Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật XX TN

Đăng lúc: Thứ sáu - 15/08/2014 17:29 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng
Chúa Nhật XX thường niên – năm A
Lời Chúa: Is 56,1,6-7; Rm 11,13-15.29-32; Mt 15,21-28

***************

MỤC LỤC

1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: Người phụ nữ Canaan
2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm Inhaxiô Hồ Thông
3. Chú giải của Noel Quesson: Ra khỏi đó, Đức Giêsu lui về
4. Nước chảy đá mòn (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
5. Tin như người đàn bà xứ Canaan (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
6. Tình mẹ cao quý (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
7. Người ngoại mà mạnh tin (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
8. Niềm tin của một “dân ngoại” (JM. Lam Thy ĐVD.)
9. Lời nguyện chân thành (Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
10. Niềm tin chịu thử thách (Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
11. Chó con cũng được ăn… (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
12. Sống niềm tin (Radio Veritas Asia)
13. Tin yêu sống bí tích Thánh Thể theo gương Đức Mẹ (ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
14. “Này bà, bà có lòng mạnh tin” (Lương Văn Liêm)

15. Thử thách (Trầm Thiên Thu)
16. “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật…” (P. Trần Đình Phan Tiến)

17. Mọi người tin đều được Thiên Chúa đón nhận (Ban Mục vụ Thánh Kinh & Ban Phụng tự TGP Sài Gòn)
18. Bài giảng của Lm. Giuse Đinh Tất Quý

19. Một đức tin tuyệt vời (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
20. Cầu nguyện thế nào để được chấp nhận? (Lm. Đan Vinh)

A. BẢN VĂN

Bài đọc I (Is 56,1.6-7)
1 Đức Chúa phán như sau : Hãy tuân giữ điều chính trực, thực hành điều công minh, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và đức công chính của Ta sắp được biểu lộ.6 Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cùng trở nên tôi tớ của Người, hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm, cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta,7 đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta. Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng, vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân.

Bài đọc II (Rm 11,13-15.29-32)
13 Thưa anh em, tôi xin ngỏ lời với anh em là những người gốc dân ngoại. Với tư cách là Tông Đồ các dân ngoại, tôi coi trọng chức vụ của tôi, 14 mong sao nhờ vậy mà tôi làm cho anh em đồng bào tôi phải ganh tị, và tôi cứu được một số anh em đó. 15 Thật vậy, nếu vì họ bị gạt ra một bên mà thế giới được hoà giải với Thiên Chúa, thì việc họ được thâu nhận lại là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi sống ?
29 Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì Người không hề đổi ý.
30 Thật vậy, trước kia anh em đã không vâng phục Thiên Chúa, nhưng nay anh em đã được thương xót, vì họ không vâng phục ; 31 họ cũng thế : nay họ không vâng phục Thiên Chúa, vì Người thương xót anh em, nhưng đó là để chính họ cũng được thương xót. 32 Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người.


Tin Mừng (Mt 15,21-28)
21 Khi ấy, Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đôn, 22 thì này có một người đàn bà Ca-na-an, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng : “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi ! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm !” 23 Nhưng Người không đáp lại một lời.
Các môn đệ lại gần xin với Người rằng : “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi !” 24 Người đáp : “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.” 25 Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng : “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi !” 26 Người đáp : “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” 27 Bà ấy nói : “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” 28 Bấy giờ Đức Giê-su đáp : “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó, con gái bà được khỏi bệnh.

[Mục Lục]

B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI VÀ SUY NIỆM
Bài 1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofmNGƯỜI PHỤ NỮ CANAAN
Đối với cộng đoàn đã tách khỏi Israel, giai thoại người phụ nữ Canaan này cho thấy các tín hữu có thể tìm được một cuộc sống mới và một vùng dấn thân mới giữa các Dân ngoại.
1. Ngữ cảnh
Trong các bản văn trước, ta thấy, sau khi Đức Giêsu bị dân Nadarét loại trừ và Gioan Tẩy Giả bị chém đầu, Đức Giêsu đã hoàn toàn tập trung vào việc giáo huấn các môn đệ; Người có chữa bệnh, nhưng không còn ngỏ lời với đám đông nữa. Tuy nhiên, các tranh luận với người Pharisêu vẫn còn, ngày càng gay gắt hơn. Đức Giêsu trách họ là đã thêm quá nhiều quy tắc vào Luật Môsê khiến cho Luật này trong thực tế không còn giá trị nữa; cùng lắm chỉ mộtsố chuyên viên rất rành các truyền thống tiền nhân mới giữ được mà thôi. Đức Giêsu phản ứng bằng cách đưa Luật Môsê trở lại với sự đơn giản ban đầu, để toàn dân có thể tuân giữ.
Trong bản văn đi trước sát đoạn văn của chúng ta, Đức Giêsu còn đi xa hơn. Trong mộtdịp tranh luận với người Pharisêu về món ăn trong sạch và không trong sạch, dường như Người gợi ý là người ta có thể ăn mọi thức mà chính Luật Môsê cấm! Thế mà điều này đã từng là mộttrong những lý do gây chia rẽ Do Thái và Dân ngoại. Vậy Đức Giêsu dường như đang quay về với mộtthái độ mềm dẻo hơn đối với Dân ngoại. Chính trong khung cảnh này mà ta đọc được truyện “Người phụ nữ Canaan”. Tác giả Mt trình bày cho thấy Đức Giêsu đã làm mộtphép lạ theo lời thỉnh cầu của một phụ nữ ngoại giáo. Đứng trước sự cứng lòng tin của dân Người và sự chống đối ngày càng gia tăng của giới lãnh đạo tôn giáo, phải chăng Đức Giêsu đã quyết định bỏ mạc Israel mà quay sang hẳn với người ngoại?
2. Bố cục
Bản văn được bố trí thành những đoạn đối thoại với Đức Giêsu, như những bậc đi lên tới mộtcao điểm:
* Mở: Hoàn cảnh (15,21);
1) Đoạn một: Đức Giêsu và người phụ nữ: Đức Giêsu làm ngơ = từ chối (15,22-23a);
2) Đoạn hai: Đức Giêsu và các môn đệ: Đức Giêsu trả lời = từ chối (15,23b-24);
3) Đoạn ba: Đức Giêsu và người phụ nữ: Đức Giêsu trả lời = từ chối (15,25-26);
4) Đoạn bốn: Đức Giêsu và người phụ nữ: Đức Giêsu khen ngợi = đồng ý (15,27-28).
3. Vài điểm chú giải
- Đức Giêsu lui về miền Tia và Xiđôn (21): Ghi chú về nơi chốn này có tính cách thần học. Tác giả Mt cho thấy Đức Giêsu tiếp xúc với Dân ngoại cư ngụ trong vùng này. Cụm từ “Tia và Xiđôn” thường được dùng để gọi vùng Dân ngoại cư ngụ ở về phía biên giới tây bắc Paléttina; nơi này cũng còn được gọi là Phêniki . Dân Phênikia tự gọi mình là “dân Canaan”, và Cựu Ước cũng như Tân Ước đã lấy lại tên gọi đó.
- ở vùng ấy đi ra (22): Giải thích như BJ (1998) rằng “ân huệ cuối cùng được Đức Giêsu ban cho người phụ nữ ngoại giáo này rất có thể sẽ là trong đất Israel”, hay như Bd CGKPV (2004): “Mátthêu hình như muốn ngụ ý rằng, sở dĩ người đàn bà ngoại giáo biết tuyên xưng Chúa Giêsu là Con vua Đavít là vì bà đã đi ra khỏi miền dân ngoại và chỉ trong đất Ít-ra-en bà mới được Chúa thi ân” dường như có phần ép nghĩa. Nhưng c. 21 lại cho hiểu rằng chính Đức Giêsu mới đi ra khỏi đất Israel để đi vào vùng Dân ngoại. Trong thực tế, các biên giới địa lý, chính trị và dân tộc giữa Galilê, Xyri và Phêniki cũng chẳng rõ ràng gì. Đàng khác động từ “đi ra” (exelthousa) và giới từ apo cũng rất có thể chỉ liên hệ đến xuất xứ ngoại giáo của bà ấy mà thôi. Vì thế, giáo sư Guillemette đề nghị dịch là “… thì này có mộtngười đàn bà Canaan của vùng ấy…”. Dịch như thế, thì hài hòa với câu trước (c. 21). TOB (1994) dịch là “này đây mộtngười đàn bà Canaan đến từ đó…”.
- Con vua Đavít (23): Vì danh tiếng Đức Giêsu đã lan tới các vùng này, người ta biết các tên của Người. Do đó, không chắc là khi gọi Người như thế, người phụ nữ đã tin Người là Đấng Mêsia. Rất có thể bà gọi Người như thế là chỉ bắt chước người Do Thái. Tuy nhiên, lời kêu của bà cũng vẫn là mộtlời trách gửi đến cho dân Do Thái vì họ đã không biết nhận ra Đức Giêsu là Đấng Mêsia.
- Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi (24): “Chỉ được sai đến” là một thái bị động thay tên Thiên Chúa (= Thiên Chúa chỉ sai Thầy đến với …). Đức Giêsu nhắc lại mộtbài sai rất phù hợp với các sấm ngôn nói rằng sẽ đến mộtngày Đức Chúa (Yhwh) đuổi các mục tử giả hiệu ra khỏi Israel và trao nhiệm vụ chăn dắt cho Đấng Mêsia (x. Ed 34,23). Nay Người loan báo rằng giờ đó đã đến. Người có vai trò tái lập Israel thành mộtđoàn chiên duy nhất, trung thành với Yhwh. Khi dân Israel đã được quy tụ lại rồi, khi họ đã lại đi theo vị mục tử chân thật của Thiên Chúa rồi, chỉ khi ấy các dân trên thế giới mới có thể được quy tụ lại quanh Thiên Chúa chân thật. Nhưng giai đoạn hai này của chương trình cứu độ không trực tiếp liên hệ đến sứ mạng của Người là Mêsia. Về chú giải, “những con chiên lạc nhà Israel” (ta probata … oikou Israêl) cũng có thể là một thuộc-cách giải nghĩa (epexegetical genitive), và có nghĩa là “những con chiên lạc  nhà Israel”.
- Chó con (26): Từ Hy Lạp kynarion (“chó con”) là dạng giảm nhẹ của từ kyôn (“chó”). Người Do Thái thường gọi Dân ngoại là “chó” (Híp-ri keleb). Phải chăng Đức Giêsu dùng từ ở dạng giảm nhẹ để giảm bớt tính khinh bỉ trong từ “chó”? Không chắc, bởi vì: 1) Trong Hy Lạp koinê (bình dân), không chắc là dạng giảm nhẹ ấy có giá trị là mộtsự giảm thiểu; 2) Ngôn ngữ A-ram không có dạng từ tương ứng với “chó con”. Do đó, hẳn là Đức Giêsu đã dùng từ A-ram truyền thống là kalơbâ’ (chó) để gọi Dân ngoại.
4. Ý nghĩa của bản văn
Phải chăng Đức Giêsu đã quyết định bỏ mạc Israel mà quay sang hẳn với người ngoại? Bản văn Mt đọc hôm nay trả lời với chúng ta rằng đấy không phải là ý định của Đức Giêsu. Quả thế, Đức Giêsu đã chỉ chấp nhận làm phép lạ sau khi đã từ chối lâu dài, y như thể Người đã chấp nhận cực chẳng đã. Chúng ta tìm hiểu bản văn.
Người phụ nữ đã thưa với Đức Giêsu: “Lạy Ngài là Con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi” (c. 22). Khi nói” Xin rủ lòng thương tôi”, bà đã dùng ngôn ngữ Kinh Thánh lấy từ cácThánh vịnh (Tv 6,3; 9,14; 26,7; 30,10; 40,56; 85,.3; 122,3; v.v.). Đây là ngôn ngữ quen thuộc với Hội Thánh. “Ngài/Chúa, kyrie”, là danh hiệu các môn đệ và những người cầu xin thường dùng để thưa với Đức Giêsu. Khi gọi Người là “Con vua Đavít”, cho dù đức tin của bà chưa rõ ràng, bà cho thấy bà đang quay về với Đấng Mêsia của Israel, Đấng đã chữa lành nhiều người đau ốm trong dân. Như vậy, bà biết rằng Đức Giêsu được gửi đến với con cái Israel; độc giả thấy được đức tin của bà ở chỗ là, dù biết như thế, bà vẫn kêu cầu Người.
Các môn đệ tìm cách đuổi bà ấy đi. Các ông đóng một vài trò tiêu cực, giống như ở 14,15; 19,13. Các ông giải thích xấu tiếng kêu la của người phụ nữ; các ông không nghe ra được nỗi cùng quẫn của bà, mà chỉ thấy là bà đang đi theo nhóm và làm phiền bằng tiếng kêu la. Lời đáp của Đức Giêsu nằm trong ngữ cảnh này: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi” (c. 24); Người tuyên bố như vậy trước mặt các môn đệ và trong hoàn cảnh dân Do Thái khép lòng lại trong thái độ cứng tin. Điều này, chính Người đã mộtlần nói lên khi sai phái Nhóm Mười Hai (x. 10,6). Như thế Người hỗ trợ cho việc dứt khoát từ chối người phụ nữ và còn cho thấy điều này thuộc về lịch sử cứu độ. Nếu vậy, sau này khi Đức Giêsu truyền dạy các môn đệ đi đến với muôn dân (28,18-20), điều này có nghĩa là có một sự thay đổi căn bản trong chương trình của Thiên Chúa. “Các con chiên lạc của nhà Israel” không phải chỉ là “các con chiên đen” tại Israel, nhưng có thể hiểu là toàn thể dân Thiên Chúa mà Đức Giêsu được gửi tới. Câu trả lời của Đức Giêsu cho thấy Người không dành cho người phụ nữ một chút quan tâm nào nữa. Thế nhưng bà vẫn quay về Đức Giêsu và bái lạy Người (x. 8,2; 9,18). Một lần nữa, bà gọi Người là “Ngài/Chúa, kyrie”, và một lần nữa, bày nài xin Người với những lời lấy từ các Thánh vịnh (Tv 43,27; 69,6; 78,9; 108,28). Một lần nữa, Đức Giêsu từ chối bằng lời lẽ rất mạnh: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (c. 26). Người muốn nói rằng Tin Mừng chỉ được nhắm phân phát cho “con cái”, tức là dân tộc Do Thái, những người thừa kế lời Thiên Chúa hứa. Không chắc người phụ nữ hiểu được ý này, khi bà trả lời: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (c. 27). Có lẽ phải nói rằng bà tự gọi mình là “chó” không phải là một sự khiêm nhường, nhưng là để bẻ lại Đức Giêsu: Trong gia đình, nhưng con chó cũng được hưởng những mảnh vụn từ bàn chủ rơi xuống. Dù bị từ chối nhiều lần, người phụ nữ vẫn không nản chí, bà vẫn tiếp tục cầu xin. Thế là Đức Giêsu chấp nhận lời bà thỉnh cầu.
Đức Giêsu mô tả sự tin tưởng vô điều kiện của người phụ nữ, được diễn tả bằng những lời xin được lặp lại liên tục, là “lòng/đức tin” (x. 8,10.13; 9,22.29). Đức tin có nghĩa là người ta không có bất cứ điều gì ngoại trừ sự tin tưởng đặt nơi Đức Giêsu. Câu truyện kết thúc giống như truyện viên sĩ quan ở Caphácnaum. Lời thỉnh cầu không ngơi nghỉ của bà đã được chấp nhận. Con gái bà được khỏi (c. 28).
Việc Đức Giêsu chấp nhận lời thỉnh cầu của bà trở thành mộtlời gián tiếp kết án sự công chính và sự an toàn mà dân Do Thái nghĩ là họ đang có, dựa trên truyền thống và tư cách thừa kế lời Thiên Chúa hứa cho tổ phụ Abraham: họ không còn biết đón nhận ơn Thiên Chúa tuyển chọn trong đức tin nữa. Còn bà Canaan, bà đã đạt được điều bà muốn có, là bởi vì bà ở trước nhan Thiên Chúa trong tư thế chờ đợi khiêm tốn như những người được nói đến trong các Mối Phúc. Bà đã tỏ ra như là mộtngười hành khất dưới chân Đức Giêsu, cứ không ngừng cầu xin, cứ hy vọng ngược lại mọi hy vọng, giống như Abraham, như bà góa trong dụ ngôn Lc (Lc 18,1-8), như những người biết dùng sức mạnh mà vào Nước Trời (Mt11,12). Lời bà cầu xin chính là hình thái cụ thể và sống động của niềm tin bà. Đức Giêsu thấy “lòng tin của bà mạnh thật” (c. 28), bởi vì lòng tin của bà là trọn vẹn, nó cho thấy mộtcon tim không chia sẻ đang chờ đợi được no lòng thỏa dạ từ sự hào phóng của Thiên Chúa, từ ý muốn của Chủ. Đồng thời, chính đức tin này càng cho thấy là sự mù quáng và định kiến của dân Do Thái đối với Đức Giêsu thật thê thảm, vì họ đã từ khước nhìn nhận Người là Đấng Mêsia, trong khi “con chó” ngoại giáo này đã biết nhận ra Người là “Con vua Đavít” (c. 22). Sự tin tưởng vô điều kiện đặt nơi Đức Chúa và Con vua Đavít cũng hàm chứa kinh nghiệm cụ thể về sự chữa lành.
+ Kết luận
Truyện người phụ nữ Canaan hàm chứa hai khẳng định bề ngoài mâu thuẫn nhau: sự tuyển chọn Israel làm dân riêng của Thiên Chúa và Thiên Chúa hoàn toàn tự do trong việc thực hiện chương trình cứu độ. Ta vẫn có thể đọc truyện bà Canaan để ghi nhận sứ điệp cứu độ và hy vọng, nhưng cũng phải luôn đề phòng xu hướng duy tín hoặc cuồng tín. Nếu bà ấy cuối cùng đã được Đức Giêsu lắng nghe, tác giả vẫn không có ý nói rằng bất cứ ai có đức tin y như đức tin của bà thì luôn luôn đạt được thành công như thế. Các mầu nhiệm của Thiên Chúa không phải bao giờ cũng trở nên minh bạch khi con người thỉnh cầu Ngài.
5. Gợi ý suy niệm
1. Bản văn hôm nay cho hiểu rằng tư cách của chúng ta là người đã được rửa tội không phải là mộtquyền để chúng ta có thể phê phán hoặc khinh bỉ người khác. Tư cách này thật ra là mộtơn Thiên Chúa ban cho chúng ta. Riêng Ngài, Thiên Chúa không hề bị ràng buộc vào bất cứ cấu trúc tôn giáo nào hay bất cứ tư cách nào của con người cả. Ngài vẫn đang thấy có “lòng tin mạnh thật” nơi những người mà chúng ta coi thường. Ngài vẫn có thể làm dấy lên mộtdân mới cho Ngài.
2. Bà Canaan này đã vượt qua được mọi trở ngại, bằng sự kiên trì, bằng khả năng thuyết phục riêng của phái nữ: nhẹ nhàng, bình thản, nhưng cương quyết. Bà đã vượt qua được các trở ngại bằng trí thông minh đầy khiêm tốn, chứ không phải bằng sự ngạo mạn khiêu khích, hoặc bằng thái độ quỵ lụy, hạ mình, cầu cạnh. Để làm được như thế, trước tiên bà phải rất thương yêu đứa con của bà. Bà thương yêu đứa con nhỏ yếu đuối, không có thể tự làm gì để cứu mình. Bà trở thành đại diện cho nó; bà cũng trở thành đại diện cho những người không thể tự mình diễn tả ra vấn đề của họ. Bà là phát ngôn viên của những người cô thế cô thân, những người yếu đuối. Bà hiểu vụ việc của bà, bà xác tín bà có lý, bà chắc chắn là bà có quyền xin được cứu giúp. Không phải bà chỉ muốn bày tỏ nguyện vọng của mình, còn đáp ứng thế nào thì tùy Đức Giêsu; bà đã có cách xin khiến Đức Giêsu không thể từ chối được.
3. Không biết là bà có linh cảm được rằng Đức Giêsu thế nào cũng chấp nhận lời bà thỉnh cầu chăng. Không biết là bà có đã nghe biết nhiều về Đức Giêsu chưa. Không biết là bà có hiểu biết phần nào nhân cách của Người chăng. Nhưng cách bà xin cho thấy là bà biết là bà có thể cậy dựa vào Đức Giêsu. Dù sao người phụ nữ cũng có linh cảm sắc bén hơn về con người, có cảm thức rất chính xác về từng con người họ gặp gỡ. Chắc chắn bà này đã được hỗ trợ bằng sự linh cảm rất nữ tính này. Khi biết rằng bà xin không phải cho bà, khi biết rằng con người mà bà đến gặp để thỉnh cầu là con người có lòng nhân ái, thì bà chẳng có gì để sợ mất. Bà đã xin, xin mãi. Ta có thể nhớ đến dụ ngôn Đức Giêsu kể về bà góa nhất định xin ông quan toà bất nhân cứu xét cho vụ việc của mình ở chương 18 của Tin Mừng Luca. Dường như sự kiên trì là một đức tính chủ yếu của phái nữ.
4. Dường như tôi dễ buông xuôi trước mộtkhó khăn dù bé nhỏ. Dường như tôi không có xác tín mãnh liệt về ơn gọi của tôi để sống cho đến mức độ cuối cùng. Dường như tôi không có cảm thức rằng số phận của người khác liên hệ đến cách tôi sống ơn gọi của tôi. Quả thật, tôi lùi bước tức khắc khi vừa bị từ chối. Có mấy khi tôi kiên trì cầu xin Chúa cho một người đã cậy nhờ tôi cầu nguyện cho đâu. Dường như tôi chẳng dám lên tiếng cho những người cô thế cô thân, vì tôi sợ liên lụy đến tôi, tôi sợ mất quyền lợi, mất chỗ đứng, mất sự tín nhiệm… Có khi chỉ nguyên nghĩ rằng tôi chẳng đạt được kết quả gì đâu, là tôi đã cảm thấy tê liệt, chân tôi không sao nhúc nhích được nữa rồi. Người phụ nữ Canaan này, một người tôi ngoại, cho thấy rằng kiên trì là mộtnhân đức, bởi vì nó lay chuyển được lòng của Thiên Chúa! Bà ý thức rằng bày tỏ nguyện vọng tốt lành, nhất là để trợ giúp kẻ khác, thì không phải là chuyện xấu để phải cả nể, để phải giữ kẽ, để phải nổi tự ái lên.
5. Hội Thánh sống giữa Dân ngoại có nhiệm vụ công bố sứ điệp của Đức Giêsu cho họ: Đức Giêsu không giam hãm Thiên Chúa bên trong biên cương của Israel, nhưng đã để chính mình được đánh động bởi lòng tin của người phụ nữ ngoại giáo. Đối với cộng đoàn đã tách khỏi Israel, giai thoại này cho thấy các tín hữu có thể tìm được một cuộc sống mới và một vùng dấn thân mới giữa các Dân ngoại.
[Mục Lục]

Bài 2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm Inhaxiô Hồ Thông
Ba bài đọc của Chúa Nhật nầy dâng hiến một chủ đề chung: đón tiếp muôn dân muôn nước, bất kỳ những ai bày tỏ niềm tin vào Đức Chúa, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en.
Is 56: 1, 6-7
Bài đọc thứ nhất loan báo sứ điệp cứu độ phổ quát: mời gọi cộng đồng Giê-ru-sa-lem đón nhận những ngoại kiều kính sợ Thiên Chúa Ít-ra-en vào cộng đoàn của mình.
Rm 11: 13-15, 29-32
Trong thư gởi các tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô nhắc lại rằng ngài là Tông Đồ dân ngoại: vì dân Do thái từ chối nên lời loan báo cứu độ được gởi đến cho muôn dân.
Mt 15: 21-28
Tin Mừng Mát-thêu thuật lại câu chuyện đức tin của người đàn bà xứ Ca-na-an. Đức Giê-su nhận lời khẩn cầu của bà và ca ngợi đức tin của bà.
BÀI ĐỌC I (Is 56: 1, 6-7)
Đoạn trích nầy là đoạn mở đầu của phần thứ ba sách I-sai-a. Toàn bộ phần thứ ba này gồm các chương 56-66 được gán cho vị ngôn sứ với biệt danh là I-sai-a đệ tam, vì người ta không biết tên ông. Cũng như vị tiền nhiệm của ông, ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (ch. 40-55), ông kín đáo ẩn mình dưới vị ngôn sứ I-sai-a lừng danh (ch. 1-39). Ngôn sứ I-sai-a đệ tam thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem, trong những thập niên sau cuộc lưu đày Ba-by-lon trở về, và nhất là vào thời kỳ tái thiết Đền Thờ (521-515 Trước Công Nguyên).
Sứ điệp mở đầu tác phẩm của ông công bố khai mạc thời kỳ cứu độ phổ quát.
1. Những ngoại kiều
Chắc chắn vào lúc nầy có một số lượng khá lớn ngoại kiều ở Giê-ru-sa-lem và Giu-đê. Chúng ta nghĩ đến những người nước ngoài đã đến định cư ở đây trong khi một phần dân bản xứ bị đưa đi lưu đày.
Đối với những ngoại kiều định cư lâu dài được gọi “gérim” (kiều cư), luật dự kiến một quy chế thuận lợi; họ được hưởng một số lượng quyền lợi. Sách Lê-vi đồng hoá họ với “những người thân cận” và đòi hỏi phải “yêu thương họ như chính mình” (Lv 19: 33-34). Trái lại, đối với những ngoại kiều tá túc trong một thời gian hạn định nào đó được gọi “nokrin”(khách vãng lai), họ không hưởng được bất kỳ quyền hạn nào khác ngoài tập quán của lòng hiếu khách. Đơn giản họ được cư xử với lòng bao dung; đôi khi họ bị đồng hóa với những kẻ thù của dân Ít-ra-en; họ bị loại ra khỏi việc phụng tự và bị tước đoạt nhiều quyền lợi.
Vì thế, ở đây “nhân danh đức công chính và điều chính trực”,vị ngôn sứ tố cáo những kỳ thị như thế. Thiên Chúa phán: “Vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới”, diễn ngữ nầy muốn nói rằng Đức Chúa sẵn sàng can thiệp bởi vì Ngài là Đấng bảo vệ những người đơn côi yếu thế.
2. Yêu mến Danh Người
Ngôn sứ liệt kê những điều kiện khái quát về việc đón nhận những kiều cư vào cộng đoàn Ít-ra-en: “ Những người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự và yêu mến Danh Người, để nên tôi tớ của Người ”. Theo văn hóa Do thái, tên chính là người, vì thế,“Yêu mến Danh Người” không gì khác “yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en”. Cách nói: “Yêu mến Danh Người” không gặp thấy nơi nào khác ngoài đoạn văn Cựu Ước nầy. Nhưng thật có ‎ý nghĩa khi vị ngôn sứ đòi hỏi trước tiên lòng yêu mến đối với Đức Chúa. Từ ngữ “phụng tự” trong diễn ngữ “để phụng sự” không gợi lên bất kỳ phụng tự tôn giáo nào; thành ngữ “tôi tớ” là danh từ chung để chỉ hết mọi tín hữu, nghĩa là tất cả những ai có niềm tin vào Thiên Chúa.
“Những ai giữ, không vi phạm ngày sa-bát”. Điểm nhấn được đặt trên “ngày sa-bát” rất có ý nghĩa. Trong thời lưu đày, việc tuân giữ ngày sa-bát đã mang lấy tầm mức quan trọng lớn lao. Ngày sa-bát đã trở nên dấu chỉ biệt phân, nhờ đó, người Do thái bị tản mác ở giữa dân ngoại khẳng định căn tính của mình.
“Trung thành với giao ước của Ta,” câu nầy tóm gọn những đòi hỏi ở trên. Trong số những đòi hỏi nầy, phép cắt bì không được kể ra. Vả lại, phép cắt bì chỉ đòi hỏi những tân tòng, chứ không “những người kính sợ Thiên Chúa”, tức là những người có thiện cảm với Do thái giáo, như viên bách quản Rô-Ma, ông Cô-nê-li-ô (Cv 10: 1-2).
3. Chiều kích phổ quát của sứ điệp
Vị ngôn sứ công bố nhân danh Đức Chúa. Việc phục hồi quyền lợi của những kiều cư và sáp nhập họ vào dân Chúa chọn là sáng kiến của Thiên Chúa: “Ta sẽ dẫn họ lên Núi Thánh của Ta, và cho họ hân hoan bước vào nhà cầu nguyện của Ta”.
Trong Kinh Thánh, chúng ta thường gặp thấy niềm vui được phụng thờ Thiên Chúa. Các“Thánh Vịnh lên đền” ca ngợi tâm tình hân hoan tôn giáo nầy, ví dụ như Thánh Vịnh 43:“Con sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa, tới gặp Thiên Chúa, nguồn vui của lòng con”.
“Ta sẽ ưng nhận lễ toàn thiêu và tế phẩm họ dâng trên bàn thờ của Ta. Vì nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của mọi dân nước”. Biểu thức nầy có cung giọng đặc biệt, một trong những cung giọng mang chiều kích phổ quát nhất trong toàn bộ Cựu Ước. Đức Giê-su sẽ lập lại biểu thức nầy khi Ngài đuổi những người buôn bán và những người đổi tiền ra khỏi khuôn viên Đền Thờ, chính xác là nơi dành cho lương dân mong ước cầu nguyện với Thiên Chúa Ít-ra-en. Cử chỉ của Đức Giê-su không chỉ muốn nói rằng nền phụng tự nầy rồi sẽ sớm mất đi lý do hiện hữu của chúng, nhưng còn nơi nầy phải được dành cho muôn dân muôn nước.
BÀI ĐỌC II (Rm 11: 13-15, 29-33)
Đoạn trích thư của thánh Phao-lô hôm nay hòa hợp với hai bài đọc khác: cả ba bài đọc đều nói về việc mở rộng vòng tay đón nhận muôn dân.
Việc mở rộng vòng tay đón nhận muôn dân nầy càng cần thiết hơn khi mà dân Do thái, nói chung, cố chấp đến mù quáng của mình. Đó là nguyên do thánh Phao-lô phiền muộn. Ngài ngỏ lời với các tín hữu Rô-ma, những người xuất thân từ ngoại giáo: “Tôi xin nói với anh em là những người gốc dân ngoại”.
Thánh Phao-lô tự đặt mình vào trong hai viễn cảnh nối tiếp nhau: viễn cảnh của chính ngài, vị tông đồ dân ngoại, và viễn cảnh của Thiên Chúa, Đấng đầy lòng xót thương.
1. Viễn cảnh của vị tông đồ dân ngoại
Lần đầu tiên đọc đoạn văn này, chúng ta có thể tin rằng thánh Phao-lô dâng trọn cuộc đời mình cho sứ vụ tông đồ dân ngoại với một hậu ý: sinh lòng ghen tức ở nơi đồng bào của mình trước sự kiện dân ngoại vào thế chỗ dân Ít-ra-en mỗi ngày mỗi thêm đông trong kế hoạch của Thiên Chúa. Chắc chắn đây không là mục đích hàng đầu trong công việc truyền giáo của thánh nhân, nhưng là ý định được đi kèm theo: ở đây thánh nhân bày tỏ nỗi lòng của mình: ơn cứu độ của dân Ít-ra-en ám ảnh thánh nhân. “Một ích người” mà thánh nhân mong muốn cảm hóa đức tin của họ, được xem ra như mầm mống và bảo chứng cho việc muôn dân hoán cải.
Nếu việc dân Do thái bị gạt ra bên ngoài đã là cơ hội cho thế giới được hòa giải với Thiên Chúa, tức là cuộc hoán cải của dân ngoại, giai đoạn đầu tiên của ơn cứu độ phổ quát, thì giai đoạn thứ hai sẽ là tuyệt vời biết mấy, khi toàn thể dân Ít-ra-en tái sáp nhập vào cộng đồng tin: đó chẳng khác gì việc các vong nhân sống lại từ cõi chết.
2. Viễn cảnh của Thiên Chúa đầy lòng xót thương
Đối với vị tông đồ dân ngoại, Thiên Chúa không thể bỏ rơi dân riêng của Ngài: ân ban và ơn gọi bất khả đổi thay. Cả dân ngoại lẫn dân Do thái đều đã “không vâng phục Thiên Chúa”.Ở đầu bức thư của mình, thánh nhân đã cho thấy rằng dân ngoại đã đón nhận đủ ánh sáng ngõ hầu cư xử với nhau một cách chính trực và từ tâm, nhưng họ đã lún sâu vào sự bất chính và thờ ngẫu tượng: theo nghĩa nầy, họ đã không vâng phục Thiên Chúa. Dân Do thái, đến thời Mê-si-a, đã không mở rộng lòng mình mà đón nhận Đấng Thiên Chúa sai đến, họ cũng thế đã không vâng phục Thiên Chúa.
Thánh Phao-lô thiết lập mối quan hệ nhân quả giữa việc dân Ít-ra-en bất phục tùng và việc dân ngoại hoán cải. Chắc chắn đây là quan hệ nhân quả lịch sử. Trước việc người Do thái chống đối có hệ thống, thánh Phao-lô, thánh Ba-na-ba và các tông đồ khác đã cương quyết quay về phía dân ngoại. Nhưng còn sâu xa hơn, thánh nhân cho thấy mối quan hệ nhân quả thuộc trật tự tâm lý nằm trong ‎ý định Thiên Chúa. Lúc đó, theo thể loại song đối đặc thù Sê-mít, thánh nhân mô tả chuyển động kép của lòng Thiên Chúa xót thương: lòng xót thương mà dân ngoại đã có được khi trở về cùng Thiên Chúa, lòng xót thương theo đó dân Ít-ra-en sẽ trở lại. Sau cùng, thánh nhân tóm lại chương trình quan phòng của Thiên Chúa, trong một biểu thức thấm thía: “Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người”.
TIN MỪNG ( Mt 15: 21-28)
Câu chuyện niềm tin của một người đàn bà xứ Ca-na-an được định vị trong bối cảnh đặc thù: kể từ phép lạ bánh hóa nhiều và việc đám đông dân chúng không hiểu được sứ điệp của Ngài, Đức Giê-su đã quyết định tập trung vào việc đào tạo các môn đệ của mình. Vì thế,“Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đôn”. Đó là lý do Ngài có mặt tại vùng đất dân ngoại. Ngài đã vượt qua biên giới phân chia giữa miền Ga-li-lê và xứ Phê-ni-xi, xa khỏi đám đông và những kinh sư, những người đã đặt ra nhiều câu hỏi để nhằm gài bẩy Ngài. Trong bầu khí yên tỉnh, Ngài dành hết tâm trí và thời giờ cho các môn đệ. Ngài muốn chuẩn bị sứ mạng tương lai của họ.
1. Người đàn bà xứ Ca-na-an
“Thì nầy có một người đàn bà xứ Ca-na-an…”. Ca-na-an là tên cổ xưa của Phê-ni-xi. Khi dùng cách nói “người đàn bà xứ Ca-na-an”, thánh Mát-thêu không quan tâm đến tên gọi cổ xưa, nhưng vì cách nói nầy gợi lên quá khứ thù địch giữa dân Ca-na-an và dân Ít-ra-en, cũng như thánh Gioan nói “người đàn bà xứ Sa-ma-ri” để chất chứa ở nơi tên gọi nầy những kỷ niệm thù nghịch không đội trời chung giữa hai dân tộc nầy. Thêm nữa, khi nói“người đàn bà xứ Ca-na-an”, thánh Mát-thêu muốn khẳng định rằng bà là dân ngoại.
Người đàn bà xứ Ca-na-an đã nghe danh Đức Giê-su. Bà nghe biết Ngài hiện đang có mặt ở trong miền, vì thế bà đến với Ngài và khẩn khoản van xin Ngài, không phải cho bà nhưng cho đứa con gái bệnh hoạn của bà. Bengel đã nói về bà: “Bà đã xem nỗi bất hạnh của con bà như của chính bà”, còn William Barclay đã xoáy vào trọng tâm của tình mẫu tử ở nơi người đàn bà ngoại giáo nầy: “Chính bởi tình yêu khiến bà đến gần người ngoại quốc nầy, chính tình yêu khiến bà cam chịu sự nín lặng, lạnh nhạt của Ngài mà vẫn tiếp tục kêu xin, chính tình yêu mà bà cam chịu đau khổ vì lời từ chối tàn nhẫn, chính tình yêu mà đã khiến bà có thể thấy được niềm thương cảm phía sau những lời nói của Chúa Giê-su” (The Gospel of Matthew, tập II, tr. 100).
“Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”. Bà khẩn cầu Đức Giê-su với tước hiệu Mê-si-a: “con vua Đa-vít”. Phải chăng thánh Mát-thêu đã muốn nhấn mạnh sự bạo dạn của người đàn bà xứ Ca-na-an nầy khi dùng tước hiệu đặc trưng dân Do thái dành riêng cho Đấng Mê-si-a? Hay đúng hơn thánh nhân muốn ghi nhận ở nơi người đàn bà nầy một tấm lòng tin tưởng không hề lay chuyển ngay từ giây phút gặp gỡ ban đầu? Lời van xin nầy vang lên như cung giọng phụng vụ: “Xin Chúa thương xót chúng con” (“Kyrie Eleison”). Dù thế nào, lời khẩn cầu của người phụ nữ ngoại giáo này cũng vẫn là lời trách cứ gởi đến dân Do thái vì họ không biết nhận ra Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a. Thánh Mát-thêu chuẩn bị cho chúng ta tham dự vào chiều kích vĩ đại của ơn cứu độ phổ quát.
2. Thái độ của Đức Giê-su
Để khơi dậy đức tin ở nơi người đàn bà xứ Ca-na-an, Đức Giê-su sử dụng khoa sư phạm có thể được gọi phương pháp thử thách. Phương pháp nầy bao gồm hai giai đoạn: trước hết, thinh lặng: “Người không đáp một lời nào”; đoạn, thẳng thừng từ chối. Ngài thử thách bà chỉ cốt làm sáng tỏ đức tin kiên vững của bà trong mọi thử thách.
3. Một đức tin bị thử thách
Người đàn bà vẫn bám riết theo sau Ngài mà kêu xin đến mức các môn đệ phải nao lòng chột dạ nên thưa với Thầy: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!”. Đức Giê-su đáp lại các ông: “Thầy chỉ được sai đến cứu những con chiên lạc nhà Ít-ra-en mà thôi”. Cũng một cách như vậy, vào lúc sai nhóm Mười Hai đi truyền giáo, Đức Giê-su đã chỉ thị: “Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Sa-ma-ri. Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en” (Mt 10: 5-6). Đây là chương trình của Thiên Chúa, quy tụ dân Ít-ra-en trước, rồi mới đến muôn dân tụ họp chung quanh Thiên Chúa chân thật.
Quả thật, Đức Giê-su đã đặt ưu tiên sứ mạng của mình cho “các con chiên lạc nhà Ít-ra-en”. Tuy nhiên, Ngài đã động lòng thương trước lời khẩn cầu của viên bách quản Ca-pha-na-um xin Ngài cứu chữa người đầy tớ của mình. Có nhiều điểm tương tự giữa câu chuyện của viên bách quản ngoại giáo và câu chuyện của người đàn bà xứ Ca-na-an. Tấm lòng của Chúa Giê-su vẫn hằng rộng mở trước lời cầu khẩn của dân ngoại. Họ là hoa trái đầu mùa sứ điệp của Ngài. Tuy nhiên, đó là thời gian mà các môn đệ Ngài sẽ tiếp nối công việc của Ngài, họ sẽ mở rộng cửa tiếp đón muôn dân muôn nước.
Dù Chúa Giê-su thẳng thừng từ chối, người đàn bà xứ Ca-na-an này cũng không hề nao núng; bà đến sụp lạy van xin: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” Đức Giê-su trả lời thẳng với bà để bà hiểu ra rằng bà không thuộc dân của Ngài: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Dân Do thái thường khinh bỉ dân ngoại là “Đồ lũ chó dân ngoại”. Tuy nhiên, trong lời nói của Đức Giê-su “lũ chó con” trong ngôn từ Hy-lạp gợi lên chó nuôi trong nhà, là con vật cưng đối lập với chó hoang lang thang ngoài đường. Vì thế, thánh Mác-cô, trong câu chuyện song song của mình, định vị hoạt cảnh nầy ở trong nhà: “một nhà nọ” (Mc 7: 24). Câu trả lời của Đức Giê-su và câu đáp trả của người đàn bà rất đối xứng với nhau theo từng từ: bánh, chó con, bàn ăn, những mảnh vụn.
4. Đức tin của người đàn bà xứ Ca-na-an
Người đàn bà xứ Ca-na-an trả lời với trọn tấm lòng khiêm tốn của mình: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con lại được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Bà đã nhận ra rằng sứ điệp của Đức Giê-su gởi đến trước tiên cho dân Do thái và tất cả phép lạ mà Ngài đã thực hiện, trước hết ở nơi quê hương của Ngài:“Thưa Ngài, đúng thế”. Nhưng với một ‎trực giác tuyệt vời, bà tin rằng lòng xót thương của Thiên Chúa chắc hẳn vượt ra bên ngoài khung cảnh xứ Palestine, vì thế, bà cũng có thể đón nhận những mảnh vụn lòng xót thương của Thiên Chúa.
Đức Giê-su thán phục đức tin của người đàn bà xứ Ca-na-an như Ngài đã thán phục đức tin của viên bách quản ngoại giáo. Ngài nhận lời khẩn cầu của bà. Cũng như viên bách quản, người phụ nữ xứ Ca-na-an là mẫu gương đức tin phi thường.
5. Dấu chỉ của bánh
Chính dưới dấu chỉ của bánh mà Đức Giê-su ngỏ lời với người đàn bà xứ Ca-na-an. Thật khó mà nghĩ rằng đây chỉ là một sự ngẫu nhiên. Theo lời Đức Giê-su, bánh trước hết được dành riêng cho “con cái”, nghĩa là cho dân Do thái, dân Chúa chọn, đám đông nầy mà Đức Giê-su đã nuôi bánh vật chất no nê đến mức cò dư đến mười hai thúng đầy mảnh vụn. Nhưng bánh này chỉ là tiên báo về bánh siêu nhiên, như bánh man-na trong sa mạc loan báo những thiện hảo của thời Mê-si-a.
Từ bánh nầy mà người đàn bà xứ Ca-na-an đã đón nhận những mảnh vụn. Bà đã nhận được bảo chứng của những phúc lộc Nước Thiên Chúa mà các môn đệ sau biến cố Phục Sinh được chỉ thị phân phát cho muôn dân.
[Mục Lục]

Bài 3. Chú giải của Noel Quesson: Ra khỏi đó, Đức Giêsu lui về
Chúng ta đã nhận thấy, vào cuối cuộc đời Người, Đức Giêsu “rút lui”, “lánh mặt” ở vùng đất của dân ngoại. Đã hẳn có nhiều lý do được đưa ra. Dẫu sao, đây là một khúc quanh trong sứ vụ của Người. Từ khi hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu cảm nhận một cách xót xa sự hiểu lầm của dân chúng. Thật ra họ không biết sứ mạng thật của Người.
Từ nay, Người tránh họ, để chuyên tâm đào tạo nhóm nhỏ các môn đệ. Vả lại, như mỗi người trong chúng ta, Người không tránh khỏi sự mệt mỏi thể xác và tâm lý, và Người cảm thấy nhu cầu được yên tĩnh, nghỉ ngơi, cầu nguyện, xa khỏi các đám đông.
Đức Giêsu lui về miền Tia và Xiđon, thì này có một người đàn bà Canaan, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng…
Vậy để được yên tĩnh, Đức Giêsu phải vượt qua một biên giới. Và này Người đi dọc theo bờ biển tuyệt đẹp miền nam xứ Libăng với những vách đá màu vàng chạy xuôi ra Địa Trung Hải, và những vườn cây ăn trái xum xuê.
Vùng đất này, lẽ ra là một ốc đảo bình yên lại thường bị các cuộc chiến huynh đệ tương tàn làm xáo động. Tại đây, Đức Giêsu gặp tôn giáo ‘thờ thần’ của dân ngoại. Tia và Xiđon không còn nằm trong phần đất của Israel. Đó là hai thành phố cảng thương mại lớn, có cư dân hỗn hợp. Nhưng danh tiếng của Đức Giêsu đã vượt qua biên giới. Và đây là một phụ nữ mà Matthêu giới thiệu rõ ràng là “người đàn bà Canaan” để nhắc chúng ta nhớ lại những kẻ thù đầu tiên của Israel đã tiến vào Đất Thánh. Người đàn bà ấy đang kêu lên…
“Lạy Ngài là con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi? Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”
Theo thói quen thường có, Matthêu cho lời cầu xin của người đàn bà một phong cách hoàn toàn “phụng vụ”: Lạy Ngài, xin rủ lòng thương tôi” dịch chính xác ra tiếng Hy-lạp là: “Kyrie éléisòn mé”. Về chữ “Con vua Đavít” đây rõ ràng là một tước hiệu của Đấng Mêsia.
Vậy quả là một nghịch lý đáng kinh ngạc: Đức Giêsu vừa có một cuộc tranh luận, khi còn ở trên đất Israel, với các kinh sư và Pharisêu từ Giêrusalem đến (Mt 15,1-20); và chính trong vùng đất ngoại bang này, Người nhận được một lời cầu nguyện của đức tin do một người đàn bà. Đức Giêsu sẽ đón nhận lời cầu nguyện tốt đẹp, chân thành và cảm động ấy như thế nào, Người đã từng nói: “Anh em cứ xin thì sẽ được… cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho” (Mt 7,7).
Nhưng Người không đáp lại một lời
Lạy Chúa Giêsu, tại sao Người không đáp lại lời cầu xin của một người mẹ đáng thương trong cảnh khốn khố? Tuy nhiên đó là một lời cầu xin rất tinh tuyền: bà xin Ngài “cứu con gái bà khỏi bị quỷ ám”. Lạy Chúa tại sao Ngài dường như rất hay im lặng khi chúng con cầu xin sự giải thoát chúng con, và giải thoát những người mà chúng con yêu mến?
Tạm thời trong lúc chờ đợi lịch sử chấm dứt sẽ soi sáng thêm cho chúng ta, có lẽ chúng ta nhớ lại ràng Đức Giêsu thường rất dè dặt trong việc làm phép lạ. Người không muốn bị coi như một người chuyên làm các phép lạ. Một cách bình thường, Thiên Chúa để cho các quy luật của vũ trụ diễn ra và Người không muốn làm ngược lại bất cứ lúc nào. Những lần chữa bệnh hay làm phép lạ nào đó mà Đức Giêsu đã thực hiện thì không nhiều và trước tiên luôn luôn là những “dấu chỉ”. Nhưng mọi “dấu chỉ” đều mơ hồ và đều phải được giải thích. Nhiều người Pharisêu khinh thường những phép lạ của Đức Giêsu bằng cách cho rằng các phép lạ ấy thuộc quyền lực của ma quỷ (Mt 12,24)… còn với các đám đông, các phép lạ ấy thường chỉ ở trong bình diện của thầy trị bệnh và thầy pháp, điều này khiến Người phải chạy trốn (Mt 14,22) đến nỗi. Đức Giêsu thường cấm người ta nói ra những phép lạ Người làm (Mc 1,34-44; 7,36; 8,26; 9,9).
Các môn đệ lại gần xin với Người rằng: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi”.
Rõ ràng đây là một giải pháp dễ dãi. Nhưng như thế chẳng phải là làm ngưng mọi cuộc đối thoại đó sao? Người ta thoát khỏi sự phiền phức. Thế là xong. Rồi người ta được yên tĩnh.
Chúng ta cũng thế, như các Tông đồ, chẳng phải chúng ta cũng thường đi đến một thái độ cuối cùng như thế, và do đó cắt đứt mọi dự định trao đổi đó sao?
Người đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”.
Người bắt đầu không đáp một lời. Rồi giờ đây một sự từ khước dứt khoát. Lạy Chúa, tại sao vậy? Tại sao Chúa nói không với người đàn bà đang cầu xin Chúa? Tuy nhiên, chúng con biết rằng Chúa có trái tim nhân hậu và hay chạnh lòng thương xót. (Mt 9,36; 14,14; 15,32).
Nhưng rõ ràng, trước sự khắt khe này của Đức Giêsu chúng ta cảm thấy bị tổn thương. Khi chúng ta biết được sự dịu dàng của Đức Giêsu đối với những người nghèo, chúng ta không thể nghĩ rằng những sự từ chối bề ngoài này không bao hàm một ý nghĩa. Chúng ta hãy thử vượt qua cảm tưởng ban đầu để khám phá ý nghĩa bao hàm trong công thức: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”. Bởi công thức này, Đức Giêsu nói lại với chúng ta tình yêu của Người theo thánh ý Chúa Cha: Người đã được Chúa Cha sai đến vì một nhiệm vụ chính xác và hạn chế. Mọi đời sống con người được đóng khung trong không gian và thời gian. Người ta không thể ở khắp nơi và làm mọi việc. Đức Giêsu không tự mình quyết định sứ mạng của Người: Người đã được sai đi. Chính Chúa Cha đã giới hạn môi trường hoạt động trong phạm vi mà một con người có thể hoàn thành trong một cuộc đời ngắn ngủi. Chúng ta cũng thế, thay vì bám víu những mơ ước của chúng ta, chúng ta phải chấp nhận thân phận con người có giới hạn, bị gắn chặt vào một nơi nào đó ngõ hầu làm tròn nhiệm vụ riêng của mình và chỉ có chúng ta mới có thể làm được. Chúng ta luôn luôn bị cám dỗ mơ mộng đến một đời sống khác… đời sống của những người khác?
Thật vậy Đức Giêsu, ngoại trừ những cuộc du hành ít ỏi (và rất có ý nghĩa), hiếm khi Người ra khỏi biên giới của xứ Palestine, Người dành phần chính của sứ vụ cho những người đồng hương Do Thái của Người. Những người khác, các môn đệ, sẽ đi khắp thế gian (Mt 28,19), nhưng chỉ sau khi Người đã dược trao toàn quyền trên trời tức là sau cái chết và sự sống lại của Người (Mt 28,18).
Trong lúc này, Đức Giêsu bằng lòng đảm nhận một cách khiêm tốn nhiệm vụ “nhỏ bé” giới hạn đã được trao cho Người, và Người định nghĩa sứ mạng của Người khi tóm tắt lời tiên tri tuyệt vời trong đó Thiên Chúa tự giới thiệu như một Mục Tử Nhân Từ, đích thân đến để quy tụ và chữa lành những con chiên lạc (Ed 34,1-31). Nhưng dù bà mẹ đáng thương có hiểu biết viễn cảnh lịch sử ấy… bà có bằng lòng không?
Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”
Ôi quả là một lời khẩn nài tuyệt diệu! Thêm vào những lời đáp lại trước đó, câu này há chẳng phải là một lời đáp lại lý do tại sao của chúng ta đó sao? Những thử thách của đức tin, những thử thách của việc cầu nguyện há chẳng phải là một sự thanh luyện đức tin và làm tăng giá trị của sức mạnh cho sự cầu nguyện chân thực. Giữa người đàn bà Canaan và Đức Giêsu có một quan hệ mầu nhiệm gây ngạc nhiên trong giây phút ấy: theo vẻ bề ngoài, đó là mối quan hệ bị phá vỡ, một lời từ chối, một sự bỏ rơi… nhưng bên trong những tấm lòng, chính những kh6 khăn của hoàn cảnh lịch sử làm nẩy mầm một quan hệ sâu xa nhiều hơn giữa hai người. Cũng như thế, trên núi; một đập nước dường như chận dòng nước lại… nhưng gây ra sự dâng lên cho đến lúc tạo ra những điều kỳ diệu.
Còn chúng ta? Chúng ta có biết giải thích những thử thách của chúng ta không? Thay vì để chúng ta bối rối bởi những khó khăn, chúng ta có biết “nâng cấp” mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa không? Trước sự bền đỗ tuyệt diệu này của người đàn bà ngoại giáo, Thầy chúng ta sẽ đáp lại gì?
Người đáp: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”.
Quả là khắc nghiệt! Lạy Chúa, Chúa vừa hóa bánh ra nhiều. Thế mà Chúa từ khước mẩu bánh nhỏ mà người đàn bà nghèo khổ ấy cầu xin. Không thể như thế. Hãy đọc cho đến phần cuối của câu chuyện này…
Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.
Không để cho mình chán nản, người đàn bà đã nắm lấy trái bóng và với sự hóm hỉnh, trả trái banh lại cho Đức Giêsu. Nhưng Đức Giêsu thực ra đã chẳng muốn cứu giúp người đàn bà ấy hay sao? Ở Phương Đông gọi một người nào đó là con chó là một sự nguyền rủa nặng nề. Nhưng khi dùng chữ chó con Đức Giêsu muốn gợi ra tính chất của thú nuôi trong nhà, chúng hoàn toàn thuộc về những thành viên trong nhà như các con cái.
Đức Giêsu đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
Rõ ràng đây là chỗ mà câu chuyện phải đi đến. Một niềm hy vọng to lớn được mở ra xuyên qua Tin Mừng này nhờ đức tin của người đàn bà ngoại giáo ấy. Nếu Đức Giêsu khiêm nhường giới hạn mình nơi những con chiên lạc của nhà Israel thì ở đây, Người cho thấy rằng sứ điệp và ơn cứu độ của Người là dành cho tất cả mọi người. Và chúng ta phải để cho chính Tin Mừng tra vấn chúng ta. Tại sao tôi may mắn có được đức tin? Tại sao tôi là một người có đặc ân, được ăn “bánh của con cái Thiên Chúa”? Có phải tôi không quên, mà quên thì rất thường xảy ra, đám đông nhiều vô kể đang chờ những mảnh vụn từ bàn ăn của Thiên Chúa? Mọi sự tuyển chọn của Thiên Chúa cũng là một sứ mạng hoàn vũ…
Nếu Thiên Chúa chọn “một số người”, chính là để sai họ đi đến với mọi người khác. Israel là dân tộc đầu tiên được chọn, phải là dân tộc đầu tiên tiếp nhận sự trung tín tuyệt vời của Thiên Chúa với những lời Người hứa, không quên mục đích sau cùng: Mọi người phải được cứu chuộc! “Toàn cõi đất đều là của Ta. Ta sẽ coi các ngươi là một vương quốc tư tế”… cho những người khác (Xh 19,5-6).
[Mục Lục]

Bài 4. Nước chảy đá mòn
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Biết cầu nguyện cách khiêm tốn, nhẫn nại và liên lỉ như người phụ nữ xứ Ca-na-an trong Tin Mừng hôm nay, là bí quyết để được đón nhận vô vàn hồng ân của Chúa.
Khi Chúa Giê-su đến miền Tia và Xi-đôn, “có một người đàn bà Ca-na-an, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”
Nghe vậy Chúa Giê-su vẫn thinh lặng, không đáp lại lời van xin thiết tha và rất chính đáng của người mẹ đáng thương nầy.
Dù vậy, người phụ nữ vẫn không chùn bước, không tháo lui, không thất vọng, cứ tiếp tục bám sát Chúa Giê-su để van xin Ngài.
Chúa Giê-su vốn là Đấng giàu lòng nhân ái, luôn sẵn sàng cứu chữa các bệnh nhân và xót thương người đau khổ. Vậy tại sao hôm nay Ngài không đáp lời một người mẹ tha thiết cầu xin Chúa cứu chữa cho con bà?
Vì giờ của Ngài chưa đến.
Quả vậy, sau một hồi bị quấy rầy bởi những lời van lơn dai dẳng của người đàn bà Ca-na-an, các môn đệ đề nghị với Chúa Giê-su: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!”
Đến đây, Chúa Giê-su tỏ cho các môn đệ hiểu lý do vì sao Ngài im lặng: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.” Nói khác đi, phạm vi phục vụ của Chúa Giê-su vào thời điểm đó, được khoanh lại trong phạm vi dân tộc Ít-ra-en mà chưa trải rộng đến muôn dân muôn nước. Giờ phục vụ ngoại bang chưa điểm.
Biết vậy nhưng người phụ nữ Ca-na-an vẫn không lùi bước. Bà đến sụp lạy dưới chân Chúa Giê-su và van lơn rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”
Lần nầy, Chúa Giê-su tỏ ra kiên quyết, Ngài đáp: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”
Nếu đặt mình vào hoàn cảnh người phụ nữ Ca-na-an, chúng ta cảm thấy cay đắng biết chừng nào khi nghe những lời đó và chắc chắn sẽ thất vọng rút lui. Thế nhưng người phụ nữ nầy vẫn không giận, không tủi, không buồn trước câu trả lời cứng cỏi của Chúa Giê-su, trái lại còn tỏ ra đồng cảm với Ngài. Bà thưa: “Thưa Ngài, đúng thế.” Rồi bà dựa vào ngôn từ của Chúa Giê-su để thưa với Ngài: “Nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.”
Đến đây thì Chúa Giê-su không thể nào chối từ được nữa. Ngài đáp ứng nguyện vọng của bà: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.”
Thế là cuối cùng, người phụ nữ Ca-na-an đã đạt được nguyện vọng của mình.
Cho dù vào thời điểm đó, Chúa Giê-su chỉ được sai đến với những chiên lạc nhà Ít-ra-en mà thôi (Mt 15, 24);
Cho dù kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa có tính cách tiệm tiến, bắt đầu từ Ít-ra-en trước rồi mới lan tỏa ra muôn dân sau (Ga 4, 22b);
Cho dù theo lẽ phải thì không nên lấy bánh của con cái trong nhà mà trao cho người xa lạ (Mt 15, 26); Nhưng lòng tin mạnh mẽ và sự bền bĩ cầu xin của người phụ nữ Ca-na-an như giòng suối kiên trì lưu chảy làm xói mòn quyết định ban đầu của Chúa Giê-su, làm thay đổi kế hoạch cứu độ tiệm tiến của Thiên Chúa, khiến Chúa Giê-su phải đáp ứng yêu cầu của bà ngay lúc bấy giờ, cho dù giờ của Ngài chưa đến. Đúng là nước chảy đá mòn! Và thế là từ đây, ơn cứu độ bắt đầu vượt ra khỏi biên giới Ít-ra-en để được rộng ban cho muôn dân muôn nước.
Hình ảnh Chúa Giê-su trong Tin Mừng hôm nay có thể khiến cho nhiều người cảm thấy bị sốc vì thái độ cứng cỏi, lạnh lùng của Chúa trước những lời van xin tha thiết của người phụ nữ Ca-na-an. Hình ảnh nầy khác hẳn dung mạo bình thường của Ngài mà chúng ta gặp thấy trong Tin Mừng, lúc nào cũng chạnh lòng lòng xót thương người đau khổ, lúc nào cũng sẵn sàng hiến thân phục vụ mọi người.
Đôi khi Chúa Giê-su tỏ ra như thế để chứng tỏ cho chúng ta hiểu rằng: bất cứ ai bền bĩ, nhẫn nại và khiêm tốn cầu xin Thiên Chúa đáp ứng những nhu cầu chính đáng của mình, như người phụ nữ Ca-na-an trên đây, thì chắc chắn người ấy sẽ được đáp ứng, cho dù ban đầu xem ra như thể Thiên Chúa chẳng chút lưu tâm đến nỗi cơ cực của mình.
Và qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su cũng trao cho chúng ta bí quyết để đạt được thắng lợi trong mọi công việc ở đời. Đó là: ai kiên gan bền chí, người đó sẽ thành công.
Lạy Chúa Giê-su,
Biết bao lần chúng con cầu xin mà chẳng được như ý, chỉ vì điều chúng con cầu xin không chính đáng hoặc có hại cho đời sống thiêng liêng. Chúa là Cha nhân lành, Chúa không thể nào ban cho con cái mình những điều không hay, không tốt.
Cũng có khi chúng con kêu cầu mà chẳng được, chỉ vì nguyện cầu không đúng cách: cầu xin cách nông nổi, thiếu tin tưởng, thiếu kiên trì… Thế rồi, thay vì tự trách mình, chúng con đâm ra giận hờn, oán trách Chúa.
Xin cho chúng con biết cầu nguyện cách khiêm tốn, nhẫn nại và liên lỉ như người phụ nữ xứ Ca-na-an trong Tin Mừng hôm nay, đó là bí quyết để được đón nhận vô vàn hồng ân của Chúa.
[Mục Lục]

Bài 5. TIN NHƯ NGƯỜI ĐÀN BÀ XỨ CANAAN
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, con người không khỏi nửa cười nửa khóc, hoặc ngạc nhiên đến lạ lùng trước thái độ của Chúa Giêsu. Có lúc Chúa tỏ ra rất nghiêm khắc nhưng có lúc Ngài cũng mềm lòng trước tâm tình dễ thương của con người, trước thái độ kiên trì, lời khẩn khoản thật khiêm tốn của con người. Tin Mừng của thánh Matthêu 15, 21-38 hôm nay cho chúng ta thấy rõ điều đó. Người đàn bà ngọai giáo xứ Canaan nhận mình nhỏ bé như “chó con” được ăn “những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Đây là thái độ hết sức khiêm tốn của người đàn bà ngoại giáo này. Thái độ của một người cầu nguyện với hết tâm hồn, với hết đức tin của mình.
Bài Tin Mừng thuật lại việc Chúa Giêsu chữa đứa con gái của người đàn bà ngoại giáo xứ Canaan bị quỉ ám. Ngưới đàn bà này bị dân Do Thái coi như ở ngoài, nghĩa là không thuộc về phe họ, do đó, đối với dân Do Thái bà là đồ bị chúc dữ và bị kinh bỉ.
Đức Kitô thương yêu mọi người, Ngài không loại trừ ai, không bỏ rơi ai, miễn là họ biết mở lòng ra, biết khẩn cầu Ngài và thật lòng muốn được Ngài cứu chữa. Con gái của người đàn bà Canaan bị quỉ ám, đang ở vào tình trạng hết sức tuyệt vọng: các thầy thuốc giỏi, danh tiếng đều bó tay, vô phương cứu chữa. Bà đã hoàn toàn tuyệt vọng theo mặt tự nhiên. Chính đức tin diễn tả ra nơi bà qua lời khẩn khoản nài van, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương xót và đã chữa lành con của bà được khỏi ngay lúc đó. Đức tin mạnh mẽ của bà cũng như đức tin của Viên sĩ quan khiến Chúa thay đổi ý định của Ngài. Bởi vì, Chúa Giêsu chỉ được Chúa Cha sai tới với con cái Israen, một dân tộc tự kiêu, tự hào vì là dân riêng của Chúa. Họ hãnh diện về đức tin của cha ông và của chính họ. Tuy nhiên, trước lòng tin mạnh mẽ và thái độ khiêm tốn cầu nguyện của người đàn bà, Chúa đã làm phép lạ để cứu chữa một người bị quỉ ám, không phải là dân Do Thái, là dân ngoại bị dân Do thái khinh chê và coi là đồ chó. Bà đã kêu xin Chúa thương xót cứu chữa con gái của bà. Rồi bà quỳ mọp xuống đất trước mặt Chúa Giêsu xin Ngài thương cứu giúp con bà, và với một thái độ hết sức khiêm tốn chấp nhận lời so sánh hết sức tủi nhục, so sánh mình với đồ chó. Bà đã có một đức tin rất mạnh mẽ như Viên sĩ quan, một đức tin son sắt thúc đẩy bà khẩn cầu hết lời, hạ mình chấp nhận những hất hủi, những tủi nhục, những khinh miệt có thể gọi được là tột độ đến thế. Bà đã có một đức tin sâu sắc để có thể chấp nhận những thử thách của Chúa Giêsu ban đầu. Bà không bực tức, không chán nản, không thất vọng, bà luôn chứng tỏ niềm tin mạnh mẽ và kiên trì.
Lời khẩn cầu của người đàn bà xứ Canaan thật khiêm tốn nhưng đầy tin tưởng và mạnh mẽ,kiên trì, phó thác. Do đó, Chúa Giêsu không nỡ từ chối. Đức Kitô đã ban cho người đàn bà Canaan được thỏa lòng mong ước, đồng thời công khai khen ngợi lòng tin của bà trước mặt các môn đệ. Chúa Giêsu muốn dạy con người về mẫu gương cầu nguyện : khiêm tốn, kiên trì và phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa. Mẫu gương về lời cầu nguyện và đức tin của người đàn bà ngoại giáo này gợi cho chúng ta xét lại thái độ cầu nguyện của chúng ta và đức tin của chúng ta ra sao mỗi lần chúng ta gặp những bất trắc, những thử thách nơi trần gian này. Liệu đức tin của chúng ta có mạnh mẽ hay thua kém nhiều người ngoại giáo và nhiều người lương? Đức tin là một ơn nhưng không Thiên Chúa ban tặng cho con người. Tuy nhiên để diễn tả đức tin và để chứng tỏ đức tin, chúng ta : “Phải quỳ gối cầu xin” (Pascal). Trong mọi trạng huống của cuộc đời, dù cầu xin chưa được, chúng ta vẫn cứ kiên trì để cầu xin và khiêm tốn, van nài, tin tưởng và phó thác như người đàn bà Canaan. Chắc chắn Chúa sẽ nhậm lời chúng ta: “Cứ xin thì được. Cứ gõ thì mở. Cứ tìm thì gặp”. Chúng ta thực sự tin tưởng vào tình thương vô biên của Chúa.
Lạy Chúa xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết tin tưởng, cậy trông, phó thác vào Chúa. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1. Người đàn bà Canaan là người thế nào ?
2. So sánh lòng tin của người đàn bà xứ Canaan với Viên sĩ quan ?
3. Tại sao Chúa Giêsu lại nói không nên ném bánh cho chó ?
4. OBACE đã có đức tin như thế trước những chông gai, thử thách
 ?
[Mục Lục]

Bài 6. TÌNH MẸ CAO QUÝ
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Tình mẹ thương con, bao la như trời như biển. Không có thứ tình cảm nào đậm đà và cao quý như tình mẹ thương con. Đã có biết bao nhiêu thi ca nhạc phẩm, đã có vô vàn câu hò điệu hát ca tụng tình mẹ thiêng liêng.
“Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào.
Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào”
Với giai điệu mượt mà sâu lắng, với ca từ thấm đẫm chất thơ gợi lên những hình ảnh bình dị, gần gũi, nhạc sĩ Y Vân đã viết ca khúc tuyệt vời ca ngợi tình mẹ.
Thương con mẹ nào có quản nắng mưa, có ngại gì sớm khuya vất vả… Tình mẹ mãi mãi là như thế. Dẫu ở thời nào, dẫu thuộc nền văn minh văn hóa nào và dẫu ở đâu, tình mẹ muôn đời vẫn thế.
Vào tháng 12 năm 1987 một cơn động đất lớn đã xảy ra ở xứ Armênia thuộc Liên Xô cũ, đã chôn vùi hằng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có hai mẹ con bà Suzanna. Hai mẹ con may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hủ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi kêu lên: “Mẹ ơi con khát quá”. Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình mẫu tử đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo: bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nữa nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến cuối cùng người ta cứu hai mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng: “Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống”.
Bà mẹ Armênia trong câu chuyện và bà mẹ Canaan trong bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay là một hình ảnh sống động minh họa cho tình mẫu tử thiêng liêng cao cả.
Thương đứa con gái bị quỷ ám, bà đã lặn lội đi tìm Chúa Giêsu, nài nỉ van xin, bị xua đuổi bà vẫn kiên trì, bị nói nặng là “đồ chó”, bà vẫn không nản. Kiên trì và khiêm tốn chứng tỏ nơi bà có một tình yêu mãnh liệt và một lòng tin mạnh mẽ.
Thật cảm động trước tình thương dạt dào của người mẹ Canaan. Thật cảm phục một lòng tin kiên vững của người phụ nữ ngoại giáo. Tình yêu và lòng tin ấy cứ xoắn quyện với nhau. Tình yêu dẫn đến lòng tin. Tình yêu kiện cường lòng tin. Biểu lộ của lòng tin cũng chính là biểu lộ của tình yêu. Lòng tin và tình yêu đi đôi với nhau giúp cho con người một sức mạnh để can đảm, kiên trì và khiêm tốn.Lòng tin và tình yêu cho bà mẹ Canaan có được một sức mạnh thật kỳ diệu, vượt thắng mọi thử thách và đi đến cùng trong việc cứu chữa con gái.
Thương con,bà đã chạy thầy chạy thuốc khắp nơi. Không rõ nhờ đâu mà bà biết được Chúa Giêsu, nhưng khi thấy Người bà tin rằng cơ may đã đến. Bà gọi Người là Con Vua Đavít, bà đặt trọn niềm tin vào Người, vị cứu tinh duy nhất của bà.
Dẫu biết rằng bà thuộc dân ngoại, còn Chúa Giêsu là người Do Thái, hai dân tộc có mối thù truyền kiếp không giao du tiếp xúc với nhau, nhưng lòng thương con đã khiến bà bất chấp ranh giới cấm kỵ hận thù để đến với Chúa trong tư thế một người xin ơn.
Thương con nên khổ vì con. Người mẹ Canaan xin với Chúa Giêsu: “Xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỉ nhập khổ sở lắm.” Đứa con bị quỉ nhập khổ sở là đúng rồi. Thế nhưng thực tế ai khổ hơn ai, đứa con hay bà mẹ? Con đau khổ một, còn mẹ khổ mười. Mỗi lần con rên, con quằn quại là lòng mẹ quặn đau như muối xát, mẹ ước gì được lãnh lấy mọi cơn đau của con. Chắc hẳn, các bà mẹ đều đã trải qua những kinh nghiệm như thế. Chính vì thế thay vì nói “Xin dủ lòng thương con tôi” bà lại nói: “Xin dủ lòng thương tôi!”
Bà xin Chúa nhìn đến nỗi đau của một bà mẹ, đau vì nỗi đau của đứa con. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại một lời. Tại sao Chúa lại lãnh đạm với nổi đau của con người như vậy? Chúa thinh lặng để bà thấm thía được sự bất lực của mình, và nhờ đó mà thấy được rõ hơn rằng, Thiên Chúa là nơi nương tựa duy nhất của con người.
Bà chẳng ngã lòng trước thái độ lạnh lùng của Chúa Giêsu. Bà cứ lẽo đẽo theo sau mà nài nẵng xin mãi xin hoài đến nổi các môn đệ không chịu được những lời lẽo nhẽo ấy nên trình với Chúa để đuổi bà về.
Mặc kệ thái độ khó chịu của các môn đệ, bà trực tiếp giáp mặt Chúa Giêsu và nài xin cứu giúp. Lần này thì bà lãnh đủ một gáo nước lạnh: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”. Sao lạ vậy? Chúa Giêsu mới làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi năm ngàn người, vậy mà Người lại nhẫn tâm khước từ mẩu bánh nhỏ cho người đàn bà khốn khổ này ư? Những lời khó nghe Chúa dùng cũng là lời nói với mọi người, để cho ai cũng thấy được ơn cứu độ là một hồng ân Chúa ban bởi lòng thương xót, chứ không phải bởi sự xứng đáng của bất cứ ai.
Câu chuyện đã đi đến cao điểm, thử thách đã đến cùng tột. Chính trong cơn thử thách như thế ta mới thấy hết vẻ đẹp của tình mẫu tử và lòng tin của bà.
Bà chấp nhận lối so sánh của Chúa. Bà không dám mong được những ân huệ như dân Do Thái, bà chỉ xin chút vụn vặt thừa thãi cho con bà, bởi vì “lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.
Đến đây thì Chúa Giêsu chẳng còn lý do gì để chối từ, Người nói: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn sao thì được như vậy.” Nhận biết mình hèn mọn nên hoàn toàn cậy dựa vào lòng trắc ẩn của Chúa. Đó là sức mạnh của người mẹ Canaan. Thiên Chúa đầy lòng thương xót không thể từ chối lời nài van của một người không sao tìm ra một nơi nương tựa nào khác ngoài lòng trắc ẩn của Ngài, và Chúa Giêsu nói: “Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy”.
Làm sao mà Chúa có thể chối từ được trước tình yêu bao la và niềm tin mạnh mẽ đến vậy. Không phải Người đã từng bảo: “Hãy xin thì sẽ cho, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở” đó sao? Hơn nữa, Người cũng có một bà mẹ là Đức Maria. Rồi sẽ có ngày Mẹ Người sẽ khổ đau đi theo con trên chặng đường thương khó, trái tim Mẹ như bị lưỡi gươm đâm thâu khi đứng dưới chân thập giá. Có lẽ nổi đau khổ của bà mẹ Canaan này khiến Chúa Giêsu chạnh nghĩ đến mẹ của mình. Người hiểu tấm lòng của các bà mẹ, nên chẳng nỡ chối từ những gì các bà mẹ trong cơn đau khổ cầu xin.
Lòng tin và tình yêu giống như đôi cánh đã giúp người mẹ Canaan bay lên rất cao và bay đi rất xa. Cao lên tới Thiên Chúa. Xa khỏi những ngăn cách trắc trở. Đến với Chúa Giêsu bằng lòng tin và tình yêu, người mẹ Canaan nhận được một tình yêu quyền năng. Thánh Phaolô chia sẽ kinh nghiệm này: “Tôi có thể làm được mọi sự nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Pl 4,13).
Bà mẹ Canaan là tấm gương cho các bậc làm cha làm mẹ. Cha mẹ nào mà chẳng thương con. Vì thương con nên mới khổ vì con. Chắc hẳn, con đau bệnh không làm khổ lòng cha mẹ cho bằng con hư hỏng. Bao cha mẹ đã bạc mái đầu vì những đứa con ngỗ nghịch hư hỏng, bao bà mẹ đã khóc hết nước mắt vì có đứa con lỡ vướng vào các tệ nạn vào ma tuý… Trong trường hợp đó, lòng thương con của các bậc cha mẹ có xoắn quyện chặt chẽ với lòng tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa hay không? Các bậc cha mẹ đã làm hết cách, đã tha thiết cầu xin, đã kiên tâm cầu khẩn, đã tin tưởng cầu nguyện như người mẹ Canaan này chưa?.
Chúa Giêsu đã khen ngợi đức tin của người đàn bà ngoại giáo. Chúa đã đánh giá lòng kiên nhẫn của bà là một bằng chứng đức tin. Chúa đề cao một mẫu gương về đức khiêm tốn, kiên trì và phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa.
Tình mẹ cha yêu thương với tất cả hy sinh chịu đựng luôn đóng ấn và trải dài suốt những năm tháng của cuộc đời con.
Tình mẹ thương con là tình cảm thiêng liêng cao quý nhất. Chính Con Một Thiên Chúa Nhập Thể làm người cũng đã nhận lấy con đường bình thường mà trân quý ấy. Maria, người nữ Sion đã vâng phục ngay từ ngày đầu khi thiên sứ truyền tin. Từ đó, Mẹ đã nhận lấy những nhọc nhằn vất vả của vai trò làm mẹ. Mẹ đã đảm nhận trọn vẹn thiên chức cao quý nhưng không thiếu gian truân khổ đau như bất cứ người mẹ nào trong nhân loại. Trong lòng tin, người Mẹ ấy đã âm thầm vâng phục, đón nhận, lắng nghe và bước theo Con của mình trong hành trình cứu độ. Cuối cùng, người nữ ấy được Thiên Chúa đoái thương cất nhắc về Trời cả hồn lẫn xác, một trong bốn đặc ân cao cả Thiên Chúa đã ban cho Mẹ.
Mẹ Maria đang được hưởng niềm vui thiên quốc. Mẹ hằng yêu thương con cái trên đường hành hương về quê trời.Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin rằng có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở.Trong niềm hy vọng sẽ được về trời với Mẹ, chúng ta nhìn lên Mẹ như mẫu gương của lòng cậy trông, kiên nhẫn với tin yêu và hy vọng.
[Mục Lục]

Bài 7. NGƯỜI NGOẠI MÀ MẠNH TIN
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Không phải người có đạo nào cũng có cái nhìn đúng về những người mà họ gọi là những người không có đạo. Điều khác biệt cơ bản nhất giữa những người có đạo và những người không có đạo chính là lòng tin. Thế mà trong Phúc Âm không ít lần Chúa Giê-su đã đề cao lòng tin của những người không thuộc Ít-ra-en là dân riêng của Thiên Chúa. Trong xã hội ngày nay cũng không thiếu những người lương dân (hay ngoại đạo) có đời sống tốt lành hơn các tín hữu.
Các bài Sách Thánh hôm nay cho chúng ta thấy Thiên Chúa và Chúa Giê-su, Ngôi Lời Nhập Thể làm người, đã đối xử như thế nào đối với những người bị người Do-thái coi là dân/người ngoại. Và mời gọi chúng ta điều chỉnh quan điểm và cách sống cho phù hợp với quan điểm và cách ứng xử của Thiên Chúa.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Is 56,1.6-7): Ta sẽ dẫn những người ngoại bang lên núi thánh của Ta.
2.2 Trong bài đọc 2 (Rm 11,13-15.29-32): Khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì Người không hề đổi ý.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 15,21-28): Này bà, lòng tin của bà mạnh thật.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá ra Thiên Chúa:
* Là Đấng coi là tôi tớ của Người bất cứ người ngoại nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh Người. Thiên Chúa cũng đưa lên núi thánh những ai giữ ngày sa-bát và những người tuân thủ giao ước. Thiên Chúa cũng chấp nhận những lễ toàn thiêu và hy lễ họ dâng trên bàn thờ. Nói tóm lại Thiên Chúa xem xét cõi lòng con người và cách sống của họ chứ không căn cứ trên danh nghĩa hay lý lịch.
* Là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã khen ngợi người phụ nữ Ca-na-an có lòng tin mạnh mẽ vào quyền năng và lòng thương xót của Người. Lòng tin của người mẹ ngoại giáo ấy đã khiến Chúa Giê-su khâm phục và chữa lành cho con gái bà đang bị quỷ ám cách vô cùng khốn khổ.
* Là Chúa Thánh Thần, Đấng hiện diện và cùng hành động với Chúa Cha khi Thiên Chúa mở lòng đón nhận con dân Ít-ra-en cũng như dân ngoại, miễn là họ sống theo Ý Chúa. Chúa Thánh Thần cũng hiện diện trong lời nói và hành động chữa lành của Chúa Giê-su.
3.2 Sứ Điệp Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?): Qua ba bài Sách Thánh, chúng ta khám phá ra sứ điệp hay giáo huấn của Lời Chúa hôm nay,
- Một là chúng ta phải kính trọng những người không cùng tín ngưỡng tôn giáo với chúng ta, vì Thiên Chúa còn tôn trọng và chờ đợi gặp gỡ họ trong cuộc sống đời thường của họ.
- Hai là chúng ta phải làm chứng cho anh chị em lương dân sống bên cạnh chúng ta về tinh thần khoan dung, độ lượng, cởi mở, đón nhận, quý trọng của Ki-tô giáo vì mọi người đều là con cái của Thiên Chúa và là anh em của nhau.
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, như môn đệ sống với Thầy. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và tuyệt đối tin cậy !
4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa hôm nay bằng cách tôn trọng, cởi mở, khoan dung đối với những anh chị em lương dân sống cùng làng, cùng xóm, cùng khu phố với mình.
Và bằng cách làm chứng cho những anh chị em lương dân sống cùng làng, cùng xóm, cùng khu phố với mình, thấy thế nào là quan điểm và cách đối xử của Thiên Chúa đối với những người còn ở bên ngoài Giáo Hội.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 “Hãy tuân giữ điều chính trực, thực hành điều công minh, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và đức công chính của Ta sắp được biểu lộ.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho thế giới loài người hôm nay, nhất là cho những người thành tâm thiện chí thuộc mọi tầng lớp xã hội loài người, để họ biết tuân giữ điều chính trực, thực hành điều công minh để đón nhận Nước Trời và Ơn Cứu Độ.
X. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Đ. Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Ki-tô – nhất là cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ Nam Nữ và mọi giáo dân -, để các Ki-tô hữu hướng mọi hoạt động phục vụ của mình về những người còn ở bên ngoài Hội Thánh.
5.3 “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” Chúng ta hãy cầu nguyện cho hết mọi người trong gia đình và giáo xứ/cộng đồng chúng ta để mọi người có được một đức tin mạnh mẽ làm động lòng Thiên Chúa và được Người ban ơn.
5.4 “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người đang phải lo âu, sầu khổ vì con cái như người phụ nữ Ca-na-an trong Phúc Âm, để họ nhận được ơn chữa lành của Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng “chạnh lòng thương” trước mọi nỗi khổ của con người.
[Mục Lục]

Bài 8. NIỀM TIN CỦA MỘT “DÂN NGOẠI”
JM. Lam Thy ĐVD.
Bài Tin Mừng hôm nay lại một lần nữa biểu lộ lời nói và hành động khó hiểu của Đức Giê-su. Miền Tia và Xi-đon vốn được người Do thái coi là dân ngoại. Người đàn bà từ Ca-na-an ở miền ấy tới gặp Đức Ki-tô, xin Người chữa bệnh cho con mình. Lần thứ nhất bà cầu xin, nhưng Đức Ki-tô không trả lời. Không trả lời thì cũng có nghĩa là không đáp ứng lời cầu xin của bà ta. Nhưng với một niềm tin vững vàng, bà vẫn tiếp tục năn nỉ. Các môn đệ có vẻ không hài lòng về bà và xin Đức Ki-tô đuổi bà ấy đi, thì Người lại nói: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.” (Mt 15, 24). Câu nói này của Đức Ki-tô trái ngược hẳn với thái độ trước đó của Người, đồng thời còn cho biết bà Ca-na-an là dân ngoại và Người được sai đến với họ.
Sự kiện mâu thuẫn không dừng lại ở đây. Người đàn bà vẫn tiếp tục năn nỉ “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” và Đức Ki-tô đã nặng lời với bà ấy: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15, 26). Với câu trả lời này, Đức Ki-tô đã ví việc chữa bệnh như đem bánh cho người ta ăn và bánh đó không được cho “lũ chó con” ăn. Bà bị coi như chó và nếu giả thử gặp cỡ các kinh sư hay Pha-ri-sêu chắc chắn sẽ phản ứng rất mạnh. Nhưng bà này vẫn không buồn rầu bỏ đi, mà nhất định ở lại cầu xin cho bằng được. Lời cầu xin quả thật khiêm tốn và tin tưởng: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt 15, 28). Tuyệt vời!
Phải nói rằng bà này là típ người thông mình, rất thông mình. Nếu không, bà sẽ thấy lời của Đức Ki-tô không dính dáng gì tới việc bà cầu xin, và sẽ xảy ra 2 trường hợp: Một là thấy người mình cầu xin không hiểu được ý mình. Đã không hiểu được mình, thì cầu xin cũng vô ích, bỏ đi cho rảnh. Trường hợp thứ hai, sẽ cho là Đức Ki-tô không nghe rõ lời cầu xin nên mới nói về bánh, và nếu còn tin tưởng, bà ta sẽ cứ một mực xin Người chữa bệnh cho con mình. Cả 2 trường hợp đều không đúng với bà, vì bà đã hiểu ngay Lời dạy của Người mà bà tin tưởng. Khẳng khái nhận mình là “lũ chó con” (Người Do-thái vẫn coi những dân ngoại như lũ chó con), không dám xin ăn bánh trực tiếp, mà chỉ khiêm tốn xin được ăn những mảnh vụn rơi vãi.
Thêm một đức tính đặc biệt của bà nổi bật lên: Tuyệt đối khiêm nhường! Dù có bị coi là chó, bà cũng xin vâng (“Thưa Ngài, đúng thế!”), vì bà nghĩ rằng Người mà bà đang cầu xin đích thị là Đấng Quyền Năng, là Thiên Chúa. Là Thiên Chúa mà chấp nhận xuống phàm trần làm một con người bình thường như bao người khác, thì mình có bị coi là chó cũng xứng đáng thôi. Đức tình khiêm tốn tuyệt vời ấy chắc chắn không thể có được nơi những thượng tế, những kinh sư, luật sĩ, những Pha-ri-sêu, những con người vẫn luôn miệng nói “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” và tự coi mình mới là “hàng nội” chính tông, là con dòng cháu giống của Thiên Chúa; những con người luôn kiêu ngạo tự cho mình là đệ nhất thông minh và chỉ thích được “ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy” thiên hạ. Vậy đó!
Thông minh nhưng khiêm tốn, người đàn bà Ca-na-an đã khiến Đức Giê-su Thiên Chúa động lòng trắc ẩn, buột miệng khen ngơi: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật”. Và thế là: “Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó, con gái bà được khỏi” (Mt 15, 28). Quả thực, bài học rút ra được ở đây là đức tính khiêm nhường, đức tính đứng hàng đầu trong bảy đức tính căn bản của Ki-tô giáo. Phải luôn nghĩ rằng tất cả những gì con người có được nơi trần thế đều là ân sủng của Thiên Chúa ban tặng. Những ân sủng đó Thiên Chúa ban cho mỗi người mỗi khác là vì ich chung (1Cr 12, 4-10). Không tự kiêu, tự mãn khi mình có được sự thông minh hơn người, hoặc có được những đặc ân khác những người xung quanh; nhưng cũng không tự ti mặc cảm khi thấy mình không có được những ân sủng như những người khác Tuy nhiên, bài học lớn nhất, bao trùm lên tất cả là đức tin của người đàn bà ở Ca-na-an.
Bà thực sự tin tưởng Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ và bà vững tin rằng Thiên Chúa không thiên vị một ai, không phân biệt “nội hay ngoại”, nếu chân thành cầu xin với một niềm tin vững vàng, thì dù xin gì, Người cũng sẽ ban cho (“Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho.” – Mt 7, 7-8). Bà không chỉ tin ở trên môi miệng, mà chính là ở chỗ đối diện với thử thách nghiệt ngã (bị dân Do thái coi là dân ngoại và chính Người mà bà tin tưởng mãnh liệt nhất lại coi bà và con gái bà là chó), vậy mà bà vẫn trung kiên với niềm tin của mình.
Với một người chưa được coi là Ki-tô hữu, mà đã có một niềm tin sắt đá như vậy, thiển nghĩ cũng rất đáng xấu hổ cho những người đã được coi là Ki-tô hữu (đã nhận lãnh Phép Rửa) mà chỉ hơi chạm đến tự ái, hoặc chỉ mới phỏng đoán mình sẽ bị “thử lửa”, đã vội vàng chối bay chối biến Chúa của mình một cách ngon lành. Hoá cho nên, chính trong cuộc sống đời thường, trong gian truân thử thách, trong tất cả mọi nghịch cảnh, người Ki-tô hữu vẫn sống đức tin một cách chân thực như bà mẹ người Ca-na-an trong bài Tin Mừng, không màu mè sáo rỗng, ấy mới thực sự xứng đáng với danh hiệu mà Đức Giê-su Ki-tô đã ban tặng: Ki-tô hữu (“Thầy không gọi anh em là tôi tớ, mà gọi anh em là bạn hữu” – Ga 15, 15).
Cho đến hôm nay, phần đông người Công Giáo Việt Nam vẫn giữ được đời sống đức tin rất tốt, được cụ thể hóa qua việc tham dự Thánh Lễ cũng như lãnh nhận các bí tích. Tuy nhiên, đời sống đức tin ấy nhiều khi chỉ là những thói quen do ảnh hưởng của gia đình, xứ đạo hơn là một chọn lựa và dấn thân cá nhân. Một đức tin như thế sẽ khó lòng đứng vững trong khung cảnh đô thị hóa và xã hội hóa đang và sẽ diễn ra mỗi ngày một nhanh hơn. Vì thế, cần xây dựng một đức tin mang tính cá vị, hiểu như một chọn lựa tự do và ý thức trước tiếng gọi của Thiên Chúa (Thư Chung của Hội Đồng Giám Mục VN về Năm Tân Phúc Âm Hóa, số 3). Đức tin là lời đáp trả của con người toàn diện trước tiếng gọi của Thiên Chúa. Con người toàn diện ấy bao gồm cả lý trí, tình cảm, ước muốn và hành động. Vì thế, để sống đức tin, người tín hữu không chỉ ngừng lại ở những hiểu biết thuần lý, nhưng phải bước vào hành động – hành động và liên lỉ cầu nguyện – bởi vì “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2, 17).
Xin đừng bao giờ quên Lời Thầy Chí Thánh: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: “Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc”, nó cũng sẽ vâng lời anh em.” (Lc 17, 6); “Thầy bảo thật anh em, nếu anh em tin và không chút nghi nan, thì chẳng những anh em làm được điều Thầy vừa làm cho cây vả, mà hơn nữa, anh em có bảo núi này: “Dời chỗ đi, nhào xuống biển!”, thì sự việc sẽ xảy ra như thế. Tất cả những gì anh em lấy lòng tin mà xin khi cầu nguyện, thì anh em sẽ được.” (Mt 21,21-22). Vâng, nhờ cầu nguyện, chúng ta gặp gỡ chính Đấng mà chúng ta tin. Và niềm tin đích thực được thể hiện qua đời sống hằng ngày là “Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa, đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người” (1Ga. 2, 3). Ước được như vậy. Amen.
[Mục Lục]

Bài 9. Lời nguyện chân thành
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một bài hát nói về tâm trạng xem ra mâu thuẫn của một người ngoại đạo như sau: “Lạy Chúa, con là người ngoại đạo, nhưng con tin có Chúa ở trên cao”. Lời hát thật đơn sơ nhưng nói lên niềm tin chân thật của một người ngoại đạo. Anh công nhận mình ngoại đạo. Nhưng anh cũng không chối cãi niềm tin vẫn có trong lòng mình. Anh công nhận mình vẫn ở ngoài đạo nhưng anh lại gắn bó mật thiết với Chúa. Bằng chứng là anh đã cầu nguyện với Chúa. Anh nói với Chúa về sự thật của anh, một người ngoại đạo. Anh nói với Chúa về niềm xác tín của anh, anh tin có Chúa ở trên cao. Anh giải bày với Chúa những khúc mắc trong cuộc đời anh. Anh đang trình bày với Chúa về nhu cầu của mình. Anh cần Chúa cho anh niềm tin để anh không còn nghi ngại một điều gì nữa! Anh đang cần có một đức tin đủ để tin vào sự hiện diện của Chúa.
Lời Chúa hôm nay cũng tường thuật về cách thức biểu lộ niềm tin chân thành của một người đàn bà ngoại đạo miền Canaan. Bà là người ngoại đạo nhưng bà lại kêu cầu Chúa là Con Vua Đavit, nghĩa là bà đã tin Chúa Giêsu là Đấng phải đến trong thế gian. Nhưng đối với Chúa niềm tin chân thành thôi chưa đủ để nhận ơn lành từ Chúa, mà còn phải kiên nhẫn, phải khiêm tốn, và nhất là phải có một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Đấng mà mình kêu xin.
Người đàn bà này đã trải qua những giai đoạn đó:
- Trước tiên bà kiên nhẫn kêu xin. Xin lần thứ nhất chưa được, bà liền xin lần thứ hai và mãi cho tới lần thứ ba bà mới được toại nguyện.
- Niềm tin của bà thật cảm động, vì bà quá khiêm tốn trước mặt Chúa. Bà chỉ ao ước nhặt từng mảnh vụn ơn thánh rơi rớt của những người con Chúa. Bà biết mình không xứng đáng được ơn. Bà không dám nghĩ mình được tắm trong biển cả yêu thương của Chúa, nhưng chỉ cần một giọt thánh ân trong biển lòng thương xót của Chúa có thể cứu sống con của bà.
- Niềm tin của bà còn đạt tới niềm tin tưởng tuyệt đối, không có gì lay chuyển nổi! Cho dù trước thái độ xua đuổi khéo léo của các môn đệ và sự lạnh lùng của Chúa Giêsu. Bà không bỏ cuộc. Bà vẫn một lòng cậy trông vào Chúa đến mức độ mà Chúa phải ca tụng bà: “đức tin của bà thật lớn lao. Bà muốn sao được vậy”. Và phép lạ đã diễn ra bởi lòng tin của một người mẹ hết mình vì con.
Vâng, lòng tin thường là điều kiện cần thiết để Chúa thi thố tình thương của Ngài dành cho chúng ta. Lòng tin càng lớn thì ân ban càng nhiều. Lòng tin càng được tôi luyện trong gian nan thử thách thì càng thấy rõ hơn tình thương của Chúa khi được Ngài giải thoát khỏi mọi hiểm nguy. Lòng tin cần phải kiên nhẫn mới có thể thấy sự bất lực của con người trước sự dữ và quyền năng cao vời của Thiên Chúa luôn sẵn lòng bảo vệ con người khỏi mọi sự dữ.
Lòng tin này đã được thánh nữ Monica thực hiện suốt 18 năm ròng rã. Thánh nữ Monica luôn cầu xin Chúa cho đứa con hoang đàng của mình là Augustino. Hằng ngày bà khóc lóc, ăn chay và hãm mình. Người đời nhìn bà là một người phụ nữ bất hạnh vì chồng khô khan, và con truỵ lạc. Đã có lần đức tin của bà cũng bị lung lay. Bà muốn bỏ cuộc, nhưng thánh Ambrosio đã nói với thánh nữ: “Bà hãy yên trí, đứa con của biết bao giọt nước mắt sẽ không thể nào hư mất”. Thực vậy, nhờ niềm tin của người mẹ mà Thiên Chúa đã thay đổi phận số của người con. Thánh Augustino đã từ bỏ con đường tội lỗi để sống đời thánh thiện. Thánh nhân đã bỏ con đường con công danh để tận hiến cho Thiên Chúa. Thánh nhân đã không tìm kiếm thú vui thể xác nhưng tìm kiếm hạnh phúc Nước trời.
Cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những con người đã cạn kiệt nước mắt. Có biết bao bà mẹ đã khổ vì con cái hư hỏng. Có biết bao gia đình quá cơ cực vì một thành viên bước vào con đường truỵ lạc. Có biết bao cơn bệnh hiểm nghèo đang cướp dần sinh mạng của những người chúng ta thương. Nước mắt vẫn chảy cho những phận đời cơ cực, bị bỏ rơi, bị bội phản. Nước mắt vẫn tuôn chảy cho những trái ngang của cuộc đời, những bất hạnh, rủi ro trong cuộc sống. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy tin tưởng và cầu xin giữa những thử thách gian nan cuộc đời. Thiên Chúa vẫn hiện diện. Thiên Chúa vẫn đang chờ một lời kinh, một lời cầu của chúng ta. Thiên Chúa cần lòng tin nơi chúng ta. Ngài có thể làm mọi sự. Nhưng Ngài lại bất lực trước sự cứng lòng tin của chúng ta. Phép lạ Chúa làm không nhằm mục đích phô diễn quyền năng của Thiên Chúa. Ngài càng không làm phép lạ vì sự hiếu kỳ của con người. Ngài chỉ có thể làm phép lạ vì đức tin chân thành, kiên nhẫn và tin tưởng của chúng ta.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn tin tưởng kêu cầu Chúa khi gặp những gian nan. Xin cho mỗi người chúng ta đừng đánh mất niềm tin khi gặp những thử thách trăm bề, nhưng luôn kiên nhẫn trong lời cầu xin. Vì sau đêm dài là ánh bình minh. Amen.
[Mục Lục]

Bài 10. Niềm tin chịu thử thách
Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
Elvire là con gái út trong một gia đình nghèo. Cô ước mơ trở thành cô giáo. Cô xin học bổng và ghi danh tại một trường Cao đẳng Sư phạm. Nhà trường chấp thuận với điều kiện: cô phải luôn giữ điểm trên trung bình. Nhập học. Giáo sư dạy Triết lớp cô là một người vô thần. Mỗi lần nói về Giáo hội hay Đức Kitô, ông luôn tìm cách che đậy hay xuyên tạc. Elvire cảm thấy bất bình. Cô biết rằng nếu phản đối giáo sư, cô sẽ khó tránh khỏi việc lãnh về những con điểm không tốt.
Thế nhưng, lòng tin yêu Chúa Giêsu đã thúc bách cô. Nhiều lần cô can đảm giơ tay phát biểu. Có khi cô còn nói: “Thưa thầy, điều đó không đúng” hay “Em không đồng ý.” Đôi lúc cô cảm thấy đuối lý trước đầu óc thông thái và “cáo già” của ông thầy. Thế nhưng, trong các lời phát biểu của cô luôn ánh lên tia sáng của niềm tin, thứ niềm tin ôm ấp chân lý. Điều này khiến người ta suy nghĩ. Elvire không thích thú gì khi đương đầu với thầy mình. Nhưng cô không thể sống theo kiểu “nín thở qua cầu”. Thấy thế, các bạn cô cũng tìm cách khuyên ngăn, nhưng họ không thành công.
Thời gian trôi qua. Kỳ thi cuối khoá đã đến. Giây phút nhận kết quả mới hồi hộp làm sao. Elvire và các bạn mỗi người được phát một phiếu điểm. Tay cô run run mở phiếu. Chợt cô reo lên: “Điểm A”. Thành quả cuối cùng trong lớp Triết học của Elvire là điểm tối đa.
Câu chuyện người con gái có tên Elvire khiến tôi không khỏi tự vấn: nếu rơi vào trường hợp tương tự liệu tôi có đủ tinh tế và can đảm nói lên niềm xác tín của mình không, hay tôi sẽ làm ngơ cho qua chuyện? Nếu hành trình đức tin gặp phong ba thách đố, phải chọn lựa giữa giá trị Phúc âm và lợi lộc trần gian, liệu tôi có dám đặt chân lý Tin Mừng lên trên tất cả không?
Qua việc tự vấn, tôi khám phá ra rằng mình dễ hèn nhát tránh né làm chứng cho niềm tin. Đôi khi vì một chút danh dự, tư lợi, hay địa vị tôi dễ rơi vào cảnh sống như kẻ vô thần. Nhưng tôi cũng nhận ra rằng những lần mình can đảm đáp trả tiếng gọi của Tin mừng là những khi mình sống bình an và phong phú nhất. Những lúc đó tôi thấy mình cũng đạt được điểm tối đa như Elvire vậy. Thế ra, kiên trung sống theo chân lý, bền đỗ bước trong niềm tin, người ta sẽ gặt hái được hoa trái tốt tươi cho cuộc đời. Chính câu chuyện người đàn bà xứ Canaan trong Thánh Kinh cũng minh chứng cho điều đó:
Hôm ấy, Đức Giêsu đi lên mạn cực bắc của nước Do thái, vượt qua biên giới Galilê để tiến vào vùng Tyrô và Siđôn. Ngài muốn tìm một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi và cầu nguyện. Một người phụ nữ ngoại giáo chạy theo và kêu cầu Ngài cứu chữa cho con gái bà đang bị quỷ ám. Trước lời khẩn nguyện chân thành và tha thiết của người mẹ, Kinh Thánh kể, Chúa Giêsu “không đáp lại một lời nào”.
Tại sao Ngài im lặng? Tại sao Chúa Giêsu làm thinh trước một lời cầu xin chính đáng? Có lẽ lắm khi trong cuộc đời tôi cũng đặt vấn đề như thế. Nhiều lần Chúa Giêsu đã làm phép lạ để tỏ mình cho dân chúng. Phép lạ đóng vai trò như một dấu chỉ. Thế nhưng lắm khi người ta lại đọc sai dấu chỉ đến nỗi thay vì nhận chân Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, họ lại khinh thường và rêu rao Ngài dùng quyền ma quỷ để làm phép lạ (Mc 3:22). Có khi người ta lại suy tôn phép lạ như nhu cầu thiết yếu và xem Chúa là cái máy cung cấp. Thế nên có lần Ngài phải chạy trốn lên núi (Gn 6:15) hoặc cấm không cho họ nói lại những phép lạ Ngài làm (Mc 8:26).
Thái độ dè dặt của Chúa Giêsu thật đáng suy nghĩ: Ngài không đến để phô trương các việc lạ lùng hòng thu hút niềm thán phục nơi quần chúng và sự mến mộ của kẻ hiếu kỳ. Ngài đến là để thực thi Thánh ý Chúa Cha. Thánh ý đó là tìm kiếm chiên lạc của Israel. Yvon Daigneault có viết: “Israel của Chúa Giêsu là Israel của lòng tin, qui tụ những ai có niềm tin vào Ngài. Trong Israel đó ta nhìn thấy một viên bách quản Rôma, một người cai trị có những lối sống không mấy rõ ràng, một phụ nữ không được tiếng tốt cho lắm như Madalêna, và một đám đông không kể xiết những người tội lỗi. Trong đó có chúng ta hợp thành con cháu thật sự của Abraham.
Chúa Giêsu không muốn loại trừ người phụ nữ Canaan khỏi Israel này. Đây là dân mà Chúa Cha giao phó cho Ngài. Chúa Giêsu thách đố bà tiến đến đức tin chân chính để có thể gặp được Ngài. Bà hiểu điều này và đã diễn tả niềm tin mới của mình bằng một công thức thật cảm động, đầy niềm vui và lòng khiêm nhượng”. Đây là phần lạ lùng nhất của đoạn Phúc âm: khi nghe Chúa Giêsu nói “Người ta không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho đàn chó”, bà đã khiêm tốn thưa: “Vâng, lạy Ngài, nhưng chó cũng được ăn những bánh vụn rơi xuống từ bàn của chủ nó” (Mt 15,26-27).
Không biết trong hoàn cảnh như thế liệu đức tin của tôi có đủ mạnh để khiêm tốn và bền chí cầu xin, hay tôi sẽ quay ra than trách: không ban ơn lại còn xỉ vả bêu nhuốc nghĩa là thế nào? Chắc tôi sẽ tự ái, khó chịu mà bỏ Chúa mất. Thái độ kiên trì khẩn nài và vững tin trước thách đố của người đàn bà Canaan đáng cho tôi học hỏi biết bao. Nhờ kiên tâm bám vào Chúa mà bà đã được điểm “A”. Chúa Giêsu tuyên bố: “Lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì được như vậy” (Mt 15,28).
Tôi ước ao được điểm A như thế lắm. Song trước tiên, có lẽ tôi phải biết thốt lên với tất cả lòng thành lời nguyện như người phụ nữ ngày xưa: “Kyrie eleison – Xin Chúa thương xót con”.
[Mục Lục]

Bài 11. Chó con cũng được ăn…
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
“Lạy Ngài là Con vua Đa-vít, xin rủ lòng thương tôi… Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”
Lời cầu xin trên của người đàn bà Canaan có gì khác không nhỉ với lời kêu cứu của Phêrô “Thưa ngài, xin cứu con với!”? Người môn đệ ruột có quyền được Thầy mình cứu vớt, thế nhưng lời cầu khẩn đó của ông lại bị Đức Giêsu coi như một biểu hiện của thiếu tin tưởng, của hoài nghi, do đó đáng bị quở trách, “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” (Mt 14, 31) Còn lời cầu xin thương xót của người đàn bà Canaan ngoại giáo và bất xứng này lại được Đức Giêsu đề cao: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật!”
Quả thế, đoạn Tin Mừng hôm nay hầu như muốn lột tả tới từng chi tiết tình trạng bất xứng của người đàn bà này trước ân huệ được xót thương: là người Canaan thuộc miền Tia và Si-đôm mà người Đo Thái khinh bỉ gọi là vùng đất dân ngoại (một đối nghịch và loại trừ rõ ràng so với danh xưng ‘đất hứa của dân riêng Đức Chúa’). Con gái bà bị quỉ ám lại càng cho thấy gia đình bà thuộc hạng xấu xa bất hạnh. Đức Giêsu, qua thái độ và lời nói, càng như muốn nhấn mạnh trên sự bất xứng, không đáng được bố thí thương xót chút nào: ‘Người không đáp lại một lời’. Trước sự can thiệp bất đắc dĩ của nhóm môn đệ chỉ vì muốn được yên thân khỏi bị quấy rầy, Thầy Giêsu càng tỏ ra lạnh nhạt, “Thầy chỉ được sai đến với các con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”. Thái độ khinh bỉ khước từ đạt tới đỉnh điểm trong câu chối từ không nể nang: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con!” Thế đấy, nếu người Do Thái nói chung và các môn đệ nói riêng (điển hình nhất là Phêrô) tự coi mình là thành phần được tuyển chọn, là xứng đáng hơn ai hết lãnh nhận sự ưu ái, che chở và cứu vớt của Thiên Chúa, thì người dàn bà Canaan này chỉ là con số không, thâm chí còn dưới không nữa. Thế nhưng chính ở điểm này mà lòng thương xót thần linh biểu lộ được nội dung sâu xa và độc đáo nhất của nó.
Còn về phía người đàn bà Canaan, bà không hề muốn che dấu sự bất xứng của mình, ngược lại xem ra bà còn muốn đề cao nó hơn nữa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Quả thế, nếu đã xứng đáng thì chẳng cần gì tới lòng thương xót, ngược lại càng bất xứng bao nhiêu thì lòng thương xót càng tỏa sáng bấy nhiêu: một định luật dễ hiểu. Ai kể mình xứng đáng để được ân thưởng, người đó sẽ được áp dụng luật công bằng với các cân đong đo đếm rất chi li (qua hình ảnh cán cân tội phúc vẫn thường được sử dụng). Còn đối với lòng thương xót, Đức Giêsu hình như muốn cho thấy nó thật chan hòa tới độ, chỉ cần duy một điều kiện độc nhất là khiêm tốn đón nhận, thế là nó tuôn trào vô giới hạn – “Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Chính lúc khiêm tốn nhìn nhận sự bất xứng của mình mà người đàn bà Canaan hầu như đã hoàn toàn điều khiển được quyền năng xót thương của Thiên Chúa, ‘từ giờ đó con gái bà được khỏi’. Ôi thật lạ lùng và tuyệt diệu thay sức mạnh của khiêm tốn đón nhận xót thương!
Trước đó cũng đã từng có một người nữ khác khám phá ra và khai thác được định luật này cách triệt để hơn nhiều, đó là trinh nữ Maria tại thôn xóm Nadarét. Trinh nữ này đã hiểu ra sức mạnh vô địch của khiêm nhường (tức nhìn nhận mình bất xứng) khi xác quyết bằng lời ngợi ca Magnificat: một khi Đức Chúa nhận thấy phận nữ tì hèn mọn của tôi, thì Đấng giầu lòng xót thương xót sẽ thi thố nơi tôi biết bao điều cao cả, tới độ từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Niềm vui lớn nhất làm cho trinh nữ đó hớn hở vui mừng không phải là các ơn huệ nhận được (nhân đức, thánh thiện hay trở thành vô nhiễm hay làm Mẹ Thiên Chúa…) mà chính là: vì mình được Thiên Chúa cứu độ và xót thương. Ân huệ nào thì cũng có giới hạn, nhưng lòng thương xót thì vô bờ và tồn tại mãi cho tới muôn đời.
Có lẽ đây là khía cạnh dễ bị quên lãng nhất mỗi khi Kitô hữu chúng ta quyết tâm noi gương hay học đòi Mẹ Maria. Khiêm nhường là nhân đức không được mấy ai đề cao, và cũng ít ai nhận ra tầm quan trọng lớn lao hầu như tuyệt đối của nó. Nếu Phúc âm vẫn hay đề cập tới hai khuôn mặt Maria, và đặt gần kề bên nhau trong nhiều tình huống của hành trình cứu độ, có lẽ cũng có một ý nghĩa nào đó? Maria Nadarét và Maria Mácđala bổ xung cho nhau cách tuyệt diệu lắm thay, và điểm giao thoa gặp gỡ giữa hai người phụ nữ có lý lịch rất khác biệt nhau này chính là các ngài đã biết mở rộng cõi lòng khiêm tốn để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa từ nhân.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con bài học quan trọng và cao quí nhất này là nhìn nhận sự bất xứng tột cùng của mình để có thể khai thác được sức mạnh vô địch của lòng thương xót Chúa. Xin cho con xác tín chân nhận ‘Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con…’ để mỗi khi rước lễ, con chạm tới được lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa – Đấng cứu chuộc con. Xin cho con biết hàng ngày hiệp lời ca ngợi lòng thương xót hải hà Chúa dành cho Mẹ và cho tất cả các con cái của Mẹ đến muôn thuở muôn đời. A-men.
[Mục Lục]

Bài 12. Sống niềm tin
Radio Veritas Asia
Mahatma Gandhi, người có công giành độc lập cho Ấn Độ bằng con đường bất bạo động, đã có lần tuyên bố: “Tôi yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi không phục những người Kitô hữu”. Câu nói của con người đã từng lấy giáo lý của Chúa Kitô làm nền tảng cho chủ trương bất bạo động đáng làm cho chúng ta suy nghĩ.
Giáo lý của Chúa Kitô thì cao đẹp, nhưng nhiều Kitô hữu làm cho bao nhiêu người xa lánh Giáo Hội, chỉ vì cuộc sống của họ đi ngược lại với những gì họ tuyên xưng. Người ta thường nói: “Bà con xa không bằng láng giềng gần”. Đôi khi chúng ta cảm thấy gần gũi với những người láng giềng hơn là với những người thân thuộc. Trong liên hệ với Chúa Giêsu cũng thế, có biết bao người chưa từng được nghe nói đến Chúa Giêsu, có biết bao người không mang danh hiệu Kitô, nhưng lại gần gũi với Chúa Kitô và sống tinh thần Kitô hơn chính những người Kitô hữu.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cao lòng tin của người đàn bà xứ Canaan, tức là một người ngoại giáo. Một trong những điều hẳn sẽ làm chúng ta ngỡ ngàng, đó là trên Thiên đàng, chúng ta sẽ gặp gỡ những người chúng ta chưa từng quen biết, ngay cả những người chưa một lần mang danh hiệu Kitô hay đặt chân đến nhà thờ.
Thời Chúa Giêsu, có biết bao người ngoại giáo có lòng tin sâu sắc hơn cả những người Do thái. Trước hết, tiên tri Isaia đã từng khiển trách lòng giả dối của người Do thái: “Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta”. Thời Chúa Giêsu, có biết bao người bị loại ra khỏi xã hội, bị đặt bên lề Đền thờ, và có lẽ cũng không hề thuộc toàn bộ lề luật của Môsê, nhưng lại có lòng sám hối và tin tưởng sâu xa hơn. Nói với những người chỉ giữ đạo một cách hình thức, Chúa Giêsu đã cảnh cáo: “Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời; nhưng là những kẻ thực thi ý Chúa”.
Người đàn bà Canaan có lẽ không hề biết đến lề luật Môsê, nhưng đã sống niềm tin của mình một cách mãnh liệt. Lòng tin đó được thể hiện qua việc phó thác hoàn toàn vào quyền năng của Chúa Giêsu. Trong tình thế hầu như tuyệt vọng, bà đã chạy đến với Chúa Giêsu; sự van nài của bà cho thấy sự kiên nhẫn và lòng tin sắt đá của bà. Sự khác biệt cơ bản giữa một người có niềm tin và một người không có niềm tin, không hệ tại ở danh hiệu Kitô hay những thực hành đạo đức, mà chính là lòng tin. Tin vào sự hiện diện quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống, tin vào tình yêu vô biên của Ngài, tin vào ý nghĩa của cuộc sống, tin vào tình người, đó là sắc thái chủ yếu của người có niềm tin: chính trong niềm tin đó, con người gặp gỡ Chúa Giêsu.
Trong một hoàn cảnh mà cái nhìn của con người có thể cho là tuyệt vọng, người Kitô hữu hơn bao giờ hết được mời gọi để nêu cao niềm tin của mình. Đây là thời điểm để họ chứng tỏ bản sắc đích thực của mình. Trong cuộc sống chỉ có nghi kỵ và hận thù, họ được mời gọi để đốt lên ngọn đuốc của yêu thương. Trong một xã hội bị gậm nhấm bởi chán nản tuyệt vọng, họ được mời gọi để mang lại niềm hy vọng. Chỉ khi nào giữ đúng vai trò đó, người Kitô hữu mới thực sự xứng đáng với danh hiệu của mình.
[Mục Lục]

Bài 13. TIN YÊU SỐNG BÍ TÍCH THÁNH THỂ THEO GƯƠNG ĐỨC MẸ
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Đoạn Tin Mừng hôm nay thật lôi cuốn. Lôi cuốn trước hết ở diễn tiến bất ngờ của phép lạ.Bất ngờ đầu tiên: người phụ nữ ngoại đạo dám đến xin phép lạ cho con mình. Người ngoại với người Do Thái không bao giờ liên hệ với nhau. Với người phụ nữ ngoại giáo, khoảng cách càng xa diệu vợi. Thế mà người phụ nữ này dám vượt qua hết những rào cản để đến với Chúa. Bất ngờ thứ hai: Chúa đã có thái độ từ chối quyết liệt. Từ chối bằng im lặng không trả lời. Từ chối thẳng thừng bằng lời nói quyết liệt: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel thôi”. Và căng thẳng đến tàn nhẫn: “Không được lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con”. Bất ngờ thứ ba: người phụ nữ chấp nhận tất cả những thử thách, và đã có câu trả lời thông minh: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Thật là khiêm tốn, nhưng cũng đầy tin tưởng. Thật bất ngờ mà cũng thật đẹp đẽ.
Lôi cuốn ở nét đẹp tâm hồn người phụ nữ. Ẩn sâu trong vẻ đẹp của thái độ người phụ nữ ngoại đạo, ta thấy nổi bật hai phẩm chất cao quí đó là: Tin và Yêu. Yêu con tha thiết nên bà không thể nhẫn tâm ngồi nhìn ma quỷ hành hạ đứa con yêu quí. Yêu con tha thiết nên bà không ngần ngại đi tìm thầy tìm thuốc ở khắp mọi nơi, kể cả những nơi bị coi là cấm kỵ. Yêu con tha thiết nên bà chấp nhận tất cả, không chỉ sự mệt nhọc tìm kiếm mà cả sự dửng dưng lạnh nhạt và nhất là sự khinh khi nhục mạ. Yêu con nên bà tin Chúa. Tin Chúa có quyền năng thống trị ma quỷ. Tin Chúa có lòng thương xót sẽ ra tay cứu chữa. Tin Chúa có trái tim rộng mở sẽ không phân biệt người ngoại kẻ đạo. Tin và Yêu giống như đôi cánh đã giúp người phụ nữ bay lên rất cao và bay đi rất xa. Cao lên tới Thiên Chúa. Xa khỏi những ngăn cách trắc trở. Tin và Yêu giống như giòng thác nước. Càng gặp đập ngăn cản càng dâng lên cao. Càng dâng lên cao sức mạnh càng tăng. Và khi đổ ào xuống sẽ phát sinh công hiệu quả lớn. Tin và Yêu giống như chiếc chìa khoá vạn năng có thể mở được mọi cánh cửa. Mở được cánh cửa Nước Trời. Mở được cả tâm hồn Thiên Chúa.
Trong bối cảnh của Năm Thánh Thể, thái độ người phụ nữ ngoại đạo khiến ta liên tưởng đến Đức Mẹ, người phụ nữ Thánh Thể. Người phụ nữ ngoại đạo này là một bà mẹ hiền. Vì thương con đói khổ nên bà đã lặn lội đi tìm tấm bánh về nuôi con. Vì thương con nên bà chấp nhận tất cả mọi vất vả, khổ cực, nhục nhã. Và Chúa đã thưởng công bà. Bà chỉ mong tìm được những mẩu bánh vụn dư thừa từ bàn chủ rơi xuống. Nhưng Chúa đã ban cho bà trọn vẹn tấm bánh thơm ngon của những đứa con. Bà chỉ mong được như lũ chó con chực chờ thức ăn dư thừa từ bàn chủ rơi xuống. Nhưng Chúa đã cho bà và con gái bà được đồng bàn với con cái Chúa. Chúa đã ban cho bà tấm bánh hạnh phúc. Đó là tấm bánh cứu độ. Cho bà được gia nhập gia đình Chúa, trở nên con cái Chúa. Bà đã mở được đường lên Nước Trời, đã làm cho Chúa thay đổi chương trình, thu nhận dân ngoại vào Nước Chúa.
Cũng thế, Đức Mẹ là người mẹ rất hiền từ. Vì thương yêu chúng ta nên Mẹ cũng lặn lội đi tìm cho ta tấm bánh hạnh phúc. Mẹ đã trao ban cho ta tấm bánh cứu độ. Đó chính là Chúa Giêsu Kitô. Nếu hiểu rằng Thịt Máu Chúa Giêsu Thánh Thể cũng chính là thịt máu Mẹ đã cưu mang trong lòng, ta mới rõ Đức Mẹ là người Mẹ hiền đã tìm cho con cái tấm bánh cứu độ thơm ngon hạnh phúc. Và để có được tấm bánh đó, Đức Mẹ đã phải chịu rất nhiều vất vả, đau đớn, khổ nhục như lời tiên tri Simêon tiên báo: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà”. Chính nhờ Mẹ, ta được ăn bánh các thiên thần, được đồng bàn với thần thánh, được nên con Thiên Chúa.
Không những ban cho ta tấm bánh cứu độ, Đức Mẹ còn dạy ta sống bí tích Thánh Thể trong đức tin và tình yêu.
Đức Mẹ dạy ta hãy tin thật Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, noi gương Mẹ khi xưa nghe lời thiên thần truyền tin đã hoàn toàn tin rằng bào thai trong lòng Mẹ là Con Thiên Chúa.
Đức Mẹ dạy ta hãy tin vào quyền năng của Chúa. Như xưa tại tiệc cưới Cana, Mẹ đã bảo các gia nhân: “Người bảo gì thì hãy cứ làm theo”. Hôm nay, trong Năm Thánh Thể, Đức Mẹ cũng muốn nói với ta: Nếu Chúa đã dạy: “ Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, thì hãy sốt sắng tin tưởng cử hành bí tích Thánh Thể. Hãy vững tin vì Đấng đã có thể biến nước lã hoá thành rượu ngon cũng có thể làm cho bánh và rượu trở nên Thịt Máu Người.
Đức Mẹ dạy ta hãy luôn hướng về bí tích Thánh Thể như xưa Mẹ đã theo Chúa Giêsu trên mọi bước đường, dù gian nan khổ cực.
Đức Mẹ dạy ta dâng mình làm hy lễ. Như xưa Mẹ đã đứng dưới chân Thánh giá, cùng Chúa Giêsu dâng hiến những đau khổ làm hy lễ dâng Thiên Chúa Cha. Và cũng như xưa Đức Mẹ đã đem Chúa Giêsu đến với bà Elisabet, đem lại niềm vui lớn lao cho bà, vì đã cho Thánh Gioan Baotixita được khỏi tổ tông truyền khi còn trong lòng mẹ, Đức Mẹ cũng dạy ta khi sống bí tích Thánh Thể, hãy trở nên những nhà tạm sống động đem Chúa Giêsu Thánh Thể đến khắp mọi nơi, đem ơn cứu độ đến cho mọi người.
Hôm nay khi cho người phụ nữ ngoại đạo được tấm bánh của con cái, được đồng bàn với con cái Chúa, Chúa cho bà được gia nhập dân riêng Chúa. Điều đó nhắc nhở ta khi sống bí tích Thánh Thể cũng hãy chăm lo việc truyền giáo, đi quy tụ nhiều người về bàn tiệc Thánh Thể, vào dự tiệc Nước Trời. Đức Mẹ La Vang luôn quan tâm đến việc truyền giáo, nên Mẹ không ngừng yêu thương và ban ơn lành cho những lương dân chạy đến với Mẹ. Trong những buổi cử hành sắp tới, ta sẽ được nghe những chứng từ rất sống động về tình thương của Mẹ.
Đức Mẹ là thầy dạy về bí tích Thánh Thể một cách tuyệt hảo. Chính vì thế, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị khuyên mời ta hãy đến nơi trường của Đức Mẹ. Hôm nay, họp nhau đông đảo về đây, ta hãy tạ ơn Mẹ La Vang đã ban cho ta Chúa Giêsu là tấm bánh cứu độ hạnh phúc. Ta hãy xin Mẹ dạy ta biết sống bí tích Thánh Thể trong cuộc đời. Hãy noi gương Mẹ đem Thánh Thể đến khắp các nẻo đường, quy tụ một dân đông đảo về dự tiệc Thánh Thể, dự tiệc Nước Chúa. Lạy Mẹ La Vang xin nhận lời chúng con. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1. Bí quyết nào khiến bà mẹ ngoại đạo đạt được ước nguyện?
2. Người phụ nữ ngoại đạo nêu gương cầu nguyện cho ta thế nào?
3. Đức Mẹ đã sống đức tin vào tình yêu thế nào trong cuộc đời
?
[Mục Lục]

Bài 14. “Này bà, bà có lòng mạnh tin”.
Lương Văn Liêm
Trong thư gởi cho giáo đoàn Rôma, Thánh Phaolô đã nhắc nhở: “Người Do thái muốn nên công chính, nhưng không thực hiện được bởi họ tìm cách nên công chính nhờ luật, những người ngoại họ nên công chính được là vì họ tin” hoặc “Đức tin là bằng chứng cho những gì anh em không thấy, là bảo chứng cho những gì anh em trông đợi”
Quả thật nhờ lòng tin, người đàn bà xứ Canaan cứu được người con gái bà bị quỷ ám đã nhiều năm phải sống trong tình trạng rất khổ sở, đức tin của bà đã được chính Đức Giêsu khen “Bà có lòng tin mạnh thật”. Nhưng lòng tin mạnh mẽ của bà do đâu và vì đâu? Với những suy nghĩ hạn hẹp mình viết lên đôi dòng cảm nghĩ do đâu và vì đâu, mong được sự đóng góp của tất cả các bạn trẻ.
Đức tin mạnh nhờ lắng nghe và đi tìm
Xứ Canaan là nơi mà người Do thái xưa kia cho là dân ngoại, không hề biết đến Thiên Chúa, nếu có biết thì cũng chỉ thoảng qua. Người đàn bà xứ Canaan chắc chắn không biết Đức Giêsu xuất thân từ đâu và cũng không thể nào biết Đức Giêsu có một quyền năng siêu phàm cải tử hoàn sinh, là thần y chữa bá bệnh để rồi tự tìm đến với Chúa, có phải chăng bà đã nghe những người Do thái truyền miệng cho nhau về Đức Giêsu, từ lắng nghe, bà cất bước đi tìm để rồi những cố gắng của bà đã được toại nguyện. những diều đó đều khởi đi từ Thiên Chúa, Ngài đã gieo vào lòng con người từ khai thiên lập địa, khi con người biết lắng nghe và cất bước đi tìm Ngài sẽ tỏ lộ cho mọi người biết Ngài qua mọi sự việc, biến cố.
Đức tin mạnh khởi đi từ tình yêu
Vào thời cựu ước ông Áp-ra-ham đã yêu mến Đức Chúa hết lòng và khởi đi từ tình yêu đó mà ông đã tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa và trở thành Cha già các dân tộc tin vào Thiên Chúa. Mẹ Maria cũng một lòng yêu mến Thiên Chúa một cách tuyệt đối, cũng chính tình yêu đó, Mẹ Maria đã tin tuyệt đối vào lời mời gọi Mẹ cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa điều này đã được chính Bà Ê-li-sa-bét chúc mừng Mẹ “Em thật có phúc vì đã tin những gì Thiên Chúa thực hiện nơi em” Nói về người đàn bà xứ Canaan trong Tin Mừng hôm nay, cũng khởi đi từ tình yêu nhưng không phải tình yêu của bà dành cho Thiên Chúa vì bà có biết Đức Giêsu là Chúa đâu, bà yêu người con gái của mình, đó là giọt máu của bà, là niềm vui của bà trong cuộc sống “con đau mẹ cũng đau”, chính cái đồng cảm trong tình yêu mẫu tử, bà đã mạnh dạn đến để xin cùng Đức Giêsu chữa cho con bà và chính tình yêu đó thúc đẩy bà tin Chúa sẽ thực hiện điều bà mong ước là cho con gái được khỏe mạnh. Từ tình yêu dành cho con dẫn đến lòng tin, bà đã được Chúa đáp trả.
Đức tin mạnh khởi đi từ sự khiêm nhường
Bắt nguồn từ sự lắng nghe, đi tìm, đồng thời kết hợp với tình yêu dành cho người con thúc đẩy, người dàn bà xứ Canaan đã đặt niềm tin vào Đức Giêsu. Ngoài những điều đó bà còn tỏ ra rất khiêm nhường, khiêm nhường lắng nghe những lời miệt thị của người Do thái, khiêm nhường khi chính Đức Giêsu lặng im với lời van xin, khiêm nhường chịu đựng khi các tông đồ nói bà nhiều lời và khiêm nhường chấp nhận mình chỉ là con chó con dưới bàn ăn của chủ. Chính nhờ lòng tin trong sự khiêm nhường đó mà bà đã được thỏa lòng mong ước.
Đức tin mạnh khởi đi từ lòng kiên nhẫn
Thánh Mátthêu đã trình thuật một cách tỉ mỉ về sự kiên nhân của người đàn bà xứ Canaan: Lần đầu bà van xin, Chúa như vờ không nghe thấy. Lần hai chính các môn đệ thưa với Chúa nhưng chúa đáp lại với các môn đệ một cách như vô tình “Thầy chỉ được sai lạc nhà Israel mà thôi”. Lần ba bà lại van xin một cách tha thiết nhưng chính Đức Giêsu đáp lại
“Không thể lấy bánh của con mà ném cho chó” với lòng kiên nhẫn bà đã đáp lại “Nhưng thưa Ngài! Chó con cũng được thừa hưởng những miếng bánh vụn từ bàn ăn rơi xuống”. Quả thật điều bà xin với Chúa rất chính đáng và đó cũng là những lời giáo huấn của Đức Giêsu, bà không xin cho chính bà, bà xin cho người con đang rất cần tình yêu liên đới của mọi người và cũng từ nơi Chúa. nếu không có sự kiên nhẫn liệu bà ta có được những điều mình mong ước ngay lúc hiện tại và tương lai? Chính do lòng kiên nhẫn bà đã thành công một cách mỹ mãn đem lại cho chính bà niềm vui, đem lại cho con gái bà một sức sống mới và đem lại vinh quang cho Thiên Chúa qua Đức Giêsu
Cầu nguyện
Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ vì Chúa đã ban nhưng không Đức tin cho chúng con, nhưng vì thiếu lắng nghe, đi tìm, thiếu tình yêu, thiếu sự kiên nhẫn mà đức tin của chúng con không đủ mạnh vì thế mà lời cầu nguyện của chúng con chưa thấu đến tai Chúa, giữa cuộc sống đầy những cám dỗ, sóng gió tứ bề luôn phủ lấp cuộc đời chúng con.
Xin cho chúng con có được sự lắng nghe qua lời của Chúa, qua lời mời gọi, giáo huấn của các bậc bề trên, biết đi tìm Chúa mọi lúc, mọi nơi, luôn có một tình yêu như Chúa đã yêu chúng con và cuối cùng xin cho chúng con có lòng kiên nhẫn, chờ đợi Chúa trong đời sống cầu nguyện. Nhờ đó mà chúng con có được sự bình an, niềm vui của Chúa và giúp chúng con luôn làm sáng danh Chúa trong đời sống thường ngày. Amen.
[Mục Lục]

Bài 15. Thử thách
Trầm Thiên Thu
Lửa thử vàng, gian nan thử sức. Tiền nhân đã xác định như vậy. Quả nhiên đúng như thế. Ngạn ngữ Phi châu nói: “Biển lặng chẳng tạo nên thủy thủ tài ba”. Thật vậy, thử thách càng cao thì cơ hội càng lớn. Thời thế tạo anh hùng nhiều hơn là anh hùng tạo thời thế. Như cụ Phan Bội Châu (1867-1940) đặt vấn đề: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?”.
Garrison Keillor so sánh: “Cuộc sống cũng giống như cuộc chiến, nếu mọi thứ bỗng trở nênyên lặng thì có nghĩa là bạn đang thua trận. Cuộc sống luôn đầy những thử thách, kinh nghiệm này ai cũng có thể tích lũy theo thời gian. Nếu không có thử thách, làm sao chúng ta có thể biết và nhận ra sức mạnh tuyệt vời vẫn đang tiềm ẩn trong chúng ta? Vả lại, cuộc sống bình lặng sẽ nhàm chán vì đơn điệu. Toni Malliet nói: “Thử thách không là gì cả, nhưng cơ hội ẩn chứa đằng sau thử thách đó mới là điều đáng nói.
Nếu bạn tỏ ra yếu mềm trước thử thách thì bạn thật là bé nhỏ và sức mạnh của bạn thật là yếu đuối. Vì thế, chẳng lạ gì khi Chúa Giêsu luôn động viên chúng ta nên “đi qua cửa hẹp” (Mt 7:13-14; Lc 13:24), tự tôi luyện trong gian khổ chứ không ung dung tự tại. Chắc chắn mọi thử thách đều có giá trị cao, vì chính những gian nan mới khiến người ta trưởng thành đúng nghĩa, gọi là “thành nhân”.
Thiên Chúa phán: “Hãy tuân giữ điều chính trực, thực hành điều công minh, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và đức công chính của Ta sắp được biểu lộ” (Is 56:1). Thời gian là của Chúa, chúng ta chỉ là những người quản lý, không thể biết thời gian còn dài hay ngắn. Do đó, ai cũng phải tỉnh thức. Tỉnh thức là một dạng thử thách. Chính sự thử thách khiến chúng ta phải coi chừng để mà khéo léo (khôn ngoan) “canh me” hoặc “liệu cơm gắp mắm”.
Thiên Chúa chí nhân nhưng cũng tuyệt đối công bình và chính trực, không thiên vị bất kỳ ai: “Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cùng trở nên tôi tớ của Người, hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm, cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta, đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta. Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng, vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân” (Is 56:6-7). Dù là ai, từ giáo hoàng tới giáo dân, từ bề trên tới người giúp việc, từ tổng thống tới người ăn xin,… không ai có thể viện cớ gì mà nói: NẾU, TẠI, VÌ, BỞI, GIẢ SỬ, GIÁ MÀ, PHẢI CHI,…
Ai tự cảm thấy mình thiếu thốn thì xin – xin nghiêm túc chứ không “xin xỏ”. Khi thấy người khác xin thì chúng ta phải cho. Đó là công bằng. Ở đây là “xin–cho” trong tương quan yêu thương và bác ái, chứ không “xin–cho” theo kiểu “chế độ” ban phát. Chúng ta đều là những “người làm công” trong Vườn Nho của Chúa, chẳng ai có quyền gì mà “chảnh” với nhau. Ý thức được như vậy, chúng ta có thể ước mong như tác giả Thánh Vịnh: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 67:2-3).
Phàm nhân bất trác và bất túc nên luôn có rất nhiều mong ước, về mọi thứ, cả tinh thần lẫn vật chất. Nhưng ước mong về tâm linh mới quan trọng nhất: “Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh, Người cai trị muôn nước theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này. Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài” (Tv 67:5-6). Công lý và công bình phải có thì con người mới được tôn trọng đúng mức: Nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền.
Chúc nhau điều gì thì phải thật lòng, không thể chỉ “xã giao”. Trong các Thánh Lễ có nghi thức “chúc bình an”. Nghi thức là để tránh lộn xộn chứ đừng chỉ theo nghĩa đen của nghi thức. Tuy nhiên, một số người thụ động trong khi cúi chào chúc bình an cho nhau, có người chỉ “co cái cần cổ” chút xíu, nhìn vẻ rất miễn cưỡng. Ngay cả chủ tế cũng có người thụ động, gật đầu theo nghi thức, hai cậu lễ sinh hai bên chả sơ múi gì! Trong tình hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta cùng chân thành chúc nhau: “Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta! Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người!” (Tv 67:8).
Thánh Phaolô bộc bạch: “Tôi xin ngỏ lời với anh em là những người gốc dân ngoại. Với tư cách là Tông Đồ các dân ngoại, tôi coi trọng chức vụ của tôi, mong sao nhờ vậy mà tôi làm cho anh em đồng bào tôi phải ganh tị, và tôi cứu được một số anh em đó. Thật vậy, nếu vì họ bị gạt ra một bên mà thế giới được hoà giải với Thiên Chúa thì việc họ được thâu nhận lại là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi sống?” (Rm 11:13-15). Ông cựu Biệt Phái Saolê muốn người ta “ganh tị” chứ không “ghen tị” hoặc “ghen ghét”, nhưng phải là ganh tị về điều thánh đức, cứu các linh hồn, chứ không ganh tị về những thứ trần tục.
Thánh Phaolô xác quyết: “Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi thì Người không hề đổi ý” (Rm 11:29). Thật vậy, “trước kia chúng ta đã không vâng phục Thiên Chúa, nhưng nay chúng ta đã được thương xót, vì họ không vâng phục; họ cũng thế: nay họ không vâng phục Thiên Chúa, vì Người thương xót chúng ta, nhưng đó là để chính họ cũng được thương xót. Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục để thương xót mọi người” (Rm 11:30-32). Một triết lý đầy tính thần học và rất đậm “chất Phaolô”!
Người ta đã từng ghét Chúa Giêsu vì có cách nói “chẳng giống ai” và luôn “gây sốc”. Một hôm, Đức Giêsu đang trên đường lui về miền Tia và Xi-đôn, có một người đàn bà Ca-na-an kêu lớn tiếng: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” (Mt 15:22). Thế nhưng Ngài làm ngơ, không đáp lại một lời. Nhưng rồi Ngài lại nói: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi” (Mt 15:24).
Dù vậy, bà ấy vẫn đến bái lạy Ngài và thưa: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” (Mt 15:25). Người gì mà lắm mồm, léo nhéo dai còn hơn đỉa đói! Thế nên Ngài nói thẳng: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15:26). Nghe “sốc” không chịu nổi! Vậy mà bà ấy vẫn thản nhiên nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Bấy giờ Đức Giêsu nhìn bà ấy, vừa cười vừa âu yếm nói: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (Mt 15:28). Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
Đó là cách Chúa Giêsu thử thách. Tuy nhiên, Ngài thử thách không phải là để “dò tìm” như chúng ta, vì Ngài đã biết rõ cõi lòng ai sâu hay rộng thế nào, trái tim người nào cứng hay mềm, nghĩa là Ngài không cần thử thách. Nhưng Ngài làm vậy để cho mọi người biết giá trị của gian truân, giá trị của đức tin, đồng thời Ngài cũng tạo công trạng cho chính người chịu đựng thử thách.
Như vậy, thử thách và đau khổ là hồng ân. Tất nhiên chúng ta cũng phải biết tạ ơn về loại hồng ân “khác người” như vậy. Vâng, “khác người” chứ không “chết người” đâu!
Lạy Thiên Chúa, con chỉ là con chó nhỏ bé nhất, yếu đuối nhất và nhơ nhớp nhất, xin thương xót dù con hoàn toàn bất xứng. Con vô duyên và bất tài, nhưng con luôn khao khát nên giống Ngài và tín thác vào Ngài, xin cho con được hưởng những vụn-bánh-yêu-thương rơi thừa từ Thạch Bàn Thương Xót của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của con. Amen.
[Mục Lục]

Bài 16. “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật…”
P. Trần Đình Phan Tiến
Thưa quý vị, thưa các bạn, Tin Mừng Chúa Nhật XX (A) hôm nay, trình thuật cho chúng ta một biến cố chữa lành (trừ quỷ) cho con gái người phụ nữ Canaan bởi Chúa Giêsu.
Vâng, quỷ là một hiện tượng có thật, quỷ là thế lực đen tối, là hành vi ngạo mạn của một thiên sứ. Từ khi có quỷ, nó luôn gieo rắc tai họa cho con người. Chủ đề Lời Chúa hôm nay không nói về quỷ, nhưng nói về “LÒNG TIN “mạnh mẽ của một người mẹ có con gái bị quỷ ám. Nhưng nguyên nhân có liên hệ đến quỷ, vậy xin phép được nói một chút về quỷ. Có nhiều người thắc mắc quỷ do ai sinh ra? Chúa có sinh ra quỷ không ? Nếu Chúa không sinh ra quỷ thì làm sao có quỷ? Hay quỷ do đâu mà có? Thưa, quỷ và tên gọi của nó ai cũng biết. Trong hành trình truyền giáo của Chúa Giêsu luôn có những chi tiết về quỷ, như quỷ nhập đàn heo v.v… Nhưng, đây không phải là lần đầu tiên chúng ta nghe đọc về quỷ và Chúa Giêsu chữa người bị quỷ ám. Như (Matthêu 8, 28-34 ; 10 , 32-34 ; 12, 22-32 ; 43-45; 17, 14 -21 ). Theo đó, trong hành trình sứ vụ rao giảng Nước Trời của Chúa Giêsu, thì Người cũng đồng thời chữa bệnh và trừ quỷ nhiều lần. Như vậy, Thiên Chúa không sinh ra quỷ và quỷ cũng không tự nhiên mà có. Vậy quỷ do đâu? Thưa quỷ là do bởi tư tưởng tự do mà Thiên Chúa ban cho thiên thần và loài người. Nếu ý chí tự do mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, mà chúng ta biết thờ phượng tôn vinh, cảm tạ Thiên Chúa, tức sự vâng phục tuyệt đối bằng ý chí tự do mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, hầu chúng ta phụng sự Ngài, thì chúng ta không thuộc về quỷ. Còn ngược lại, nếu chúng ta dùng ý chí tự do mà Thiên Chúa ban cho chúng ta để chống lại Ngài, thì chúng ta thuộc về quỷ. Như vậy, để kết luận. Quỷ là ý chí tự do của chúng ta nằm ngoài ý định của Thiên Chúa.
Trở lại ý nghĩa Tin Mừng (Mt 15, 21-28) hôm nay, chúng ta thấy về mạch văn không dài. Diễn đạt gãy gọn, nêu trọng tâm về việc Chúa Giêsu chữa lành (trừ quỷ) cho con gái người phụ nữ Canaan. Việc chữa bệnh hay trừ quỷ đối với Chúa Giêsu không khó khăn gì. Nhưng việc làm sao cho con người “TIN “vào Chúa Giêsu thì không dễ. Như vậy, vấn đề nằm ở “LÒNG TIN”. Vâng lòng tin chính là sức mạnh, là nội lực đề chúng ta tiếp rước Chúa, đón nhận Người.
Vậy Đoạn Tin Mừng hôm nay tuy ngắn, nhưng có nhiều chi tiết.
1/ Nêu rõ địa danh, địa hạt, xứ sở xảy ra câu chuyện (c 21 -22)
2/ Sự lặng thinh của Chúa Giêsu (c 23)
3/ Cảm thức đối với ơn cứu độ theo lịch sử tính (c 24)
4/ Lòng tin mạnh mẽ của người phụ nữ xứ Canaan (c 27)
5/ Chúa Giêsu khen người phụ nữ Canaan có lòng tin mạnh (c 28)

Tuy đoạn Tin Mừng không dài, nhưng chúng ta có thể thấy những ý đặc trưng, hầu dễ nhận ra ý nghĩa. Trước tiên chúng ta thấy, trên bước đường truyền giáo tại bờ giếng Giacop, Chúa Giêsu gặp người phụ nữ xứ Samaria và “xin nước uống”, nhưng thật ra Người muốn mặc khải ơn cứu độ nơi Người cho người Samaria qua người phụ nữ ấy. Còn giờ đây, tại sao Chúa có vẻ “khắt khe” với người phụ nữ Canaan ?
Thứ nhất đất Canaan đây thuộc phần đất dân ngoại. Không phải xứ Ca-na gần Nazaret, mà là miền Tia-xi-đon, theo bản đồ Palestine, thì địa danh nầy nằm gần LI-BANG. Ngày nay, nhiều người Việt Nam biết rõ Thánh Địa hơn các bậc tiền bối, vì có dịp sang Thánh Địa nhiều lần (như cha An). Tin Mừng nêu rõ chi tiết nầy, cho biết tại sao Chúa Giêsu có vẻ khắt khe với người phụ nữ nầy. Vì chính Chúa Nói : “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Israel mà thôi!” (c 24). Theo chú giải Thánh Kinh, thì đây là “cảm thức ơn cứu độ theo lịch sử tính”. Nhưng người phụ nữ nầy vẫn kiên nhẫn và cầu xin thêm lần nữa : “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi !” (c 25). Nhưng Người vẫn không thay đổi và trả lời cách mềm mỏng và khôn khéo : “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (c 26). Điều nầy cho thấy, Người muốn nêu bật “His historical Mission”, nhiệm vụ , sứ mạng Truyền giáo mang tính lịch sử của Chúa đối với dân tộc Israel. Đó là “Lời Hứa” của Thiên Chúa đối với dân tộc Israel. Điều nầy minh định Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai cho dân tộc Do-thái đến từ Đức Chúa Trời của họ.
Nhưng ở câu 23, thánh Matthêu ghi rõ : “Nhưng Người không đáp lại một lời”. Sự lặng thinh của Chúa mang tính suy tư giữa lòng xót thương và sứ vụ của Người. Sự lặng thinh không đáp lại lời nào của Chúa Giêsu có hai ý: Một là cân nhắc. Hai là thử thách người mẹ ấy. Cuối cùng người phụ nữ ấy đã thắng , bởi vì “LÒNG TIN “của bà thật mạnh. Điều nầy thật phù hợp , bởi vì có lần Chúa nói với các môn đệ : “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải thôi, thì các con có thể dời non lấp biển” (Mt 17, 20; Lc 17, 6).
Thật vậy, qua câu nói của Chúa Giêsu (c 26) , người phụ nữ đã đáp lại : “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con cũng đáng được hưởng những mảnh vụn từ bàn ăn của chủ rơi xuống” (c 27). Vâng, câu trả lời vừa khiêm tốn, vừa đồng thuận với quan điểm của Chúa Giêsu, đồng thời nói lên “lòng tin” mạnh mẽ và “ý chí” ngay lành của bà. Từ đó, chính Chúa cũng phải khen bà có lòng tin thật mạnh. Theo phần chú giải Thánh Kinh, đây là lần duy nhất và chỉ có ở Tin Mừng Matthêu, là Chúa Giêsu khen một người phụ nữ dân ngoại có lòng tin thật mạnh“Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (c 28).
Thánh vịnh 66, 2-3. 5 -6 và 8 nói lên tất cà các chư dân hãy cảm tạ Chúa và hoan hỷ mừng vui trong Ngài.
Bài đọc I (Is 56, 1; 6-7) cũng nói ý nghĩa tiếp nhận tân tòng. Lòng thương xót của Chúa lan tràn khắp nơi.
Bài đọc II (Rm 11, 13-15; 29-32), thánh Phao-lô cho chúng ta biết, Thiên Chúa giàu lòng thương xót, khi Thiên Chúa đã có ý định thương xót thì Ngài không bao giờ đổi ý.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy người phụ nữ Canaan thật là mạnh mẽ về lòng tin. Bà đã để lại cho chúng ta nhiều bài học về niềm tin vào Chúa Giêsu. Người có quyền năng trên những thế lực bóng tối, nên chi, chúng ta phải hết lòng cậy trông và tin tưởng hoàn toàn vào Chúa như người phụ nữ Canaan.
Lạy Chúa Giêsu xin thương xót chúng con, vì chúng con cũng là ngoại dân như người phụ nữ xứ Canaan. Nhưng chúng con cũng xin bắt chước lòng tin của bà, hầu chúng con cũng đáng được hưởng nhờ ơn cứu dộ của Chúa. Amen./.
[Mục Lục]

Bài 17. MỌI NGƯỜI TIN ĐỀU ĐƯỢC THIÊN CHÚA ĐÓN NHẬN
Ban Mục vụ Thánh Kinh & Ban Phụng tự TGP Sài Gòn
“Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân.” (Is 56,7)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1
Tác giả Isaia đệ tam (Is 56-66), vốn phản ánh khung cảnh của dân Chúa tại Giêrusalem thời hậu lưu đày, mở đầu bằng lời mời gọi quen thuộc dành cho dân Chúa, đồng thời cho thấy những tư tưởng tiến bộ về những người ngoại bang.
Trước hết, Isaia đệ tam mời gọi dân Chúa hãy “tuân giữ điều chính thực, thực hành điều công minh” (Is 56,1). Công minh chính trực là chuẩn mực mà Thiên Chúa đã truyền lại cho Ápraham và cho con cháu ông phải tuân giữ, như là điều kiện để Ngài thực hiện lời hứa của Ngài (St 18,19). Chính Thiên Chúa là Đấng công minh chính trực (Tv 7,18; Đn 9,14), là Đấng yêu thích điều công minh chính trực (Tv 33,5), là Đấng ngự trên bệ ngai rồng là công minh chính trực (Tv 97,2), và là Đấng cai trị theo lẽ công minh chính trực (Dcr 8,8). Vì thế, ai sống công minh chính trực sẽ được thấy mặt Chúa (Tv 17,15) và “thực thi điều công minh chính trực thì đẹp lòng Đức Chúa hơn là dâng hy lễ” (Cn 21,3).
Có thể nói công minh chính trực là tiêu chuẩn mà dân Chúa phải ghi nhớ và thực hành. Có lẽ sau thời lưu đày, dân Chúa đã chịu ảnh hưởng ít nhiều của lối sống ngoại bang mà đi xa đường lối của Thiên Chúa. Vì thế, điều đầu tiên mà Isaia đệ tam kêu gọi dân Chúa sau thời lưu đày là trở về với điều cơ bản nhất, là sống công minh chính trực.
Sau nữa, Isaia đệ tam còn quan tâm đến những người ngoại bang vốn giờ đây sống gần bên dân Chúa. Họ không phải là những người bị ghét bỏ, hay bị loại trừ. Nếu họ biết gắn bó với Chúa để phụng sự Ngài và yêu mến Thánh Danh, cùng trở nên tôi tớ của Ngài, giữ ngày sabát cùng tuân thủ giao ước của Thiên Chúa, thì đều được Thiên Chúa dẫn lên núi thánh của Ngài (Is 56,6). Thiên Chúa sẽ cho họ được hoan hỷ, sẽ ưng nhận lễ tế của họ trên bàn thờ, “vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân” (Is 56,7). Đây thật sự là tư tưởng rất tiến bộ của Isaia đệ tam nếu so với những đoạn nói về người nước ngoài một cách tiêu cực (Đnl 14,21; 15,3; 22,21; Ed 44,7-9).
Có hai điểm đáng lưu tâm ở đây. Thứ nhất, Thiên Chúa hai lần nhấn mạnh rằng nhà của Ngài, đền thờ Giêrusalem, là nhà cầu nguyện (Is 56,7). Đối với dân Israen, đền thờ là trung tâm sinh hoạt tôn giáo của họ, cách riêng là nơi họ đến để dâng lễ tế. Nhưng ở đây, sấm ngôn của Thiên Chúa nhắm đề cao một chiều kích quan trọng khác: đền thờ, nhà Thiên Chúa, là nơi được đặc biệt dành riêng cho việc cầu nguyện. Thứ hai, đền thờ, nhà Thiên Chúa, không chỉ là nơi cầu nguyện dành riêng cho dân Do Thái nữa, mà được mở rộng ra cho “muôn dân”, nghĩa là tất cả mọi dân tộc đều được mời gọi vào việc thờ phượng Thiên Chúa, cầu nguyện với Ngài tại nhà Thiên Chúa là đền thờ Giêrusalem.
2. Bài đọc 2
Thánh Phaolô ngỏ lời với những người gốc dân ngoại trong cộng đoàn tín hữu Rôma. Là vị tông đồ dân ngoại, thánh Phaolô nhiệt thành với sứ mạng được trao phó và ngài tự hào vì được trao trọng trách loan báo Tin Mừng cho những người dân ngoại. Thế nhưng sứ mạng đến với dân ngoại của thánh Phaolô cũng gặp không ít khó khăn, trắc trở, chống đối, mà phần nhiều trong số đó lại do chính đồng bào của ngài, những người Do Thái gây nên (Cv 18,6; 28,19).
Tuy nhiên, không vì thế mà thánh Phaolô tỏ ra căm ghét, thù hận những người đồng bào của mình. Trái lại, dù là tông đồ dân ngoại, thánh nhân vẫn mong mỏi “cứu được một số anh em đó”, những người Do Thái đồng bào của ngài (Rm 11,14). Thánh nhân coi việc các anh em đồng bào của mình được thâu nhận lại như là “từ cõi chết bước vào cõi sống” (Rm 11,15). Đối với thánh Phaolô, bất cứ ai, dù là Do Thái hay dân ngoại, ủng hộ hay chống đối ngài, đều nhận được sự quan tâm của ngài, với mong mỏi tất cả đều được cứu độ nhờ tin vào Đức Giêsu (Gl 2,16).
Thánh Phaolô dùng cấu trúc song đối để diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho cả dân ngoại lẫn dân Israen. Trước kia dân ngoại đã từng không vâng phục, nhưng nay đã được lòng xót thương của Thiên Chúa; cũng vậy ngày nay dân Israen có không vâng phục, thì trong tương lai cũng sẽ nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa (Rm 11,30-31). Quả vậy, kinh nghiệm của các Kitô hữu gốc dân ngoại cho thấy rằng trước kia họ đã không tin (không vâng phục) vào Thiên Chúa, nhưng nay đã được Thiên Chúa thương xót mà ban ơn đức tin. Cũng vậy, nếu như ngày nay dân Israen chưa tin (không vâng phục), thì sau này họ cũng vẫn xứng đáng nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa là ân huệ đức tin. Vậy nên cả dân ngoại lẫn dân Israen, dù đã từng “ở trong tội không vâng phục” vì đã không tin vào Đức Kitô, thì đó lại cơ may để Thiên Chúa bày tỏ lòng thương xót của Ngài là ơn đức tin, ơn ban không phải chỉ cho dân ngoại hay dân Israen mà thôi, mà là cho “mọi người” (Rm 11,32).
3. Bài Tin Mừng
Bài Tin Mừng mô tả cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với người phụ nữ dân ngoại. Có vẻ như theo cái nhìn của Tin Mừng Mátthêu, đây là cuộc gặp gỡ không mong đợi của Chúa Giêsu và dường như Chúa Giêsu không hề được chuẩn bị, không hề có một đáp án sẵn cho người phụ nữ này. Tuy nhiên, khi bị thuyết phục bởi lòng tin mạnh mẽ của người phụ nữ dân ngoại, Chúa Giêsu đã thay đổi và ban cho người phụ nữ dân ngoại điều bà cầu xin.
Đứng trước lời cầu khẩn tha thiết của người phụ nữ dân ngoại, dù Chúa Giêsu “không đáp lại một lời” (Mt 15,23), nhưng việc người phụ nữ này biết tuyên xưng Chúa Giêsu là Con vua Đavít có thể là ngụ ý của thánh Mátthêu rằng người phụ nữ dân ngoại này không hẳn là người hoàn toàn ở ngoài. Sự im lặng của Chúa Giêsu ở đây không hẳn là một sự khước từ hoàn toàn, dứt khoát, khi mà người phụ nữ dân ngoại ít nhiều hiểu biết và nhìn nhận Đức Giêsu. Sự im lặng của Chúa Giêsu còn có thể là cơ hội để người phụ nữ tiến xa hơn, tuyên xưng mạnh mẽ hơn niềm tin của mình.
Phản ứng của các môn đệ xin Chúa Giêsu xua đuổi người phụ nữ khi bà “cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi”, cho thấy sự khó chịu của các ông khi bị người phụ nữ quấy rầy; không chỉ quấy rầy mà còn là quấy rầy dai dẳng. Và câu trả lời của Chúa Giêsu phản ánh quan niệm đương thời, ít ra là theo nhãn quan của Tin Mừng Mátthêu về sứ mạng của Đức Giêsu rằng Người chỉ được sai đến để rao giảng cho người Do Thái. Ngoài ra, thái độ xem ra đóng kín của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ ngoại giáo lại là cơ hội cho bà thể hiện niềm tin vững mạnh của mình.
Dù như bị chối từ, người phụ nữ ngoại giáo tiếp tục tỏ ra kiên nhẫn và thành khẩn trong lời cầu xin của mình. Cử chỉ “bái lạy” và tiếp tục “xin cứu giúp” (Mt 15,25) cách nào đó cho thấy niềm tin sâu sắc của bà nơi quyền năng của Chúa Giêsu và tha thiết chờ mong sự thi ân giáng phúc của Người. Chính sự chân thành, tha thiết, và tin tưởng mạnh mẽ của người phụ nữ đã giúp bà kiên vững trước thử thách cuối cùng: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15,26). Câu nói xem ra có vẻ xúc phạm của Chúa Giêsu là cách nói quen thuộc của người đương thời nhằm phân biệt con cái với người ngoài. Người phụ nữ không những không tức giận hay cảm thấy bị xúc phạm mà đáp lại cách đầy tin tưởng và khiêm tốn: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt 15,27).
Đứng trước niềm tin kiên vững, chân thành và hết sức khiêm tốn của người phụ nữ, Chúa Giêsu không thể từ chối bà. Bà không xin bánh của con cái Israen, không xin một vị thế ngang bằng với con cái được Thiên Chúa tuyển chọn, bà chỉ xin “những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Nếu đọc đoạn Tin Mừng này trong bối cảnh của phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều ở chương trước, với số bánh còn dư là mười hai thúng đầy (Mt 14,13-21) và một phép lạ hóa bánh khác ngay sau đoạn Tin Mừng này, với số bánh dư là bảy thúng đầy (Mt 15,29-39), thì lòng tin mạnh mẽ thể hiện qua lời cầu xin tha thiết được “ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống” của người phụ nữ ngoại giáo ý nghĩa hơn biết chừng nào. Bà hoàn toàn xứng đáng nhận được lòng thương xót của Chúa Giêsu: “Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy” (Mt 15,28).
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1/ Sách ngôn sứ Isaia cho thấy rằng một đàng dân Thiên Chúa được mời gọi sống công minh chính trực, đàng khác cả người ngoại cũng được đón nhận vào nhà Chúa, nếu họ tin tưởng, phụng thờ và giữ các giới răn của Ngài. Tôi có thể hiện mình là dân Thiên Chúa qua cách sống công minh chính trực? Hay tôi là dân Thiên Chúa mà lại sống không bằng những người, dù bị coi là dân ngoại nhưng lại biết tin, thờ phượng và giữ giới răn của Thiên Chúa?
2/ Thánh Phaolô gặp không ít khó khăn với những người Do Thái đồng bào của ngài, nhưng thánh nhân không những không ghét bỏ mà con kiên nhẫn chờ đợi lòng thương xót của Chúa dành cho họ. Đối với thánh nhân, bất kỳ ai, dù là Do Thái hay dân ngoại, nếu biết bày tỏ niềm tin vào Đức Giêsu Kitô đều được cứu độ. Tôi có biết khoan dung, độ lượng với những người chưa tin? Tôi có sẵn sàng giới thiệu đức tin của mình cho người khác thông qua đời sống của tôi? Tôi cần phải làm gì để Tin Mừng Đức Giêsu được giới thiệu cho những người sống quanh tôi chưa nghe biết về Người?
3/ Đức tin chân thành, kiên vững và khiêm tốn của người phụ nữ ngoại giáo trong bài Tin Mừng thật đáng khâm phục. Tôi học được gì khi chiêm ngắm đức tin mạnh mẽ của người phụ nữ ngoại giáo? Phải chăng đức tin của tôi còn nông cạn, hời hợt, bấp bênh trước bao nhiêu thử thách của cuộc sống thường nhật? Tôi cần phải làm gì để củng cố đức tin của tôi để có thể trợ giúp cho những người khác xung quanh tôi?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa là cha rất nhân từ và hay thương xót, Người sẽ ban muôn ơn lành cho tất cả những ai khiêm tốn kêu xin Người với lòng tin tưởng chân thành. Theo gương người phụ nữ xứ Canaan trong Tin mừng, cộng đoàn chúng ta hãy chạy đến với Chúa và tha thiết dâng lời cầu xin:
1. Sứ mạng của Hội thánh là trở nên dấu chỉ tình thương của Thiên Chúa cho con người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội thánh, cách riêng các vị chủ chăn, luôn nhạy bén trước nhu cầu của anh chị em chung quanh và sẵn sàng trở nên khí cụ phân phát ân huệ của Chúa cho mọi người.
2. Bạo lực và chiến tranh tại nhiều nơi trên thế giới là dấu chỉ sự leo thang của sự dữ. Hiệp thông với Đức Giáo Hoàng Phanxicô và đáp lại lời kêu gọi của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, chúng ta cùng cầu nguyện cho đất nước Iraq mau chóng tìm ra những giải pháp tích cực và hữu hiệu nhằm tái lập hòa bình.
3. Chăm sóc và giáo dục con cái là trách nhiệm hàng đầu của các phụ huynh. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các bậc làm cha mẹ Công giáo biết tin tưởng và phó thác con cái mình cho Thiên Chúa; đồng thời, luôn ý thức hướng dẫn các em đến gần Chúa bằng việc nêu gương sáng trong đời sống đức tin và thực thi bác ái.
4. Lòng tin mạnh mẽ chân thành của người phụ nữ Canaan đã được Chúa đoái thương. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn vững tin vào quyền năng và lòng thương xót Chúa, biết siêng năng chạy đến với Người qua các cử hành phụng vụ của cộng đoàn và giờ kinh tối trong gia đình.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa toàn năng và hay thương xót, xin lắng nghe những ước nguyện chân thành của chúng con và rộng tay chúc phúc, để chúng con thêm vững tin và luôn can đảm làm chứng cho niềm tin vào Đức Kitô giữa thế giới hôm nay. Người hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
[Mục Lục]

Bài 18. Bài giảng của Lm. Giuse Đinh Tất Quý
“Này bà, lòng tin của bà mạnh thật.Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (Mt 15,28)
Đọc câu chuyện hôm nay, tự nhiên tôi cảm thấy bị “cám dỗ” nhớ lại câu chuyện trong Bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần vừa qua. Anh chị em còn nhớ: Trong câu chuyện bài Tin Mừng tuần vừa qua, Phêrô bị Chúa quở là “Kẻ yếu lòng tin“. Thật là lạ. Một người theo Chúa suốt mấy năm trời và sau này lại được Chúa đặt làm rường cột Giáo Hội vậy mà Chúa chêlà yếu lòng tin còn người đàn bà xứ Canaan, là một người ngoại, một người không có đạo, Chúa lại khen là có một đức tin mạnh. Vậy thì qua câu chuyện chúng ta vừa nghe, chúng ta thử xem xem đâu là những yếu tố làm cho Đức tin mạnh.
1. Khi nói tới Đức tin thì thường người ta không thể bỏ qua được khía cạnhphiêu lưu hay liều lĩnh của nó. Trong Đức tin thường bao giờ cũng có một chút phiêu lưu liều lĩnh nào đó.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolo I trong lá thư viết cho thi sĩ Trilussa có trích lại một câu chuyện của chính tác giả để cắt nghĩa cho ông này biết thế nào là Đức tin của người công giáo. Như chính ông kể thì một hôm ông bị lạc giữa một khu rừng ban đêm. Giữa lúc ông đang cố tìm đường để đi ra thì ông gặp một bà cụ già. Bà bị mù từ lâu. Bà sinh sống gần khu rừng này. Sau khi nghe người đàn ông kể về chuyện đi lạc của ông, thì bà cụ già nói với ông:
- Nếu ông không biết đường, tôi sẽ đưa ông đi vì tôi thuộc đường.
Ông ngạc nhiên đáp:
- Tôi lấy làm lạ, bà không thấy gì cả thì làm sao bà có thể dẫn đường cho tôi?
Bà lão ngắt lời, nắm lấy tay ông và ra lệnh:
- Tiến bước!
Và Ngài kết luận: Đó là đức tin“. Ngài cắt nghĩa thêm: “Cuộc hành trình Đức tin là một cuộc hành trình đôi khi rất gian nan, nếu không nói là bi đát và bao giờ cũng mầu nhiệm”
Trong câu chuyện mà Tin Mừng kể cho chúng ta, ta thấy người đàn bà xứ Canaan quả thật làmột người đàn bà liều lĩnh.
Trước hết, bà không phải là người Do Thái mà lại dám đến với những người Do Thái. Chúng ta biết là người Do Thái rất khinh bỉ những người ngoại giáo. Họ coi những người ngoại giáo như những con chó. Chính Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay lúc đầu cũng muốn đứng trêncương vị của một người Do Tháiđể nói chuyện với Bà. “Không nên lấy bánh của con cái mà cho con chó.” (Mt 15,26)
Tiếp theo là bà không phải chỉ gặp một mình Chúa Giêsu mà bên cạnh Chúa Giêsu còn cả một đoàn các tông đồ, mà các tông đồ này thì bà dư biết là không có một chút cảm tình gì với bà.
Thứ ba là bà dám đặt một hy vọng thật lớn vào Chúa Giêsu. Vấn đề bà xin với Chúa không phải là vấn đề nằm trong phạm vi của con người. Nó đã chuyển sang một lãnh vực khác: lĩnh vực của ma quỷ và thần thánh.Qua cung cách bà đối thoại với Chúa, ta thấy bà không có một chút nghi ngờ gì về quyền năng của Chúa và quả thực Chúa đã không để cho bà phải thất vọng.
2. Thêm vào đó theo câu chuyện, chúng ta cũng còn thấy được một khía cạnh khác của một niềm tin mạnh. Đó là một đức tin có kinh qua thử thách.Châm ngôn Việt Nam của chúng ta có một câu rất hay: “Lửa thử vàng, gian nan thử đức”.
* Người đàn bà trong bài Tin Mừng hôm nay quả thực đã bị thử thách thật nặng nề. Nếu bà đã không kiên trì trong thử thách và can đảm chấp nhận cả những điều xem ra có vẻ xúc phạm tới phẩm giá cá nhân cũng như danh dự của cả dân tộc mình thì chắc là đã không có phép lạ.
* Bình thường mà nói thì thái độ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay thật là khó hiểu. Một Chúa Giêsu rất hiền lành và nhân từ mà lại quá lạnh nhạt với một người đàn bà đang ở trong một tình trạng thật đau thương như thế, xét theo cách cư xử thông thường của một con người thì quả là một việc thiếu tế nhị nếu không phải là một việc làm bất nhân.
Ở đây chúng ta phải đặt vào địa vị của Chúa. Chúa muốn dùng biến cố này để dạy cho các tông đồ của Chúa một bài học để sau này khi Chúa về trời lúc các Ngài phải tiếp tục công việc Phúc-Âm-hóa các dân tộc thì các Ngài cũng phải có một cái nhìn giống như Chúa đối với anh em lương dân. Bài học đó là: Cả những người mà người Do Thái coi là lương dân và khinh thường họ như những loài “chó” cũng được Chúa thi ân giáng phúc miễn là họ có lòng tin vào Chúa. Chính vì lý do đó mà Chúa đã thử thách người đàn bà này thật nặng để qua đó các ông thấy được Đức tin của Bà.
Lúc dầu khi mới đến với Chúa bà đã hết sức khiêm nhường. Phải nói là bà còn hết sức tế nhị nữa. Bằng chứng là bà đã phải học cách cư xử của người Do Thái để khi đến gặp Chúa thì biết cách ăn nói với Chúa như một người Do Thái. Vừa giáp mặt với Chúa, bà đã cúi đầu xin thưa: “Lạy Ngài là con Vua Đavit, xin thương xót tôi.” (Mt 15,22)
-Và rồi sau đó thì chúng ta thấy… bà càng tha thiết bao nhiêu thì xem ra Chúa lại càng lạnh nhạt hững hờ bấy nhiêu. Thậm chí Chúa đã sử dụng cả đến những từ ngữ dường như muốnchọc tức lòng tự ái của Bà. Thế nhưng xem ra Chúa càng như cố ý chọc giận bà bao nhiêu thì bà lại càng khiêm nhường hơn bấy nhiêu. Và chính ở điểm này mà bà đã “thắng” Chúa. Chúa đã khen bà có một đức tin mạnh.
C. Chúa khen bà cũng phảibởi chính chúng ta khi đọc lại câu chuyện này chúng ta cũng cảm thấy bà xứng đáng được khen như thế. Ngoài ra chúng ta còn cảm thấy phải vui với bà vì bà đã thành công trên con đường đi tìm sự giải phóng cho người con gái của bà. Chính đức tin của Bà đã cứu chữa người con đó. Chúa đã xác nhận thật rõ điều đó, để rồi đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải làm một điều gì đó cho anh em của chúng ta.
Vâng! Chúng ta cũng có thể làm nên những phép lạ bằng đời sống Đức tin của chúng ta.
Xin được kết thúc bằng lời cầu nguyện của Mẹ Têrêsa
Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách:
những kẻ đói không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu sự bình an, sự thật,
công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm trái tim hiểu biết, yêu thương;
những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng cả trong tinh thần,
bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“Điều các con làm
cho người bé mọn nhất trong anh em
là các con làm cho chính Ta”.
[Mục Lục]

Bài 19. Một đức tin tuyệt vời
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Thiên Chúa muốn chúng ta hạnh phúc, Người mang hạnh phúc đến cho chúng ta, người đàn bà xứ Canaan hiểu điều đó đã tìm đến Chúa ! Bà muốn Chúa Giêsu nhìn đến nhu cầu bà xin cho con gái bà. Bà muốn Thiên Chúa thể hiện lòng nhân lành đối với con bà, lời van xin của bà mới đẹp làm sao : “Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi !” (Mt 15, 22) Bà coi Chúa Giêsu là Đấng Messia.
Sự thinh lặng của Chúa Giêsu
Bà xin Chúa không trả lời, có phải bà bị miệt thị không? Chắc chắn là thế, nhưng bà cứ xin Chúa phải trả lời : “Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel” (Mt 15, 24). Câu này thể hiện sự vâng phục của Chúa Giêsu được Cha sai đến cùng dân Israël, và mạc khải cho dân biết về lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với họ. Lời cầu xin của bà xứ Canaan khó có thế chấp nhận, nhưng bản chất và tình thương của một người mẹ bảo bà cứ xin.
Chúng ta biết, giữa người Do thái và dân ngoại có một bức tường ngăn cách, thánh Phaolô gọi đó là “bức tường hận thù” (x. Eph 2, 14). Chính sự ngăn cách này mà Chúa Giêsu cũng bảo môn đệ đừng đi theo đường của dân ngoại, cầu nguyện “đừng có lải nhải như dân ngoại” (Mt 6, 7). Và nếu ai đó muốn nhục mà người nào trong dân Israel, thì hãy “đối xứ với họ như dân ngoại ” (x. Mt 18, 17), nên không có lạ gì khi môn đệ ngạc nhiên thấy Thầy tiếp chuyện với người phụ nữ xứ Samaria dân ngoại. Thế mới biết người đàn bà xứ Canaan can đảm biết chừng nào, bà đã vượt qua tất cả rào cản về tôn giáo, địa lý, niềm tin, nhất là về thân phận phụ nữ của chính bà. Vì ngay người nữ Do thái còn không được nhắc đến trong lời cầu nguyện, lời chứng của họ không có giá trị pháp lý, không giải quyết được gì ở nơi công cộng, huống hồ là đàn bà dân ngoại.
Chúa Giêsu không đề cập đến những vấn đề trên. Tuy nhiên, bà này vượt qua ranh giới dân ngoại, kêu xin một người Do thái với lòng kính trọng : “Lạy Ngài là con Vua Đavít” (Mt 15, 22). Có lẽ bà đã nghe nói nhiều về Chúa Giêsu, trong lòng bà có điều không biết rõ, phải chăng là hồng ân của Thiên Chúa.
Nhưng bà biết, theo ý kiến của dân chúng, bà có thể xin được điều bà cần nơi Đấng được Thiên Chúa sai đến. Bà liều đến, Chúa Giêsu không chấp nhận, bà nhờ vả các môn đệ, khiến các ông phải thưa với Chúa Giêsu : “Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi” (Mt 15, 23). Các ông muốn Chúa nhận lời ngay, Chúa từ chối, bà khăng khăng sấp mình xuống. Chúa bảo bà, “không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó” (Mt 15, 26) để giải thích lý do tại sao Người không thể nhận lời bà xin. Bà đáp rằng, “vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống” (Mt 15, 27). Lời này đã thuyết phục được Chúa Giêsu, ma quỉ bị trục xuất, con gái bà được giải thoát.
Lời bà van xin không được xét đến, xin mãi bị từ chối, lại còn bị miệt thị như chó. Chúng ta tự hỏi : điều gì đã khiến cho bà dám làm tất cả? Thưa vì yêu. Với tình mẫu tử, bà không đành lòng ngồi nhìn đứa con mình bị ma quỉ hành hạ, bà đi khắp đó đây tìm thầy chạy thuốc, vượt qua cả những nơi bị xem là cấm kỵ. Yêu con, bà chấp nhận tất cả, không những đến với Chúa Giêsu là người Do thái, lại còn tin Chúa có quyền năng thống trị được ma quỉ, tin Chúa có lòng thương xót sẽ ra tay cứu chữa, tin Chúa có trái tim rộng mở để không phân biệt người ngoại, kẻ đạo. Đáng ngưỡng mộ cho một người mẹ.
Giao ước và đức tin
Dù bà đã công nhận kế hoạch của Thiên Chúa, cũng như vai trò cứu thế của Chúa Giêsu được sai đến với nhà Israel, nhưng bà hy vọng rằng sự quan phòng của Thiên Chúa Đấng Cứu Thế không chỉ liên kết chặt chẽ với Israel, mà còn trải dài đến mọi dân tộc, kể cả dân ngoại, “vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc” (Is 56, 7 ) ;để”hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài” (Tv 66). Bà cũng tin rằng, những rào cản ngăn cách giữa con người một ngày kia sẽ được rỡ bỏ, không còn trở ngại cho việc thi ân giáng phúc của Thiên Chúa. Bà tin, Chúa Giêsu đã được Thiên Chúa sai đến như vị Cứu tinh dân ngoại, bởi bà tin Thiên Chúa đã hành động. Lời thánh Phaolô chứng tỏ điểu đó : “Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương xót” (Rm 11, 32). Tại Nagiaret, Đức Giêsu đã không thể làm một phép lạ nào vì họ không tin vào Người, bởi vì họ cứng lòng tin. Người đàn bà này bằng đức tin đã đến gần Chúa Giêsu. Bà quả là một người mẹ có lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, bà đã được Thiên Chúa xót thương (x. Rm 11, 13-15. 29-32)
Bài học cho chúng ta
Chúng ta học được nhiều điều ở nơi bà xứ Canaan. Nhờ đức tin của bà, Chúa Giêsu hoàn thành phép lạ cứu con gái bà. Người ban cho bà được đồng bàn tình thương của Thiên Chúa như con cái Cha trên Trời. Được trở nên con cái Thiên Chúa là ơn gọi của chúng ta! Chúng ta không bị tách rời khỏi Giao ước ban đầu. Chúa Giêsu đến để kiện toàn, vì : “Không còn Do Thái hay Hi lạp; không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ; vì hết thảy anh em là một trong Ðức Kitô Yêsu(Gal 3, 28). Thánh Gioan nói với chúng ta rằng chúng ta có quyền là con. Tất cả những ai đón nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa (x. Ga 1, 12). Cả chúng ta nữa, chúng ta được Thiên Chúa Cha mời gọi vào dự tiệc cưới Con Chiên.
Bánh vẫn luôn luôn là nội dung của câu chuyện. Bánh được ban cho dân chúng ăn no nê, thỏa mãn sự thèm muốn. Bánh đã được ban tặng cho 12 chi tộc Israel, bánh ấy đã không được chấp nhận, nay Bánh ấy được ban cho dân ngoại. Chúa Giêsu là Bánh của con cái Thiên Chúa. Phẩm vị của những người làm con Thiên Chúa mới đẹp làm sao.
Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy kiên trì cầu nguyện, như : người bạn đến quấy rầy xin bánh, bà góa yêu cầu vị thẩm phán bất lương xử kiện, cụ thể người đàn bà xứ Canaan đã chiến đấu và đã chiến thắng. Thiên Chúa vui mừng vì đã có cơ hội để chịu thua một đức tin tuyệt vời. Trong đời sống của chúng ta, chúng ta cũng phải chiến đấu một trận chiến, ai có đức tin tuyệt vời sẽ là người chiến thắng. Amen.
[Mục Lục]

Bài 20. CẦU NGUYỆN THẾ NÀO ĐỂ ĐƯỢC CHẤP NHẬN?
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 15,21-28
2. Ý CHÍNH: ĐỨC GIÊ-SU CHỮA CON GÁI NGỪƠI ĐÀN BÀ XỨ CA-NA-AN:
Khi nghe người đàn bà ngoại giáo xứ Ca-na-an kêu xin giúp con gái của bà đang bị quỷ ám, Đức Giê-su im lặng và khi môn đệ cầu bầu thì Người giải thích lý do “chỉ được sai đến với chiên lạc nhà It-ra-en mà thôi”. Tuy nhiên các lời bà đối đáp đã chứng tỏ bà có một đức tin mạnh mẽ, nên cuối cùng bà đã được Đức Giê-su khen ngợi có đức tin mạnh và đã ban cho bà được thỏa mãn.
3. CHÚ THÍCH
- C 21-22: + Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đon: Tia va Xi-đon là hai thành phố của dân ngoại. Khi âm thầm lui về miền đất ngoại giáo này (x. Mc 7,24), có lẽ Đức Giê-su muốn tránh sự dòm ngó của nhóm Pha-ri-sêu, cũng như tránh sự nồng nhiệt của quần chúng muốn tôn Người lên làm vua sau phép lạ nhân bánh ra nhiều (x. Ga 6,15). Ngoài ra, điều này còn tiên báo: Vì dân Do thái đã từ chối ơn cứu độ ưu tiên cho họ, nên dân ngoại sẽ được thừa hưởng ơn cứu độ ấy. + “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi !”: Sở dĩ người đàn bà ngoại giáo biết và tuyên xưng Đức Giê-su bằng danh hiệu Con Vua Đa-vít là do bà đã ra khỏi miền đất dân ngoại và được nghe nhiều người Do Thái truyền đạt đức tin về Đức Giê-su (x. Mc 3,8).
- C 23-24: + Nhưng Người không đáp lại một lời: Khi không nghe lời cầu xin của người đàn bà này, Đức Giê-su muốn thử thách để biết tình trạng đức tin của bà, để gia tăng lòng tin cho bà. + Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi !: Các môn đệ muốn Đức Giê-su thỏa mãn lời cầu xin để khỏi tiếp tục bị quấy rầy. Còn Đức Giê-su lại muốn chứng tỏ Người ban ơn cho ai là tùy lòng tin yêu của họ. Ở đây không những Người ban cho con gái bà khỏi bị quỷ ám, mà còn ban cho chính bà đức tin vào Người là điều kiện để được hưởng ơn cứu độ. + Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi: Sinh thời, Đức Giê-su chỉ rao giảng cho người Do Thái, là những người được thừa kế các lời hứa cho họ là con cái Thiên Chúa (x Rm 9,5; 15,8). Do đó, khi sai các môn đệ đi giảng đạo, Đức Giê-su cũng chỉ giới hạn trong lãnh thổ dân Ít-ra-en (x. Mt 10,5-6). Nhưng rồi thực tế cho thấy: dân Do Thái đã từ chối ơn ấy, nên cuối cùng họ đã bị mất quyền ưu tiên gia nhập Nước Trời (x. Cv 18,17).
- C 25-26: + “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”: Người đàn bà tỏ ra kiên trì trong lời cầu xin: xin một lần chưa được, bà xin hai, rồi ba lần. Khi cầu xin mà chưa được nhận lời, bà vẫn bền đỗ chứ không nản lòng bỏ cuộc (x Lc 18,1). + “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”: Không nên lấy Nước Trời được hứa ban cho con cái trong nhà là dân It-ra-en, để đem cho người ngoài là dân ngoại bị khinh dể như loài vật. Từ chó con ở đây là để làm dịu bớt sự khinh miệt theo quan điểm của dân Do thái.
- C 27-28: + Chó con: là con vật nuôi trong nhà và được mọi người cưng chiều. + Cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống: Câu nói của người đàn bà cho thấy bà có lòng khiêm tốn. Bà công nhận dân Do thái có quyền ưu tiên hơn dân ngoại trong chương trình cứu độ. Điều này cho thấy đức tin của bà thật vững mạnh. + Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy: Khi thấy người đàn bà tỏ lòng khiêm hạ và vững lòng phó thác cậy trông, Đức Giê-su đã khen ngợi đức tin của bà và đã ban cho con gái bà khỏi bệnh như ý bà xin.
4. CÂU HỎI
1) Người đàn bà ngoại giáo kêu xin Đức Giê-su bằng danh hiệu nào? Tại sao bà ta biết được danh hiệu ấy? 2) Tại sao Đức Giê-su làm như không biết không nghe thấy lời kêu xin khẩn thiết của người đàn bà này? 3) Các môn đệ yêu cầu Đức Giê-su thuận theo ý người đàn bà nhằm mục đích gì? 4) Đức Giê-su cho môn đệ biết sứ mệnh của Người là gì? 5) Tại sao Đức Giê-su khen đức tin của người đàn bà ngoại giáo và cuối cùng đã ban theo ý bà xin?
HỎI: TẠI SAO CHÚA IM LẶNG TRƯỚC LỜI CẦU XIN CỦA CHÚNG TA?
ĐÁP: Khi ta cầu xin mà Chúa vẫn im lặng không nhậm lời thường do mấy nguyên nhân chính như sau:
+ Có thể Chúa đang thử thách để xem đức tin của ta mạnh hay yếuTrưởng thành hay ấu trĩ? Ta cần noi gương người đàn bà ngoại giáo trong Tin Mừng: kiên trì cầu nguyện và không ngã lòng cậy trông. Xin một lần chưa được, hãy xin thêm nhiều lần. Phải xin với sựxác tín Chúa sẽ ban điều tốt lành cho ta, như Đức Giê-su phán: “Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho” (Mt 7,7).
+ Có thể lời cầu xin của ta mới chỉ mang tính cá nhân. Ta hãy xin cộng đoàn hợp ý cầu nguyện như lời Đức Giê-su dạy: “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho” (Mt 18,19). Ta cũng nên xin các thánh và các linh hồn trong luyện ngục cầu bầu cùng Chúa cho ta dựa theo tín điều “Các Thánh Cùng Thông Công”.
+ Có thể lời cầu xin của ta chưa khiêm tốn đủ: Do ta phô trương lòng đạo đức để tìm tiếng khen nơi người đời (x. Mt 6,5-6). Có thể do ta đòi Chúa phải ban theo ý riêng của ta, thay vì phải xin vâng theo thánh ý Thiên chúa như lời Đức Giê-su cầu xin trước khi bị bắt: “Ba ơi ! Nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).
+ Có thể lời cầu xin của ta còn thiếu sự hy sinh: ta hãy cầu xin, kèm theo những việc đạo đức như xưng tội rước lễ, và các việc hy sinh hãm mình, kèm theo sự tha thứ làm hòa như Đức Giê-su dạy: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ đó lại trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24).
+ Có thể ta xin những điều có hại cho phần rỗi của ta mà ta không biết: Đừng đòi Chúa phải ban theo ý mình, nhưng hãy tin cậy vào lòng từ bi của Chúa, Đấng hằng muốn ban ơn cứu độ cho ta như Đức Giê-su đã dạy: “Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những thứ tốt lành. Phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời. Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin người” (Mt 7,7-11; Lc 11,13).
+ Có thể do ta cầu nguyện với lòng ích kỷ hại nhân: Xin những gì có lợi cho mình mà hại cho người khác như hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đã nhờ mẹ mình đến xin Đức Giê-su cho được ngồi hai bên tả hữu Người trong Nước mà Người sắp thiết lập (x. Mt 20-21), hoặc xin Chúa làm điều trái nghịch với lòng từ bi nhân hậu của Chúa như hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an xin Thầy sai lửa trời xuống thiêu hủy làng Sa-ma-ri vì đã dám từ chối đón tiếp Thầy trò ở trọ (x. Lc 9,53-54)… nên những lời cầu xin ấy không đựơc Chúa chấp nhận (x. Mt 20,23; Lc 9,55). Ta nên chú trọng xin những ơn tinh thần như trong kinh Lạy Cha (x. Mt 6,9-14), vì sẽ dễ dàng được chấp nhận hơn là xin các ơn vật chất phần xác, vì liên quan đến luật tự nhiên do Chúa đã an bài khi sáng tạo vũ trụ vạn vật.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Một người đàn bà Ca-na-an kêu lên rằng: “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi !”… “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi !” (Mt 15, 22a.25b). Đức Giê-su đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (Mt 15,28a).
2. CÂU CHUYỆN: TÌNH YÊU VÀ ĐỨC TIN LUÔN ĐỒNG HÀNH VỚI NHAU:
Trong tác phẩm: “Anh em nhà Ka-ra-ma-dốp” (the Brothers Karamazov) của Đớt-tốp-ki (Dostoevski) có kể câu chuyện về một bà lão kia. Bà cảm thấy đức tin của bà bị suy thoái theo với sự suy yếu sức khoẻ về thể xác. Ngày nọ bà đến gặp một vị linh mục già tên là DỐT-SI-MA (Zossima). bà đã tâm sự về tình trạng đức tin của bà như sau: “Thưa cha, kỳ này con thường hoài nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Không biết Người có quan tâm đến hết mọi loài do Người dựng nên, trong đó có con hay không? Sau khi chết rồi con sẽ đi đâu? Ngoài thế giới đời này còn có đời sau không?…” Vị linh mục già chăm chú nghe bà nói và cuối cùng ông đã trả lời rằng: “thực ra chẳng có cách nào chứng minh cụ thể về những điều mà bà đang hoài nghi kia. Tuy vậy tôi đề nghị bà hãy áp dụng một phương pháp giúp bà luôn vững tin vào những chân lý ấy”. Bà lão ngạc nhiên hỏi: “Thưa cha, bằng cách nào vậy?” Vị linh mục liền đáp: “Bằng tình yêu. Phải, Bà hãy yêu thương người khác cách thành thật. Càng yêu thương người khác bao nhiêu thì bà lại càng vững tin vào Thiên Chúa bấy nhiêu và sẽ tin vào đời sau hơn. Càng yêu nhiều, thì đức tin của bà càng lớn lên, và các sự ngờ vực kia cũng tự nhiên tan biến hết. Đấy là một phương pháp đã được nhiều người áp dụng và tất cả đều chứng thực là rất hữu hiệu để củng cố đức tin”.
3. SUY NIỆM
Một người đàn bà ngoại giáo Ca-na-an có đứa con gái bị quỷ ám đã đi tìm Đức Giê-su để xin Người chữa cho con gái bà lành bệnh. Nhờ có đức tin mạnh mà bà đã được Người ban cho như ý. Vậy để lời cầu xin của chúng ta xứng đáng được Chúa chấp nhận, chúng ta cần phải cầu nguyện với lòng tin như thế nào?
- CẦN CÓ MỘT ĐỨC TIN TRƯỞNG THÀNH: Người đàn bà này đã kêu to lên để xin Đức Giê-su thương cứu con gái bà đang bị quỷ ám. Bà nói: “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi ! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm !” Nhưng Đức Giê-su im lặng không đáp lại một lời ! (22-23). Thực ra không phải Người thờ ơ lãnh đạm trước nỗi khổ đau của người khác. Nhưng Người muốn thử thách để xem đức tin của bà mạnh yếu thế nào? Nếu bà không kêu xin nữa thì đức tin nơi bà chỉ là tin vụ lợi: “Tin Chúa để được Người ban ơn như ý !” như người ta thường nói: “Theo đạo lấy gạo mà ăn”; “Cúi đầu lạy Chúa Ba Ngôi. Cho tôi được vợ tôi thôi nhà thờ !”. Nhiều khi chúng ta cũng gặp phải sự im lặng của Chúa như thế. Khi ấy, chúng ta có hồ nghi sự hiện hữu của Chúa và tự hỏi: “Thiên Chúa có hiện hữu hay không? Ngài có nghe thấy lời cầu xin của tôi không? Có nhìn thấy những khó khăn của tôi và sẵn sàng ra tay cứu giúp không?”.
- CẦN CÓ MỘT ĐỨC CẬY VỮNG VÀNG: Người đàn bà này đã không ngã lòng trông cậy dù bị Đức Giê-su giả điếc làm ngơ. Bà luôn vững tâm và kiên trì kêu xin Người cứu giúp: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi !” (23b-25) Cuối cùng bà đã được như ý. Nhiều tín hữu chúng ta khi cầu xin mà không được nhậm lời, thì liền chán nản ngã lòng trông cậy, không cầu nguyện nữa và bắt đầu “hữu sự vái tứ phương” là chạy đến với thầy bói, thầy ngải hay làm những điều mê tín dị đoan khác….
- MỘT ĐỨC TIN KHIÊM TỐN VÀ PHÓ THÁC: Nghe Đức Giê-su trả lời: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”, bà ta thưa: “Thưa ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Bà sằn sàng chịu đựng những lời miệt thị của người Do Thái, vì họ coi dân ngoại như loài chó. Chính sự khiêm tốn ấy khiến bà được Chúa yêu mến. Như vậy, tin không phải là cầu xin để đòi Chúa ban theo ý mình, nhưng là kiên nhẫn và vững lòng cậy trông, phó thác cho Chúa quan phòng định liệu.
4. THẢO LUẬN
1) Khi gặp tai ương họan nạn, bạn thường cầu xin với Thiên Chúa, với Chúa Giê-su hay với Đức Mẹ và các thánh làm phép lạ? 2) Qua kinh Lạy Cha, bạn thấy lời cầu nguyện do chính Đức Giê-su dạy có những đặc điểm nào? 3) Từ nay bạn quyết tâm sẽ cầu nguyện ra sao từ khi thức dậy ban sáng đến lúc đi ngủ ban đêm?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA CHA NHÂN ÁI. Con xin cảm tạ Cha vì biết bao hồng ân Cha đã đổ xuống trên con. Rất nhiều ơn Cha ban mà con cứ tưởng là chuyện tự nhiên như: khí trời con thở, cơm bánh con ăn, áo quần con mặc, đồ dùng con sử dụng… Thế mà con lại đau khổ khi không được Cha ban theo điều con xin, hay những khi Cha để con gặp phải những sự rủi ro trái ý. Con đã quên rằng đời con luôn được Cha bao bọc bằng muôn ngàn hồng ân lớn lao hồn xác.
- LẠY CHA. Con xin cảm tạ Cha vì những gì Cha đã không ban, vì con tin chắc rằng Cha biết điều ấy có hại cho phần rỗi đời đời của con, hoặc vì Cha muốn ban nhiều ơn khác có ích cho phần rỗi đời đời của con hơn. Xin cho con luôn vững tin vào tình thương quan phòng của Cha như gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh. Nhờ đó khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại, khi đuợc may lành như ý cũng như khí gặp phải những sự trái ý cực lòng… Xin cho con luôn biết cậy trông và phó thác trọn vẹn nơi tình thương quan phòng của Cha.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
 
Từ khóa:

nhưng mà, lòng tin

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận