt tâm linh. Thỉng thoảng tôi có cầu nguyện một mình không?
Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ nhiêu dặm, bị sóng đánh vì ngược gió.
Trong động tác bất ngờ của máy quay phim, cũng như trong một phân cảnh tài tình của phim ảnh. Matthêu đi từ hình ảnh Đức Giêsu trên núi qua hình ảnh chiếc thuyền trên mặt biển. Đạo diễn trước tiên tập trung chú ý trên “chiếc thuyền” bằng việc sử dụng bút pháp dị thường: trong lúc Máccô nói các môn đệ phải vất vả chèo chống (Mc 6,48)… thì Mátthêu cũng bằng những chữ ấy nói rằng chiếc thuyền bị sóng đánh vật vã. Tất cả những nhà chú giải từ những giáo phụ đầu tiên của Giáo Hội đã nhìn thấy trong chiếc thuyền ấy là biểu tượng của Giáo Hội. Vào thời thánh Mátthêu, các cộng đoàn Kitô hữu trong thực tế chỉ là những chiếc thuyền mong manh chèo chống khó khăn trên mặt biển đầy sóng gió của ngoại giáo và đi ngược gió!
Vào khoảng canh tư Người đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ.
Cảnh trước đó (Đức Giêsu cầu nguyện trên núi… chiếc thuyền bị sóng đánh) như thế đã kéo dài suốt đêm!
Đối với nhiều người, cảnh Đức Giêsu đi trên mặt biển có thể chỉ có vẻ như một câu chuyện thần tiên, một giai thoại tuyệt vời chỉ tốt cho trẻ em và những kẻ ngây thơ. Khác với các phép lạ chữa bệnh mà chúng ta tưởng lập tức hiểu hết ý nghĩa bởi vì những phép lạ ấy “có ích”, chúng ta ngạc nhiên về những cử chỉ bề ngoài xem ra vô ích: tại sao Đức Giêsu lại không gặp trực tiếp các bạn hữu của mình? vì chúng ta rất hay quên rằng các phép lạ của Đức Giêsu trước hết là những “dấu chỉ”: Đó là những cử chỉ nói được, hoặc có một điều gì nói với chúng ta. Tính chất tượng trưng của chúng đứng hàng đầu, không vì thế mà chối bỏ giá trị sự kiện lịch sử của chúng. Các tác giả Tin Mừng rõ ràng đã đọc lại các biến cố, từ ba yếu tố dùng để giát thích: 1. Sự sống lại của Đức Giêsu… 2. Truyền thống của Cựu Ước… 3. Những nhu cầu của các cộng đoàn mà họ kể lại.
Trong toàn bộ Kinh Thánh, biển là hiện thân của sức mạnh thù địch với con người. Những người Do thái, như nhiều dân tộc sống trong đất liền đặt vào biển mọi nỗi sợ hãi lâu đời dưới hình thức những quái vật huyền thoại như: Lêviathan; Raháp (Tv 104,5-9-26; 106, 9 – 74,13-14; Is 51,9-10). Bão tố, trong mọi ngôn ngữ không chỉ được xem như một hiện tướng tự nhiên như một biểu tượng của những sức mạng xấu nhưng mạnh hơn con người. Còn Thiên Chúa được giới thiệu như Đấng “thống trị biển cả”, Đấng “đi trên mặt biển” (Ga 9,8; Tv 77,20; Kb 3,15). Như thế Đức Giêsu đi trên mặt biển chứng tỏ Đức Giêsu làm được điều mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm: đó là một “biểu hiện của Thiên Chúa”, một sự thần hiện, hình ảnh của sự sống lại…
Những cộng đoàn Kitô hữu HÔM NAY và nói riêng mỗi người chúng ta cần chiêm ngắm Đức Giêsu thống trị sự ác với tất cả quyền Chủ Tể của Người.
Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: “Ma đấy!” và sợ hãi la lên. Đức Giêsu liền bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây đừng sợ!”.
Khẳng định: “Đừng sợ!” đối chiếu cảnh này lúc Người đi trên những vực thẳm của sự chết với cảnh trong lễ Vượt Qua lúc: Người biến hình (Mt 17,7) và sống lại (Mt 28,5-10)…
Mỗi lần một người đến gần Thiên Chúa, trong Kinh Thánh, có một cử chỉ điển hình gồm hai khía cạnh: “sự sợ hãi” chiếm lấy con người… “lời mời gọi đừng sợ” mà Thiên Chúa luôn lặp lại..’ (St 21,17; Is 7,4; Dn 10,19; Lc 1,13; Cv 18,9; Kh 1,17 ). Than ôi, trong cả một đời người không thiếu bão tố. Biết bao lần chúng ta lại không cảm thấy mình như bị buồn nôn khủng khiếp vì say sóng tưởng trút linh hồn (Tv 107,25-27). Chúng ta không chọn lựa cho mình biển hồ và thời tiết xấu… cũng không chọn bão tố, bóng đêm… cũng không chọn những cơn cám dỗ, những cơn thử thách. Và nỗi sợ hãi chiếm lấy chúng ta!
Giờ đây như các môn đệ của biển hồ Galilê, chúng ta được mời gọi cảm nhận sự “hiện diện của Đấng Vắng Mặt”. Lạy Chúa, Chúa ở đây với chúng con trong cơn bão tố này và Chúa lại nói với chúng con: “Chính Thầy đây, hãy cậy trông! Đừng sợ!”.
Ông Phêrô liền thưa với Người: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”. Đức Giêsu bảo ông: “Cứ đến!”. Ông Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu.
Trong Tin Mừng của Thánh Matthêu, Phêrô được giới thiệu như người đứng đầu các tông đồ, “người phát ngôn” của họ (Mt 10,2; 15,15; 16,16-17; 17,24-27; 18, 21).
Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ và khi bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài xin cứu! con với!”. Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?”
“Người đâu mà kém tin vậy!” Chủ đề “đức tin nhỏ bé” là một trong những chủ đề mà Matthêu không ngừng nhấn mạnh (6,30; 8,26; 14,31; 16,8; 17,20). “Người có đức tin quá nhỏ bé… bước đầu của đức tin… đức tin không hoàn hảo…” chúng ta nhận thấy mình trong cách diễn tả đức tin không phải là một đồ vật làm sẵn, có được một lần là xong. Đúng hơn đó là một “sự sống” đang tăng trưởng hoặc đang suy thoái. Đó là một “lịch sử” đang vận hành và vì là quan hệ giữa hai người nên không ngừng biến đổi.
Đức Giêsu chấp nhận sự yếu đuối đức tin của chúng ta nhưng nmời gọi chúng ta tiến bộ. Và chính trong thử thách, trong bão tố mà “đức tin nhỏ bé, kém cỏi” của chúng ta được thẩm định và thực hành.
Ở đây đức tin được trình bày trong một bối cảnh bi đát như một cuộc chiến đấu chống lại sự hồ nghi và sợ hãi. Phêrô người tín hữu đầu tiên không được đặt lên hàng đầu vì những phẩm chất cá nhân. Chúng ta thấy ông đã hụt chân, như buổi tối mà ông đã chối Chúa ba lần sau khi hung hăng lớn tiến tuyên bố lòng trung tín (Mt 26,35.69.75)
Tuy nhiên giữa lúc hoài nghi, ông cầu nguyện: “Thưa Ngài, xin cứu con với! Kyrie eleison!”.
Vậy sơ đồ của đức tin chúng ta là gì: một lời kêu gọi của Đức Giêsu bảo chúng ta “Hãy đến.!” một cuộc hành trình trên những vực thẳmcủa sự phi lý bề ngoài của đức tin..sự hoài nghi làm chao đảo… sự chỉnh đốn hoàn toàn của Đấng cầm tay chúng ta.
Khi Thầy trò lên thuyền, thì gió yên lặng ngay.
Một nhận xét đơn giản bề ngoài không quan trọng đối với người đọc quá nhanh.
Một lần nữa, đây là một chi tiết tượng trưng mà hình ảnh đã lên tiếng: “Thầy trò” cả hai đã lên thuyền, và gió lặng. Đức Giêsu và Phêrô cứu chiếc thuyền này trong cơn tai biến.
Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!”
Trong sách Tin Mừng Matthêu, đây là sự tuyên xưng đức tin đầu tiên. Chúng ta phải giữ lại trang Tin Mừng này cho cơn bão tố sắp tới của chúng ta. Phêrô suốt đời sẽ nhớ lại điều này, khi ông sẽ bước vào những cơn giông tố khác trầm trọng hơn ở Rôma vào thời của Vua Nêrôn.
[Mục Lục]

Bài 5. Hãy an tâm vì luôn có Chúa
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Chúa nhật vừa qua, chúng ta nghe thánh Matthêu thuật lại phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều (x. Mt 14, 13-21), tiếp theo là biến cố Chúa biến hình trên núi (x. Mt 17, 1-9) và hôm nay chúng ta nghe tiếp Chúa Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ (x. Mt 14, 22-33).
Êlia và Phêrô là hai nhân vật nổi bật của tuần này. Êlia chứng kiến ba sự kiện trên trái đất làgió bão, động đất và lửa, Thiên Chúa đều không hiện diện ở đó. Giữa sức mạnh của vũ trụ với tiếng gió hui hui, Êlia phải học phân định để nghe thấy lời trong thinh lặng, hay trong chính bản thân mình (x.1 V 19, 9a. 11-13a).
Trước khi đề cập đến Phêrô, chúng ta không thể không nói đến các môn đệ được Chúa Giêsu”giục xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước” (14, 22), còn dân chúng, những người Do thái được giải tán, theo một nghĩa nào đó, họ là “những người ở bên này“. Việc các môn đệ phải “sang bờ bên kia“, nghĩa là các ông phải vượt qua những thực tại hữu hình, tạm thời của thân xác, bước sang sự vĩnh cửu vô hình. Dĩ nhiên, các ông không thể cập bờ bên kia trước Chúa Giêsu ; các ông phải trải qua kinh nghiệm không có Thầy, họ không thể tới bến bình an.
Có chuyện gì mà Chúa Giêsu buộc các môn đệ phải xuống thuyền ? Phải chăng là để chống lại cơn cám dỗ và các tình huống khó khăn ? Chắc chắn có một cơn giống tố trong lòng các ông và ở biển hồ Galilêa. Vì chưa hiểu dấu chỉ phép lạ hóa bánh ra nhiều, nên các ông đã theo dân chúng muốn tung hô Chúa làm vua ! Giờ đây họ cảm thấy thế gian sợ hãi và xao xuyến biết bao !
Người lên núi cầu nguyện một mình” (Mt 14, 23). Người cầu nguyện cho ai ? Chắc chắn là cho dân chúng vừa giải tán, sau khi đã được ăn bánh no nê, họ không biết phải làm gì. Chúa Giêsu cũng cầu cho các môn đệ, ở giữa biển khơi đang bị kiệt sức bởi sóng đánh vì ngược gió khỏi mọi sự dữ. Chính nhờ lời cầu nguyện của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha mà các môn đệ không bị chìm vì sóng to gió lớn.
Còn Phêrô, được Chúa Giêsu mời gọi bằng kinh nghiệm đức tin. Ông xin Thầy cho được đi trên mặt nước (x. Mt 14, 28). Chúa Giêsu đã ban cho ông quyền đi trên biển. Biển, tượng trưng cho mãnh lực của sự dữ và sự chết ; Chúa Giêsu đi trên mặt biển, là đi trên sự chết, thể hiện sự chiến thắng của Người trên sự dữ và sự chết. Toàn bộ mầu nhiệm Phục sinh là ở chỗ Chúa Giêsu chiến thắng sự chết và biển cả. Theo quan niệm của người Do thái, biển là sào huyệt của sự chết. Đi trên biển là liều chết. Chính sự rủi ro này mà khi Phêrô đáp lại lời gọi của Chúa Giêsu, “xuống khỏi thuyền, bước đi trên mặt nước“(Mt 14, 29), là ông giẫm chân trên sự chết. Nên không có lạ, khi ông nghi ngờ.
Chỉ khi Phêrô tin và phó thác vào Thầy, ông mới có thể đi trên mặt nước. Ông bị chìm xuống lúc ông nghi ngờ. Thấy gió mạnh, ông sợ, sự sợ hãi trước tai ương của thế gian này lại giúp cho ông tin vào quyền năng của Thầy. Chính lúc ông thôi tin vào Chúa, ông mất quyền đi trên biển, và chìm xuống. Khi đi được trên mặt nước chứng tỏ Phêrô tin, lúc chìm xuống cho thấy ông không tin. Thật là đức tin ngược đời, vì chính lúc ông không cậy dựa vào Chúa, ông bị chìm, ông lại kêu Chúa cứu.
Với lời kêu cứu của Phêrô : “Lạy Thầy, xin cứu con!” (Mt 14, 30) Chúa Giêsu đáp lại bằng cử chỉ và lời. Người giơ tay nắm lấy ông và trách : “Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?” (Mt 14, 31) Khi gió thổi mạnh, nỗi sợ hãi và nghi ngờ về quyền năng của Chúa đột nhập vào Phêrô, một con người yếu lòng tin. Cứu ông lên khỏi nước, Chúa Giêsu dạy ông rằng, tình thầy trò không phải là đức tin của người môn đệ, nhưng là lòng trung thành của Thầy. Cảnh tượng trên phơi bày sự cao cả cũng như thấp hèn của người môn đệ. “Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: “Thật, Thầy là Con Thiên Chúa” (Mt 14, 32-33). Quả thật, niềm tin vào Con Thiên Chúa chỉ có được sau một hành trình dài của đau khổ, chết và phục sinh của Đức Giêsu Con Thiên Chúa.
Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ trên biển : “Thầy đây, đừng sợ. Ma đâu có xương có thịt như Thầy có đây“, cũng là lời Chúa nói với các ông sau khi Chúa phục sinh “Tại sao các con run sợ, tại sao các con nghi ngờ… chính Thầy đây, hãy xem tay chân Thầy đây“. Hai khung cảnh khác nhau về thời gian nhưng đều có một điểm chung là run sợ, kém lòng tin và nghi ngờ, cả hai lần Chúa Giêsu đều khẳng định “chính Thầy đây mà” (x. Lc 24 ; Mt 14).
Ở cuối trình thuật, các môn đệ được mô tả là những người tin khi sấp mình xuống thờ lạy Chúa. Còn Phêrô, mỏng giòn, yếu đuối, Chúa Giêsu lại trao Giáo hội cho ông. Chúa Giêsu sẽ đồng hành cùng Giáo hội. Như Phêrô, người yếu tin, chúng ta cần có bàn tay của Chúa kéo chúng ta lên, bước vào con thuyền Giáo hội để sang bờ bên kia.
Phần chúng ta, nếu một ngày nào đó chúng ta phải đương đầu với các cơn cám dỗ không thể tránh được, hãy nhớ rằng Chúa Giêsu buộc chúng ta xuống thuyền ; từ bờ bên này sang bờ bên kia không thể không có sóng gió. Và khi chúng ta thấy những khó khăn, vất vả, mệt nhọc giữa đời vây quanh ta, thuyền của chúng ta đang ở giữa đại dương mênh mông, với những cơn sóng đang tìm cách nhấn chìm đức tin của chúng ta. Chúng ta hãy vững tin rằng, Con Thiên Chúa sẽ đi trên mặt nước đến gần chúng ta, giơ tay kéo chúng ta lên; Chúa chỉ mong đợi chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào Chúa.
Lạy Mẹ Maria, gương mẫu về lòng tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa, xin giúp chúng con vững tin vào Chúa, để giữa bao bận tâm, lo lắng, khó khăn giữa biển cả cuộc đời đang làm chúng con giao động, chúng con vẫn nghe thấy lời trấn an của Chúa Giêsu, Con Mẹ : “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!” (Mt 14, 27). Amen.
[Mục Lục]

Bài 6. Sóng đời
Trầm Thiên Thu

Khi nói đến sóng, người ta nghĩ ngay tới biển. Sóng có lúc rất hiền hòa, rất thơ mộng khi sóng “mơn man vỗ mạn thuyền”, do đó mà người ta áp dụng nghĩa này cho vấn đề trừu tượng và gọi là “lãng mạn”. Sóng cồn dù dữ dội nhưng là sóng nổi, không đáng sợ bằng sóng ngầm, không thể nhìn thấy. Sóng còn khủng khiếp hơn nếu đó là sóng bạc đầu hoặc sóng thần, điển hình là sóng thần tại Nhật Bản ngày 11-3-2011 đã cuốn mất khoảng 16.000 người và quét sạch mọi thứ vào lòng biển khơi.
Trong ca khúc “Sóng Về Đâu”(*), cố NS Trịnh Công Sơn nói: “Biển sóng biển sóng đừng xô tôi, đừng xô tôi ngã dưới chân người; biển sóng biển sóng đừng xô nhau, ta xô biển lại sóng về đâu?… Biển sóng biển sóng đừng xô tôi, đừng xô tôi ngã giữa tim người… Biển sóng biển sóng đừng âm u đừng nuôi trong ấy trái tim thù”. Ca từ của ông đầy triết lý sống. Biển vừa hiền vừa dữ. Biển sâu thẳm và bao la yêu thương, lòng biển không bao giờ lặng, luôn động, dù có lúc nhìn biển rất tĩnh. Biển như đời người vậy!
Sóng còn gọi là ba đào (dậy sóng – ba: sóng, đào: nổi dậy). Có loại sóng dữ dội và dai dẳng hơn các loại sóng, đó là sóng đời. Chúng ta đang miệt mài hành trình lữ hành trần gian, lênh đênh trên biển đời, luôn gặp những loại sóng đời – đủ dạng và đủ cỡ. Không vững tay chèo là thuyền đời chìm ngay. Vì thế, lúc nào chúng ta cũng phải phát tín hiệu báo khẩn: S.O.S., lạy Thiên Chúa!
Thiên Chúa hiện diện mọi nơi và thể hiện trong mọi sự, kể cả những thứ chúng ta cho là không tốt, nhưng Thiên Chúa không làm điều không tốt. Chính đau khổ và những thứ không tốt xảy ra cho chúng ta, không phải Ngài không biết, nhưng Ngài cho phép nó xảy ra theo tự nhiên để dạy chúng ta bài học giá trị. Có thể đó là hậu quả do sai lầm của chúng ta hoặc của người khác, nhưng cũng có thể đó là để làm vinh danh Chúa – như trường hợp người mù bẩm sinh (Ga 9:1-3). Tội lỗi cũng có tính liên đới.
Khi ông Êlia vào một cái hang và nghỉ đêm tại đó. Đức Chúa hỏi ông: “Êlia, ngươi làm gì ở đây?”(1 V 19:9). Rồi Ngài nói với ông: “Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt Đức Chúa. Kìa Đức Chúa đang đi qua.
Gió to, bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá tảng trước nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa không ở trong cơn gió bão. Sau đó là động đất, nhưng Đức Chúa không ở trong trận động đất. Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa có tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe tiếng đó, ông Êlia lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang. Ông nhận biết Đức Chúa đang ở trong làn gió nhẹ đó. Quả thật, lúc đó có tiếng hỏi ông như trước: “Êlia, ngươi làm gì ở đây?”(1 V 19:13). Ông thưa: Lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh, nung nấu con, vì con cái Ít-ra-en đã bỏ giao ước với Ngài, phá huỷ bàn thờ, dùng gươm sát hại các ngôn sứ của Ngài. Chỉ sót lại một mình con mà họ đang lùng bắt để lấy mạng con”(1 V 19:14).
Không dễ để lắng nghe tiếng Chúa hoặc nhận biết ý Chúa, ví thế mà chúng ta phải không ngừng cố gắng lắng nghe để nhận biết ý Ngài, rồi tiếp tục cố gắng chấp nhận và thực hiện, người có lòng nhiệt thành đối với Chúa thì sẽ để ý Chúa nên trọn chứ không mong ý mình nên trọn. Về lĩnh vực này, chúng ta lại thường có xu hướng trái ngược, vì chúng ta luôn thích “xin được như ý”.
Tác giả Thánh Vịnh chia sẻ: “Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán, điều Chúa phán là lời chúc bình an cho dân Người, cho kẻ trung hiếu và những ai hướng lòng trí về Người. Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Chúa, để vinh quang của Người hằng chiếu toả trên đất nước chúng ta”(Tv 85:9-10).
Ở đâu có Chúa thì mọi sự đều tốt đẹp: “Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hoà bình công lý đã giao duyên. Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao. Vâng, chính Chúa sẽ tặng ban phúc lộc và đất chúng ta trổ sinh hoa trái. Công lý đi tiền phong trước mặt Người, mở lối cho Người đặt bước chân”(Tv 85:11-14). Điều này cũng có nghĩa là, nếu ở đâu vắng Chúa thì mọi sự sẽ hoang vu và nguy hiểm.
Phải mau đón Chúa vào lòng, càng sớm càng tốt, trước khi công lý được áp dụng, trước khi hết thời gian thương xót. Thiên Chúa vẫn kiên trì chờ đợi chúng ta trở về như người cha nhân hậu mong ngóng đứa con hoang đàng trở về (Lc 15:11-32). Ai khôn ngoan thì biết tỉnh thức đợi chờ Ngài như mười trinh nữ khôn ngoan chờ đón chàng rể (Mt 25:1-13), vì “thời gian không chờ đợi ai – time waits for no man”. Lý do? Bởi vì “Chúa đã gần đến”(Pl 4:5), “ngày Chúa quang lâm đã gần tới”(Gc 5:8), và “thời giờ đã gần đến”(Kh 1:3; Kh 22:10). Đó là không ngừng rèn luyện Đức Tin, để khi gặp thử thách sẽ không bị chao đảo, không như hạt giống rơi vào đất sỏi đá hoặc bụi gai.
Tỉnh thức chờ Chúa như vậy thì không ai có thể ngồi yên, luôn như biển động, luôn nổi sóng, khi sóng nhỏ, lúc sóng to. Thánh Phaolô cũng đã luôn đứng ngồi không yên. Ông thề có Đức Kitô chứng giám, rồi nói sự thật chứ không nói dối, nhờ Thánh Thần hướng dẫn:“Lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không ngơi”(Rm 9:2). Sao vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Kitô, tôi cũng cam lòng. Họ là người Ít-ra-en, họ đã được Thiên Chúa nhận làm con, được Người cho thấy vinh quangban tặng các giao ước, lề luật, một nền phụng tự và các lời hứa; họ là con cháu các tổ phụ; và sau hết, chính Đức Kitô, xét theo huyết thống, cũng cùng một nòi giống với họ. Người là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn thuở muôn đời. Amen”(Rm 9:3-5). Có Chúa thì hạnh phúc và vinh dự như thế đấy!
Nhưng nói rồi quên, hứa rồi thôi. Phàm nhân khốn nạn lắm thôi. Không chỉ nghe người khác nói mà chứng kiến tận mắt, thế mà chúng ta vẫn chưa dám tin thật. Ôi thôi, con người ơi!
Vào một buổi chiều nọ, có lẽ trời quang mây tạnh, đẹp lắm, thú vị lắm. Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn no, Đức Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Ngài giải tán dân chúng, vì chắc chắn dân chúng lưu luyến Ngài, khoái Ngài lắm, không thể về được, dù trời đã gần tối. Mãi mới giải tán được. Khi giải tán họ xong, Ngài lên núi một mình mà cầu nguyện. Tối đến, Ngài vẫn ở đó một mình. Chúa Giêsu luôn thích sống tĩnh lặng để kết hiệp với Chúa Cha qua lời cầu nguyện. Ngài luôn căn dặn mọi người phải cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Lc 22:40-46), cầu nguyện còn là sức sống và là sức mạnh của linh hồn. Thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì mới là hoạt động.
Khi Chúa Giêsu ở một mình và cầu nguyện, chiếc thuyền chở các môn đệ đã ra xa bờ đến cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió. Vào khoảng canh tư – tức là quá nửa đêm về sáng, Ngài đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. Thấy Ngài đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: “Ma đấy!”, và sợ hãi la lên. Đức Giêsu liền bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!”(Mt 14:27). Nghe vậy, ông Phêrô bán tín bán nghi nên liền thưa:“Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”(Mt 14:28). Đức Giêsu ôn tồn bảo ông: “Cứ đến!”. Ông Phêrô hí hửng bước ngay xuống khỏi thuyền, đi trên mặt nước mà đến với Đức Giêsu. Vô tư. Rất ngon lành. Thế nhưng khi thấygió thổi, ông đâm sợ, hồn xiêu phách lạc, chín vía lên mây ráo trọi, và khi bắt đầu chìm, ông la toáng lên: “Sư Phụ ơi, xin cứu đệ tử với!”(Mt 14:30).
Cuộc đời chúng ta cũng vậy, có hơn gì Phêrô nhà ta đâu. Biển đời chỉ mới gợn sóng lăn tăn thôi, vậy mà thuyền đời của chúng ta đã tròng trành tưởng chừng chìm đến nơi. Lòng tin tích góp bao năm, giờ bỗng “bốc hơi”muốn cạn kiệt; cây đức tin vun tưới bao năm, giờ bỗng héo úa mau chóng. Lạy Chúa tôi! Đức tin chỉ “sống”khi dòng đời êm ả, khi tiệc tùng linh đình, khi ung dung rung đùi, khi được người ta tâng bốc lên tận mây xanh,… Còn khi gặp phải gió xoáy hoặc gió lốc, con-thuyền-đức-tin quay tít như chong chóng, chẳng còn biết đâu là phương hướng!
Thấy đệ tử Phêrô ngoi ngóp trong dòng nước, có thể bụng nhiều nước rồi, Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?”(Mt 14:31). Lời trách nhẹ nhàng mà đau điếng. Đó cũng là lời trách mà Thầy Giêsu đang nói với mỗi chúng ta hôm nay, ngay bây giờ.
Khi thầy trò đã lên thuyền thì gió yên, biển lặng ngay. Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Ngài và nói: “Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa!”(Mt 14:33). Đó là bài học đức tin vô giá mà Chúa Giêsu dạy chúng ta ngay trong những lúc chúng ta gặp cơn sóng gió của cuộc đời. Ước gì chúng ta khả dĩ nhận biết mình yếu kém về đức tin, nhờ đó mà có thể cố gắng chăm sóc cây đức tin ngày càng lớn mạnh.
Cuộc đời không như thảm lụa hoặc như chiếu trải hoa hồng. Thiên nhiên còn lúc nắng, lúc mưa, lúc hạn hán, lúc mưa dầm, thậm chí là áp thấp hoặc bão tố. Cụ Nguyễn Công Trứ đã đặt vấn đề: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?”. Giữa sóng gió cuộc đời, dù nhỏ hay lớn, ước gì chúng ta vẫn luôn khả dĩ xác tín với Đức Giêsu Kitô:“Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa!”(Mt 14:33).
Liên quan đức tin, Thánh Tiến sĩ Teresa Avila xác định: “Tất cả tội lỗi đều do thiếu đức tin mà ra”. Câu này đáng để chúng ta phải “giật mình”mà cố gắng tự chấn chỉnh và vun xới đức tin lắm. Và đừng quên: “S.O.S., Chúa ơi!”.
Lạy Thiên Chúa, xin cứu và giúp chúng con biết tín thác vào Ngài trong mọi hoàn cảnh như Tổ Phụ Ápraham, như Thánh Gióp, như Đức Maria, và như Đức Giuse, nhất là khi biển đời chúng con đầy những đợt sóng vỗ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
(*) Theo lời kể của NS Trịnh Công Sơn, ca khúc này được lấy cảm hứng từ câu chú Bát Nhã: “Gate gate paragate parasamgate bodhi svaha”. Nghiã là: “Qua rồi, qua rồi, qua bờ rồi, qua bờ hết rồi, giác ngộ rồi, vậy đó”.
[Mục Lục]

Bài 7. Điểm tựa duy nhất trên cõi đời
Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Vào canh tư đêm ấy (khoảng ba giờ sáng), đang khi các môn đệ vật vã chèo chống con thuyền ngược gió giữa sóng cả trùng khơi thì bỗng phát hiện một bóng ma chập chờn trên sóng nước. Mọi người hốt hoảng la lên. Nào ngờ đó lại là Chúa Giê-su. Ngài trấn an họ: “Chính Thầy đây! Đừng sợ!”. Biết vậy, Phê-rô hăm hở đòi đi trên nước như Thầy: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài thì xin truyền cho con đi trên mặt nước và đến cùng Ngài”.
Được Chúa chấp thuận, Phê-rô bước ra khỏi thuyền, bước chân chao đảo trên sóng nước như người say. Nhưng khi giáp mặt với gió to sóng dữ giữa đêm đen, Phê-rô quá đỗi kinh hoàng nên bị chìm xuống. Ông hoảng hốt kêu lên: “Lạy Thầy, xin mau cứu con!”
Lập tức, Chúa Giê-su nắm lấy tay Phê-rô, kéo ông lên rồi đưa ông vào thuyền bình an vô sự.
Sống trên đời nầy, chúng ta cũng như Phê-rô đi trên mặt biển. Mọi sự chung quanh đều chao đảo, bấp bênh. Mạng người quá đỗi mong manh. Kiếp người như ngọn đèn lung linh trước gió, như giấc chiêm bao!
Cuộc đời đầy dẫy tai ương
Những thiên tai xảy ra dồn dập khắp nơi trên thế giới: bão tố, lũ lụt, động đất, sóng thần, lốc xoáy… đã gây ra tổn thất khủng khiếp và cướp đi rất nhiều nhân mạng.
Bên cạnh đó, những tai hoạ do con người gây ra cũng khủng khiếp và tàn bạo không kém: chiến tranh, bạo lực, khủng bố… lan tràn.
Trước những tai ương hoạn nạn đó, con người biết tìm đâu nơi nương tựa vững bền? Biết bám víu vào ai để bảo toàn mạng sống? Biết dựa vào sức mạnh nào để đương đầu?
Tìm đâu ra một điểm tựa vững bền?
Tựa vào tiền của ư? Tiền của không mua được sức khoẻ và sự sống. Những tỷ phú giàu nhất thế giới cũng không thoát khỏi bệnh tật, tai ương và chết chóc.
Tựa vào địa vị, chức quyền ư? Những tổng thống, vua chúa quyền lực nhất thế gian cũng chỉ được ngồi trên ngai trong thời hạn ngắn rồi bị truất phế và tất cả không trừ ai đã vùi thây dưới mộ.
Tựa vào khoa học kỹ thuật tiên tiến ư? Nền kinh tế lớn mạnh và trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến của Nhật cũng không cứu được dân tộc Nhật Bản khỏi đại họa sóng thần khủng khiếp tàn phá Nhật Bản vào ngày 11 tháng 3 năm 2011.
Mọi thứ đều bấp bênh
Hành trình của con người trên dương gian không khác chi hành trình của Phê-rô trên mặt nước; nhìn trước, nhìn sau, nhìn lui, nhìn tới, mọi thứ đều chao đảo, tất cả đều bấp bênh, chẳng có gì vững bền. “Ôi nhân sinh là thế: như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao”(Nguyễn Công Trứ)
Biết nương tựa vào đâu?
Con người không thể dựa vào người khác vì tất cả những người khác cũng đang ở trong tư thế bấp bênh, chao đảo như mình. Một chiếc tàu sắp đắm không thể cứu vớt chiếc tàu khác cũng đang chìm đắm như mình.
Cần phải có một “quyền lực”nào đó ở bên trên, ở một bờ bến vững vàng, mới có thể cứu vớt những ai đang chìm đắm trong biển đời chao đảo.
Hãy nắm lấy bàn tay Chúa Giê-su
Duy chỉ có bàn tay Chúa Giê-su mới có đủ quyền năng cứu vớt mọi người trên dương thế và bàn tay ấy luôn đưa tay ra để nâng đỡ, dìu dắt, cứu vớt bao người.
Bàn tay Chúa Giê-su đã đẩy lùi bệnh tật ra khỏi kiếp người: chạm đến những người phong hủi khiến những người nầy được sạch (Mt 8,3); đặt lên “những người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn và họ được chữa lành”(Lc 4, 40)
Bàn tay Chúa Giê-su trả lại ánh sáng cho người mù tối: chạm đến mắt người mù khiến y được sáng. (Mt 9,29. 20, 34))
Bàn tay Chúa Giê-su đã lôi kéo con người ra khỏi cõi chết: nắm lấy bàn tay bé gái đã chết và trả lại sự sống cho em. (Mt 9,24)
Và cũng chính bàn tay ấy đã đưa ra nắm lấy tay Phê-rô đang chới với giữa sóng gió hãi hùng, kéo ông khỏi bị chìm đắm và đưa ông vào trong lòng thuyền bình an vô sự. (Mt 14, 31)
Lạy Chúa Giê-su,
Chỉ có Chúa và duy chỉ có một mình Chúa mới là điểm tựa duy nhất cho nhân loại đang chơi vơi, chao đảo giữa biển đời tăm tối hãi hùng.
Xin soi sáng cho nhân loại hôm nay khám phá ra bàn tay đầy quyền năng của Thiên Chúa Tình Yêu đang luôn vươn ra để che chở và cứu vớt mọi người.
Xin cho chúng con được trở thành bàn tay nối dài của Chúa, sẵn sàng đưa ra nắm lấy những bàn tay khác đang gặp sóng gió gian nan.
[Mục Lục]

Bài 8. Hãy an tâm vì luôn có Chúa
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Chúa nhật vừa qua, chúng ta nghe thánh Matthêu thuật lại phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều (x. Mt 14, 13-21), tiếp theo là biến cố Chúa biến hình trên núi (x. Mt 17, 1-9) và hôm nay chúng ta nghe tiếp Chúa Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ (x. Mt 14, 22-33).
Êlia và Phêrô là hai nhân vật nổi bật của tuần này. Êlia chứng kiến ba sự kiện trên trái đất làgió bão, động đất và lửa, Thiên Chúa đều không hiện diện ở đó. Giữa sức mạnh của vũ trụ với tiếng gió hiu hiu, Êlia phải học phân định để nghe thấy lời trong thinh lặng, hay trong chính bản thân mình (x.1 V 19, 9a. 11-13a).
Trước khi đề cập đến Phêrô, chúng ta không thể không nói đến các môn đệ được Chúa Giêsu “giục xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước” (14, 22), còn dân chúng, những người Do thái được giải tán, theo một nghĩa nào đó, họ là “những người ở bên này“. Việc các môn đệ phải “sang bờ bên kia“, nghĩa là các ông phải vượt qua những thực tại hữu hình, tạm thời của thân xác, bước sang sự vĩnh cửu vô hình. Dĩ nhiên, các ông không thể cập bờ bên kia trước Chúa Giêsu ; các ông phải trải qua kinh nghiệm không có Thầy, họ không thể tới bến bình an.
Có chuyện gì mà Chúa Giêsu buộc các môn đệ phải xuống thuyền? Phải chăng là để chống lại cơn cám dỗ và các tình huống khó khăn? Chắc chắn có một cơn giống tố trong lòng các ông và ở biển hồ Galilêa. Vì chưa hiểu dấu chỉ phép lạ hóa bánh ra nhiều, nên các ông đã theo dân chúng muốn tung hô Chúa làm vua ! Giờ đây họ cảm thấy thế gian sợ hãi và xao xuyến biết bao !
Người lên núi cầu nguyện một mình” (Mt 14, 23). Người cầu nguyện cho ai? Chắc chắn là cho dân chúng vừa giải tán, sau khi đã được ăn bánh no nê, họ không biết phải làm gì. Chúa Giêsu cũng cầu cho các môn đệ, ở giữa biển khơi đang bị kiệt sức bởi sóng đánh vì ngược gió khỏi mọi sự dữ. Chính nhờ lời cầu nguyện của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha mà các môn đệ không bị chìm vì sóng to gió lớn.
Còn Phêrô, được Chúa Giêsu mời gọi bằng kinh nghiệm đức tin. Ông xin Thầy cho được đi trên mặt nước (x. Mt 14, 28). Chúa Giêsu đã ban cho ông quyền đi trên biển. Biển, tượng trưng cho mãnh lực của sự dữ và sự chết ; Chúa Giêsu đi trên mặt biển, là đi trên sự chết, thể hiện sự chiến thắng của Người trên sự dữ và sự chết. Toàn bộ mầu nhiệm Phục sinh là ở chỗ Chúa Giêsu chiến thắng sự chết và biển cả. Theo quan niệm của người Do thái, biển là sào huyệt của sự chết. Đi trên biển là liều chết. Chính sự rủi ro này mà khi Phêrô đáp lại lời gọi của Chúa Giêsu, “xuống khỏi thuyền, bước đi trên mặt nước” (Mt 14, 29), là ông giẫm chân trên sự chết. Nên không có lạ, khi ông nghi ngờ.
Chỉ khi Phêrô tin và phó thác vào Thầy, ông mới có thể đi trên mặt nước. Ông bị chìm xuống lúc ông nghi ngờ. Thấy gió mạnh, ông sợ, sự sợ hãi trước tai ương của thế gian này lại giúp cho ông tin vào quyền năng của Thầy. Chính lúc ông thôi tin vào Chúa, ông mất quyền đi trên biển, và chìm xuống. Khi đi được trên mặt nước chứng tỏ Phêrô tin, lúc chìm xuống cho thấy ông không tin. Thật là đức tin ngược đời, vì chính lúc ông không cậy dựa vào Chúa, ông bị chìm, ông lại kêu Chúa cứu.
Với lời kêu cứu của Phêrô : “Lạy Thầy, xin cứu con!” (Mt 14, 30) Chúa Giêsu đáp lại bằng cử chỉ và lời. Người giơ tay nắm lấy ông và trách : “Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?” (Mt 14, 31) Khi gió thổi mạnh, nỗi sợ hãi và nghi ngờ về quyền năng của Chúa đột nhập vào Phêrô, một con người yếu lòng tin. Cứu ông lên khỏi nước, Chúa Giêsu dạy ông rằng, tình thầy trò không phải là đức tin của người môn đệ, nhưng là lòng trung thành của Thầy. Cảnh tượng trên phơi bày sự cao cả cũng như thấp hèn của người môn đệ. “Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: “Thật, Thầy là Con Thiên Chúa” (Mt 14, 32-33). Quả thật, niềm tin vào Con Thiên Chúa chỉ có được sau một hành trình dài của đau khổ, chết và phục sinh của Đức Giêsu Con Thiên Chúa.
Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ trên biển : “Thầy đây, đừng sợ. Ma đâu có xương có thịt như Thầy có đây“, cũng là lời Chúa nói với các ông sau khi Chúa phục sinh “Tại sao các con run sợ, tại sao các con nghi ngờ… chính Thầy đây, hãy xem tay chân Thầy đây“. Hai khung cảnh khác nhau về thời gian nhưng đều có một điểm chung là run sợ, kém lòng tin và nghi ngờ, cả hai lần Chúa Giêsu đều khẳng định “chính Thầy đây mà” (x. Lc 24 ; Mt 14).
Ở cuối trình thuật, các môn đệ được mô tả là những người tin khi sấp mình xuống thờ lạy Chúa. Còn Phêrô, mỏng giòn, yếu đuối, Chúa Giêsu lại trao Giáo hội cho ông. Chúa Giêsu sẽ đồng hành cùng Giáo hội. Như Phêrô, người yếu tin, chúng ta cần có bàn tay của Chúa kéo chúng ta lên, bước vào con thuyền Giáo hội để sang bờ bên kia.
Phần chúng ta, nếu một ngày nào đó chúng ta phải đương đầu với các cơn cám dỗ không thể tránh được, hãy nhớ rằng Chúa Giêsu buộc chúng ta xuống thuyền ; từ bờ bên này sang bờ bên kia không thể không có sóng gió. Và khi chúng ta thấy những khó khăn, vất vả, mệt nhọc giữa đời vây quanh ta, thuyền của chúng ta đang ở giữa đại dương mênh mông, với những cơn sóng đang tìm cách nhấn chìm đức tin của chúng ta. Chúng ta hãy vững tin rằng, Con Thiên Chúa sẽ đi trên mặt nước đến gần chúng ta, giơ tay kéo chúng ta lên; Chúa chỉ mong đợi chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào Chúa.
Lạy Mẹ Maria, gương mẫu về lòng tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa, xin giúp chúng con vững tin vào Chúa, để giữa bao bận tâm, lo lắng, khó khăn giữa biển cả cuộc đời đang làm chúng con giao động, chúng con vẫn nghe thấy lời trấn an của Chúa Giêsu, Con Mẹ : “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ! ” (Mt 14, 27). Amen.
[Mục Lục]

Bài 9. ĐỪNG SỢ! THẦY ĐÂY MÀ
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Sống ở trên đời, ai cũng có lúc phải lo âu, sợ hãi. Sợ vì gặp thử thách nguy gian.Sợ ma, hoặc sợ người hung ác, dữ tợn. Tin Mừng của thánh Matthêu hôm nay cũng cho chúng ta hiểu nỗi sợ hãi của các tông đồ khi vắng mặt Chúa Giêsu trên thuyền lúc gió to sóng lớn. Chúa Giêsu đã can thiệp kịp thời khi đi trên mặt biển mà đến với các tông đồ. Chúa lên thuyền thì làm cho sóng lặng gió yên, làm cho tâm hồn các tông đồ bình an, vững tin vào Ngài…
Chúa Giêsu giới thiệu Nước Trời và cho mọi người thấy, Nước Trời đang hiện diện với sự có mặt của Người. Ngài huấn luyện các tông đồ để các tông đồ sẽ là nền tảng vững chắc cho Giáo Hội của Chúa sau này. Thánh Matthêu qua câu chuyện Chúa Giêsu đi trên mặt nước và làm cho sóng gió yên lặng. Chúa Giêsu muốn nhắc nhở cho thánh Phêrô, người sẽ làm đầu Giáo Hội và các tông đồ hãy vững tin vào Ngài, vì không có Ngài các tông đồ không thể làm gì được. Sóng gió mênh mông.Gió to biển động như muốn nhận chìm con thuyền Giáo Hội. Sức mạnh của ma quỷ, của sự dữ như muốn nuốt chửng các tông đồ. Nhưng Chúa luôn luôn hiện diện, luôn can thiệp đúng lúc, đúng thời, vẫn giơ tay nắm lấy các tông đồ để các Ngài và Giáo Hội luôn tồn tại… Chúa Giêsu cầu nguyện. Ngài vẫn thường cầu nguyện, Ngài có thói quen cầu nguyện vào ban đêm và ở nơi thanh vắng. Thánh Matthêu nhắc tới Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện như cho chúng ta thấy Chúa Giêsu là Môsê khác, vì Môsê vẫn lên núi để gặp Giavê. Thuyền của các tông đồ đi đánh cá trên biển hồ Tibêriat, với mặt biển rộng 12 cây số. Các tông đồ đang có mặt trên biển hồ Gênêsaret vào khoảng 3 tới 6 giờ sáng. Tin Mừng cho hay lúc đó bão táp nổi lên, các tông đồ hoang mang sợ sệt vì không có Chúa ở đó, Ngài đang cầu nguyện. Khi Chúa xuất hiện Ngài nói với các tông đồ : “Chính Thầy đây, đừng sợ”. Câu nói này làm cho chúng ta liên tường đến một kiểu nói quen thuộc của Cựu Ước để chỉ về Gia Vê Thiên Chúa. Môsê đã dùng câu nói ấy để làm cho dân Chúa an tâm, vững tin.Giờ phút này, chính Chúa Giêsu dùng từ ngữ ấy để làm cho các tông đồ bình an và vững tin vào Ngài. Trong đoạn Tin Mừng này, thánh Matthêu cũng làm nổi bật vai trò của thánh Phêrô và sự gần gũi của Ngài đối với Chúa Giêsu. Tuy rất yêu mến, nể trọng thánh Phêrô vì Ngài sẽ cầm đầu Giáo Hội, tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn nhắc bảo, sửa trị Phêrô khi Ngài có biểu hiện bất xứng để khi Phêrô trở về Ngài sẽ củng cố đức tin cho anh em Phêrô (Lc 22, 33).
Bài Tin Mừng hôm nay quả thực là một lời trấn an và là một đảm bảo cho mọi Kitô hữu, cho Giáo Hội. Có những lúc con thuyền Giáo Hội như đang tròng trành giữa biển khơi sóng gió. Con người chúng ta đang gặp những thử thách hoang mang. Tuy nhiên, Giáo Hội hay mỗi người chúng ta vẫn cảm thấy như Chúa vẫn im lặng. Một sự im lặng hầu như đáng sợ. Chúng ta tự hỏi: “Chúa đang ở đâu?”. Chúa vẫn trả lời cho chúng ta : “Thầy đây mà! Đừng sợ”. Con thuyền Giáo Hội qua muôn sóng gió, bão táp, vẫn đứng nguyên vì Chúa luôn có mặt nâng tay đỡ nâng phù trì. “Chúa có đó, nên không có gì có thể phá đổ được” (Mt 16, 18). “…Trời đất sẽ qua đi, những Lời Chúa vẫn muôn đời tồn tại” (Mt 5, 18). Để xây dựng Giáo Hội, Chúa đã mời gọi các môn đệ, các tông đồ, huấn luyện họ về lòng nhân ái và niềm tin vững mạnh nơi Chúa. Chúa lèo lái, hướng dẫn con thuyền Giáo Hội và con thuyền cuộc đời chúng ta để mỗi lúc gặp khó khăn chúng ta và cả Hội Thánh tin tưởng : “Hãy an tâm, có Thầy đây đừng sợ”. Điều phải sợ là những lúc vắng Chúa, lúc chúng ta quên khẩn cầu, quên nài van Chúa, quên kiếm tìm Chúa, những lúc chúng ta đối xử thiếu bác ái với nhau, những lúc chúng ta dựa vào quyền hành, dựa vào đồng tiền v.v… Những lúc thiếu Chúa, thiếu thánh Phêrô, Giáo Hội sẽ không còn là Giáo Hội. Con người và Hội Thánh sẽ an tâm, sẽ vững bền “Khi cả hai cùng lên thuyền” (Mt 14, 32).
Chúng ta luôn phải cảm nghiệm và vững tin, thốt lên hằng ngày : “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa” (Mt 14, 33). Và cuộc đời mỗi người chúng ta sẽ trở lại bình thường khi gặp khó khăn, nếu chúng ta có xác tín: “Chúng ta sẽ an toàn vượt qua giông tố, bao lâu niềm tin của chúng ta còn gắn chặt vào Thiên Chúa” (thánh Phanxicô Salêsiô).
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết tích cực chia sẻ những góp sức của mình để đem an bình, tin tưởng cho tha nhân, cho Giáo Hội. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1. Câu chuyện này xảy ra ở đâu?
2. Sóng to gió lớn, Chúa đang ở đâu?
3. Phêrô đã làm gì khi nghe Chúa nói?
4. Vai trò của Phêrô trong Hội Thánh?
5. Chúa và Phêrô lên thuyền thì sao
?
[Mục Lục]

Bài 10. Trên Biển Đời
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Trong cuộc xuất hành của dân Do thái từ Ai cập về Đất Hứa, có một phép lạ lớn lao trên biển. Đó là phép lạ vượt qua Biển đỏ. Khi dân Do thái rời bỏ Ai cập đến Biển Đỏ thì quân Ai cập đuổi theo sát phía sau lưng. Được lệnh Thiên Chúa, ông Môsê giơ tay trên biển làm cuồng phong nổi lên, nước biển liền rẽ ra làm hai để lộ đất khô ráo, dân Do thái đi vào lòng biển khô cạn, quân Ai cập đuổi theo. Đến sáng, khi người Do thái cuối cùng đi sang bờ bên kia. Thiên Chúa ra lệnh cho Môsê giơ tay trên biển, nước trở lại như cũ. Quân Ai cập bị nhấn chìm trong biển, chết không còn một ai sống sót. Ngày đó, Thiên Chúa đã cứu dân Do thái thoát khỏi dân Ai cập. Đó là một phép lạ lớn lao Thiên Chúa đã làm trên biển.
Phúc Âm hôm nay kể một phép lạ Chúa Giêsu làm trên biển. Đó là biển hồ Galilê.
Biển hồ Galilê có hình bầu dục dài 21km rộng 12km, còn được gọi là hồ “Giênêzarét” (Lc5,1). Thánh kinh cựu ước gọi là biển “Kinnerét” (Ds 34,11; Gs 12,13) hay còn gọi là “biển Tibêria” (Ga 6,1). Tibêria hiện nay là một thành phố sầm uất ở Galilê, nằm trên bờ tây nam biển hồ. Nằm về hướng bắc Giêrusalem 100Km, biển hồ Galilê là nơi mà dòng sông Jordan đổ vào trước khi chảy qua biển Chết. Thung lũng và sông Jordan mang một sắc thái địa lý rất đặc biệt, duy nhất trên thế giới vì thấp hơn mực nước biển:208 mét tại biển hồ Galilê và 300 mét tại biển Chết. Thực vật ở đây thuộc dạng nhiệt đới, chung quanh biển hồ núi non bao phủ, lẫn vào con sông Jordan, thời tiết bất thường ở miền đất từ miền nam đến biển Chết, đó là những yếu tố hình thành những vùng gió giật và giông bão xảy ra bất ngờ trên biển hồ (Mt 8,23-27; 14,22-23).
Đối với Tân ước, biển hồ Galilê được nói đến nhiều vì là một trong những trung tâm hoạt động của Chúa Giêsu. Rất nhiều biến cố đã xảy ra tại đây: Bão tố ngừng lại (Mt 8,24-26), Mẻ lưới kỳ diệu (Lc 5,4-14), Đức Giêsu rảo trên thuyền (Mc 4,1), đi trên biển (Ga 6,16-21). Những thành ven bờ hồ như Khôrazin, Bếtsaiba, Caphanaum, Magđala là những nơi Chúa Giêsu thường lui tới, qua nhiều thế kỷ, biển hồ Galilê được gọi dưới nhiều tên: Hồ Kinnêzét, hồ Giênêsarét, và biển hồ Tibêria.
Biển hồ và những vùng lân cận, có rất nhiều di tích liên hệ đến cuộc đời của Chúa và các môn đệ Ngài. Galilê là vùng có núi đồi khô cằn, nhưng các thung lũng phì nhiêu trải dài từ biển Địa trung Hải cho đến biển hồ Galilê. Chính trong các thung lũng này đã hình thành nhiều đồn điền trái cây nổi tiếng đem lại nguồn lợi xuất khẩu. Vào năm 1960, biển hồ là điểm xuất phát cho ngày quốc gia tưới tiêu, chính quyền Israel cho đào một con kênh lớn dẫn nước từ tận biển hồ đến sa mạc Negew. Công trình thuỷ lợi mang lại nguồn lợi kinh tế to lớn cho một nước mà địa dư, khí hậu đa phần được xem là không mấy thuận lợi. Nhiều nước trên thế giới đã gởi người tới học tập.
Trở lại bài Phúc âm, Thánh Matthêu kể chuyện: trên Biển hồ Galilê, khi có trận cuồng phong từ thung lũng Baka thổi vào thì tất cả các ngư phủ vốn quá quen đi thuyền ngang dọc trên biển hồ cũng phải sợ hãi. Các ngài là những ngư phủ trên biển hồ Galilêa này, và có thể nói là đã quen thuộc với những cơn sóng to gió lớn. Vậy mà đêm hôm đó họ đã trải qua một phen hải hùng, sóng to nổi lên, gió lớn thổi ngược, phải chống chèo rất vất vả các ông mới giữ vững được con thuyền.
Và rồi đã xảy ra một sự kiện bất ngờ. Chúa Giêsu đi trên mặt nước đến với các môn đệ. Vốn đã khiếp đảm vì biển động sóng gió, các môn đệ nay hoảng sợ la lên vì họ tưởng là gặp ma. Thế nhưng khi nghe tiếng nói quen thuộc trấn an : “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”, các ông mới nhận ra Chúa, lập tức Phêrô xin phép đi trên mặt nước đến gặp Chúa. Chúa bằng lòng. Phêrô bước ra khỏi thuyền đến với Chúa, nhưng đức tin của ông còn yếu kém, ông hồ nghi và lo sợ nên bị chìm dần xuống nên kêu xin Chúa cứu giúp. Chúa đưa tay cầm lấy tay ông và trách nhẹ : “Người đâu mà kém tin vậy, sao lại hoài nghi ?”. Khi Chúa và Phêrô đã lên thuyền, sóng gió liền yên lặng và mọi người tuyên xưng : “Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa”.
Tuần vừa rồi, tôi đi thăm các gia đình giáo dân trong giáo xứ. Tôi đi với hai ông trong hội đồng mục vụ. Đến cổng một gia đình, có con chó to sủa lớn xông ra như muốn vồ lấy. Chúng tôi hoảng sợ đứng im. Bé Hoa 6 tuổi từ trong nhà chạy ra, bé nạt con chó: lu lu, đi vô mau. Con chó to hung dữ bỗng ve vẫy đuôi, trở lại hiền lành chạy vào nhà. Con chó to vậy mà nghe lời cô gái nhỏ vì bé Hoa là chủ của nó. Còn tôi và mấy ông tuy to con nhưng không phải chủ nó nên nó chẳng sợ mà còn định nhảy vào cắn. Hôm đó tôi miên man nghĩ về câu chuyện Phúc âm Chúa nhật này. Các môn đệ sợ hãi trước sóng to gió lớn bão tố sấm sét. Chúa Giêsu ra lệnh: hãy im đi, tức thì sóng yên biển lặng. Chúa Giêsu có quyền trên mọi sức mạnh thiên nhiên vì Người là Thiên Chúa sáng tạo, là chủ muôn loài.
Cả hai phép lạ: vượt qua Biển đỏ, Chúa Giêsu đi trên biển có một điểm giống nhau, đó là quyền năng Thiên Chúa trên mọi sức mạnh thiên nhiên.
Trên biển đời, có biết bao bão tố phong ba bủa vây, tin vào Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo dựng vũ trụ và muôn loài, chúng ta sẽ sống bình an trước mọi giông bão cuộc đời. Hãy vững tin và tín thác nơi Chúa Giêsu.
1. Sự hiện diện của Chúa Giêsu, nguồn bình an
Sau khi Chúa Giêsu lên thuyền, gió bỗng yên lặng. Sự hiện diện của Người đủ sức mang lại yên tĩnh và chế ngự phong ba bão táp. Biển theo nghĩa Kinh thánh tượng trưng cho quyền lực của sự ác. Đi trên biển chứng tỏ quyền năng và sự chiến thắng của Chúa Giêsu trên sự dữ, nguồn gốc của bất an, chia rẽ, đau khổ.
Nhiều người Kitô hữu thờ phượng Thiên Chúa nhưng vẫn còn lo lắng, sợ hãi tà thần ma quỷ, nhiều khi còn mê tín dị đoan nữa. Hãy tin tưởng rằng: quyền lực của bóng tối không có gì đáng sợ khi Chúa đã hiện diện và hoạt động trong đời sống và công việc làm của chúng ta. Nếu biết lắng nghe, trong giông bão cuộc đời, chúng ta sẽ nhận ra tiếng Chúa “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ”. Nếu chúng ta tin tưởng vào lời Chúa hứa thì sự hiện diện của Chúa sẽ làm bão tố êm dịu và khủng hoảng được giải quyết (Pl 4,13).
Nơi đâu có Chúa Giêsu, ở đó có bình an. Cuộc đời người Kitô hữu không thể tránh khỏi những phong ba giông bão của cuộc sống. Cần phải đến với Chúa Giêsu. Nếu biết đặt Người ở trung tâm đời mình thì sẽ tìm kiếm được an bình nội tâm, cho dù có gặp biết bao gian truân thử thách.
Chúa Giêsu hiện diện ngay trong cuộc sống của Kitô hữu nếu mọi người biết đến với Người qua việc nghe, thực thi lời Người, đón nhận Mình Máu Thánh Người và siêng năng cầu nguyện với Người.
2. Tín thác cuộc đời trong tay Chúa Giêsu
Các môn đệ vì sợ hãi sóng gió bủa vây nên không nhận ra Chúa Giêsu, ngộ nhận Người là ma. Chúa Giêsu trấn an họ: “Thầy đây, đừng sợ”. Hơn cả một lời trấn an, đây còn là một mạc khải : sự hiện diện của Chúa sẽ xua đi mọi nỗi sợ hãi; hãy tín thác cuộc đời trong tay Người. Khi Người xuất hiện thì gió yên biển lặng ; khi Người có mặt thì có sự bình an. Chính vì thế mà các môn đệ đã thờ lạy Người : Thầy quả thật là Con Thiên Chúa. Lời tuyên xưng này đồng thời cũng là lời biểu lộ một sự tín thác nơi Người. Tất cả mọi người trên thuyền cùng tuyên xưng một đức tin, cùng chung một lòng trông cậy. Một tỉ lệ thuận ngàn năm bất biến: tín thác vào Chúa, bình an tâm hồn.
Trong cuộc sống của mỗi người, niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô cần được thanh luyện và minh chứng qua thử thách gian nan. Nếu biết yêu mến và tín thác vào Chúa, thì càng khó khăn vất vả, càng vươn lên mạnh mẽ trong đức tin, luôn có được bình an nội tâm. Mọi gian nan thử thách đều trở nên tốt đẹp, hữu ích cho những ai yêu mến Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
Con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô, nhưng nhiều khi con cảm thấy sống đức tin
giữa lòng cuộc đời chẳng khác nào đi trên mặt nước.
Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.
Cả sự nặng nề của thân xác con cũng kéo ghì con xuống.
Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng. Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con, để con trở nên nhẹ tênh mà bước những bước dài hướng
về Chúa. Amen (Mana).
[Mục Lục]

Bài 11. Chúa đi trên biển
R. Veritas

Đứng bên cạnh con đang chuẩn bị qua cơn giải phẫu nguy hiểm, người cha không ngừng trấn an con mình với những lý luận dựa trên tài năng nổi tiếng của nhóm bác sĩ giải phẫu với những phương tiện tối tân, ông còn trấn an con là sẽ hiện diện bên cạnh để cung ứng mọi nhu cầu cho con.
Nghe xong lời cha khuyên, người con trả lời cho cha:
Xin cha đừng lo lắng nhiều, con không sợ đâu, con tin tưởng phó thác mọi sự cho Chúa Giêsu, Người hiện diện bên con và giúp con chịu đựng, hy sinh âm thầm trong tâm trí.
Người cha cảm phục lòng tin của con, vừa hổ thẹn vì mình không có được thái độ tin Chúa như con mình.
Chúng ta cũng thường hành xử như vậy khi gặp những thử thách xảy ra cho anh chị em xung quanh, cũng như và nhất là cho chính chúng ta. Phản ứng tự nhiên trước những thử thách, chúng ta thường nghĩ ngay đến những phương thế, những tài năng riêng của con người mà quên đi phần đóng góp tích cực và quan trọng của Chúa.
Bài Phúc Âm của Chúa Nhật 19 mùa thường niên năm A, trích từ Phúc Âm Thánh Mátthêu hôm nay trình bày cho chúng ta một toàn cảnh thật ý nghĩa. Ở đây chúng ta thấy hai khía cạnh: trước hết, Chúa Giêsu cầu nguyện trên núi, xem ra như Ngài xa cách không còn quan tâm gì đến những nguy hiểm mà các Tông Đồ đang gặp sóng to gió lớn trên mặt biển hồ Galilêa. Mặt hồ của toàn cảnh là cảnh tượng các Tông Đồ đang trên thuyền và phải tận lực chiến đấu với những nguy hiểm. Các ngài là những ngư phủ trên biển hồ Galilêa này, và có thể nói là đã quen thuộc với những cơn sóng to gió lớn. Hai khía cạnh này xem ra như không có gì liên hệ với nhau; Thiên Chúa xem ra như hoàn toàn xa lạ, vắng mặt khỏi hoàn cảnh sống của con người, xa lạ, lạnh lùng với những thử thách của con người đang gặp phải.
Là môn đệ của Chúa Giêsu, các ngài cũng có thể bị cám dỗ có những suy nghĩ như vậy. Chúa ở đâu mà tôi không nhìn thấy Ngài đâu cả? Nhưng thật sự không phải như vậy. Thiên Chúa không vắng mặt, không rời xa con người. Các Tông Đồ đang gặp sóng to gió lớn là vì tuân lệnh Chúa Giêsu mà chèo thuyền vượt biển cực khổ giữa ban đêm để qua bên kia bờ. Ban đêm thường có sóng to gió lớn, các Tông Đồ biết như thế, vì là những ngư phủ trong vùng.
Thông thường các ngài có thể lý luận với Chúa để ở lại với Chúa chờ qua ngày hôm sau đi lại ít nguy hiểm hơn, và cũng để được nghỉ ngơi sau một ngày mệt nhọc vì bận rộn lo cho hơn năm ngàn người ăn uống khi nghe Chúa giảng dạy. Thế nhưng lý do gì mà Chúa ra lệnh cho các Tông Đồ lên thuyền chèo qua bên kia bờ biển hồ và giữa đêm khuya như vậy?
Các Tông Đồ gặp thử thách nguy hiểm kia là vì tuân lệnh Chúa, và chúng ta thấy Chúa không để cho những người vâng phục Chúa bị thiệt hại. Phải, bị thử thách và chịu thử thách nhưng không bị đè bẹp, Chúa để cho các Tông Đồ phải chiến đấu với thử thách trong một thời gian mãi đến ba giờ sáng rồi Chúa mới đến với các ngài. Sau biến cố, sau kinh nghiệm và có thể nói được là hai kinh nghiệm, tập thể các Tông Đồ đi trên thuyền và Phêrô muốn đi trên mặt nước đang nổi sóng. Sau kinh nghiệm đó, Chúa Giêsu rút ra bài học cho các ông: “Tại sao các con kém tin thế?”, tại sao không tin rằng Chúa hằng hiện diện bên cạnh, Ngài không xa vắng, Ngài không ngủ quên hay bỏ mặc những kẻ Ngài đã chọn.
Đó là bài học cho các Tông Đồ sau này khi lãnh nhận sứ mạng chính thức sau khi Chúa phục sinh: “Thầy đã được mọi quyền năng trên trời dưới đất, chúng con hãy ra đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân”. Đây không phải là lời hứa suông, mà là một bảo đảm mạnh hơn mọi thứ bảo đảm do con người đặt ra trong xã hội hôm nay. Những bảo hiểm của con người sẽ vô ích nếu như không có sự bảo đảm của Thiên Chúa, dù con người không chấp nhận hay không biết đến sự bảo đảm này, hơn ai hết, sau khi đã trải qua kinh nghiệm trên biển hồ nổi sóng, các Tông Đồ sẽ xác tín hơn sau này cho sứ mạng làm chứng cho Chúa: “Không gì có thể tách rời tôi ra khỏi tình yêu Chúa”.
Mọi gian nan thử thách đều trở nên tốt đẹp, hữu ích cho những ai yêu mến Chúa. Chúng ta hãy nhìn lại xem mình đã có kinh nghiệm sống như bài học của Phúc Âm hôm nay Chúa đã dạy các Tông Đồ chưa? Cùng với các ngài vâng lệnh Chúa vào thuyền, và sau cơn giông tố chúng ta tuyên xưng: “Thầy là Con Thiên Chúa”, Chúa sống với chúng ta thì chúng ta còn lo sợ chi nữa.
[Mục Lục]

Bài 12. Dìu nhau tiến bước
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Khi đối diện với đau khổ chúng ta thường hỏi: Chúa ở đâu? Và khi đứng trước những nghi nan chúng ta thường đặt điều kiện: “Nếu có Thiên Chúa xin hãy cứu con?”. Thế nhưng, đau khổ vẫn cứ tiếp diễn trên thế gian. Mỗi ngày trôi qua chúng ta phải chứng kiến biết bao cái chết đau thương, biết bao những bất hạnh rủi ro đến với con người chúng ta. Nhìn vào cuộc đời khiến nhiều người bi quan bảo rằng: “Đời là bể khổ”, hay ‘Cây xanh thiếu lá nó xanh xanh – Biết mình thế này thà đừng sinh ra”. Quả thực, nếu sinh ra trong cuộc đời để rồi chịu cực, chịu khổ, chịu nhiều đắng cay đoạ đầy là một bất hạnh cho kiếp người chúng ta. Nhưng thực ra, trong cuộc sống vẫn có những niềm vui. Niềm vui của tình liên đới, của sự chia sẻ, của lòng bác ái, của tinh thần hy sinh dấn thân phục vụ vì lý tưởng và vì đồng loại…
Trong giáo xứ Bình Lâm có một em bé 6 tuổi tên là K’ Thủ Lĩnh. Em vừa lọt lòng mẹ đã bị bỏ đi. Điều tệ hại là chính người vứt em đi đã bẻ gãy đôi chân của em thành tàn phế rồi mới bỏ em bên vệ đường. Em đã được một gia đình người dân tộc Châu Mạ đón về nuôi. Mỗi ngày em đi học phải có người bồng ẵm đi, nếu đi một mình phải đi bằng khuỷ chân thật tội nghiệp! Thấy cảnh thương tâm, giáo xứ đã quyết định đưa em đi bệnh viện để chữa trị đôi chân. Tại trung tâm chấn thương chỉnh hình ơn Chúa đã đến với em và giáo xứ. Vì đã có nhà tài trợ sẵn lòng trả toàn bộ chi phí cho ca mổ và suốt thời gian điều trị cho em. Đây là một món quà quá bất ngờ đối với gia đình mẹ nuôi của em và với giáo xứ. Chúng ta cùng tạ ơn Chúa vì trên thế gian này vẫn còn đó những tấm lòng quảng đại được trao ban một cách quảng đại và vô vị lợi.
Thực vậy, nếu không có tấm lòng nhân ái được trao ban thì những bất hạnh rủi ro đến với nhân loại sẽ mãi mãi không bao giờ nguôi ngoai, nhưng nếu có nhiều tấm lòng nhân ái, biết chia sẻ cho nhau, thì những đau thương mất mát sẽ sớm được hàn gắn và chữa lành. Vì có ai đó đã nói rằng:
“Có một đường đi, đi chung Đường sẽ vui hơn,
Có một quặn đau, đau cùng sẽ sớm nguôi ngoai”.
Trở lại với bài phúc âm của Chúa nhật 18 thường niên, thánh Matthêu đã nhấn mạnh với chúng ta một điều: nếu không có lòng nhân ái của em bé dâng cho Chúa 5 chiếc bánh và hai con cái, có lẽ đã không có phép lạ hoá bánh ra nhiều để chia sẻ với hơn 5 ngàn người đang đói vào buổi chiều hôm đó. Bài phúc âm hôm nay, Chúa còn khẳng định với chúng ta: sự dữ luôn có mặt ở quanh ta. Cuộc đời không thiếu những sóng gió nghi nan. Nhưng, Chúa có thể làm những điều tốt hơn từ trong những bất hạnh này. Em K’ Thủ Lĩnh từ trong bất hạnh nhưng hôm nay em đã học được bài học về nhân ái khi đôi chân của em đang được chữa trị. Và Chúa Giêsu Ngài đã làm phép lạ từ lòng tốt của người dâng cho Chúa bánh và cá. Phải chăng, Chúa muốn dạy chúng ta bài học, khi đứng trước khổ đau của anh em mình, chúng ta phải tự hỏi: chúng ta đang ở đâu khi khổ đau ập xuống anh em? Chúng ta đã làm gì cho anh em mình khi chứng kiến những cảnh tang thương và bất hạnh của anh em? Sự dữ vẫn đang hoành hành. Quyền lực của ác thần vẫn làm cho con người sợ hãi, đôi khi đánh mất niềm tin. Nhưng Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta: Anh em đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian. Thầy đã thắng thế gian, đó cũng là tiếng mời gọi các môn đệ của Chúa là chúng ta, hãy cũng với Chúa để chiến thắng sự dữ, để đẩy lùi cái ác ra khỏi thế gian, để xoa dịu những đau thương mất mát trong cuộc đời. Đồng thời Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy đưa tay cho Ngài dìu chúng ta bước qua những khó khăn của dòng đời. Thánh Phê-rô đã có thể đi trên mặt nước, đi qua hiểm nguy khi ông nhận ra Chúa đang đến với ông. Cuộc đời chúng ta cũng chỉ bình an trước gian nan khi chúng ta tin tưởng rằng: Chúa vẫn đang đồng hành với chúng ta. Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta hãy trao vào tay Chúa những khó khăn của cuộc đời để Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi hiểm nguy.
Và hôm nay với biết bao khổ đau của tha nhân, Chúa cũng muốn chúng ta hãy là chứng nhân cho tình thương và lòng nhân ái của Chúa, khi chúng ta cùng cầm tay nhau vượt qua những thăng trầm của cuộc đời. Khi chúng ta biết chạnh lòng thương xót trước những bất hạnh của tha nhân. Khi chúng ta không phủi tay trốn tránh trách nhiệm trước những nhu cầu của thời đại. Vâng cuộc đời sẽ ấm áp hơn nếu mỗi người biết liên đới và chia sẻ cho nhau để làm vơi đi những khổ dau, những lắng lo trong cuộc sống.
Chúng ta có thể không có khả năng làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, nhưng chúng ta có khả năng trao vào tay Chúa một chút lương thực ít ỏi, để Chúa có thể nhân rộng cho hàng ngàn người hưởng dùng.
Chúng ta có thể không có khả năng đi trên mặt nước, nhưng chúng ta có thể nâng đỡ, dìu dắt anh em qua những khó khăn của cuộc sống.
Chúng ta có thể không khiến cho sóng gió ba đào im lặng, nhưng chúng ta có thể góp phần đầy lùi sự dữ và xoa dịu những đau thương bằng lòng quảng đại và nhân ái của chúng ta.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta lòng mến nồng nàn để chúng ta trở nên khí cụ mang tình yêu và lòng nhân ái đến cho anh chị em chung quanh. Nguyện xin Chúa ban thêm đức tin và đức cậy để chúng ta luôn biết cậy dựa vào ơn trợ giúp của Chúa và an bình sống trong sự quan phòng của ChúaAmen.
[Mục Lục]

Bài 13. Khi hành trình đức tin có sóng gió
Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn

Vào khoảng năm 860 trước công nguyên, vương quốc Israel bị ảnh hưởng bởi tà giáo. Vua Ahab và hoàng hậu Izabel nuôi dưỡng hàng ngàn tiên tri Baal. Nhiều đền thờ thần thoại được xây lên. Dân chúng cũng hùa theo việc cúng bái Baal. Nhưng tiên tri của Giavê Thiên Chúa là Êlia vẫn can đảm đương đầu với đám đông phản trắc để bênh vực chính giáo.
Một mình ông dám thách thức 450 tiên tri Baal hãy chứng minh cho toàn dân biết đâu là Chúa thật. Êlia bảo người ta bắt hai bò tơ để đôi bên cùng xẻ thịt, đặt lên củi, và khẩn cầu. Thần linh nào đáp lời nguyện xin, cho lửa xuống thiêu cháy đống củi cùng của lễ, thì đó chính là Đấng mọi người phải tôn thờ.
Sau khi giết bò và chất lên bàn thờ, 450 tiên tri và tư tế Baal bắt đầu kêu khấn: “Lạy thần Baal, xin đáp lời chúng tôi.” Nhưng không một tiếng trả lời! Họ bắt đầu nhảy nhót như kiểu lên đồng. Nhưng cũng chẳng thấy ai đáp lại! Êlia mới chế nhạo: “Các ngươi phải kêu lớn lên nữa. Không chừng thần linh đang suy tính hay bận rộn chuyện gì; cũng có thể ngài đi vắng hoặc đang ngủ. Đánh thức ngài dậy đi!” Các môn đệ thần Baal ra sức kêu gào, lại còn rạch mình cho máu chảy lai láng như kích động lòng trắc ẩn của thần linh. Nhưng vẫn không thấy gì.
Lúc này Êlia mới giơ tay cầu nguyện: “Lạy Giavê Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Israel, ước gì hôm nay người ta nhận biết chính Người… xin nhậm lời tôi” (1 V 18,36-37), và lập tức Giavê cho lửa từ trời thiêu cháy hết mọi của lễ của Êlia. Thấy vậy, toàn dân tung hô Thiên Chúa. Thế rồi, khi được lệnh của Êlia, họ đem các tiên tri và tư tế Baal xuống núi giết sạch.
Chuyện sảy ra quá bất ngờ khiến hoàng hậu Izabel bàng hoàng căm tức. Bà thề sẽ lấy mạng Êlia bằng mọi giá. Khi biết thế, vị tiên tri tức tốc lên đường lánh nạn. Sau một ngày trốn chạy vất vả trong vùng sa mạc khô khan, ông cảm thấy mệt mỏi chán chường. Con người can đảm và nhiệt thành hôm nào bây giờ lại rơi vào tình trạng hoang mang cực độ đến nỗi muốn chết cho yên. Ông thốt lên: “Nay đã đủ rồi, lạy Giavê, xin cất mạng tôi đi, tôi cũng không hơn gì các bậc tổ tiên”.
Người hùng của Thiên Chúa mà cũng có lúc đảo điên như thế thì huống chi là tôi! Thế nhưng câu chuyện không chỉ dừng lại ở đó. Kinh thánh kể tiếp:
Chính trong giây phút giao động và chán nản đó của người hùng, sứ thần Thiên Chúa đã đến nâng đỡ ông bằng bánh và nước. Êlia đã ăn và uống. Sau đó tiếp tục hành trình 40 ngày đêm đến núi Sinai. Tại đây ông đi vào cuộc gặp gỡ và đối thoại với Thiên Chúa. Cuộc gặp gỡ sảy ra không phải trong bão tố, đất động hay lửa chớp, nhưng trong làn gió thoảng đưa.
Từ trong làn gió thoảng ấy, Thiên Chúa cất lời nâng đỡ và chỉ dẫn Êlia. Cuộc gặp gỡ thân tình với Giavê đã kéo ông khỏi hố sâu của lao đao thất vọng. Kết quả, Êlia tìm lại được bình an và sức mạnh nội tâm, tiếp tục ra đi chu toàn sứ mạng làm chứng cho Thiên Chúa.
Thiết tưởng hành trình đức tin của người Kitô hữu cũng có những lúc khốn khó lao đao như Êlia vậy. Dù là người nhiệt tâm và can đảm cách mấy cũng không tránh khỏi tình trạng bị thế gian săn đuổi, đe doạ, và bao chước cám dỗ tấn công. Lắm lúc tưởng như sắp chìm sâu trong bão tố của hận thù, ích kỷ, đam mê. Ngay như thánh Phêrô, vị tông đồ năng nổ và xông xáo nhất trong hàng ngũ các tông đồ, cũng đã từng bị sóng gió làm đảo điên đến nỗi “sắp chìm xuống” (Mt 14,30). Nhưng khi ông thốt lên lời kêu van, “Lạy Thầy, xin cứu con”, thì bàn tay đỡ nâng của Thiên Chúa đã giải thoát và đem lại bình an ngọt ngào.
Cho đến hôm nay, những người theo Đức Kitô vẫn chưa hết bị sóng gió trần gian bủa vây, không chỉ là những truân chuyên trong cuộc sống, nhưng còn là những cám dỗ tinh vi của quỉ ma. Nhưng liệu trước các phong ba dữ dằn đó, tôi có nghe được tiếng nói đỡ nâng và nhắc nhở của Thiên Chúa chăng? Lắm khi tiếng nói của Ngài rất nhẹ nhàng như “gió hiu hiu thổi” chứ không phải như tiếng đất động, bão tố hay hoả hào.
Thử hỏi: nếu là một thanh niên hay thiếu nữ đang tuổi lớn lên, trước những lời réo gọi của đam mê xác thịt, liệu tôi có nghe được tiếng nhắc nhở “phúc cho ai có lòng trong sạch” nơi lương tâm để vượt thoát cạm bẫy dục tình và tiến lên núi cao với Chúa không?
Nếu vì nhẹ dạ mà sa ngã hay mang thai, trước những sóng gió của từ khước khinh bỉ, hay giòng xoáy phá thai của thời đại muốn nhận chìm sự sống, liệu tôi có nghe được tiếng bảo thì thầm trong lương tâm rằng “phá thai là giết người”, và rồi hướng nhìn lên Chúa, kêu nài một sự đỡ nâng an ủi không?
Nếu là người mẹ có đứa con hư dại hay người vợ có ông chồng hủ bại, liệu tôi có nghe được lời nhắc nhở “hãy vững tin” của Đức Giêsu để tiếp tục hành trình làm nhân chứng cho đạo Chúa không?
Nếu là người cha phải lao đao vì trách nhiệm gia đình, bị giong tố của xã hội tấn công, bị chèn ép, hiểu lầm, khích bác…, liệu tôi có nghe được tiếng nói “Đừng sợ, có Ta đây”, và rồi đưa tay cho Đức Giêsu để Ngài kéo lên không?
Cuộc đời người Kitô hữu được ví như hành trình tiến lên núi Thánh giữa sa mạc nắng cháy, hay như chiếc thuyền đang tìm về bến bờ giữa bao sóng gió to và gió ngược. Không có ơn Chúa đỡ nâng, chắc chắn con người sẽ ngã gục. Cũng như nếu không có những chiếc bánh và ấm nước Thiên Chúa trao cho, Êlia đã bỏ cuộc giữa đường; hay nếu không có bàn tay Đức Giêsu giơ ra kéo lên, Phêrô đã chìm sâu trong sợ hãi và hoang mang.
Song khi có Chúa, bình an và sức mạnh sẽ đến. Dù giông tố và thách đố trần gian cứ sảy ra, con thuyền đời tôi vẫn thẳng tiến, vì có Thiên Chúa đồng hành.
Nhưng để được như thế, có lẽ tôi phải không ngừng kêu lên: “Lạy Chúa, xin cứu con” (Mt 14,30).
[Mục Lục]

Bài 14. Chúa Giêsu đi trên mặt biển
Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện

Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 14,22-33) là một trình thuật được viết theo thể văn “thần hiện”, trong đó, các yếu tố văn chương được sắp xếp để làm nổi bật một cuộc tỏ hiện lạ thường và bất ngờ của một hữu thể thần linh, dành cho một số đối tượng đặc biệt, nhằm mục tiêu mặc khải một phẩm chất hay một hành động thần linh.
Hôm ấy, sau khi dân chúng ăn no nê bởi phép lạ hóa bánh ra nhiều (14,13-21), “Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền đi qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng” (c.22). Đức Giêsu thúc giục, thậm chí là ép buộc, các đồ đệ xuống thuyền. Người muốn các ông mau chóng rời xa khung cảnh “huy hoàng” của một phép lạ cả thể, và rời xa đám đông đang phấn khích vì phép lạ đó. Chính Người đảm nhận việc giải tán đám đông dân chúng này.
“Giải tán xong, Người lên núi riêng một mình mà cầu nguyện. Tối đến, Người vẫn ở đó một mình” (c.23). Đây là lần đầu tiên Mt nói về việc Đức Giêsu cầu nguyện, cho dù, như Lc cho thấy, đây là một việc làm rất thường xuyên của Người. Lần thứ hai và cũng là lần cuối cùng Mt kể về việc Đức Giêsu cầu nguyện sẽ là trong câu chuyện ở vườn Ghếtsêmani (26,36tt). Điều này kín đáo cho chúng ta hiểu nội dung lời cầu nguyện của Đức Giêsu tối nay trên núi, khi Người ở riêng một mình, còn các môn đệ thì đang ở trong thuyền lênh đênh trên biển. Quả thực, sự kiện Người vội vã bắt buộc các môn đệ rời xa đám đông sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, và sự song song của cảnh tượng cầu nguyện này với trình thuật Ghếtsêmani, cho phép chúng ta nghĩ rằng lời cầu nguyện của Đức Giêsu ở đây có liên quan đến cám dỗ về lý tưởng Mêsia hiển thắng mà các môn đệ của Người (và Hội Thánh mọi thời) phải đối diện. Nói cách khác, sự kiện Đức Giêsu buộc các môn đệ xuống thuyền khi Người giải tán đám đông, đề nghị một cách hiểu Đức Giêsu cầu nguyện suốt đêm cho các môn đệ, để họ không bị sa vào chước cám dỗ về một Đấng Mêsia quyền năng, hiển hách, “hoành tráng”.
Khi Đức Giêsu đang cầu nguyện một mình trên núi, thì chiếc thuyền của các môn đệ “đã ra xa bờ cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió” (c.24). Trong Mt, con thuyền là biểu tượng của Hội Thánh (x. 8,23-27). Các môn đệ đang ở trong con thuyền ấy, còn con thuyền thì đang lênh đênh giữa biển.
Trong tư duy Thánh Kinh (x. Is 27,1; 51,9t; Đn 7; G 7,12…), biển là nơi cư ngụ của các mãnh lực tà thần. Khi con thuyền đã ra xa bờ “cả mấy cây số” (dịch sát: nhiều stađiôs; mỗi stađiôs = 185m), tức là con thuyền đang ở giữa vùng cư ngụ và hoạt động của các mãnh lực đó. Cộng đoàn các môn đệ, như thế, đang ở trong tình trạng bị đe dọa bởi các mãnh lực của bóng tối và quyền lực tà thần.
Con thuyền của các môn đệ đang bị sóng đánh vì ngược gió. Trước đây, ở 8,24, tác giả Mt đã từng dùng một lối nói đặc biệt hơn nhiều để mô tả hoàn cảnh của cộng đoàn Hội Thánh: con thuyền bị tra tấn (basanizô) bởi các cơn sóng. Khi viết về tình trạng con thuyền ở 8,24 cũng như ở 14,24, có lẽ tác giả Mt liên tưởng đến những hoàn cảnh đau khổ mà Hội Thánh phải trải qua khi thi hành sứ mạng. Nhưng có sự khác biệt giữa hai hoàn cảnh. Một bên là những cơn sóng “tra tấn” con thuyền, như thể có “động đất” (seismos) trên biển (x. 8,24), tức là những khó khăn đến từ xã hội bên ngoài, từ những hoàn cảnh biển đời nổi sóng “hành hạ/tra tấn” con thuyền Hội Thánh. Còn bên kia, trong 14,24, là một nguyên nhân bên trong: trạng thái tâm linh và tinh thần không đúng đắn của các môn đệ. Đức Giêsu sai các môn đệ xuống thuyền để “sang bờ bên kia” (c.22), là nơi mà các ông đã từng đến với Người (x. 8,28), tức là trong một vùng dân ngoại. Ngọn gió thổi ngược (c.24) ngăn cản các môn đệ thi hành lệnh truyền của Đức Giêsu, có lẽ chính là phản ứng của các ông khi phải rời bỏ nơi chỗ vừa diễn ra một biến cố hoành tráng cả thể, rời bỏ nơi chỗ trong đó vừa bùng lên niềm hy vọng về một sự chiến thắng hiển hách, tức là niềm hy vọng rằng Đức Giêsu sẽ trở thành một thủ lãnh huy hoàng của đám đông dân chúng đang phấn khích vì được ăn no nê sau một phép lạ cả thể. Chính trạng thái tâm hồn không muốn rời xa niềm hy vọng đó đã làm cho con thuyền của các môn đệ tròng trành: con thuyền bị ngược gió.
“Vào khoảng canh tư, Đức Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ” (c.25). Trong sách Gióp, Thiên Chúa “đi trên mặt nước” (G 9,8: “Duy mình Người trải rộng các tầng trời, đạp lên trên ba đào biển cả”; x. 38,16). Bằng cách lướt đi trên mặt biển, Đức Giêsu cho thấy Người là Đấng được Thiên Chúa ban cho quyền lực thần linh tuyệt đối.
Nhưng phản ứng của các môn đệ lúc này là phản ứng của sự không tin vào quyền năng và phẩm giá thần linh đó. Trong cái trạng thái tâm linh không thích hợp như đã nói trên kia (“ngược gió”), khi được nhìn thấy sự thể hiện phẩm tính và quyền lực thần linh của Đức Giêsu qua việc Người đi trên mặt biển mà đến với họ, các môn đệ đã không có lòng tin vào quyền năng và phẩm giá thần linh đó. “Thấy Người đi trên mặt biển, các môn đệ hoảng hốt bảo nhau: ‘Ma đấy!’ và sợ hãi la lên” (c.26). Họ không nhận ra nơi Đức Giêsu vị “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. 1,23). Và vì thế, họ từ khước chấp nhận mọi tính cách hiện thực trong sự hiện diện của Người bên cạnh họ. Họ nghĩ đó là ma! Họ từ chối thực tại Người – Chúa nơi Ngài.
“Đức Giêsu liền bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” (c.27). Đối diện với phản ứng tiêu cực và sợ hãi của các môn đệ, Đức Giêsu tự giới thiệu mình. Mệnh đề “cứ yên tâm” nhằm trấn an các môn đệ khỏi nỗi sợ mà các ông đang trải qua vì thiếu lòng tin. Ứng với lời kêu gọi đó là một khẳng định quan trọng “chính Thầy đây!”. Lời khẳng định này trước hết nhằm mục tiêu điều chỉnh: chính là Thầy đây chứ không phải là ma như anh em lầm tưởng. Nhưng đồng thời, lời khẳng định này lại trùng khít với biểu thức mà Thiên Chúa đã dùng để tự mặc khải về chính mình trong Cựu Ước (x. Xh 3,14; Is 43, 1.3.10t).
“Ông Phêrô liền thưa với Người: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài” (c.28). Ông Phêrô có vẻ tin vào Đức Giêsu. Nhưng đó là lòng tin vào quyền năng làm những sự lạ lùng của Đức Giêsu chứ không phải là lòng tin vào tình yêu của Người. Ông muốn được “đi trên mặt nước” tức là muốn được tham dự vào cái điều kiện và thân phận thần linh của Đức Giêsu. “Đức Giêsu bảo ông: “Cứ đến!” (c.29a). Chúa không từ chối ông Phêrô, trái lại, còn mời ông thực hiện ước muốn của ông. Vấn đề không phải là Người sẵn sàng thỏa mãn tham vọng của ông Phêrô. Thực ra, mọi kẻ đi theo Người đều được mời gọi đón nhận và sống trong tư cách và thân phận của người con Thiên Chúa (x. 5,9). Vì thế, Đức Giêsu không ngần ngại bảo ông Phêrô đi trên mặt nước mà đến với Người. Vậy “ông Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu” (c.29b).
“Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ” (c.30a). Ông mong được hưởng một điều kiện thần thiêng không có bất cứ chướng ngại vật nào. Ông vẫn mang tâm tính của một người mong phép lạ. Ông vẫn ước mong một cuộc “đến với Thầy” theo một cách thức lạ thường, huy hoàng và không khó khăn. Ông đã quên mất rằng người ta trở nên con Thiên Chúa là giữa những chống đối, bách hại và khó khăn mà thế gian gây ra, như chính Đức Giêsu đã nói: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (5,10-11).
“Khi bắt đầu chìm, ông Phêrô la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (c.30b). Nỗi sợ hãi của ông Phêrô ở đây cũng giống như nỗi sợ hãi của các môn đệ trước đây trong câu chuyện con thuyền của các ông bị “tra tấn” bởi các con sóng lớn trên biển (x. 8,23tt). Trong câu chuyện đó, cũng như trong câu chuyện hôm nay, các môn đệ hoặc ông Phêrô đều kêu cầu với Đức Giêsu, xin Người can thiệp trong những hoàn cảnh khó khăn. Thái độ và cách hành xử này, xét theo một khía cạnh, là thái độ đáng khen. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận rằng lời xin của ông Phêrô ở Mt 14,30 phảng phất thái độ và quan niệm được diễn tả trong Tv 18,5-18 và Tv 144,5-7, theo đó, người cầu xin mong chờ một sự can thiệp ngoại thường của Thiên Chúa từ trời cao để giải quyết tình trạng bi đát và tuyệt vọng của con người.
“Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” (c.31). Tất nhiên Đức Giêsu sẵn sàng can thiệp trong những hoàn cảnh khó khăn. Tuy nhiên, điều cốt yếu không phải là những can thiệp ngoại thường, mà là sự ở với của Người. Khi có Người ở với, người ta có thể làm được mọi sự (x.19,26) và chắc chắn sẽ được cứu.
“Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng” (c.32). Sự đối nghịch và thậm chí là phản kháng của các môn đệ đối với lệnh truyền phải rời xa tham vọng về một vương quốc Mêsia huy hoàng chiến thắng, bây giờ chấm dứt: “Gió lặng”. Cơn gió thổi ngược ấy vốn là sự kiếm tìm sự vẻ vang phàm trần.
Bấy giờ, “những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!” (c.33). “Những kẻ ở trong thuyền” tức là cộng đoàn Kitô hữu ở trong Hội Thánh. Cộng đoàn ấy bây giờ tin thật Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và tuyên xưng lòng tin ấy.
Lời tuyên xưng này được đặt ở cuối trình thuật, tức là sau khi Đức Giêsu đã lướt đi trên mặt biển đồng thời tự mặc khải về mình bằng cách sử dụng chính biểu thức mà Thiên Chúa tự nói về Người trong Cựu Ước (“Ta là”), và sau khi Đức Giêsu đã can thiệp để cứu ông Phêrô khỏi tình trạng bị chìm xuống biển. Vì thế tước hiệu “Con Thiên Chúa” được áp dụng cho Chúa Giêsu ở đây vừa mang giá trị Kitô học, vừa mang ý nghĩa cứu độ học. Đồng một trật, Đức Giêsu chứng tỏ Người có quyền lực thần linh tuyệt đối (phương diện Kitô học) và quyền lực ấy được thi thố để cứu các môn đệ (phương diện cứu độ học).
Đó chính là xác tín đức tin vĩ đại mà Hội Thánh muốn công bố với chúng ta hôm nay, và đồng thời cũng là xác tín đức tin làm nền tảng cho cuộc sống của mỗi tín hữu và của tất cả Hội Thánh trong hiện tại.
Gợi ý suy niệm và chia sẻ
1. Hơn một lần Đức Giêsu mời gọi các môn đệ rời xa lý tưởng Do Thái về một vương quốc Mêsia đắc thắng kiểu thế gian. Trong bài Tin mỪng hôm nay, Người bắt các ông xuống thuyền sang bờ bên kia trước, tránh xa cám dỗ tận dụng phép lạ hóa bánh ra nhiều để mơ tưởng về một phong trào Mêsia hoành tráng… Ngày nay, hình như Người vẫn thường phải yêu cầu chúng ta xuống thuyền ngay và sang bờ bên kia như vậy, thay vì mơ tưởng về một Hội Thánh bách chiến bách thắng bề ngoài với hàng loạt lễ hội không có thực chất Tin Mừng.
2. Sẽ có gió ngược làm cho con thuyền Hội Thánh tròng trành, và gió ngược đó trước hết là ngược với hướng mà Chúa Giêsu yêu cầu các mộ đệ nhắm tới. Chính những mơ tưởng về một Hội Thánh đắc thắng ngược với lý tưởng của Đức Giêsu sẽ là một trong những ngọn gió ngược đó. Rồi biết bao toan tính, biết bao chương trình, biết bao tham vọng ngược với bản chất và sứ mạng đích thật của Hội Thánh…
3. Lướt đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ trong đêm, sử dụng chính biểu thức “Ta là” của mặc khải Cựu Ước về Thiên Chúa để tự trình bày về chính mình, Đức Giêsu cho thấy Ngài là Con Thiên Chúa và nắm trong tay quyền lực thần linh tuyệt đối. Và Ngài đến với con thuyền Hội Thánh trong tư cách Con Thiên Chúa có quyền linh tuyệt đối đó. Đó không chỉ là chuyện xưa, mà còn là chuyện của ngày hôm nay nữa. Chúng ta có tin thế không? Chúng ta có cảm nghiệm về thực tại đó không?
4. Chấp nhận cho ông Phêrô tham gia vào thân phận Con Thiên Chúa (= đi trên mặt nước) của mình, cứu ông khi ông chìm xuống biển vì thiếu lòng tin, cùng ông lên thuyền và khiến gió ngược phải yên lặng, Đức Giêsu cho thấy chính Người, trong tư cách là Con Thiên Chúa có quyền lực thần linh tuyệt đối, là Đấng cứu độ nhân loại. Chúng ta trải nghiệm quyền năng cứu độ đó như thế nào?
[Mục Lục]

Bài 15. Con tưởng!
Lm. Gioan B. Phan Kế Sự

Bài hát “Con tưởng rằng con vững tin…” của Linh Mục nhạc sĩ Nguyễn Duy quả là suy niệm thật thích hợp cho chủ đề Lời Chúa của tuần 19 thường niên năm A. Câu chuyện “Chúa đi trên mặt biển” và sự kiện “chìm nghỉm” của Phêrô đã nói lên thực tại thân phận con người khi phải đối diện với những sức ép của mãnh lực thiên nhiên,thế lực trần gian và cả chính sự yếu đuối tự thân của mỗi người. “Con tưởng rằng con vững tin, khi đời sống tòan những hoa hồng”. Nhiều khi, chúng ta tưởng rằng mình đã đủ lớn,lớn cả thể xác, lớn cả chức vị nhưng thực ra chúng ta cũng chỉ là một tạo vật thật tầm thường, bé nhỏ và yếu đuối giữa biển đời mênh mông, đầy bão tố.
Sức ép của những cơn gió ngược đến từ thiên nhiên. Những đợt sóng dữ, dồn dập vỗ tứ bề, con thuyền thì chòong chành sắp chìm, bầu trời phủ một màu đen tối, chẳng thấy đâu là bến bờ. Tất cả làm nên sức mạnh của thiên nhiên khiến cho con người phải hỏang sợ và mất hết phương hướng, mặc cho những kinh nghiệm từng trải của đời ngư phủ. Sức ép về tâm lý đã làm cho các môn đệ cảm thấy chới với, mệt mỏi và buông xuôi, hỏang hốt bảo nhau “Ma đấy!” Mất hết niềm tin!
Sức ép của những cơn gió ngược đến từ con người. Những cơn bão tố đến từ quyền lực, trù dập, phe cánh xem ra thời nào cũng tràn ngập xã hội và cả ngay trong lòng giáo hội, làm mất “lửa tông đồ” và gây tác hại mất cả niềm tin. Biết đâu là chân lý, còn đâu là tình anh em huynh đệ hay chỉ là chập chùng thử thách và đêm tối. Chẳng còn ai có nhuệ khí mà chống chèo, chẳng còn ai nhiệt tâm phục vụ, trước những cơn bão quyền lực, hay cái tôi nội bộ làm thui chột tính chiến đấu. Hoảng hốt và sợ hãi là tâm trạng chung của các tông đồ ngày xưa và cả ngày nay trước sức ép ngược gió đến từ con người! Mất hết niềm tin!
Sức ép của những cơn gió ngược đến từ chính bản thân: Bệnh tật, yếu đuối và cả những cơn “cám dỗ ngọt ngào” của xác thịt, quyền lực, tình cảm đang làm cho mọi người ngày càng mất hết phương hướng giữa chợ đời đầy dẫy những cạm bẫy. Giá trị của con người đang bị đảo lộn bởi những thách thức của nếp sống văn minh hưởng thụ, bởi trào lưu chạy theo thành tích bề ngoài, “yêu cuồng sống vội, đầy thác loạn”. Con người cứ luôn phải đối diện với những “cơn sóng ngược” khi sống niềm tin của mình. Mất hết niềm tin!
Không có Chúa trên thuyền cùng đồng hành, các môn đệ một mình đương đầu với những cơn sóng dữ. Cảm giác bị bỏ rơi và cô độc, lẻ loi sẽ mãi là những cơ hội làm cho các tông đồ cảm thấy hỏang hốt, sợ hãi và đánh mất hết phương hướng. Con người đang dần dần tự đánh mất hết niềm tin vào những giá trị tôn giáo và chỉ cần những thử thách nho nhỏ, những khó khăn hay những đòi hỏi hy sinh, con người sẽ bị chao đảo, và chìm nghỉm trong vực thẳm của đam mê dục vọng.
“Sao con lại hoài nghi”. Chúa đang tra hỏi từng người chúng ta về sự tín thác, tin cậy vào Ngài. Trong mọi nơi mọi lúc, Thiên Chúa, Ngài vẫn luôn ở bên cạnh, đồng hành với kiếp người, bởi Ngài hiểu rất rõ thân phận con người thật mong manh và yếu hèn của chúng ta. Chúa đã từng trấn an Phêrô “cứ yên tâm, Thầy đây, đừng sợ” nhưng rồi “ông vẫn sợ”
“Sao con lại hoài nghi”. Đó chính là thực tại của con người chúng ta hôm nay khi mà trước mắt bầy ra biết bao cơn “cám dỗ ngọt ngào” khiến chúng ta không còn vững tin vào Chúa. Tiền bạc, dục vọng, quyền lực đang ngày càng làm lu mờ con mắt đức tin của chúng ta.
Lời cầu nguyện:
“Lạy Chúa, xin cứu chúng con kẻo chết mất”. Mang thân phận con người với sự giới hạn vì “gió ngược”, niềm tin của chúng con dễ tròng trành giữa biển đời với biết bao thử thách. Xin Chúa hãy là “núi đá” là “điểm tựa” để chúng con cậy trông và tín thác. “Thưa Thầy, xin cứu con với” …“Vì lạy Chúa, Chúa biết con yếu đuối và đổi thay.
Con đang cần đến Chúa từng phút giây, khi an vui cũng như khi sầu đầy”… Amen.
[Mục Lục]

Bài 16. Con đường của Chúa
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, nuôi năm ngàn người ăn uống no nê, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ xuống thuyền đi qua bờ bên kia. Rồi Người một mình lên núi cầu nguyện suốt đêm. Tại sao Chúa có thái độ kỳ lạ như thế? Tại sao Chúa Giêsu bắt ép các môn đệ ra đi? Tại sao giữa lúc dân chúng đang phấn khởi tinh thần, giữa lúc uy tín của Người dâng cao như núi, Người lại bỏ đi? Trong Phúc Âm, thánh Marcô và thánh Matthêu không nói rõ lý do. Nhưng Phúc Âm thánh Gioan thì nói rõ: “Chúa Giêsu bỏ đi vì Người biết dân chúng muốn tôn Người lên làm vua” (Ga 6,14-15). Thật là một quyết định khác thường. Theo thói thường, ta sẽ khuyên Chúa Giêsu lên ngôi làm vua rồi đi khắp nơi làm phép lạ nuôi người ta ăn uống no nê, mọi người sẽ theo Chúa và chịu phép rửa tội, cả thế giới sẽ thuộc về Chúa, khỏi mất công truyền giáo khổ cực.
Không, con đường của Chúa thì khác với con đường của ta.
Con đường của ta là con đường kiêu ngạo trong khi con đường của Thiên Chúa là con đường khiêm nhường. Ta luôn tìm cách nâng mình lên, còn Thiên Chúa luôn tìm cách hạ mình xuống. Ta muốn xưng mình là Chúa trong khi Thiên Chúa lại muốn xuống làm người. Không chỉ làm một người bình thường, nhưng còn mặc lấy thân phận nghèo hèn, yếu ớt, thậm chí bị coi như một người tội lỗi nữa. Khi nâng mình lên, ta thường hạ người khác xuống. Còn Thiên Chúa tự hạ mình xuống để nâng con người lên làm con Thiên Chúa. Con người và Thiên Chúa đều sử dụng bậc thang, nhưng theo những mục đích khác nhau. Con người sử dụng bậc thang để leo lên cao. Ai cũng muốn lên cao trong đời sống vật chất. Ai cũng muốn leo cao trong địa vị xã hội. Ai cũng muốn leo cao trong bậc thang danh vọng. Còn Thiên Chúa lại sử dụng bậc thang để đi xuống. Từ trời Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Từ một người bình thường, Chúa còn xuống làm một người nghèo hèn, một người tội lỗi, một người thất bại.
Con đường ta chọn là con đường rộng rãi, dễ dãi. Còn con đường của Chúa là con đường chật hẹp khó khăn. Ta luôn tìm sự dễ dãi: làm sao cho đời sống đỡ vất vả, làm sao cho có những tiện nghi phục vụ đời sống, làm sao cho cuộc đời thành công tốt đẹp. Còn Thiên Chúa lại chọn con đường chật hẹp, bé nhỏ, khiêm nhường. Trong nghệ thuật quảng cáo, người ta hứa hẹn cho khách hàng mọi sự tiện nghi thoải mái. Còn Chúa Giêsu thì hứa với những kẻ muốn theo Người rằng: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16, 24). Trong các trường đại học người ta quảng cáo: ai học trường này sẽ thành công, sẽ lên chức, sẽ lên lương. Còn Chúa Giêsu lại dạy các môn đệ: “Trong anh em, ai lớn nhất thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22,26).
Chính Chúa Giêsu không đi vào con đường rộng rãi thênh thang, nhưng đã chọn con đường bé nhỏ, chật hẹp. Người không chọn cứu chuộc con người bằng những thành công lẫy lừng, những phép lạ kinh thiên động địa. Nhưng Người đã chọn cứu chuộc nhân loại bằng con đường đau khổ, con đường thập giá, con đường tử nạn. Chính vì thế, hôm nay, vì sợ đám đông tôn Người lên làm vua, đi xa con đường khiêm nhường bé nhỏ, Người đã bỏ đám đông mà đi. Người sợ các môn đệ bị nhiễm thói kheo khoang, phô trương, quyền lực, nên thúc giục các ông xuống thuyền sang bờ bên kia trước.
Đây không phải lần đầu tiên Chúa gặp cơn cám dỗ loại này. Trong sa mạc ma quỉ đã xui giục Người bỏ con đường khiêm nhường, đau khổ để đi vào con đường vinh quang, dễ dãi. Đây cũng chưa phải là cơn cám dỗ cuối cùng. Cám dỗ sẽ còn trở lại với lời khuyên của Phêrô khi ông ngăn cản Thầy ra đi chịu chết (x. Mt 16,23). Cơn cám dỗ khốc liết tiếp tục trong vườn Giệt-sê-ma-ni khiến Người nao núng hầu như muốn tháo lui (x. Mt 26, 39). Cơn cám dỗ không buông tha cả khi Người đã bị treo trên thánh giá với lời thách thức của mọi người: “Nếu Ông là Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi thập giá để chúng tôi tin” (x. Mt 27, 42). Nhưng Người đã chiến thắng tất cả những cám dỗ của ma quỉ, kiên quyết đi vào con đường thánh ý Chúa Cha, con đường khiêm nhường, vâng lời, hi sinh gian khổ.
Bản thân ta và Hội Thánh, nếu muốn trung thành với Chúa, không thể có chọn lựa nào khác ngoài con đường của Chúa đã đi.
Quá khứ đã minh chứng: Chính khi giàu sang, quyền thế, thì Hội Thánh sa sút, khủng hoảng. Trái lại những khi gặp khó khăn, nghèo khổ, bắt bớ, Hột Thánh lại phát triển mạnh mẽ, vì đang đi vào con đường của Chúa.
Là môn đệ Chúa, ta hãy mạnh dạn bước theo Chúa vào con đường khiêm nhường bé nhỏ, vào con đường chật hẹp từ bỏ mình, vào con đường thánh giá đau khổ. Tuy khó khăn, đau đớn, nhưng đó mới là con đường dẫn ta đến với Chúa, ơn cứu độ của ta.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Chúa bỏ đi, Chúa thúc giục các môn đệ bỏ đi vì sợ người ta tôn làm vua. Tôi có lựa chọn nào khiến Chúa phải bỏ đi không?
2) Tôi mong muốn Hội Thánh có khuôn mặt nào: uy quyền giàu sang hay nghèo khó, khiêm nhường?
3) Tôi có sẵn sàng đi vào con đường của Chúa không?
[Mục Lục]

Bài 17. CHÍNH THẦY ĐÂY, ĐỪNG SỢ
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Trong bất cứ xã hội, quốc gia nào cũng có những người không biết sợ là gì, dù là nghèo đói, vất vả, đòn roi, ngục tù, thậm chí cả cái chết. Họ quả là những con người dũng cảm, đáng kính phục. Trong khi đó, đại đa số con người ta thường bị cái sợ chế ngự cả tâm trí lẫn hành vi. Có người sợ đói, sợ rét. Có người sợ bệnh tật và tuổi già. Có người sợ mất của cải, địa vị, chức quyền. Có người sợ tù tội, giam cầm. Có người sợ ma, sợ quỉ là các thế lực vô hình độc ác.
Tin Mừng Mát-thêu kể lại câu chuyện các môn đệ Đức Giê-su đang phải chống chọi với sóng gió lại thấy một bóng người đi trên mặt nước tiến lại gần thuyền của các ông nên các ông hoảng sợ vì tưởng là ma. Nhưng Đức Giê-su đã trấn an họ “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” Ý nghĩa của bài Phúc âm hôm nay là Chúa Giê-su muốn bảo chúng ta là hãy tin tưởng vào sự hiện diện yêu thương và quyền năng cũng như vào sự can thiệp đúng thời đúng lúc của Thiên Chúa để không còn sợ hãi trước những mối hiểm nguy của cuộc sống! Vậy chúng ta hãy tập phó thác cậy trông vào Chúa.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (1 V 19,9a.11-13a): Hãy đứng trên núi trước mặt Đức Chúa.
2.2 Trong bài đọc 2 (Rm 9,1-5): Giả như ông vì anh em mà tôi có bị nguyền rủa, thì tôi cũng cam lòng.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 14,22-33): Xin Ngài truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
* Là Thiên Chúa, Đấng đã hiện ra với ngôn sứ Ê-li-a trong tiếng gió hiu hiu, nhẹ nhàng thổi qua sườn núi. Lời Thánh Kinh nói rằng Thiên Chúa không có mặt trong giông bão. Người cũng không có mặt trong động đất hay trong ngọn lửa bừng bừng mà Người lại có mặt trong tiếng gió hiu hiu. Phải chăng Lời Kinh Thánh có ý nói rằng Thiên Chúa đến với chúng ta trong/qua những cảnh huống bình thường mà chúng ta ít ngờ tới.
* Là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã không để cho sự cuồng nhiệt của đám đông lôi cuốn mà luôn tìm cách kết hiệp mật thiết với Chúa Cha trong những khoảnh khắc thanh tịnh mặt đối mặt với Thiên Chúa. Người còn là Đấng có toàn quyền thống trị trên biển nước mênh mông và trên những cơn sóng dữ (tượng trưng cho thế lực của sự dữ và ác thần). Chúa Giê-su mời các môn đệ tin tưởng và phó thác mạng sống của mình cho Người.
* Là Chúa Thánh Thần, Đấng hiện diện và cùng hành động với Chúa Cha khi Thiên Chúa xuất hiện với ngôn sứ Ê-li-a, trong tiếng gió hiu hiu. Chúa Thánh Thần cũng hiện diện và cùng hành động với Chúa Giê-su khi Người thức đêm cầu nguyện, khi Người đi trên mặt biển đến với các môn đệ và cho Phê-rô bước trên mặt nước đến với Người cũng như khi Người hạ lệnh cho biển yên gió lặng.
3.2 Sứ Điệp Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?): Qua ba bài Sách Thánh, chúng ta khám phá ra sứ điệp hay giáo huấn của Lời Chúa hôm nay
- Một là chúng ta hãy chờ đón Thiên Chúa là Đấng muốn tỏ mình ra cho chúng ta. Thường thì chúng ta có khuynh hướng tìm gặp Thiên Chúa trong những biến cố kinh thiên động địa (bão táp, động đất, lửa) trong khi Thiên Chúa lại ưa xuất hiện trong những cảnh huống bình thường, giản dị (như tiếng gió hiu hiu).
- Hai là chúng ta hãy hoàn toàn tin cậy phó thác vào Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng có quyền năng trên tất cả vũ trụ vạn vật, kể cả thế lực ác thần và sự dữ. Tín thác vào Chúa trong khi chúng ta được sống yên ổn, bình an thì tương đối dễ. Nhưng tín thác vào Chúa khi chúng ta gặp đủ mọi thứ khó khăn, thử thách, bách bại, chống đối mới thực sự là tín thác.
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, như môn đệ sống với Thầy. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và tuyệt đối tin cậy !
4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa hôm nay
- là tôi noi gương ngôn sứ Ê-li-a mà mong chờ Chúa đến, và luôn tỉnh thức để nhận ra Chúa khi Người xuất hiện.
- là tôi giao phó cuộc sống hiện tại và tương lai của cá nhân và gia đình tôi cho Chúa Giê-su Ki-tô vì tôi tin Người là Chúa Tể vũ trụ vạn vật trên trời dưới đất.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” Chúng ta hãy cầu nguyện cho thế giới loài người hôm nay, nhất là cho những người phải sống thường xuyên trong lo âu, sợ hãi, để họ cảm nhận được lòng yêu thương của Thiên Chúa là Cha nơi Chúa Giê-su Ki-tô và nơi các cộng đoàn Ki-tô hữu.
X. Chúng ta cùng cầu xin Chúa
Đ. Xin Chúa nhận lời chúng con

5.2 “Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Ki-tô – nhất là cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ Nam Nữ và mọi giáo dân -, để mọi Ki-tô hữu vững tin vào sự hiện diện liên lỉ và sự can thiệp kịp thời của Chúa Giê-su trong con thuyền của Người là Giáo Hội.
5.3 “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người trong gia đình và giáo xứ/cộng đồng chúng ta, để mọi người được thêm lòng tin/cậy/phó thác đối với Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Người, để sống tín thác cho quyền năng và tình thương của Người.
5.4 “Thưa Ngài, xin cứu con với!” Chúng ta hãy cầu nguyện cách đặc biệt cho những người đang lớn tiếng kêu cầu sự bênh vực và cứu giúp từ Đấng Tối Cao hay từ đồng loại, để họ sớm nhận được sự hỗ trợ cần thiết trong cơn nguy khốn.
[Mục Lục]

Bài 18. KÉM TIN HAY HOÀI NGHI?
JM. Lam Thy ĐVD.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN XIX/TN-A – Mt 14, 22-33) trình thuật về phép lạ “Đức Giê-su đi trên măt biển”. Có một chi tiết gây sự chú ý khá đặc biệt là sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho mọi người ăn no nê (CN XVIII/TN-A – Mt 14, 13-21), thì “Đức Giê-su liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi một mình mà cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình. Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ đến cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió.” (Mt 14, 22-24). Vì sao lại có cảnh đó? Ấy cũng bởi vì các môn đệ vẫn còn “kém tin”, nên nếu Đức Giê-su đi trên mặt biển sóng yên gió lặng, thì chắc chắn các môn đệ cũng vẫn cái tật cố hữu “bán tín bán nghi”; nên Người mới bắt các ông lên thuyền đi ngược chiều gió thổi bị sóng đánh, có như thế thì khi Đức Ki-tô đi trên mặt biển động dữ dội, các ông mới tin vào phép lạ.
Đối với con người, đi trên mặt biển yên lặng còn không tin nổi, huống hồ đây lại là đi trên mặt biển đầy sóng gió, các môn đệ cũng không ngoại lệ. Và vì thế, nên khi thấy Thầy “đi trên mặt biển sóng gió” cách ngon lành, “các ông hoảng hốt bảo nhau: “Ma đấy!” Ôi chao! Người Thầy bằng xương bằng thịt sống liền bên, dạy biết bao điều hay lẽ phải, làm biết bao nhiêu phép lạ, thậm chí còn kêu gọi môn đệ “Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm.” – Ga 14, 11), vậy mà cuối cùng vẫn bị môn đệ coi là “ma”! Thật hết biết! Cứ tưởng Thầy sẽ nổi cơn thịnh nộ, nhưng Người vẫn ôn tồn: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” thì đủ rõ tấm lòng bao dung của Người Thầy Chí Thánh hiểu rõ các môn đệ mềm yếu đến độ nào.
Đến như thế mà vẫn còn một Phê-rô đã “không tin vào mắt mình”, mà còn đòi kiểm chứng nữa (“Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.”). Cho đến khi được thỏa mãn yêu cầu, nhưng vẫn cứ “nửa tin nửa ngờ” nên mới bị chìm và la lên cầu cứu: “Thưa Ngài, xin cứu con với!”, và thật đáng nhận lời quở trách: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” (Mt 14, 31). Lời quở trách của Người Thầy Chí Thánh lại thêm một lần gây ấn tượng thật sâu sắc: Thật vậy, nếu chỉ để ý đến vế trước của lời quở trách (“Người đâu mà kém tin vậy!”), thì thấy Đức Ki-tô chỉ cho là đức tin của các môn đệ còn yếu kém; nhưng đến vế sau (“Sao lại hoài nghi?”), thì mới thấy là Người đã “đi guốc trong lòng” (tục ngữ VN) “ông ruột ngựa” Phê-rô và nói chung là các môn đệ (theo từ nguyên thì “hoài nghi” là: “trong lòng còn ngờ vực, không tin tưởng”, chớ không chỉ là “yếu kém đức tin”).
Quả thật lập trường của “ông ruột ngựa” Phê-rô đã bộc lộ rõ ràng: chỉ có một nửa tin tưởng, còn nửa kia vẫn là nghi ngờ. “Bán tín bán nghi” là thế đó! Cuối cùng thì có thể kết luận: Thánh Phê-rô (kể cả các môn đệ khác nữa) không chỉ “yếu đức tin, kém tin”, mà còn không tin tưởng, còn “hoài nghi” nữa kia. Cũng chính vì thế nên không chỉ lần này thánh nhân tuyên xưng “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!”, mà sau này còn khẳng định chắc nịch “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mt 16, 16); để rồi sau đó lại chối Thầy 3 lần trong một đêm, trước một đứa tớ gái nhà Cai-pha. Hành trình đức tin của người Ki-tô hữu ngày nay cũng có thể so sánh với cuộc đọ sức của Phê-rô đã trải qua trên mặt biển và nói chung là cả một thời gian 3 năm từ khi theo Thầy cho tới “ngày Lễ Ngũ Tuần” sau khi Thầy đã tử nạn và phục sinh vinh hiển:
Phê-rô đã có những bước đầu chắc chắn, mạnh dạn. Người Ki-tô hữu hôm nay cũng đã có những bước khởi đầu đi theo Chúa như vậy. Rồi năm tháng trải qua, gió ngược nổi lên, và bắt đầu nhen nhúm những nghi ngờ khiến lòng hoang mang lo sợ. Và thế là, con người nặng dần và muốn chìm nghỉm giữa biển đời sóng gió. Ngày xưa Phê-rô chối bỏ đức tin chỉ vì một đứa tớ gái nhà Cai-pha, ai cũng cho là “nhát gan như thỏ đế”, lòng tin mong manh như “chỉ mành treo chuông”; nhưng ngày nay còn hơn thế nữa kia. Không ít người chẳng bị ai cật vấn, tra hỏi, chỉ mới nghe đồn, nghe nói thôi, đã vội vàng cất giấu bàn thờ để chưng hình lãnh tụ. “Chưa khảo đã xưng” (tục ngữ VN), chưa ai tra khảo đã vội vàng khai là “không tôn giáo”! Hoá cho nên, rất cần phải có liều thuốc chữa căn bệnh “bán tín bán nghi”, đó là điều tất yếu.
Để chữa được căn bệnh đó, thì điều tiên quyết là bản thân phải có một quyết tâm, tiếp theo là phải thực sự va chạm với thực tế các sự kiện diễn ra trong cuộc sống, trong thiên nhiên, trên biển cả cuộc đời (như các môn đệ thủa xưa trên con thuyền “bị sóng đánh vì ngược gió”), để mở rộng đầu óc mà hiểu rằng có một Đấng Quyền Năng quan phòng mọi sự trong vũ trụ. Đấng ấy chỉ có thể là “ông Trời”, là “Thượng đế”, là “Thiên Chúa” mà thôi. Tin vào Đấng ấy, thì ma mị quỷ quái chẳng làm gì được. Còn căn bệnh “yếu đức tin” thì cũng đừng vội bi quan, bởi đó cũng là căn bệnh chung của tất cả mọi người trần thế. Duy chỉ có điều, muốn chữa được căn bệnh này, ngoài vấn đề hết sức cần thiết là trau giồi, củng cố cho bản thân một niềm tin vào một Thượng đế duy nhất, còn cần phải ý thức rằng con người là mỏng giòn, là yếu đuối, không thể tự mình làm được công việc to tát ấy, nếu không biết cậy dựa vào Đấng Bảo Trợ, Người sẽ bảo vệ và trợ giúp đắc lực tuyệt đối cho những kẻ tin vào Người. Đấng ấy cũng chính là Thượng đế, là Thiên Chúa, là ông Trời, và đó chính là Ngôi Ba Thánh Thần vậy.
Lời khuyên chí tình cho những người “nửa tin nửa ngờ” luôn luôn và mãi mãi vẫn chỉ có thể là: Xin đừng bao giờ đặt điều kiện: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”, mà hãy luôn luôn nói, mạnh dạn nói, tha thiết nói, nói với tất cả chân tình: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” Vâng, “Libera me, Domine!”, Lạy Chúa, xin thương xót con, xin cứu vớt con, bây giờ và mãi mãi, bây giờ và trong giờ lâm tử. Amen.
[Mục Lục]

Bài 19. THẦY ĐÂY, ĐỪNG SỢ!
P. Trần Đình Phan Tiến

Kinh thưa quý vị, thưa các bạn! Đoạn Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay trình thuật cho chúng ta một sự kỳ diệu, nhưng không kém phần ngoạn mục. Đó là: Chúa Giêsu đi trên mặt nước.
Phép lạ Hóa bánh ra nhiều mà tuần trước chúng ta đã nghe và đã sống, cho chúng ta về tình thương xót, sự cảm thương của Chúa Giêsu về lương thực thân xác. Qua đó, Người đã cảm thương sự đói khát về thân phận con người của chúng ta, trong đó có sự đói khát tâm linh, đói khát chân lý, đói khát tình thương, đói khát Thiên Chúa, mà chúng ta với thân phận con người đành bất lực. Nên chi, chính Chúa Giêsu đã trở nên Thần Lương cho chúng ta.
Lời Chúa hôm nay, cho chúng ta một chủ đề về sự xót thương của Thiên Chúa qua Đấng Cứu Thế Giêsu- Kitô với một hình thức khác, đó là: Sự Cứu Thoát thật sự. Vì Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ chúng ta. Nhưng trong thời gian mong chờ ơn cứu độ, chúng phải kiên tâm vững chí trông cậy hết mực vào Thiên Chúa.
Khởi đi từ Bài đọc I hôm nay (1V 19, 19a. 11-13a) trình thuật cho chúng ta thấy trong lúc Tiên tri Ê-li-a đang thất vọng, có thể nói: “Dầu sôi, lửa bỏng”, ông trốn lên núi Hô-rép, thì Thiên Chúa hiện ra và nâng đỡ ông. Sau khi cuộc đàm thoại với Thiên Chúa, thì tiên tri Ê-li-a được tăng sức và ông đã tiếp tục sứ mạng của mình.
Bài đọc II (Rm 9, 1-5) cũng cho thấy, thánh Phao-lô là một vị tông đồ nhiệt thành, nhưng thánh nhân cũng cảm nhận sự tuyệt vọng. Theo đó, chúng ta thấy bước theo Chúa là cả một hành trình đầy thách thức, cam go, chứ không phải là một sự phẳng lặng, êm ả. Lời thánh Phao-lô tuần trước cho chúng ta thấy sự quyết tâm hy sinh của ngài, dù là bất cứ điều gì thì ngài cũng không thể xa lìa Đức Kitô. Nhưng giờ đây, vì lý do đồng bào, huyết thống, mà ngài đã nặng tình đặt trên tất cả, kể cả phải xa lìa Đức Kitô. Tại sao vậy? Thật mâu thuẫn không? Chúng at thấy sự chao đảo trên bước đường không có Chúa, dù là thánh nhân. Nhưng, điều ấy cho thấy ơn Chúa thật cần thiết cho chúng ta biết bao!
Tin Mừng hôm nay (Mt 14, 22 -33) sẽ cho chúng ta một giải đáp rõ ràng. Vâng, trong cơn hoảng loạn, bối rối, thì chính ơn cứu độ thật cần thiết cho chúng ta. Bối cảnh Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ. Sau khi giải tán đám đông, Chúa Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền đi sang bờ bên kia, rồi Người đi lên núi một mình và cầu nguyện, chiều đến Người vẫn ở trên núi một mình. Là Thiên Chúa, nhưng Chúa Giêsu luôn muốn kết hiệp cùng Thánh Ý Chúa Cha, Người hằng cầu nguyện cùng Thiên Chúa là Cha Trời Đất. Chúng ta thấy Chúa Giêsu luôn cầu nguyện cùng Chúa Cha, còn chúng ta có luôn cầu nguyện cùng Thiên Chúa không? Trong lúc Chúa Giêsu cầu nguyện thì sóng đánh thuyền ra xa. Theo đó, chúng ta thấy chi tiết: Thuyền bị gió đánh ra xa, chứng tỏ theo nghĩa bóng: cuộc đời của mỗi người chúng ta, luôn bị phong ba , bão táp. Khi nào chúng ta nép mình vào Chúa, thì chúng ta mới được bình an. Cuộc đời là Kitô hữu cũng vậy, trên bước đường, bước theo chân Chúa, chúng ta có được bình an khi và chỉ khi chúng ta biết cậy dựa vào Chúa Giêsu, Đấng là Cứu Độ đời ta.Theo đó, cuộc đời tông đồ nghĩa đen và nghĩa bóng luôn phải gặp sóng gió, để chúng ta biết nép mình vào Chúa. Trong lúc đó, thời khắc là khoảng canh tư (tức khoảng hai giờ sáng). (Đêm thì năm canh, ngày sáu khắc). Canh tư có nghĩa trời gần sáng, vì hai giờ được tính là một canh, canh một từ sáu giờ tối (tức 18 giờ). Có nghĩa là từ sáu giờ tối, đến năm giờ sáng được tính là năm canh. Như vậy, canh giờ chỉ tính vào ban đêm, còn ban ngày thì tính bằng khắc. Sáu khắc ban ngày được tính 12 giờ còn lại. Như vậy, theo đó, canh tư là lúc mà Chúa Giêsu đi trên mặt nước mà đến với các môn đệ (c 25).
Một sự kiện kỳ diệu mà chỉ có Thần Linh mới thực hiện được. Theo phản ứng tự nhiên, thì các môn đệ tưởng là ma. Nhưng, Chúa Giêsu đã lên tiếng: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” (Mt 14, 27). Rồi, thì cũng chính Phê-rô, thưa với Chúa: “Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì hãy truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Thầy” (c 28). Chúa Giêsu bảo:“Cứ đến!”. Và như vậy, Phê-rô từ thuyền bước ra và đi trên mặt nước đến với Chúa Giêsu. Rõ ràng, nhờ sự mau mắn của thánh Phê-rô, mà các môn đệ đã mục kích được một phép lạ và nhận ra Chúa. Nhưng, Phê-rô trong lòng còn nghi ngờ, nên chi ông đã té xuống nước và sắp chìm, ông hoảng quá liền kêu cứu: “Thầy ơi! Xin cứu con!” (c 30). Và Chúa Giêsu đã quờ trách ông: “Người đâu sao kém tin thế! Sao lại hoài nghi?” Rồi Thầy trò lên bờ và sóng gió lặng yên. (c 31-32). Những kẻ ở trên thuyền đã bái lạy Người và nói: “Thầy, quả thật là Con Thiên Chúa!” (c 33 ).
Như vậy, qua Đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ ngay khi chưa đến giờ Tử Nạn của Người. Đoạn Tin Mừng hôm nay có một cụm từ rất đáng chú ý, đó là: “Đừng sợ!”. Vâng: “các con đừng sợ”, đó là lời mà thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói và để lại cho chúng ta. Vâng: “ĐỪNG SỢ “ đó là mệnh lệnh, đó là di huấn, đó là quà tặng, đó là lời nhắc nhở tuyệt vời. Nhưng với điều kiện là phải có Chúa Giêsu, và đừng quên vế thứ nhất: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!”. Bởi vì, chúng ta không thể nói: “Đừng sợ”, mà không có Chúa Giêsu. Vâng, có Chúa Giêsu, thì chúng ta không sợ bất cứ thế lực nào. Vì người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu mà sợ thế lực thù đích , thì không đáng làm môn đệ Chúa. Như “Phê-rô đi trên mặc nước, mà bị rơi xuống sắp chìm”.
Thánh Vịnh 84, 9a. 11, 12, 13 hôm nay thật chí lý khi cho chúng ta biết “Thiên Chúa là Đấng ban cứu độ, ơn bình an, ơn giải thoát.”
Lạy Chúa Giêsu, xin cứu con, vì con là kẻ yếu đuối, Chúa là Đấng con tựa nương. Xin cho con nhớ và kêu đến Chúa mọi lúc, mọi nơi trong đời con. Amen./.
 
Từ khóa:

yên tâm, quả là

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận