Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng CN XXI

Đăng lúc: Thứ sáu - 22/08/2014 21:09 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng
Chúa Nhật XXI thường niên – năm A

Lời Chúa: Is 22,19-23; Rm 11,33-36; Mt 16,13-30
***************
MỤC LỤC
1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: Đức Giêsu và Phêrô
2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm Inhaxiô Hồ Thông
3. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt: Phêrô tuyên tín và nhận quyền tối cao
4. Chú giải của Noel Quession
5. Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
6. Chìa khóa Nước Trời (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
7. Tin vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
8. Đá tảng đức tin (JM. Lam Thy ĐVD.)
9. Hãy xây dựng Giáo Hội bằng những viên đá sống động (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
10. Hội Thánh của Chúa (ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt)
11. Phần quan trọng của cơ thể (Lm Jos. Tạ Duy Tuyền)
12. Đi sau Chúa (Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
13. Đức Kitô, Ngài Là Ai? (Lm. Nguyễn Trung Tây)
14. Ngài là Đức Kitô! (Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
15. Thầy là ai? (R. Veritas)
16. Trụ cột của đức tin (Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
17. Chức vụ và Trách nhiệm (Trầm Thiên Thu)
18. Chúa Giêsu chờ câu trả lời của mỗi chúng ta (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)

19. Phêrô: Đá tảng đức tin của Hội Thánh (Lm. Đan Vinh)
20. Câu trả lời của Thánh Phêrô (P. Trần Đình Phan Tiến)
21. Bài giảng của Lm. Giuse Đinh Tất Quý
22. Trở nên Tảng Đá sống động (AM Trần Bình An)
23. Trở nên “đá tảng” xây dựng hội thánh tại gia (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)


A. BẢN VĂN
Bài đọc I (Is 22,19-23)
19 Đức Chúa phán những lời này với ông Sép-na, tể tướng triều đình : “Ta sẽ tống ngươi khỏi chức vụ, Ta sẽ đuổi ngươi khỏi địa vị.20 Ngày ấy, Ta sẽ gọi tôi tớ Ta là En-gia-kim, con của Khin-ki-gia-hu.21 Áo thụng của ngươi, Ta sẽ lấy mặc cho nó, cân đai của ngươi, Ta sẽ đem thắt cho nó, quyền bính của ngươi, Ta sẽ trao vào tay nó, nó sẽ là cha đối với cư dân Giê-ru-sa-lem và với nhà Giu-đa.22 Chìa khoá nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó. Nó mở ra thì không ai đóng được, nó đóng lại thì không ai mở được.23 Ta sẽ làm cho nó vững chắc như đinh đóng cột, nó sẽ nên như ngai vinh hiển cho nhà cha nó.”
Bài đọc II (Rm 11,33-36)
33 Thưa anh em, sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào ! Quyết định của Người, ai dò cho thấu ! Đường lối của Người, ai theo dõi được ! 34Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa ? Ai đã làm cố vấn cho Người ? 35 Ai đã cho Người trước, để Người phải trả lại sau ? 36 Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời ! A-men.
Tin Mừng (Mt 16,13-20)
13 Một hôm, khi Đức Giê-su đến miền Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng : “Người ta nói Con Người là ai ?” 14 Các ông thưa : “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ.”15 Đức Giê-su lại hỏi : “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” 16 Ông Si-môn Phê-rô thưa : “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” 17 Đức Giê-su nói với ông : “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. 18 Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết : anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. 19 Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời : dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy ; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” 20 Rồi Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Ki-tô.
[Mục Lục]

B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI VÀ SUY NIỆM

Bài 1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: ĐỨC GIÊSU VÀ PHÊRÔ
1- Ngữ cảnh
Với đoạn Tin Mừng này, chúng ta đi tới trung tâm của TM I. Lần đầu tiên Đức Giêsu hỏi các môn đệ về bản thân Người và Phêrô đã minh nhiên tuyên xưng tư cách Mêsia của Đức Giêsu. Câu trả lời vang lên như mộtđiểm tới và như hoa quả của hoạt động trước đây của Đức Giêsu. Đồng thời câu trả lời cũng là tiền đề cho nhiệm vụ mà Người sẽ ký thác cho Phêrô. Toàn bản văn là chứng từ duy nhất về lập trường lạ lùng và về uy quyền của Đức Giêsu.
Đây cũng là lần đầu tiên Đức Giêsu loan báo các đau khổ và sự sống lại của Người. Cuối cùng, ngay sau đoạn văn này, bài tường thuật tập trung vào đề tài cuộc Khổ Nạn (x. 17,22-23; 20,17-19).
2- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Câu hỏi về chân tính Đức Giêsu (16,13-16):
a) Ý kiến của dân chúng (cc. 13c-14),
b) Ý của của các môn đệ (đại diện là Simôn Phêrô) (cc. 15-16);
2) Tuyên bố về tư cách của Phêrô (16,17-19);
3) Kết: Lệnh cấm (16,20).
Bản văn này có một chức năng quan trọng trong toàn tác phẩm. Không những nó nhắc lại các ký ức ở 14,2.5 (c. 14), 14,33 (c. 16) và 13,16-17 (c. 17), mà còn đặc biệt gợi tới bản văn căn bản nói về mạc khải của Con Người, 11,25-27. Bản văn này mở đầu không những cho 18,18 (c. 19b.c) và cho 23,13 (c. 19a), nhưng đặc biệt cảnh mạc khải trước Thượng Hội Đồng ở 26,61-64).
Bản văn này cũng liên kết chặt chẽ với đoạn 16,21-28, để tạo thành một cấu trúc chuyển hoán:
a) cc. 13-15;
b) cc. 16-19
c) c. 20
c’) cc. 21-22
b’) cc. 22-23
a’) cc. 24-28
3- Vài điểm chú giải
- Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống (16): Khi so với câu tuyên xưng ngắn ngủi trong Mc (8,29), các nhà chú giải có nhiều ý kiến về bản văn Mt: (a) Mt đã tuyên xưng thần tính của Đức Giêsu (Benoît); (b) Mt chỉ tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia mà thôi; (c)Mt đã nối dài lời tuyên xưng là để tránh những âm vang quân sự chính trị của danh hiệu Mêsia (Viviano). Cũng khó mà chọn hẳn ý kiến nào, bởi vì cũng rất có thể lời tuyên xưng lúc đầu chỉ nói về Đấng Mêsia (như Mc 9,29 và Lc 9,20), đã được “đọc lại” dưới ánh sáng cuộc Phục Sinh và diễn giải theo chiều hướng mộtlời công bố về thần tính của Đức Giêsu. Ngày hôm nay, chúng ta hoàn toàn có thể và phải hiểu theo nghĩa này.
- không phải phàm nhân (17): dịch sát là “thịt và máu”. Đây là mộtkiểu nói Híp-ri để chỉ các tài nguyên của con người tự nhiên, các sức lực riêng của con người
- Phêrô, nghĩa là Tảng Đá (18): Ta hiểu được kiểu chơi chữ này do biết từ A-ram gốc làkepha ở nam tính.
- Hội Thánh (18): Từ ngữ Hy Lạp ekklêsia chưa có tất cả ý nghĩa định chế như từ ngữ “Hội Thánh” sau này. Do đó, từ Hội Thánh dù được dùng để dịch từ ekklêsia, không cung cấp ý nghĩa nguyên thủy cho từ ekklêsia. Hầu chắc ekklêsia dịch từ cụm từ Híp-ri qahal Yhwh, mà Bản LXX diễn ra là ekklêsia tou theou (x. Cv 7,38). Cộng đoàn Kitô hữu là Israel chân chính đã nên hiện thực (x. 10,1.5), là cuộc quy tụ dân tuyển chọn của thời cuối cùng.
- chìa khóa Nước Trời (19): Ta nhớ đến Is 22,22 trong đó nhắc lại lời Thiên Chúa nói là Ngài sẽ đặt chìa khóa trên vai Engiakim để ban cho ông quyền mở và đóng cửa vào hoàng cung, tức quyền cho phép hoặc ngăn cản nhà vua ra vào. Trong sách Kh (3,7), chính Đức Giêsu tự giới thiệu như là Đấng nắm chìa khóa nhà Đavít. “Nước Trời” là mộtcông thức Mtsong song với ekklêsia của câu trước. Đây vẫn là mộtthực tại duy nhất nhưng nhìn theo những trương độ khác. Nước Trời vượt quá các biên cương (lịch sử) của ekklêsia; đây không phải là mộtđịnh chế mà là sự thể hiện ơn cứu độ.
ràng buộc và tháo cởi (19): Đây là ngôn ngữ của các trường phái kinh sư. “Ràng buộc hoặc tháo cởi” có nghĩa là đảm nhận mộtnhiệm vụ ngăn cấm hoặc cho phép về những điểm còn gây tranh cãi trong giáo huấn chính thức. Hai động từ này cũng có nghĩa là tuyên bố mộtgiáo thuyết là đúng hay sai lạc, một kiểu thực hành luân lý là hợp pháp hay không hợp pháp. Họa hoằn lắm công thức này mới có nghĩa là loại trừ khỏi cộng đoàn hoặc nhận vào lại.
4- Ý nghĩa của bản văn
* Câu hỏi về chân tính Đức Giêsu (13-16)
Khi đến miền Xêdarê Philípphê, Đức Giêsu không xin các môn đệ cho ý kiến về Bài Giảng trên núi hoặc về phần nào đó của công trình Người; Người hỏi họ là họ nghĩ gì về bản thân Người. Câu hỏi đã cho thấy rằng đối với Đức Giêsu, điểm này có tầm quan trọng quyết liệt. Người muốn đưa các ông đến chỗ hiểu biết rõ ràng về Người và mộtlời tuyên xưng đức tin không mập mờ vào Người. Tất cả ý nghĩa củasự hiểu biết này tuỳ thuộc Người là ai. Ở tại trung tâm, ta không thấy lời loan báo về Người, nhưng có bản thân Người.
Ngay dân chúng cũng có mộtý kiến cao trọng về Người, nhưng không nhận ra vị trí đặc biệt của Người. Nếu Người chỉ là mộtngôn sứ, thì Người là mộtngôn sứ giữa biết bao vị khác: trước Người, đã có nhiều vị đến rồi, và sau Người sẽ có thể có nhiều vị khác đến nữa. Ngược lại, Phêrô nhận biết tư cách của Đấng hoàn toàn đặc biệt đối với loài người và tương quan của Đấng hoàn toàn đặc biệt với Thiên Chúa. Trong tư cách Mêsia, Đức Giêsu là Vị Vua và Mục Tử duy nhất, cuối cùng và vĩnh viễn của dân Israel, đã được Thiên Chúa cử đến để ban cho dân này và toàn thể nhân loại sự sống dồi dào. Trong tư cách là Con, Người sống với Thiên Chúa mộttương quan duy nhất, với đặc điểm là sự hiểu biết hỗ tương và sự bình đẳng với nhau (x. 11,27). Vị Thiên Chúa ấy là vị Thiên Chúa hằng sống, vị Thiên Chúa duy nhất chân thật và thực hữu, là sự sống nơi chính mình, đã tạo thành mọi sự sống và đã chiến thắng sự chết bằng quyền lực của Ngài. Là Đức Vua và Mục Tử, Thiên Chúa phải dấn thân phục vụ sự sống của dân Ngài. Phêrô nhận biết Đức Giêsu là Đấng Mêsia có liên hệ mật thiết với chính quyền lực sự sống, với Thiên Chúa hằng sống.
* Tuyên bố về tư cách của Phêrô (17-19)
Do lời tuyên xưng ấy, Simôn được tuyên bố là có phúc. Đức Giêsu ngỏ lời với ông bằng cách gọi tên và tên họ ông, tức là thể theo đúng thực tại nhân loại và nguồn gốc của ông, và tỏ cho ông biết ân ban phi thường đã làm cho ông có thể tuyên xưng như thế: chính Cha trên trời đã ban cho ông sự hiểu biết ấy (“mạc khải”, apekalypsen. Xem 11,27; 17,5); sự hiểu biết này, người ta không thể đạt tới bằng sức loài người (“thịt và máu”). Simôn không chỉ được Đức Giêsu kêu gọi (4,18t), mà còn được Chúa Cha tuyển chọn từ trước. Do đó, ông có phúc; ông có mọi lý do để vui lên.
Đức Giêsu ngỏ lời với Simôn bằng mộttên mới và loan báo mộtnhiệm vụ mới. Người gọi ông là “Phêrô”, nghĩa là tảng đá. Ở Ga 1,42 và trong các thư Phaolô, tên này có dạng gốc A-ram là “Kêpha”. Tên này là mộtsáng tạo mới của Đức Giêsu. Như người cha xác thịt đặt tên cho con, Thiên Chúa hoặc mộtngười có quyền thế có thể ban mộttên mới cho mộtngười đã đi vào một cuộc sống mới do một nhiệm vụ mới (x. St 17,5.15; Ds 13,16; 2 V 24,17). Với lời tuyên xưng do Chúa Cha ban và với mộtnhiệm vụ mới do Đức Giêsu trao, có thể nói mộtcuộc sống mới đã bắt đầu với Simôn. Đức Giêsu trong tư cách Đức Chúa ban cho ông mộttên liên hệ đến bản chất của nhiệm vụ của ông.
Nhiệm vụ này được mô tả với ba hình ảnh. (1) Phêrô là tảng đá, trên đó Đức Giêsu sẽ xây dựng Hội Thánh Người (c. 18). Hội Thánh, cộng đoàn những người tin vào Đức Giêsu, diễn tả cùng mộtlời tuyên xưng như Phêrô, ở đây được ví với mộttòa nhà. Đức Giêsu sẽ dựng lên tòa nhà, nhằm quy tụ các tín hữu Người. Nền móng của tòa nhà này là đích thân Phêrô, như mộtcon người sống, đã được Thiên Chúa ban cho lời tuyên xưng chân thật. Ông phải cung cấp sự chắc chắn và bền bỉ cho cộng đoàn các tín hữu. Với cộng đoàn này, Đức Giêsu hứa ban cho sự bền bỉ trường tồn: quyền lực sự chết và sự tàn tạ sẽ không chạm tới cộng đoàn này được.
Với hình ảnh (2) các chìa khóa (c. 19), Đức Giêsu không muốn nói rằng Phêrô được giao cho nhiệm vụ giữ cửa trời, nhưng được đặt như là người quản lý thay mặt chủ nhà và hành động theo sự ủy quyền của ông chủ (x. Is 22,22). Trong cộng đoàn các tín hữu, ông phải hành động thay cho Đức Chúa; (3) ông phải ràng buộc và tháo cởi (c. 19b); thậm chí ông có quyền và có nhiệm vụ tuyên bố điều gì bị cấm và điều gì được phép đón vào trong cộng đoàn Hội Thánh. Trong Bài Giảng trên núi và trong các giáo huấn khác, Đức Giêsu chỉ bận tâm tỏ bày ý muốn của Thiên Chúa và trình bày cho thấy những cách sống cần thiết để được vào Nước Trời (x. 5,20; 7,21). Phêrô phải tiếp tục nhiệm vụ này. Giáo huấn của ông đòi hỏi đến mức có thể loại trừ khỏi cộng đoàn những ai không theo và có thể đưa trở lại cộng đoàn những ai hối lỗi. Đức Giêsu không bỏ mặc cộng đoàn các tín hữu, nhưng ban cho cộng đoàn này mộtngười lãnh đạo có uy quyền lớn lao.
* Kết: Lệnh cấm (20)
Niềm tin của đám đông rõ ràng còn phiến diện, nhưng niềm tin của các tông đồ cũng chưa hoàn chỉnh. Nhất là trong Mc (“Thầy là Đức Kitô”) và trong Lc (“Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa”), niềm tin ấy dường như còn bám rễ vào mộtquan niệm Thiên Sai ái quốc và duy quốc gia. Do đó đến cuối Đức Giêsu đã buộc các ông phải im lặng, không được nhắc đến các khẳng định ấy (Mc 8,30; Lc 9,21). TM Mt cũng có lệnh cấm tương tự, bởi vì mộtlời tuyên xưng đúng đắn vẫn không đảm bảo cho mộtđức tin trung thực. Và điều này được chứng minh ngay sau đó, qua phản ứng của Phêrô khi nghe Đức Giêsu loan báo Thương Khó (x. 16,22).
+ Kết luận
Do sự kiện là qua trung gian Phêrô, các tông đồ khám phá ra ý nghĩa của danh xưng huyền bí “Con Người” và nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia siêu việt, các ông đã tách ra khỏi những người Do Thái không tin, các ông đã trở thành phần “Dư tồn” từng được các ngôn sứ loan báo và hứa sẽ được nhận ơn cứu độ. Từ đó, Đức Giêsu có thể giao phó cho Phêrô quyền “ràng buộc” và “tháo cởi”. Do mộtsự hạ cố đầy ưu ái của Thiên Chúa, quyền chìa khóa này dựa trên đức tin của Phêrô, vừa là người có tội vừa là người có đức tin.
5- Gợi ý suy niệm
1. Hội Thánh, cộng đoàn các tín hữu, vẫn thuộc về Đức Kitô; chính Người quy tụ, xây dựng, điều khiển, còn Phêrô là tảng đá trên đó các yếu tố khác nhau của Hội Thánh được thu gom lại và kết cấu hài hòa. Nhưng chính vì thế, vai trò của Phêrô rất quan trọng. Trong Hội Thánh trần thế, là con đường đưa tới Nước Trời, không phải mọi sự đều tinh trong hoặc đã hoàn tất. Phêrô có vai trò phục vụ sự biện phân. Chính ông phê phán là các thành viên Hội Thánh đang sống phù hợp với dự định của Đức Kitô hay không.
2. Bảo rằng mình có thể đi tới với Đức Kitô không cần qua Hội Thánh, bảo rằng mình có thể trực tiếp tự mình gặp Đức Giêsu không cần nhờ đến Giáo Hội, là liều lĩnh. Làm như thế là xây dựng cho mình mộtĐức Kitô theo tầm mức của mình, là tưởng tượng ra mộtĐức Chúa cho vừa vặn với lòng dạ mình, là từ khước Đức Giêsu như Người đã tự mạc khải ra cho chúng ta.
3. Quyền chìa khóa được ban cho các mục tử là để phục vụ việc đi theo Đức Kitô, trở thành môn đệ của Người, chứ không phải là quyền sinh sát trên đoàn chiên. Quyền này được trao ban để phục vụ sự sống, chứ không phải để ép buộc đoàn chiên phải đi theo sở thích hoặc ngẫu hứng của riêng mình. Quyền bính là phương tiện phục vụ sự tăng trưởng (auctoritas, do động từ augere có nghĩa là “làm lớn lên”).
4. Hội Thánh là thực tại nhỏ bé nhất, nghèo hèn nhất, yếu đuối nhất, vì quy tụ quanh mộtmáng cỏ và mộtcây thập giá. Nhưng Hội Thánh cũng là thực tại cao cả nhất, giàu có nhất, vinh hiển nhất, mạnh mẽ nhất, bởi vì con trẻ sinh ra trong máng cỏ, con người chịu đóng đinh trên đồi Sọ, đã sống lại, và đang hiển trị trên muôn loài muôn vật.
5. Trong buổi tiếp kiến ngày 7-6-2006, Đức giáo hoàng Bênêđitô XVI đã dạy: “Anh là Phêrô, và trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy… Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì; trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”. Ba ẩn dụ Đức Giêsu vận dụng rất rõ ràng: Phêrô sẽ là nền móng, đá tảng, trên đó tòa nhà Hội Thánh dựa vào; ngài sẽ có chìa khóa Nước Trời để mở ra hay đóng lại cho người nào mà ngài thấy dường như là đúng; cuối cùng, ngài có thể cầm buộc hoặc tháo cởi, theo nghĩa là ngài có thể quy định hoặc cấm đoán điều gì ngài nghĩa là cần thiết đối với đời sống Hội Thánh, hiện là và vẫn là Hội Thánh của Chúa Kitô.
Sau cuộc Phục Sinh, ta cũng thấy sự cao trọng ấy mà Đức Giêsu đã muốn gán cho Phêrô (Mc 16,7; Ga 20,2.4-6)… Trong số các tông đồ, Phêrô sẽ là chứng nhân đầu tiên về cuộc hiện ra của Đấng Phục Sinh (Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Vài trò của ngài, được cương quyết nêu bật (Ga 20,3-10), ghi dấu sự nối tiếp giữa tư cách cao trọng ngài đã có trong nhóm các tông đồ và sự cao trọng ngài sẽ tiếp tục có trong cộng đoàn sinh ra với các biến cố Phục Sinh… Nhiều bản văn chìa khóa liên hệ đến Phêrô có thể đưa trở lại khung cảnh là Bữa Tối cuối cùng, trong đó Đức Kitô ban cho Phêrô tác vụ là củng cố anh em (Lc 22,31t)…
Việc đặt vị trí tối thượng của Phêrô vào khung cảnh là Bữa Tối cuối cùng, vào lúc thiết lập Bí tích Thánh Thể, Cuộc Vượt Qua của Chúa, cho thấy thêm nữa ý nghĩa tối hậu của vị trí trí tối thượng ấy: cho mọi thời, Phêrô phải là người gìn giữ sự hiệp thông với Đức Kitô. Ngài phải đưa đến sự hiệp thông với Đức Kitô. Ngài phải quan tâm để tấm lưới đừng bị rách (Ga 21,11) và nhờ thế, sự hiệp thông phổ quát có thể trường tồn. Chỉ nhờ ở cùng với nhau, chúng ta mới ở với Đức Kitô, là Chúa của mọi người. Như thế trách nhiệm của Phêrô là bảo đảm sữ hiệp thông với Đức Kitô bằng tình bác ái của Đức Kitô, bằng cách đưa đến chỗ thực hiện tình bác ái này trong đời sống mỗi ngày. Chúng ta hãy cầu nguyện để cho vị trí tối thượng của Phêrô, được ký thác cho những con người nghèo hèn, có thể được thực thi theo nghĩa nguyên thủy như Chúa muốn, và như thế để cỏ thể ngày càng được nhận biết theo nghĩa đúng dắn bởi các anh em chưa hoàn toàn hiệp thông với chúng ta”.
[Mục Lục]


Bài 2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm Inhaxiô Hồ Thông
Chủ đề của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này có thể được gọi là cuộc trao ban quyền hành qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa.
Is 22: 19-23
Bản văn I-sai-a gợi lên việc tấn phong một tổng giám quản hoàng cung của vương quốc Giu-đa, viên quan nầy sẽ thực hiện quyền hành qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa.
Mt 16: 13-20
Tin Mừng tường thuật Đức Giê-su tấn phong thánh Phê-rô làm lãnh đạo Giáo Hội của Ngài cũng qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa.
Rm 11: 33-36
Trong đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Rô-ma, bài thánh thi ca ngợi sự khôn ngoan đầy lòng xót thương của Thiên Chúa kết thúc phần đạo lý của bức thư nầy.
BÀI ĐỌC I (Is 22: 19-23)
Bài đọc I nầy hình thành một sự đối chiếu tuyệt vời với Tin Mừng hôm nay. Ngôn sứ I-sai-a gợi lên chính Thiên Chúa đích thân chọn một tổng giám hoàng cung của vương quốc Giu-đa và trao ban cho viên quan nầy tước vị và quyền quản trị hoàng cung qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa. Thánh Mát-thêu tường thuật việc Đức Giê-su chọn thánh Tông Đồ Phê-rô làm vị lãnh đạo tương lai của Giáo Hội Ngài, cũng qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa.
Biến cố mà ngôn sứ I-sai-a thuật lại chắc chắn được định vị trước cuối thế kỷ VII BC, nghĩa là trước khi những cuộc tấn công cuối cùng của quân đội Át-sy-ri tàn phá vương quốc Giu-đa. Chính Thiên Chúa sẽ truất quyền ông Sép-na, “tổng giám hoàng cung” đương nhiệm, mà trao cho ông Ê-li-a-kim, người Thiên Chúa gọi là “tôi tớ” của Ngài. Câu chuyện nầy có hai đặc trưng: lễ tấn phong và hậu cảnh Mê-si-a.
1. Lễ tấn phong:
“Áo thụng của ngươi, Ta sẽ lấy mặc cho y; cân đai của ngươi, Ta sẽ đem thắt cho y; quyền bính của ngươi, Ta sẽ trao vào tay y”: Xem ra vị quyền cao chức trọng nầy mặc một phẩm phục đặc biệt, cân đai xác định tước vị và quyền hành của ông: “Đối với dân cư Giê-ru-sa-lem và nhà Giu-đa, y sẽ là một người cha”: Chung chung, tước hiệu “Cha” dành riêng cho vua, “vị cha của dân tộc”. Chắc chắn, ở đây, tước hiệu này muốn đối lập người được tiến cử với vị tiền nhiệm, kẻ đã chỉ nghĩ đến tư lợi của mình. “Ta sẽ đặt chìa khóa nhà Đa-vít trên vai y”: Cử chỉ nầy tương tự với việc đặt vương trượng trên vai của vị quân vương vào ngày đăng quang của mình. Chìa khóa đặt trên vai là dấu chỉ quyền bính của vị quan nầy. Với tư cách là tổng giám hoàng cung, ông có quyền ấn định giờ mở và đóng cửa của hoàng cung và giới thiệu những khách viếng thăm. Chính ở đây mà bản văn mặc lấy chiều kích Mê-si-a.
2. Hậu cảnh Mê-si-a:
Trong ánh sáng của sự giải thích theo chiều hướng Mê-si-a, phần cuối của bài thơ mặc lấy một chiều kích khác. “Ta sẽ đặt chìa khóa nhà Đa-vít trên vai y: y mở ra thì không ai đóng được, y đóng lại thì không ai mở được. Ta sẽ làm cho y vững chắc như đinh đóng cột, và y sẽ làm cho gia tộc của mình được rạng rỡ vinh quang.” Những biểu thức nầy được hiểu nếu nhân vật được tấn phong là một vị hoàng tử. Nhưng phải chăng đây thật sự là một vị“hoàng tử thuộc dòng dõi vua Đa-vít”? Một truyền thống đã giải thích hậu duệ vua Đa-vít này theo nghĩa Mê-si-a. Quả thật, sách Khải Huyền đã giải thích bản văn theo truyền thống nầy, khi áp dụng vào Đức Kitô: “Đây là lời của Đấng Thánh, Đấng Chân Thật, Đấng giữ chìa khóa vua Đa-vít. Người mở ra thì không ai đóng lại được, Người đóng lại thì không ai mở ra được” (Kh 3: 7). Theo sau thánh Gio-an, các Giáo Phụ cũng đã giải thích lời sấm của ngôn sứ I-sai-a theo viễn cảnh Mê-si-a nầy.
BÀI ĐỌC II (Rm 11: 33-36)
Bài thánh thi nầy tôn vinh sự khôn ngoan khôn ví của Thiên Chúa kết thúc phần trình bày đạo l‎ý của thư gởi tín hữu Rô-ma.
1. Ơn Cứu Độ cho người Do thái:
Sau khi đã bàn về ơn cứu độ của dân ngoại, thánh Phao-lô gợi ra ơn cứu độ của dân Do thái. Những nhận định nầy đã đem lại cho thánh nhân một sự thanh thản: sự bất phục tùng của dân Ít-ra-en lại phục vụ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa dành chỗ cho dân ngoại. Đến phiên mình, dân ngoại sẽ mở ra những con đường đầy lòng xót thương cho dân Ít-ra-en.
2. Niềm cảm tạ tri ân:
Từ đó, làm thế nào không cất cao lời ca ngợi niềm hy vọng chan chứa trong niềm hân hoan phấn khởi được chứ? Chính căn cứ trên toàn bộ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, vị tông đồ diễn tả lòng cảm mến tri ân của mình.
Bản văn của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị âm vang trong tâm trí của thánh nhân: “Ai biết được tâm tư của Chúa, hay có ai làm cố vấn cho Người? Ai đã cho Người trước, để Người phải trả lại sau?” (Is 40: 13). Thánh vịnh gia cũng đã ca ngợi sự khôn ngoan cao vời khôn ví của Thiên Chúa: “Kỳ diệu thay, tri thức siêu phàm, quá cao vời, con chẳng sao vươn tới!.. Lạy Chúa, con thấy tư tưởng Ngài khó hiểu biết bao, tính chung lại, ôi nhiều vô kể” (Tv 139: 6, 17).
3. Lời chúc tụng:
Thánh Phao-lô hoàn tất lời ngợi ca nầy với một cung giọng mang sắc thái phụng vụ: “Xin tôn vinh Chúa mãi muôn đời. A-men.” Lời tán tụng nầy, câu “Vinh Chúc” nầy với những đặc ngữ chắc chắn là tự phát, như nhiều câu tán tụng khác điểm xu‎yết các thư của thánh nhân. Vinh Tụng Ca nầy cũng có thể được một kinh nguyện nào đó của Giáo Hội tiên khởi khơi nguồn cảm hứng cho thánh nhân.
TIN MỪNG (Mt 16: 13-20)
Vì người Biệt Phái và kinh sư quấy nhiễu, vua Hê-rô-đê ngờ vực và đám đông dân chúng không hiểu, Đức Giê-su hơn bao giờ hết phiêu bạt đây đó. Ngài tìm những nơi yên tỉnh để được sống riêng tư thân thiết với các môn đệ Ngài và chú tâm huấn luyện các ông. Vì thế, nhiều lần Ngài vượt qua biên giới Ga-li-lê và ẩn mình một thời gian ở xứ Phê-ni-xi, trong miền Tia và Xi-đôn. Bấy giờ Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp, một trong những địa hạt phía Bắc Pa-lét-tin không thuộc quyền của vua Hê-rô-đê An-ti-pa, nhưng tiểu vương Phi-líp, một nhà cai trị mực thước và khôn ngoan. Chính tiểu vương Phi-líp nầy đã cho xây cất thành phố mà ông đặt tên Xê-da-rê để kính nhớ hoàng đế Âu-gút-tô. Để tránh nhầm lẫn với thành phố lớn Xê-da-rê duyên hải, thành phố nầy được gọi “tiểu Xê-da-rê”hay “Xê-da-rê Phi-líp”. Trong lãnh địa nầy, Đức Giê-su có thể bình yên đi lại. Ngài đồng hành với các môn đệ. Chính trong khung cảnh tươi vui và thanh bình nầy, Ngài bắt chuyện với các ông.
Thánh Mát-thêu nói với chúng ta Đức Giê-su vừa đi vừa chuyện trò thân mật với các ông trong khi thánh Lu-ca lại đặt câu chuyện nầy vào trong một bối cảnh khác: “Hôm ấy, Đức Giê-su cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người.” (Lc 9: 18). Trong Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca không bao giờ quên kể ra việc Đức Giê-su cầu nguyện trong những giây phút quan trọng.
1. Thăm dò dư luận
Trước khi đề cập đến cuộc chuyện trò cách chi tiết hơn, cần thiết phải nhắc lại hai sự kiện vừa mới xảy ra trước đây. Sự kiện thứ nhất được chỉ một mình thánh Gio-an tường thuật: sau bài diễn từ bánh hằng sống, nhiều môn đệ lìa bỏ Ngài vì họ cho rằng “Lời nầy chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6: 60). Lúc đó, Đức Giê-su buồn rầu quay về Nhóm Mười Hai và hỏi họ: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” Ông Phê-rô liền đáp:“Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.” (Ga 6: 67-69).
Tiếp đó, Đức Giê-su thực hiện hai phép lạ cùng một lúc: đi trên mặt biển và dẹp yên bảo tố, hai phép lạ này đặc biệt dành riêng cho các môn đệ và chỉ cho các môn đệ mà thôi. Thánh Phê-rô là người đầu tiên nhận ra Đức Giê-su và là người duy nhất được Thầy cho phép lao mình xuống biển dậy sóng để gặp Ngài. Sau cùng tất cả đều bái lạy Ngài và tuyên xưng:“Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa” (Mt 16: 33). Đức tin trong những giây phút đầy cảm kích còn động lại những gì trong lòng các môn đệ Ngài? Các môn đệ hiểu gì khi họ tuyên xưng Ngài là “Con Thiên Chúa”? Vì thế, đây là giây phút thuận tiện để mà Đức Giê-su dò xét mức độ đức tin của họ vào Ngài.
Trước hết, Ngài thăm dò dư luận quần chúng về Ngài ngỏ hầu giúp các môn đệ hiểu biết hơn rằng đức tin của họ phải thoát khỏi thế kiềm kẹp của dư luận sai lầm như thế nào. Kẻ thì nói Ngài là ông Gio-an Tẩy Giả. Ý tưởng thật lạ thường, nhưng nhắc độc giả nhớ rằng tiểu vương Hê-rô-đê nghi ngờ Đức Giê-su chính là ông Gio-an Tẩy Giả đã từ cõi chết sống lại (Mt 14: 1-2). Kẻ khác thì bảo Ngài là ngôn sứ Ê-li-a, bởi vì theo truyền thống, ngôn sứ Ê-li-a phải trở lại để chuẩn bị cuộc giáng lâm của Đấng Mê-si-a. Lòng tin nầy dựa trên sấm ngôn của ngôn sứ Ma-la-khi: “Đây Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi, trước khi Ngày của Ta đến, ngày vĩ đại và kinh hoàng” (Ml 4: 5). Có người lại cho Ngài là ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất trong ba thánh ký nhất lãm nêu tên ngôn sứ Giê-rê-mi-a trong câu chuyện nầy (x. Mt 16: 14; Mc 8: 28: Lc 9: 19). Sách Ma-ca-bê quyển thứ hai chứng thực rằng ngôn sứ Giê-rê-mi-a được xem như đấng che chở dân Chúa chọn và là đấng cầu bầu có hiệu quả nhất như ông Mô-sê xưa (2Mcb 15: 13-16; x. Xh 32: 11).
2. Lời tuyên xưng của thánh Phê-rô
Tuy nhiên, không phải dư luận quần chúng về Ngài mà Chúa Giê-su thực sự muốn biết khi hỏi các môn đệ của Ngài. Câu hỏi về dư luận quần chúng chỉ như là khúc dạo đầu cho một câu hỏi khác, còn quan trọng hơn nhiều, mà Đức Giê-su muốn dò hỏi từ chính các môn đệ Ngài: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Tất cả các môn đệ đều được hỏi, thánh Phê-rô trả lời nhân danh họ: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”“Đấng Kitô” là một tước hiệu được phiên âm từ tiếng Hy-lạp: “Christos” dịch sát từ tiếng Híp-ri: “Mê-si-a”, có nghĩa “Đấng Được Xức Dầu”. Trong các sấm ngôn Cựu Ước, tước hiệu này loan báo Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít được Thiên Chúa tuyển chọn để cứu độ dân Ngài. Còn trong cụm từ “Con Thiên Chúa hằng sống”“Thiên Chúa hằng sống” là biểu thức tiêu biểu Cựu Ước. Biểu thức nầy nhắc nhớ rằng Đức Chúa là Thiên Chúa hằng sống đối nghịch với các ngẫu tượng vô tri vô giác của dân ngoại. Như vậy, qua lời tuyên xưng nầy, thánh Phê-rô nhận ra vừa “tước vị Mê-si-a” vừa “tử hệ thần linh” của Đức Giê-su: Ngài không đơn giản chỉ là Đấng Mê-si-a phàm nhân thuộc dòng dõi vua Đa-vít được Thiên Chúa tuyển chọn và sai đi, nhưng còn là Đấng Mê-si-a có nguồn gốc thần linh. Như vậy lời tuyên xưng của thánh Phê-rô được ghi lại trong Tin Mừng Mát-thêu hôm nay là đầy đủ nhất so với Tin Mừng Mác-cô: “Thầy là Đấng Ki-tô” (Mc 8: 29) và Tin Mừng Lu-ca: “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa” (Lc 9: 20).
Đó là lý do tại sao chỉ duy Tin Mừng Mát-thêu ghi lại cho chúng ta rằng Đức Giê-su tán dương lời tuyên xưng đức tin nầy và nhận ra ơn linh hứng siêu nhiên mà thánh Phê-rô nhận được: “Chẳng phải xác thịt hay máu huyết mặc khải cho anh, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”. Kiểu nói “Xác thịt hay máu huyết” là cách nói thông thường trong văn chương kinh sư để diễn tả bản chất phàm nhân trong thân phận yếu đuối mõng dòn trái ngược với Thiên Chúa hằng sống. Như vậy, lời tuyên xưng của thánh Phê-rô: “Thầy là Đức Ki tô, Con Thiên Chúa hằng sống” không phải do thánh nhân khám phá, cũng không phải do loài người chỉ dạy, nhưng do Thiên Chúa mặc khải. Lời tuyên xưng này cũng đã được Đức Giê-su xác nhận và chứng thực khi chính Ngài công bố trước các môn đệ của Ngài mối liên hệ độc nhất vô nhị của Ngài với Thiên Chúa là Cha Ngài: “Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”. Vài ngày sau đó, Đức Giê-su sẽ dẫn thánh Phê-rô cùng với hai môn đệ khác, tham dự vào biến cố Biến Hình của Ngài căn cứ trên mặc khải ở Xê-da-rê Phi-líp.
3. Lễ tấn phong thánh Phê-rô:
Phần cuối của câu chuyện nầy, được gọi là lễ tấn phong Phê-rô cũng chỉ được gặp thấy tại Tin Mừng Mát-thêu, lại có một tầm quan trọng lớn lao đối với Giáo Hội. Khoa chú giải Công Giáo giải thích cuộc tấn phong của thánh Phê-rô có hiệu lực không chỉ riêng đối với vị thủ lãnh của các Tông Đồ, nhưng còn đối với những người kế vị thánh nhân, trong khi anh em Tin Lành chấp nhận chỉ riêng đối với một mình thánh Phê-rô, chứ không đối với những người kế vị thánh nhân.
“Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Đá, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Từ A-ram: “Képha” được dịch sang bản văn Hy lạp: “Petros”, nghĩa là “đá tảng”. Ấy vậy, từ A-ram “Képha” cũng như từ Hy-lạp “Petros” không bao giờ được dùng cho tên riêng, nhưng là một danh từ. Khi nâng danh từ “képha” lên đến tầm mức tên riêng của một người: “Anh là Képha (Petros: phiên âm: Phê-rô), trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”, một cách nào đó, Đức Giê-su đổi tên thánh nhân từ Si-mon sang Phê-rô. Theo truyền thống Do thái, việc đổi tên một người đồng nghĩa việc đổi mới người ấy, như vậy, một con người mới và một vận mệnh mới: Phê-rô sẽ là nền tảng bất khả chuyển lay trên đó Chúa Giê-su xây dựng Giáo Hội của Ngài.
“Quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”: dịch sát từ “cửa Âm Ty”, nghĩa là vương quốc của các vong nhân. Đức Giê-su chọn hình ảnh nầy để khẳng định tính chất vĩnh cửu của Giáo Hội. Chắc chắn ở đó có một sự ám chỉ đến một niềm tin rất phổ biến, theo đó tảng đá trên đó Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được xây dựng sẽ bịt kín lối vào cõi Âm Ty.
“Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời”. Hình ảnh nầy chúng ta đã gặp thấy trong bản văn của I-sai-a (Bài Đọc I): trao chìa khóa cho ai là trao cho người ấy vị thế và quyền lãnh đạo. Trong bản văn của I-sai-a, chìa khóa được trao cho vị tổng quản hoàng gia, ông có nhiệm vụ coi sóc và quản trị dinh thự hoàng gia. Cũng vậy, chìa khóa được trao cho thánh Phê-rô, vị tổng quản Giáo Hội, thánh nhân có nhiệm vụ coi sóc và quản trị Giáo Hội của Đức Kitô.
“Dưới đất, anh ngăn cấm điều gì, trên trời cũng ngăn cấm như vậy; dưới đất, anh cho phép điều gì, trên trời cũng cho phép như vậy.” “Ngăn cấm” và “cho phép” được dịch theo sát từ của bản văn là “buộc” và “tháo”. Trong Do thái giáo, các kinh sư thường sử dụng cặp từ đối lập: “buộc” và “tháo” khi áp dụng chúng vào những quyết định kỷ cương cũng như lãnh vực đạo lý, vì thế: “buộc” nghĩa là “bắt phải giữ” hay “ngăn cấm” và“tháo” nghĩa là “cho phép” hay “chuẩn miễn”. Giáo Hội cũng sử dụng theo cùng một cách như vậy, nhưng thêm vào đây một quy chiếu đặc thù hơn: tha thứ tội lỗi.
4. Quyền Chúa Giê-su trao cho thánh Phê-rô:
Để kết thúc buổi chia sẻ này, chúng ta nên đọc và hiểu đoạn Tin Mừng này một cách tinh tế, đừng vội đồng hóa lời tuyên xưng của thánh Phê-rô với con người của thánh nhân, bởi vì ngay sau câu chuyện này, Đức Giê-su đã quở trách nặng lời với thánh nhân khi thánh nhân tìm cách ngăn cản Ngài thực hiện ơn cứu độ cho muôn người qua cọn đường Thương Khó và Tử Nạn (Mt 16: 21-23). Vì thế, chính không phải con người của thánh nhân, nhưng lời tuyên xưng của thánh nhân mới là đá tảng vững chắc trên đó Đức Giê-su xây dựng Hội Thánh của Ngài mà ngay cả quyền lực tử thần cũng sẽ không thắng nổi.
Vì thế, không lạ gì trong các sách Tin Mừng, ngoài bản văn của thánh Mát-thêu, chúng ta còn gặp thấy hai bản văn khác nữa về quyền tối thượng của thánh Phê-rô. Trong Tin Mừng của thánh Lu-ca, vào buổi chiều Tiệc Ly, trước khi báo trước cho thánh nhân biết nội trong đêm nay thánh nhân sẽ chối thầy đến ba lần, Đức Giê-su nói với chỉ một thánh Phê-rô,:“Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh.” (Lc 22: 32). Theo bản văn này, thánh Phê-rô được trao quyền lãnh đạo của Giáo Hội Ngài vì hơn ai hết thánh nhân cảm nghiệm cách sâu xa ngay chính ở nơi bản thân mình, sự mõng dòn yếu đuối của mình qua ba lần chối Thầy và sự tha thứ vô hạn của Thầy đối với mình. Chỉ như thế, thánh nhân mới có thể cảm thông những yếu đuối của anh em mình và nâng đỡ đức tin của anh em mình trong những gian nan thử thách.
Trong câu chuyện của Tin Mừng Gioan, vào sáng sớm sương mờ của biển hồ Ti-bê-ri-a, Đấng Phục Sinh gặp gỡ các môn đệ của Ngài. Sau khi đã cho các ông một mẽ lưới cá lạ lùng và đã dọn sẵn cho các ông một bữa ăn trên bờ hồ để ấm lòng trong cái giá lạnh của một đêm quần quật thả lưới, xảy ra một cuộc đối thoại thật cảm động của Chúa Giê-su với chỉ một mình thánh Phê-rô. Trong cuộc đối thoại đó, Chúa Giê-su hỏi thánh Phê-rô ba lần cùng một câu hỏi: “Anh có mến Thầy không?”, và ba lần Chúa Giê-su trao quyền mục tử cho thánh nhân (Ga 21: 15-17). Như vậy thật rõ, quyền mà Chúa Giê-su trao cho thánh Phê-rô không là cai trị nhưng là ân cần chăm lo cho đoàn chiên của Ngài bằng trọn một tấm lòng yêu mến mà thánh nhân dành cho Thầy mình. Quả thật trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giê-su đã tự giới thiệu mình: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10: 11), khác với kẻ chăn chiên thuê: “Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy” (Ga 10: 12). Kẻ chăn chiên thuê mà Chúa Giê-su đề cập đến ở đây không ai xa lạ chính là giới lãnh đạo tôn giáo của Ít-ra-en, họ cũng đã được Thiên Chúa chọn và trao ban quyền chăm lo cho dân của Ngài. Nhưng Chúa Giê-su trách cứ họ khi gọi họ là kẻ chăn chiên thuê vì họ chỉ nghĩ đến tư lợi của riêng mình mà không sống chết với đoàn chiên mà Chúa ủy thác cho họ.
Có hiểu như thế, chúng ta mới có thể nhìn thấy cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội Chúa Ki-tô thật đẹp biết bao. Cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội được chính Đức Giê-su thiết lập không phải để cai trị nhưng để yêu thương và phục vụ. Ngay chính Tin Mừng Mát-thêu, Tin Mừng thuật lại cho chúng ta cuộc tấn phong thánh Phê-rô hôm nay, cũng ghi lại những lời tâm huyết mà Đức Giê-su muốn các môn đệ chân chính của Ngài phải khắc cốt ghi tâm: “Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20: 25-28).
[Mục Lục]


Bài 3. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt: PHÊRÔ TUYÊN TÍN VÀ NHẬN QUYỀN TỐI CAO
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Họ thưa: Có kẻ thì nói là Gioan Tẩy giả, nhóm khác: Elia”: Trong câu trả lời của các môn đồ, cái đập vào mắt trước tiên là sự tạp đa dư luận về Chúa Giêsu; tuy nhiên mớ dư luận này đều có chung một yếu tố mà ta chỉ gặp trong tư tưởng Do thái và tư tưởng Thánh Kinh: đó là không ai tin rằng Chúa Giêsu là một cá nhân đặc biệt tách rời với lịch sử Israel. Nhưng hết thảy đều nghĩ Người rất có thể là một sứ giả của Thiên Chúa, một kẻ nhắc lại và hoàn tất các lần can thiệp có tính cách lịch sử của Ngài trong quá khứ (Về Chúa Giêsu như là “ngôn sứ”, xin xem chú thích của BJ).
“Ta là ai “: Đừng mặc cho động từ là một nghĩa Hy lạp hay nghĩa hiện đại: Chúa Giêsu không chất vấn các môn đồ về yếu tính trường cửu của Người nhưng là về sứ mệnh lịch sử của Người đối với Thiên Chúa và dân Người, điều mà câu trả lời của Phêrô sẽ xác quyết, bản tính của Chúa Kitô, chính là cái mà Người có trách vụ chu tất ở trần gian để phục vụ Thiên Chúa và nhân loại.
“Con Thiên Chúa hằng sống”: Câu thêm này của Matthêu được các nhà chú giải lượng giá rất khác nhau. Một số người xem đấy là lời tuyên xưng thần tính của Chúa Giêsu (Ví dụ Benoil, trong chú thích của BJ), kẻ khác lại coi là một thành ngữ tương ứng với Đấng Messia. Ý kiến thứ nhất dựa trên các lý do như sau:
1/ Trong lúc các chỗ khác trong Matthêu, người ta gọi Chúa Giêsu là “Con Thiên Chúa” (Fils de Dieu) (4, 3; 8, 29; 14, 33; 27, 43.54) với ngụ ý đơn giản rằng Người là một hữu thể siêu việt thì ở đây Phêrô lại gọi Chúa Giêsu là “Người Con của Thiên Chúa” (Le Fils de Dieu), nên rõ ràng là qua đó ông muốn công bố nguồn gốc thần linh của Người.
2/ Câu Chúa Giêsu long trọng thừa nhận lời tuyên tín ấy sẽ khó hiểu nếu đây không phải là một lời tuyên xưng thần tính về phía Phêrô: điều này được xác quyết qua sự kiện Chúa Giêsu đã không thừa nhận như thế, khi các môn đồ tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa trong giai thoại đi trên mặt biển trước đây (14,33); trong giai thoại này, việc thiếu mạo từ trước chữ Con ‘fils de Dieu’ chứ không phải là ‘Le Fils de Dieu’ cho thấy cùng lắm nó chỉ là một xác quyết về thiên sai tính mà thôi.
3/ Có một trường hợp duy nhất khác trong Matthêu nơi ấy Chúa Giêsu tự gọi là “Người Con của Thiên Chúa” (Le fils de Dieu) câu trả lời lần này bị viên thượng tế xem là phạm thượng (26, 63).
4/ Ta không hiểu được tại sao một mặc khải của Chúa Cha mà chỉ giúp Phêrô tuyên tín được về tính cách thiên sai của Chúa Giêsu thôi (c.17).
5/ Người ta không bao giờ minh chứng thành ngữ “Con Thiên Chúa” là đồng nghĩa với “Đấng Mêsia” (Lagrange), nên do đó đừng quá vội vàng khẳng định Phêrô đã chỉ công bố thiên sai tính, chứ không phải thần tính của Chúa Giêsu.
Chắc hẳn còn nhiều lập luận khác bênh vực ý kiến thứ nhất này, nhưng trình bày tất cả ở đây thì sợ đài quá.
Ý kiến thứ hai dựa trên các lý do như sau:
1/ Độc thần giáo đã quá bén rễ sâu vào não trạng Do thái nên chỉ có việc sống lại thân xác của Chúa Giêsu và việc tuôn ban Thánh Thần trong ngày Lễ Ngũ Tuần mới có thể cho phép các môn đồ nghĩ đến thần tính Người theo nghĩa mạnh của từ ngữ, nhưng ngay cả lúc ấy việc đào sâu thần học cũng mất nhiều thời gian mới tìm ra cách diễn tả xứng hợp, như ta thấy trong bước tiến triển giữa các thư đầu tiên của Phaolô và tổng hợp vĩ đại của Gioan.
2/ Nếu Phêrô nhận ra rõ ràng thần tính của Chúa Giêsu trong Mt 16,16 làm sao lập tức ngay sau đó (16,22) ông mạnh mẽ chống lại chương trình cứu độ Người sẽ thực hiện?
3/ Xem ra hơi táo bạo khi gán quá nhiều ý nghĩa cho mạo từ “Người” (Lc) trong thành ngữ “Người Con của Thiên Chúa” (Le Fils de Dieu): Làm sao ta dám nghĩ rằng các ngư phủ vô học xứ Galilê lại có thể phân biệt tế nhị như thế được.
4/ Cái mà vị thượng tế xem là phạm thượng, không phải là thành ngữ “Người Con của Thiên Chúa” (Le Fils de Dieu), nhưng đúng hơn là điều Chúa Giêsu nói thêm về việc người ngự bên hữu Thiên Chúa với tư cách là “Chúa” của Tv 110, và với tư cách là nhân vật có nguồn gốc thiên giới mà Đanien đã thoáng thấy trong thị kiến của ông (x. chú thích của BJ); v.v…
Thật khó mà chọn theo ý kiến nào. Và vấn đề lại rắc rối thêm bởi sự kiện là: lời tuyên tín ấy của Phêrô thoạt đầu có thể có nghĩa thuần túy thiên sai (điều mà Mc 8, 29 và Lc 9, 20 có phản ánh), nhưng sau đấy “được đọc lại” dưới ánh sáng Phục sinh và được giải thích trong chiều hướng một lời tuyên xưng về thần tính Chúa Giêsu. Lại nữa, là không thể dựa vào sự kế tiếp hiện nay của các đoạn văn để hội nhập sự tiến triển về mặt thiêng liêng của các môn đồ: Matthêu đã chẳng biên soạn Tin Mừng trong một viễn trong tiểu sử (theo nghĩa hiện đại của hạn từ) nhưng trong một viễn tượng thần học, và đã sửa đổi, khi có dịp, thứ tự thời gian của các biến cố để đạt đến mục tiêu riêng. Suy luận cuối cùng này không phải là không quan trọng trong trường hợp ta đang cứu xét. Vì nếu Chúa Giêsu đã thốt lên câu nói ‘kiểu Gioan’ (logion johannique) (Mt 11, 25-27) về mầu nhiệm hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con trước khi Người hỏi các môn đồ ở Kaisaria của Philip, thì rất có thể Phêrô đã trực giác được một cái gì đó về thần tính của Chúa Giêsu và thoáng thấy Người không chỉ là Đấng Messia thiên hạ trông chờ mà còn là Đấng tham dự cách bí nhiệm vào chính hữu thể của Thiên Chúa. Tuy nhiên về vấn đề này, có lẽ sẽ không bao giờ ta thấy rõ hoàn toàn được.
“Ngươi là Đá và trên Đá này, Ta sẽ xây Hội Thánh của Ta”: Lối chơi chữ thật lý thú, sít sao trong Việt ngữ và Pháp ngữ (piene) nhưng lại không như thế trong La ngữ (Potrus và petra) và hy ngữ (Potros và potra); nó xuất phát từ tiếng Aram trong đó hạn từ képha (tảng đá, khối đá chứ chẳng phải là viên đá tách rời được) là một tiếng không thay đổi. Cách chơi chữ này đã do Chúa Giêsu sáng chế, vì ta không hề gặp một ví dụ nào khác trong đó képha là một tên riêng. Cũng vậy đối với Poros trong hy ngữ và Potrus trong La ngữ, là những cách chuyển dịch tương đương nhưng đã sớm được chấp nhận. Biệt danh này sẽ gắn liền với Simon như tên riêng của ông: ông đã được cộng đoàn tiên khởi biết đến dưới cái tên Kôphas, là một chính thức lai Hy ngữ (1 Cr 1,12; 15,5; Gl 1,18; 2,9; 2,11.14).
Đổi tên như vậy là một chuyện thường xảy ra trong Cựu Ước: nó cho thấy có mối liên hệ mới mẻ giữa người đổi tên và kẻ được đổi tên, đồng thời còn mặc một ý nghĩa nữa (St 17, 5. 15; 33, 10; Ds 13, 16; 2V 23, 34; 24, 17). Ở đây ý nghĩa thật quá rõ ràng: Simon sẽ là tảng đá móng, tảng đá vững bền trên đó Chúa Giêsu sẽ xây Hội Thánh của Người.
Các thành ngữ tảng đá móng và xây, theo nghĩa bóng, được dùng nhiều trong Kinh Thánh. Is 28,16 nói Giavê đặt một tảng đá móng tại Sion. Thần học của các giáo sĩ, dựa trên Is 31,1 dạy rằng, Abraham là nền móng trên đó Thiên Chúa xây thế giới. Chắc hẳn Chúa Giêsu là nền móng vô hình của Giáo Hội (1Cr 3, 10-11; 1 Pl: 2, 6-8; Ep 20), nhưng chính Phêrô sẽ là nền móng hữu hình sau cuộc ra đi của Người. Thì tương lai “Ta sẽ xây” có vẻ quy về thời gian sẽ đón sau cái chết và Phục sinh của Chúa Giêsu.
“Và quyền môn âm phủ sẽ không thắng nổi”. Chúa Giêsu hình như muốn nói quyền môn âm phủ (nơi các người quá cố tạm trú chờ ngày phục sinh cuối cùng, chứ chẳng phải là hỏa ngục) sẽ không thể kìm giữ trong sự chết những kẻ sẽ thuộc về cộng đoàn thiên sai; đây là một ý niệm Do thái khá phổ biến cho rằng, dù chết hay sống, các phần tử của cộng đoàn thiên sai thời sau hết sẽ không bị sự chết kìm giữ (Is 38, 10; G 38, 17; Tv 9, 14; Kn 16, 13)
Các nhà chú giải ngoài Công giáo đã luôn có khuynh hướng giới hạn vào con người Phêrô các lời Chúa Giêsu đã hứa với ông và cho rằng các lời hứa ấy chẳng hề có giá trị như là việc thiết lập một chức vụ trường tồn. Dĩ nhiên, nếu hiểu sát mặt chữ, thì văn bản câu này chỉ nói đến Phêrô. Nhưng nó cũng nói đến Giáo Hội, mà Phêrô được đặt làm thủ lãnh, và Giáo Hội này phải trường tồn, trường tồn như Chúa Kitô đã thiết lập (x. Mt 28, 20): nó bất diệt, vì ngay cả sự chết cũng không thể làm gì chống lại nó.nhưng tính cách bất diệt này làm sao có được nếu các lời hứa với Phêrô không được lưu truyền cho những kẻ kế nhiệm ông? Vì thế học thuyết Công giáo về sự kế nhiệm sứ đồ là sự minh giải cách hợp lý lời hứa của Chúa Giêsu.
“Bấy giờ người căn dặn môn đồ không được nói cho ai hay Người là Chúa Kitô”: có lẽ Chúa Giêsu sợ rằng một việc tiết lộ không phải lúc phẩm chức thiên sai của Người sẽ khơi lại cơn sốt quốc gia chủ nghĩa. Người ta đã chẳng muốn tôn phong Người làm vua sau phép lạ hoá bánh ra nhiều đó sao? (Ga 6, 15) Nhưng việc phong vương của Người sẽ chỉ thực hiện qua cái chết điều mà những, kẻ đương thời và ngay cả các môn đồ Người (dù đã được mạc khải của Chúa Cha soi sáng) không thể nào hiểu được.
KẾT LUẬN
Nhờ khám phá qua trung gian Phêrô ý nghĩa của tước hiệu bí nhiệm của “Con Người” và nhờ nhận ra trong Chúa Giêsu Đấng Mêsia siêu việt như Người đã tự xưng ngay từ đầu sứ vụ, các sứ đồ đã tách khỏi đám người Do thái cứng tin cùng làm thành nhóm còn lại mà các ngôn sứ từng hứa ơn cứu độ cánh chung cho; và từ đó Chúa Giêsu mới có thể ủy thác cho Phêrô quyền “cầm buộc” và “tháo cởi”, nghĩa là quyền thu nhận vào hoặc loại trừ khỏi Nước thiên sai, hay hơn nữa quyền quy định trong tất cả những gì liên quan đến tín lý và luân lý mà đời sống cộng đoàn thiên sai đòi hỏi, y như trong sách Đanien, các thánh của Đấng Tối Cao đã được thông ban các đặc quyền của Con Người. Quyền cầm giữ chìa khóa này, do Thiên Chúa thương ban, dựa trên niềm tin của Phêrô, một con người tội lỗi nhưng đồng thời là một kẻ tin.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chắc chắn Giáo Hội, cộng đoàn các kẻ tin, không thuộc về Phêrô, nhưng thuộc về Chúa Kitô, vì chính Người quy tụ, xây dựng và điều khiển Giáo Hội; tuy nhiên Phêrô là nền tảng trên đó các yếu tố khác biệt của Giáo Hội được quy tụ vào và hòa hợp với nhau. Hơn nữa, ông còn được quyền cầm buộc. Trong Giáo Hội trần thế, đường tiến về Nước Trời, chẳng phải tất cả đều tinh sạch và hoàn tất đâu; Phêrô sẽ thi hành dịch vụ phân biệt trong đó. Chính ông sẽ có khả năng phê phán xem các phần tử của Giáo Hội có sống phù hợp với chương trình của Chúa Kitô hay không. Sứ mệnh được ủy thác cho Phêrô là như vậy.
2) Sau khi nghe những lời Chúa Kitô phán dậy, ta thấy không thể nào cho rằng mình có thể đi đến Chúa Kitô mà không ngang qua Giáo Hội, một xã hội vừa nhân loại vừa siêu nhiên, rằng mình có thể đơn độc và trực tiếp tìm gặp Chúa Kitô và chẳng cần Giáo Hội. Vì như thế là tự xây dựng một Chúa Kitô theo khuôn mẫu của mình, là tưởng tượng ra một vị Chúa hợp sở thích của mình là từ chối chấp nhận Chúa Giêsu như Người đã tự mặc khải cho ta.
3) Giáo Hội không phải là người che chở một nền văn minh hay văn hóa nhân loại dù rất khả kính, cũng chẳng phải là kẻ ban phát một nền an ninh hay ổn định về mặt tôn giáo, hoặc là người bảo vệ một trật tự chính trị hay xã hội nào. Giáo Hội được thiết lập là để giúp ta khám phá hành động của Chúa Kitô trong ta và trong thế giới, làm cho ta sống phù hợp với hành động đó hầu được vào Nước Trời, và gìn giữ trong lòng ta một niềm tin khiêm nhu vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống.
4) Dù khuôn mặt nhân loại của Giáo Hội đôi lần có thể làm ta tức giận hay lấy làm gương xấu, thì Giáo Hội vẫn luôn là người duy nhất nắm giữ những lời hằng sống, sử dụng năng lực sáng tạo của các bí tích và mở được cửa Nước Trời. Và ngay cả người vô thần vốn từ chối Giáo Hội hay lương dân không biết Giáo Hội, cũng chỉ nhận được trong âm thầm ơn sống phù hợp với tiếng nói lương tâm của họ nhờ sự trung gian không ngừng của Mẹ Giáo Hội, mà hành động vô hình lan rộng trong khắp cả thế gian.
5) Giáo Hội là thực tại nhỏ bé nhất, nghèo hèn nhất, ít được chú ý nhất, ít hùng mạnh nhất so với các thực tại khác dưới bầu trời, vì Giáo Hội được quy tụ quanh một máng cỏ và một cây thập giá. Ai nghe thế mà không sợ? Nhưng Giáo Hội cũng là thực tại cao quí nhất, giàu sang nhất, vinh quang nhất và hùng mạnh nhất trong mọi thực tại dưới bầu trời, vì Hài Nhi sinh ra trong máng cỏ, Con Người bị đóng đinh trên đồi Canvê đã phục sinh và đang hiển trị. Ai nghe vậy mà lại không vui.
6) Dù Giáo Hội còn phải chịu nhiều thử thách và bách hại, Kitô hữu vẫn không nên ngã lòng trông cậy, vì quyền lực của sự chết thế nào cũng sẽ bị Giáo Hội chiến thắng.
[Mục Lục]


Bài 4. Chú giải của Noel Quession
Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêsarê Philípphê…
Đây là những vùng phụ cận của Tia và Xiđon trên bờ biển xứ Liban… Matthêu dẫn Đức Giêsu và các môn đệ Người đến chân núi Hécmon mà đỉnh có tuyết phủ nhìn xuống toàn bộ hồ Galilê. Gần những suối nguồn của sông Giođan, trong một phong cảnh diễm lệ tươi mát với tiếng chim hót, ở giữa những tiếng cây cối xào xạc, gần động của Thần Păn (ngày nay là Bania) Vua Hêrôđê Philípphê đã cho xây một thành phố nghỉ mát ở đó. Để tôn vinh ông chủ đứng đầu đế quốc Rôma, nhà vua đã cho thành phố này cái tên hoàn toàn mới: Xêsarê!
Ngày nay, thành phố này không còn lạ gì ngoại trừ dòng suối tiếp tục trào ra từ “tảng đá” dưới chân núi.
Người hỏi các món đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?”
Xa khỏi các đám đông, để tránh mọi xáo trộn mà một Đấng Mêsia có thể gây ra, Đức Giêsu một cách rõ ràng tự đặt ra một câu hỏi về “căn tính” của Người. Đối với từng người đàn ông và đàn bà mà chúng ta sống kề bên họ, than ôi chúng ta chỉ hiểu được ngoại diện của nhân cách họ. Trong mỗi con người có một thứ bí mật mà người ta chỉ khám phá được với thời gian, vì nó được giấu kín đàng sau mọi thứ mặt nạ.
Nhân cách sâu thẳm của Đức Giêsu cắm sâu vào điều không thể diễn tả được: Người là gì?
Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ”.
Dư luận của dân chúng khác nhau trong khi tiết, nhưng nhất trí về điểm cơ bản: Đức Giêsu không phải là một con người bình thường?… ngôn hành của Người làm cho Người thành một nhân vật tôn giáo phi thường. Về chủ đề này, người ta kể ra những ngôn sứ nổi tiếng của quá khứ.
NGÀY NAY cũng thế, đa phần nhân loại đều thừa nhận Đức Giêsu là một nhân vật phi thường: Người đã đóng ấn vào lịch sử phổ quát như rất ít người đã có thể làm được.
Đức Giêsu lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ của Người nhiều hơn dư luận chung. Phản ánh những ý kiến thường ngày không đủ. Phải có một thái độ của bản thân.
Còn bạn, Huy Phương… Bạn, Duyên…. Bạn, Minh Hạnh… Bạn Hằng… Bạn nói gì về Đức Gíêsu? Đối với bạn, Đức Giêsu là ai?
Ông Simon Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, con Thiên Chúa hằng sống!”
Tất cả các nhà chú giải thừa nhận sức mạnh trong cách diễn tả mà Matthêu đã nhấn mạnh bằng sự nối tiếp dồn dập của bốn danh từ và mạo từ: Đấng Kitô, Con, Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống. Dĩ nhiên là không chắc, cũng trong ngày ấy, Phêrô có trong trí óc mình mọi sự xác định về mặt thần học. mà các từ ngữ ấy có được sau khi Chúa sống lại và sau một thời gian dài nghiền ngẫm về mặt trí tuệ bởi các Công đồng của thế kỷ thứ IV và thứ V Tuy nhiên, người ta không có quyền “làm giảm nhẹ” lời tuyên xưng đức tin” của Phêrô theo nghĩa thông thường của từ ngữ: “Con Thiên Chúa”, “ben Elohim”. Thật vậy, trong Cựu ước, tước hiệu này được áp dụng cho Đấng Kitô (Đấng Mêsia), nhưng cũng được áp dụng cho mọi con cái Israel (Xh 4,22; Đnl 14, 1; Kn 2,16 – 18,13; Gr 31,20; 2Sm 7,14).
Đối với Phêrô, rõ ràng Đức Giêsu không chỉ là một người con của Thiên Chúa như mọi người khác! Nếu nói như thế thì cũng như không nói gì. Phêrô đã nhận thấy rằng Đức Giêsu không chỉ là “một ngôn sứ” nào đó, một trong số những người mà Thiên Chúa sai đến… nhưng là Đấng Thiên Sai, Đấng Mêsia, Đấng Con… và chữ Con trong một ý nghĩa chỉ thuộc về một mình Đức Giêsu.
Đức Giêsu nói với ông: “Này anh Simon con ông Giona anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời…”
“Phàm nhân”… từ ngữ rất lâu đời này trong Kinh Thánh đánh dấu tính xác thực của lời nói… một công thức đẹp được tưởng tượng để gợi lên sự yếu đuối tự nhiên của con người nếu chỉ để cho ánh sáng duy lý hướng dẫn. Trong ngôn ngữ quen thuộc hôm nay, hẳn chúng ta sẽ nói: “Không phải cái lương tri nhỏ bé của anh cho anh nói ra điều đó!”.
Để đạt đến những thực tại thánh thiêng thuộc về Thiên Chúa, phải có một sự “mạc khải”.
Trí tuệ con người dứt khoát không thể định nghĩa Thiên Chúa, Đấng Tối Cao, bên trên mọi sự như lời hát trong bài thánh ca của Thánh Grêgôriô Nadi: “Ôi lạy Chúa, Đấng Tối Cao trên hết mọi sự, chẳng phải đó là tất cả những gì mà người ta có thể ca ngợi Chúa sao? Ngôn ngữ nào sẽ nói được về Chúa? Không một từ ngữ nào diễn tả được Chúa. Thần Khí sẽ bị trói buộc vào cái gì? Chúa vượt qua mọi trí tuệ. Chỉ có Chúa không thể diễn tả được bởi vì mọi điều được nói ra đầu từ Chúa mà ra… Chúa là cùng đích của mọi sự vật; Chúa là tất cả mọi sự vật nhưng không phải là một sự vật nào… Chúa có tất cả mọi tên, nhưng làm sao gọi được tên Ngài, Chúa là Đấng Duy Nhất mà người ta không thể gọi tên? Ôi lạy Chúa, Đấng trên hết mọi sự, chẳng phải đó là tất cả những gì mà người ta có thể ca ngợi Chúa sao?”
Phải, Đức Giêsu khẳng định, với sự đơn giản táo bạo làm người ta ngỡ ngàng, rằng không ai có thể biết được căn tính của Người nếu không được Thiên Chúa mạc khải. “Không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ Người Con và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho” (Mt 11,27). Thánh Phaolô cũng nhấn mạnh sự bất lực của con người khi nói về “Thiên Chúa”: “Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi nhờ ân sủng của Người. Người đã đoái thương mạc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại. Tôi đã chẳng thuận theo các “lý do tự nhiên” (Gl 1,15-16).
“Chính Cha của Thầy mạc khải cho anh điều anh vừa nói!” Hai chữ Cha Thầy tuy nhỏ nhưng cho chúng ta thấy được vực thẳm vô cùng mà Đức Giêsu tuyên bố “thật có phúc” (đây là một mối phúc thật mới) tất cả những ai thoáng thấy điều bí ẩn của ngôi vị Người.
Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”
Tin Mừng của Maccô (8,27-30) và của Luca (9,18-21) đã thuật lại lời tuyên xưng đức tin của Phêrô. Chỉ có Matthêu là người đã tiếp nối lời tuyên xưng ấy bằng một lời tuyên bố của Đức Giêsu về những trách nhiệm của Phêrô đối với Giáo Hội. Cách chơi chữ này trên chữ Phêrô, đích xác là của Đức Giêsu vì nó rất Sêmít và trong tiếng Do Thái cách chơi chữ ấy tự nhiên hơn trong tiếng Hy Lạp.
Thật vậy từ “Tảng Đá” (tiếng Do Thái là Képhas) ở trong tiếng Hy Lạp, cũng như trong tiếng Pháp, người ta có một công thức kém tự nhiên hơn vì có sự đổi giống Pierre: tiếng Pháp, giống cái hoặc sự biến dạng pétros/pétra: tiếng Hy Lạp). vậy chúng ta thử suy nghĩ về lời mà Đức Giêsu tuyên bố về Phêrô. Có năm hình ảnh, cũng rất Sêmít, cấu trúc lời hứa này:
1/ Tảng đá: tượng trưng cho sự vững chắc, tượng trưng cho Thiên Chúa…
2/ Giáo Hội: có nghĩa là “cộng đoàn”, được Thiên Chúa triệu tập.
3/ Những cánh cửa: tượng trưng cho sức mạnh của một thành phố có tường thành thời Cổ Đại…
4/ Những chìa khóa: tượng trưng cho quyền bính.
5/ ‘Cầm buộc và tháo cởi’ tượng trưng cho tính tổng thể hiệp nhất các điều trái ngược.
Những trích dẫn trong Kinh Thánh để khẳng định rằng Thiên Chúa là “Tảng Đá”. Chúng ta, chỉ cần trích dẫn: “Chúa là tảng đá của tôi, là thành trì của tôi” (Tv 71,3). Chúng ta đều đã nhìn thấy những hình ảnh của các lâu đài hay các ngôi làng có tường thành xây ngất ngưởng trên những tảng đá cao. Đức Giêsu đã có ý định xây dựng một cách vững chắc như thế!
Từ “Giáo Hội” dịch chữ “Qahal” trong tiếng Do Thái có nghĩa là “Cộng đoàn”, điều Đức Giêsu muốn xây tảng, do đó là một “Cộng đoàn” những người đàn ông và đàn bà có một điều gì chung, và quy tụ để cùng nhau thực hiện một điều gì đó. Công Đồng Vatican II đã định nghĩa Giáo Hội là dân Thiên Chúa và ơn cứu độ có tính chất cộng đoàn chứ không dành cho một Kitô hữu “lẻ loi”. Không thể có đức tin một cách cá nhân. Tấn bi kịch của người không hành đạo là không chịu tham gia vào cộng đoàn ngày Chúa nhật vì thế đức tin suy yếu dần và chết.
Và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi…
Bản văn theo nghĩa đen dùng một hình ảnh: “Những cửa Hadès (hỏa ngục) sẽ không chống cự nổi”. Nếu chúng ta hiểu công thức này trong tất cả sức mạnh của nó thì vấn đề không chỉ là sự vững chắc của Giáo Hội có thể phòng thủ chống lại các cuộc tấn công của sự chết… nhưng còn có khả năng tấn công vào “ngục tù của sự chết” để lôi con người ra khỏi đó. Tranh thánh phương Đông tả cảnh sống lại cho chúng ta thấy Đức Giêsu vinh quang chiến thắng, đứng trên hai cánh cửa của âm ty bị phá vỡ hành hình thập giá và Người cho Ađam và Eva tham dự vào chiến thắng của Người trên sự chết. Đó là mục đích của Giáo Hội: Cứu chuộc! Đức Giêsu thật sự đã dự tính điều đó: Một “cộng đoàn” những người sống lại với Người?
Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời.
Đây cũng là một hình ảnh rất cổ xưa, dấu chỉ sự chính thống (Is 22,22). Người nào giữ chìa khóa của một ngôi nhà, người ấy có toàn quyền trên ngôi nhà đó.
Dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy! dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.
Ngày nay, người ta thấy có nhiều người sẵn sàng nói: Đức Giêsu thì tôi tin, Giáo Hội thì không…”. Sau một thời kỳ tập trung thái quá các Giáo Hội, cũng như các quốc gia, cảm thấy xu hướng bung ra: Người ta xem ra bằng lòng với những “cộng đoàn nhỏ sống động và nhiệt thành” mà không cần những cơ chế lớn; người ta muốn tương đối hóa những quy phạm về học thuyết, không can đến những điểm quy chiếu khách quan. Tác vụ của Phêrô mà Đức Giêsu muốn có, nhắc chúng ta nhớ rằng Đức Tin là một ơn mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, và chúng ta, không thể phát minh đức tin theo sở thích cho một số nhỏ môn đệ quyền bính để thay mặt Người gìn giữ và ban phát ơn đức tin cùng các ơn khác. Đó chính là vai trò của Giáo hội.
[Mục Lục]


Bài 5. THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ, CON THIÊN CHÚA HẰNG SỐNG
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Sau khi đã qui tụ, huấn luyện các môn đệ một thời gian tương đối dài, Chúa Giêsu muốn biết người ta nghĩ gì và các môn đệ nghĩ gì về Chúa. Đồng thời,đã đến lúc Chúa phải nói rõ cho các môn đệ biết mình là ai. Do đó, Chúa Giêsu đưa riêng các ông ra một nơi thanh vắng, rồi qua lời lẽ của thánh Phêrô, cho nhân loại biết ngài là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, và chính Đấng ấy lại chịu đau khổ, chịu chết, phục sinh…
Vâng, Chúa Giêsu đã kết nạp 12 môn đệ, dạy dỗ, huấn luyện các ông để các ông sẽ tiếp nối sứ mạng của Ngài sau này. Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ về lòng mến, về kỷ luật, về sạch, về dơ và cả những mưu mô của ma quỉ chống đối. Sau một thời gian dài khi Chúa Giêsu đã có danh tiếng trong xã hội, Ngài đã nghe nhiều người xì xào về Ngài: người thì cho Ngài là Êlia, là Gioan Tẩy Giả, người cho Ngài là một Ngôn sứ nào đó.Tất cả những danh hiệu đó mới chỉ nói lên một phần nào sứ vụ của Ngài mà thôi. Hôm nay, Chúa Giêsu đưa các ông lên một miền thật xa, một nơi hoang vắng, tĩnh lặng để giúp các ông nhận rõ hơn niềm tin của các ông và cũng cho các ông thấy rõ Ngài hơn và sứ vụ của Ngài. Chúng ta có thể coi đây là một cuộc tĩnh tâm giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Và đây mở màn cho những tiết lộ. mặc khải bi quan về cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài, về điều kiện để theo Chúa, về cuộc biến hình trên núi v.v… Trong đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu 16,13-23, Chúa Giêsu đã dùng từ ‘Con Người’ để ám chỉ về mình. Ngài muốn nói mình vừa là Con Thiên Chúa, vừa là người. Êlia và Giêrêmia là hai vị ngôn sứ lớn đã sống vào thế kỷ 9 và 7 trước Công nguyên. Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống.Cụm từ này thật rõ ràng vì ở nhiều nơi dùng từ “Con Thiên Chúa”, còn ở đây dùng ‘Người Con của Thiên Chúa’, nên được nối tiếp các câu sau. Lời tuyên xưng của Phêrô là do Thiên Chúa Cha mặc khải, còn tự ý Phêrô không thể nào nói được. Chính vì niềm tin của Phêrô mà tên của Phêrô được đổi (tên này cũng có nghĩa trọng trách, sứ mạng của Ông), đồng thời chính Phêrô là nền tảng cho một công trình lớn, công trình vĩ đại sau này. Phêrô có môt niềm tin cứng như đá tảng, nên không một sức mạnh, một quyền lực, kẻ thù nào có thể phá được. Khi đã ca ngợi Phêrô và các môn đệ về niềm tin vững chắc, Chúa Giêsu cho các môn đệ biết về tương lai của mình, Con Thiên Chúa mà phải chấp nhận cái chết tang thương theo ý của Chúa Cha để cứu độ nhân loại, cứu chuộc con người. Thánh Phêrô can ngăn Chúa vừa nói lên tấm lòng yêu mến Chúa, vừa nói lên ý nghĩ trần gian thì khác với ý định của Thiên Chúa. Tuy nhiên, khi quay lại cuộc hành trình của Phêrô, chúng ta hết sức ngạc nhiên vì con người này. Cả đêm thả lưới không được con cá nào.Nhưng nghe lời của Chúa, Phêrô đã vâng lời thả lưới, Ông và các bạn đã bắt được mẻ cá lớn 153 con. Phêrô quá ngạc nhiên vì mẻ cá này, Ông vội nghĩ đến con người yếu kém, bất xứng, tội lỗi của mình, Ông sấp mình dưới chân Chúa mà thưa “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5, 8). Trước sự khiêm tốn thẳm sâu của Phêrô, Chúa đã tuyển lựa Ông : “Đừng sợ, từ nay Anh sẽ là người chài lưới người” (Lc 5, 10). Sau này, Phêrô lại chối Chúa, nhưng con người của Phêrô luôn biết ăn năn, sám hối, do đó Chúa luôn yêu thương Ngài, cắt nhắc Ngài : “Hãy chăn dắt chiên Mẹ, chiên Con của Thầy”.
Chúa Giêsu muốn dạy các môn đệ rằng tin Ngài là Con Thiên Chúa, chứ không chỉ tin một con người được Chúa gửi đến. Đấng Con Thiên Chúa lại hóa kiếp làm người, hòa đồng với con người ngoại trừ tội lỗi, chịu đau khổ, chịu chết để đưa con người lên hàng Con Cái Thiên Chúa để con người cùng hưởng hạnh phúc đời này và đời sau. Lời Chúa cũng nói với chúng ta hôm nay: tin vào Thiên Chúa không phải như bất cứ một con người nào hay bất cứ Đạo nào. Đạo của Thiên Chúa phát xuất từ trời cao, có sức mạnh, sức cuốn hút làm cho mọi người được hạnh phúc.
Xin mượn lời của Jean-Yves Garneau để kết luận bài chia sẻ hôm nay : “Tác giả Tin Mừng làm nổi bật nhân vật Phêrô.Chính Ông và chỉ có mình Ông, tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia và là Con Thiên Chúa Hằng Sống.Chính Ông, và chỉ có mình Ông, được Chúa Giêsu ban cho một cái tên mới (Người là Phêrô, Kepha-Tảng Đá). Chính Ông, và chỉ có mình Ông, được Người giao chìa khóa Nước Trời. Những chìa khóa ấy dành cho việc cầm buộc và tháo cởi, nghĩa là nó trao cho Ông Phêrô cái quyền bắt buộc phải có để đem một người gia nhập cộng đoàn các môn đệ Đức Kitô, hay loại người ấy ra khỏi đó. Còn có nghĩa là nó cho ông được phép quyết định điều gì là tương hợp hay không tương hợp với giáo huấn của Đức Kitô. Ở những điểm cơ bản, đức tin của toàn thể Hội Thánh luôn luôn phải lấy đức tin của Ông Phêrô làm điểu qui chiếu”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm sâu xa lòng thương tha thứ của Chúa để chúng con noi gương bắt chước Phêrô khiêm nhường thẳm sâu nhận ra tình thương thứ tha của Chúa và quyết tâm bước theo Chúa tới cùng. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1. Ai đã tỏ cho Phêrô biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa Hằng Sống ?
2. Phêrô cản ngăn Chúa thế nào ?
3. Ai đã đổi tên cho Phêrô ?
4. Đổi tên có ý nghĩa gì ?
5. Đạo Thiên Chúa có giống bất cứ một Đạo nào do con người lập ra không
 ?
[Mục Lục]


Bài 6. CHÌA KHOÁ NƯỚC TRỜI
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Tin mừng hôm nay thuật lại biến cố thánh Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa Hằng Sống; và với lời tuyên xưng này, thánh Phêrô đã được Chúa Giêsu trao“Chìa Khóa Nước Trời“, tức là quyền lãnh đạo Dân Chúa.
Trong Kinh Thánh, chìa khóa tượng trưng cho quyền cai quản và điều hành, như Thiên Chúa ban cho Êliakim quyền điều hành nhà Ðavid (Is 22,20-22), hay quyền hành của Chúa Giêsu trên sự chết (Kh 1,17-18).
Chìa khóa, theo Thánh Kinh, là biểu tượng của sự tin tưởng, uy quyền và trách nhiệm. Chúa Giêsu đã trao chìa khóa cho thánh Phêrô. Chúa tin tưởng thánh Phêrô, trao cho Ngài quyền hành và trách nhiệm để hướng dẫn Giáo Hội trên trần gian: “Thầy sẽ trao cho con chìa khóa nước Trời; sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”. Quyền “cầm buộc và tháo cởi” có nghĩa là quyền tha tội, quyền đưa ra những phán quyết về giáo lý và những quyết định về kỷ luật trong Hội Thánh (GLHTCG, số 553). Đây là một quyền hành thật cả thể. Vì bản chất của quyền hành ở đây theo từ ngữ chuyên biệt trong tiếng Do thái có thể chỉ đến việc cầm buộc ma quỉ trong khi trừ quỉ, trong việc hành luật liên quan đến vạ tuyệt thông và trong những vấn đề phán quyết nghiêm trọng (NJBC,659).
Ngoài ra, theo một số nhà chú giải Thánh kinh như Kevin O’Sullivan, OFM và Paul J Achtemeier, “Chìa khóa Nước Trời” ám chỉ đến hình ảnh một người đầy tớ với chìa khóa trong tay để mở cửa các phòng trong nhà. Người có chìa khóa trong tay không chỉ có quyền xác định ai được vào và ai không được vào, mà còn có trách nhiệm toàn quyền trông coi để ý mọi sự trong nhà của chủ mình. (Harper’s Dict 524-525).
Nếu trách nhiệm được trao không chu toàn, nếu quyền hành được ban bị lạm dụng, và bị mất tin tưởng, thì chắc chắn chìa khóa sẽ bị lấy lại. Tiên tri Isaia trong bài đọc 1 đã minh chứng điều đó. Sobna, quan cai đền thờ đã bị cách chức và trục xuất khỏi địa vị cũng chỉ vì đã lạm dụng quyền hành. Ông đã lạm dụng quyền hành bắt ép vua Hezekiah (716-687) nổi dậy chống lại Assyria và chạy đến Ai cập cầu cứu. Tiên tri Isaia đã hoàn toàn phản đối việc này. Ngài kêu gọi Giuđa phải nên tin tưởng vào Thiên Chúa của mình, chứ không phải nơi sự trợ giúp của dân ngoại. Nhưng Giuđa đã không tin tưởng nơi Thiên Chúa, và cuối cùng vào những thế kỷ sau đó, Giuđa và Giêrusalem đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Và như chúng ta được biết, chìa khóa của Sobna đã bị lấy lại và trao cho Êliaqim, con trai Helcia. (Kevin O’Sullivan, OFM, The Sunday Readings (A) 309-314).
Trước lễ cung hiến Nhà thờ mới, có nghi thức trao chìa khoá mở cửa Nhà thờ. Đức Giám Mục trao chìa khóa cho Linh Mục Quản Xứ để ngài mở cửa Nhà thờ.Nghi thức này muốn nói lên rằng: việc quản trị Nhà thờ trên toàn Giáo phận là thuộc Đức Giám Mục Giáo Phận, còn Linh Mục Quản Xứ chỉ là người nhận quyền từ Đức Giám Mục, thay mặt Đức Giám Mục trông coi, cũng như cử hành và ban phát các bí tích cho cộng đoàn Dân Chúa tại Nhà thờ này.
Nếu hiểu chìa khóa là biểu tượng nói lên sự tin tưởng, quyền hành và trách nhiệm thì không chỉ riêng thánh Phêrô đã lãnh nhận chìa khóa Chúa trao; mà qua Ngài, qua Giáo hội, hết thảy mọi tín hữu cũng đều được lãnh nhận chìa khóa ấy khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Chìa khóa ấy không gì khác hơn là tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa và đồng thời tin tưởng chúng ta cũng là con Thiên Chúa. Đức tin dạy rằng, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa theo bản tính. Còn chúng ta cũng là con Thiên Chúa theo ân sủng. Quyền làm con Thiên Chúa và trách nhiệm đi kèm là một ơn rất trọng đại và cũng chính là “chìa khóa Nước Trời” cho mỗi người và cho những người có trách nhiệm liên hệ. Chìa khóa chính là hạt giống đức tin từ ngày lãnh nhận làn nước Bí tích Rửa tội giúp họ mở cửa bước vào kho tàng ân đức của Chúa nơi các Bí tích. “Với Chúa, mọi sự đều có thể” ; “ơn được làm con Thiên Chúa”, đó là chìa khóa Nước Trời mà Thiên Chúa trao cho mỗi người tín hữu. Chìa khoá mở lối vào Thiên Quốc Vĩnh Hằng có độ rắn của lòng trung thành, liên lỉ trong cầu nguyện; có độ bền của sự hiền hậu, khiêm nhường; có cấu trúc đẹp của lòng bao dung, tha thứ. Nó không làm bằng kim loại vật chất của trần gian, mà được đúc kết bằng hợp kim của niềm tin tâm linh và tính thánh thiêng. Nó có thể mở được tất cả các cánh cổng của những vấn nạn nghiêm trọng trong cuộc sống, và của mỗi thân phận con người.
Thánh Phêrô đã trải qua nhiều đau khổ, chịu bách hại và đã đổ máu vì danh Đức Kitô. Chúa đã đặt Ngài là: “Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy và quyền lực tử thần sẽ không thắng được”. Thánh Phêrô đã tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” và đã tuyên xưng tình yêu “Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Vì niềm tin yêu vào Chúa Giêsu Kitô, Thánh Phêrô đã chia sẽ sứ mạng của Thầy Chí Thánh và hiến dâng mạng sống cho đoàn chiên. Thánh Phêrô đã sống theo chân lý: ‘Nếu Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ai có thể đánh bại chúng ta?’. Chúa là sức mạnh của thánh nhân, không gì có thể tách Ngài ra khỏi lòng mến của Chúa Kitô. Thánh Phêrô xứng đáng để nắm giữ “Chìa khóa Nước Trời”.
Có câu chuyện “Chìa khoá và ổ khoá Thiên Đàng” thật ý nghĩa
Một hôm nọ, khoá cửa Thiên Đàng bị hư, Thánh Phêrô đích thân mang cả chìa lẫn khoá xuống trần gian để tìm người sửa chữa. Ngài tới nhà anh thợ khoá đầu tiên.
- Chào anh, tôi có cái ổ khoá bị hư, anh làm ơn sửa giùm.
- Cụ làm nghề gì mà cửa nhà cụ lại có cái ổ khoá to và quý thế này ?
- Tôi làm nghề đánh cá, sau đổi sang nghề chăn chiên anh ạ .
- Ừ ! Nhìn quần áo và chân tay của cụ, tôi tin. Nhưng cụ nói thật đi, cụ “chôm” cái của quý bằng vàng ròng này ở đâu vậy?
Thánh Phêrô tần ngần trả lời :
- Của tôi đó, vì đây là khoá cửa của Thiên Đàng, còn tôi là Phêrô.
Anh thợ vồn vã :
- À! Thế thì lại khác, chỉ 1 giờ là tôi sửa xong cho cụ thôi, cụ cho xin 100.000 đồng .
Thánh Phêrô giật mình :
- Đắt thế à ? Tôi chỉ có 1.000 thôi.
- Không được đâu cụ ơi. Tôi nghe ngày xưa cụ đứng đầu Hội Thánh, hẳn là cụ giàu có lắm ?
- Anh hiểu lầm rồi ! Trong Hội Thánh chúng tôi, ai càng đứng đầu thì lại càng là người tôi tớ phục vụ, sống khiêm hạ khó nghèo như Đức Giêsu làng Nazareth. Thôi anh cố sửa nó đi, có thể vì công khó của anh mà tôi sẽ xin Chúa cho anh vào Thiên Đàng .
Anh thợ mỉm cười lắc đầu
- Tôi cần cái thực tế. Tiền thôi cụ ạ, còn Thiên Đàng thì xa lạ quá. Vả lại ở Thiên Đàng mà nghèo như cụ thì tôi chẳng ham. Thôi cụ đi xoay xở đâu đó thêm đi, rồi quay lại đây.
Thánh Phêrô bước đi, buồn bã nghĩ thầm : Anh thợ này sửa được nhiều thứ khoá, chỉ trừ khoá của Thiên Đàng. Đồng tiền quý đến thế kia ư ?
Ngài lại tìm đến nhà một anh thợ khác, nổi tiếng khéo tay và giàu có nhất vùng, hy vọng gặp được người yêu mến Thiên Đàng hơn chuyện tiền bạc.
Anh thợ đon đả chạy ra đón mừng .
- Tôi nhận ra ngài rồi. Tay cầm chìa khoá vàng, khuôn mặt và thân hình lại giống hệt bức tượng trong nhà thờ xứ tôi. Vào đây, gia đình tôi hân hạnh tiếp đón Thánh Cả.
Thánh Phêrô vui mừng, nhưng cũng ngần ngại dò hỏi :
- Tôi có cái khoá cửa thiên đàng bị hỏng, tôi chỉ có 1.000 đồng, nhờ anh sửa giúp
- Xin cất đi, tôi còn phải biếu ngài thêm lộ phí nữa kìa. Còn cái khoá thì không thành vấn đề, chỉ độ nửa tiếng là xong thôi. Có điều là, xin ngài hứa cho tôi một việc.
- Tốt lắm, anh cứ nói .
- Xin ngài đưa tôi vào Thiên Đàng và cho tôi làm trùm phường khóa ở trên đấy. Ngồi trên các Thánh hay các thiên thần thì tôi không dám, nhưng làm sếp đám thợ khoá thì tôi dư sức. Ngài sẽ thấy tay nghề của tôi khi sửa khoá cho ngài, xem tôi có đáng ngồi chỗ tốt hay không.
Bỗng có tiếng ầm ầm từ đầu ngõ, hàng trăm dân làng ùa chạy tới nhà anh thợ khoá khi nghe nói Thánh Phêrô đang ở nhà anh. Tiếng hò hét vang lừng từ ở cổng ra vào.
- Lạy Thánh Phêrô, Ngài cho vợ chồng con vào Thiên Đàng với.
- Đứa nào xô tao vậy, đây là cổng nhà anh thợ khoá chứ đã phải là cửa Thiên Đàng đâu mà chen dữ thế ? Phải có hàng lối chứ .
- Gặp Thánh Phêrô chứ có phải đi mua vé xinê,hay đi mua thịt mua cá đâu mà phải xếp hàng cha nội.
- Chúng mày biết gì ? Ông Trùm nói có lý đấy. Thế chúng mày không nghe cha giảng là ở trên Trời có ” Đám rước mặc quần áo trắng tinh tay cầm cành thiên tuế ” à ? Phải trật tự chứ !
- Chúa ơi ! Chết con rồi.

Thánh Phêrô lắc đầu ngán ngẩm. Cần phải “gửi” đi đâu nữa, họ đang ở hoả ngục rồi còn gì! Họ cãi nhau chí chóe, chửi thề, dẫm đạp lên nhau để “tranh” Thiên Đàng. Có kẻ đã dúi được vào túi Thánh Phêrô phong bì, hoa, nến. Rồi hí hửng vì đã “hối lộ” được người giữ cửa đầy quyền uy.
Bỗng có một cơn gió mù mịt cuốn lấy Thánh Phêrô. Thiên Thần đã đưa ngài đi trong gió. Để lại đám dân làng khóc la tiếc nuối, và anh thợ khoá tiu nghỉu vì tan giấc mộng vàng.
Thiên Thần đưa Phêrô tới bên một bờ suối rồi chào tạm biệt ra đi. Thánh nhân nhẹ gật đầu từ tạ. Ngài vẫn còn bực bội vì chuyện xảy ra vừa rồi. Tại sao con người lại coi nhẹ Thiên Đàng để kiếm tìm tiền tài danh vọng nhỉ ? Ngay cả đám dân muốn “xấn xổ” vào Thiên Đàng, họ có nghĩ gì tới Chúa và anh em mình đâu, lợi lộc riêng tư đã che mắt họ. Người ta có thể nhân danh một Thiên Đàng tốt đẹp để giành giật, gấu ó nhau đến vậy hay sao? Ôi ! Nếu có Gioan và Giacôbê ở đây,”những người con của sấm sét” chắc cũng sẽ như xưa, muốn xin lửa Trời xuống đốt tiệt cái đám dân nông cạn này.
– Hãy uống bát nước này cho mát đi, cụ đang có lửa trong lòng đó.
Thánh Phêrô giật mình quay lại. Một cậu bé thật xinh trai, tay cầm ly nước,đã đứng sau lưng mình từ lúc nào. Ngài cầm lấy ly nước, uống một hơi thật sảng khoái.
– Cám ơn cậu bé, cậu thật tốt bụng.
Cậu bé lém lỉnh nhìn cái ổ khoá trên tay Thánh Phêrô.
– Ổ khoá này đẹp quá, cụ cho tôi xem tí nào.
– Khoá cửa Thiên Đàng đó mà. Cậu có muốn lên đấy không, tôi dẫn cậu đi ?
– Chả cần cụ dẫn đâu, tôi thừa biết nó ở đâu rồi .
– Thật không ?
– Thật chứ !Thiên Đàng thuộc về những người bé nhỏ như tôi mà, cụ quên rồi à ?
Ngạc nhiên trước câu trả lời ngộ nghĩnh, Thánh Phêrô cảm thấy mến cậu bé thông minh này. Ngài đưa cả ổ khoá lẫn chìa cho cậu bé.
– Cẩn thận kẻo rơi nhé.
Cậu bé cầm cả hai ngắm nghía, rồi cậu tinh nghịch trả lại chìa khoá cho Phêrô.
– Cụ giữ lấy chìa khoá này như một kỷ niệm hay một biểu tượng cho bổn phận và quyền uy. Còn cái này thì…Chưa dứt lời, cậu đã ném ổ khoá đánh “tõm” xuống giữa lòng suối sâu.
Thánh Phêrô giật mình lớn tiếng :
– Ôi Chúa ơi ! Cậu làm gì vậy ?
Cậu bé mỉm cười trả lời :
– Thật ra cửa Thiên Đàng đâu cần ổ khoá. Điều quan trọng không phải là nó đóng hay mở, mà là sự “đóng hay mở” của lòng người. Phải giải quyết chuyện này ở dưới đất chứ không phải trên trời cụ ạ .” Điều gì con cầm buộc dưới đất, trên Trời cũng cầm buộc. Điều gì con tháo mở dưới đất, trên Trời cũng tháo mở “. Có người đã nói với cụ câu đó, cụ không nhớ sao ?
Thánh Phêrô ngẩn ngơ hỏi lại :
– Nhưng làm sao để họ mở hay đóng để tôi cầm buộc hay tháo gỡ ? Vì họ cứ khép kín trước vẻ đẹp của Thiên Đàng, nhưng lại sẵn sàng mở lòng ra với tiền tài, danh vọng. Làm sao để họ làm ngược lại đây, cậu bé ?
– Cụ đừng chỉ trỏ lên trời và nói những chuyện cao xa của Thiên Đàng với họ nữa.Ngược lại, phải dẫn họ tới một nơi để họ học biết khó nghèo, khiêm hạ, hy sinh. Cụ có muốn tôi đưa cụ tới đó, để rồi sau cụ có thể dẫn họ đi không ?
Thánh Phêrô sốt sắng :
– Được rồi, tôi theo cậu. Nhưng đi đâu mới được chứ ?
Cậu bé mỉm cười, nheo mắt nhìn Phêrô :
– Đi Bêlem, rồi lên Núi Sọ .
Nói xong, cậu quay lưng, lững thững bước đi về phía có ánh nắng chói chang, phía của Mặt Trời.
[Mục Lục]


Bài 7. Tin vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Phêrô là người lãnh nhận lời hứa từ Chúa Giêsu quyền chăm sóc anh em. Trước đó ít lâu, ông là người đã đi trên mặt nước, bị Chúa Giêsu quở trách là “người hèn tin” (Mt 14, 31). Trong thực tế, có lẽ Chúa Giêsu đã can thiệp và thách thức ông kêu cầu, đòi hỏi ông phải lớn lên trong đức tin, ông có thể xấu hổ trước mặt đồng nghiệp của mình, cũng như các môn đệ khác, vì “hèn tin“, nhưng ông vẫn tự tin, lời tuyên xưng đức tin địa hạt thành Xêsarêa Philipphê của Phêrô là một bằng chứng. Ông đã được Chúa Cha ban cho hồng ân đức tin, nhờ ánh sáng Thần Linh mạc khải, ông biết được căn tính đích thực của Chúa Giêsu; ông tuyên xưng : “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16), nhờ đó ông có thể làm cho anh em khác vững tin.
Hành trình đức tin của Phêrô
Đối với Phêrô, đức tin là một hành động lớn dần. Như bào người trẻ Do thái, ông đã nghe nói về Đấng Mêssia, dùng thánh vịnh của Đavid để cầu nguyện, nghe các thầy Do thái tại Capharnaum hát về niềm hy vọng của dân Israel. Hạt giống rơi vào đất tốt, hôm nay, bén rễ nhờ Lời Chúa Giêsu.
Hành trình ấy khởi đi từ lần đầu tiên gặp gỡ Chúa Giêsu qua Anrê, em ông, cũng là môn đệ của Gioan Baotixita làm trung gian bên bờ sông Giorđan. Anrê là người tìm Chúa : “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêssia” (Ga 1, 41). Không phải Phêrô là người được gọi trước, nhưng là Anrê. Điều này không cản trở ông thành người lãnh nhận trách nhiệm củng cố đức tin cho anh em mình.
Thứ đến, tại tiệc cưới Canna, chính Phêrô là người chứng kiến phép lạ Chúa Giêsu hóa nước thành rượu và “các môn đệ đã tin vào Người” (Ga 2, 11).
Sau một đêm trắng lưới, Phêrô và em ông là Anrê được gọi: “Hãy theo Thày và Thầy sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ lưới người” (Mt 4, 19). Ngày hôm đó, họ để lại tất cả mọi thứ, gia đình và nghề nghiệp để đi theo Chúa.
Và trên một ngọn núi cao, Phêrô đã được Chúa Giêsu cho thấy vinh quang Thiên Chúa (x. Mt 17, 1-9). Ông được bổ nhiệm làm người đứng đầu của bộ ba, những người sẽ trực tiếp chứng kiến sự phục sinh một cô gái nhỏ (x. Mc 5, 37). Một sự kiện đánh dấu bước tiến đức tin của Phêrô !
Phêrô uyên xưng đức tin
Được cứu khỏi chết đuối trong một cơn bão khi đi trên mặt nước, lần đầu tiên Phêrô tuyên xưng đức tin: “Thật, Thầy là Con Thiên Chúa” (Mt 14, 33).
Thời gian sau, trên đường từ địa hạt thành Xêsarêa Philipphê, Chúa Giêsu hỏi các ông : “Phần các con, các con bảo Thầy là ai ?” (Mt 16, 15). Nhân danh các môn đệ kia, Phêrô trả lời : “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16). Đức tin của Phêrô cũng là của các môn đệ kia, ông thừa nhận và khẳng định lời đầu tiên của Anrê (x. Ga 1, 41), khi nhận lãnh trách nhiệm trong Giáo hội.
Điều này không can ngăn được Chúa Giêsu từ chối đi lên Giêrusalem chịu chết (Mt 16, 22). Chính vì là Con Thiên Chúa, nên thập giá và cái chết của Chúa Giêsu là thử thách nặng nề đối với đức tin của Phêrô. Chúa Giêsu bảo Phêrô: “Con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người” (Mt 16,19).
Đức tin đòi hỏi người ta gắn chặt với thánh ý Thiên Chúa, cho dù có điều gì xảy ra đi chăng nữa. Biến cố biến hình trước Phêrô, Giacôbê và Gioan sẽ là sự bảo đảm : “Đây là Con Ta yêu dấu ” (Mt 17, 5).
Lời tuyên xưng thật sâu xa
Hôm nay Chúa Giêsu vẫn còn hỏi: “Người ta bảo Con Người là ai ? (Mt 16, 13) “Phần các con, các con bảo Thầy là ai ?” (Mt 16, 15) Đây không phải là một cuộc thăm dò ý kiến ​​để biết lòng dân, nhưng là câu hỏi về vị trí của Thầy trong các môn đẹ. Đối với ông, Chúa Giêsu là ai ?
Khởi đầu sứ mạng công khai, trước các phép lạ và lời giảng có uy quyền của người thợ mộc thành Nazareth, một câu hỏi hiện lên trong đầu các môn đệ : “Người này là ai? ” (Mt 8, 27).
Chúa Kitô không yêu cầu các môn đệ phản ánh ý kiến của người khác, Người hỏi dồn và đợi câu trả lời cá nhân của các ông. Và Phêrô đã trả lời Chúa Giêsu mà không liệt kê lại ý kiến của dân chúng như : Ê-li, Gioan Tẩy Giả hay một tiên tri. Ông đi thẳng vào vấn đề. Lời tuyên xưng này còn đi xa hơn trước bởi được long trọng tuyên xưng : “Vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16, 17).
Với Thiên Chúa, hành động đức tin không đến từ sự suy tư nhân loại theo kiểu lý trí, triết học, hay tìm kiếm sự hợp lý, những cần phải có ơn “mạc khải từ Thiên Chúa” để tôn thờ bản tính Thiên Chúa nơi con người Đức Giêsu. Người đã nói với họ : “Không ai biết được Con trừ phi có Cha; và cũng không ai biết được Cha trừ phi có Con và kẻ được Con khấn mạc khải ra cho ” (Mt 11, 27).
Chính lúc Simon đã trả lời đúng về sứ mạng của Chúa Giêsu, cũng là lúc ông được tiết lộ một ơn gọi đặc biệt. Simon trở thành “Kepha” nghĩa là “tảng đá“, “đá“. Simon, con người bằng xương bằng thịt, mỏng giòn, dao động như bao nhiêu người khác, nhờ ân sủng đã vượt qua đượcgiới hạn của chính mình. Nếu ông là “đá“, là vì Chúa Kitô là đá tảng. Đức tin của ông chỉ lớn lên, khi đặt nền tảng trên Chúa. Thử thách trong cuộc Khổ Nạn của Thầy đụng chạm tới cùng sự mỏng giòn của Phêrô, lúc ấy, ông phải dựa vào sức mạnh của Chúa, xây dựng đời mình trên Chúa.
Khi chúng ta khám phá ra Chúa Kitô, là chúng ta khám phá ra chính bản thân, và căn cội của chính mình. Bước vào trong quan hệ cá nhân với Chúa Kitô, Người sẽ mạc khải cho chúng ta căn tính của chính mình, đó là điều Phêrô làm. Khi nghe lời Chúa, bước đi với Chúa, ta thực sự trở nên chính mình. Điều quan trọng không phải là việc thực hiện ý muốn của riêng ta, nhưng là ý Chúa, cuộc sống sẽ trở nên đáng tin hơn. Và nếu ta thực sự muốn được kiện toàn bản thân mình, không có cách nào khác ngoài việc mở rộng đường cho Chúa Kitô.
[Mục Lục]

Bài 8. ĐÁ TẢNG ĐỨC TIN
JM. Lam Thy ĐVD.
Bài Tin Mừng Chúa nhật XXI/TN-A (Mt 16, 13-20) trình thuật: “Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?” Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ.” Đức Giê-su lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Si-môn Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mt 16, 13-16). Nghe lời tuyên xưng chắc nịch như vậy ai cũng tin chắc rằng Thánh Phê-rô có một đức tin “vững như bàn thạch” (vững chắc như bàn đá), không gì lay chuyển nổi. Ấy vậy mà khi thấy Thầy đi trên mặt biển, hoặc sau Phục Sinh hiện ra, thì lại cho là… ma! Thậm chí khi Thầy tiên báo sẽ chối Thầy 3 lần trước khi gà gáy, thì Phê-rô khẳng định chắc như đinh đóng cột: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng sẽ không chối Thầy.” (Mt 26, 35); nhưng thực tế đã xảy ra đúng như Lời Thầy tiên báo: Chỉ bị một tớ gái nhà Cai-pha vặn hỏi, Phê-rô đã chối Thầy 3 lần bằng cách “thề độc mà quả quyết rằng: “Tôi thề là không biết người ấy.” (Mt 27, 74).
Như vậy là vấn đề tuyên xưng đức tin cần phải hiểu thế nào cho ổn? Nói đến vấn đề tuyên xưng đức tin ai cũng cho rằng “xưa như trái đất” và khi nhắc tới thì phần lớn đều có chung một lý luận: “Biết rồi… Khổ lắm… Nói mãi…! Tôi có tin thì tôi mới theo Đạo chứ! Nếu tôi không tin vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm Cứu Độ, mầu nhiệm Giáo Hội, mầu nhiệm các thánh thông công, mầu nhiệm Phục Sinh, thì đâu có ai ép được tôi giữ Đạo?” Nghe qua lập luận, biết ngay là người đưa ra lập luận ấy đã thuộc làu làu Kinh Tin Kính. Đúng là như thế, và quả thực Kinh Tin Kính mà lý luận nêu ra làm luận cứ (“mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm Cứu Độ, mầu nhiệm Phục Sinh, mầu nhiệm Giáo Hội, mầu nhiệm các thánh thông công”) thì ai cũng thuộc nằm lòng. Thánh lễ Chúa nhật nào cũng đọc vanh vách, trơn tru như cháo chảy. Tuy nhiên, tuyên xưng như vậy đã đủ chưa, ấy mới là vấn đề cần xem xét.
Tuyên xưng đức tin như vậy thì mới chỉ là nói lên (tuyên – tuyên bố) niềm tin của minh, chớ chưa thật sự chứng minh được niềm tin (xưng – xưng ra) trong cuộc sống. Nói cách khác, đó mới chỉ là “nói” chớ chưa thực sự “làm” đúng như những điều đã nói. Nói, tuyên bố thì ai chẳng nói được; nhưng đụng chạm vào thực tế có còn dám ngẩng cao đầu tuyên xưng đức tin được như 130.000 chứng nhân anh dũng của Việt Nam liên tục trong 3 thế kỷ (1580-1888) hay không? Cứ nhìn vào khoảng thời gian sau 30/4/1975 ở miền Nam Việt Nam thì đủ rõ. Chưa có ai tra khảo, chưa có ai vặn hỏi (kiểu như tớ gái nhà Cai Pha), vậy mà đã có không ít những người có Đạo vội vàng cất bàn thờ lên gác để chưng hình lãnh tụ, khai vào lý lịch là không tôn giáo, là theo đạo thờ ông bà! Nếu gặp cảnh Đạo Chúa bị bách hại giống như ở triều đại nhà Nguyễn, thì không hiểu con số người ngoan ngoãn, mau lẹ bước qua (thậm chí còn đạp lên) Thánh giá nhiều gấp bao nhiêu lần con số 130.000 anh hùng tử vì đạo?
Quả thật ở cái thế kỷ XXI này, thực tại lịch sử minh chứng vấn đề tuyên xưng đức tin còn thê thảm hơn thời điểm 2000 năm trước (trường hợp Thánh Phê-rô tuyên xưng “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, nhưng lại vẫn coi Thầy là ma, rồi còn chối Thầy nữa!). Và một vấn nạn nảy sinh: Tại sao Đức Giê-su khi nghe Thánh Phê-rô tuyên xưng như vậy lại tin tưởng đến độ trao cho thánh nhân một sứ vụ vô cùng quan trong như thế? (“Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.” – Mt 16, 18-19). Vấn đề đặt ra ở đây là vì Đức Giê-su là Thiên Chúa, Người thấu hiểu tận chân tơ kẽ tóc Thánh Phê-rô (“ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi.” – Mt 10, 30): Với bản tính loài người thì Phê-rô cũng như bao người khác, nhưng Thánh nhân hơn hẳn họ ở đức tính chân thực, công chính, bộc trực và lòng mến bao la. Chỉ cần thêm cho ngài sức mạnh và sự sáng suốt của Đấng Bảo Trợ, thì chắc chắn ngài sẽ là Tảng Đá (bàn thạch) kiên trung xây dựng Hội Thánh Chúa. Và sự thực lịch sử Giáo Hội trải qua 2000 năm đã hùng hồn chứng minh điều đó, không ai phủ nhận được.
Cũng vì thế, nên Đức Giê-su rất thương mến và tin tưởng thánh Phê-rô, và ngay sau khi Thánh nhân tuyên xưng đức tin, Đức Ki-tô đã đặt lại tên là Phê-rô (nghĩa là “Tảng Đá”) thay cho tên gọi trước của ngài là Si-môn. Chẳng những thế, khi thấy đức tin của Phê-rô (và nói chung là các môn đệ) vẫn chưa được kiên định, Đức Giê-su còn âu yếm phán dạy: “Si-môn, Si-môn ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh.” (Lc 22, 31-32). Chính sự kiện này, một lần nữa lại minh họa cho vấn đề tuyên xưng đức tin không những phải được tuyên bố bằng lời nói xuất phát tự tâm can, mà còn phải được thể hiện bằng hành động, bằng cả cuộc sống, bởi “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2, 17).
Suy niệm cho chín chắn bài Tin Mừng hôm nay, sẽ nhận chân được vấn đề là dù thế nào mặc lòng, cũng phải đặt lại việc củng cố đức tin, hãy coi đó luôn luôn và mãi mãi là mối quan tâm hàng đầu của người Ki-tô hữu. Mà muốn củng cố đức tin cho thật vững mạnh thì không gì bắng “nâng tâm hồn và trí khôn lên với Chúa” (cầu nguyện). Đến như Đức Giê-su Thiên Chúa, với quyền năng vô hạn, Người có thể làm cho kẻ chết sống lại, cho cả kẻ “mù nội tâm” được sáng mắt sáng lòng (trường hợp Thánh Phao-lô Tông đồ Trở Lại), thì còn việc gì Người không thể làm được? Vậy mà Người vẫn nói với Phê-rô: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin”. Phải chăng Người nói như vậy (và Người cũng làm như vậy trong suốt hành trình thi hành sứ vụ, là Người luôn luôn cầu nguyện cùng Chúa Cha), là để dạy các môn đệ, các tín hữu hãy cầu nguyện, liên lỉ cầu nguyện (“Anh em hãy cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” – Lc 22, 40; “Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con. Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó” – Ga 14, 13-14).
Cầu nguyện là nhu cầu thiết yếu cho đời sống tâm linh Ki-tô hữu, Có thể khẳng định cầu nguyện gắn chặt với Ki-tô hữu, không thể tách rời; vì Ki-tô hữu là ai, nếu không phải là người nhờ Chúa Thánh Thần, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giê-su mỗi ngày một hơn. Cuộc sống đó chính là đích điểm của đời cầu nguyện. Xin lắng nghe lời Thánh Gia-cô-bê Tông đồ: “Anh em đau khổ ư? Người ấy hãy cầu nguyện. Ai vui vẻ chăng? Người ấy hãy hát thánh ca. Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha. Anh em hãy thú tội với nhau và cầu nguyện cho nhau để được cứu thoát. Vì lời cầu xin tha thiết của người công chính rất có hiệu lực.” (Gc 5, 13-16)
Người ta hỏi Chân Phước Tê-rê-sa Calcutta làm thế nào để Mẹ yêu thương được đám người mà nhân loại đã coi như một đống phế liệu, Mẹ trả lời: “Bí quyết của tôi thật đơn giản: Tôi cầu nguyện”Cuộc đời của Mẹ là cả một chuỗi dài hoạt động bác ái không ngưng nghỉ, vậy mà Mẹ chỉ có một bí quyết: “cầu nguyện”! Sống trước Mẹ hàng thế kỷ, Thánh nữ Tê-rê-sa Hài đồng Giê-su (1873-1897) cũng đã chứng minh hùng hồn hiệu lực của “cầu nguyện”, vì cả cuộc đời ngắn ngủi của ngài sống trong 4 bức tường khép kín của tu viện chỉ là cầu nguyện và cầu nguyện. Đến ngay như Đức đương kim Giáo Hoàng Phan-xi-cô cũng dạy: “Nếu không có cầu nguyện, những việc làm của chúng ta trở nên trống rỗng và lời rao giảng của chúng ta không có hồn, vì nó không được sinh động hóa bởi Chúa Thánh Thần.” và ngài khuyên tín hữu hãy“Cầu nguyện là nói chuyện hằng ngày với Chúa, Đấng luôn lắng nghe chúng ta.” (xc “NHỮNG CÂU NÓI NỔI BẬT CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ” – Thanhlinh.net).
Tóm lại, vấn đề tuyên xưng đức tin tuy “xưa như trái đất”, nhưng coi chừng chúng ta mới chỉ tuyên bố bằng đầu môi chót lưỡi chớ chưa thật sự tuyên xưng bằng chính cuộc sống của mình. Mà như thế thì nào có khác chi mấy ông Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê thủa xưa. Xin hãy khắc ghi vào tận đáy tâm hồn Lời dạy của Người mà Thánh Phê-rô đã tuyên xưng: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mt 16, 13-16), đó là: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm” (Mt 23, 2-3). Mà muốn có một đời sống đức tin kiên trì và vững mạnh để có thể tuyên xưng trước mặt thiên hạ, mà không hề lùi bước trước ba thù, người Ki-tô hữu hãy cầu nguyện, vì cầu nguyện chính là ân huệ của Chúa Thánh Thần. Ước được như vậy. Amen.
[Mục Lục]

Bài 9. HÃY XÂY DỰNG GIÁO HỘI BẰNG NHỮNG VIÊN ĐÁ SỐNG ĐỘNG
Jos. Vinc. Ngọc Biển
“Giáo Hội là mầu nhiệm”;“Giáo Hội là dân Thiên Chúa”. Những khái niệm trên cho thấy Giáo Hội vừa mang tính hữu hình vừa mang tính vô hình. Hữu hình: Giáo Hội là một tổ chức như mọi tổ chức trần gian. Có người lãnh đạo và có những cộng sự khác. Vô hình: vì có Thiên Chúa Ba Ngôi là chủ. Mọi thành phần trong Giáo Hội đều có sự liên đới với nhau, ta gọi đó là: “Mầu nhiệm hiệp thông”.
Như vậy, khi thiết lập Giáo Hội, Đức Giêsu muốn thông qua tổ chức hữu hình để Ngài ban ân sủng siêu nhiên nhằm cứu độ con người. Thế nên, trước khi về trời, Đức Giêsu muốn Giáo Hội tiếp tục công trình cứu độ của Ngài cho đến tận thế. Vì lẽ đó, Đức Giêsu đã đặt Phêrô là người thay mặt Ngài ở trần gian để điều hành Giáo Hội. Tuy nhiên, việc trao ban quyền lãnh đạo cho Phêrô, Đức Giêsu muốn Phêrô phải tuyên xưng và xác tín niềm tin của ông nơi Ngài trước khi nhận lãnh sứ vụ. Đồng thời phải có tâm tình khiêm tốn, chân thành của kẻ bé mọn trong việc xây dựng Nước Trời trên trần gian.
1. Phêrô tuyên xưng đức tin
“Người ta bảo Con Người là ai?” (Mt 16, 13).
Tại sao Đức Giêsu lại hỏi các môn đệ như vậy? Câu hỏi này của Đức Giêsu có ý gì?
Thưa vì những lý do sau:
Thứ nhất, Đức Giêsu và các môn đệ đang ở vùng Cêsarêa Philipphê. Đây là vùng đất của dân ngoại. Địa danh này còn được biết đến là một trung tâm thờ thần Baan. Nơi đây cũng có thể là nơi “chôn rau cắt rốn” của thần Hylạp có tên là Panias: thần thiên nhiên.
Dân chúng ở đây, trong tâm thức của họ, Đức Giêsu chỉ là một nhân vật vĩ đại và thuần túy, hay chỉ là người tiếp nối quá khứ truyền thống của các tiên tri thời Cựu Ước mà thôi. Sẵn có lối suy nghĩ như vậy, nên họ không hiểu rõ sứ vụ Thiên Sai của Đức Giêsu! Vì thế, không lạ gì khi được hỏi về dư luận trong dân chúng về mình, các môn đệ đã thông tri cho Đức Giêsu biết: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ” (Mt 16, 14).Khi nghe thấy như thế, Đức Giêsu không thỏa mãn với câu trả lời đó. Mặt khác, nhân đây, Ngài muốn mặc khải cho các ông về con người và vai trò Thiên Sai của mình. Vì thế, Ngài đã hỏi trực tiếp các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Simon Phêrô thưa: “Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 15-16).
Khi Phêrô tuyên xưng điều đó, có lẽ ông cũng không hiểu hết, bởi vì mầu nhiệm này quá sức của ông và các môn đệ khác.
Quả thật, “Đấng Kitô” mà Đức Giêsu muốn các môn sinh của mình hiểu ở đây không chỉ đơn thuần theo nghĩa là Đấng được Thiên Chúa sinh ra, mà còn là người hành động như Thiên Chúa, ngang bằng với Thiên Chúa. Còn “Con Thiên Chúa hằng sống”, tức Ngài là Đấng tự hữu và tự tồn tại, vì thế “Ngài ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”.
Thứ hai, đây là dịp để Đức Giêsu trắc nghiệm niềm tin của các ông vào mình, bởi lẽ không thể trao phó một trách nhiệm quan trọng mang tính trường tồn cho một kẻ kém tin, kiêu ngạo, tự phụ và không hiểu biết gì về mình.
2. Phêrô đón nhận sứ vụ
Ngay sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin, Ðức Giêsu nói với ông: “Này anh Simon con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Ðấng ngự trên trời” (Mt 16, 17)Qua câu nói đó của Đức Giêsu, và lúc khác kết hợp với lời tạ ơn của chính Ngài: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11, 25), cho chúng ta thấy rất rõ rằng: sứ vụ mà Phêrô sắp được lãnh nhận ở đây không phải là của người khôn ngoan, trí thức, quyền quý, theo kiểu người đời vẫn hiểu, mà là dành cho những người bé mọn theo ý Chúa. Lời tuyên tín của Thánh Phêrô “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” không thuộc phạm trù “sự hiểu biết thuộc về con người”, nhưng thuộc về “thế giới siêu nghiệm”,và vì thế, để hiểu được tất cả ý nhĩa của lời tuyên tín trên thì cần phải được mặc khải từ Thiên Chúa, và người đón nhận phải đơn sơ, chân thành.
Thật vậy, sứ vụ mà Phêrô sắp lãnh nhận là trở thành chủ chăn, là người lãnh đạo, nhưng khi thi hành thì phải mang trong mình tâm tình khiêm nhường và phục vụ chứ không được dùng quyền để đàn áp, thống lãnh và ăn trên ngồi trước như người đời… Biết can đảm, trung thành trước mọi thử thách và cuối cùng là biết phó thác nơi Thiên Chúa như những người bé mọn.
Vì thế, khi Phêrô tuyên xưng niềm tin, ngay lập tức, Ngài đã đổi tên của ông là Simon thành Phêrô và giải thích là “Đá Tảng”. Nhắc đến đá, ta nhớ ngay những đặc tính của nó như: cứng; bền; chắc. Và khi Đức Giêsu ví Giáo Hội được xây trên nền đá, Ngài cũng muốn nhấn mạnh đến những đặc tính siêu nhiên.
Cứng: nói lên sức mạnh của Giáo Hội.
Bền: nói lên sự trường tồn của Giáo Hội.
Chắc: nói lên sự vững mạnh của Giáo Hội.
Khi đổi tên như thế, Ngài đã biến ông từ một kẻ nhát đảm, kém tin, bồng bột trở thành biểu tượng của sức mạnh, trường tồn và bền vững: “Trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16, 18). Không những thế, Đức Giêsu còn trao cho Phêrô quyền tuyệt đối khi nói: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16, 19).
Theo quan niệm của người Do thái vào thời đó, “quyền lực của tử thần” là “khả năng giam giữ các kẻ chết”. Câu này có ý nói đến uy quyền của ma quỷ, chúng dùng sự dữ để đưa người ta vào con đường tội lỗi, và giam giữ họ trong sự chết đời đời.
Tuy nhiên, cần phải hiểu rộng hơn nữa về thứ quyền lực của thế gian nơi những kẻ bách hại Giáo Hội, quyền lực của những kẻ sỉ vả và vu khống các môn đệ Đức Giêsu, quyền lực của những kẻ chỉ giết được thân xác… Nhưng cũng như quyền lực của ma quỷ, chúng sẽ không thể tiêu diệt được Giáo Hội, vì Giáo Hội được Đức Giêsu xây dựng trên nền tảng ân huệ lòng tin mà Chúa Cha ban cho những người bé mọn theo thánh ý Ngài.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Khi Giáo Hội được Đức Giêsu xây trên nền đá vững chắc ấy. Cộng đoàn những người tuyên xưng cùng một lòng tin mà Phêrô vừa tuyên xưng thì được ví như một tòa nhà do chính Đức Giêsu xây dựng trên “tảng đá” Phêrô và mỗi chúng ta: “… như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Ðền Thờ thiêng liêng” ấy (x. 1Pr 2,5). Khi nói đến viên đá sống động, hẳn chúng ta không thể hiểu theo ngôn ngữ chết, mà phải hiểu trong tương quan với Thiên Chúa và với anh chị em chúng ta.
Câu hỏi của Đức Giêsu với các môn đệ: “Người ta bảo Con Người là ai?” cũng là câu hỏi dành cho mỗi người chúng ta. Bổn phận của chúng ta là phải trả lời cho được câu hỏi đó. Nếu trả lời như Phêrô khi xưa: “Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Thì hẳn chúng ta phải biểu lộ niềm tin của mình vào Đấng đã cứu chuộc mình cách đúng nghĩa.
Thật vậy, muốn thuộc về Đức Giêsu, chúng ta phải đi lại con đường thập giá của Ngài đã đi và sống nguyên lý của mầu nhiệm tự hủy, khiêm tốn, can đảm, trung thành và phó thác.
Nếu không, đức tin của chúng ta chỉ là thứ đức tin “ấu trĩ” được mua bằng một “giá rẻ”. Nếu quả là vậy, thì mãi mãi vẫn chỉ là một đức tin “nghèo nàn” và thiếu đi “cốt lõi” của niềm tin.
Thánh Giacôbê Tông đồ đã nói: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2, 17), và thánh Gioan đã quả quyết:“Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người [...]. Ai nói rằng mình ở lại trong Người, thì phải đi trên con đường Ðức Giêsu đã đi” (1,Ga 2,3-6).
Như vậy, tin Đức Giêsu thì cũng hành động như Ngài và tuân theo lời dạy yêu thương của Ngài: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34) và như thế, niềm tin của chúng ta sẽ được lan truyền sang cho mọi người như lời Đức Giêsu đã nói:“Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 17).
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con ngày càng theo sát Chúa trên con đường thập giá là con “đường độc đạo” con “đường thật” dẫn đến “sự sống”. Xin cũng ban cho chúng con luôn yêu mến, vâng phục đấng thay mặt Chúa, kế vị các tông đồ và sẵn sàng dấn thân xây dựng Giáo Hội của Chúa trên trần gian. Amen.
[Mục Lục]

Bài 10. Hội Thánh của Chúa
ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt
“Con là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”.Với lời này, Chúa Giêsu chính thức thiết lập Hội Thánh. Lời Chúa cho ta thấy những đặc tính của Hội Thánh.
Đó là một Hội Thánh cho con người.
Chúa Giêsu xây dựng Hội Thánh trên nền đá Phêrô. Phêrô vốn là một người yếu đuối. Đời ông nhiều thất bại hơn thành công, nhiều yếu đuối hơn mạnh mẽ. Đã từng ra khơi suốt đêm để sáng sớm trở về tay trắng. Đã từng chìm xuống khi muốn đi trên mặt nước. Đã từng ngủ mê khi phải canh thức với Thầy trước giờ tử nạn. Và tệ hại nhất là đã từng chối Thầy ba lần khi Thầy chịu khổ nạn. Nền tảng tượng trưng cho cả toà nhà. Nền tảng Phêrô là một con người yếu đuối cũng như cả Hội Thánh gồm những con người mỏng giòn. Những thất bại của Phêrô thường diễn ra trong bóng đêm. Đánh cả suốt đêm không được gì. Chìm xuống mặt nước lúc ban đêm. Ngủ gật trong vườn Cây Dầu khi trời tối. Chối Thầy trong bóng đêm. Đó là hình ảnh Hội Thánh còn phải lần mò đi trong đêm tối thử thách của thế giới với những yếu đuối của con người. Chúa dùng người yếu đuối để qui tụ những con người yếu đuối. Chúa sử dụng những phương tiện của con người để nâng đỡ con người.
Đó là một Hội Thánh của Thiên Chúa.
Tuy Hội Thánh dành cho con người, gồm những con người yếu đuối, nhưng đó lại là Hội Thánh của Thiên Chúa. Hội Thánh của Thiên Chúa vì chính Thiên Chúa thiết lập. Chúa Giêsu xác định đây là “Hội Thánh của Thầy”. Hội Thánh của Thiên Chúa nên sống bằng sức sống của Thiên Chúa chứ không bằng sức sống của con người. Thật vậy, Hội Thánh rất yếu đuối. Có những yếu đuối khi phải đương đầu với những khó khăn thử thách bên ngoài. Biết bao vua chúa đã muốn triệt hạ Hội Thánh khi Hội Thánh chỉ là một nhóm những người bé nhỏ nghèo hèn. Có những yếu đuối từ trong nội bộ. Biết bao lần chia rẽ, phân ly. Biết bao lỗi lầm tai hại tưởng như khiến Hội Thánh đổ nát tan tành. Nhưng Hội Thánh vẫn đứng vững với thời gian. Vì đó là Hội Thánh của Thiên Chúa.
Hiểu biết như thế, ta phải có thái độ thích hợp.
Vì Hội Thánh là chính chúng ta, những con người mỏng giòn, nên ta cần khiêm nhường. Khiêm nhường nhận biết mình yếu đuối. Khiêm nhường nhận biết Hội Thánh còn chưa thánh thiện. Khiêm nhường như thánh Phêrô suốt đời cầu xin lòng thương xót của Chúa. Khiêm nhường như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II công khai lên tiếng xin lỗi về những sai sót của Hội Thánh. Ta không chỉ khiêm nhường khi đấm ngực chuẩn bị dâng thánh lễ, mà còn phải khiêm nhường trong đời sống hằng ngày.
Vì Hội Thánh là cho con người nên ta cần có thái độ cảm thông. Biết mình yếu đuối, tôi sẽ dễ cảm thông với những yếu đuối của anh em. Cảm thông không phải để mặc anh em chìm xuống, những để giúp anh em vượt lên. Như lời Chúa dạy Phêrô: “Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22, 32)
Vì Hội Thánh là của Chúa nên ta phải hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Biết mình u mê, ta sẽ phó thác cho Chúa hướng dẫn cuộc đời. Biết mình yếu đuối, ta sẽ không còn cậy dựa vào sức riêng, nhưng hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, làm việc bằng sức mạnh của Chúa. Như thánh Phêrô giảng đạo trong ngày lễ Ngũ Tuần nhờ ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
Chính Chúa là sức mạnh của Hội Thánh. Phêrô là Đá Tảng nhưng chính Chúa làm cho Đá Tảng vững bền. Phêrô giữ chìa khóa nhưng chính Chúa gìn giữ tòa nhà.
Lạy Chúa, xin thánh hoá Hội Thánh Chúa. Amen.
[Mục Lục]

Bài 11. Phần quan trọng của cơ thể
Lm Jos. Tạ Duy Tuyền
Có một người mẹ trẻ thường hay đố đứa con gái rằng: “Phần nào trong cơ thể quan trọng nhất?”. Em trả lời rằng âm thanh là quan trọng nhất nên đôi tai là bộ phận quan trọng nhất trong cơ thể. Thế nhưng người mẹ lắc đầu bảo rằng: “Có rất nhiều người điếc, họ không cần âm thanh”. Một thời gian sau, người mẹ lại hỏi và lúc này đứa bé đã lớn hơn một chút nên nó nhận xét: hình ảnh là quan trọng nhất trong cuộc sống nên đôi mắt là phần quan trọng nhất. Người mẹ âu yếm nói với con: “Nhiều người mù họ không cần hình ảnh. Đôi mắt vẫn chưa phải là cần thiết nhất. Con hãy tiếp tục suy nghĩ”.
Sự kiện được tiếp tục nhiều năm tháng trôi qua, cho tới hôm ông nội của đứa trẻ hấp hối qua đời. Người mẹ dẫn con lại chào ông nội lần cuối và nói rằng: “Con đã tìm ra câu trả lời chưa?”. Đứa con ngạc nhiên vì câu hỏi của mẹ trong lúc này, nó tưởng rằng đây chỉ là trò đùa giữa hai mẹ con, nhưng người mẹ trịnh trọng nói: “Phần quan trọng nhất trên cơ thể con người chính là đôi vai. Vì đó là nơi người thân có thể dựa vào khi họ khóc. Mỗi người đều cần có một đôi vai để nương tựa trong cuộc sống. Mẹ chỉ mong con có nhiều bạn bè và nhận được nhiều tình thương để mỗi khi con khóc lại có một cái vai để con có thể ngả đầu vào. Hôm nay gia đình chúng ta đã mất đi đôi vai của người cha, người ông. Một con người mà cả gia đình đã nương tựa nay đã không còn”.
Vâng, phần quan trọng nhất của con người không phải là phần để cho mình mà là để cho tha nhân. Vì thế, một con người quan trọng trong xã hội là một con người có ích cho người khác. Một người được yêu mến và quý trọng không phải vì địa vị hay chức quyền mà là vì sự đóng góp của họ với cộng đồng nhân loại.
Hôm nay, sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phêrô, Chúa đã đặt Phêrô làm đá tảng của Giáo hội. Chúa không bảo Phêrô trở thành một cục đá vô hồn mà là một viên đá sống động, một chỗ dựa cho các tông đồ và cho toàn thể giáo hội. Phêrô phải là một tảng đá có một đức tin vững chắc đến nỗi không có gì lay chuyển nổi mới có thể bảo vệ và gìn giữ Giáo hội. Chúa cũng biết con người Phêrô còn đầy bất toàn, yếu đuối, nhưng Chúa cũng nhận thấy Phêrô có một tấm lòng nhiệt thành theo Chúa. Ông mến Chúa. Ông luôn mong muốn hoàn thiện đời mình. Ông đã từng vấp ngã, nhưng ông mau làm lại cuộc đời. Chúa chọn ông không vì tài năng đức độ, nhưng vì lòng chân thành của ông. Chúa dùng ông, một con người đã từng vấp ngã để có thể nâng đỡ đức tin còn yếu kém nơi anh em. Chính Chúa đã từng nói với Phêrô: “Khi nào con trở về, con hãy củng cố đức tin anh em con”.
Hôm nay, Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy trở nên những viên đá sống động để xây dựng Giáo hội. Tuy nhiên, mỗi người một khả năng, mỗi người một hoàn cảnh, Chúa mời gọi chúng ta hãy biết tự xây dựng đời mình bằng những vật liệu mà chúng ta đang có để trở thành những viên đá hữu ích cho tha nhân. Đặc biệt là cho gia đình chúng ta đang sống. Có nhiều người nghĩ rằng: mình phải làm ông này bà nọ mới có thể cống hiến cho tha nhân. Đó là chuyện của tương lai, nhưng ngay hôm nay, chúng ta hãy biết vận dụng những khả năng, hoàn cảnh Chúa ban để giúp đời, để cứu đời, để xoa dịu nỗi đau cho những người chung quanh, để trở nên điểm tựa cho anh chị em chúng ta.
Nếu chúng ta là người chồng hay người vợ: hãy đưa vai gánh lấy cuộc đời nhau. Hãy là điểm tựa để nâng đỡ chia sẻ buồn vui và cùng dìu nhau qua những thăng trần của dòng đời.
Nếu chúng ta là người cha, người mẹ: hãy là điểm tựa cho con cái. Hãy sống vì gia đình, vì con cái mà quên đi những niềm vui riêng của mình. Hãy chu toàn bổn phận của mình để xứng đáng là núi thái sơn, là biển rộng bao la cho con cái hưởng nhờ sự ấm áp, sự chở che của tình cha nghĩa mẹ.
Nếu chúng ta là con cái trong gia đình: hãy gánh vác trách nhiệm với gia đình. Hãy quan tâm tới gia đình, đừng vì sự lười biếng, cẩu thả của mình mà trở thành gánh nặng cho gia đình.
Nếu chúng ta là thành viên trong cộng đoàn nhân loại: hãy chung vai góp sức xây dựng hoà bình. Hãy hỏi với lòng mình: “Tôi đã làm gì cho thế giới này được tốt đẹp hơn?”. Hãy biết dùng cuộc đời nhỏ bé của mình để trở nên những viên gạch xây dựng thế giới này mỗi ngày hạnh phúc và an khang hơn.
Trong cuộc sống không có việc gì là việc tầm thường đến nỗi không đáng cho chúng ta làm mà chỉ có những con người tầm thường khi thiếu trách nhiệm với gia đình và xã hội. Có thể công việc của chúng ta thật bé nhỏ, thật âm thầm nhưng nó lại thật cần thiết cho gia đình và xã hội. Tựa như viên đá góc tường nhỏ bé nhưng không thể thiếu khi muốn xây dựng ngôi nhà cao rộng hơn.
Tuy nhiên, muốn trở thành chỗ dựa cho tha nhân, chúng ta cần phải biết xây dựng đời mình trở nên những viên đá vững chắc, nghĩa là mỗi người cần biết rèn luyện đức hạnh đời mình trên nền móng Lời Chúa và phải được tôi luyện hằng ngày qua việc tìm kiếm và thực thi thánh ý Chúa. Đó chính là người khôn ngoan. Vì kẻ khôn ngoan là người biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa, cho dù có gặp thử thách, gian truân, tựa như nước lũ ngập tràn cũng không lay chuyển. Còn kẻ thiếu đức hạnh, thiếu nền tảng Lời Chúa, không chỉ làm hỏng đời mình mà còn gây tai hoạ cho biết bao người khác, vì “mù dắt mù cả hai sẽ rơi xuống lỗ”.
Xin Chúa giúp chúng ta biết uốn nắn đời mình trở thành những viên đá sống động và hữu ích cho gia đình và những người chung quanh. Amen.
[Mục Lục]

Bài 12. Đi sau Chúa
Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
Đang khi dân chúng còn mù mờ về vai trò và con người của Đức Giêsu thì Phêrô, vị Giáo hoàng tiên khởi đã mạnh mẽ tuyên xưng: “Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Phêrô được khen là có phúc vì nhận được mạc khải từ trên cao. Thế nhưng chỉ một khoảnh khắc sau, chính Phêrô lại bị Thầy mình trách là “Satan” vì lòng dạ tăm tối, chỉ “hiểu biết những sự thuộc về loài người” và đang “làm cớ cho Thầy vấp phạm”.
Phêrô tuy nhận chân Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, nhưng trong cái nhìn của ông, Đấng Cứu Thế sẽ là người hùng mạnh, đánh đông dẹp bắc, chinh phục vua Chúa, thâu tóm quyền hành, và rồi đăng quang thống trị thế giới.
Đức Giêsu hiểu rõ quan niệm trần gian của các tông đồ về Đấng Cứu Thế, nên ngay sau lời tuyên xưng đức tin của Phêrô, Ngài cấm các ông nói cho người khác những gì họ mới biết. Ngài muốn giúp các ông thay đổi quan niệm về Đức Kitô. Đức Kitô đúng nghĩa sẽ là đấng phải đau khổ, bị từ khước, chịu giết chết trước khi đi đến toàn thắng. Sức mạnh của Đức Kitô không ở trong binh khí hay chiến mã như bao vua chúa trần gian, song là nơi thập giá khổ đau. Chiến lược của Đức Kitô là đi xuống chỗ tận cùng trong lũng sâu nước mắt của nhân loại để nâng tất cả lên trong vinh quang của Thiên Chúa.
Nhưng nào các tông đồ có hiểu được điều đó! Và đâu phải chỉ có các ông. Chính tôi lắm khi cũng không hiểu nỗi đấy chứ. Tôi cứ nghĩ Chúa là Đấng quyền năng đầy sức mạnh, phải cứu con người khỏi bao gian nan, khốn khổ, trái ý trên đường đời; phải ra tay làm nhiều phép lạ cho người ta tin; chứ đàng này Chúa lại im như bất lực, thậm chí còn để cho dân Chúa, Giáo hội Ngài chịu biết bao thách đố đau thương.
Cũng như Phêrô, tôi muốn chỉ cho Chúa phương cách cứu thế, chứ làm theo kiểu của Chúa thì e rằng chẳng còn ai tin và Ngài sẽ thất bại ê chề.
Cũng như Phêrô, tôi muốn chận Chúa lại, không cho Ngài tiếp tục cuộc hành trình kỳ quặc về Giêrusalem. Tôi muốn “dạy” cho Ngài lối đường nên đi. Tôi muốn Ngài rút bớt điều kiện cho mọi người cảm thấy nhẹ nhàng; cung cấp bánh ăn, của cải vật chất dư đầy cho người ta theo đông; làm nhiều phép lạ, ảo thuật giựt gân cho dân chúng thích thú.
Nhưng Chúa Giêsu quát lên: ‘Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Ta”.
Có hai lần trong đời mình, Chúa Giêsu đã dùng đến chữ “Satan”. Một lần với tên Cám dỗ và lần này với Phêrô. Satan đối nghịch với Thiên Chúa. Satan làm đảo lộn trật tự thế giới. Satan phá hoại chương trình của Thượng Đế nơi con người. Thế nên lời quở mắng “Satan” là lời khiển trách nặng nề nhất.
Nhưng để ý sẽ thấy: trong lần quở mắng tên Cám dỗ, Chúa Giêsu bảo nó “hãy cút đi”, Ngài không còn muốn thấy mặt nó nữa; nhưng khi khiển trách Phêrô, Chúa Giêsu lại nói “hãy lui ra sau Ta”. Như thế Ngài vẫn cho người môn đệ cơ hội hoán đổi hướng nhìn và cách đi. Thay vì đi trước và chỉ lối cho Chúa, tôi phải hướng theo và tiếp bước sau Ngài.
Satan không thể bước theo Chúa vì bản chất kiêu ngạo của nó. Nhưng riêng tôi, dù bao vấp phạm lầm lỡ, dù lắm khi sống theo ý mình, hay từng chạy theo tiếng gọi của quỉ ma, tôi vẫn được ban cho cơ hội làm lại hành trình của người môn đệ Đức Kitô, dẫu biết rằng không môn đệ chân chính nào của Ngài lại không phải mang thập giá: “Ai muốn đi sau Ta thì hãy chối bỏ mình, hãy vác lấy khổ giá mình và theo Ta” (Mt 16:24).
Thánh Phêrô, sau lời khiển trách của Thầy, đã về lại với chỗ đứng đúng nhất của mình: ông không đòi Chúa theo ý mình, song là vâng theo ý Chúa; ông không dẫn đường cho Chúa nhưng là bước theo dấu chân Ngài. Cao điểm của sự “đi theo” này là việc Phêrô chịu đóng đinh thập giá vì Đức Kitô vào năm 69 AD.
Như thế, vị Giáo hoàng tiên khởi, với biết bao yếu đuối sa ngã, cuối cùng đã lấy cái chết của mình để xác minh chân lý thập giá. Từ chỗ muốn dạy cho Thầy mình về sự khôn ngoan của thế gian đến việc khám phá và ôm ấp giá trị sâu xa sự điên rồ của Thiên Chúa. Từ chỗ phủ nhận và ngăn chận Thầy mình bước đi trên con đường khổ đau, đến việc chính mình anh dũng tiến vào. Nhưng nhờ đâu mà Phêrô có được thái độ và hành vi hào hùng đó? Phải chăng chính nhờ niềm xác tín vào Đức Giêsu, Đấng ông đã tuyên xưng. Nếu không có xác tín, hẳn ông đã chẳng dám theo.
Niềm tin mãnh liệt vào Đức Giêsu thúc đẩy người ta vâng theo lời Ngài. Khi Chúa bảo “Hãy lui ra sau Ta”, Phêrô vâng lời lui ra chứ không giận dỗi bỏ đi. Khi bị mắng là “Satan”, Phêrô vẫn khiêm tốn nhìn nhận tầm nhìn nông cạn của mình chứ không tự ái phản đối.
Thử hỏi tôi có được niềm xác tín làm phát sinh thái độ khiêm tốn và nghe lời Chúa như thế không, hay tôi vẫn khăng khăng chối từ lối đường thập giá?
Một nhà tư tưởng quả quyết: “Luật của thập giá là luật phổ quát. Làm người, không ai thoát khỏi thập giá”. Như thế chối từ thập giá là chối từ làm người đúng nghĩa.
Nhưng phải vác thập giá theo Đức Giêsu-tức là sống theo những giá trị Tin Mừng như vị tha, thanh khiết, chân thật, từ tâm, phục vụ, quên mình…-tôi mới là con người trọn vẹn, một con người phản chiếu dung mạo Thiên Chúa.
[Mục Lục]

Bài 13. Đức Kitô, Ngài Là Ai?
Lm. Nguyễn Trung Tây
Có lẽ danh từ Kitô đã trở nên quá quen thuộc, cho nên nhiều người tín hữu đã quên mất đi ý nghĩa của danh xưng này. Kitô, chữ Việt Nam hay kristós trong tiếng cổ Hy Lạp, hay mýh, mêsia, trong tiếng cổ Do Thái có nghĩa Đấng [được] Xức Dầu. Vua Saolê và vua Đavít, hai vị vua đầu tiên của dòng lịch sử ơn cứu độ cũng có thể được gọi là kitô và mêsia, bởi họ đã từng được Thiên Chúa xức dầu qua bàn tay của ngôn sứ Samuel (1Samuel 9,26-27; 10,1; 16,12-13). Cho nên, khi tuyên xưng Đức Giêsu là Đức Kitô hay Đấng Mêsia, người tín hữu đang tuyên xưng tôi tin Đức Giêsu chính là Vua [được Xức Dầu]. Bàn về danh từ thần học Kitô, câu hỏi được đặt ra trong bài tiểu luận này, “Đức Kitô, Ngài là ai?”
Do Thái vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên nằm dưới ách thống trị của đế quốc La Mã. Sống trong tình trạng nô lệ, bị kìm kẹp bởi người ngoại bang, dân Do Thái cầu nguyện và chờ đợi Giavê Thiên Chúa sẽ can thiệp, gửi tới Đấng Thiên Sai, hay Đấng Kitô, hay Đấng Mêsia. Đấng Thiên Sai sẽ lãnh đạo dân chúng đánh đuổi người La Mã ra khỏi đất của sữa và mật ong – tương tự như thời Cựu Ước, Giavê Thiên Chúa đã xức dầu phong vương cho Vua Saolê và Vua Đavít, cả hai đã đánh đuổi người Philistine ra khỏi đất hứa. Sau đó cả hai đã thống nhất, xây dựng Do Thái, biến vùng Đất Hứa trở thành cường quốc trong vùng Trung Đông vào thế kỷ thứ 10 và thứ 9 trước Công Nguyên.
Vào một ngày kia, trong vùng đất dân ngoại, kế cận thành Cêsarê Phêlípphê, nằm phía đông bắc của Galilê, Đức Giêsu hỏi các môn đệ một câu hỏi bất ngờ,
- Người ta nói Thầy là ai?
Các môn đệ tranh nhau nhắc lại tên của những vị ngôn sứ trong thời Cựu Ước,
- Người ta nói Thầy là Êlia.
- Có người nói Thầy là tiên tri Giêrêmia,
- Có người nói Thầy là Gioan Tẩy Giả.
Sau khi lắng nghe các môn đệ tranh nhau tường thuật lại những điều người dân đương thời đồn đại về căn tính của mình, Đức Giêsu một lần nữa lại cất tiếng hỏi,
- Vậy [riêng các con], các con nghĩ Thầy là ai?
Phêrô khẳng khái trả lời,
- Thầy là Đức Kitô (Lc 9,20), Con Thiên Chúa hằng sống (Mt 16,13-20).
Qua câu nói này, Phêrô tuyên xưng hai điều,
(1). Ông tin rằng Đức Giêsu chính là Đấng Xức Dầu bởi Thiên Chúa, và nhiệm vụ của Ngài là lãnh đạo dân Do Thái, đánh đuổi người La Mã, giải cứu dân chúng thoát khỏi ách thống trị của ngoại bang;
(2). Điều này khá mới lạ, Phêrô tin rằng Đức Giêsu chính là Con của Thiên Chúa.
Không giống như các dân tộc lân bang thờ phượng đa thần, người Do Thái chỉ thờ phượng một Giavê Thiên Chúa là Thiên Chúa duy nhất, “Hỡi Israel, Giavê là Thiên Chúa của chúng ta, Thiên Chúa duy nhất” (Đệ Nhị Luật 6,4). Nhưng từ cửa miệng của Phêrô, một tư tưởng thần học mới đã hé nụ, đó là, Đức Giêsu Kitô chính là Con Thiên Chúa.
Phêrô là một trong những Kitô hữu đầu tiên, theo như thánh Matthêu, đã tuyên xưng mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa, đó là, Giavê Thiên Chúa có ba bản thể (essence): Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Linh. Tín điều này loài người không bao giờ hiểu được, nên được gọi là một Mầu Nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Cho nên, sau lời tuyên xưng của Phêrô, Đức Giêsu đã cất tiếng khen ngợi người thủ lãnh của nhóm Mười Hai là ông đã được Thiên Chúa chúc lành, bởi chính Thiên Chúa đã mạc khải cho Phêrô biết mầu nhiệm của tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi. Sau đó, Đức Giêsu đổi tên Simon sang Phêrô, Kêphas, nghĩa là đá. Bắt đầu từ giây phút đó, Phêrô trở thành nền đá vững chắc trường tồn của Giáo Hội Kitô. Sau cùng, người ngư phủ Biển Hồ cũng được trao ban chìa khóa Nước Trời. Điều gì Phêrô cầm buộc, trên trời cũng sẽ cầm buộc. Điều gì Phêrô tháo cởi, trên trời cũng sẽ tháo cởi (Mt 16,19). [Thánh Phêrô được minh họa trong tay đang cầm hai chìa khóa. Một vài người thắc mắc là tại sao Phêrô lại cầm tới hai chiếc chìa khóa trong tay? Nguyên văn trong bản tiếng Koiné, thánh sử Mátthêu sử dụng chữ klêdas, có nghĩa là những chiếc chìa khóa. Như vậy, vào ngày hôm đó, Đức Kitô đã trao cho Phêrô không phải chỉ là một chiếc chìa khóa. Bao nhiêu chìa khóa? Rất tiếc, thánh Mátthêu không nhắc đến. Nhưng, có lẽ, dựa vào chi tiết của câu nói tiếp theo sau đó, “... dưới đất con cầm buộc điều gì, trên Trời cũng sẽ cầm buộc, dưới đất con tháo cởi điều gì, trên Trời cũng sẽ tháo cởi... (Mt 16,19), người họa sĩ vẽ hình Phêrô nghĩ rằng Đức Kitô đã trao cho vị Giáo Hoàng tiên khởi hai chiếc chìa khóa, một chiếc chìa khóa để cầm buộc, một chiếc chìa khóa để tháo cởi.]
Một vị tu sĩ kể lại, ngày kia trong khi đang dạo chơi trên những con đường tấp nập người của kinh thành Nữu Ước, ông gặp người bạn cố tri từ hồi bên Việt Nam. Sau một vài câu chuyện hàn huyên tâm sự, người bạn nhìn vị tu sĩ e dè hỏi,
- Ông vẫn tin vào Thượng Đế?
Vị tu sĩ đáp,
- Vâng, tôi vẫn tin vào Thiên Chúa.
Tới phiên vị tu sĩ, ông hỏi lại người bạn,
- Còn ông thì sao, ông tin vào ai?
Người bạn móc ví, lôi ra tờ giấy 20$ đô la xanh lè, cười đáp,
- Tôi, tôi tin vào tấm hình này…
Suy Niệm
Ngày xưa, Đức Giêsu đã hỏi các người thân của mình, “Các con nghĩ Thầy là ai?”. Câu hỏi đó, ngày hôm nay, Chúa không hỏi các môn đệ của Ngài nữa, nhưng Ngài đang hỏi chúng ta,
- Con nghĩ Thầy là ai?
Sống trong một xã hội, tiền bạc là trên hết, có tiền mới có nhà, có bồ, có xe hơi BMW, Mercedez, có, gần như rất nhiều, chúng ta rất dễ dàng quên đi sự hiện hữu của Thiên Chúa. Bởi thế, trước câu hỏi, “Con nghĩ Thầy là ai?”, có thể tôi bắt đầu gãi đầu, xoa trán, lúng túng tìm kiếm câu trả lời,
- Hình như… Hình như Thầy không còn là nơi con ẩn náu! Hình như Thầy không còn phải là Đấng con kiếm tìm. Hình như Thầy không phải là Thiên Chúa của con nữa, nhưng là tiền, như người bạn của vị tu sĩ trong câu chuyện đã từng khẳng định. Ngày hôm nay, trong một cuộc sống ngập tràn những tiện nghi vật chất, Laptop mỏng dính, iPod nhẹ tênh, hình như con không còn cảm thấy nhu cầu cần phải có sự hiện hữu của Thầy trong đời sống nữa. Trong một cuộc sống siêu hành tinh, siêu liên mạng, siêu điện tử, và siêu xa lộ, Thầy, Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống đã được con hạ bệ.
Lời Nguyện
Lạy Chúa, một lần nữa, con lại xin lỗi Chúa bởi con đang lúng túng với chính con khi Chúa đang hỏi, “Con nghĩ Thầy là ai?” Xin ban lại cho con một quả tim trong sạch. Xin ban lại cho con một niềm tin quyết liệt để con không còn phải lúng túng với niềm tin, với chính con trong ngày hôm nay, ngày mai và vào ngày cuối đời khi con đang đứng trước mặt Chúa.
[Mục Lục]

Bài 14. Ngài là Đức Kitô!
Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Đoạn 16,13-20 nằm ở trung tâm của tin mừng Matthêô. Đây là đoạn kết thúc và cũng là cao điểm của phần đầu của tin mừng bàn về sứ vụ của Chúa Giêsu tại Galilêa, như là Đấng Thiên Sai được hứa ban (4,17-16,20). Chủ đề chính của đoạn nầy là nói đến căn tính của Chúa Giêsu, và việc Chúa Giêsu trao quyền thủ lãnh cvà điều hành cho Phêrô. Đoạn nầy có thể chia thành ba phần: – Bối cảnh (c. 13a); – Ý kiến về căn tính của Chúa Giêsu (cc. 13b-17); Trao quyền cho Phêrô (cc. 18-19); Kết luận (c. 20).
Bối cảnh (c. 13a)
Bối cảnh của trình thuật nầy là một chỉ dẫn về không gian: Chúa Giêsu “Đến vùng Caisaria của Philip” (c. 13a). “Caesarea của Philip là một nơi rất đẹp dưới chân núi Hermon, trên nguồn nước chính của sông Giorđan. Thần Baal được sùng bái ở đây trong thời Cựu ước; sau đó người Hy lạp thay thế thần Pan vào, và vùng nầy mang tên Paneas, đền thờ của thần gọi là Panion… Vua Hêrôđê Cả xây một đền thờ cẩm thạch cho Augustus Caesar, người đã hiến cho ông vùng nầy; và Philip, vị tổng trấn sau đó đặt lại tên cho thành là Caesarea để tôn kính hoàng đế. Tên “Philippi” nghĩa là “của Philip” được thêm vào để phân biệt vùng nầy với bờ biển *Caesarea (x. Cv 8,40)…” (D.F.P., Caesarea Philippi, in Wood, D. R. W.; Marshall, I. Howard: New Bible Dictionary. 3rd ed. Leicester, England, 1996, p. 153). Chính giữa khung cảnh vùng “linh thánh” nầy, dâng kính cho các thần từ thời xa xưa đến giờ, Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ câu hỏi liên quan đến bản thân Ngài: “Người ta nói Con Người là ai?” Và Phêrô trả lời “Thầy là Đấng Kitô” (Mt 16,13-20; Mc 8,27-30; x. Lc 9,18-22).
Ý kiến về căn tính của Chúa Giêsu (cc. 13b-17)
Phần nầy thuộc dạng tường thuật, kể lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và các môn đệ; vì thế các động từ ở ngôi thứ ba. Đoạn nầy mở đầu với câu hỏi “Người ta nói Con Người là ai?” (c. 13b) và đóng lại bằng câu trả lời của Phêrô “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (c. 16). Như thế, “Con Người” được đồng hóa với “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng Sống”. Câu hỏi trên Chúa Giêsu đặt ra hai lần: một là để biết ý kiến của “người ta” (c. 13b), hai là ý kiến của các môn đệ (c. 15).
Về ý kiến của người ta, có nhiều phát biểu khác nhau. Điểm chung giữa các phát biểu nầy là họ xem Chúa Giêsu như là một ngôn sứ. Ý kiến về Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả đã thấy trong lời của Hêrôđê: “Ấy Yoan Tẩy Giả đó, ông ấy đã sống lại khỏi cõi chết, và vì thế những phép lạ mới phát hiện nơi Ngài” (14,2). Người khác cho rằng Chúa Giêsu là Êlia, vì Êlia “đến để tu chỉnh mọi sự” (17,11), và họ thấy điều nầy nơi lời rao giảng và việc làm của Chúa Giêsu. Vào gần cuối tin mừng Matthêô sẽ nói là đông đảo dân chúng cho rằng Ngài là một ngôn sứ xuất thân từ Nazaréth niền Galilêa (21,11.46).
Có một ý kiến khác không phải từ giữa dân chúng, mà cũng không từ giữa nhóm môn đệ của Chúa Giêsu, đó là của Gioan Tẩy Giả. Ông đã đặt câu hỏi về Chúa Giêsu: “Có phải Ngài là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi người khác? (11,3). Và Gioan Tẩy Giả chỉ nhận được câu trả lời là hãy nghe những điều Ngài rao giảng và xem những hành động Ngài làm thì sẽ biết Ngài là ai (x. 11,4).
Với các môn đệ trước đây họ cũng thắc mắc Chúa Giêsu là ai (8,27). Hôm nay họ có câu trả lời từ miệng Simon Phêrô “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (c. 16). So với các bản văn song song, lời tuyên xưng trong Matthêô dài hơn, thêm câu “Con Thiên Chúa hằng sống” (Mc 8,29; Lc 9,20; Ga 6,69). Đối với Matthêô, việc thêm nầy giúp xác định rõ hơn “Đức Kitô”, ho Christus. Ngay đầu tin mừng, “Đức Giêsu Kitô” được viết là “con Đavít, con Abraham” (1,1), nghĩa là Ngài được biết đến là thuộc dòng họ vua Đavít (1,17) và dân Israel thuộc mọi tầng lớp khác nhau đều xem Ngài là “Con vua Đavít” (9,27; 12,23; 15,22; 20,30tt; 21,9.15; 22,42). Tuy nhiên, không chỉ như thế. Ngài còn là “Con của Thiên Chúa hằng sống”. Chú ý là từ Christòs và hyios đều có mạo từ xác định, nghĩa là xác định rằng “Đấng Kitô nầy chính là Con của Thiên Chúa hằng sống”. Cách nói nầy chỉ được lập lại một lần nữa trong lời thẩm vấn của vị thượng tế (26,63; x. 27,40.43), và trong câu trả lời, chính Chúa Giêsu đã làm chứng về mình (26,64). Động tính từ zòvtos, “hằng sống” bổ nghĩa thêm cho “Thiên Chúa”. Ngài là Thiên Chúa của Abraham, Isaac, Giacóp… Thiên Chúa của kẻ sống” (22,32; 26,63), cũng có nghĩa là Thiên Chúa của dân Israel. Vậy Đức Giêsu Kitô, chính là Con của Thiên Chúa của tổ phụ dân Israel và Ngài được Thiên Chúa nầy sai đến, chứ Ngài không phải là một ngôn sứ (x. 14,33).
Lời tuyên xưng nầy không bởi “nghe và thấy” thuộc về kinh nghiệm con người, mà bởi mạc khải của Cha trên trời, như lời xác định của Chúa Giêsu (c. 17). Cụm từ “xác và máu” không thấy nơi khác trong các tin mừng. “Xác và máu” là thuộc về thân xác con nguời, và cũng là những gì của con người (19,5). Nó chỉ sự yếu đuối và hạn chế của con người so với tinh thần và Thiên Chúa (26,41; x. Ga 6,65; 1 Co 15,50). Bởi đó, Simon Phêrô không thể bởi kinh nghiệm và sự hiểu biết thuộc về con người mà có thể tuyên xưng Ngài là “Đấng Kitô. “Phúc cho”, makarios, chỉ phúc lành của Thiên Chúa ban cho ông. Cái phúc của Phêrô là được Chúa Cha mạc khải cho biết Chúa Giêsu là Con của Thiên Chúa hằng sống. Vậy lời tuyên xưng của Phêrô là câu trả lời chính xác nhất cho câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra “Con Người là ai?”.
Trao quyền cho Phêrô (cc. 18-19)
Phần nầy chỉ có trong Matthêô. Nó gồm các câu nói trực tiếp, động từ ở ngôi thứ nhất và thứ hai, và các đại danh cũng thế. Hai câu 18 và 19 có cấu trúc tương tự là một lời trực tiếp Chúa Giêsu nói với Phêrô + hai khẳng định tương phản nhau khai triển từ khẳng định trước: – Câu 18: “Tôi nói với anh: anh là Đá – “trên đá nầy Thầy sẽ xây dựng hội thánh của Thầy” – “cửa hoả ngục không thể phá được”; – Câu 19: “Tôi trao cho anh: chìa khóa Nước Trời” – “Sự gì anh cầm buộc…” – “Sự gì anh tháo gỡ…”.
“Anh là Đá” (c. 18) rất khớp với câu khẳng định của Chúa Giêsu “Thầy là Đấng Kitô”. Cả hai đều dùng “Thầy là /anh là…”. Phêrô đã cho biết Chúa Giêsu là ai, và Chúa Giêsu cũng cho biết Simon là Petros, nghĩa là Đá. Tên Petros không phải lần đầu tiên được nhắc đến ở đây, mà đã thấy ở các đoạn trước (4,18; 8,14; 10,2; 14,28). Tuy nhiên những bản văn ấy không cho biết khi nào và tại sao có tên nầy được dùng, và nó mang ý nghĩa gì. Tên nầy đã được dùng mà không được giải thích. Chỉ trong đoạn 16,18-19 nầy, chúng ta mới thấy nguồn gốc và ý nghĩa trọn vẹn của nó. Đặt tên mới là trao ban một ơn gọi. Abram được Thiên Chúa gọi là Abraham, vì Ngài sẽ đặt ông làm cha nhiều dân tộc, các dân và con cháu ông sẽ được Thiên Chúa chúc phúc bởi ông, và Thiên Chúa sẽ là Thiên Chúa của họ (Kn 17,1-8). Cũng thế Simon được gọi là Phêrô vì Chúa Giêsu sẽ đặt ông làm thủ lãnh trên Hội Thánh của Ngài sẽ thành lập, và Ngài sẽ trao quyền hành nắm giữ và tháo gỡ cho ông.
“Trên đá nầy Thầy sẽ xây hội thánh của thầy”. Trong 7,24 Matthêô dùng hình ảnh “nhà xây trên đá” để diễn tả nền tảng vững chắc của những người nghe lời Chúa và đem ra thực hành trước những thử thách. Phêrô đã được Chúa Giêsu khen ngợi về lời tuyên xưng, và được Ngài đặt tên là Đá, và làm nền móng cho hội thánh Ngài. Vì thế, “xây trên đá nầy” nghĩa là xây trên lời tuyên xưng đức tin nền tảng của Phêrô “Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống” (x. 1P 2,5). Chỉ trên nền móng “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” nầy thì cửa hỏa ngục mới không thể phá hủy được; ngược lại chúng còn bị tiêu diệt (x. 8,16. 29.33).
Hành động tiếp theo Chúa Giêsu làm cho Phêrô sau lời tuyên xưng của ông là “Thầy trao cho anh chìa khóa Nước Trời” (c. 19). Sách Khải huyền cho biết chỉ mình Chúa Giêsu Kitô có chìa khóa nầy, nói là khi Ngài đã mở thì không ai có thể đóng lại, và khi Ngài đóng lại thì không ai có thể mở (Kh 3,7). Khi trao cho Phêrô “chìa khóa Nước Trời” là Chúa Giêsu trao cho ông quyền nắm giữ chìa khóa và hành động thay mặt Ngài.
“Chìa khóa Nước Trời” là chìa khóa dùng mở ra để đi vào trong Nước Trời. Xét trong bối cảnh của bản văn, sau khi lời tuyên xưng của Phêrô, Chúa Giêsu đã làm cho Phêrô hai điều: một là đặt ông làm Đá như là nền móng để xây dựng hội thánh Ngài trên đó; hai là trao cho ông “chìa khóa Nước Trời”. Cả hai điều nầy chỉ có thể hiểu được trong tương quan với Chúa Giêsu là “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Bởi đó “chìa khóa Nước Trời” là chìa khóa để hiểu và tin vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.
Thật vậy, Chúa Giêsu chính là “Nước Trời” đến trong thế gian (3,2; 4,17). Không phải ai cũng hiểu Ngài và nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa. Điều nầy đã thấy trong dư luận của dân Israel (cc. 13b-17; 11,16-19; 12,24; 13,54-56). Ngài chính là “các mầu nhiệm Nước Trời” mà chỉ các môn đệ được ban ơn để hiểu (x. 13,11). Phêrô được phúc bởi Chúa Cha mạc khải cho về căn tính của Chúa Giêsu; các môn đệ cũng có phúc vì “mắt được thấy và tai được nghe” (13,16). Bởi đó, “chìa khóa Nước Trời” mà Phêrô nhận lãnh từ Chúa Giêsu chính là những mầu nhiệm liên quan đến bản thân Ngài, và quyền cầm buộc và tháo cởi là quyền tối cao về giảng dạy liên quan đến “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Quyền của Phêrô là quyền giảng dạy các mầu nhiệm Nước Trời, và quyền tuyên bố giáo thuyết nào là đúng hoặc sai (x. 23,13).
Kết luận (c. 20)
Vậy Chúa Giêsu được tuyên xưng là Đức Kitô, Đấng được Thiên Chúa sai đến. Từ ho Kristos đóng khung lại câu chuyện (cc.16 và 20). Tuy nhiên Chúa Giêsu ra lệnh cho các môn đệ giữ thinh lặng về căn tính thiên sai của mình (8,4). Lý do việc giữ kín nầy là vì “Đức Kitô” nầy không phải là một vị thiên sai như dân chúng nghĩ. Phêrô sẽ để lộ ý nghĩ mình về một vị thiên sai trần thế trong trình thuật tiếp theo sau (16,22).
Lời tuyên xưng Chúa Giêsu là “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” là cốt lõi của nìềm tin Kitô giáo. Lời rao giảng và hành động của Ngài là gì đối với chúng ta tùy thuộc vào việc chúng ta tin Ngài là ai. Nếu tin Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống, thì việc lắng nghe và thực hành lời Ngài, cũng như sống theo cách hành động của Ngài, chúng ta sẽ được cứu độ.
[Mục Lục]

Bài 15. Thầy là ai?
R. Veritas
Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. (Mt. 16,16).
Bạn thân mến! Trên đây là lời tuyên xưng đức tin của Phêrô đối với Chúa Giêsu. Và đây cũng là lời tuyên xưng hùng hồn nhất, sâu sắc nhất và trang trọng nhất.
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay tường thuật rằng: Thầy trò Đức Giêsu đi bên nhau, nói chuyện tâm tình bên nhau, Ngài tế nhị dẫn dắt và nhắc nhở các môn đệ bằng những câu hỏi để gây ý thức nơi các ông. Trước hết Ngài nói: “Người ta nghĩ Thầy là ai?” (Mt 16,13). Và dần dần Ngài dẫn đưa các ông đến câu hỏi quan trọng nhất, xác tín nhất: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” (Mt 16,15)
Đức Giêsu có thể tự giới thiệu về mình, tự nói lên căn tính của mình. Nhưng Ngài đã không làm thế. Ngài muốn người môn đệ phải tự khám phá ra Ngài, Ngài muốn lời tuyên xưng của người môn đệ phải phát xuất từ nỗ lực tìm hiểu và cảm nghiệm chân thực trong cuộc sống sinh hoạt với Ngài.
Là môn đệ Đức Kitô, mỗi người chúng ta phải trực tiếp trả lời câu hỏi này bằng đức tin của chính mình. Người môn đệ phải biết căn tính của thầy mình, phải biết mình đang theo ai và người mình theo từ đâu đến. Có như thế, người môn đệ mới có thể đi sâu vào trong tình thân mật với thầy mình, mới tin tưởng những điều thầy mình dạy, mới can đảm thi hành những giáo huấn mà thày mình đã trao ban.
Phêrô đã trả lời câu hỏi này cho phần của ông: “Thầy là đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng sống”. Còn bạn và tôi, chúng ta trả lời câu hỏi này ra sao? Nếu Đức Giêsu đến và hỏi tôi và bạn hôm nay “Thày là ai”, tôi sẽ trả lời Ngài ra sao? Nếu người ta hỏi tôi “Đức Giêsu là ai”, tôi sẽ giải thích cho họ như thế nào?
Được biết Đức Giêsu, được nói về Đức Giêsu, được làm chứng cho Đức Giêsu, được tuyên xưng niềm tin của mình vào Đức Giêsu … Đó là một ân phúc, ân phúc từ trời cao đổ xuống cho những người luôn vững lòng tin tưởng vào Đức Giêsu, vì “không phải phàm nhân mạc khải cho điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt 16, 17)
Sau lời tuyên xưng đức tin của Phêrô, Đức Giêsu đã mời gọi Phêrô đứng lên để cùng cộng tác trong công trình xây dựng Hội thánh của Ngài: “Phêrô! con là đá, trên tảng đá này, Thày sẽ xây Hội Thánh của Thày”(Mt 16,18). Với lời nói này, Chúa Giêsu chính thức thiết lập Hội Thánh trên trần gian. Chính Chúa là sức mạnh của Hội Thánh. Phêrô là Đá Tảng, nhưng chính Chúa làm cho Đá Tảng được vững bền. Phêrô giữ chìa khoá Nước Trời, nhưng chính Chúa gìn giữ toà nhà Nước Trời.
Chúa Giêsu đã mời gọi Phêrô làm người lãnh đạo và cai quản Giáo hội. Còn bạn và tôi, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trong vai trò gì? Chúng ta phải làm gì để chung tay góp sức xây dựng Hội Thánh mà Ngài đã thiết lập?
“Phêrô! con là đá, trên tảng đá này, Thày sẽ xây Hội Thánh của Thày” (Mt 16,18).
Lạy Chúa! Nghe lời mời gọi của Đức Giêsu nói với Phêrô, con cứ nghĩ là Ngài chỉ nói với những người mà Ngài chọn làm giáo hoàng mà thôi. Nhưng suy xét kỹ hơn, con nhận ra Ngài nói với tất cả mọi người, mọi Kitô hữu. Ngài mời gọi mọi người trở nên đá tảng để chung tay góp sức xây dựng căn nhà Giáo Hội. Lạy Chúa! Xin giúp con biết quảng đại đáp trả lời mời gọi ấy. Amen.
[Mục Lục]

Bài 16. Trụ cột của đức tin
Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 16,13-20) nói với chúng ta những nội dung rất quan trọng liên quan đến đời sống của Hội Thánh.
Hôm ấy, Đức Giêsu đưa các môn đệ đến Xêdarê Philípphê, một thành phố do tiểu vương Hêrôđê Philipphê xây năm 2 tr.CN để kính nhớ hoàng đế Augustô “Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?” (c.13). Người đã không hỏi các ông về ý kiến của đám đông dân chúng về bài giảng trên núi của Người chẳng hạn, hay về một hoạt động nào đó của Người, ví dụ như về phép lạ hóa bánh ra nhiều mới đây… Nhưng Người quan tâm đến ý kiến của đám đông và nhất là của các môn đệ về chính bản thân Người. Điều này cho thấy đây là một vấn đề quan trọng đối với Đức Giêsu.
Các môn đệ nhanh chóng nói cho Đức Giêsu biết đám đông dân chúng nghĩ gì về Người. “Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ” (c.14). Đám đông dân chúng đồng hóa Đức Giêsu với các nhân vật nổi tiếng trong Cựu Ước. Thậm chí có kẻ còn cho rằng Người chính là ông Gioan Tẩy Giả, vốn đã bị giết (x. 14,2), nay tái thế. Có kẻ nói Người là ông Êlia, vị ngôn sứ phải trở lại, theo sấm ngôn do Ml 3,23 và Hc 48,10 loan báo từ trước. Có người bảo Người là ông Giêrêmia, như đã từng xảy ra trong 2Mcb 15,13tt. Nói chung lại, đám đông dân chúng chỉ quan niệm về Đức Giêsu như một nhân vật, cho dù vĩ đại, cũng vẫn chỉ là sự tiếp nối quá khứ; đó là một nhân vật do Thiên Chúa sai đến như các nhân vật vĩ đại trong Cựu Ước mà thôi. Họ chưa nhận ra nơi Đức Giêsu những thực tại mới mẻ chứng tỏ tính cách độc nhất vô nhị của Người, càng không nhận ra nguồn gốc độc đáo và thần linh của Người. Họ không hiểu đúng về con người và sứ mạng của Người.
“Đức Giêsu lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?. Ông Simôn Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (cc.15-16). Câu hỏi thứ hai này hướng trực tiếp về các môn độ. Đức Giêsu muốn biết lập trường và quan niệm của chính các ông về bản thân Người. Các ông đã đi theo Người một thời gian dài, đã chứng kiến những hoạt động của Người, đã được nghe những giáo huấn của Người. Thay mặt anh em, ông Phêrô thưa với Đức Giêsu câu trả lời của các ông đối với vấn đề quan trọng này. Ông tuyên xưng lòng tin của chính ông và của các anh em ông trong cộng đoàn các môn đệ: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Câu trả lời của ông Phêrô rõ ràng là một lời tuyên xưng đức tin rất hoàn hảo. Trong Mc 8,29 câu trả lời chỉ đơn giản là “Thầy là Đấng Kitô”. Hình như tác giả Mt không hài lòng lắm với câu trả lời đó. Ông bổ túc rõ ràng: “Con Thiên Chúa hằng sống”. Tác giả Mt muốn nhấn mạnh tư cách là Con Thiên Chúa của Đấng Mêsia (x. 3,17;17,5), không hoàn toàn trùng với quan niệm về Mêsia con vua Đavít như dân chúng nói chung đang mong chờ. Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa” không chỉ theo nghĩa là do Thiên Chúa sinh ra, mà trước hết là do Người hành động trong tư cách là chính Thiên Chúa đang hành động. Nói cách khác, công thức “Con Thiên Chúa” ở đây là tương đương với công thức “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (1,23). Thiên Chúa hằng sống (x. Is 37, 4.17; Hs 2,1; Đn 6,21) thì đối ngược, khác biệt và siêu vượt các ngẫu thần chết chóc: Ngài sống và làm cho sống. Là Con Thiên Chúa hằng sống, Đức Giêsu là Đấng sống và thông ban sự sống đích thực cho con người.
“Đức Giêsu nói với ông Phêrô: “Này anh Simôn con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (c.17). Đáp lại lời tuyên xưng của ông Phêrô, Đức Giêsu tuyên bố một mối phúc. Ngài khẳng định Phêrô có phúc vì được lãnh nhận một ơn huệ cao trọng và huyền nhiệm do chính Thiên Chúa ban. Chính Cha của Đức Giêsu, tức là vị Thiên Chúa hằng sống trong lời tuyên xưng của Phêrô, đã mặc khải cho Phêrô biết về căn tính đích thật của Đức Giêsu.
Trong 11,25-27, Đức Giêsu đã dâng lời tạ ơn Cha của Người: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha”. Đọc câu 27 của bài Tin Mừng hôm nay trong liên hệ với lời ngợi khen đó, chúng ta biết rằng ông Phêrô đang được đón nhận ân huệ dành cho những người bé mọn, chứ không phải vì ông là kẻ khôn ngoan và thông thái theo kiểu các người Pharisêu và các kinh sư. Nói cách khác, ông Phêrô và các môn đệ anh em của ông không bị nhiễm men, tức là không bị ảnh hưởng, của giáo thuyết của các người Pharisêu và nhóm Xađốc (16,12). Đước chính Thiên Chúa mạc khải, ông Phêrô và các anh em được hiểu biết ý nghĩa sâu xa của những hoạt động và giáo huấn của Đức Giêsu.
“Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” cần được đọc song song với “Cha của chúng con, Đấng ngự trên trời” trong Mt 6,9. Những ai đón nhận từ Chúa Cha mặc khải liên quan đến Đức Giêsu thì đồng thời cũng nhận biết nơi Đức Giêsu dung mạo của chính Chúa Cha; và những ai đón nhận từ Đức Giêsu kinh nghiệm về chính Thiên Chúa là Cha thì sẽ có thể thưa với Thiên Chúa lời Abba thân tình. Chính trong ân huệ và trải nghiệm huyền nhiệm ấy mà ông Phêrô và toàn thể cộng đoàn các môn đệ tuyên xưng lòng tin của mình về căn tính của Đức Giêsu.
Đức Giêsu tiếp tục nói với ông Phêrô: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (c.18). Tương ứng với lời tuyên xưng “Thầy là” của ông Phêrô là lời tuyên bố của Đức Giêsu “Anh là”. Đức Giêsu khẳng định ông Phêrô là “Tảng đá” (pêtra), tức là một thực tại chắc chắn, không lay chuyển, không thay đổi. Hội Thánh được Đức Giêsu xây trên nền đá vững chắc ấy. Cộng đoàn những người tuyên xưng cùng một lòng tin mà ông Phêrô vừa tuyên xưng thì được ví như một tòa do chính Đức Giêsu xây dựng trên tảng đá Phêrô. Ông có nhiệm vụ cung cấp cho cộng đoàn ấy sự chắc chắn, bền vững, không thay đổi, không lay chuyển, dựa trên ơn huệ là mạc khải của chính Thiên Chúa ban cho những con người bé mọn. Và sự bền vững ấy được bảo đảm bởi chính lời hứa của Đức Giêsu rằng “quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”.
“Quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (c.18). Chúng ta thấy thấp thoáng ở đây nội dung của mối phúc cuối cùng trong 5,10t (“Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa”) và nội dung lời giáo huấn trong 10,28 (“Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn”). Quyền lực của tử thần, quyền lực của những kẻ bách hại Hội Thánh, quyền lực của những kẻ sỉ vả và vu khống các môn đệ Đức Giêsu, quyền lực của những kẻ chỉ giết được thân xác… sẽ không thể tiêu diệt Hội Thánh, vì Hội Thánh được Đức Giêsu xây dựng trên nền tảng ân huệ lòng tin mà Chúa Cha ban cho những người bé mọn thoe thánh ý Ngài.
Bên cạnh nhiệm vụ cung cấp cho cộng đoàn sự bền vững, ông Phêrô còn có nhiệm vụ quản lý các mầu nhiệm Nước Trời như một người tôi tớ được Chủ trao cho chìa khóa (x. Is 22,22): “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (c.19).
“Cầm buộc và tháo cởi” là ngôn ngữ của các trường phái rabbi, diễn tả nhiệm vụ cho phép hay ngăn cấm về những điểm còn tranh luận trong giáo huấn chính thức. Hai động từ này cũng quy về việc lấy những quyết định liên quan đến những cách hành xử cần thiết để được vào Nước Trời.
Trao cho Phêrô những nhiệm vụ làm đá tảng, giữ chìa khóa và cầm buộc – tháo cởi, Đức Giêsu cho thấy Người không bỏ mặc cộng đoàn các tín hữu trong tình trạng mất hướng, nhưng ban cho cộng đoàn đó người lãnh đạo với những năng quyền và nhiệm vụ lớn lao.
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta rằng: ông Simon Phêrô, người thứ nhất và là đại diện cho anh em, tuyên xưng lòng tin vào Đức Giêsu với một công thức diễn đạt hoàn hảo con người và sứ mạng của Người, đã được Đức Giêsu đặt làm đá tảng cho Hội Thánh, làm người quản lý các mầu nhiệm Nước Trời và làm người có quyền bính thực sự trong việc lấy những quyết định liên quan đến những cách hành xử cần thiết để được vào Nước Trời. Với ông, Đức Giêsu xây dựng cộng đồng nhân loại mới, cộng đồng những con người bé mọn tuyên xưng lòng tin vào Người là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Cộng đồng mới này là chính Hội Thánh, sẽ đứng vững trước những sức mạnh tấn công của quyền lực tử thần.
Ý thức về sự cao cả và sự nặng nề của những quyền bính và các nhiệm vụ mà Phêrô đã được trao phó, chúng ta được mời gọi cầu nguyện, vâng phục và hiệp thông sâu xa với Đấng kế vị Thánh Phêrô.
[Mục Lục]

Bài 17. Chức vụ và Trách nhiệm
Trầm Thiên Thu
Chức vụ và chức danh nghe có vẻ giống nhau, nhưng có phần khác nhau quan trọng. Chức danh đề cập phẩm tước, còn chức vụ đề cập công việc, trách nhiệm và bổn phận về chức vụ – gọi là chức phận.
Như vậy, chức danh không cần có chuyên môn, nhưng chức vụ cần có chuyên môn. Danh từ “chức sắc” thường dùng trong tôn giáo, tức là nói về những người có chức vụ nào đó.
Người có chức vụ mà không làm đúng chức năng thì chỉ là “hữu danh vô thực”, là “bù nhìn”, là hình nộm, như ma-nơ-canh (mannequin, người giả ở các tiệm trang phục). Loại người “ham chức, quên vụ” này chẳng làm nên trò trống gì, đôi khi còn phá bướng, nhưng lại hay lên mặt “ta đây”. Chúa rất ghét loại người này.
Thời Cựu ước, viên quan Sép-na là tể tướng triều đình (tương tự thủ tướng ngày nay), được người ta coi là “người hùng”, nhưng Đức Chúa tuyên phán thẳng thắn và rõ ràng: “Ta sẽtống ngươi khỏi chức vụ, Ta sẽ đuổi ngươi khỏi địa vị. Ngày ấy, Ta sẽ gọi tôi tớ Ta là En-gia-kim, con của Khin-ki-gia-hu. Áo thụng của ngươi, Ta sẽ lấy mặc cho nó, cân đai của ngươi, Ta sẽ đem thắt cho nó, quyền bính của ngươi, Ta sẽ trao vào tay nó, nó sẽ là cha đối với cư dân Giêrusalem và với nhà Giuđa. Chìa khoá nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó.Nó mở ra thì không ai đóng được, nó đóng lại thì không ai mở được. Ta sẽ làm cho nó vững chắc như đinh đóng cột, nó sẽ nên như ngai vinh hiển cho nhà cha nó” (Is 22:19-23). Quyền “tháo cởi” này trong Cựu ước có liên quan quyền “tháo cởi” trong Tân ước: Bí tích Hòa Giải.
Thiên Chúa từ bi và nhân hậu, giàu lòng xót thương, nhưng Ngài cũng rất thẳng thắn và dứt khoát. Ngài đã cho chúng ta thời gian để sửa đổi, nếu không chịu chấn chỉnh, chúng ta sẽ bị Ngài tước hết. Có lần chính Chúa Giêsu đã xác định: “Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất” (Mt 13:12; Mt 25:29; Mc 4:25; Lc 8:18; Lc 19:26). Có lần Chúa Giêsu nói rõ: “Cây nào mà Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời, đã không trồng, thì sẽ bị nhổ đi” (Mt 15:13). Thật là đáng sợ biết bao!
Ngược lại, nếu người có lỗi biết sám hối và sửa sai, Chúa sẵn sàng tha thứ và phục hồi nguyên trạng: “Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta” (Tv 103:12). Trên cả tuyệt vời! Đức Khổng Tử cũng nói: “Có lỗi mà không sửa mới thành ra có lỗi”. Tuy nhiên, Lời Chúa có lúc làm chúng ta vui mừng, rồi cũng có khi làm chúng ta đau điếng, nhưng tất cả vẫn là Hồng Ân, Ngài luôn lắng nghe và thấu hiểu nỗi lòng của mọi người. Tác giả Thánh Vịnh đã thành tâm thân thưa: “Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ, Ngài đã nghe lời miệng con xin. Giữa chư vị thiên thần, xin đàn ca kính Chúa, hướng về đền thánh, con phủ phục tôn thờ. Xin cảm tạ danh Chúa, vì Ngài vẫn thành tín yêu thương, đã đề cao danh thánh và lời hứa của Ngài trên tất cả mọi sự” (Tv 138:1-2).
Dù chúng ta có thế nào thì vẫn cần tâm tình tạ ơn, một động thái rất cần thiết vì nhiều lý do, vừa minh nhiên vừa mặc nhiên: “Ngày con kêu cứu, Chúa đã thương đáp lại, đã gia tăng nghị lực cho tâm hồn. Lạy Chúa, mọi đế vương dưới trần đều cảm tạ khi nghe những lời miệng Ngài phán ra. Họ sẽ ca ngợi đường lối Chúa: Vinh quang Chúa vĩ đại dường bao!” (Tv 138:3-5).
Còn hơn thế nữa, Thiên Chúa làm cho chúng ta đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác, và chúng ta chẳng bao giờ hiểu nổi lòng thương xót bao la vô tận của Ngài: “Chúa tuy thật cao cả, nhưng vẫn nhìn đến kẻ thấp hèn; đứa ngạo mạn ngông nghênh, từ xa Ngài đã biết. Việc Chúa làm cho con, Ngài sẽ hoàn tất; lạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang” (Tv 138:6 và 8). Được thương xót nhiều hay ít là điều tùy vào niềm tin của mỗi người: “Ai tin thế nào thì được như vậy” (Mt 9:29).
Thánh Phaolô xác định, vừa đặt vấn đề vừa giải thích: “Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Đường lối của Người, ai theo dõi được! Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa? Ai đã làm cố vấn cho Người? Ai đã cho Người trước, để Người phải trả lại sau? Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời! Amen” (Rm 11:33-36). Những vấn đề vẫn này vẫn luôn nóng bỏng và nhức nhối ở mọi thời đại. Đó cũng là những câu hỏi để mỗi chúng ta tự trắc nghiệm và tự cân-đo-đong-đếm mức độ tín thác của mình vào Thiên Chúa.
“Tại sao tôi tin vào Thiên Chúa? Ngài là ai mà tôi tin?”. Đó là nghi vấn người ta vẫn luôn đặt ra ở mọi thời đại. Người vô thần cho rằng người hữu thần (cụ thể là Kitô hữu) chỉ ảo tưởng và mơ hồ, nhẹ dạ nên bị tôn giáo “ru ngủ” và mê hoặc. Người ta luôn muốn dùng các tiến bộ khoa học hoặc bất cứ thứ gì khác để chứng minh rằng “không có Thiên Chúa”, nhưng tất cả đều vô vọng. Đức Tin cần có lý trí, nhưng phải là lý trí trong suốt, dùng lý trí để cố ý chối bỏ và không tin thì hoàn toàn bất trị – nói vui theo ngôn ngữ @ là “bó-tay-chấm-com” (BoTay.com). Người vô thần càng cố tìm cách chối bỏ Thiên Chúa thì họ càng đi vào ngõ cụt, hoàn toàn bế tắc. Thật vậy, chính một Saolê giỏi giang và bạo tàn đến thế, nhưng rồi cũng đành phải đầu hàng Thiên Chúa để trở nên một con người hoàn toàn khác, một Phaolô thuần hóa và nhiệt thành rao giảng Chúa-Giêsu-Kitô-chịu-chết-và-phục-sinh.
Trước khi Chúa Giêsu công khai sứ vụ, Ngôn sứ Gioan ở trong lao tù nên đã bảo đệ tử đến gặp Chúa Giêsu và hỏi xem Ngài có phải là Đấng phải đến hay còn phải đợi ai khác. Ngài không trả lời rõ ràng mà chỉ nói: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (Mt 11:4-6). Khi xét xử Chúa Giêsu, vị thượng tế cũng hỏi: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?” (Mt 26:63; Mc 14:61). Chúa Giêsu nói: “Chính ngài vừa nói” (Mt 64). Thánh Luca cho biết rằng Chúa Giêsu nói: “Tôi có nói với các ông, các ông cũng chẳng tin; tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời” (Lc 22:67-68). Và rất có thể chúng ta cũng đã hoặc đang có những lúc tự hỏi về Thiên Chúa như vậy.
Một hôm, khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Ngài hỏi các môn đệ:“Người ta nói Con Người là ai?” (Mt 16:13). Hỏi để mà hỏi, vì Ngài biết rõ mười mươi rồi. Ngài hỏi là để người khác tự xác tín. Và các ông đều thưa: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ” (Mt 16:14). Mỗi người mỗi ý, mỗi cách nhìn, nhưng chung quy vẫn coi Ngài là một “người đặc biệt”.
Sau đó, Ngài hỏi chính các đệ tử của mình: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Ông Simôn Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16). Đức Giêsu nói: “Này anh Simôn, con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16:17-19). Ý Chúa quan phòng và tiền định vô cùng kỳ diệu, chúng ta chẳng làm sao suy thấu. Nghe ông Phêrô nói vậy, Ngài cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Ngài là Đấng Kitô.
Từ đó, Ngư phủ Phêrô đã trở thành Giáo hoàng tiên khởi với quyền tối thượng. Chìa khóa Sư phụ Giêsu trao cho đệ tử Phêrô là Chìa-Khóa-Yêu-Thương-và-Tha-Thứ, Chìa-Khóa-Nước-Trời để mở lối vào cho các hối nhân, chứ không là Chìa-Khóa-Nhà-Tù để giam hãm người khác. Có chức thì có quyền, nhưng cũng đầy bổn phận và trách nhiệm. Quyền cũng đi với Hành, gọi là quyền hành, thế nên đôi khi những người có quyền thì cũng dễ lạm dụng rồi khoái “hành” người khác. Việt ngữ thâm thúy thật!
Con người rất dễ háo danh và hám lợi, vì có “cái danh” thì thường có kèm theo “cái lợi”. Chức danh càng cao, bổng lộc càng nhiều. Điều này xảy ra trong xã hội thì quá rõ ràng, từ cổ chí kim và từ Đông sang Tây đều có, nhưng ngay trong Giáo hội cũng có những người không thoát khỏi vòng kiềm tỏa của DANH và LỢI. Người ta chú trọng “cái danh” mà quên “cái phận”, trong khi “cái phận” cần thiết hơn “cái danh”. Thật vậy, Đức Kitô đã động viên người ta làm “ngược đời” chứ không theo lẽ thường: “Nhiệt tâm phục vụ, không mong hưởng thụ” (x. Mt 20:28). Hai động thái trái ngược mà vẫn xuôi chiều, thuận lý.
Mới đây, ngày thứ Sáu 1-8-2014, ĐGH Phanxicô (TGM Jorge Mario Bergoglio ngày nào luôn gần gũi đám dân nghèo) đã bất ngờ đến ăn trưa tại một tiệm ăn bình dân dành cho các công nhân áo xanh và những người lao công trong khu công nghiệp nhỏ ở Vatican. Ngài vẫntự cầm khay và đứng xếp hàng chờ đến lượt mình nhận thức ăn nơi quầy thức ăn làm sẵn, giống như mọi người, không nhận quyền ưu tiên nào. Điều này chứng tỏ lời ngài là thật đối với câu nói của ngài đã phát biểu trước đám đông giới trẻ: “Tôi không muốn làm giáo hoàng”.
Giáo hoàng là “vua” của Công giáo, là “ông lớn”, thế nhưng “ông lớn” lại thích làm “ông nhỏ”, tự phục vụ chứ không cần người khác phục vụ, còn nhiều “ông nhỏ xíu” lại muốn biến thành “ông lớn”. Chẳng khác gì truyện ngụ ngôn “Ếch Muốn Bằng Bò” (*). Vừa khôi hài, vừa đau điếng!
Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên – Trong ba người cũng có một người làm thầy. Lẽ tất nhiên. Chức vụ là để phục vụ chứ không để tự tôn hoặc lên mặt với người khác. Mỗi người đều được Thiên Chúa mời gọi hoạt động trong một lĩnh vực nào đó để cộng tác với Ngài mà hoàn tất công trình cứu độ của Thiên Chúa, không ai được “ngồi mát ăn bát vàng”. Người ta thích “nói hay” về sự phục vụ nhưng chưa chắc muốn phục vụ. Người ta cũng leo lẻo nói rằng “lao động là vinh quang”, nhưng rồi có mấy ai thích vinh quang mà chỉ ưa ngồi rung đùi, chỉ tay năm ngón, và… hốt bạc tỷ. Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi – đời cũng thế mà đạo cũng vậy. Thế là ô-kê. Xong!
Nói được thì phải làm được, đừng nói trước rồi bước không qua, đó là “lẻo mép”. Viết được thì cũng phải làm được, đừng viết lắm mà nắm không xong, đó là “lẻo bút”. Dạng “lẻo” nào cũng chết. Chết chắc! Vì đó là người có “máu” Pharisêu, mang gien-đạo-đức-giả, đúng như Ngôn sứ Isaia đã nói trước: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằngmiệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mt 15:8-9). Dạng người như vậy “được” Chúa Giêsu gọi là “mồ mả tô vôi” (Mt 23:27). Một biệt hiệu (nickname) nghe rất “kêu”, nhưng lại cảm thấy “nhột gáy” thật đấy!
Trước mặt Thiên Chúa, ai cũng bình đẳng, chẳng ai hơn hoặc kém ai. Mọi người là con cái Chúa thì tất nhiên là anh em với nhau (Mt 23:8). Chắc chắn Chúa không quan tâm cái CHỨC mà chỉ xét đến cái VỤ. Mười nén, năm nén, ba nén, thậm chí là nửa nén cũng không thành vấn đề, quan trọng là SINH LỜI. Thế thôi! Thế nhưng ở đời cũng “lắm chuyện”. Không nói thì người ta bảo hèn nhát, a dua, nịnh hót, theo đóm ăn tàn. Dám nói thẳng nói thật thì bị ghét bỏ, bị trù dập, bị xa lánh. Dốt nát thì bị KHINH, thông minh thì bị GHÉT. Chúa Giêsu cũng chỉ vì thẳng-thắn-thật-thà mà bị giết chết thê thảm!
Dù sao thì cũng cứ là chính mình, không nịnh bợ, luồn cúi hoặc khép nép trước bất cứ ai, nhưng cũng không hống hách hoặc khinh miệt bất cứ ai. Cứ bình thường!
Thiên Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài, mỗi người mỗi việc, tùy khả năng Chúa ban. Đó là Ngài chia sẻ công việc để chúng ta làm mà có thêm công trạng theo danh chính ngôn thuận, chứ Ngài đâu cần gì chúng ta góp một tay. ĐGH danh dự Benedict XVI, khi còn đương nhiệm, đã nhận xét: “Kitô giáo không là triết lý mới hoặc luân lý mới. Chúng ta chỉ là Kitô hữu nếu chúng ta gặp gỡ Đức Kitô. Chỉ trong mối quan hệ riêng với Đức Kitô, Đấng phục sinh, chúng ta mới thực sự là Kitô hữu”.
Con người luôn khắc khoải về thân phận hoặc số phận, luôn thao thức về chính mình, một hạt bụi nhỏ nhoi mà đầy nỗi gian truân, nỗi đọa đày. Cố NS Trịnh Công Sơn đã tự hỏi: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi?” (Cát Bụi). Nhưng ông không thể giải đáp, nên ông tự nhủ và nhắn nhủ, rồi lại tiếp tục tự vấn: “Đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng… Đừng tuyệt vọng, em ơi đừng tuyệt vọng… Tôi là ai mà còn ghi giấu lệ, tôi là ai mà còn trần gian thế? Tôi là ai, là ai, là ai mà yêu quá đời này?” (Tôi Ơi, Đừng Tuyệt Vọng). Cuộc đời như một chu kỳ lẩn quẩn. Biết suy tư là còn sinh tồn. Cõi lòng Thánh Augustinô cũng luôn như biển động: “Linh hồn con bồn chồn lo lắng mãi cho tới khi được nghỉ ngơi trong Chúa”. Và tác giả Thánh Vịnh kết luận: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 62:2).
Ước gì mỗi chúng ta khả dĩ xác định được như vậy, đồng thời có thể nói như Ngôn sứ Êlia:“Lòng nhiệt thành đối với Chúa nung nấu con” (1 V 19:14). Biết Chúa và biết mình, điều nào cũng khó, nhưng cần phải biết Chúa để có thể biết mình. Vâng, Thánh tiến sĩ Augustinô đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con – Domine, noverim Te, noverim me”. Chính Thánh Augustinô cũng đã tỏ ra hối tiếc mà thú nhận: “Con yêu Chúa quá muộn màng”. Biết Chúa và được yêu Chúa thì quả là đại phúc!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con nhận biết Chúa là Thánh Phụ giàu lòng thương xót, là Thiên Chúa chí tôn duy nhất, và xin giúp chúng con nhận diện chính mình để chúng con biết khiêm nhường đúng mức, chứ không ảo tưởng mà kiêu ngạo, đồng thời cũng biết sống đúng bậc mình, quyết tâm nên thánh theo bậc của mình qua bổn phận và trách nhiệm. Xin cho những người có chức có quyền đừng “hành hạ” người khác, nhưng biết dùng quyền để yêu thương và nâng đỡ người khác đến với Chúa. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
(*) Ngụ ngôn “La Grenouille Qui Veut Se Faire Aussi Grosse Que Le Boeuf” của Jean de La Fontaine (Pháp).
[Mục Lục]

Bài 18. CHÚA GIÊSU CHỜ CÂU TRẢ LỜI CỦA MỖI CHÚNG TA
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Trong bài Phúc âm hôm nay Chúa Giê-su đã hỏi các môn đệ hai câu. Câu thứ nhất là“Người ta nói Con Người là ai?” và câu thứ hai là “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Câu hỏi thứ nhất dẫn tới câu hỏi thứ hai là câu hỏi quan trọng hơn và là câu hỏi quyết định. Đức Giê-su chờ câu trả lời chính xác của các môn đệ. Ông Phê-rô, được ơn mạc khải từ Thiên Chúa Cha, đã trả lời chính xác: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống!”
Đức Giê-su cũng đặt câu hỏi trên với mỗi Ki-tô hữu chúng ta và Người cũng chờ đợi câu trả lời của riêng mỗi người chúng ta. Vậy đối với riêng bạn, thì Chúa Giê-su là ai? Người có vai trò gì trong đời sống của bạn? Người làm thay đổi cuộc đời bạn như thế nào? Bạn sống hằng ngày với Người như thế nào?
Mong bạn có câu trả lời chính xác và đẹp lòng Thầy Chí Thánh!
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Is 22,19-23): Chìa khóa Nhà Đa-vít Ta sẽ đặt trên vai nó.
2.2 Trong Bài đọc 2 (Rm 11,33-36): Muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 16,13-20): Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
– Là Đấng Thiên Chúa sẽ loại tể tướng Sép-na ra khỏi chức vụ và quyền hành (vì kiêu căng và ham mê tiệc tùng) và chọn En-gia-kim, con của Khin-ki-gia-hu làm người thay thế, và ban quyền hành và chức vụ cao trọng cho ông vì ông khiêm tốn, chính trực.
- Là Chúa Giê-su, Đấng được tông đồ Phê-rô tuyên xưng là Đấng Ki-tô [tức là Đấng được xức dầu tấn phong làm ngôn sứ, tư tế, vương giả của Thiên Chúa], là Con Thiên Chúa hằng sống. Chính Chúa Giê-su là Đấng đã thiết lập Giáo Hội trên nền tảng Phê-rô hay đúng hơn trên nền tảng lời tuyên tín của Phê-rô nhìn nhận Người là Mê-si-a, Con Thiên Chúa hằng sống!
- Là Chúa Thánh Thần, Đấng hiện diện và cùng hành động với Chúa Cha khi Thiên Chúa thực hiện chương trình cứu độ qua từng bước tuyển chọn những người tôi trung trong dân Ít-ra-en để chuẩn bị cho Chúa Cứu Thế. Chúa Thánh Thần cũng là Đấng tác động để Phê-rô tuyên xưng Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa hằng sống và Người cũng hiện diện trong lời công bố thiết lập Giáo Hội trên tảng đá Phê-rô của Chúa Giê-su.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?): Qua ba bài Sách Thánh, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay gồm hai phần
Một là khám phá và tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống. Hẳn nhiên tuyên xưng không chỉ bằng lời mà còn bằng việc làm và cách sống nữa. Nói cách khác tất cả lời ăn, tiếng nói, cử chỉ, hành động của chúng ta phải là cách/lời tuyên xưng Đức Giê-su Na-da-rét là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống!
Hai là thiết lập một mối tương quan mật thiết, gắn bó và riêng tư với Chúa Giê-su Ki-tô, như trò với Thầy và như bạn với bạn. Càng sống gần gũi, thân mật với Chúa Giê-su, chúng ta càng biết Người là Ai.
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, như môn đệ sống với Thầy. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và tuyệt đối tin cậy !
4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa hôm nay bằng cách tìm tòi, học hỏi và khám phá (nhất là trong Thánh Kinh) dung mạo, căn tính của Đức Giê-su và xác tín rằng Người là Đấng Mê-si-a, là Con Thiên Chúa hằng sống. Từ khám phá và xác tín cá nhân ấy sẽ có mối tương quan thắm thiết và gắn bó với Chúa Giê-su Ki-tô.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 «Muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người.»Chúng ta hãy cầu nguyện cho hết mọi người đang sống trên mặt địa cầu này, để họ nhận biết Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng và Cứu Độ.
X- Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Đ- Xin Chúa nhận lời chúng con.

5.2 «Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi » Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Kitô – nhất là cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ Nam Nữ và mọi giáo dân -, để các Ki-tô hữu vững tin vào Hội Thánh là Hội Thánh của Thiên Chúa do Chúa Ki-tô thiết lập, canh tân đổi mới và bảo vệ qua mọi triều đại Giáo Hoàng là những người kế vị Thánh Phê-rô.
5.3 «Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?» Chúng ta hãy cầu nguyện cho hết mọi người trong gia đình và giáo xứ/cộng đồng chúng ta để mọi người có được một cảm nghiệm sâu sắc và riêng tư về Chúa Giê-su và có mối tương quan mật thiết gắn bó với Người.
5.4 «Đức Chúa phán những lời này với ông Sép-na, tể tướng triều đình: «Ta sẽ tống ngươi khỏi chức vụ, Ta sẽ đuổi ngươi khỏi địa vị.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người đang nắm giữ quyền bính trong các quốc gia, để họ nhận thức rằng: quyền hành họ đang có là do Thiên Chúa giao cho họ để họ phục vụ lợi ích của mọi người trong xã hội, theo Thánh Ý Thiên Chúa.
[Mục Lục]

Bài 19. PHÊRÔ: ĐÁ TẢNG ĐỨC TIN CỦA HỘI THÁNH
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 16,13-20
2. Ý CHÍNH: HỘI THÁNH ĐƯỢC XÂY TRÊN NỀN ĐÁ ĐỨC TIN CỦA SI-MON:
Để trả lời cho câu hỏi: “Người ta bảo Thầy là ai?”, Các môn đệ lần lượt kể lại dư luận về vai trò và sứ mạng của Đức Giê-su. Riêng ông Si-mon đại diện nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Ông đã được Đức Giê-su khen là có phúc và được Người đổi tên thành Phê-rô, nghĩa là “Tảng đá”. Người hứa sẽ xây Hội Thánh trên tảng đá đức tin của ông, và cho ông khả năng chiến thắng ma quỷ. Người cũng trao quyền tối thượng để ông cầm buộc hay tháo cởi về đức tin và luân lý ở trần gian.
3. CHÚ THÍCH VÀ HỎI ĐÁP:
HÒI 1: Tên Phê-rô nghĩa là gì và việc đổi tên mang ý nghĩa thế nào? Tại sao Đức Giê-su lại xây Hội Thánh của Người trên con người yếu đuối bất toàn Phê-rô, đang khi chỉ Người mới chính là Tảng Đá đích thực (x. 1 Pr 2,4)?
ĐÁP:
- Phê-rô hay Kê-pha nghĩa là Tảng Đá và có hai nghĩa: Một là viên đá lớn, hai là tên riêng của vị Tông đồ Cả do Đức Giê-su đặt thay thế tên cũ là Si-mon. Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa thường thay đổi tên kẻ Người muốn trao phó sứ vụ đặc biệt. Chẳng hạn: tổ phụ Áp-ram được Chúa đổi tên thành Áp-ra-ham nghĩa là “Cha của vô số người” (x. St 17,5) để trao cho ông sứ vụ làm “Tổ phụ nhiều dân tộc” (x. Rm 4,17).
- Phê-rô tuy yếu đuối và đã từng sa ngã phạm tội chối Thầy ba lần (x. Mt 26,69-74), nhưng ông đã được Đức Giê-su thức tỉnh qua tiếng gà gáy và cái nhìn yêu thương khiến ông lập tức hồi tâm sám hối (x. Lc 22,61-62). Về sau ông cũng tuyên xưng lòng mến Thầy ba lần, nên đã được Người tha tội ba lần chối Thầy. Chính lòng mến của ông Phê-rô khiến ông xứng đáng được ơn tha thứ như có lần Người đã nói về ơn tha tội cho người phụ nữ tội lỗi đặt trọn niềm tin yêu nơi Người: “Tội của chị ta rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị ta đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít” (x. Lc 7,47).
- Đức Giê-su hứa sẽ xây dựng Hội Thánh trên Tảng Đá vững chắc. Vậy Tảng Đá vững chắc nói đây là con người bất toàn Phê-rô hay là đức tin vào Đức Ki-tô của ông? Về vấn đề này thánh Phê-rô đã viết như sau: “Anh em hãy lại gần Đức Ki-tô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý giá. Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi đền thờ thiêng liêng… Còn đối với những kẻ không tin thì viên đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường, và cũng là viên đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa” (1 Pr 2,4-7). Còn thánh Phao-lô cũng khẳng định như sau: “Vì không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giê-su Ki-tô” (1 Cr 3,11). Như vậy Tảng Đá góc tường của tòa nhà Hội Thánh chính là Đức Giê-su, và các tín hữu chúng ta cũng là những viên đá sống động của tòa nhà Hội Thánh này.
Riêng đối với ông Si-mon, nhờ lời tuyên xưng đức tin vào Đức Giê-su: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, ông đã được Người khen là có phúc và đổi tên từ Si-mon thành Phê-rô nghĩa là Tảng Đá. Trên nền móng Đá “Đức Tin Vào Đức Giê-su” này, mà Hội Thánh đã được xây dựng. Đức Giê-su còn trao cho Phê-rô chìa khóa Nước Trời với quyền cầm buộc và tháo cởi. Người cũng hứa sẽ cầu nguyện để ông khỏi mất đức tin, và sau khi trở lại ông có trách nhiệm củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc 22,32). Cuối cùng Phê-rô còn được Chúa Phục Sinh trao quyền chăn dắt chiên con chiên mẹ của Người nhờ có lòng tin yêu mạnh hơn các anh em khác (x. Ga 21,15-17).
HỎI 2: Phải chăng Đức Giê-su chỉ trao quyền cầm buộc tháo cởi riêng cho Tông Đồ Phê-rô, chứ không trao cho các Đức Giáo Hoàng là những đấng kế vị sau này?
ĐÁP:
Nếu hiểu theo sát nghĩa đen thì câu trao chìa khóa với quyền cầm buộc và tháo cởi chỉ được ban riêng cho Tông đồ Phê-rô. Nhưng Chúa cũng ngầm nói đến Hội Thánh mà Phê-rô là người đứng đầu. Thực vậy, Đức Giê-su đã hứa Hội Thánh được xây trên nền đá đức tin của Phê-rô sẽ trường tồn bất diệt, nên Người cũng muốn quyền được ban cho Phê-rô phải tiếp tục được lưu truyền cho các đấng kế vị sau này là các Đức Giáo hòang kế vị Phê-rô. Chính vì thế, Giáo hội đã khẳng định rằng: Đức Giáo hoàng khi đứng trên tòa thánh Phê-rô mà công bố điều gì về đức tin và luân lý, đều được Chúa Thánh Thần ban ơn vô ngộ, nghĩa là không thể sai lầm được. Vì cũng như Phê-rô xưa, tuy các Đức Giáo hoàng có thể sai lầm trong những lãnh vực khác như chính trị, kinh tế…, thậm chí có vị còn sa ngã phạm tội nặng nề như Giáo hoàng Alexander VI… Nhưng như Phê-rô đã được ơn kiên vững đức tin thế nào, thì các Đức Giáo hoàng cũng được Đức Giê-su luôn cầu nguyện để khỏi bị mất đức tin, hầu có thể chu toàn nhiệm vụ “củng cố đức tin cho các anh em” (x. Lc 22,31-32).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: “Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: Dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,18-19).
2. CÂU CHUYỆN:
1) MẨU CHUYỆN VỀ THÁNH GIÁO HOÀNG GIO-AN PHAO-LÔ II:
Cách đây ít lâu, một tờ báo Ý đã tiết lộ một tin quan trọng về thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II như sau: Khi còn là sinh viên Ba-lan đi du học tại Rô-ma, một hôm khi cùng các bạn sinh viên đến thăm linh mục đáng kính là cha Pi-ô được tiếng là rất đạo đức thánh thiện, đã từng được Chúa Giê-su hiện ra ban năm dấu thánh trên mình giống như Người. Vừa gặp mặt cậu sinh viên, cha Pi-ô đã ôm chầm lấy cậu và nói tiên tri rằng: “Một ngày kia, con sẽ làm Giáo hoàng, và đời của con sẽ gặp nhiều trắc trở, bị đau khổ và còn chịu đổ máu mình ra vì Chúa nữa”. Bấy giờ cậu sinh viên trả lời: “Con không sợ sau này sẽ bị đổ máu, vì làm sao con có thể trở thành Giáo hoàng được !”. Nhưng thánh ý Chúa quả thật nhiệm mầu: Hồng y Vốt-ti-la người Ba-lan sau này đã được bầu làm Giáo hoàng, nhận danh hiệu là Gio-an Phao-lô Đệ Nhị. Về sau ngài đã bị đổ máu trong cuộc mưu sát bất thành vào năm 1981 tại quảng trường thánh Phê-rô. Hơn 20 năm sau, hãng thông tấn Apcom của Ý và nhật báo Ba-lan Rzeczpospolita đã đưa tin: Đức thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã từng viết một bức thư (trước đó chưa được công bố), cho M. Ag-ca, kẻ đã bắn ngài trọng thương vào năm 1981. Linh mục S Dziwisz thư ký riêng của Đức thánh Giáo hoàng đã xác nhận sự tồn tại của lá thư trên và cho biết nó đã không được gửi đến người nhận. Bức thư được viết không lâu sau vụ ám sát. Trong thư, Đức Gio-an Phao-lô II đã hỏi Ag-ca người Thổ Nhĩ Kỳ rằng: Tại sao hắn lại muốn giết ngài, trong khi cả hai cùng tôn thờ Chúa? Theo tờ Rzeczpospolita, lúc đầu vị thánh Giáo hoàng đã định gửi bức thư này. Nhưng sau đó ngài lại thôi không gửi đi nữa, và thay vào đó, đến năm 1983 ngài đã đền gặp trực tiếp kẻ đã muốn lấy mạng ngài tại một nhà tù ở Ý, và đã sẵn sàng tha thứ cho hắn ta. Đến năm 2000, Ag-ca đã bị dẫn độ về Thổ Nhĩ Kỳ sau khi đã thụ án gần 20 năm ở Ý. Đức Gio-an Phao-lô II là vị Giáo hoàng thứ 264 kể từ Tông đồ Phê-rô là Giáo hoàng đầu tiên. Hiện nay Đức Phan-xi-cô lên thay thế Đức Bê-nê-đích-tô 16 và là vị Giáo Hòang thứ 266 kể từ thánh Phê-rô Tông đồ. Ngoài ra vào ngày 27/04/2014 vừa qua, Đức cố Giáo hòang Gio-an Phao-lô II đã được Đức Thánh Cha Phan-xi-cô phong Thánh chung với thánh Giáo hoàng Gio-an 23 tại đền thánh Phê-rô ở Rô-ma vào ngày Chúa Nhật II PS là lễ kính Lòng Chúa Thương Xót.
2) HỘI THÁNH XÂY TRÊN NỀN ĐÁ ĐỨC TIN CỦA PHÊ-RÔ LUÔN TRƯỜNG TỒN:
Qua nhiều thế kỷ từ ngày thành lầp đến nay, Hội thánh do Chúa Giê-su thiết lập đã trải qua nhiều nguy cơ có thể sụp đổ, nhưng Hội thánh vẫn trường tồn nhờ được xây trên nền đá vững chắc là đức tin của Phê-rô vào Chúa Giê-su như sau:
Dưới thời Hoàng đế Di-o-cle-si-a-nô, Đế quốc Rô-ma quyết tâm tiêu diệt Hội thánh của Chúa Ki-tô. Năm 305, Di-o-cle-si-a-nô đã ra lệnh đúc những đồng tiền bằng kim loại trên đó có dòng chữ: “Để kỷ niệm ngày đạo Kitô bị tiêu diệt”. Nhưng rồi sau đó Hội Thánh đã vượt qua cơn bách hại của đế quốc và không ngừng phát triển đi khắp thế gian.
Đến thời kỳ Trung cổ tại Âu châu, nhiều nhà trí thức vô thần đã hè nhau đánh đổ đức tin của các tín hữu. Năm 1758, Vol-tai-re đã dám tuyên bố: “Chỉ hai mươi năm nữa thôi là đạo Công giáo sẽ hết thời”. Rồi năm 1850, P. Prou-dhon lại lên tiếng thách thức: “Lũ tín hữu mê tín các ngươi hãy mau lo giấy thông hành ngay đi. Vì chỉ mươi năm nữa thôi, sẽ không còn một linh mục nào còn sống sót để xức dầu cho các người !” Đến năm 1904, Com-bes cũng tuyên bố: “Chỉ ba tháng nữa là bọn giáo sĩ phản động sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt !”.
Quả thật, thời nào cũng có những người thù ghét đạo công giáo và tiên báo về ngày tàn của Hội thánh này. Nhưng đến nay không ai trong bọn họ còn sống sót, đang khi Hội thánh vẫn trường tốn và ngày một phát triển. Thánh Au-gus-ti-nô có lần đã phát biểu: ”Những kẻ thù ghét đạo Chúa nhìn Hội thánh và nói: Hội thánh sắp chết, bọn giáo dân đã đến ngày tận số ! Nhưng tôi thấy bọn người đó đều chết đi mỗi ngày, trong khi Hội thánh vẫn luôn tồn tại để rao giảng quyền năng của Thiên Chúa cho các thế hệ nối tiếp nhau mãi”.
3. SUY NIỆM:
Các Đức Giáo hoàng là những đấng kế vị thánh Phê-rô Tông đồ, để thay Chúa Giê-su chăn dắt đoàn chiên Hội thánh. Các ngài cũng được Chúa Giê-su trao quyền tối thượng là không thể sai lầm khi chính thức công bố điều gì về đức tin và luân lý, như Chúa Giê-su đã hứa ban cho Tông đồ Phê-rô:“Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: Dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,18-19).
1) TÔNG ĐỒ PHÊ-RÔ: TẢNG ĐÁ ĐỨC TIN.
Trong Tin Mừng hôm nay, khi Đức Giê-su hỏi các môn đệ về dư luận quần chúng nghĩ gì về Người, các ông đã trả lời: Họ cho Người là ngôn sứ Ê-li-a, Giê-rê-mi-a hay là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại… Riêng ông Si-mon Phê-rô khi được Thầy hỏi lập trường đức tin, đã đại diện nhóm Mười Hai tuyên xưng như sau: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Đức Giê-su đã khen ông thật có phúc vì đã được Chúa Cha mặc khải điều ấy (x. Mt 16,17). Người đã đổi tên Si-mon thành ra Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá đức tin này, Người sẽ xây dựng Hội Thánh của Người. Người hứa sẽ làm cho Hội thánh ấy luôn vững bền (x. Mt 16,18). Cuối cùng Người còn ban quyền tối thượng qua việc trao chìa khoá Nước Trời, để Phê-rô có quyền cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 16,19).
Thực ra chỉ mình Đức Giê-su mới là Tảng Đá sống động và là nền móng xây dựng Hội Thánh (x. 1 Pr 2,4-5). Cũng như chỉ mình Người mới nắm giữ “chìa khóa vua Đa-vít” (x. Kh 3,7). Nhưng tông đồ Phê-rô nhờ đặt trọn niềm tin vào Chúa Giê-su nên đã trở thành tảng đá Đức Tin của Hội Thánh. Ông còn được Chúa Giê-su trao cho chìa khóa Nước Trời để thay Người cầm buộc và tháo cởi ở trần gian.
2) TÔNG ĐỒ PHÊ-RÔ: MỤC TỬ TỐT LÀNH NOI GƯƠNG ĐỨC GIÊ-SU.
Phê-rô không những tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa Hằng sống” (Mt 16,16), mà ông còn ba lần tuyên xưng lòng mến Thầy: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,15-17). Chính nhờ lòng tin yêu ấy, mà Phê-rô đã được Đức Giê-su đặt làm đầu Hội Thánh và được chia sẻ quyền chăn chiên với Người. Đức Giê-su cũng cầu nguyện để Phê-rô khỏi bị mất đức tin hầu chu toàn sứ vụ củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc 22,32). Cuối cùng Phê-rô còn chứng tỏ là một mục tử tốt lành khi sẵn sàng thí mạng vì đàn chiên noi gương Mục Tử nhân lành Giê-su (x. Ga 10,11). Thực vậy, khi Phê-rô đang cai quản giáo đoàn Rô-ma, cơn bách hại các tín hữu do hoàng đế Nê-rông nổ ra, tông đồ Phê-rô đã phải cải trang và trốn thoát được ra ngoài thành. Nhưng bất ngờ ông nhìn thấy Chúa Phục Sinh đang đi ngược chiều vào thành. Khi Phê-rô hỏi: “Thầy đi đâu?” thì được nghe Thầy trả lời: “Thầy đi vào trong thành để chịu đóng đinh một lần nữa” rồi Người biến mất. Phê-rô đã hiểu ý Chúa Giê-su nên ông lập tức quay vào thành Rô-ma rồi bị bắt và chịu đóng đinh thập giá chung với các tín hữu, để củng cố đức tin cho anh em trong cơn bách hại. Phê-rô đã yêu cầu được chịu đóng đanh ngược đầu xuống đất để theo Thầy “đến nơi ông không muốn đến” đúng như Chúa Phục Sinh đã từng tiên báo (x. Ga 21,18-19).
3) BỔN PHẬN CỦA CÁC TÍN HỮU ĐỐI VỚI CÁC MỤC TỬ TRONG HỘI THÁNH.
Công đồng Vatican II đã khẳng định: Mọi Kitô hữu đều có sứ mạng xây dựng Hội thánh. Mỗi người phải tùy theo hoàn cảnh và khả năng mà xây dựng Hội Thánh. Cần xác tín rằng Hội thánh được xây trên nền đá đức tin của tông đồ Phê-rô nên luôn vững bền, cho dù gặp phải muôn vàn trở lực. Mỗi tín hữu chúng ta cũng là những viên đá sống động xây nên ngôi nhà Hội thánh, nên cũng có nhiệm vụ phải yêu mến và bảo vệ Hội thánh. Cụ thể là xây dựng Hội thánh cụ thể là gia đình mình, giáo xứ và môi trường xã hội mình đang sông ngày một an toàn sạch đẹp và hạnh phúc hơn.
Ngày nay Hội Thánh vẫn gặp không ít những khó khăn do các thế lực thù địch bên ngoài, và ngay cả trong lòng Hội thánh: Nhiều tín hữu tại các nước Âu châu đã bỏ dự lễ Chúa Nhật ở nhà thờ; Một số khá đông các tín hữu các nước Nam Mỹ đã rời bỏ Hội thánh Công giáo để chạy theo các lạc giáo; Số tu sĩ chủng sinh giảm sút ở nhiều nơi; Nhiều vị mục tử bị báo chí công kích về tội ấu dâm; Ngay Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô cũng bị giới truyền thông chỉ trích vì cho rằng ngài đã bao che cho tội lỗi của một số giáo sĩ; Nhiều phong trào đấu tranh đòi quyền bình đẳng như đòi phong chức linh mục cho phụ nữ…
Ước gì mỗi tín hữu chúng ta hôm nay biết cảm thông với những khó khăn của các vị mục tử. Hãy năng cầu nguyện xin Chúa biến đổi các linh mục trở thành những mục tử tốt lành đúng theo ý Chúa muốn, để các ngài thi hành sứ vụ chăn dắt đoàn chiên với tấm lòng bao dung nhân hậu như Mục Tử nhân lành Giê-su. Mỗi người chúng ta cũng hãy luôn trung thành với việc thực hành đức tin qua các giờ kinh tối gia đình hằng ngày, tích cực học sống Lời Chúa hằng tuần và năng xưng tội rước lễ. Hãy liên kết thành những cộng đoàn nhóm nhỏ để sống tình huynh đệ là dấu chỉ môn đệ đích thực của Đức Giê-su, cùng nhau phục vụ những người bất hạnh và bị bỏ rơi noi gương cộng đoàn Hội thánh sơ khai. Luôn kết hiệp với Đức Ma-ri-a cầu xin Thánh Thần đến thánh hóa các tín hữu, biến đổi các gia đình, hội đoàn, giáo xứ, giáo phận… và môi trường mình đang sống ngày một xanh sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn và an bình hạnh phúc hơn.
4. THẢO LUẬN:
1) Theo ý bạn, Hội Thánh hôm nay, trong đó có các tín hữu chúng ta, có những khuyết điểm nào cần phải phải cấp thời sưả đổi canh tân? 2) Muốn cho việc canh tân bản thân, gia đình và xã hội hữu hiệu, chúng ta cần áp dụng các phương cách nào? 3) Bạn có yêu mến và cầu nguyện cho Đức Thánh Cha chưa? Bạn quyết tâm trong những ngày sắp tới sẽ làm gì cụ thể để cảm thông với những nỗi lo của Hội Thánh?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúng con không hiểu tại sao Chúa lại chọn ông Si-mon, một người thuyền chài ít học, nhiều khuyết điểm và đã có gia đình làm Tông đồ và ban cho ông trở thành Giáo Hoàng tiên khởi của Hội Thánh. Chúng con biết rằng Chúa muốn xây dựng Hội thánh trên Tảng Đá đức tin của tông đồ Phê-rô, một người tuy yếu hèn nhưng lại có lòng mến Chúa hơn các anh em.
- LẠY CHÚA. Hôm nay Chúa cũng kêu gọi mỗi tín hữu chúng con đi theo làm môn đệ của Chúa. Xin cho chúng con một chút can đảm của thánh Phê-rô, để chúng con sẵn sàng đến với anh em lương dân rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho họ. Xin cho chúng con quyết tâm loại bỏ những mặc cảm tội lỗi trong quá khứ, hồi tâm sám hối và sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa để hiến thân phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân như thánh Phê-rô và các tông đồ.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
[Mục Lục]

Bài 20. CÂU TRẢ LỜI CỦA THÁNH PHÊRÔ
P. Trần Đình Phan Tiến
Vâng kính thưa quý vị, thưa các bạn. “Phêrô” có nghĩa là “Đá Tảng”, đó là tên mà chính Chúa Giêsu đã đặt cho thánh Phêrô (Mt 16, 18).
Vậy thì “Đá Tảng” Phêrô chính là “Tảng Đá Hội Thánh” mà Chúa Giêsu đã thiết lập ngay tại trần gian nầy, hầu chính là Bước Đầu của NƯỚC TRỜI mai sau. Từng Lời rao giảng của Chúa Giêsu đều quy chiếu về Nước Trời. Nhưng trong muôn người, mỗi người mỗi đặc sủng, mà Bài đọc I hôm nay (Is 22, 19- 23) cho chúng ta biết ý nghĩa: “Cho ai nấy được”. Vâng, Thiên Chúa giàu lòng xót thương, nhưng Ngài cũng rất mực công minh. Ngài không theo ý muốn của loài người, nhưng luôn thực thi theo kế hoạch của Ngài, vì Ngài là Thiên Chúa.
Theo đó, chúng ta thấy việc thánh Phêrô tuyên xưng đức tin, thì không phải do bởi xác thịt, mà là do bởi Thần Khí (Mt 16, 17). “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16 ,16).
Như vậy, lời tuyên xưng của thánh Phêrô vào Chúa Giêsu, không phải do bởi phàm nhân, mà do bởi Thiên Chúa mặc khải. Qua đó, chính nhờ lời tuyên xưng nầy, Chúa Giêsu đã nói với Phêrô: “Này anh Si-mon con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (c 17).
Từ đó, chúng ta nhớ lại Lời Chúa Giêsu đã nói: “Phàm ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì thầy sẽ tuyên xưng kẻ ấy trước mặt Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10 , 32); ( Lc 12, 8).
Theo đó, Đọan Tin Mừng hôm nay có nhiều ý nghĩa để chia sẻ, nhưng ý nghĩa chủ chốt là chúng ta nhận ra và tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa không phải chỉ bằng lời , mà còn bằng cả cuộc sống nữa. Vì chúng ta thấy, Chúa Giêsu luôn đề cập đến điều kiện ban thưởng cho những ai bước theo Người. Điều đó cũng là lẽ công bình của Thiên Chúa. Như:“Ai muốn theo Ta , hãy từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23). Nhưng ai đã bỏ mọi sự mà theo Người thì sẽ được lời lãi gấp trăm ngay cả đời nầy và nhất là đời sau (Lc 18, 29- 30)
Chúng ta thấy, hình ảnh thánh Phêrô, một nhận vật cột trụ của giáo hội, cũng nhờ bởi lòng tuyên xưng trên. Nhưng con người Phêrô, không phải là con người “Đá Tảng”, bởi vì ông đã mang tội chối Thầy. Nhưng đó là con người Phêrô, còn thánh nhân Phêrô thì vững như bàn thạch , bởi vì chính Chúa Cha đã chọn ông. Từ đó, cho chúng ta một sự “phân biệt”, đó là khi chúng ta “không có” và khi chúng ta “có” Thiên Chúa. Hình ảnh thánh Phêrô không phải là hình ảnh của riêng ai, không phải dành riêng cho Đức Giáo Hoàng, hay Giám Mục, Linh mục, mà là dành cho những ai bước theo Chúa Kitô. Vì trước khi trở thành hàng giáo sĩ, thì phải là người Kitô hữu. Từ đó, cho dù là thiếu can đảm , sợ hãi, dẫn đến chối Chúa đi nữa, thì chúng ta hãy nhớ hình ảnh ăn năn, khiêm tốn, sửa mình đến thật lòng như thánh Phêrô. Hay khi chúng ta can đảm tuyên xưng Chúa Giêsu, thì chúng ta không tự cao, tự đại, mà chúng ta hãy nhớ lại những lúc chúng ta yếu đuối, sắp chìm, lúc chúng ta chối bỏ Chúa. Như vậy, thánh Phêrô thật là một con người đặc biệt, một phong cách trung thực thẳng thắn, nhưng nhiều lần yếu đuối, nhưng lại mạnh tin.
Rõ ràng, Thiên Chúa muốn chọn những người có phong cách cách “PHÊ-RÔ” để lãnh đạo Giáo Hội, hầu những giai đoạn phong ba, bão táp, hay lúc bình yên, hoặc lúc nguy khốn của Giáo Hội , chúng ta đừng quên và đừng phủ nhận “PHONG CÁCH PHÊRÔ” là vị Thuyền Trưởng thay mặt Chúa Giêsu ở trần gian nầy.
Vậy, Tin Mừng (Mt 16, 13-20) hôm nay có thể chia ba phần.
1/ Bối cảnh và địa danh Phêrô tuyên xưng Đức Tin (Mt 13, 13- 15)
2/ Phêrô tuyên xưng đức tin (c 16 )
3/ Chúa Giêsu khen Phêrô, tuyên bố thành lập Giáo Hội và trao quyền cho thánh Phêrô (c 17 -20)
Như vậy, phần thứ ba là phần nói về Quyền bính của Giáo Hội và Nước Trời.
a/ Sự Tháo cởi và Cầm Buộc:
Quyền bính của Giáo hội là quyền bính của Phêrô, quyền bính của Phêrô là quyền bính của Giáo Hoàng, quyền bính của Giáo Hoàng là quyền bính của Đức Kitô, mà quyền bính của Đức Kitô là “Phục Vụ”. Vâng, “PHỤC VỤ” là “QUYỀN BÍNH” lớn nhất, vì:“Thầy đến không phải để được phục vụ, mà là để phục vụ và hiến dâng mạng sống mình, để làm giá chuộc mọi người” (Mt 20, 28); ( Mc 10, 45).
Vì quyền bính được xây dựng trên sự phục vụ, thì quyền bính ấy như tòa nhà được xây trên “ĐÁ TẢNG”.
b/ Nước Trời:
Vâng, đoạn nầy có nói đến Nước Trời, ( trên trời, dưới đất ) vậy, Nước Trời, Thiên đàng, Vương Quốc Vĩnh Cửu, hay Thiên Quốc, có nghĩa là “Đường Lối” hay “Kế Hoạch” của Thiên Chúa. Hay nói cách khác, đó là “THIÊN ĐỊNH”, ý muốn của Thiên Chúa. Những từ ngữ nầy để chỉ nơi có Thiên Chúa “NGỰ TRỊ”, chứ không nói theo ý nghĩa địa lý. Có thể hiểu: Dưới Đất: là Trần Gian. Trên Trời: là Thiên Đàng. Nhưng, Thiên Đàng không phải là ở “Trên Trời” theo nghĩa cao, thấp, mà “THIÊN ĐÀNG” có nghĩa là: “ĐƯỜNG LỐI” của Thiên Chúa. Nơi có Thiên Chúa ngự trị, là nơi ý định của Thiên Chúa được thực thi. Vì Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống, nên ở đâu có Thiên Chúa, thì ở đó có sự sống. Chứ không tính theo địa lý. Vì Thiên Đàng được xem như là nơi vĩnh cửu, vì nơi đó có Thiên Chúa. Vì thế, khi nói đến Nước Trời là từ ngữ dùng để rao giảng tại thế, chứ không phải là “TỤC HÓA” như có tác giả đã viết. Còn khi nói về Thiên Đàng chính là Nước Trời mai sau. Khi đến trần gian rao giảng Nước Trời. thì Chúa Giêsu đã rao giảng một thứ Nước Vĩnh Cửu, Nước Hằng Sống, là chính Chúa. Vậy, Nước Trời không phải là ở trên trời theo ý nghĩa địa lý, mà là chính Chúa Giêsu Giêsu. Chúa Giêsu khi đến trần gian, Người rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, là Nước Trời đối với ai tin và thực thi. Vì vậy, Nước Trời mà Người rao giảng tại trần gian là bước đầu của Thiên Đàng mai sau, là khởi sự của một Vương Quốc đời đời, đó làThiên Quốc, Vương Quốc có Thiên Chúa ngự trị. Chứ Nước Trời hay Thiên Đàng không phải là hai nơi, nhưng để dễ hiểu, Nước Trời là sự rao giảng tại thế, cho thế nhân. Còn Thiên Đàng là Nước Trời dành cho thánh nhân. Đó là theo ngôn ngữ dễ hiểu của nhân thế. Không có gì phải lả “vấn đề” cả.
Còn theo ý một tác giả viết: “Tôn giáo không phải triết học, nhưng cũng chẳng phải mê tín dị đoan. Lấy triết /thần học để đem ra phê phán nầy nọ là chẳng hiểu biết gì về đạo Chúa… Chính bởi cứu cánh của đạo là sống với Tâm Vô Phân Biệt, thế nên Đức Kitô mới truyền dạy chúng ta cần thực hiện đạo lý ấy trong việc làm cũng như cầu nguyện…”.
“Thiên Đàng rõ ràng là một nơi chốn chứ không phải chỉ là… tình trạng lúc có, lúc không hoặc còn tệ hơn lại còn phủ nhận nó thì làm sao con người có thể tin được lời hứa của Đức kitô với các Tông Đồ trước khi Ngài đi nộp mình chịu chết…” (Tác giả PHÙNG VĂN HÓA ngày 13/08/2014, posted by Legio- Mariae).
Mặc nhiên, không có một người Công Giáo nào không tin là không có Thiên Đàng. Như thánh Phao-lô nói: “Gỉa sử không có Nước Trời thì, những ai tin vào Đức Kitô-Giêsu là kẻ đáng thương nhất thế giới…” (1Cr 15, 19). Vậy, “Nếu ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa” (1Cr 2, 31)
Thánh vịnh 137, c 1- 2.5-6 hôm nay cảm tạ và ca ngợi tình thương của Thiên Chúa như sau: “Tôi hết lòng cảm tạ, hỡi Chúa,
lời tôi nguyện Ngài đã khấng nghe,
trước mặt thiên sứ ca vui.
Xin Chúc tụng tán dương Danh Chúa:
Vì nhân hậu tín nghĩa của Ngài, vì lời hứa,
vì danh uy, khiến nên cao quý chẳng chi sánh tày” (c 1-2).
Cùng với tâm tình Thánh Vịnh hôm nay, thánh Phao-lô đã nói: “ …Quyết định của Người, ai dò thấu ! Đường lối của Người ai theo dõi được…” (Rm 11, 33b).
Vì thế, Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, khôn ngoan và thông suốt, “ĐƯỜNG LỐI” Chúa, ai dò thấu, tình thương của Ngài ai sánh bằng. Dù Thiên Đàng hay hỏa ngục, trần tục hay Thiên quốc, không quan trọng. Nhưng nơi nào có Thiên Chúa là có “ĐƯỜNG LỐI”của Ngài. Xin dạy bảo con thực thi “ĐƯỜNG LỐI” Chúa. Amen./.
[Mục Lục]

Bài 21. Bài giảng của Lm. Giuse Đinh Tất Quý
“Con là Phêrô, nghĩa là Tảng Ðá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16,18), với những lời này, Ðức Giêsu đã chính thức thiết lập Hội Thánh của Ngài trên trần gian.
1. Nhưng Hội Thánh này là Hội Thánh như thế nào?
+ Trước hết đây là Hội Thánh cho con người.
Ðức Giêsu xây dựng Hội Thánh trên nền đá Phêrô mà Phêrô vốn là một con người yếu đuối. Ðời ông có nhiều thất bại hơn thành công, nhiều yếu đuối hơn mạnh mẽ. Ông đã từng ra khơi suốt đêm để sáng sớm trở về tay trắng. Ông cũng đã từng chìm xuống khi muốn đi trên mặt nước đến với Chúa, đã từng ngủ mê khi phải canh thức với Thầy trước giờ tử nạn. Và tệ hại nhất là đã từng chối Chúa ba lần lúc Chúa bắt đầu chịu khổ nạn.
Nền tảng tượng trưng cho cả tòa nhà. Nền tảng Phêrô là một con người, một con người yếu đuối cũng như cả Hội Thánh gồm những con người mỏng giòn.
Đọc lại Tin Mừng chúng tôi thấy những thất bại của Phêrô thường diễn ra trong đêm tối. Ðánh cá suốt đêm không được gì. Chìm xuống mặt nước lúc ban đêm. Ngủ gật trong vườn Cây Dầu khi trời tối. Chối Thầy giữa đêm khuya. Ðây là hình ảnh Hội Thánh. Hội thánh trong cuộc sống trần gian sẽ mãi còn phải lần mò đi trong tối tăm thử thách của thế giới với những yếu đuối của con người.
Chúa đã dùng người yếu đuối để qui tụ những con người yếu đuối. Chúa sử dụng những phương tiện của con người để nâng đỡ con người. Đó là hình ảnh đầu tiên của Giáo Hội.
+ Tiếp đến là một Hội Thánh của Thiên Chúa.
Tuy Hội Thánh dành cho con người, gồm những con người yếu đuối, nhưng đó lại là Hội Thánh của Thiên Chúa.
Hội Thánh của Thiên Chúa  chính Thiên Chúa thiết lập. Ðức Giê su xác định đây là “Hội Thánh của Thầy” (Mt 16,18).
Hội Thánh của Thiên Chúa nên sống bằng sức sống của Thiên Chúa chứ không bằng sức sống của con người.
Qua suốt dòng lịch sử Hội Thánh đã gặp rất nhiều thử thách.
Có những thử thách từ bên ngoài. Sử sách còn ghi lại nhiều thế lực vua chúa ở trần gian này đã muốn triệt hạ Hội Thánh ngay từ lúc Hội Thánh mới chỉ là một nhóm những người bé nhỏ nghèo khó.
Có những thử thách nảy sinh từ trong nội bộ. Biết bao nhiêu lần chia rẽ, phân ly. Biết bao lỗi lầm tai hại có lúc tưởng như Hội Thánh đã đổ nát tan tành. Nhưng Hội Thánh vẫn đứng vững với thời gian. Vì đó là Hội Thánh của Thiên Chúa.
2. Đứng trước một Hội Thánh như thế. Chúng ta phải có thái độ nào?
+ Trước hết vì Hội Thánh là cho con người nên ta cần có thái độ cảm thông. Biết mình yếu đuối, tôi sẽ dễ cảm thông với những yếu đuối của anh em. Cảm thông không phải để mặc anh em chìm xuống, nhưng để giúp anh em vượt lên. Như lời Chúa dạy Phêrô: “Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22, 32).
Vì Hội Thánh gồm những con người mỏng giòn là chính chúng ta, nên ta cần khiêm nhường. Khiêm nhường nhận biết mình yếu đuối. Khiêm nhường nhận biết Hội Thánh còn chưa hoàn thiện. Khiêm nhường như thánh Phêrô suốt đời cầu xin lòng thương xót của Chúa. Khiêm nhường như Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II công khai lên tiếng xin lỗi về những sai sót của Hội Thánh. Ta không chỉ khiêm nhường khi đấm ngực chuẩn bị dâng thánh lễ, mà còn phải khiêm nhường trong đời sống hằng ngày.
Trong một bữa cơm thân mật có người hỏi Đức ông Pelgallo:
- Đức ông là người thân cận với Đức Thánh Cha vậy có điều gì nơi đức Thánh cha đánh động Đức ông hơn cả?
- Dĩ nhiên Đức Thánh Cha Phaolô VI là một vị giáo hoàng rất thông minh và thánh thiện. Nhưng riêng tôi, điều làm tôi cảm kích hơn cả nơi Ngài là lòng Ngài muốn hy sinh vì yêu Hội Thánh. Mỗi khi hòa mình với đám đông ở Roma, ở Manila chẳng hạn, hầu như Ngài quên tất cả, Ngài để cho mọi người lôi kéo. Chúng tôi, những kẻ có nhiệm vụ bảo vệ Ngài, lắm phen phải cực nhọc… Nên những lúc thân mật cha con, chúng tôi vẫn thưa với Ngài:
- Thưa Đức Thánh Cha, chúng con thấy Đức Thánh Cha vất vả quá, với muôn nghìn lo âu, thức khuya dậy sớm. Lắm phen nguy hiểm đến tính mạng. Đức Thánh Cha để cho đám đông lạ mặt lôi kéo như thế: chúng con ngăn cản bảo vệ không nổi. Xin Đức Thánh Cha gìn giữ sức khỏe cho.
Nhưng mỗi lần như thế, Ngài đều đáp lại với chúng tôi như một điệp khúc nhỏ nhẹ, dịu dàng:
- Tất cả vì Hội Thánh, vì Hội Thánh.
Nhiều khi chúng tôi mệt lả, ngao ngán, nhưng nhớ đến câu nói của Ngài, chúng tôi phải vươn lên theo Ngài, không thể bỏ Ngài, và càng cảm phục kính mến Ngài hơn nữa.
+ Thứ đến vì Hội Thánh là của Chúa nên ta phải hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Biết mình u mê, ta sẽ phó thác cho Chúa hướng dẫn cuộc đời. Biết mình yếu đuối, ta sẽ không còn cậy dựa vào sức riêng, nhưng hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, làm việc bằng sức mạnh của Chúa. Như thánh Phêrô tuyên xưng đức tin nhờ ơn soi sáng của Chúa Cha. Như thánh Phêrô giảng đạo trong ngày lễ Ngũ Tuần nhờ ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
Chính Chúa là sức mạnh của Hội Thánh. Phêrô là Ðá Tảng nhưng chính Chúa làm cho Ðá Tảng vững bền. Phêrô giữ chìa khoá nhưng chính Chúa gìn giữ toà nhà.
Vào quãng đầu thế kỷ 19, Napoléon đệ nhất của nước Pháp đã chinh phục hầu hết các nước Châu âu. Năm 1804 ông lên ngôi hoàng đế.
Để được các nước Âu châu thần phục mình, ông đã mời Đức Giáo Hoàng Piô VII đến đội mũ tấn phong cho ông lên làm hoàng đế. Ông cũng cố gắng thuyết phục vị Giáo Hoàng dời tòa thánh về Paris. Nghe những lời vừa đe dọa vừa vuốt ve của Napoléon, Đức Piô VII mỉm cười nói:
- Hài kịch của ông thật là xuất sắc.
Bị chạm tự ái, Napoléon cầm lấy sơ đồ vương cung thánh đường thánh Phêrô vừa xé vừa nói:
- Đây là điều mà ta sẽ làm cho Hội Thánh. Ta sẽ dẫm nát Hội Thánh ra từng mảnh.
Nghe thế vị Giáo Hoàng vẫn bình tĩnh nói:
- Bây giờ lại đến lượt bi kịch.
Đúng vậy, Napoléon đã bắt đầu bi kịch bằng cách tống giam vị Giáo Hoàng rồi chiếm lấy những lãnh thổ thuộc về Hội Thánh. Nhưng thảm kịch lại xảy ra cho chính ông. Đúng bốn ngày sau Napoléon thất trận lần đầu tiên.
Từ trong tù, vị Giáo Hoàng cũng thể hiện quyền lãnh đạo của ngài. Ngài đã dứt phép thông công Napoléon, nghĩa không cho ông tham dự vào đời sống của Hội Thánh nữa.
Napoléon gầm thét lên cách giận dữ, ông nói với Đức Giáo Hoàng:
- Đức Giáo Hoàng nghĩ rằng với việc rút phép thông công ấy, binh sĩ của ta sẽ buông súng ư?
Vài năm sau, từ những cánh đồng băng giá bên nước Nga, một bản báo cáo được đánh đi:
- Các binh sĩ của chúng ta đang buông súng.
Năm 1812, Napoléon dẫn quân ra khỏi nước Nga, và năm sau đó ông hoàn toàn bị quân đồng minh đánh bại. Tại chính biệt thự Fontaineblau nơi ông đang giam giữ Đức Giáo Hoàng Piô VII, hoàng đế của nước Pháp đã ký tên từ chức.
Và Đức Piô VII trở lại Rôma giữa tiếng reo hò mừng vui của thế giới công giáo.
[Mục Lục]

Bài 22. Trở nên Tảng Đá sống động
AM Trần Bình An
Người Chăm xưa xây Tháp bằng gạch mộc chưa nung, tức là dùng những viên gạch còn sống, trong đó có chứa một ít cát khoảng 10%, nhúng nước rồi xát và ép chặt vào nhau để kết dính, tạo nên một lớp vữa “giả tạo”. Thành ra cách xây này không vữa mà như là có vữa, rồi nung toàn khối. Trong đó, người Chăm xưa đã nghĩ tới phương pháp xây tháp theo nguyên tắc tạo ra một tổng thể đồng chất với bề dày tường lớn để có được lực liên kết bền vững nhất, đồng thời dễ dàng tạo ra được những tác phẩm điêu khắc có đường nét mỹ thuật cao. Nhưng vì đất sét là vật liệu lâu khô, lại phải nung qua lửa, đòi hỏi độ ẩm phải còn 20% trước khi nung nên người Chăm không thể đổ đất sét lỏng như hiện nay ta đổ bêtông, mà trước tiên phải làm nên những viên gạch mộc, phơi qua vài ngày để gạch se lại, sau đó nhúng nước, xát và ép để viên này dính sát với viên kia, chồng lên và so le mí với nhau. Khi ngôi tháp xây xong thì toàn bộ ngôi tháp, nền và móng đã trở thành một tổng thể đất sét đồng chất, ngoại trừ một ít lanh tô hoặc trụ đá phải dùng trong kỹ thuật xây và có thể được xử dụng để gia cường sau khi xây. Tổng thể đất sét này được nung chín, tất nhiên sẽ có độ bền vững hơn là xây bằng gạch đã nung trước với hồ vữa, là hai chất liệu khác nhau. Và cách xây và nung tháp của người Chiêm Thành thì bắt buộc phải “xây từ dưới lên trên và nung từ trên xuống dưới” nhằm tránh cho tháp khỏi bị đổ vì xây bằng gạch mộc.
Phần đỉnh tháp luôn luôn được xây nhỏ hơn phần đế và thân tháp để trọng tâm khó đổ ra ngoài. Vì vậy người Chăm xưa phải xây tường tháp rất dày từ 1m đến gần 2m. Cùng với việc xây từng đoạn xong để trong một ít thời gian cho gạch se cứng lại thì những yếu tố này góp phần làm giảm tải trọng bản thân của tháp lên các viên gạch. Xây tháp tới đâu thì đổ đầy đất ở trong lẫn ngoài lên tới đó, ngang với mặt tường đang xây, ém đất thật chặt để giữ tháp cho vững đồng thời để người thợ làm việc dễ dàng trong lúc xây và chạm khắc. (Hồ Thế Vinh, TC KT VN)
Tin Mừng Thánh Matthêu Chúa nhật hôm nay thuật lại Đức Giêsu gọi ông Simon là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Người sẽ xây Hội Thánh của Người, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Tảng đá rất hữu dụng trong xây dựng, vì cứng, bền đẹp và phổ thông.
Tảng Đá nền móng
Với tính năng chịu lực nén cao, bền bỉ, vững chãi và hoa văn đẹp, đá tảng hữu dụng trong xây dựng từ ngàn xưa đến nay. Có lẽ vì thế, mà theo Tin Mừng Gioan, ngay từ lần đầu gặp gỡ, thâu nhận ông Simon làm môn đệ chân truyền, Đức Giêsu đã đặt cho ông một tên mới: Kêpha, nghĩa là Đá. Trên Tảng Đá này, Người sẽ xây Hội Thánh bền vững mãi. Hẳn ai cũng cho là điên rồ, dại dột, khi thấy Người quyết định trao sứ vụ quan trọng và nặng nề lên đôi vai ông ngư phủ vai u thịt bắp, xoàng xĩnh và yếu đuối tinh thần.
Với con mắt thế gian, với sự khôn ngoan, sáng suốt của phàm nhân thì chẳng ai có thể hiểu nối Thánh Ý Chúa, luôn trái nghịch với đời: “Những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh.” (1 Cr 1, 27)
Tảng Đá Phêrô dù đã được Đức Giêsu chọn làm thủ lãnh các môn đệ cũng đầy khiếm khuyết, như yếu nhân đức tin, suýt chết đuối khi đi trên mặt nước, như khuyên Chúa tránh cuộc tử nạn tàn khốc: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy” (Mt 17, 22), như bạo lực chém đứt tai thủ hạ của quân dữ, như chối Chúa đến ba lần trước khi gà gáy.
Nhưng Tảng Đá Phêrô đã trung kiên lại ngay sau khi cái nhìn trìu mến thương yêu tha thứ của Đức Giêsu đang chịu nạn. Phêrô đã khóc lóc thảm thiết, sám hối, ăn năn tội bất nghĩa, bất tín, bất trung.
Sau lễ Ngũ Tuần, tràn đầy ân sủng Đức Chúa Thánh Thần, Tảng Đá Phêrô đã can đảm công khai loan báo Tin Mừng, đã gặt hái được kết quả đầu mùa, khoảng ba ngàn người theo đạo. Đến nay, dù trải qua bao cơn sóng gió, mưa bão vùi dập suốt hơn hai nghìn năm, Hội Thánh Chúa vẫn vững bền, tồn tại và phát triển trên Tảng Đá Phêrô và quý Đức Giám Mục Roma kế vị.
Tảng Đá sống động
Những viên gạch mộc của tháp Champa được liên kết chặt chẽ vào nhau trước khi chất củi nung chin. Chúng đều được nhúng nước, rồi cọ xát tứ bề, tiết ra dung dịch đất sét sền sệt, kết dính viên gạch này khắng khít với viên khác.
Các tảng đá xây dựng cũng phải được đẽo gọt sao cho phẳng phiu, ăn khớp với nhau. Chính sự cọ xát viên gạch và đẽo gọt tảng đá mới có thể kiến thiết, xây dựng hoàn chỉnh bức tường, dựng nên tòa tháp, ngôi thánh đường, đền thờ.
“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình” (Mt 16,24). Tảng Đá Phêrô đã chịu cọ xát, đẽo gọt, ăn năn, sám hối, thanh tẩy, thánh hóa, từ bỏ ý riêng, quyết sống tích cực theo Đức Tin đã được tuyên xưng hùng hồn: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa.” (Ga, 6, 70)
Với Đức Mến, Tảng Đá sống động Phêrô phó thác cuộc đời trong tay Chúa, để trở nên Đền Thờ tôn kính Thiên Chúa: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên Ðền thờ thiêng liêng.” (1 Pr 2,5)
Với Đức Cậy, Tảng Đá Phêrô luôn trông cậy vào Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa yêu thương và tha thứ: ”Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3,19)
Vậy trở nên Tảng Đá sống động là nghe, hiểu và thực hành Lời Chúa, tức là kết hợp hài hòa và nhuần nhuyễn với Tảng Đá Góc Tường, là Đức Kitô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa lựa chọn và coi là quý giá, ( 1Pr 2, 4) để xây dựng Đền Thờ cá nhân thánh thiện, cũng như Giáo Hội viên mãn. Bởi vì “Ai nghe những lời Thầy nói đây và đem thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên đá. (Mt 7, 24-25)
Đừng ngạc nhiên khi người ta phá Hội Thánh, vì đó là nhiệm thế Chúa Kitô; họ tiếp tục giết Chúa Kitô; không giết được Chúa Kitô được nữa, người ta phá Hội Thánh. (Đường Hy Vọng, số 251)
Lạy Chúa Giêsu, xin biến cải chúng con trở nên những tảng đá sống động, biết lắng nghe, tìm hiểu Lời Chúa và đem ứng dụng trong cuộc đời, để chúng con chung sức gìn giữ, phát huy, xây dựng Hội Thánh từ ngay tâm hồn, đến gia đình và xã hội.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con biết ăn năn, hoán cải, sám hối những tội lỗi vấp phạm, đã làm sứt mẻ Tảng Đá sống động, để luôn tha thiết gắn bó kiến thiết Đền Thờ Thiên Chúa. Amen.
[Mục Lục]

Bài 23. Trở nên “đá tảng” xây dựng hội thánh tại gia
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
“Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?” Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ.”
Thế là cho đến lúc đó, chưa có ai trong dân Do-Thái nhận biết thiên tính của Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
Si-môn Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.”
Một câu đáp gây kinh ngạc! Si-môn Phê-rô đã thấu được căn tính của Chúa Giê-su!
Cho đến lúc đó, chỉ có Si-môn Phê-rô là người duy nhất được đặc ân nầy. Vì thế, Chúa Giê-su ca ngợi và chúc mừng: “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.”
Cũng như thánh Phê-rô, chúng ta được diễm phúc nhận biết Đức Giê-su là Thiên Chúa.
Hôm nay, Thiên Chúa cũng ban cho chúng ta hồng phúc không thua kém gì Phê-rô xưa.
Trong số 90 triệu người Việt Nam, có chừng sáu triệu người công giáo, chiếm 7% dân số. Như thế, cứ một trăm người Việt mới có được bảy người công giáo. Chúng ta may mắn được liệt vào con số ít ỏi nhưng đầy diễm phúc nầy.
Điều mà các vị ngôn sứ tầm cỡ như Ê-li-a, I-sa-i-a, Mô-sê… và ngay cả các nhà hiền triết, các khoa học gia tên tuổi… chưa từng được nghe, chưa từng biết, thì Thiên Chúa đã mặc khải cho chúng ta từ lúc mới có trí khôn. Chính Chúa Giê-su cũng nhìn nhận đó là đại phúc:
“Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe. Quả thế, Thầy bảo anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe.” (Mt 13, 16-17)
Sở dĩ đây là đại hồng phúc vì hiểu biết Thiên Chúa là chìa khoá đưa đến ơn cứu độ và hạnh phúc đời đời.
Hồng ân Chúa Cha ban cho chúng ta lớn lao quá đỗi đến nỗi Chúa Giê-su đã từng cất tiếng tạ ơn Thiên Chúa Cha thay cho chúng ta: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều nầy, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn.” (Mt 11, 25)
Cũng như thánh Phê-rô xưa, chúng ta được chọn làm “viên đá” xây dựng Hội Thánh.
Bên cạnh hồng phúc nhận biết Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, Si-môn Phê-rô còn được phúc thứ hai là được Chúa chọn làm Đá tảng xây Hội Thánh Chúa: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”.
Từ ngày được lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, Thiên Chúa cũng ưu ái trao ban hồng phúc đó cho mỗi người chúng ta. Chúng ta cũng được liên kết với Chúa Giê-su là “viên đá đỉnh góc” (Mt 21,42), là “viên đá sống động” (I Pr 2,5) để cùng nhau xây lên Đền thờ Thiên Chúa, như lời thánh Phê-rô: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên Đền thờ thiêng liêng” (1Pr 2,5)
Noi gương thánh Phê-rô, chúng ta tích cực xây dựng hội thánh tại gia.
Phê-rô là Đá Tảng được Chúa chọn làm nền để xây dựng Hội Thánh hoàn vũ, thì chúng ta cũng là những viên đá khác được Chúa chọn để xây dựng hội thánh nhỏ là gia đình và giáo xứ chúng ta. Thế là trong cương vị người cha người mẹ, người anh chị em trong gia đình, chúng ta trở thành những Phê-rô khác, những “viên đá” khác trong hội thánh tại gia. Hội Thánh toàn cầu được kiên vững nhờ được xây dựng trên Đá tảng Phê-rô thì hội thánh tại gia có được kiên vững hay không là tuỳ vào chúng ta.
Được chọn làm Đá tảng xây dựng Hội Thánh, Phê-rô không thụ động cầu an, nhưng đã anh dũng hy sinh đời mình phụng sự Thiên Chúa và đem lại ơn cứu độ cho muôn người.
Được chọn làm đá tảng như Phê-rô, chúng ta hãy tích cực xây dựng gia đình và xứ đạo chúng ta trở nên một đại gia đình chuyên chăm phục vụ và chan hòa tình yêu thương.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đã ban ơn giúp sức cho thánh Phê-rô làm tròn vai trò của người trong cương vị Đá tảng Hội Thánh thì xin Chúa cũng nâng đỡ và giúp sức để chúng con chu toàn vai trò của mình trong cương vị đá tảng của hội thánh tại gia.


Bài giảng Chúa Nhật XXI Mùa Thường Niên - năm A
Lm. Giuse Đinh Tất Quý




A. Nhưng Hội Thánh này là Hội Thánh như thế nào?
+ Trước hết đây là Hội Thánh cho con người.
Ðức Giêsu xây dựng Hội Thánh trên nền đá Phêrô mà Phêrô vốn là một con người yếu đuối. Ðời ông có nhiều thất bại hơn thành công, nhiều yếu đuối hơn mạnh mẽ. Ông đã từng ra khơi suốt đêm để sáng sớm trở về tay trắng. Ông cũng đã từng chìm xuống khi muốn đi trên mặt nước đến với Chúa, đã từng ngủ mê khi phải canh thức với Thầy trước giờ tử nạn. Và tệ hại nhất là đã từng chối Chúa ba lần lúc Chúa bắt đầu chịu khổ nạn.
Nền tảng tượng trưng cho cả tòa nhà. Nền tảng Phêrô là một con người, một con người yếu đuối cũng như cả Hội Thánh gồm những con người mỏng giòn.
Đọc lại Tin Mừng chúng tôi thấy những thất bại của Phêrô thường diễn ra trongđêm tối. Ðánh cá suốt đêm không được gì. Chìm xuống mặt nước lúc ban đêm. Ngủ gật trong vườn Cây Dầu khi trời tối. Chối Thầy giữa đêm khuya. Ðây là hình ảnh Hội Thánh. Hội thánh trong cuộc sống trần gian sẽ mãi còn phải lần mò đi trong tối tăm thử thách của thế giới với những yếu đuối của con người.
Chúa đã dùng người yếu đuối để qui tụ những con người yếu đuối. Chúa sử dụng những phương tiện của con người để nâng đỡ con người. Đó là hình ảnh đầu tiên của Giáo Hội.
+ Tiếp đến là một Hội Thánh của Thiên Chúa.
Tuy Hội Thánh dành cho con người, gồm những con người yếu đuối, nhưng đó lại là Hội Thánh của Thiên Chúa.
Hội Thánh của Thiên Chúa  chính Thiên Chúa thiết lập. Ðức Giê su xác định đây là"Hội Thánh của Thầy" (Mt 16,18).
Hội Thánh của Thiên Chúa nên sống bằng sức sống của Thiên Chúa chứ không bằng sức sống của con người.
Qua suốt dòng lịch sử Hội Thánh đã gặp rất nhiều thử thách.
Có những thử thách từ bên ngoài. Sử sách còn ghi lại nhiều thế lực vua chúa ở trần gian này đã muốn triệt hạ Hội Thánh ngay từ lúc Hội Thánh mới chỉ là một nhóm những người bé nhỏ nghèo khó.
Có những thử thách nảy sinh từ trong nội bộ. Biết bao nhiêu lần chia rẽ, phân ly. Biết bao lỗi lầm tai hại có lúc tưởng như Hội Thánh đã đổ nát tan tành. Nhưng Hội Thánh vẫn đứng vững với thời gian. Vì đó là Hội Thánh của Thiên Chúa.
B. Đứng trước một Hội Thánh như thế. Chúng ta phải có thái độ nào?
+ Trước hết vì Hội Thánh là cho con người nên ta cần có thái độ cảm thông. Biết mình yếu đuối, tôi sẽ dễ cảm thông với những yếu đuối của anh em. Cảm thông không phải để mặc anh em chìm xuống, nhưng để giúp anh em vượt lên. Như lời Chúa dạy Phêrô: "Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh" (Lc 22, 32).
Vì Hội Thánh gồm những con người mỏng giòn là chính chúng ta, nên ta cần khiêm nhường. Khiêm nhường nhận biết mình yếu đuối. Khiêm nhường nhận biết Hội Thánh còn chưa hoàn thiện. Khiêm nhường như thánh Phêrô suốt đời cầu xin lòng thương xót của Chúa. Khiêm nhường như Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II công khai lên tiếng xin lỗi về những sai sót của Hội Thánh. Ta không chỉ khiêm nhường khi đấm ngực chuẩn bị dâng thánh lễ, mà còn phải khiêm nhường trong đời sống hằng ngày.
Trong một bữa cơm thân mật có người hỏi Đức ông Pelgallo:
- Đức ông là người thân cận với Đức Thánh Cha vậy có điều gì nơi đức Thánh cha đánh động Đức ông hơn cả?
- Dĩ nhiên Đức Thánh Cha Phaolô VI là một vị giáo hoàng rất thông minh và thánh thiện. Nhưng riêng tôi, điều làm tôi cảm kích hơn cả nơi Ngài là lòng Ngài muốn hy sinh vì yêu Hội Thánh. Mỗi khi hòa mình với đám đông ở Roma, ở Manila chẳng hạn, hầu như Ngài quên tất cả, Ngài để cho mọi người lôi kéo. Chúng tôi, những kẻ có nhiệm vụ bảo vệ Ngài, lắm phen phải cực nhọc... Nên những lúc thân mật cha con, chúng tôi vẫn thưa với Ngài:
- Thưa Đức Thánh Cha, chúng con thấy Đức Thánh Cha vất vả quá, với muôn nghìn lo âu, thức khuya dậy sớm. Lắm phen nguy hiểm đến tính mạng. Đức Thánh Cha để cho đám đông lạ mặt lôi kéo như thế: chúng con ngăn cản bảo vệ không nổi. Xin Đức Thánh Cha gìn giữ sức khỏe cho.
Nhưng mỗi lần như thế, Ngài đều đáp lại với chúng tôi như một điệp khúc nhỏ nhẹ, dịu dàng:
- Tất cả vì Hội Thánh, vì Hội Thánh.
Nhiều khi chúng tôi mệt lả, ngao ngán, nhưng nhớ đến câu nói của Ngài, chúng tôi phải vươn lên theo Ngài, không thể bỏ Ngài, và càng cảm phục kính mến Ngài hơn nữa.
+ Thứ đến vì Hội Thánh là của Chúa nên ta phải hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Biết mình u mê, ta sẽ phó thác cho Chúa hướng dẫn cuộc đời. Biết mình yếu đuối, ta sẽ không còn cậy dựa vào sức riêng, nhưng hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, làm việc bằng sức mạnh của Chúa. Như thánh Phêrô tuyên xưng đức tin nhờ ơn soi sáng của Chúa Cha. Như thánh Phêrô giảng đạo trong ngày lễ Ngũ Tuần nhờ ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
Chính Chúa là sức mạnh của Hội Thánh. Phêrô là Ðá Tảng nhưng chính Chúa làm cho Ðá Tảng vững bền. Phêrô giữ chìa khoá nhưng chính Chúa gìn giữ toà nhà.
Vào quãng đầu thế kỷ 19, Napoléon đệ nhất của nước Pháp đã chinh phục hầu hết các nước Châu âu. Năm 1804 ông lên ngôi hoàng đế.
Để được các nước Âu châu thần phục mình, ông đã mời Đức Giáo Hoàng Piô VII đến đội mũ tấn phong cho ông lên làm hoàng đế. Ông cũng cố gắng thuyết phục vị Giáo Hoàng dời tòa thánh về Paris. Nghe những lời vừa đe dọa vừa vuốt ve của Napoléon, Đức Piô VII mỉm cười nói:
- Hài kịch của ông thật là xuất sắc.
Bị chạm tự ái, Napoléon cầm lấy sơ đồ vương cung thánh đường thánh Phêrô vừa xé vừa nói:
- Đây là điều mà ta sẽ làm cho Hội Thánh. Ta sẽ dẫm nát Hội Thánh ra từng mảnh.
Nghe thế vị Giáo Hoàng vẫn bình tĩnh nói:
- Bây giờ lại đến lượt bi kịch.
Đúng vậy, Napoléon đã bắt đầu bi kịch bằng cách tống giam vị Giáo Hoàng rồi chiếm lấy những lãnh thổ thuộc về Hội Thánh. Nhưng thảm kịch lại xảy ra cho chính ông. Đúng bốn ngày sau Napoléon thất trận lần đầu tiên.
Từ trong tù, vị Giáo Hoàng cũng thể hiện quyền lãnh đạo của ngài. Ngài đã dứt phép thông công Napoléon, nghĩa không cho ông tham dự vào đời sống của Hội Thánh nữa.
Napoléon gầm thét lên cách giận dữ, ông nói với Đức Giáo Hoàng:
- Đức Giáo Hoàng nghĩ rằng với việc rút phép thông công ấy, binh sĩ của ta sẽ buông súng ư?
Vài năm sau, từ những cánh đồng băng giá bên nước Nga, một bản báo cáo được đánh đi:
- Các binh sĩ của chúng ta đang buông súng.
Năm 1812, Napoléon dẫn quân ra khỏi nước Nga, và năm sau đó ông hoàn toàn bị quân đồng minh đánh bại. Tại chính biệt thự Fontaineblau nơi ông đang giam giữ Đức Giáo Hoàng Piô VII, hoàng đế của nước Pháp đã ký tên từ chức.
Và Đức Piô VII trở lại Rôma giữa tiếng reo hò mừng vui của thế giới công giáo.
 
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận