Thứ Hai Tuần 19 TN – Thánh Clara, trinh nữ

Đăng lúc: Thứ hai - 11/08/2014 02:40 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
THỨ HAI TUẦN 19 THƯỜNG NIÊN – Thánh Clara, trinh nữ. Lễ nhớ.
"Họ sẽ giết Người, nhưng Người sẽ sống lại. Con cái thì được miễn thuế".
 
Thánh nữ sinh năm 1193 tại Átxidi. Năm 18 tuổi, chị xin thánh Phanxicô cho được theo nếp sống khó nghèo. Thánh Phanxicô đã cho chị ở trong một căn nhà tồi tàn, gần nhà thờ thánh Đamianô ở cửa ngõ thành Átxidi. Em của thánh nữ tên là Anê và một số thiếu nữ khác gia nhập nếp sống của chị: sống thanh bần triệt để. Đó là những nữ tu Phanxicô tiên khởi. Chị qua đời năm 1253.
 
Bài đọc (Ed 1, 2-5. 24 – 2, 1a)
Ngày mồng năm trong tháng, năm thứ năm vua Gioakim bị lưu đày, có lời Chúa phán cùng tư tế Êdêkiel, con của Buzi, ở xứ Calđêa, trên bờ sông Côbar. Chính tại đây, bàn tay Thiên Chúa đã đặt trên tôi.
Tôi nhìn thấy có một cơn gió mạnh từ phương bắc thổi đến. Có một đám mây to lớn và lửa bao bọc chung quanh và bốn bề có ánh sáng phát ra, và ở giữa bầu lửa như vàng pha sáng chói. Chính giữa, có giống gì như bốn con vật hình dáng giống như hình người.
Và tôi nghe tiếng cánh của chúng như tiếng nước lũ, như tiếng của Chúa vạn năng; khi chúng đi thì khác nào như đám đông người, như tiếng đạo quân: khi chúng dừng lại thì chúng xếp cánh xuống. Vì khi chúng nghe có tiếng trên không trung, trên đầu chúng, thì chúng dừng lại và xếp cánh xuống.
Và trên không trung, trên đỉnh đầu chúng, có cái gì như một viên ngọc thạch, hình như chiếc ngai, và trên ngai đó, phía trên hẳn, có hình giống như hình người. Và tôi thấy người như vàng pha sáng chói, bên trong, tứ bề khác nào như lửa, từ lưng người trở lên, và từ lưng trở xuống, tôi thấy có gì như lửa chiếu sáng chung quanh, giống như cái mống hiện ra trên mây trong ngày mưa: đó là hình thể chiếu sáng chung quanh. Đây là hình lạ trông giống vinh quang của Chúa. Tôi nhìn thấy thì sấp mặt xuống đất.


Tin Mừng (Mt 17, 21-26)
Khi ấy, các môn đệ và Chúa Giêsu còn đang ở Galilêa, thì Chúa Giêsu bảo các ông rằng: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết người, nhưng ngày thứ ba, Người sẽ sống lại”. Các môn đệ rất đỗi buồn phiền.
Khi các ngài đến Capharnaum, thì những người thu thế đền thờ đến gặp Phêrô và hỏi rằng: “Thầy các ông không nộp thuế “đền thờ’ sao?” Ông nói: “Có chớ”.
Khi ông về đến nhà, Chúa Giêsu hỏi đón trước rằng: “Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian thu thuế má hạng người nào? Đòi con cái mình hay người ngoài?” Ông thưa rằng: “Đòi người ngoài”. Chúa Giêsu bảo ông rằng: “Vậy thì con cái được miễn. Nhưng để chúng ta không làm cho họ vấp phạm, con hãy ra biển thả câu: con cá nào câu lên trước hết thì bắt lấy, mở miệng nó ra, sẽ thấy một đồng tiền, con hãy lấy tiền đó mà nộp cho họ, trả phần Thầy và phần con”.


Thánh CLARA, đồng trinh (1194-1253)

1. Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ Thánh Clara đồng trinh.
Cũng như thánh Phanxicô Khó Khăn, thánh nữ Clara là một ngọn đèn thật sáng Chúa đã dùng để làm cho nhân loại hiểu rõ hơn về tinh thần khó nghèo tuyệt đối của Phúc Âm là tinh thần như thế nào.
Clara sinh ngày 16/7/1194 tại Assise miền Ombrie nước Ý, trong một gia đình quý phái. Clara được một người mẹ đạo đức đã lưu tâm dạy dỗ cho ngay từ thuở còn thơ ấu, bằng cả lời nói cũng như bằng gương sáng của mình. Bà đã giáo dục, tập cho Clara biết cầu nguyện, biết sống từ bỏ và biết chịu đựng nhẫn nhục thật sớm.
Lên 16 tuổi, Clara đã tránh xa tiếng ồn ào của đô thị đến ẩn mình trong một nhà thờ ở miền quê (1212). Chính nơi đây Clara đã gặp thánh Phanxicô Khó Khăn và được Ngài tận tình giúp đỡ trên con đường tu đức. Khi Clara chọn con đường dâng hiến cho Chúa, gia đình đã ngăn cản quyết liệt. Clara đã can đảm vượt qua. Cuối cùng Clara đã được đưa đến đền thờ thánh Ðamianô và ở đây Clara đã lập Hội Các Chị Tận Hiến cho Thiên Chúa.
Về đời sống thiêng liêng, ngài trực tiếp theo sự hướng dẫn của thánh Phanxicô Khó Khăn. Ngài điều khiển tu hội cách ân cần và khôn ngoan. Ngài qua đời ngày 11/8/1253 trước sự thương tiếc của mọi người.
Ðức Giáo Hoàng Alexandre IV đã đặt ngài lên hàng các thánh đồng trinh năm 1255.

2. Nhìn lại cuộc đời của thánh nữ Clara, chúng ta thấy ngài đã có một ý chí thật cao và mạnh mẽ trên con đường dấn thân đi theo Chúa. Truyền thuyết kể lại ngài đã thầm khấn dâng mình cho Chúa ngay từ lúc 16 tuổi, ngay lúc còn ở nhà để giúp đỡ cha mẹ. Ngài đã kiên nhẫn chờ đợi ngày Đấng Quan phòng ấn định. Và ngày tốt đẹp ấy đã đến. Clara đã hết sức vui mừng khi được biết về cuộc đời kỳ diệu của Phanxicô, con trai của một đại thương gia giầu có người thành Assisi. Clara đã hết lòng cảm phục trước việc Phanxicô dứt khoát từ bỏ mọi sự giầu sang và can đảm thoát ly mọi áp lực trần thế kể cả việc phải từ bỏ cả nhà cha mẹ, để lên đường hiến thân phục vụ Vua Trời trong đời sống khó nghèo.
Nghe biết về con đường của thánh Phanxicô, Clara đã kín đáo tìm đến gặp và nói cho ngài biết tất cả chí hướng về đời sống nội tâm của mình. Riêng Phanxicô, vì được ơn Chúa soi sáng, nên thánh nhân đã mau nhận ra con đường Chúa muốn người con thiêng liêng của mình phải đi là con đường nào. Vì thế, Phanxicô đã âm thầm giúp Clara chuẩn bị ngày công khai đoạn tuyệt thế gian, để xe duyên với “đức khó nghèo”. Ngày ấy là ngày Chúa nhật Lễ Lá năm 1212.
Theo lời chỉ dẫn của thánh Phanxicô, sáng hôm ấy Clara ăn mặc thật diễm lệ, xứng đáng con nhà quý phái. Clara tiến lên, quỳ hàng ghế đầu, như để từ giã mọi người lần cuối cùng. Trước cử chỉ lạ thường của Clara, mọi người quen thuộc đều bỡ ngỡ! Và người ta càng bỡ ngỡ hơn nữa khi thấy Clara không đi kiệu lá, cứ quỳ tại chỗ chăm chú nhìn lên bàn thờ, tay nắm chặt cành lá xanh tươi, tượng trưng cho sức sống mạnh mẽ đang dâng lên trong tâm hồn… Thế rồi đêm hôm ấy, Clara bỏ nhà cha mẹ, tay cầm cành lá chạy thẳng đến nhà nguyện Nữ Vương các thiên thần, nơi Phanxicô đang quỳ chờ đợi. Trong nhà thờ nhỏ bé dâng kính “Bà Chúa nghèo” này, thánh Phanxicô đã giúp người con thiêng liêng của mình hiến tóc và dâng lòng cho Thiên Chúa. Sau khi dâng hiến cho Chúa mớ tóc huyền, Clara đổi bộ áo diễm lệ ban sáng, mặc lấy chiếc áo thô của đức khó nghèo.
Và dòng nhì thánh Phanxicô hay là dòng Các chị em nghèo được thiết lập từ đó.
Sáng hôm sau, Phanxicô dẫn Clara đến gửi tại một nữ tu viện gần làng Baxia. Nhưng vì không chịu được sự phản đối quá gay gắt của gia đình, Clara lại xin thánh Phanxicô đến lẩn tránh ở một tu viện khác. Tại đây, thánh nữ đã khuất phục được một người em gái tên là Annê. Annê mới 15 tuổi, nhưng dáng người đẹp đẽ và tinh thần sắc sảo không kém gì Clara. Sau Clara, Annê là người thứ hai được Phanxicô cắt tóc và dâng lên Thiên Chúa lời khấn vâng lời, trinh khiết và khó nghèo. Người ta kể, khi gia đình Annê đến, nhất quyết lôi nàng về. Thì lạ thay, con người nhỏ bé của nàng bỗng trở nên rắn cứng và nặng trĩu, đến nỗi bốn năm người kéo không nổi. Biết đó là việc lạ Thiên Chúa làm, mọi người đành yên lặng ra về…
Khi công việc đã êm xuôi, thánh Phanxicô đến lĩnh ý Đức Giám mục xây cho chị em một ngôi nhà nhỏ lấy tên là tu viện thánh Đamianô. Đây là tu viện đầu tiên của dòng các chị nghèo. Tuy nhỏ bé, nhưng số chị em lên rất đông. Đầu tiên chị em sống theo qui luật của chính thánh Phanxicô soạn, nhưng đến năm 1215 công đồng Latêranô sửa đổi lại, tham chiếu theo luật dòng thánh Biển Đức. Bốn năm sau, Đức Hồng Y Ugolinô lại duyệt lại và bỏ bớt những điều luật quá nghiêm nhặt về đời sống khổ nghèo của chị em. Riêng thánh nữ Clara, người được đặc ân của Đức Giáo Hoàng, cho tự do sống khó nghèo vượt hẳn qui luật dòng.
Các nữ tu đều đi chân không, ngủ trên nền đất, không ăn thịt và hầu như giữ im lặng hoàn toàn. (Về sau thánh Clara, cũng như thánh Phanxicô, thuyết phục chị em điều chỉnh điều khắt khe này: “Cơ thể chúng ta không được làm bằng đồng”). Dĩ nhiên, điều nhấn mạnh nhất là sự nghèo khó Phúc âm. Họ không sở hữu tài sản, ngay cả giữ chung, chỉ sống nhờ vào những của bố thí hằng ngày.
Bà chăm sóc các bệnh nhân, hầu bàn, rửa chân cho các chị em khi họ đi hành khất về. Ảnh hưởng của bà mạnh đến nỗi các giáo hoàng, hồng y và giám mục thường đến tham vấn bà. Bà rất sùng kính Thánh Thể. Bà luôn nói với các chị em: “Đừng sợ. Hãy tín thác vào Chúa Giêsu”.
Ngày 11-8 năm 1253, thánh nữ gọi các chị em lại để nhắn nhủ mấy lời cuối cùng: “Chị em thân mến! Tôi Clara, nữ tỳ hèn mọn của Chúa Kitô, là thân cây non Thiên Chúa đã ban cho cha thánh Phanxicô, đem trồng trong vườn tu viện như một tiểu muội, một hiền mẫu của chị em. Dù không xứng đáng, tôi cũng nhân danh Thiên Chúa chúc lành cho chị em tất cả”. Sau cùng thánh nữ kêu to tiếng: “Nào chị em không thấy Vua vinh hiển đang đến với tôi kia ư?”. Nói đoạn, ngài nhắm mắt lại, êm ái ra đi như người ngủ! Nhiều chị em dòng làm chứng đã thấy Đức Mẹ và nhiều thánh nữ khác hiện đến đón linh hồn thánh Clara về trời!
Thánh nữ được Đức Giáo Hoàng Alexanđrô IV phong lên bậc hiển thánh. Và sau, Đức Clêmentê X định lễ kính thánh Clara vào ngày 11 tháng 8 hằng năm, ngày thánh nữ được Chúa gọi về trời lãnh triều thiên vĩnh cửu, sáng rực những hạt ngọc trinh khiết và khó nghèo!


Suy niệm 1: CON ĐƯỜNG CỨU ĐỘ CỦA ĐỨC GIÊSU

Trong cuộc sống, có lẽ không ai muốn mình phải nghe, hay đụng chạm đến những tin không vui. Vì thế, với não trạng của con người, chúng ta thường thích nghe tin mừng, tin thành công và chiến thắng.
Tuy nhiên, hôm nay, bài Tin Mừng lại tường thuật việc Đức Giêsu loan báo một tin buồn và nghịch lý với lối hiểu của con người: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ chỗi dậy”.
Khi nghe thấy tin đó, các môn đệ buồn phiền và thất vọng. Với các ông và cả những người Dothái cùng thời, Đức Giêsu phải là người mang lại tự do, thoát khỏi cảnh áp bức, bóc lột của đế quốc, Ngài phải là người đánh đông dẹp bắc và thống lãnh bằng quyền lực để dương oai… Tuy nhiên, điều này hoàn toàn ngược lại với sứ vụ của Đức Giêsu, vì thế Ngài đã không làm. Con đường cứu độ và giải thoát của Ngài là con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha, mà ý Chúa Cha là muốn Đức Giêsu phải chịu chết để cứu chuộc nhân loại. Vì thế, Ngài đã vâng lời đến cùng để thánh ý của Cha được nên trọn.
Nhưng vì biết các môn đệ luôn mang trong mình tâm tưởng phàm tục, nên Đức Giêsu đã loan báo trước cuộc khổ nạn để các ông dần hiểu ra sứ vụ và tiếp tục tiến bước trên con đường mà chính Ngài đã đi.
Hôm nay, phụng vụ mừng kính thánh nữ Clara trinh nữ, thánh nhân là con của một gia đình quyền quý, giàu sang cùng thời với thánh Phanxicô thành Assisi. Ngài còn được biết đến là một thiếu nữ xinh đẹp. Vì thế, chúng ta có thể hình dung được trước tương lai sáng ngời của ngài là có một gia đình đàng hoàng, kinh tế ổn định và vị thế trong xã hội đương thời.
Tuy nhiên, điều ta nghĩ thì lại là nghịch lý đối với thánh nhân, với Clara, được Đức Giêsu là mối lợi tuyệt đối vì Ngài là “Viên Ngọc Quý”. Nghèo vì Nước Trời và tiến bước theo Đức Giêsu là cả một sự giàu sang và hạnh phúc vì chiếm được “Kho Tàng”.
Thế nên, thánh nhân đã quyết định bước theo Đức Giêsu cách triệt để qua ba lời khuyên Phúc Âm: Khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Ngài đã ẩn mình trong đan viện, đắm chìm trong đời sống chiêm niệm và lao động, quyết tâm sống nghèo tuyệt đối. Vì thế, ân sủng của Thiên Chúa đã đổ xuống tràn trề trên cuộc đời của thánh nhân và hội dòng.
Sứ điệp Lời Chúa và đời sống của thánh Clara mời gọi chúng ta hãy hướng lòng lên trời để tìm vinh danh Chúa và ích lợi cho phần rỗi của mình. Đồng thời sẵn sàng khước từ những điều không phù hợp với thánh ý Thiên Chúa.
Mặt khác, cần phải xác định thật rõ con đường chân phúc để được hưởng niềm vui, hạnh phúc và bình an trong Nước Trời chính là: “Phải qua đau khổ rồi mới đến vinh quang”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con khám phá ra ý nghĩa của sự đau khổ và luôn biết kết hợp với ơn Chúa, sẵn sàng đón nhận tất cả vì Chúa và vì Nước Trời. Amen.


Suy niệm 2: ĐỨC GIÊ-SU LÀ CON THIÊN CHÚA

Về tới nhà, Đức Giê-su hỏi đón ông: “Si-mon, anh nghĩ sao? Vua chúa trần gian bắt ai đóng sưu nộp thuế? Con cái mình hay người ngoài?” Ông Phê-rô đáp: “Thưa, người ngoài.” Đức Giê-su liền bảo: “Vậy thì con cái được miễn.” (Mt 17,25-26)
Suy niệm: Là nhà truyền giáo, Chúa Giê-su tận dụng mọi cơ hội để loan báo Tin Mừng, loan báo chính Ngài, hầu người nghe được ơn cứu độ. Hôm nay cũng thế, Ngài cho Phê-rô biết Ngài là ai. Qua nghĩa vụ nộp thuế đền thờ, thứ thuế đòi buộc mọi người Do Thái trưởng thành phải thi hành, Chúa Giê-su xác nhận với Phê-rô rằng Ngài đích thực là Con Thiên Chúa như lời ông tuyên xưng: Đền Thờ là nhà của Thiên Chúa, mà Ngài là Con, không buộc phải đóng thứ thuế chỉ đòi buộc đối với thần dân. Hơn thế, Ngài còn tỏ cho Phê-rô biết Ngài là chủ tể có quyền trên vũ trụ khi bảo Phê-rô đi câu cá, con cá có đồng bạc trong miệng, để đi nộp thuế. Phê-rô nhờ thế đã nhận biết Chúa Giê-su hơn, biết Tin Mừng Chúa Giê-su loan báo.
Mời Bạn: Thiên Chúa không muốn chúng ta đóng bất cứ thứ thuế nào cho Ngài; trái lại, Ngài muốn chúng ta có một kho tàng trên trời. Kho tàng đó là: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta vậy.”
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày làm một việc bác ái cho người anh em đang sống gần gũi với bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin dạy con biết tận dụng mọi cơ hội để nói về Chúa cho anh chị em con, nói như một người con nói về cha yêu thương của mình, nói như chưa từng được nói, nói như người vừa tìm gặp được kho báu lớn lao trong đời.


Suy niệm 3
Trên đường từ núi Tabor đến Caphárnaum, Đức Giêsu lại nhắc lần hai về cuộc khổ nạn. “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời…”: Động từ “bị nộp” ở thể thụ động hiểu ngầm người nộp chính là Thiên Chúa. Thiên Chúa nộp ai và cho ai? Thưa nộp Chúa Con cho thế gian.
“… nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại. Các môn đệ rất đỗi buồn phiền”: Các môn đệ buồn phiền vì chỉ nhớ đến phần thứ nhất của lời loan báo (Chúa Giêsu bị giết) chứ không để ý đến phần thứ hai (Người sẽ sống lại).
Tình thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại qua việc trao nộp Con Một của Ngài. Ngài ban cho loài người Con độc nhất mà Ngài rất yêu quý. Chúng ta cũng hãy suy gẫm về sự hy sinh tự hạ của Chúa Giêsu: là Con Thiên Chúa, Người sẵn lòng bị nộp vào tay người đời để cho người đời hành hạ và giết chết. Mỗi người chúng ta hãy tự xét mình xem mình đã đáp lại tình thương đó như thế nào? Thậm chí chúng ta có còn nhớ vì yêu chúng ta mà Chúa Giêsu đã nộp mình chịu chết?
Chúa Giêsu loan báo sự đau khổ và sự chết của Người sắp chịu. Ngài tâm sự nỗi đau khổ thầm kín của Người cho các môn đệ, một đàng có tính cách loan báo và một đàng để chia sẻ với người thân. Tuy nhiên các môn đệ không hiểu nỗi khổ của Người nên Người phải kiên nhẫn chịu đựng thêm. Cũng vậy chúng ta phải can đảm chịu đựng những thái độ dửng dưng hoặc hiểu lầm của những người thân về những đau khổ kín đáo của mình. Xin cho chúng ta luôn nhớ rằng Thập gía là con đường dẫn tới vinh quang, vì có nhớ như thế con người mới có thể lạc quan vác Thập giá theo Chúa.
Xin cho mỗi người chúng ta biết ăn năn thông hối về những tội lỗi mình đã phạm, vì chính vì tội lỗi của chúng ta mà Chua Giêsu đã phải chết cách nhục nhã trên thập giá. Amen.
***
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Chúng con tin thờ Chúa đang ngự thật trong phép Thánh Thể. Qua bí tính Thánh Thể, Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời chúng con. Chúng con xin ca ngợi tình thương vô bờ bến của Chúa. Xin giúp chúng con biết vì Chúa để sống yêu thương mọi người, và luôn chu toàn bổn phận hằng ngày của mình trong tình yêu với Chúa và tha nhân.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, Chúa là hạt lúa đã gieo vào trần gian. Chúa gieo yêu thương. Chúa gieo hạnh phúc. Chúa đã làm cho hoa yêu thương và hạnh phúc đến với mọi người qua đời sống tận hiến hy sinh của Chúa. Xin dạy chúng con biết yêu thương anh em như chính Chúa đã nêu gương cho chúng con. Xin tha thứ vì những lần chúng con vì lười biếng mà bỏ bê bổn phận, vì thiếu trách nhiệm mà gây nên những khổ đau cho cha mẹ và ông bà. Xin tha thứ vì những lần chúng con gieo vãi hận thù, ghen tương, đố kỵ bởi đời sống ích kỷ tầm thường của chúng con.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tìm kiếm và xây dựng những giá trị Nước Trời trong những bổn phận hằng ngày và trong những nghĩa cử yêu thương nhỏ bé của chúng con dành cho tha nhân, vì chưng “nên thánh là chu toàn bổn phận hằng ngày”. Amen.
 
Suy niệm 4: Nộp Thuế Cho Ðền Thờ

Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái không những phải đóng thuế cho nhà nước tức là thuế dân sự, mà còn phải đóng thuế cho Ðền thờ nữa: ngoại trừ đàn bà, các thiếu niên và các nô lệ, tất cả những ai từ 20 tuổi trở lên đều phải nộp thuế để bảo trì và tu sửa Ðền thờ Giêrusalem.
Câu chuyện trong Tin Mừng hôm nay xẩy ra vào khoảng tháng 10, năm thứ hai cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu, tức là ít lâu sau biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi Thabor. Chúa Giêsu và các môn đệ trở lại Capharnaum, và ở đó, những người thu thuế đến yêu cầu Phêrô nộp thuế. Dĩ nhiên là Phêrô sẵn sàng nộp thuế.
Khi Phêrô về tới nhà, Chúa Giêsu hỏi đón ông: "Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian lấy thuế của ai? Con cái mình hay người ngoài? Phêrô đáp: "Thưa, người ngoài. Chúa Giêsu liền bảo thế thì con cái được miễn". Ðây cũng là một mạc khải, bởi vì qua câu: "Thế thì con cái được miễn", Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế;bởi vì qua câu: "Thế thì con cái được miễn", Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế; nhưng xét về bản tính loài người, Ngài cũng tuân giữ việc nộp thuế cho Ðền thờ như bất cứ ai. Tuy nhiên, Ngài nộp thuế bằng một phép lạ: Chúa Giêsu bảo Phêrô đi câu cá, bắt được con cá đầu tiên, trong miệng có một đồng bạc, đủ để nộp thuế cho Ngài và cho Phêrô. Chúa không bảo Giuđa xuất quĩ mà nộp, cũng không bảo các phụ nữ đạo đức dâng cúng, nhưng Ngài đã làm phép lạ để các môn đệ tin vào quyền năng của Ngài.
Nếu ngày xưa, người Do thái có bổn phận nộp thuế cho Ðền thờ để lo việc phụng sự Nhà Chúa, thì ngày nay trong Giáo Hội cũng có những cách đóng góp hay dâng cúng, đó cũng là một việc thờ phượng và là một sự chia sẻ cho những anh chị em nghèo khó. Chúng ta hãy nhận ra nét đặc biệt trong nhân cách của Chúa, khi hòa nhập vào nếp sống cụ thể của những người đồng thời với Ngài. Mầu nhiệm nhập thể đòi buộc Chúa phải chia sẻ trọn vẹn đời sống con người. Ước gì chúng ta cũng biết noi gương Chúa, chấp nhận như hạt lúa mì rơi xuống đất và chết đi để trổ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
 
Suy niệm 5: Quy Luật Của Cuộc Sống (Mt 17,22-27)

Bác sĩ Ý Antinori đã tạo ra một chấn động mạnh trong lương tâm nhân loại khi ông tuyên bố việc tạo sinh con người theo phương pháp vô tính. Phương pháp tạo sinh vô tính đã được áp dụng thành công vào việc sản sinh ra con cừu có tên là Doli tại Anh Quốc cách đây vài năm và đã được áp dụng vào những loài vật khác nhau từ chuột đến bò, heo. Vấn đề cần đặt ra không phải là chuyện phương pháp kỹ thuật tạo sinh vô tính có hoàn hảo không. Tất nhiên, đem thí nghiệm tạo ra một con người mà không biết chắc sẽ sinh ra một con người bình thường hay một quái thai, quả là một hành động liều lĩnh, vô trách nhiệm. Nhưng ngay cả khi phương pháp tạo sinh vô tính đã được nghiên cứu tới mức hoàn hảo đi nữa thì câu hỏi vẫn là con người có quyền sản sinh vô tính con người không? Không riêng gì những con người có niềm tin tôn giáo mà ngay cả với những ai không thuộc tôn giáo nào đi nữa, đã là con người có lương tri, người ta không thể trốn tránh một câu hỏi như thế.
Tựu trung, đạo đức vẫn luôn luôn là chiều kích bao trùm toàn bộ mọi khía cạnh của cuộc sống con người. Trong bất cứ sinh hoạt nào, con người cũng luôn luôn phải tự hỏi: Tôi có được phép làm điều này không? Tôi phải cư xử như thế nào cho xứng với phẩm giá con người? Ðã làm người là phải chấp nhận những giới hạn. Không ai được hỏi ý kiến khi sinh ra. Không ai chọn lựa cha mẹ, quê hương để sinh ra. Con người đến trong cõi đời không do chọn lựa của mình. Ðiều ấy cho thấy tính giới hạn là tất yếu đối với con người. Cái chết lại càng là một khẳng định về những giới hạn ấy, mà đã có giới hạn, cho nên con người không thể sống mà không tuân theo những qui luật của cuộc sống. Bên cạnh những qui luật của thiên nhiên, quan trọng hơn cả là những qui luật đạo đức. Chỉ khi nào tuân hành những qui luật đạo đức ấy, con người mới có thể triển nở trong nhân cách và thành toàn.
Là người tín hữu Kitô chúng ta được mời gọi để suy nghĩ về thân phận con người dưới ánh sáng mầu nhiệm nhập thể. Chỉ trong Ngôi Lời nhập thể làm người, chân lý về con người mới được sáng tỏ. Chúng ta biết về mình và chúng ta biết phải sống như thế nào cho ra người khi nhìn vào con người và cuộc sống của Chúa Giêsu. Trong thư gởi cho giáo đoàn Philipphê, thánh Phaolô đã tuyên xưng mầu nhiệm nhập thể như sau: "Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì sự ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự".
Quả thật, Chúa Giêsu là mẫu gương của vâng phục. Suốt ba mươi năm ẩn dật tại Nazareth, Ngài đã vâng phục cha mẹ, tuân thủ các Lề Luật của Môsê. Tin Mừng hôm nay ghi lại việc Ngài đóng thuế cho đền thờ, đây là một điển hình của rất nhiều cử chỉ vâng phục mà Chúa Giêsu đã thể hiện trong suốt cuộc đời trần thế của Ngài.
Vâng phục là nói lên tính cách bất toàn và giới hạn của thân phận con người. Ðã làm người, Chúa Giêsu đã không đi ra ngoài những qui luật ấy của thân phận con người, nhưng chính vì vâng phục mà Ngài đã chọn kiếp sống con người. Ngài là một mẫu người hoàn hảo. Hoàn hảo không phải vì không có giới hạn trong kiếp người mà chính là vì đã vâng phục. Thánh Phaolô đã khẳng định rằng: "Chính vì Ngài đã vâng phục mà Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban cho Ngài danh hiệu, vượt lên trên muôn ngàn danh hiệu".
Vâng phục để được suy tôn, tự hạ để được nâng lên. Sống những giới hạn của kiếp người với tinh thần trách nhiệm để được là người hơn. Ðó là qui luật của cuộc sống mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
 
Suy niệm 6: Tình yêu của con người? … của Thiên Chúa.

Khi thầy trò tụ họp ở miền Galilê, Đức Giêsu nói với các ông: “Con người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ chỗi dậy.” Các môn đệ buồn phiền lắm. (Mt. 17, 22-23)
Lần thứ nhất Đức Giêsu loan báo Người sẽ phải chịu chết, Phê-rô, nhân danh mình và các bạn tông đồ ra mặt phản đối. Tại sao? Thưa, Người đã không làm điều gì dữ. Người phải xa lánh Giê-ru-sa-lem vì thảm họa sẽ xảy ra ở đó. Chớ gì người ta chẳng cho phép bảo vệ Người. Những kẻ muốn mưu hại tính mạng thường đến đó. Thầy không muốn nghe về những chuyện đó. Phê-rô và các tông đồ nhớ rõ Thầy đã khiển trách các ông như thế rồi. Không có chuyện tái can Thầy nữa. “Các ông buồn!” Người ta nổi khùng khi đứng trước một người thân yêu lâm bệnh nguy tử, đành khoanh tay ngồi nhìn trước cảnh tượng vô phương đó, chúng ta cũng buồn. Người thân yêu của chúng ta sắp ra đi. Còn yêu gì được nữa.
Trống rỗng và nặng nề.
Con tim trống rỗng làm chúng ta cảm thấy bị đè nặng.
Các tông đồ buồn sầu. Còn nói gì được nữa? các ông biết chắc sẽ xẩy ra như thế vì Chúa đã nói rồi. Làm sao không tin được? Mọi sự Người đã nói, đã loan báo, thì đã thực hiện. Những công việc của Thiên Chúa mà Thầy hoàn tất chứng tỏ Thầy biết rõ ý định của Chúa Cha.
Phép lạ!
Nhân dịp kẻ thu thuế đòi đóng thuế, Đức Giêsu làm một phép lạ rất giản dị và dịu êm.
Thấy một con cá nuốt một vật, chẳng phải lạ, dù là một đồng tiền hay vật khác. Nhưng lạ lùng là chính Phê-rô đã bắt được con cá này để lấy đồng tiền ra nộp thuế đền thờ.
Đức Giêsu cho biết: Con không phải nộp thuế cho Cha. Cuộc thương khó và cái chết của Thầy nói cho biết Thầy là Con Chúa Cha. Để chứng tỏ Con luôn luôn vâng lời hết mọi sự.
J.M
 
SUY NIỆM7:

1. Luật nộp thuế
Những người thu thuế cho Đền Thờ hỏi ông Phê-rô, và qua ông Phê-rô họ chất vấn chính Đức Giê-su về việc nộp thuế : “Thầy các ông không nộp thuế sao?” Sau này, người ta sẽ còn tiếp tục chất vấn Đức Giê-su về vấn đề nộp thuế, nhưng không phải cho Đền Thờ Do Thái, nhưng là cho Xê-da Roma : “Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?” (Mt 22, 17)
Sự kiện Đức Giê-su bị chất vấn về luật nộp thuế, luật nộp thuế của người Do Thái và luật nộp thuế của người Roma, đã loan báo và hướng tới cuộc Thương Khó, mà Đức Giê-su vừa mới loan báo, và đó là lần thứ hai : “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ trỗi dậy” (c. 22-23). Thật vậy, những biến cố then chốt, từ đó người ta kết án, hành hạ, sỉ nhục và đóng đinh Người, đó là những vụ xét xử : Người sẽ bị điệu đến cả hai tòa án Do thái và Roma để bị chất vấn và vu cáo vi phạm luật của người Do thái và luật của người Roma.
Như thế, cách hiện hữu (sống, nói và hành động) của Đức Giê-su thiết yếu có liên quan đến lề luật và điều này đạt tới đỉnh điểm trong cuộc Thương Khó : chính khi để cho mình bị chất vấn bởi lề luật, Người chất vấn lề luật, luật Do thái (luật đạo) và luật Roma (luật đời), và ngang qua những luật này, Người chất vấn lề luật của loài người thuộc mọi thời. Bởi vì lề luật, vốn là tốt và thánh, đã trở thành nơi ẩn nấp kín đáo nhất của Sự Dữ (x. Rm 7, 7-13) và Người đến không phải để hủy bỏ lề luật, nhưng hoàn tất (x. Mt 5, 17-48)

2. Mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Vượt Qua
Thuế Đền Thờ là một loại thuế đóng hằng năm, để duy trì sinh hoạt phụng tự của Đền Thờ ; theo đó, mỗi người đàn ông Do Thái, ở Palestin cũng như ở những nơi khác, đều có bổn phận đóng mỗi năm hai quan tiền Do Thái. Chính vì thế, có nhiều bàn đổi tiền được dựng lên trong khuôn viên Đền Thờ (x. Mt 21, 12 ; Ga 2, 15). Như thế, đóng thuế Đền Thờ là điều bình thường, nhưng tại sao người ta lại chất vấn Đức Giê-su về việc thực hành nộp thuế Đền thờ, nhất là khi câu hỏi được phát biểu ở thể phủ định : “Thầy các ông không nộp thuế sao?” ? Chắc chắn là vì, người ta nhận ra có điều gì đó không bình thường nơi ngôi vị của Đức Giê-su đối với lề luật, và vì thế, thường xuyên chất vấn Người về lề luật. Và quả nhiên, sau này, Người sẽ lật đổ những bàn đổi tiền trong Đền Thờ !
Khi bị chất vấn về chuyện nộp thuế của Thầy mình, ông Phê-rô trả lời một cách tự phát : “có chứ !” Chắc là vì, một đàng Đức Giê-su vẫn đóng thuế như một người Do Thái và như mọi người Do Thái khác, và đàng khác, vì ông yêu mến Thầy và muốn bảo vệ Thầy của mình ; và quả nhiên, Đức Giê-su không chỉ lo đóng thuế cho mình, nhưng còn đóng thuế cho cả ông Phê-rô nữa. Tuy nhiên, lần này, khi ông Phê-rô trở về, Đức Giê-su sẽ đi bước trước để giúp ông nhận ra, ngang qua việc thi hành luật nộp thuế, mầu nhiệm Nhập Thể : Người giữ luật đóng thuế, cho dù Người được miễn trừ, với tư cách là Con Thiên Chúa ; Người mang lấy thân phận con người cùng mọi qui luật chi phối thân phận con người, cho dù Người vốn là phận Thiên Chúa (x. Pl 2, 5-11), để chia sẻ cho chúng ta sự tự do của con cái Thiên Chúa và mở đường cho chúng ta đi về với Thiên Chúa, nguồn sự sống, ngang qua thân phận con người.
Ngoài ra, qua việc giữ luật đóng thuế, Người hướng tới cuộc Thương Khó : người ta vẫn kết án người, ngay cả khi không tìm ra chứng cớ Người vi phạm luật ; tương tự như người ta bàn bạc để tìm cách giết Người, cho dù Người chữa bệnh vào ngày sabat, nhưng không vi phạm luật sabat, bởi vì Người chữa bệnh bằng lời nói quyền năng (x. Mt 12, 9-14). Như thế, sự dữ có nơi người kết án nhân danh lề luật, chứ không phải nơi bị kết án.

3. Nghèo khó và tự do
Tuy nhiên, cách Đức Giê-su có được tiền để đóng thuế mãi mãi làm cho chúng ta ngạc nhiên :
Anh ra biển thả câu; con cá nào câu được trước hết, thì bắt lấy, mở miệng nó ra: anh sẽ thấy một đồng tiền bốn quan; anh lấy đồng tiền ấy, nộp thuế cho họ, phần của Thầy và phần của anh.(c. 26-27)
Chúng ta được mời gọi vượt qua chiều kích ngoại thường, để nhận ra những chiều kích đời thường rất đánh động chúng ta :
- Có một lúc nào đó, nhóm Đức Giê-su và các môn đệ rơi vào cảnh nghèo đến độ không còn sẵn tiền trong túi hay trong quĩ của nhóm để đóng thuế.
- Tiền có được từ miệng con cá quả là lạ, nhưng xét cho cùng, đó không phải là “kho tàng”, vì chẳng có bao nhiêu : chỉ có một đồng tiền bốn quan, đủ đóng thuế cho hai thầy trò, không hơn không kém ! Còn có môn đệ khác thì phải xoay sở làm sao ?
- Tiền có được để đóng thuế, không phải đến từ công sức của con người, cho dù có hoạt động thả câu bắt cá, nhưng đến từ ân sủng của Thiên Chúa, Đấng tạo dựng. Vì thế, ngay cả khi phải đóng thuế theo luật và để không gây cớ vấp phạm, Đức Giê-su vẫn bảo tồn được sự tự do của Người Con và Người chia sẻ sự tự do này cho thánh Phê-rô. Và với mầu nhiệm Vượt Qua, Người sẽ chia sẻ tất cả cho chúng ta.

Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
 
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận