Thứ Hai sau Lễ Hiển Linh

Đăng lúc: Thứ hai - 05/01/2015 02:39 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
THỨ HAI SAU LỄ HIỂN LINH

Bài đọc (1 Ga 3, 22 – 4, 6)
Các con thân mến, bất cứ điều gì chúng ta xin, thì chúng ta cũng lãnh nhận được nơi Chúa, vì chúng ta giữ các giới răn Người và làm điều đẹp lòng Người. Và đây là giới răn của Người: chúng ta phải tin vào thánh danh Con của Người, là Chúa Giêsu Kitô, và phải thương yêu nhau, như Người đã ban giới răn cho chúng ta. Ai giữ các giới răn của Người, thì ở trong Người và Người ở trong họ. Do điều này mà chúng ta biết Người ở trong chúng ta, đó là Thánh Thần mà Người đã ban cho chúng ta.
Các con thân mến, chớ tin bất cứ thần trí nào, nhưng hãy nghiệm xét các thần trí, coi có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì có nhiều tiên tri giả đã xuất hiện trong thế gian. Do điều này mà các con biết là thần trí của Thiên Chúa: Thần trí nào tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô đã đến trong xác phàm thì là bởi Thiên Chúa; còn thần trí nào phủ nhận Chúa Giêsu, thì không bởi Thiên Chúa mà ra, đó là thần trí của Phản-Kitô; các con nghe nói rằng nó đến, và hiện giờ nó đã ở trong thế gian rồi.
Các con thân mến, các con bởi Thiên Chúa mà ra và đã thắng nó, vì Đấng ở trong các con thì cao trọng hơn kẻ ở trong thế gian. Chúng thuộc về thế gian, nên nói chuyện thế gian, và thế gian nghe theo chúng. Chúng ta bởi Thiên Chúa mà ra. Ai biết Thiên Chúa, thì nghe chúng ta; còn ai không bởi Thiên Chúa, thì không nghe chúng ta. Do đó mà chúng ta biết được thần trí chân thật và thần trí dối trá.


Tin Mừng (Mt 4, 12-17. 23-25)
Khi ấy, nghe tin Gioan bị nộp, Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ Nadarét, đến ở miền duyên hải thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nephtali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng:
“Hỡi đất Giabulon và đất Nephtali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm, đã thấy ánh sáng huy hoàng, ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết”. Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: “Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến”.
Và Chúa Giêsu đi rảo quanh khắp xứ Galilêa, dạy dỗ trong các hội đường của họ, rao giảng tin mừng nước trời, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân. Tiếng tăm Người đồn ra khắp xứ Syria. Người ta đã đem đến cho Người đủ thứ bệnh nhân, những người mắc phải tật nguyền đau đớn, quỷ ám, kinh phong, bất toại. Người đã chữa họ lành. Dân chúng đông đảo theo Người, họ đến từ xứ Galilêa, miền Thập Tỉnh, Giêsrusalem, Giuđêa và vùng bên kia sông Giođan.


Suy niệm 1

“Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”
1/ Tin Mừng Nước Trời (c. 12-17)
Trong mầu nhiệm Hiển Linh, có một nghịch lí thuộc về nghịch lý Tin Mừng, vì loan báo nghịch lý của mọi nghịch lý, đó là nghịch lý Mầu Nhiệm Vượt Qua. Thật vậy, chính khi Hài Nhi Giê-su sắp được sinh ra bị từ chối trong các quán trọ, do đó, phải sinh ra trong cảnh nghèo hèn, như “một em bé, bọc tã nằm trong máng cỏ”, đơn sơ, khiêm tốn và hiền lành, một hoàn cảnh tưởng như là bất hạnh, nhưng lại được “Hiển Linh”, được tôn vinh đối với muôn dân nước, qua hình ảnh của các nhà đạo sĩ.
Và nếu chúng ta chiêm ngắm cuộc đời của Đức Giê-su, chúng ta sẽ nhận ra rằng nghịch lí Tin Mừng này sẽ được ghi khắc ở khắp nơi và làm nên nền tảng hay sợi chỉ đỏ chạy xuyên suốt cuộc đời của Chúa, đến tận mầu nhiệm Vượt Qua. Thật vậy, chính khi Chúa phải đi lánh nạn, phải tránh né sự bách hại bạo lực và bất công, như bài Tin Mừng hôm nay kể lại cho chúng ta: “Khi Đức Giê-su nghe tin ông Gioan đã bị nộp…”, thì lại là lúc lời ngôn sứ Isaia được ứng nghiệm, nghĩa là lời Kinh Thánh, là chương trình cứu độ của Thiên Chúa, được hoàn thành một cách lạ lùng và viên mãn :
“Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng”.
“Và những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.”
“Ánh sáng huy hoàng, bừng lên chiếu rọi” tương ứng với sự hiện diện của của Đức Giê-su công bố Nước Trời và là hiện thân của Nước Trời. Thật vậy, bài Tin Mừng kể lại :
Từ lúc đó, Đức Giê-su bắt đầu rao giảng và nói rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.”
Nước Trời mà Đức Giê-su rao giảng mời gọi thực hiện hành trình sám hối. Bởi vì, để đón nhận Nước Trời, chúng ta phải từ bỏ tất cả những gì ngăn cản chúng ta đón nhận Nước Trời, phải giữ khoảng cách với tất cả những gì không thuộc về hay không giúp hướng về Nước Trời. Nhưng đàng khác, Nước Trời cũng lôi kéo chúng ta và làm chúng ta say mê, vì Nước Trời làm cho no thỏa những khát vọng thâm sâu và mạnh mẽ nhất của con người. Loài người chúng ta dựng nên bởi Thiên Chúa và cho Thiên Chúa, vì thế, tự bản chất hướng về Nước của Thiên Chúa.
2/ Tin Mừng Nước Trời và ơn kêu gọi (c. 18-22)
Và đâu là nội dung của Tin Mừng Nước Trời? Đó là ơn gọi nhưng không (c. 18-22: phần này được Giáo Hội cho đọc vào ngày lễ Thánh An-rê Tông Đồ, 30/11), là Lời Chúa được lan truyền và là sứ mạng phục vụ cho sự sống (c. 23-25). Điều này giúp chúng ta hiểu ơn gọi của chúng ta một cách mới mẻ: ơn gọi của chúng ta thuộc về Tin Mừng Nước Trời, là dấu chỉ của Tin Mừng Nước Trời, của “Niềm Vui Tin Mừng”, như Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nhấn mạnh cách đặc biệt. Thực vậy, đời dâng hiến, giữa đời hay trong một Hội Dòng, mà Giáo Hội cầu nguyện, suy tư, canh tân và cổ võ trong năm nay, là dấu chỉ sống động của Nước Trời.
Đức Giê-su đến tận nơi, gặp gỡ và kêu gọi hai lần, mỗi lần hai anh em (c. 18-20; 21-22). Ơn gọi của các môn đệ đầu tiên có ba đặc điểm. Ba đặc điểm này cũng thuộc về mọi ơn gọi.
a/ Chính Đức Giê-su đến gặp gỡ tại nơi chúng ta đang sống, đang là…
“Người đang đi… thì thấy…”
“Đi một quảng nữa, Người thấy…”
Trong thực tế, chúng ta bỏ nhà đi theo Chúa trong một ơn gọi, nhưng khi đọc lại hành trình ơn gọi, chúng ta sẽ nhận ra rằng, chính Người đi bước trước, đến tận nơi chúng ta đang ở, hiện diện trong hoàn cảnh của chúng ta, gặp gỡ chúng ta khi chúng ta đang loay hoay “với lưới với thuyền” cùng với những người thân yêu… Chính Người gõ cửa lòng chúng ta và mời gọi: “Hãy theo Thầy”.
b/ Sự nhưng không của tiếng gọi
Tiếp đến, chúng ta được mời gọi nhận ra tính nhưng không của ơn gọi. Thật vậy, Đức Giêsu gọi hai anh em Phêrô và Anrê, hai anh em Giacôbê và Gioan, như các ông đang là, đang lay hoay với công việc, với những bận tâm của riêng mình, đang bân rộn với lưới với thuyền cùng với những người thân, khi họ đang bận tâm với những vấn đề của cuộc sống. Ngài dường như không cần chuẩn bị “lâu dài” các ông rồi mới gọi; tiếng gọi của Đức Giêsu thật nhưng không, đặt hết lòng tin nơi người nghe.
Tiếng gọi của Đức Giê-su dành cho mỗi người chúng ta cũng nhưng không như thế, dù trong thực tế đã diễn ra như thế nào và đã trải qua những thăng trầm nào. Bởi vì, tiếng gọi của Chúa tự bản chất là nhưng không. Chúng ta đừng bao giờ để phai nhạt đi sự ngỡ ngàng đối với tiếng gọi nhưng không của Đức Giêsu: tại sao Chúa lại gọi con? Tại sao Chúa lại chọn con? Tại sao lại dẫn con đi trên con đường này? Tại sao Chúa lại sai con? Tại sao Chúa lại trao cho con sứ mạng này? Tại sao Chúa lại trao cho cho “chén” này?… Chúng ta hãy làm mới lại sự ngỡ ngàng đối với tiếng gọi của Đức Giêsu, vì đó là động lực giúp chúng ta làm mới lại lời đáp của chúng ta.
c/ Sức mạnh của tiếng gọi
Sau cùng, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm sức mạnh của tiếng gọi. Thật vậy, tiếng gọi của Đức Giê-su mạnh đến độ làm bật tung “lập tức” (c. 20 và 22) các môn đệ đầu tiên ngay tại nơi các ông đang làm việc cùng với những người thân yêu, nơi ông gắn bó, nơi nuôi sống các ông và gia đình, nơi là sự nghiệp của ông, là cuộc đời của ông. Chúng ta còn chậm chạp và dây dưa trong cách đáp lại, chính là vì chúng ta chưa thực sự nghe được tiếng Chúa. Vì thế, chúng ta hãy ước ao và xin đích thân nghe được tiếng Chúa gọi với tất cả sức mạnh của Lời Chúa, không chỉ một lần, nhưng hằng ngày và suốt đời. Lời Chúa sẽ đụng chạm đến chốn sâu thẳm nhất nơi con người của chúng ta, sẽ lôi kéo và biến đổi chúng ta, vì Lời Chúa là Lời tạo dựng nên chúng ta.
Ơn gọi thiết yếu là một tương quan: Chúa gọi và chúng ta đáp lại, như trường hợp các môn đệ đầu tiên : Đức Giê-su mời gọi : “Các anh hãy đi theo tôi”, và “lập tức các ông bỏ chài, bỏ thuyền, bỏ cha mà theo Người”. Vì đây là ơn gọi đầu tiên của mọi ơn gọi trong Giáo Hội mà Đức Giê-su sẽ thiết lập, nên cách Ngài gọi các môn đệ đầu tiên chính là nền tảng của mọi ơn gọi; và nền tảng thì luôn luôn hiện diện trong cuộc đời chúng ta, trong mỗi ngày sống và nhất là mỗi khi chúng ta lựa chọn. Ơn gọi hiểu như thế, thì không thể chỉ là một biến cố đã qua, nhưng phải được sống và hiện tại hóa hằng ngày, thậm chí phải diễn ra hằng ngày. Ngài đi ngang qua đời ta mỗi ngày, và lúc nào ngài cũng thấy chúng ta đang loay hoay làm cái gì đó, bận tâm chuyện gì đó. Ngài gọi chúng ta thật nhưng không, bao dung và quảng đại; và chúng ta được mời gọi đáp lại cách nhưng không, bao dung và quảng đại như lời đáp đầu tiên của chúng ta trong bước đường tìm hiểu và sống ơn gọi dâng hiến.
3/ Tin Mừng Nước Trời và sứ mạng phục vụ cho sự sống (c. 23-25)
Và cùng với Tin Mừng Nước Trời là dấu chỉ phục hồi sự sống: chữa bệnh và nhất là trừ quỉ.
Thiên hạ đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền: những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt; và Người đã chữa họ.
(c. 24)
Chúng ta thường bị ấn tượng và ưa thích những phép lạ chữa bệnh, vì bệnh tật làm cho con người khốn khổ. Tuy nhiên, bệnh tật lại thuộc về thân phận con người, đã là người thì phải trải qua, không tránh được: sinh lão bệnh tử; nhưng sự sống của con người còn bị quấy phá, bị chi phối bởi ma quỉ, bởi thần dữ mới là bi đát hơn, trong mức độ ma quỉ gieo vào lòng con người và vào tương quan giữa người với người sự nghi ngờ, loại trừ, bạo lực, ham muốn, ghen tị, dục vọng… Và ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm, những sự dữ này còn phá hoại sự sống của chúng ta hơn cả bệnh tật. Và chỉ có Lời Chúa, và tuyệt đỉnh là Lời Thập Giá (x. 1Cr 18, 1) mới có thể chữa lành, giải thoát chúng ta khỏi Sự Dữ và những gì thuộc về Sự Dữ.
Cuối cùng, chính khi Chúa bị từ chối, phải đi lánh nạn: “Khi Đức Giê-su nghe tin ông Gio-an đã bị nộp, Người lánh qua miền Ga-li-lê” (c. 12), thì như bài Tin Mừng kể lại: “Từ miền Ga-li-lê, vùng Thập Tỉnh, thành Giê-ru-sa-lem, miền Giu-đê và vùng bên kia sông Gio-đan, dân chúng lũ lượt kéo đến đi theo Người. dân chúng lũ lượt kéo đến đi theo Người (c. 25).
Hình ảnh thật ấn tượng và thật đẹp, vì loan báo cho chúng ta mầu nhiệm Vượt Qua: chính khi Chúa chịu đóng đinh, là lúc Chúa biểu lộ căn tính thần linh và tình yêu thương xót rạng ngời nhất cho loài người chúng ta. Và ơn chữa lành khỏi sự chết, khỏi sự sợ hãi sự chết[1] đến từ sức mạnh và khôn ngoan của Thập Giá.
[1] Bởi vì, theo mặc khải Kinh Thánh, loài người chúng ta không phải vì phạm tội mà trở thành tạo vật phải chết, nhưng là ngược lại: vì thân phận con người là phải chết, như sách Huấn Ca diễn tả: “Đức Chúa lấy đất mà tạo ra con người, rồi lại đưa con người trở về đất” (Hc 17, 1), hay nói cách khác, vì con người không phải là thần linh, nên con người đã phạm tội; như lời Con Rắn gợi ý: “Ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần…” (St 3, 5)

Suy niệm 2
Cuộc sống người kitô hữu chúng ta có đôi chút giống người dân Galilêa thời Đức Giêsu. Vùng giao lộ giữa người kitô hữu với anh em lương dân. Các anh em lương dân ở quanh chúng ta nhưng đồng thời cũng có cái phần ‘lương dân’ đang ngủ yên bên trong mỗi con người chúng ta: Những ai khước từ Ngôi Lời Thiên Chúa làm người và hành động như thể Đức Kitô đã không đến thế gian.
Hãy nghe Đức Giêsu mời gọi: ‘Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đến gần’. Sám hối, đi ra khỏi những lối mòn cũ kỹ, khỏi những ý nghĩ quen thuộc, để nhận ra những dấu chỉ của Nước Chúa đã hiện diện và đã đến. Hãy mở rộng lòng ra để cho ánh sáng của Thiên Chúa vào.
Lễ Hiển Linh tiếp nối bằng những cuộc hiển linh khác trong cuộc đời, bằng những biểu lộ khác nhau của Chúa, từ việc chữa lành tinh thần đến việc nhận ra sự hiện diện của Ngài trong các bí tích. Chúng ta là đám đông dân chúng đang tìm đến nghe tin vui, hay chúng ta vẫn còn ở lại bên kia bờ, thờ ơ không muốn sang?


Suy niệm 3: TIẾNG GỌI SÁM HỐI VÀ HOÁN CẢI

“Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” (Mt 4,17)
Suy niệm: Theo Tin Mừng Mát-thêu, sau khi Chúa Giê-su chịu phép rửa của Gio-an và đi vào hoang địa ăn chay 40 ngày, Ngài bắt đầu rao giảng bằng lời kêu gọi sám hối. Tin Mừng Mác-cô cũng tường thuật tương tự (x. Mc 1,15). Tiếng gọi sám hối ấy cũng chính là trọng tâm lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả. Và xa hơn nữa, các ngôn sứ thời trước cũng thường xuyên lặp đi lặp lại tiếng gọi sám hối như vậy. Tiếng gọi sám hối tiếp tục không ngừng vang lên trong đời sống Giáo Hội: không chỉ mùa Chay, mà cả mùa Vọng, và ngay cả mùa Giáng Sinh nữa (như hôm nay!) Nói thật đúng thì sám hối là chuyện của mọi mùa. Sám hối và hoán cải là bước quyết định, là cánh cửa mở ra mọi dự án tốt đẹp khác của đời môn đệ, của sứ mạng tông đồ. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đang cố gắng thúc đẩy một cuộc canh tân đời sống và sứ mạng của Giáo hội – gọi là công cuộc Tân Phúc Âm hóa – và ngài cũng xác định rõ rằng cuộc canh tân ấy nhất thiết phải bắt đầu bằng sự hoán cải mục vụ ở mọi cấp độ của cơ cấu Giáo hội, cách riêng giáo xứ, giáo phận (x. Niềm Vui Tin Mừng, 27– 33).
Mời Bạn: Tiếng gọi sám hối và hoán cải của Tin Mừng có ý nghĩa gì đối với bản thân, gia đình và giáo xứ của bạn? Nhìn lại chính mình, bạn có thể chân thành nói lên rằng “tôi đã sai, đã đi lạc, đã hư hỏng, đã bế tắc…” trong những cách sống, cách suy nghĩ và cách chọn lựa nào đó không? Bạn cần phải làm gì để cho phép Nước Trời đến với mình và để bảo đảm rằng bạn không dựng bảng ‘STOP’ trước Nước ấy?
Cầu nguyện: Chân thành đọc Kinh Ăn Năn Tội và Kinh Lạy Cha.


Suy niệm 4

Mỗi Kitô hữu khi chịu phép Rửa Tội được Chúa và Giáo Hội trao cho một sứ mạng cao cả, sứ mạng đó chính là Truyền Giáo, là rao giảng Tin Mừng. Khi nói đến vấn đề truyền giáo thì đối với người giáo dân xem như là điều gì đó rất mơ hồ, mông lung; thậm chí là xa vời; dẫu biết rằng, chúng ta vẫn thường được nghe nói, được nhắc nhở đến việc truyền giáo, phương pháp truyền giáo. Và có lẽ không ít người trong chúng ta sẽ cho rằng công việc đó chẳng có liên hệ gì đến mình, nhưng là việc của các tu sĩ. Đó là suy nghĩ rất thiếu sót. Chúng ta tự coi mình là những bông lúa, còn thợ gặt là ai đó, chứ không phải mình, mà cụ thể là các cha, các thầy, các sơ.
Tin Mừng hôm nay gián tiếp cho chúng ta biết rằng, sứ mạng Truyền Giáo là sứ mạng chung của mọi Kitô hữu, khi thuật lại việc Chúa Giêsu chọn Galilê làm cứ điểm đầu tiên trong hoạt động truyền giáo của Ngài. Theo nguyên nghĩa chữ Galilê là bất cứ miền nào trong xứ. Do đó, hàm ý là Nước Thiên Chúa không còn hạn hẹp đóng khung trong một địa dư nào. Đặc biệt hơn, Galilê thời Chúa Giêsu là miền có nhiều thổ dân khác nhau, có nhiều tôn giáo khác nhau sống bên nhau. Galilê còn là nơi giao thoa, là ngã tư của nhiều dân ngoại tới giao thương trao đổi. Và có thể nói một cách nào đó Galilê như một thế giới thu hẹp, là một thứ tượng trưng cho nhân loại rộng lớn mà Chúa Giêsu sẽ trao phó cho Giáo hội phổ quát của Ngài mai sau này.
Công đồng Vaticano II cũng long trọng khẳng định: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo”. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng quả quyết: “không một ai trong những người tin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là loan báo Tin mừng Đức Kitô cho mọi dân tộc”.
Thật vậy, qua Bí tích Rửa tội, Kitô hữu được Thiên Chúa và Giáo Hội trao cho một ngọn đuốc thiêng liêng, vừa có vai trò soi đường cho họ đi, cũng vừa có vai trò soi đường cho người khác đến với Chúa. Nhưng khi nhìn lại hành trình theo Chúa của mỗi người, có những lúc ngọn đuốc thiêng liêng này đã bị tắt ngủm lúc nào không hay; ngay chính chúng ta cũng đi trong bóng tối thì nói gì đến việc soi sáng cho người khác.
Từ đó mà tôi thấy vai trò truyền giáo của người giáo dân là vô cùng quan trọng. Vì cuộc sống, người giáo dân có thể có mặt khắp nơi và có thể tiếp xúc với mọi thành phần trong xã hội. Do đó, chính người giáo dân mới là người đầu tiên giới thiệu Đức Kitô cho anh chị em của mình. Chúng ta chẳng cần phải làm gì to tát, chẳng cần phải khua chiêng đánh trống nhưng chỉ cần sống đúng vai trò của mình, một Kitô hữu, một người thuộc về Chúa Kitô. Thực tế là ngoài lý do trở lại đạo vì hôn nhân, có rất nhiều người khác đã trở lại vì một người bạn công giáo tốt, hoặc vì thấy lối sống của một người công giáo nào đó đã làm cho họ phải suy nghĩ và trở lại. Thật vậy, một đời sống đạo đức, chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng trước mặt mọi người. Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những lời nói hay, vì “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”, con người luôn muốn nhìn thấy những bằng chứng cụ thể hơn là lý thuyết, đúng như lời của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI: “Con người ngày nay cần những chứng nhân hơn thầy dạy”.
Lạy Chúa, không biết vì vô tình hay hữu ý mà nhiều lúc chúng con quên đi sứ mạng truyền giáo, sứ mạng mà Chúa trao cho chúng con ngày chịu phép Rửa Tội. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta ngày càng ý thức hơn vai trò và sứ mạng của mình trong việc mở mang nước Chúa qua việc truyền giáo. Và khi thi hành sứ mạng ấy, dù thành công hay thất bại, xin cho chúng con luôn biết khiêm tốn trở về bên Chúa, tin tưởng và phó thác vào Ngài. Amen!
***
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Chúa yêu trần gian nên đã mang lấy thân phận con người. Chúa đến để tìm kiếm những gì đã mất, để phục hồi những gì đã bị thương tổn bởi tội của Adam. Chúa đến để mời gọi chúng con quay trở về với Chúa. Chúa giúp chúng con trở về với tình trạng ban đầu là tình trạng ân sủng, không bị thương tổn do tội lỗi gây ra.
Tình thương của Chúa dành cho chúng con như người mục tử tìm kiếm con chiên lạc. Chúa yêu quý chúng con hơn mọi loài đến nỗi có thể đánh đổi tất cả như người phụ nữ đã vui mừng tìm được đồng bạc đã mất. Vì Chúa đến không phải để kêu gọi người công chính mà là vì người tội lỗi. Chúa không muốn ai phải hư vong. Chúa muốn mọi người đều được hưởng sự sống bất diệt bên Chúa.
Chúng con xin cảm tạ tình thương Chúa. Xin cho chúng con biết trở về với Chúa qua hành vi sám hối. Sám hối để dừng lại những lối đường tội lỗi mà chúng con đã mở ra vì đam mê xác thịt, vì tham lam danh vọng. Sám hối để chúng con sửa chữa lại những rạn nứt của tình người mà chúng con đã gây ra. Xin giúp chúng con biết thực lòng quay trở về với Chúa. Xin cho chúng con được ơn hoán cải để thay đổi cách sống cho phù hợp với tin mừng của Chúa.
Lạy Chúa, Chúa là nguồn sống đời đời. Xin giúp chúng con đừng vì những đam mê thấp hèn mà xa lìa sự sống đời đời là chính Chúa. Amen.


SUY NIỆM 5:

 1. Tin Mừng Nước Trời (c. 12-17)
Trong mầu nhiệm Hiển Linh, có một nghịch lí thuộc về nghịch lý Tin Mừng, vì loan báo nghịch lý của mọi nghịch lý, đó là nghịch lý Mầu Nhiệm Vượt Qua. Thật vậy, chính khi Hài Nhi Giê-su sắp được sinh ra bị từ chối trong các quán trọ, do đó, phải sinh ra trong cảnh nghèo hèn, như “một em bé, bọc tã nằm trong máng cỏ”, đơn sơ, khiêm tốn và hiền lành, một hoàn cảnh tưởng như là bất hạnh, nhưng lại được “Hiển Linh”, được tôn vinh đối với muôn dân nước, qua hình ảnh của các nhà đạo sĩ. 
Và nếu chúng ta chiêm ngắm cuộc đời của Đức Giê-su, chúng ta sẽ nhận ra rằng nghịch lí Tin Mừng này sẽ được ghi khắc ở khắp nơi và làm nên nền tảng hay sợi chỉ đỏ chạy xuyên suốt cuộc đời của Chúa, đến tận mầu nhiệm Vượt Qua. Thật vậy, chính khi Chúa phải đi lánh nạn, phải tránh né sự bách hại bạo lực và bất công, như bài Tin Mừng hôm nay kể lại cho chúng ta: “Khi Đức Giê-su nghe tin ông Gioan đã bị nộp…”, thì lại là lúc lời ngôn sứ Isaia được ứng nghiệm, nghĩa là lời Kinh Thánh, là chương trình cứu độ của Thiên Chúa, được hoàn thành một cách lạ lùng và viên mãn :
- “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng”.
- “Và những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.”
“Ánh sáng huy hoàng, bừng lên chiếu rọi” tương ứng với sự hiện diện của của Đức Giê-su công bố Nước Trời và là hiện thân của Nước Trời. Thật vậy, bài Tin Mừng kể lại :
Từ lúc đó, Đức Giê-su bắt đầu rao giảng và nói rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.”
Nước Trời mà Đức Giê-su rao giảng mời gọi thực hiện hành trình sám hối. Bởi vì, để đón nhận Nước Trời, chúng ta phải từ bỏ tất cả những gì ngăn cản chúng ta đón nhận Nước Trời, phải giữ khoảng cách với tất cả những gì không thuộc về hay không giúp hướng về Nước Trời. Nhưng đàng khác, Nước Trời cũng lôi kéo chúng ta và làm chúng ta say mê, vì Nước Trời làm cho no thỏa những khát vọng thâm sâu và mạnh mẽ nhất của con người. Loài người chúng ta dựng nên bởi Thiên Chúa và cho Thiên Chúa, vì thế, tự bản chất hướng về Nước của Thiên Chúa.
2. Tin Mừng Nước Trời và ơn kêu gọi (c. 18-22)
Và đâu là nội dung của Tin Mừng Nước Trời? Đó là ơn gọi nhưng không (c. 18-22: phần này được Giáo Hội cho đọc vào ngày lễ Thánh An-rê Tông Đồ, 30/11), là Lời Chúa được lan truyền và là sứ mạng phục vụ cho sự sống (c. 23-25). Điều này giúp chúng ta hiểu ơn gọi của chúng ta một cách mới mẻ: ơn gọi của chúng ta thuộc về Tin Mừng Nước Trời, là dấu chỉ của Tin Mừng Nước Trời, của “Niềm Vui Tin Mừng”, như Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nhấn mạnh cách đặc biệt. Thực vậy, đời dâng hiến, giữa đời hay trong một Hội Dòng, mà Giáo Hội cầu nguyện, suy tư, canh tân và cổ võ trong năm nay, là dấu chỉ sống động của Nước Trời.
Đức Giê-su đến tận nơi, gặp gỡ và kêu gọi hai lần, mỗi lần hai anh em (c. 18-20; 21-22). Ơn gọi của các môn đệ đầu tiên có ba đặc điểm. Ba đặc điểm này cũng thuộc về mọi ơn gọi.
a. Đức Giê-su đến tận nơi
Chính Đức Giê-su đến gặp gỡ tại nơi chúng ta đang sống, đang là…
- “Người đang đi… thì thấy…”
- “Đi một quãng nữa, Người thấy…”
Trong thực tế, chúng ta bỏ nhà đi theo Chúa trong một ơn gọi, nhưng khi đọc lại hành trình ơn gọi, chúng ta sẽ nhận ra rằng, chính Người đi bước trước, đến tận nơi chúng ta đang ở, hiện diện trong hoàn cảnh của chúng ta, gặp gỡ chúng ta khi chúng ta đang loay hoay “với lưới với thuyền” cùng với những người thân yêu… Chính Người gõ cửa lòng chúng ta và mời gọi: “Hãy theo Thầy”.
 b. Sự nhưng không của tiếng gọi
Tiếp đến, chúng ta được mời gọi nhận ra tính nhưng không của ơn gọi. Thật vậy, Đức Giêsu gọi hai anh em Phêrô và Anrê, hai anh em Giacôbê và Gioan, như các ông đang là, đang lay hoay với công việc, với những bận tâm của riêng mình, đang bân rộn với lưới với thuyền cùng với những người thân, khi họ đang bận tâm với những vấn đề của cuộc sống. Ngài dường như không cần chuẩn bị “lâu dài” các ông rồi mới gọi; tiếng gọi của Đức Giêsu thật nhưng không, đặt hết lòng tin nơi người nghe.
Tiếng gọi của Đức Giê-su dành cho mỗi người chúng ta cũng nhưng không như thế, dù trong thực tế đã diễn ra như thế nào và đã trải qua những thăng trầm nào. Bởi vì, tiếng gọi của Chúa tự bản chất là nhưng không. Chúng ta đừng bao giờ để phai nhạt đi sự ngỡ ngàng đối với tiếng gọi nhưng không của Đức Giêsu: tại sao Chúa lại gọi con? Tại sao Chúa lại chọn con? Tại sao lại dẫn con đi trên con đường này? Tại sao Chúa lại sai con? Tại sao Chúa lại trao cho con sứ mạng này? Tại sao Chúa lại trao cho cho “chén” này?… Chúng ta hãy làm mới lại sự ngỡ ngàng đối với tiếng gọi của Đức Giêsu, vì đó là động lực giúp chúng ta làm mới lại lời đáp của chúng ta.
c. Sức mạnh của tiếng gọi
Sau cùng, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm sức mạnh của tiếng gọi. Thật vậy, tiếng gọi của Đức Giê-su mạnh đến độ làm bật tung “lập tức” (c. 20 và 22) các môn đệ đầu tiên ngay tại nơi các ông đang làm việc cùng với những người thân yêu, nơi ông gắn bó, nơi nuôi sống các ông và gia đình, nơi là sự nghiệp của ông, là cuộc đời của ông. Chúng ta còn chậm chạp và dây dưa trong cách đáp lại, chính là vì chúng ta chưa thực sự nghe được tiếng Chúa. Vì thế, chúng ta hãy ước ao và xin đích thân nghe được tiếng Chúa gọi với tất cả sức mạnh của Lời Chúa, không chỉ một lần, nhưng hằng ngày và suốt đời. Lời Chúa sẽ đụng chạm đến chốn sâu thẳm nhất nơi con người của chúng ta, sẽ lôi kéo và biến đổi chúng ta, vì Lời Chúa là Lời tạo dựng nên chúng ta.
Ơn gọi thiết yếu là một tương quan: Chúa gọi và chúng ta đáp lại, như trường hợp các môn đệ đầu tiên : Đức Giê-su mời gọi : “Các anh hãy đi theo tôi”, và “lập tức các ông bỏ chài, bỏ thuyền, bỏ cha mà theo Người”. Vì đây là ơn gọi đầu tiên của mọi ơn gọi trong Giáo Hội mà Đức Giê-su sẽ thiết lập, nên cách Ngài gọi các môn đệ đầu tiên chính là nền tảng của mọi ơn gọi; và nền tảng thì luôn luôn hiện diện trong cuộc đời chúng ta, trong mỗi ngày sống và nhất là mỗi khi chúng ta lựa chọn. Ơn gọi hiểu như thế, thì không thể chỉ là một biến cố đã qua, nhưng phải được sống và hiện tại hóa hằng ngày, thậm chí phải diễn ra hằng ngày. Ngài đi ngang qua đời ta mỗi ngày, và lúc nào ngài cũng thấy chúng ta đang loay hoay làm cái gì đó, bận tâm chuyện gì đó. Ngài gọi chúng ta thật nhưng không, bao dung và quảng đại; và chúng ta được mời gọi đáp lại cách nhưng không, bao dung và quảng đại như lời đáp đầu tiên của chúng ta trong bước đường tìm hiểu và sống ơn gọi dâng hiến.
 3. Tin Mừng Nước Trời và sứ mạng phục vụ cho sự sống (c. 23-25)
Và cùng với Tin Mừng Nước Trời là dấu chỉ phục hồi sự sống: chữa bệnh và nhất là trừ quỉ.
Thiên hạ đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền: những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt; và Người đã chữa họ. (c. 24)
Chúng ta thường bị ấn tượng và ưa thích những phép lạ chữa bệnh, vì bệnh tật làm cho con người khốn khổ. Tuy nhiên, bệnh tật lại thuộc về thân phận con người, đã là người thì phải trải qua, không tránh được: sinh lão bệnh tử; nhưng sự sống của con người còn bị quấy phá, bị chi phối bởi ma quỉ, bởi thần dữ mới là bi đát hơn, trong mức độ ma quỉ gieo vào lòng con người và vào tương quan giữa người với người sự nghi ngờ, loại trừ, bạo lực, ham muốn, ghen tị, dục vọng… Và ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm, những sự dữ này còn phá hoại sự sống của chúng ta hơn cả bệnh tật. Và chỉ có Lời Chúa, và tuyệt đỉnh là Lời Thập Giá (x. 1Cr 18, 1) mới có thể chữa lành, giải thoát chúng ta khỏi Sự Dữ và những gì thuộc về Sự Dữ.
*  *  *
Cuối cùng, chính khi Chúa bị từ chối, phải đi lánh nạn: “Khi Đức Giê-su nghe tin ông Gio-an đã bị nộp, Người lánh qua miền Ga-li-lê” (c. 12), thì như bài Tin Mừng kể lại: “Từ miền Ga-li-lê, vùng Thập Tỉnh, thành Giê-ru-sa-lem, miền Giu-đê và vùng bên kia sông Gio-đan, dân chúng lũ lượt kéo đến đi theo Người. dân chúng lũ lượt kéo đến đi theo Người (c. 25).
Hình ảnh thật ấn tượng và thật đẹp, vì loan báo cho chúng ta mầu nhiệm Vượt Qua: chính khi Chúa chịu đóng đinh, là lúc Chúa biểu lộ căn tính thần linh và tình yêu thương xót rạng ngời nhất cho loài người chúng ta. Và ơn chữa lành khỏi sự chết, khỏi sự sợ hãi sự chết[1] đến từ sức mạnh và khôn ngoan của Thập Giá.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
————
[1] Bởi vì, theo mặc khải Kinh Thánh, loài người chúng ta không phải vì phạm tội mà trở thành tạo vật phải chết, nhưng là ngược lại: vì thân phận con người là phải chết, như sách Huấn Ca diễn tả: “Đức Chúa lấy đất mà tạo ra con người, rồi lại đưa con người trở về đất” (Hc 17, 1), hay nói cách khác, vì con người không phải là thần linh, nên con người đã phạm tội; như lời Con Rắn gợi ý: “Ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần…” (St 3, 5).
 
Suy Niệm 6: Hãy sám hối.

Có một vị ẩn sĩ nổi tiếng là thánh thiện, và được nhiều người đến xin ông cầu nguyện cho. Điều đó làm cho ông rất hãnh diện.
Một buổi sáng nọ, trên đường đến thăm một ngôi nhà thờ, ông thấy một người ngồi nức nở bên đường. Đến gần, ông nhận ra đó là tên cướp mà mọi người trong vùng đều run sợ. Vị ẩn sĩ định bỏ đi, nhưng anh ta tiến đến quỳ gối trước mặt ông và xưng thú tội lỗi. Nghe xong, vị ẩn sĩ tự nhiên nổi giận, và nói lớn tiếng: “Một tên trộm cướp như ngươi mà hy vọng được Chúa tha thứ sao? Ta nói thật với ngươi: cây gậy mà ta đang cầm trên tay trổ bông còn dễ hơn việc Thiên Chúa tha thứ cho ngươi”. Nói như thế rồi, vị ẩn sĩ tiếp tục cất bước, bỏ mặc tội nhân trong thất vọng.
Nhưng chưa đi quá mười bước, cây gậy ông đang cầm trên tay bỗng bị cắm sâu xuống đất, ông dùng tất cả sức lực để rút lên, nhưng cây vẫn không nhúc nhích. Lạ hơn nữa, từ thân cây gậy, cành lá và hoa từ từ mọc ra. Rồi ông nghe có tiếng nói: “Sự tha thứ của Thiên Chúa dành cho một tội nhân sám hối còn dễ hơn một cây gậy trổ bông, một người tỗi lỗi biết hối cải được tha thứ dễ dàng hơn một hơn một kẻ kiêu hãnh”.
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên”. Đó là trọng tâm của bài Tin Mừng hôm nay. Ơn cứu rỗi mà Chúa Giêsu loan báo chính là giải phóng con người khỏi tội lỗi và những hệ lụy của nó, như yếu đau tật nguyền…
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên”. Sám hối là điều kiện tiên quyết để được ơn cứu độ. Sám hối không phải là tiếng khóc của thất vọng, mà là một sức lực mới giúp con người vươn lên.
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên”. Nước Trời chính là động lực của sám hối. Và do đó, sám hối đích thực cũng chính là một quyết tâm hướng về những biểu hiện của Nước Trời như sống yêu thương, quảng đại, tha thứ.
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên” hay nói đúng hơn hãy sám hối để cho Nước Trời được đến giữa mọi người.
 
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận