Thứ Năm Tuần 20 TN – Thánh Piô 10, Giáo hoàng

Đăng lúc: Thứ năm - 21/08/2014 02:11 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
THỨ NĂM TUẦN 20 THƯỜNG NIÊN – Thánh Piô 10, giáo hoàng. Lễ nhớ.
"Các ngươi gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới".

 
Thánh nhân sinh năm 1835 tại Ri-ê-sê, nước Ý. Sau khi làm linh mục, người dấn thân thi hành việc mục vụ. Người làm giám mục Man-tô-va, rồi làm thượng phụ giáo chủ Vê-nê-xi-a và cuối cùng, năm 1903, được chọn làm giáo hoàng. Người chu toàn bổn phận của mình theo khẩu hiệu người đã chọn: “Canh tân mọi sự trong Chúa Kitô” với lòng đơn sơ, đời sống thanh bần và can đảm. Cùng với những đức tính ấy, người đã giúp các tín hữu sống đạo nhiệt thành và đối phó với những sai lầm đang lan tràn trong Hội Thánh. Người qua đời ngày 20 tháng 08 năm 1914.
 
Bài đọc (Ed 36, 23-28)
Đây Chúa phán: Ta sẽ thánh hoá danh cao cả Ta đã bị xúc phạm giữa các dân tộc, nơi mà các ngươi đã xúc phạm danh thánh Ta, để các dân tộc biết Ta là Chúa, Thiên Chúa các đạo binh phán, khi Ta tự thánh hoá nơi các ngươi trước mặt họ. Ta sẽ kéo các ngươi ra khỏi các dân tộc, sẽ quy tụ các ngươi từ các nước, và dẫn dắt các ngươi trên đất các ngươi. Ta sẽ dùng nước trong sạch mà rảy trên các ngươi, và các ngươi sẽ được rửa sạch mọi vết nhơ. Ta sẽ thanh tẩy các ngươi sạch mọi vết nhơ các bụt thần. Ta sẽ ban cho các ngươi quả tim mới, đặt giữa các ngươi một thần trí mới, cất khỏi xác các ngươi quả tim bằng đá và ban cho các ngươi quả tim bằng thịt. Ta đặt thần trí Ta giữa các ngươi, làm cho các ngươi thực thi các huấn lệnh Ta, làm cho các ngươi tuân giữ và thực hành các lề luật Ta. Các ngươi sẽ cư ngụ trong xứ Ta đã ban cho tổ phụ các ngươi; các ngươi sẽ là dân Ta, còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi.


Tin Mừng (Mt 22, 1-14)
Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những dụ ngôn này rằng: “Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: “Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới”. Nhưng những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán, những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố của chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: “Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới”. Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc.
Đoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: “Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?” Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: “Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng!” Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít”.


Thánh Piô X, giáo hoàng

Thánh Piô X Giáo hoàng tên thật là Guiseppe Melchierre Sartô, sinh tại làng Riese miền Venetia, ngày 02 tháng 6 năm 1835. Cha Ngài, ông Giovanni Battista Sartô thành hôn với mẹ Ngài là bà Margherita Samon, nhỏ tuổi hơn ông rất nhiều. Vì vậy lên 17 tuổi, Ngài đã mồ côi cha. Ông Giovanni Battista làm nghề chạy giấy của xã, làm cha một gia đình nghèo túng. Chết đi, ông để lại một gia đình càng túng quẫn hơn nữa. Tuy nhiên nhờ lòng đạo đức của cả hai ông bà mà gia đình này đã góp phần đào tạo nên một vị thánh lớn cho Giáo hội.
Ngay từ nhỏ, học tại trường làng, Guiseppe đã tỏ ra có nhiều triển vọng, Ngài luôn là một học sinh giỏi đứng đầu lớp học. Theo phong tục thời đó, dù đã vào ban giúp lễ từ hồi 7 tuổi, mãi tới năm 11 tuổi, Guiseppe mới được rước lễ lần đầu. Những ngày tháng mong đợi có lẽ đã khiến Ngài khi lên Giáo hoàng sau này, đã cho phép trẻ em được rước lễ vỡ lòng khi vừa tới tuổi khôn và nhiệt tình cổ võ lòng tôn sùng bí tích Thánh Thể. Trước bàn thờ Đức Mẹ, dịp rước lễ lần đầu, Guiseppe đã khấn dâng mình cho Chúa. Từ lâu rồi Ngài đã nuôi ý định này nhưng không dám tỏ bày với cha mẹ. Khi biết được ý định của con, mẹ Ngài đã hết sức tán thành, cha Ngài ngập ngừng vì thấy gia đình nghèo túng, nhưng rồi cũng quảng đại vâng theo ý Chúa. Mọi người đều vui mừng vì quyết định của Guiseppe, nhất là cha sở Riese. Cha phó dạy tiếng Latinh cho Ngài. Khi đã đủ lực theo bậc trung học ở Castelfrancô cách Riese 7 cây số. Suốt 4 năm trời Ngài thường vác giầy trên vai, để tiết kiệm, và đi bộ tới trường rồi lại đi bộ về nhà. Chính lý tưởng làm Linh mục là sức mạnh giúp Ngài kiên trì như vậy.
Hết 4 năm tại Castelfrancô, năm 1850, Guiseppe lên đại chủng viện Padua. Gia đình Guiseppe nghèo, cha sở xin được cho Ngài một học bổng, giáo dân trong họ hằng năm quyên tiền giúp đỡ Ngài. Thật là những nghĩa cử cao đẹp đối với một ơn gọi. Năm 17 tuổi, ông thân sinh qua đời, Guiseppe muốn bỏ về giúp mẹ và săn sóc cho 7 đứa em. Lại một nghĩa cử cao đẹp khác vun trồng cho ơn gọi Guiseppe chín mùi: mẹ Ngài không chấp nhận ý kiến, mà quyết tâm dâng con cho Chúa. Trong nếp sống nghèo khó nhưng lại giàu lòng quảng đại ấy, Guiseppe đã tiến tới chức Linh mục ngày 28 tháng 9 năm 1858, lúc 23 tuổi.
Sau ngày mở tay tại quê nhà, cha Guiseppe đi nhận phó xứ Tombolo, chín năm sau Ngài được bổ nhiệm làm chính xứ Salzano. 17 năm làm phó xứ rồi chính xứ, cha Guiseppe sống đời hy sinh tận tụy với giáo dân, nhất là với những người nghèo khó. Không hề ao ước danh vọng, Ngài lại được chiếu cố, được tín nhiệm vào chức vụ cao hơn. Đức Giám mục Trevise mời Ngài về làm trưởng ấn toà giám mục, kiêm nhiệm chức vụ giám đốc chủng viện. Ngài luôn luôn thi hành các chức vụ bề trên giao phó một cách chu đáo.
Năm 1884, Đức Lêô XIII, Đấng mà Ngài sẽ kế vị đặt Ngài làm Giám mục cai quản điạ phận Mantua, Ngài muốn từ khước nhưng đã vâng lời và quyết nên mọi sự cho mọi người.
- Dân chúng sẽ thấy tôi luôn kiên trì trong chức vụ, luôn hiền từ và đầy bác ái.
Ôm hôn mẹ hiền, Ngài cho mẹ xem chiếc nhẫn Giám mục của mình. Mẹ Ngài cũng sung sướng cho Ngài xem chiếc nhẫn cưới của mình và nói:
- Không có chiếc nhẫn của mẹ thì chẳng có chiếc nhẫn của con.
Phải thật nhân đức mới có thể đương đầu với tình trạng đáng thương của giáo phận: chủng viện gần như trống rỗng, dân chúng chịu ảnh hưởng của tâm điểm thệ phản thuyết phóng túng nên lòng đạo đức sa sút, chẳng còn nhiệt tâm gì với việc tông đồ, với đời sống nội tâm. Sợ hãi, nhưng Đức cha Sartô bắt tay ngay vào việc canh tân. Ngài đi kinh lý khắp điạ phận rộng lớn. Những cuộc tiếp xúc thường xuyên và thân mật này đã tạo nên những bước tiến cụ thể. Khi mùa gặt đã tới, Ngài lên tiếng kêu gọi cho ngân quỹ vơi cạn của chủng viện và được đáp ứng quảng đại. Ngài triệu tập một hội nghị để trao đổi và để đón nhận các ý kiến. Ngài luôn lo bảo vệ sự toàn vẹn đức tin và không muốn chấp nhận sự sống nhượng bộ khi không được phép:
- Người ta phải tranh đấu nơi thanh thiên bạch nhật.
Công việc ngày một nhiều, nhưng Ngài vẫn thường xuyên thăm viếng các giáo xứ. Buổi sáng kia tới nhà thờ một họ đạo, Ngài thấy giáo dân đứng chờ trước toà giải tội, Ngài vào ngồi tòa, khiến cha sở tới nơi phải bối rối. Trợ giúp hàng giáo sĩ về luân lý lẫn tài chánh đó là nét đặc trưng trong chức vụ của Ngài.
Mỗi hoạt động của vị Giám mục thánh thiện đều tạo thành tiếng vang. Năm 1893, Đức Lêô XIII đặt Ngài làm Hồng y Giáo chủ Vevetia. Lần này Ngài mau mắn vâng lời.
- Khi vị đại diện Chúa Kitô mở lời, không phải là lúc để nghiệm xét, mà là vâng phục. Không được phép cân nhắc lệnh truyền để tìm giảm thiểu mức độ vâng phục…
Đức Hồng y tiếp tục cùng một chương trình canh tân. Ngài xây dựng nhiều thánh đường, cô nhi viện, chủng viện và một phân khoa giáo luật. Ngài can đảm thiết lập thông tấn xã công giáo. Ngài đến nhà thờ và tranh đấu cho việc tôn trọng luật Chúa.
Ngày 08 tháng 7 năm 1903, đức Lêô XIII từ trần. Đức Hồng y giáo chủ Sartô phải đi vay tiền mua vé về họp mật nghị bầu Giáo hoàng. Trong mật nghị, Đức Hồng y Puzyna cai quản Krakow cho biết Hoàng đế nước Áo phủ quyết Đức Hồng y Rampella quốc vụ khanh của Đức Lêô XIII mới từ trần. Cuộc bỏ phiếu đầu ngày 1 tháng 8, Đức Sarto chỉ được 5 phiếu. Đức Hồng y Gibbons người Mỹ xin Ngài đừng phủ quyết cuộc bầu cử và đến cuộc đầu phiếu thứ 7 ngày 4 tháng 10, Ngài được 50/62 (vì sự kiện trên, sau này người ra hiến chế Comomissum Nobis để ngăn chặn mọi mưu toan chính trị tìm khuynh đảo các cuộc bầu cử Giáo hoàng).
Sau kết quả cuộc bầu cử, Đức hồng y niên trưởng đến hỏi:
- Chúng tôi đã nhân danh Thiên Chúa tiến cử Ngài làm Giáo hoàng, Ngài có ưng thuận không ?
Sau giây phút yên lặng trong nước mắt giàn dụa, Ngài nghẹn ngào trả lời?
- Ước gì tôi không phải uống chén này, nhưng mong sao ý Chúa được nên trọn.
Thấy câu trả lời chưa rõ, Đức hồng y niên trưởng hỏi lại lần nữa và Ngài trả lời:
- Tôi xin nhận như nhận một thánh giá.
- Vậy Ngài muốn nhận tên gì ?
- Vì tôi phải chịu khổ nên tôi nhận tên của những vị đã phải đau khổ. Tôi nhận tên là PIÔ.
Thế là cuộc bầu cử Giáo hoàng đã xong. Lễ đăng quang được cử hành ngày 09 tháng 8 năm 1903. Trong thông điệp đầu tiên, E Supreni Apostolatus ngày 04 tháng 10 năm 1903 Ngài công bố:
Nếu người ta muốn hỏi chúng tôi một châm ngôn phát xuất tự đáy lòng, tôi sẽ luôn nói rằng: canh tân mọi sự trong Đức Kitô.
Suốt triều đại Giáo hoàng, Đức Piô X đã thực hiện châm ngôn ấy. Ngài cho phép các trẻ em nhỏ rước lễ sớm khi vừa tới tuổi khôn và khuyến khích việc rước lễ hàng ngày. Với thông điệp Pascendi ngày 08 tháng 9 năm 1908 kết án thuyết duy tâm. Ngài sửa lịch và sách nguyện, canh tân thánh nhạc và truyền dùng trong cả Giáo hội, Ngài thiết lập các viện nghiên cứu âm nhạc và kinh thánh tại Roma. Ngài khởi đầu công cuộc hệ thống hóa giáo luật…Về phương diện chính trị, Ngài tạo ra sự dễ dàng trong việc liên lạc giữa Giáo hội và vương quốc Ý. Khi tổ chức lại các bộ và các toà án, cùng giáo triều Roma, tông hiến Sapienti Consiliô năm 1908 cho thấy dấu hiệu sẵn sàng chấp nhận việc để mất các quốc gia của Giáo hội, cũng không cần đến cơ cấu cai trị dân sự làm khuôn mẫu. Ngay từ năm 1905 Ngài đã cương quyết từ khước hoà ước Napolêon và chấp nhận sự phân biệt Giáo hội với quốc gia vì biết rằng sự nghèo khó của Giáo hội Pháp là có lợi hơn.
Giữa những tình huống hóc búa này, Đức Piô X không bao giờ thực sự cảm thấy mình được phép ở nhà. Ngài là “tù nhân ở Vaticanô”. Một lần tiếp xúc với các bạn cũ, Ngài bật khóc:
- Xem người ta đưa tôi lên ghế này đây.
Tìm lại nếp sống cũ, Ngài đưa các em về Roma để giặt ủi và may vá đồ. Khi đau bệnh, Ngài xin Linh mục là cháu của Ngài cho rước lễ. Ngài còn đưa cả cha tuyên úy và người nấu ăn từ Venetia về. Thích sống thanh đạm, Ngài bỏ các nghi thức nhỏ nhặt và nhiều truyền thống nặng hình thức khác. Khi Ngài qua đời người ta còn thấy trong túi áo Ngài những vật của một học sinh: con dao nhỏ và cây bút chì.
Năm 1914 vào năm thứ 11 sau khi Đức Piô được bầu làm Giáo hoàng, Âu Châu lâm vào cảnh chiến tranh. Ngài ngã bệnh, Ngài dâng lễ cuối cùng vào ngày lễ Mông Triệu. Ngài qua đời ngày 20 tháng 8. Người ta nói rằng: Ngài bị vỡ tim vì lo buồn cho nhân loại, 9 năm sau đã bắt đầu hồ sơ phong thánh và ngày 03 tháng 6 năm 1951 Ngài được phong chân phước, ngày 29 tháng 5 năm 1954, sau 40 năm qua đời Ngài được phong hiển thánh.
Ước gì mỗi người Kitô hữu chúng ta biết học theo gương sống của thánh Piô X, canh tân đổi mới trong Đức Kitô, làm tất cả vì lòng yêu mến Chúa và Giáo Hội.


Suy niệm 1: Y PHỤC LỄ CƯỚI

Hôm nay, Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu lấy hình ảnh hôn lễ để nói về Nước Trời. Ông Vua chính là Thiên Chúa Cha. Hoàng Tử là Đức Giêsu. Hôn Thê là Giáo Hội. Khách được mời là dân Dothái, nhưng họ đã khước từ, vì thế khách được mời là hết mọi người, không phân biệt. Ngày cưới là ngày chung cuộc, ngày phán xét, ngày Vua tập hợp tất cả mọi người trên mọi nẻo đường, mọi thành phần tốt cũng như xấu, và đến giờ, nhà vua mới tiến vào và phán xét mọi người để phân biệt đâu là chiên và đâu là dê!
Tiêu chuẩn để không bị xét xử là phải mặc y phục lễ cưới. Nếu không sẽ bị đuổi ra ngoài.
Y phục mà Đức Giêsu muốn nói đến ở đây là gì? Thưa! Đó là sự đổi mới. Đổi mới là từ bỏ lòng ích kỷ cá nhân để mặc vào lòng bác ái vị tha. Từ bỏ sự hiềm khích, vô ơn, bất chính, để mặc vào tình yêu thương chân chính và lòng biết ơn. Từ bỏ sự hờ hững, vô tâm để mặc lấy lòng nhiệt thành, liên đới, cảm thông.
Vì thế, mặc y phục lễ cưới là mặc lấy tinh thần mới, lối nhìn mới và cách sống mới. Tiếc thay, điều kiện của Vua thì rất là dễ, nhưng lại trở thành quá khó đối với một số người cố thủ trong ích kỷ, biếng nhác, tham lam và ghen ghét. Vì thế, họ bị đuổi ra ngoài.
Hôm nay phụng vụ mừng kính thánh Piô X Giáo Hoàng, ngài là một vị thánh được biết đến với sự đơn sơ, chân thành và mến yêu Giáo Hội, tôn sùng Thánh Thể Chúa cách đặc biệt.
Cuộc đời của thánh nhân là một cuộc sống nghèo. Sinh ra trong cảnh nghèo. Lớn lên trong sự thiếu thốn. Thành công nhờ sự cộng góp của người thân…. Cái nghèo đã ảnh hưởng và chi phối con người, sứ vụ của ngài rất nhiều. Vì thế, khi làm linh mục, ngài luôn sống trong tinh thần nghèo khó, tận tụy với giáo dân và thương yêu người bé mọn. Tinh thần này tiếp tục triển nở sau khi ngài đã làm giám mục và giáo hoàng.
Quả thật, đức thánh Giáo Hoàng Piô X đã trở nên một người xuất sắc trong y phục lễ cưới. Bởi vì ngài đã sống theo tinh thần mới của Đức Giêsu là mặc vào trong mình sự hiền hậu, nhân từ, bao dung, tha thứ và yêu mến những người nghèo.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức lại việc mình được mời đến dự tiệc Thánh Thể và Lời Chúa hằng ngày. Tuy nhiên, chúng ta đã đáp trả như thế nào? Thờ ơ lãnh đạm như dân Dothái xưa không đi dự tiệc vì quá nhiều bận rộn trong đời sống, hay chúng ta đi dự tiệc mà không mặc y phục lễ cưới là phẩm hạnh của bàn tiệc mà Đức Giêsu đòi hỏi như: y phục của lòng tin, cậy, mến; y phục của lòng ăn năn sám hối và sự kính trọng đối với Thiên Chúa; y phục của tình yêu thương, liên đới và chia sẻ với người nghèo!
Mong thay, mỗi người chúng ta, khi được tham dự bàn tiệc Thánh Thể và Lời Chúa thì cũng được biến đổi, để ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô và đủ điều kiện để một ngày kia tham dự vào bàn tiệc Thiên Quốc. Amen.


Suy niệm 2: BIẾT CHUẨN BỊ TIỆC CƯỚI NƯỚC TRỜI

“Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.” (Mt 22,14)
Suy niệm: Tại sao có người chối từ tiệc cưới của nhà vua – biểu tượng của hạnh phúc Nước Trời – bằng những lý do vu vơ? Thưa, bởi vì họ không màng đến phần rỗi đời đời. Nói cách khác, vào Nước Trời hay không chẳng phải là điều họ quan tâm lúc này, quan tâm của họ là vui chơi, mua bán, làm giàu… Tại sao có người không mặc y phục lễ cưới? – Vì họ cho rằng hễ mời là tôi đi, cần gì phải sắm sửa. Ông chủ cần tôi chứ đâu phải tôi cần ông chủ! Họ là người tin Chúa, nhưng không tôn trọng Ngài, cũng chẳng thực hành các điều răn và Tám Mối Phúc. Như vậy, cả hai hạng người trên đây – chỉ biết cuộc sống trần thế hoặc không nghiêm túc sống đạo – đều đánh mất cơ hội vui hưởng hạnh phúc Nước Trời.
Mời Bạn: Bạn có quan tâm đến hạnh phúc Nước Trời này không, hay cũng biết rồi để đó? Hoặc có thể bạn ỷ lại vào tình thương của Chúa thái quá, nên chưa sống xứng hợp tư cách người Ki-tô hữu. Bạn hãy bày tỏ lòng kính trọng và tâm tình biết ơn Chúa qua nỗ lực sống đức tin triệt để hơn trong đời sống.
Chia sẻ: Nhắc nhở, tạo điều kiện cho (vợ) chồng, con cái tuân thủ điều răn Chúa, dự lễ và cử hành phụng vụ trong giáo xứ. Những việc này là phương thế thờ phượng Chúa và đồng thời nuôi dưỡng đức tin của gia đình bạn.
Sống Lời Chúa: Tôi cố gắng dự lễ Chúa Nhật và lễ trọng, trừ khi có những lý do bất khả kháng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin đừng để con vì mải mê thế sự mà quên mất việc thờ phượng Chúa. Xin cho con ý thức đó là việc quan hệ nhất trong đời Ki-tô hữu của mình. Amen.


Suy niệm 3
Ý nghĩa rõ ràng nhất của dụ ngôn này chính là những người Do Thái đã khước từ ơn cứu độ của Chúa. Họ là dân tộc được tuyển chọn, nhưng khi Con Thiên Chúa đến mời gọi họ bước theo Ngài thì họ đã từ chối. Sau cùng, đa phần những người “bên lề”, nghĩa là những người tội lỗi và dân ngoại vào Nước Thiên Chúa. Hậu quả của sự khước từ này thật khủng khiếp. Hậu quả đến ngay trong lịch sử dân tộc Do Thái. Chúa Giêsu đến mời gọi họ bước đi trong con đường yêu thương, phục vụ, họ đã từ chối. Chính vì vậy bộ máy chính quyền Do Thái đã gây nên những phiền nhiễu cho đế quốc Rôma bằng những cuộc nổi loạn, khiến họ chịu không nổi, nên cuối cùng đã phá hủy đền thờ Giêrusalem “không còn hòn đá nào trên hòn đá nào” đúng như lời tiên báo của Chúa Giêsu.
Kế đến chúng ta cũng thấy được lời mời gọi của Chúa Giêsu là để chúng ta đến với một bữa tiệc vui chứ không phải mời gọi chúng ta đi đám tang, đám giỗ, hay mời gọi chúng ta đến dự buổi tiệc để gây quỹ thiện nguyện. Chúng ta sẽ mất niềm vui đó nếu không nhận lời mời của Chúa.
Những lý do: “Đi nông trại, đi buôn…” không sai trái. Không ai khước từ đi dự tiệc vì lý do bận buôn lậu hoặc làm điếm, nhưng người ta có những lý do chính đáng theo suy nghĩ của người ta. Điều đó cho chúng ta thấy bận tâm đến những điều tạm bợ sẽ làm cho chúng ta quên đi điều vững bền. Nếu chỉ chú ý đến những điều mắt thấy thì sẽ không thể nghe được tiếng gọi thiêng liêng bên trong của Chúa. Vì vậy cái tốt có thể làm mất điều tốt nhất.
Chúng ta đừng để ý đến hình phạt nếu từ chối lời mời gọi của Chúa, nhưng hãy để ý đến những gì chúng ta sẽ mất mát khi không chịu đến với Chúa. Có những điều làm chúng ta tiếc nuối khi bỏ qua. Và không gì làm chúng ta tiếc nuối cho bằng lời mời gọi đến với bữa tiệc đời đời. Điều quan trọng ở chỗ bữa tiệc này là bữa tiệc của ân sủng mà con người chúng ta không bao giờ xứng đáng. Thế nhưng chúng ta cứ để cho những thứ phàm tục lôi kéo khiến chúng ta quên đi ân sủng.
Lạy Chúa, lời Chúa vẫn mời gọi con mỗi ngày để con đến với Chúa dù con chẳng xứng đáng với ân huệ của Chúa. Thế nhưng con còn bận tâm với nhiều thứ, những thứ này xem ra không gì sai trái. Ví dụ công ăn việc làm, công danh sự nghiệp, gia đình, vợ con, chuyện học hành… Vì những điều tốt đó mà con quên đi điều tốt nhất. Xin cho con biết ưu tiên những điều linh thánh trong những chọn lựa hằng ngày của con.
***
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Bí tích Thánh Thể là bàn tiệc mà Chúa đã dọn sẵn cho chúng con. Bàn tiệc này, Chúa bảo luôn đủ chỗ cho mọi người. Bàn tiệc thánh của Chúa không dành cho một đối tượng ưu đãi nào hay thành phần cốt lõi nào. Bàn tiệc của Chúa luôn rộng mở đón chào mọi người. Chúng con xin tạ ơn Chúa đã thương quy tụ chúng con quanh bàn tiệc của Chúa. Xin giúp chúng con biết sống tình huynh đệ với nhau trong sự chia sẻ, cảm thông, yêu thương và phục vụ.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, Chúa hằng lo lắng cho từng người chúng con. Chúa hối hả sai các gia nhân ra tận cùng các ngõ hẻm để tìm kiếm chúng con. Chúa không muốn bàn ăn thiếu một người nào trong chúng con. Chúa gọi tên, điểm mặt từng người trước khi bàn tiệc bắt đầu. Tấm lòng Chúa thật bao la hải hà. Chúng con xin ca ngợi tình thương Chúa. Nhưng Chúa ơi, nhiều lần chúng con lại quá thiếu sót khi lơ là tham dự bàn tiệc thánh. Nhiều lần chúng con còn khoác trên mình tấm áo đã dơ bẩn bụi trần. Chúng con đã không có thái độ kính trọng đối với bàn tiệc thánh của Chúa. Chúng con đến dự miễn cưỡng. Chúng con thiếu tấm lòng hân hoan khi cùng nhau chia sẻ quanh bàn tiệc của Chúa. Xin Chúa tha thứ cho chúng con. Xin giúp chúng con canh tân đổi mới cuộc đời hầu luôn xứng đáng tham dự bàn tiệc của Chúa.
Lạy Chúa, Ước gì chúng con luôn được vui mừng hoan hỉ trong bàn tiệc Thánh Thể của Chúa hôm nay để mai sau chúng con được thông dự bàn tiệc cưới muôn đời trong Nước Chúa. Amen.
 
SUY NIỆM 4: Tiệc Cưới, Áo Cưới

Dụ ngôn tiệc cưới và chiếc áo cưới trong Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta mặc lấy một trong những tâm tình cơ bản nhất của Kitô giáo, đó là hân hoan, vui mừng. Kitô giáo thiết yếu là đạo của Tin Mừng.
Trong rất nhiều sinh hoạt và hình ảnh của cuộc sống, Chúa Giêsu đã chọn bữa ăn như dấu chỉ ưu việt nhất để rao giảng Tin Mừng của Ngài. Nước Trời giống như một tiệc cưới, đây là một trong những hình ảnh được Chúa Giêsu sử dụng nhiều nhất để nói lên niềm vui của Nước Trời. Chúa Giêsu cũng mặc cho bữa tiệc của Ngài một ý nghĩa tượng trưng đặc biệt. Chúng ta chỉ cần nhớ lại tiệc cưới Cana, trong đó Chúa Giêsu đã biến nước thành rượu để khách dự tiệc được tiếp tục cuộc vui. Ngài dự tiệc do Lêvi, do Zakêu và rất nhiều người thu thuế khoản đãi; Ngài đồng bàn với họ, chia sẻ một tấm bánh và uống một chén rượu với họ.
Không những đồng bàn với những người tội lỗi, Chúa Giêsu cũng không từ chối lời mời của những người Biệt phái, những người giàu có. Ngài chia sẻ bữa ăn thân thiết với gia đình Marta, Maria và Lazarô tại Bêtania. Ngài thiết lập Bí Tích Thánh Thể trong bữa ăn cuối cùng của Ngài với các môn đệ. Sau khi sống lại, Ngài ngồi đồng bàn với hai môn đệ trên đường Emmau. Ngài hiện ra trên bờ hồ và chuẩn bị bữa ăn cho các môn đệ, rồi Ngài cùng ăn cùng uống với các ông.
Bữa ăn là nơi thể hiện của những giá trị cao quí nhất trong cuộc sống của con người, như gặp gỡ, hiệp thông, trao ban, chia sẻ, hân hoan. Chính vì ý nghĩa cao quí ấy, Chúa Giêsu đã mượn hình ảnh bữa tiệc để nói lên những thực tại Nước Trời. Ðến đây, chúng ta hiểu được ý nghĩa của hình ảnh chiếc áo cưới mà thực khách phải mặc vào khi dự tiệc cưới. Chiếc áo cưới ấy chính là tâm tình gặp gỡ, chia sẻ, trao ban, hân hoan mà con người phải mặc lấy để thuộc về Nước Trời.
Có người đã tưởng tượng ra Thiên đàng, hỏa ngục như hai bàn tiệc. Bàn tiệc dưới hỏa ngục cũng mâm cao cỗ đầy, thế nhưng khách dự tiệc thì ngồi ủ rũ buồn thiu, bởi vì mỗi người đều cầm trong tay một đôi đũa dài đến độ thức ăn thì gắp được, nhưng không thể đưa thức ăn vào miệng. Bàn tiệc trên Thiên đàng cũng y hệt, nhưng khác một điều, là thay vì gắp thức ăn cho vào miệng mình, người ta lại gắp thức ăn và đưa vào miệng người đối diện, thế là vui vẻ cả, vì ai cũng được ăn uống no nê.
Ước gì niềm vui bàn tiệc thánh mà chúng ta tham dự cũng được tiếp tục thể hiện trong đời thường của chúng ta. Ước gì cả cuộc sống chúng ta luôn được diễn ra trong gặp gỡ, chia sẻ, trao ban, vui tươi, nhờ đó chúng ta cảm nhận được niềm vui đích thực của Nước Trời và thắng vượt được mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
 
SUY NIỆM 5: Mặc Áo Cưới

Thiên Chúa ban ơn và mời gọi mọi người đến lãnh nhận ơn cứu rỗi để được hưởng hạnh phúc đời đời, điều này được diễn tả qua hình ảnh bữa tiệc cưới được dọn ra cho con người nhưng những kẻ được mời đã không đến dự. Con người tìm hạnh phúc ở nơi khác ngoài Thiên Chúa, ngoài chương trình Thiên Chúa mong muốn. Sự chối từ của con người không làm cho Thiên Chúa bỏ dở công cuộc của Ngài, Ngài tiếp tục mời gọi con người đến với Ngài. Nhưng có một chi tiết đáng lưu ý, những kẻ bước vào dự tiệc phải giữ điều tối thiểu đó là mặc áo cưới. Các nhà chú giải hiểu việc mặc áo cưới như là mặc lấy Chúa Kitô và được thánh Phaolô tông đồ giải thích nơi thư Êphêsô như sau: "Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa kia, là con người phải hư nát vì những ham muốn lừa lọc. Anh em phải để Thánh Thần đổi mới tâm trí anh em và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thực sự sống công chính và thánh thiện". Ðể vào Nước Thiên Chúa theo lời mời gọi của Chúa, mọi người phải mặc áo cưới, tức là mặc lấy Chúa Kitô, sống thánh thiện, từ bỏ những hành vi xấu xa tội lỗi. Thiên Chúa luôn ban ơn nhưng con người cần cộng tác với ơn Chúa. Chúng ta đừng tìm lý do trì hoãn sự dấn thân đáp trả lời mời gọi của Chúa.
Lạy Chúa
Chúng con chúc tụng lòng nhân từ của Chúa muốn ban ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người. Xin giúp chúng con mau mắn đáp lại tiếng Chúa kêu mời, luôn canh tân đời sống, mặc lấy Chúa Kitô để thực sự vui hưởng hạnh phúc muôn đời với Chúa, cùng hiệp an với các thánh nhân trên trời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
 
SUY NIỆM 6: Cơ Hội Cho Kẻ Giàu

Đức Giêsu lại dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: “Nước Trời cũng giống như vua kia mở tiệc cưới cho con mình. Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến.”
Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.
Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy đó có một người không mặc y phục lễ cưới. (Mt. 22, 1-3, 10-11)
Người ta cho rằng dụ ngôn này ám chỉ người Do-thái trước hết. Chính họ là những người nghe đầu tiên, thế mà khi nói với họ, Người lại bị họ theo dõi… truy lùng…. Họ là những người giầu trong Nước Trời. họ được đặc quyền sống với Thiên Chúa từ bao thế kỷ rồi.
Khách mời của Chúa.
Luôn luôn có nhiều người giầu trên thế giới. Nước Trời được dâng biếu cho họ trước hết. Đúng vì họ giầu, họ có thể giúp đỡ người nghèo. Họ có thể hiến thân. Nếu họ đi sai, có phải chính vì họ không nghe tiếng Chúa không?
Để dự tiệc cưới…
Không thiếu những kẻ muốn dự tiệc cưới. Không phải chỉ vì họ không có gì tặng, nhưng chỉ vì họ không chịu mặc áo cưới: đó là điều kiện độc nhất như luật tiệc cưới buộc. Ngạc nhiên ư? nếu người ta chấp nhận thì phải mặc trang phục tiệc cưới để vào ăn cưới theo tục lệ thời đó. Thế mà vào dự tiệc, chúng ta lại quá tự do, tự diễn không theo ý chủ mời nên mới phải chịu trách nhiệm! Đàng khác, chúng ta được lựa chọn, có thể từ chối. Nhiều người đã xin lỗi từ chối. Ngày nay, người ta lấy cớ giữ giới răn thì cổ lỗ chừng nào. Giáo lý của Giáo Hội nhất là về công bằng, bác ái thì lạc hậu biết bao!
Người ta thỏa mãn với nhiều thần tượng khác, người ta sống trong giầu có dư thừa và độc lập tự mãn; tại sao tự khép kín, tự tôn mình làm Thiên Chúa như thế?
Vua sai đầy tớ đi thỉnh khách đã được mời trước, nhưng họ từ chối. Chúng ta từ chối, chúng ta phải hứng chịu những hậu quả ghê gớm mai ngày sau cái chết, và ngay ngày hôm nay chúng ta đang sống. Những giới răn của Thiên Chúa không còn giá trị nữa sao? Chúng ta đã thay thế giới răn đó bằng thứ gì? Người ta từ chối dự tiệc Nước Trời để được tự do: như đứa con hoang đàng, chúng ta bằng lòng dự tiệc với đồ ăn của heo sao?
Nhưng Cha trên trời đang ở đó để chờ đợi chúng ta luôn luôn! chúng ta không chỉ là khách được mời, chúng ta còn là con Cha nữa.
J.M
 
SUY NIỆM 7:

1. Hình ảnh tiệc cưới
Hình ảnh “tiệc cưới” thật quen thuộc đối với chúng ta, bởi vì tiệc cưới cũng là một sự kiện mà ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm; có thể chúng ta chưa và sẽ không bao giờ làm đám cưới, nhưng chắc chắn đã từng đi ăn cưới. Tuy nhiên, dụ ngôn “tiệc cưới” của Đức Giê-su lại gây ra cho chúng ta nhiều thắc mắc, thậm chí những vấn nạn, bởi lẽ dụ ngôn có nhiều điều điều lạ lùng, hay không bình thường.
Tiệc cưới là một trong những hình ảnh rất sống động diễn tả lời ca tụng, chính vì thế Đức Giê-su hay dùng để nói về Nước Trời, cùng đích của sáng tạo và lịch sử cứu độ. Tiệc cưới là hình ảnh sống động diễn tả lời ca tụng, bởi vì đó là nơi chốn của niềm vui (lời ca tiếng hát) và hiệp thông (một cơ hội lớn để qui tụ), và là cơ hội để tạ ơn, ca tụng Chúa và chúc mừng nhau. Đó là tâm tình của Thánh Lễ Hôn Phối và nghi thức cầu nguyện tại gia đình hai họ khi tiễn và đón cô dâu.
Và để chia vui và hiệp thông với mọi người trong lời chúc mừng và tạ ơn, mỗi người được mời phải ra khỏi nhà, đôi khi phải đi thật xa và thật sớm, phải tạm dừng nhịp sống bình thường và quen thuộc của mình, phải tạm gác công việc đôi khi quan trọng và cấp bách và nhất là phải ra khỏi những bận tâm để có một tâm hồn cởi mở, có được sự tự do nội tâm.
Trong dụ ngôn, những người được mời đã không làm được như vậy: được mời trước, và được thỉnh tại nhà một lần nữa, họ vẫn không chịu đến! Nhà vua lại sai các tôi tớ đi mời thêm một lần nữa, và đây là lần thứ ba với lời dặn tha thiết: “Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới!”(c. 4) Chúng ta cần cảm nhận rằng, cả lời mời gọi lẫn lời từ chối đều được đẩy tới mức độ triệt để. Nhưng, như chúng ta thấy, họ không ra khỏi được thế giới riêng của mình, họ như là bị giam ở trong đó và vì thế tất yếu dẫn đến bạo lực:
Quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết. (c. 5-6)
Đó chính là năng động tất yếu của sự chối từ và đóng kín. Thái độ ngược lại là ra khỏi mình để chia vui, hiệp thông, chúc mừng và ca tụng; và thái độ này làm cho chúng ta được tự do với những gì giam cầm chúng ta, và giải thoát khỏi những năng động đóng kín gây chết chóc. Chúng ta đôi khi cũng có thái độ và hành động tương tự đối với lời mời gọi nhưng không và tha thiết của Chúa đến tham dự cầu nguyện, Thánh Lễ, hay những dịp gặp gỡ để diễn tả niềm vui và hiệp thông.
2. Những điều lạ lùng
Một vị vua mở tiệc cưới cho hoàng tử là điều bình thường, nhưng cách vua mời các quan khách thì thật là lạ: vua đã gởi “thiệp mời” trước rồi, nhưng sắp đến ngày cưới lại sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời. Điều này lạ, nhưng cũng không quá lạ, nhất là đối với chúng ta ngày nay, vì người đã nhận được thiệp mời rồi, vẫn có thể nhận được lời nhắc nhở qua điện thoại hay tin nhắn trước ngày lễ.
Điều lạ lùng hơn là khi nhà vua thêm một lần nữa sai những đầy tớ khác đi, và lần thứ hai này có một sứ điệp rất quảng đại, rất tha thiết và rất hiếu khách:
Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: “Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới!” (c. 4)
Từ chối không đến dự tiệc cưới vì bận việc, phải đi thăm nông trại, phải đi buôn (những việc cần phải tiến hành đúng lúc), cũng là chuyện bình thường; nhưng “bắt các đầy tớ của vua mà hành hạ và giết chết” là điều hoàn toàn không bình thường. Điều này thật không bình thường trong dụ ngôn, nghĩa là trong câu chuyện Đức Giêsu đang kể, nhưng lại là điều có thật trong lịch sử: những người được Thiên Chúa sai đến để nói về tình yêu nhưng không và lòng thương xót của Thiên Chúa đều đã bị bách hại ; và tất cả các nhân chứng bị bách hại trong lịch sử loài người hội tụ nơi Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh, Đấng bị loại trừ “hoàn hảo” nhất; điều này đã diễn ra trong quá khứ, những vẫn còn đang diễn ra hôm nay và sẽ còn như thế nữa.
Sự kiện những kẻ tàn ác và sát nhân bị tru diệt, đó là điều bình thường trong lịch sử và cả trong lịch sử cứu độ nữa, như lời Thánh Vịnh nói: “Cho bọn ác nhân sa vào hố chính chúng đào” (Tv 141, 10). Bởi lẽ, ai chọn hành xử bạo lực, thì sẽ chứng kiến bạo lực đổ xuống trên chính mình. Nhưng tiệc cưới đã chuẩn bị xong và đã bày ra bàn rồi, mà đưa quân đi đánh nhau, quả là điều rất lạ lùng! Ở đây không phải là thanh toán một vài người nhưng là tiêu diệt cả một thành, nghĩa là phải tiến hành chiến tranh ! Sau cùng, Nhà Vua quyết định mời tất cả mọi người:
Vậy các ngươi đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới. (c. 9)
Đây là một trong những chi tiết lạ lùng nhất của dụ ngôn và chi tiết này nói lên cách tuyệt vời ơn huệ quảng đại và nhưng không của Thiên Chúa dành cho tất cả mọi người không phân biệt, thể hiện nơi Đức Giê-su. Ơn huệ Thánh Lễ hằng ngày nhắc nhớ và diễn tả cho chúng ta tình yêu quảng đại và nhưng không này của Thiên Chúa. Tuy nhiên, điều lạ lùng lớn nhất và cũng là cũng là khó khăn lớn nhất của dụ ngôn, chính là vấn đề “y phục lễ cưới”.
Chúng ta thường đi thẳng vào ý nghĩa đạo đức hay luân lí của hình ảnh “y phục lễ cưới”: trách nhiệm luân lí, lương tâm ngay thẳng, những việc đạo đức và bác ái… Tuy nhiên, nếu chúng ta đặt chi tiết “y phục lễ cưới” vào trong toàn bộ dụ ngôn, chúng ta thấy có nhiều điều không bình thường:
- Đang đi đường, được kéo vào phòng tiệc, thì làm sao mà có áo đẹp và đúng nghi thức được.
- Những người kia cũng từ ngoài đường đi vào đột xuất, tại sao họ có y phục lễ cưới, còn người này thì không? Tại sao chỉ có một người? Xét cho cùng xác xuất rất ít: một trên nhiều ngàn người!
- “Y phục lễ cưới” không thể là đức hạnh hay đời sống luân lí được, vì trong phòng cưới đầy người: “xấu tốt” : “Các đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận tốt xấu, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách” (c. 10).
Tóm lại, hình ảnh “y phục lễ cưới” vừa không khớp với toàn bộ câu chuyện, vừa khó tìm ra ý nghĩa. Chính vì thế, Giáo Hội cho phép không đọc phần này; để cho phần kết của dụ ngôn trở nên “có hậu” hơn[1].
3. Ơn huệ “y phục lễ cưới”
Tuy nhiên, chi tiết này lại là đỉnh cao của dụ ngôn, dụ ngôn này và của hai dụ ngôn trước, dụ ngôn “hai người con” và dụ ngôn “những tá điền sát nhân”, được thánh sử Mát-thêu kể lại trong Mt 21, 28-46:
- Lời của nhà vua ngỏ đích thân với một người được mời; hình ảnh này muốn nói cho chúng ta rằng, những người trong phòng tiệc không thể là một đám đông ô hợp, dù trước đó họ đã là như thế, và từng người trong phòng tiệc không thể là vô danh với nhau và nhất là với Nhà Vua.
- Nhà Vua ước ao đi vào tương quan đích thân với từng người được mời. Và riêng với người này, Ngài chất vấn về cái thiếu của anh ta, cái thiếu rất quan trọng và rất thiết yếu. Trước mặt Chúa, trước ân huệ và lòng thương xót của Chúa, ai trong chúng ta cũng đều thiếu điều gì đó rất quan trọng, rất riêng tư và rất sâu thẳm; và chỉ có một mình Chúa và chúng ta mới biết được thôi.
- Chúa hỏi và Chúa chờ đợi chúng ta trả lời. Thiếu sót nghiêm trọng của nhân vật trong dụ ngôn có lẽ không phải là “y phục”, cho bằng anh đã “câm miệng”, vì sợ hãi hay vì không muốn mở lòng ra, đi ra khỏi chính mình để đáp lời Nhà Vua với tất cả con người thật của mình và kêu cầu lòng thương xót.
Từ ngoài đường vào phòng tiệc cưới, không ai có được “y phục lễ cưới”. Chúng ta hãy đáp lại lời mời của Chúa và cả lời chất vấn nữa; chúng ta hãy giãi bày con người thật của mình và xin Ngài ban cho chúng ta “y phục lễ cưới”.
*  *  *
Thực ra Chúa ban cho chúng ta rồi, chúng chỉ cần mặc vào thôi, đó ơn công chính mà Thiên Chúa ban không cho mỗi người chúng ta nơi Đức Giê-su:
Mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa,nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Ki-tô Giê-su. (Rm 3, 23 -24)
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
———
[1] Đó là khi dụ ngôn này được công bố vào Chúa Nhật XXVIII, Thường Niên, Năm A
 
Từ khóa:

sẵn sàng, quy tụ

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận