Thứ hai tuần 4 MV

Đăng lúc: Thứ hai - 22/12/2014 03:00 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
Tuần Bát Nhật trước lễ Giáng Sinh

Ngày 22 tháng 12 năm 2014

Thứ Hai Thì Ngắm

Đức Bà Đi Viếng Bà Thánh Isave
 

LỜI CHÚA: Lc 1, 39-56

39 Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa.40Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét.41 Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần,42 liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?44Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng.45Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”

46 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói:

“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
47 thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.

48 Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.

49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn!

50 Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
52 Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

54 Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
55 như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
và cho con cháu đến muôn đời.”

56 Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.

SUY NIỆM 1:

(A’) Đức Maria ở và về (c. 56)

- Chúng ta nên hình dung ra Đức Maria “vội vã lên đường”, bước đi và tâm tình của Mẹ trong cuộc hành trình đi đến miền núi, đến thành thuộc chi tộc Giu-đa.

- Chúng ta cũng nên hình dung ra trong suốt ba tháng ở nhà người chị họ, Mẹ đã làm những gì và với tâm tình nào.

1. Đức Maria vội vã lên đường

Chúng ta hãy hình dung ra Đức Maria “vội vã lên đường”, bước đi và tâm tình của Mẹ trong cuộc hành trình đi đến miền núi, đến thành thuộc chi tộc Giu-đa. Với mầu nhiệm Truyền Tin, Đức Mẹ “trở nên một” với Đức Giê-su, nhưng Đức Mẹ đón nhận ơn huệ Đức Giê-su-Ki-tô không phải cho riêng mình, nhưng để chia sẻ, thậm chí trao ban cách trọn vẹn cho loài người và cho từng người thuộc mọi thế hệ, trong đó có chúng ta hôm nay. Chính vì thế, ngay sau đó, Đức Mẹ “vội vã lên đường”, để hướng về người khác. “Người khác” là những ai? Là bà Elizabeth đang cưu mang, và em bé tuy còn đang được hình thành trong bụng mẹ, đã nghe được lời chào yêu thương trao ban Lời Sự Sống của Mẹ Maria, nên đã “nhảy mừng”; và chung quanh hai mẹ con, còn có người cha, các thành viên trong gia đình, còn có dòng tộc, hành xóm láng giềng và nhiều người ở “khắp miền Giu-đê” (Lc 1, 65).

Chính từ cuộc gặp gỡ này, trào vọt ra những lời ca tụng bất hủ: lời ca tụng của bà Elizabeth góp phần làm nên kinh Kính Mừng vang lên khắp nơi và bất tận từ lòng tin, lòng mến và niềm hi vọng của Giáo Hội; và lời ca tụng Magnificat của Mẹ Maria trở thành Tin Mừng và lời ca tụng Thiên Chúa trang trọng nhất trong Giờ Kinh Chiều hằng ngày của chúng ta.

Nhưng nếu chúng ta đặt mầu nhiệm Thăm Viếng dưới ánh của toàn bộ cuộc đời Đức Mẹ trong tương quan mật thiết với Đức Ki-tô, chúng ta sẽ nhận ra rằng, “trở nên một” không chỉ là thời gian Đức Mẹ cưu mang Đức Giê-su, nhưng còn là hình ảnh diễn tả hành trình trở nên một với Đức Giê-su của Đức Mẹ trong suốt cả cuộc đời, và không chỉ ở đời này, những còn mãi mãi, đặc biệt với ơn huệ “Hồn Xác Lên Trời”. Vì thế, mầu nhiệm Thăm Viếng của Đức Mẹ không chỉ là một biến cố đã qua, nhưng là một “năng động sống” của Đức Mẹ. Vậy, chúng ta hãy chiêm ngắm cuộc đời của Đức Mẹ như là một hành trình:

- Liên lỉ trở nên một với Đức Ki-tô, như một “Nữ Tì hèn mọn”.

- Và liên lỉ, để cho Đức Ki-tô lớn lên, trong lòng dạ và trong cuộc đời của mình.

- Và liên lỉ chia sẻ Đức Ki-tô cho người khác.

Và chúng ta được mời gọi quảng đại mở lòng và mở cuộc đời, để đón nhận ra những gì Mẹ chia sẻ, đó là Đức Ki-tô và cách thức Mẹ trở nên một với Ngài, để chúng ta cũng thực hiện cùng một hành trình “Thăm Viếng” của Mẹ trong đời sống ơn gọi mỗi ngày của chúng ta.

2. Bà Elizabet và Mẹ Maria, diện đối diện

Tư thế diện đối diện, có thể làm chúng ta nghĩ đến cách sắp xếp vị trí của các đan sĩ khi hát kinh, đó chính là trung tâm mà từ đó lời ca tụng được khai sinh. Hay như chính nhóm hay cộng đoàn của chúng ta, khi chúng ta cùng nhau hiệp dâng Thánh Lễ và cầu nguyện. Bởi lẽ, lời ca tụng là một sự hiệp thông. Chúng ta không thể ca tụng Chúa, nếu không hiệp thông với nhau.

Cuộc gặp gỡ có nhiều người hơn chúng ta tưởng (lời của bà Elizabeth sẽ nói rõ cho chúng ta trong cuộc gặp này thực sự có bao nhiêu người), vì Bà Elizabeth vừa nghe Đức Maria chào hỏi, đứa con trong bụng bà nhảy lên ! Như thế, cùng với mẹ, em bé cũng đã nghe được lời chào của Đức Maria. Có thể nói, em bé Gioan như đã nghe được tiếng của em bé Giêsu, ngang qua tiếng của Đức Maria. Vì khi còn trong bụng mẹ, một cách nào đó, tiếng của mẹ là tiếng của con. Như thế, ở bên trong cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ, ẩn dấu một cuộc gặp gỡ khác nhiệm mầu và vô hình, nhưng rất hiện thực và sống động giữa hai người con ; và cả hai đều là ơn huệ tuyệt đối của Thiên Chúa. Sau này, theo các Tin Mừng kể lại, họ sẽ gặp nhau công khai tại sông Gio-đan, nhưng họ đã gặp nhau từ trước rất lâu qua cuộc gặp gỡ rất đỗi bình thường của hai người mẹ.

Trong cuộc sống, những cuộc gặp gỡ của chúng ta với người khác ban đầu tưởng chừng như tình cờ hay vô nghĩa, nhưng lại ẩn chứa một hay thậm chí nhiều cuộc gặp gỡ “nhiệm mầu” khác, và mang lại những hoa trái làm nên cuộc đời chúng ta, mà sau này chúng ta mới biết. Vì thế, chúng ta có thể tin rằng những cuộc gặp gỡ hôm nay và những cuộc gặp gỡ đang chờ chúng ta ở phía trước cũng sẽ chất chứa biết bao hoa trái trong kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa, mà chúng ta không sao lường được.

Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần.

Chúng ta có thể tự hỏi, làm sao lời chào của Mẹ Maria mang lại hiệu quả kì diệu như thế, lại “đánh động” người nghe sâu xa như thế ?

- Đứa con trung bụng nhảy lên. Đứa con trong bụng cũng nghe được lời chào; và ngang qua lời chào của Đức Maria, em bé như đã nghe được tiếng của Đức Giê-su; vì thế, em “nhảy lên” vui mừng và mãn nguyện, bỡi lẽ Đức Giê-su sẽ là “tất cả” của em. Xin cho chúng ta cũng có được kinh nghiệm “nhảy lên” khi gặp gỡ Đức Ki-tô ngang của Lời Kinh Thánh. Nhưng “Đứa con trong bụng nhảy lên” còn là hình ảnh nói lên sự đánh động ở chiều sâu trong tâm hồn. Lời chào của Mẹ đánh động bà Elizabeth mạnh mẽ và sâu xa đến như thế : đánh động vì tình thương, tình liên đới, vì sự quảng đại không quản ngại đường xa vất vả, vì sự khiêm tốn của Mẹ… và nhất là vì tình yêu Thiên Chúa dành cho bà, ngang qua cuộc viếng thăm của Mẹ : “bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ?”

- Tràn đầy thánh thần và thốt ra lời ca tụng bất hủ. Bởi vì, lời của bà Elizabeth hoàn toàn hướng về em của mình và Ân Huệ Chúa ban nhưng không cho em. Tương tự như chính Mẹ Maria, Mẹ đã hoàn toàn hướng về chị Elizabeth trong cuộc hành trình “thăm viếng”. Ra khỏi mình để nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban cho người khác, đó chính là hiệp thông và ca tụng , vốn là ơn gọi của con người. Thái độ ngược lại là đóng kín và ghen tị. Lời của bà Elizabeth thật là đẹp, đẹp cả về hình thức lẫn nội dung, chính vì thế mà lời này trở thành một phần lời “Kính Mừng” vang lên liên lỉ và bất tận của chúng ta ; và nhất là với “Sự Vui Thứ Hai”, chúng ta được mời gọi thực hiện cùng một hành trình của Đức Mẹ, đó là ra khỏi mình để hướng về Ân Huệ tuyệt đỉnh Thiên Chúa ban cho Mẹ cách nhưng không, hướng về ân huệ Thiên Chúa ban cho anh chị em, bà con của mình. Cảm nhận như thế khi đọc lời kinh “Kính Mừng”, chính là cách tốt nhất để chuẩn bị mình đón nhận sự chia sẻ cùng một Ân Huệ của Mẹ, Ân Huệ Giêsu Kitô.

Hằng ngày, chúng ta cũng chào hỏi nhau. Làm sao để lời chào của chúng ta đánh động người nghe, như lời chào của Đức Mẹ ? Ngang qua lời chào, chúng ta được mời gọi nhận ra cả một cách tương quan, một cách sống với người khác, nhất là trong đời sống cộng đoàn: Mang lại niềm vui, nhận ra tình yêu Thiên Chúa, thêm lòng yêu mến Chúa và vì thế thêm lòng khát khao dâng hiến; thay vì ngược lại (không nhận ra tình yêu Chúa, không thêm lòng yêu mến Chúa, không còn yêu mến ơn gọi).

3. Lắng nghe Mẹ Maria

a. Magnificat anima mea Dominum: Thiên Chúa Đấng Cứu Độ Tôi (c. 46-48)

Mẹ Elizabet ca tụng Mẹ Maria bằng lời chúc mừng: Phúc cho người phụ nữ đã tin! (Lc 1, 45) Đức Maria dâng lời tạ ơn và ca tụng cùng với tất cả những người sẽ thụ hưởng điều Mẹ đã lãnh nhận. Trong trình thuật này của Luca, chúng ta chứng kiến biến cố khai sinh của bài ca tán tụng bất hủ Magnificat. Bài ca diễn tả cả một kinh nghiệm vừa sâu vừa rộng về Thiên Chúa của Đức Mẹ. Và mỗi khi chúng ta đặt mình vào chủ thể “Tôi” của bài ca, chúng ta được mời gọi thực hiện cùng một kinh nghiệm về Thiên Chúa như Mẹ.

Kinh nghiệm Thiên Chúa của Đức Mẹ, trước hết, đó là kinh nghiệm : Thiên Chúa là Đấng cứu độ, và tiên vàn không phải Thiên Chúa, Đấng cứu độ loài người, nhưng là Thiên Chúa, “Đấng cứu độ của tôi”. Kinh nghiệm này làm cho con tim của Đức Mẹ thực sự “bừng cháy” và thốt lên lời ngợi khen Thiên Chúa, là Đức Chúa của mình.

Tĩnh từ sở hữu “của tôi”, hay “của con” thật nhỏ bé và đơn sơ nhưng dấu ẩn cả một bí mật, một tương quan rất thiết thân. “Của tôi”, “của con”, “của bố”, “của mẹ”, “của anh”, “của chị”, “của em”… Khi nghe hay nói những từ này, lòng chúng ta hẳn đã xao động, bởi vì đó là ngôn ngữ của tình yêu. Thánh Inhaxiô, trong các bản văn, khi nói tới Đức Kitô hay Thiên Chúa, ngài luôn thêm tĩnh từ sở hữu “của chúng ta” (x. Linh Thao 23 ; 158).

Ngoài ra, tĩnh từ sở hữu “của con” còn mang một vẻ nổi bật đặc biệt trong bối cảnh Kinh Thánh, bởi vì nó thuộc về ngôn ngữ của giao ước: Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi và các ngươi sẽ là dân của ta. Qua lời giao ước, hai bên cam kết sẽ thuộc về nhau mãi mãi. Và tương quan thuộc về này của giao ước hoàn toàn không xa lạ với chúng ta. Thực vậy, qua phép rửa, “Thiên Chúa trở thành Thiên Chúa của con ; và con, con trở thành con của Thiên Chúa”. Tương quan giao ước này là nền tảng cho mọi tương quan giao ước khác, được diễn tả qua lời cam kết hôn nhân, lời cam kết chức thánh, lời tuyên khấn, lời tuyên hứa…

“Thiên Chúa là Đấng cứu độ”, lời tuyên xưng này, đối với chúng ta trong thực tế, có thể đã trở thành một chân lí khách quan, thậm chí một công thức, vì thế không thực sự liên quan đến cuộc đời cụ thể và như nó là của mỗi người chúng ta, không diễn tả một kinh nghiệm thiết thân, không mang lại niềm vui ca tụng ; “Thiên Chúa là Đấng cứu độ”, nhưng Ngài chưa thực sự là “Đấng cứu độ của con”. Kinh nghiệm của Đức Mẹ về những gì Thiên Chúa đã làm cho mình, sẽ giúp chúng ta vượt qua khó khăn này để đi vào tương quan “thuộc về nhau” với Thiên Chúa.

Trong tương quan thiết thân với Thiên Chúa, Mẹ Maria tự nhận mình là “nữ tì hèn mọn”, và chắc chắn Mẹ luôn nhận mình là như thế, bởi lẽ trước đó trong biến cố Truyền Tin, Mẹ đã nói về mình : “Tôi đây là nữ tì của Đức Chúa” (Lc 1, 38). Vì thế, chúng ta nên từ bỏ não trạng thời Trung Cổ là thích gom góp mọi thứ tước hiệu mô tả sự vĩ đại và vẻ đẹp của Mẹ. Chúng ta hãy tôn trọng tước hiệu mà Mẹ tự nhận cho mình. Như thế, không còn là những đặc ân “ngoại thường” lôi kéo sự chú ý của chúng ta nữa, nhưng là Đức Trinh Nữ của Israel, “nữ tì hèn mọn của Đức Chúa”, đại diện cho những người nghèo của Đức Chúa, đã sống một cuộc đời bình thường và đã tự xóa mình đi trước sứ mạng của Con Mình, để rồi lại xuất hiện trong giờ thử thách của Thập Giá. Chúng ta được mời gọi dõi theo một Đức Maria như thế.

b. “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi” (c. 49)

Khởi từ thân phận “nữ tì hèn mọn”, Đức Maria tuyên xưng : “Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả”. Mẹ hèn mọn nhưng lại được Chúa làm những điều lớn lao. Như thế, sự lớn lao của Mẹ hoàn toàn đến từ Thiên Chúa. Lời tuyên xưng này là tâm điểm của bài caMagnificat, bởi vì những gì Mẹ nói ở đầu chính là để dẫn đến kinh nghiệm thiết thân này, và từ kinh nghiệm thiết thân này, Mẹ nhận ra hành động của Thiên Chúa nơi nhân loại và nơi dân tộc của Mẹ.

Những gì Thiên Chúa đã làm cho Mẹ, không trừu tượng chút nào, vì “Lời Chúa” đụng chạm đến thân xác, tâm hồn và cả cuộc đời của Mẹ. “Lời Chúa” chạm đến con người của Mẹ, hình thành nơi cung lòng của Mẹ, sinh ra và lớn lên trong cuộc đời của Mẹ, đồng hành với Mẹ cho đến tận cùng, và cuối cùng mãi mãi trở nên một với Mẹ. Nơi Mẹ, “Lời Chúa là hạt giống nhỏ, hứa hẹn cả mùa gặt bao la”[1] ; nơi Mẹ, Lời Chúa trở nên hiện hữu ở mức độ cô đọng nhất, nghĩa là ở mức độ “Ngôi Lời Thiên Chúa”.

Ngay lúc này Đức Mẹ đã cảm nhận được lời chúc khen của mọi thế hệ dành cho Mẹ, trong đó có lời chúc khen của thế hệ chúng ta hôm nay. Về phần Mẹ, luôn với cung cách của một “nữ tì”, Mẹ chúc khen Thiên Chúa : “Danh Người thật chí thánh chí tôn”, bởi vì tất cả tất cả những gì Thiên Chúa làm cho Mẹ là do lòng đoái thương hoàn toàn nhưng không.

c. “Chúa hằng thương xót” (c. 50-55)

Khởi đi từ kinh nghiệm bản thân, về những gì Thiên Chúa làm cho mình, Đức Mẹ trong bài caMagnificat khám phá ra cách hoạt động của Thiên Chúa trong lịch sử con người và nhất là trong dân tộc mình : như Thiên Chúa đã đoái nhìn đến phận nữ tì của Mẹ, Thiên Chúa cũng bày tỏ lòng thương xót với

- những ai kính sợ Người,
– những người khiêm nhường,

- những người đói nghèo.

Và Đức Mẹ cảm nhận Thiên Chúa tỏ bày lòng thương xót một cách duy nhất và đặc biệt với Israel, tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa, không phải vì Israel “đạo đức thánh thiện” nên Chúa trả công, nhưng bởi vì Ngài nhớ lại lời hứa thủy chung đến muôn đời của Ngài ngay từ buổi khởi đầu. Tuy nhiên, lời của Mẹ cũng thật mạnh mẽ, nếu không muốn nói là dữ dội, khi diễn tả cung cách của Thiên Chúa đối với

- phường lòng trí kiêu căng,
– những ai quyền thế,

- những người giàu có.

Vì đó là những lựa chọn ngẫu tượng, nghĩa là lựa chọn hư vô : ngẫu tượng dang vọng, ngẫu tượng quyền bính, ngẫu tượng vật chất. Những Lời này của Mẹ hôm nay, một ngày kia sẽ trở thành lời của chính Đức Giêsu, Con của Mẹ, trở thành chính cung cách hành xử của Ngài ngang qua Thập Giá, để giải phóng con người khỏi mọi thứ ngẫu tượng bằng cách bắt chúng phải lộ diện, và đồng thời bày tỏ khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa cho con người.

*  *  *

Mỗi khi đọc hay hát bài ca Magnificat của Mẹ Maria, chúng ta được mời gọi nhận lời của Mẹ làm của mình, nếu không lời của chúng sẽ chỉ là giả tạo. Nhận lời của Mẹ làm của mình, điều này có nghĩa là kinh nghiệm Thiên Chúa thực sự là “Đấng cứu độ của tôi”, bằng cách nhận ra những gì Thiên Chúa đã làm cho mình. Đúng là chúng ta không được ban những ơn cao cả như Đức Mẹ, nhưng chúng ta được thụ hưởng, được chia sẻ những gì Mẹ đã lãnh nhận từ Thiên Chúa. Và chỉ khởi đi từ kinh nghiệm thiết thân về Thiên Chúa, mà chúng ta mới có thể nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho người khác, trong cộng đoàn, Hội Dòng… và dân tộc Việt Nam.

Cuối cùng, chính khi chúng ta có cùng một kinh nghiệm về Thiên Chúa, cả cuộc đời của chúng ta sẽ trở thành bài ca Magnificat, tán tụng Thiên Chúa, như cuộc đời của Mẹ Maria, “Nữ Tì Hèn Mọn” của Đức Chúa.

Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

——–
[1] Bài hát “Comme un souffle fragile” (Như Hơi Thở Mong Manh), của Pierre Jacob : ĐK. Như hơi thở mong manh, Lời Chúa trao ban chính mình. Như chiêc bình bằng sành, Lời Chúa nhào nắn chúng con. TK 1. Lời Chúa là câu thì thầm, như điều bí ẩn của tình yêu. Lời Chúa là vết thương đau, mở ra cho chúng con ngày mới. TK 2. Lời Chúa là sự sinh ra, như ta ra khỏi chốn tù đày. Lời Chúa là hạt giống nhỏ, hứa hẹn cả mùa gặt bao la. TK 3. Lời Chúa là cuộc chia sẻ, như ta cắt nhỏ tấm bánh lớn. Lời Chúa là lối băng qua, nói cho chúng con cả một con đường.

Suy Niệm 2: Magnificat

Người đời Đức Kitô không những giao hoà con người với Thiên Chúa, Ngài còn là kiểu mẫu của con người đã được giao hoà. Ngài đến để mang lại Tin mừng. Tin mừng ấy chính là con người với Tin mừng cho bằng thái độ phấn khởi vui tươi trong cuộc sống.

Đức Maria là người đầu tiên đã đón nhận ơn cứu độ. Thái độ của Ngài cũng là thái độ mẫu mực cho người Kitô hữu. Người đã mau mắn ra đi đến với Isave để báo tin vui, và trong một giây phút xuất thần, Người đã để cho lời ca của cả một dân tộc được hát lên. Bài ca ấy qua muôn thế hệ được Giáo Hội lấy làm chính lời kinh của mình.

Trong Giáo hội và cùng với Giáo hội, mỗi Kitô hữu cũng được mời gọi để không ngừng hát lên và sống bài ca ấy. “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Thần trí tôi hớn hở trong Đấng cứu độ tôi”, đó phải là bài ca trong từng phút giây cuộc đời chúng ta. Không vui sao được khi biết rằng mình được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc bằng chính máu của Con Một Ngài; không vui sao được khi biết rằng trong người Con Một ấy, chúng ta tìm được ánh sáng chân lý, bình an và hy vọng, không vui sao được khi biết rằng trong hành trình về nhà cha, có biết bao người cùng tiến bước với chúng ta.

Ước gì niềm vui ơn cứu độ luôn tràn ngập tâm hồn chúng ta, ước gì cùng với Đức Maria, lời kinh muôn thủa của chúng ta luôn là lời ca tán dương Chúa trong từng phút giây cuộc sống.

 

Suy Niệm 3: Ngợi khen Chúa

Bấy giờ Maria nói:

“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,

Thần trí tôi hớn hở vui mừng

Vì Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi”. (Lc. 1, 46-47)

Tin mừng hôm nay là một bài ca đẹp về việc tạ ơn, có thể chia làm hai nhịp:

Trước hết là tâm tình tạ ơn Thiên Chúa đã ban ơn riêng cho Đức Maria:

“Linh hồn tôi ngợi khen Chúa,

Thần trí tôi hớn hở vui mừng

Vì Chúa đã thương đến phận hèn tớ nữ,

Đấng Toàn năng đã làm cho tôi những điều cao cả”.

Thực vậy, Đức Maria đã nhận biết Thiên Chúa, đã yêu thương chính riêng mình. Ngài đã tín thác cho Mẹ một sứ mệnh cao cả. Đức Maria, trong niềm phấn khởi vô tận, đã khám phá thấy Thiên Chúa đã đổ đầy cho mình muôn ơn lành. Còn chúng ta, khi có ai tin tưởng trao cho mình nhiệm vụ lớn lao hay ban cho mình một quà tặng, chúng ta tự nhiên ca tụng họ hết lời: “Anh đã rất tốt nghĩ đến tôi, thật quá tốt, tôi còn lâu mới xứng đáng được như vậy”.

Đến lượt chúng ta, chúng ta có biết dừng những giây phút để khám phá ra trong đời mình những điều mà Thiên Chúa đã thương yêu thực hiện cho chính mình không? Khi khám phá được thế, chúng ta sẽ dễ dàng noi gương Đức Maria để cầu nguyện với con tim tự phát thành bài ca cảm tạ ngợi khen Chúa đã làm cho mình những điều lạ lùng.

Nhưng Đức Maria còn đi xa hơn nữa, trong lời cầu nguyện tạ ơn khi nhìn đến hàng loạt những cử chỉ Thiên Chúa đã tỏ ra cho dân mình trong suốt chiều dài lịch sử.

Lòng thương xót nhân ái của Chúa đã trải qua đời nọ tới đời kia cho những ai kính sợ Ngài … tức là những người đã sống liên đới với Chúa từ Áp-ra-ham xuyên suốt tới hết thảy dòng dõi ông, Thiên Chúa đã yêu thương những kẻ nghèo khó và những kẻ hèn mọn.

A.N

 

 

Suy niệm 4: Nữ tỳ hèn mọn
 
Bài ca ngợi khen Đức Chúa bật ra trên môi Maria
 
sau khi bà Êlisabét cất tiếng ca ngợi Mẹ.
 
Êlisabét ca ngợi Maria là người được chúc phúc hơn mọi phụ nữ
 
vì Mẹ đang cưu mang trong dạ Đấng Cứu Tinh.
 
Bà còn ca ngợi Maria có phúc vì đã dám tin vào lời Chúa phán,
 
và dám liều để cho lời ấy dẫn dắt đời mình.
 
Nhờ được tràn đầy Thánh Thần, Êlisabét mới biết được Tin Vui
 
mà Maria tưởng rằng đó là bí mật chỉ riêng mình biết.
 
Khi đứng trước bà chị cao niên đang mang thai,
 
Maria xác tín hơn vào những lời sứ thần nói,
 
và vào mầu nhiệm đang âm thầm lớn lên nơi cung lòng mình.
 
Khi bà chị Êlisabét ca ngợi Mẹ, thì Mẹ hân hoan ca ngợi Thiên Chúa.
 
Maria nhìn nhận Ngài là Đấng Cứu Độ của Mẹ (c. 47).
 
Nếu Mẹ được đầy ân sủng, được Chúa ở cùng và được đẹp lòng Ngài,
 
nếu Mẹ được thụ thai Con Đấng Tối Cao nhờ Thánh Thần (Lc 1, 28-35),
 
thì đó không phải là do công của Mẹ, nhưng là ơn của Chúa.
 
“Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả” (c. 49).
 
Maria không có một sự khiêm nhường giả tạo về mình.
 
Khiêm nhường thực sự là nhìn nhận sự thật.
 
Mẹ nhìn nhận những điều độc nhất vô nhị Chúa làm cho đời mình.
 
Ngài đã nhìn xuống đời Mẹ, cuộc đời thấp hèn của một tỳ nữ.
 
Và cái nhìn cúi xuống của Ngài đã nâng Mẹ lên cao,
 
khiến cho muôn thế hệ phải ngợi khen, tôn kính (c. 48).
 
Nhưng Maria không phải là người duy nhất được Thiên Chúa thi ân.
 
Ngài thương xót những ai hèn mọn, đói nghèo, biết kính sợ Chúa.
 
Ngược lại, Ngài giơ cánh tay biểu dương sức mạnh (cc. 50-53),
 
để dẹp tan kẻ kiêu căng, hạ bệ người quyền thế, đuổi đi kẻ giàu sang.
 
Thiên Chúa đầy thương xót, nên cũng mạnh tay để tạo lại sự công bằng,
 
để đem lại sự no đủ cho người nghèo và sự tự do cho người bị áp bức.
 
Thiên Chúa ấy cũng trung tín giữ lời hứa với Dân Ítraen (cc. 54-55).
 
Maria đã ở lại với bà chị họ độ ba tháng mới trở về nhà.
 
Ba tháng mang thai đầu tiên của một người mẹ trẻ đâu có dễ.
 
Maria đã ở lại để phục vụ cho bà Êlisabét gần ngày sinh.
 
Mẹ quên gánh nặng của mình để mang gánh nặng của người khác.
 
Êlisabét hẳn là vui vì được hầu hạ bởi Thân Mẫu Chúa.
 
Gioan trong bụng mẹ sung sướng vì được gần Đấng Thiên Sai.
 
Ít khi ta suy niệm chuyện Đức Maria mang thai hơn chín tháng.
 
Thai Nhi Giêsu lớn dần lên từng ngày trong dạ mẹ, chờ ngày chào đời.
 
Tình Mẹ-Con cũng lớn lên, thân thiết, gần gũi.
 
Mang thai và sinh con là niềm vui, nhưng đòi bao hy sinh nhọc nhằn,
 
nhất là vào thời xưa, khi vệ sinh và tiện nghi không có.
 
Để sinh Đức Giêsu cho thế giới hôm nay, vẫn cần có những Maria
 
chấp nhận cưu mang, chấp nhận vượt cạn,
 
chấp nhận kiên nhẫn chờ đợi để sinh những Giêsu cứng cáp cho thế giới.
 
Cầu nguyện:
 

Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
 
những ơn con thấy được,
 
và những ơn con không nhận là ơn.
 
Con biết rằng
 
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
 
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
 
Con thường đau khổ vì những gì
 
Cha không ban cho con,
 
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
 
Tạ ơn Cha vì những gì
 
Cha cương quyết không ban
 
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
 
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
 
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
 
dù con không hiểu hết những gì
 
Cha làm cho đời con.
 

 

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận