Thánh Anphong Maria Ligôri, linh mục.

Đăng lúc: Thứ sáu - 01/08/2014 02:49 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
THỨ SÁU ĐẦU THÁNG TUẦN 17 THƯỜNG NIÊN – Thánh Anphong Maria Ligôri, linh mục. Lễ nhớ.

"Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc ư? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?"
 
Thánh nhân sinh năm 1696 tại Napôli. Người từ bỏ nghề luật sư để làm linh mục, rồi sau lại nhận trách nhiệm giám mục để loan báo tình yêu của Chúa Kitô. Người đi giảng không mỏi mệt, siêng năng giải tội và rất nhân từ với các hối nhân. Người đã lập Dòng Chúa Cứu Thế nhằm mục đích loan báo Tin Mừng cho dân các miền quê (1732). Người đã giảng dạy luân lý và viết nhiều tác phẩm về đời sống thiêng liêng. Người qua đời năm 1787.
 
Bài đọc (Gr 26, 1-9)
Khi Gioakim, con của Giosia vua nước Giuđa mới lên cai trị, thì Chúa phán rằng: “Đây Chúa phán: Ngươi hãy đứng giữa tiền đàng đền thờ Chúa, và bảo mọi thành phố nước Giuđa đến thờ lạy trong đền thờ Chúa, hãy nói cho họ biết tất cả những lời Ta truyền cho ngươi nói với họ: ngươi chớ bớt một lời; may ra ai nấy nghe mà trở lại, và bỏ đàng tội lỗi của mình, mong Ta hối tiếc tai hoạ Ta định giáng xuống họ, vì sự gian ác họ ưa thích. Và ngươi hãy bảo họ rằng: Đây Chúa phán: Nếu các ngươi không nghe Ta để bước đi trong lề luật Ta đã ban cho các ngươi, để nghe lời các tiên tri tôi tớ Ta mà ban đêm Ta chỗi dậy và điều động sai đến các ngươi, và các ngươi không nghe, thì Ta sẽ để đền thờ này như Silô, sẽ khiến thành này bị hết thảy các dân trên địa cầu nguyền rủa”.
Các tư tế, các tiên tri, toàn dân đều nghe Giêrêmia nói những lời ấy trong đền thờ Chúa. Khi Giêrêmia nói hết những lời Chúa truyền cho ông nói với toàn dân, thì các tư tế, các tiên tri, và toàn dân bắt ông và nói rằng: “Ngươi phải chết! Tại sao ngươi nhân danh Thiên Chúa mà nói tiên tri rằng: ‘Đền thờ này sẽ như Silô, thành này sẽ hoang vu không ai cư ngụ’?” Và toàn dân tập họp phản đối Giêrêmia trong đền thờ Chúa.


Tin Mừng (Mt 13, 54-58)
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê quán Người, và giảng dạy người ta trong hội đường, khiến người ta ngạc nhiên và nói rằng: “Bởi đâu ông này được sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ như vậy? Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc sao? Nào mẹ ông chẳng phải là bà Maria, và Giacôbê, Giuse, Simon, Giuđa chẳng phải là anh em ông sao? Và chị em ông, nào chẳng phải những người ở nơi chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?” Và họ vấp phạm đến Người.
Nhưng Chúa Giêsu phán cùng họ rằng: “Không tiên tri nào mà không được vinh dự, trừ nơi quê quán và nhà mình”. Người không làm nhiều phép lạ ở đó, vì họ chẳng có lòng tin.


Thánh Anphong Maria Ligôri, Giám mục Tiến sĩ Hội Thánh (1696 – 1787)

Thánh Alphongsô Maria Liguori sinh ngày 27 tháng 9 năm 1696 tại Marinella gần Naples và là con trưởng trong 7 anh em. Ngay từ trong nôi, Ngài là giáo điểm tập hợp ân huệ đáng mơ ước như trí thông minh, danh giá, tài sản, thiên khiếu nghệ thuật và một tấm lòng đại độ. Trong khi đó người mẹ rất đạo hạnh nghĩ rằng:
“Các ân huệ tốt đẹp nhất sẽ chẳng có giá trị gì nếu không hướng về Chúa. Người lãnh nhiều phải trả nhiều.”
Như vậy ân phúc kỳ diệu nhất mà Alphongsô nhận được chính là giáo huấn của người mẹ. Alphongsô học tiếng Hy lạp, tiếng Latinh, tiếng Pháp và toán. Ngài say mê âm nhạc và hội họa. Là một con người có chí, Alphongsô gây ảnh hưởng tốt đối với chúng bạn bằng sự trong trắng tế nhị và lòng đạo đức của mình. Một người bạn kể lại rằng: có lần thua cuộc chơi và giận dữ đến độ trở nên sỗ sàng, Alphongsô buồn phiền nghỉ chơi và nói:
“Chúa không muốn tôi được chút tiền đã khiến cho bạn làm phiền lòng Ngài”
Thế rồi Alphongsô biến mất vào vườn. Các bạn đổ xô đi tìm Ngài và gặp Ngài đang quỳ cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ đặt trên cành cây. Người bạn xấu xúc động nói:
“Tôi đã làm phiền một vị thánh”.
Alphongsô thành công rất sớm trên cùng đời: 17 tuổi Ngài đậu bằng tiến sĩ luật khoa cả về giáo luật lẫn dân luật và đã bắt đầu hành nghề luật sư. Khả năng hùng biện của Ngài hứa hẹn một tương lai sáng lạn. Nhưng tuổi trẻ cũng có cớ dẫn Ngài tới lỗi lầm với trong hậu quả bi thảm. Năm 1723, trong một vụ kiện, Ngài biện hộ với một giọng nói hùng hồn. Lý lẽ vững chắc, làm cho cả tòa án phải ngỡ ngàng tán thưởng. Nhưng khi vừa dứt lời, đối thủ ôn hoà vạch ra một lỗi nhỏ mà Ngài không nhận thấy. Chính lỗi nhỏ đó đã tiêu hủy luận chứng lẫn danh tiếng của Ngài.
Thất bại, Alphongsô rất đau buồn và đã đóng cửa phòng hai ngày liền. Ngài suy nghĩ và tự hỏi rằng: “Đây không phải là lời mời gọi của Chúa hay sao …?”
Bỏ nghề, Ngài nói:
“Ôi thế gian, ta đã biết ngươi. Hỡi pháp đình, ngươi sẽ không còn gặp ta nữa”.
Ngài tìm đường sống và dấn thân cho công cuộc bác ái. Một ngày kia, đang khi thăm viếng các bệnh nhân trong một nhà thương, Ngài nghe hỏi:
“Ngươi làm gì ở thế gian này ?”
Nhìn chung quanh Ngài không thấy ai, nhưng Ngài vẫn nghe hỏi một lần nữa. Vào một nguyện đường dâng kính Đức Mẹ từ bi gần đó, Ngài hứa sẽ gia nhập dòng giảng thuyết và làm linh mục. Đặt thanh gươm trên bàn thờ Ngài nói:
“Lạy Chúa này con đây, xin hãy làm nơi con điều đẹp lòng Chúa. Con là gì và con có chi, con xin hiến dâng để phụng sự Chúa”.
Nghe tin này, cha Ngài giận dữ, Ngài quyết bỏ nghề, bỏ cả vị hôn thê của Ngài sao ? Ngài đã trả lời rằng: đối với Chúa chẳng có hy sinh nào gọi là quá lớn lao cả. Ngài cương quyết giữ ý định và cha Ngài không thèm nhìn đến Ngài nữa. Năm 1726, Ngài thụ phong linh mục.
Thánh nhân rao giảng khắp vương quốc Naples. Cha Ngài giận dữ quyết không chịu nghe. Ngày kia ông vào một thánh đường, đúng lúc con ông đang thuyết giảng. Thoạt đầu ông giận dữ, nhưng rồi dần dần ông mềm lòng. Ơn Chúa đã đến nhờ lời giảng dạy của con ông. Kết thúc giờ phụng vụ ra về ông nói: “Con tôi đã làm cho tôi được biết Chúa”.
Suốt đời, thánh Alphongsô không những chỉ nỗ lực trong công việc tri thức mà còn lo tiếp xúc với dân chúng. Ngài chỉ thích việc ngồi tòa hơn là việc nghiên cứu. Ngài mang đặc điểm của một linh mục truyền giáo. Thành quả của Ngài thực hiện được chính là dòng Chúa Cứu Thế, thành lập tại Scala tháng 11 năm 1732. Dầu cho từ đầu, hội dòng đã bị phân rẽ thành hai phe và thánh Alphongsô phải khởi đầu lại, với hai người bạn, nhưng hội dòng cũng khởi sự lớn dần. Dòng được chuẩn nhận ngày 21 tháng 2 năm 1749.
Năm 1548, thánh nhân xuất bản bộ thần học luân lý, được ĐTC Bênêdictô XIV phê chuẩn và gặt nhiều thành quả tức thời.
Năm 1762, Đức giáo hoàng Clementô XIV đặt Ngài làm giám mục cai quản địa phận Agata. Ngài nỗ lực thăng tiến lòng đạo đức trong điạ phận, khởi sự từ viêc canh tân hàng giáo sĩ. Năm 1775, Ngài được đức giáo hoàng Piô VI cho phép từ nhiệm để về sống trong dòng tại Nocera.
Những năm cuối đời, thánh Alphongsô đã trải qua rất nhiều đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần. Dầu trong “đêm tối của linh hồn”, Ngài vẫn không nao núng và luôn kiên trì cầu nguyện. Ngài nói: “Ai cầu nguyện sẽ được cứu thoát, ai không cầu nguyện sẽ tự luận phạt”. Cuối cùng Ngài tìm được bình an và qua đời năm 1787.


Suy niệm 1: LOAN BÁO TRONG MỌI HOÀN CẢNH

Không ai được tôn trọng ở quê hương của mình. Đây chính là câu nói nổi tiếng của Đức Giêsu mang tính tiên tri. Thật vậy, trải qua biết bao thế hệ, từ những bậc tiền nhân đến chúng ta, hẳn mọi người đều biết hay đã cảm nghiệm được tính tiên tri của Đức Giêsu qua câu nói trên.
Hôm nay, chính Đức Giêsu cũng đã trải qua sự thật đó khi về quê hương của mình.
Khi biết rõ về thân thế, gia cảnh của Đức Giêsu, những người Dothái sinh thời với Ngài đã không thể chấp nhận được, và như một lẽ tất yếu, họ không tin và cũng chẳng tôn trọng Ngài. Vì thế, Đức Giêsu đã không làm được phép lạ nào tại quê hương của mình vì sự cứng lòng tin nơi họ.
Hôm nay, phụng vụ Giáo Hội mừng kính thánh Anphong. Thánh nhân là một con người đạo đức, thánh thiện. Có lòng yêu mến Chúa chịu đóng đinh và Đức Mẹ rất đặc biệt, từ đó, ngài tha thiết với việc cứu rỗi các linh hồn. Ngài còn được biết đến là một vị thánh lỗi lạc về nền tảng thần học luân lý.
Nền thần học của ngài mang tính thực tiễn, cụ thể chứ không phải là những sự trừu tượng cao siêu. Vì thế, thánh Anphong đã được Giáo Hội đặt làm bổn mạng các nhà thần học luân lý.
Thánh nhân là người đã rập cuộc đời của mình trong khuôn đúc của Đức Giêsu, vì thế, chúng ta không lạ gì khi chân dung Đức Giêsu trong bài Tin Mừng được hiện tại hóa trong cuộc đời và sứ vụ của thánh Anphong. Thật vậy, bị hiểu lầm, cô lập và thất bại luôn đến với ngài. Nhưng nhờ ơn Chúa, ngài đã vượt qua để chỉ còn bận tâm đến một việc duy nhất, đó là làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhớ cho chúng ta biết rằng: trong cuộc đời và trên hành trình loan báo Tin Mừng của người môn đệ, chúng ta cũng sẽ gặp phải những khó khăn, thất bại và chống đối, hiểu lầm và cô đơn… Tuy nhiên, hình ảnh Đức Giêsu lướt qua họ khi chúng muốn xô Ngài xuống vực cho thấy rằng: bổn phận của chúng ta là loan báo Lời Chúa, nên chúng ta cứ can đảm và sẵn sàng loan báo cho dù có những cản trở, khó khăn đến từ mọi phía…
Chúng ta không bận tâm đến quá nhiều kết quả, vì thành công hay không là việc của Chúa. Chúng ta chỉ là người thợ trong bàn tay Chúa và chỉ biết làm những việc phải làm mà thôi. Có được tâm tình ấy, chúng ta sẽ rao giảng Lời Chúa: “… lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2 Tm 4,2).
Lời Chúa hôm nay còn nhắc cho chúng ta biết: hậu quả của sự thành kiến, đã làm chúng ta bỏ lỡ hay cố tình không chấp nhận nhiều việc tốt của người khác, hoặc nhất định không làm việc hữu ích chỉ vì điều đó được khởi xướng từ một người mà chúng ta đã có thành kiến.
Lạy Chúa, xin cho chúng con vững tin rằng: Chúa là tất cả đời con, nên mọi khó khăn thử thách sẽ không làm cho chúng con chùn chân bước theo Chúa. Xin cho chúng con xóa bỏ thành kiến để công cuộc loan báo Tin Mừng đạt được nhiều kết quả. Amen.


Suy niệm 2

Tin mừng hôm nay kể lại sự kiện Đức Giêsu trở về quê nhà, sau thời gian đi rao giảng và làm nhiều phép lạ. Ngày Sabat, Ngài tiếp tục giảng dạy tại hội đường quê làng mình và khiến cho những người đồng hương sửng sốt. Nhưng họ đã dừng lại nơi nguồn gốc trần thế của Đức Giêsu, nên không thể tiến xa để nhận ra căn tính thật của Ngài. Chính cái biết nhưng không đủ của họ, đã khiến họ không tin, từ chối Đức Giêsu.
Hôm nay, đôi khi tôi quá cậy dựa vào cái biết hẹp hòi, mà đóng kín trước những sự thật khác về Chúa. Nhiều khi, tôi kết luận về một người mà chỉ dựa vào bề ngoài của họ, dựa vào định kiến có sẵn về họ, hay dựa vào những thông tin mà người khác cung cấp cho tôi về họ.
Mong sao, bằng sự thanh thoát trong cái nhìn linh thánh, tôi có thể nhận ra được những sự thật về Chúa.
Mong sao, luôn tỉnh thức vượt qua những định kiến có sẵn, tôi có thể tiến sâu hơn để nhận ra những giá trị thật nơi anh chị em đang sống bên tôi.


Suy niệm 3: Đừng để “quen quá hoá nhàm”

Dân chúng sửng sốt và nói: “Bởi đâu ông ta được sự khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế?” (Mt 13,54)
Suy niệm: Người ta bảo rằng đời sống chung, nhất là đời sống hôn nhân, phải không ngừng tranh đấu với một quái vật có thể nuốt chửng mọi sự, đó là sự quen thuộc! Ngạn ngữ tiếng Anh cho rằng: “Sự quen thuộc sinh ra việc coi thường.” Nghe lời Đức Giê-su rao giảng, dân làng Na-da-rét sửng sốt hỏi: Bởi đâu ông Giê-su này được sự khôn ngoan như vậy? Một câu hỏi rất hay, có thể giúp họ nhận ra được chân tướng của Vị Cứu Thế. Thế nhưng, sự quen thuộc với gia đình, họ hàng của Ngài, với nghề nghiệp của cha nuôi Ngài, đã khiến họ coi thường Đức Giê-su, ngăn cản họ nhận ra Ngài là Đấng Mê-si-a của Chúa. Họ thất bại không trả lời được câu hỏi quan trọng bởi đâu do bởi thái độ “quen quá hóa nhàm” của họ.
Mời Bạn: Thái độ “Gần chùa gọi bụt bằng anh,” cũng có thể là tâm trạng của bạn hiện nay. Gần gũi, thường xuyên tiếp xúc với Chúa, các bí tích, nhất là Thánh Thể, khiến bạn mất đi cảm nhận về sự thánh thiêng, cao trọng của Thiên Chúa và các bí tích. Bạn sẽ làm gì để sự gần gũi, thân thiết với Chúa và các bí tích, nghi lễ giúp bạn thêm gắn bó, thay vì coi thường?
Sống Lời Chúa: Xem lại thái độ của tôi mỗi lần tham dự thánh lễ, các nghi thức… và luôn trân trọng, thành kính, sốt sắng mỗi khi tham dự.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa chấp nhận thân thiết, gần gũi với chúng con, dù biết rằng chúng con có thể vì sự quen thuộc ấy mà chưa có những tâm tình xứng hợp. Xin giúp chúng con ý thức sự cao cả, thánh thiêng của Chúa. Nhờ đó, chúng con có những tâm tình thờ phượng xứng hợp.
***
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Chúng con cảm tạ Chúa vẫn hiện diện trong cuộc đời chúng con. Qua bí tích Thánh Thể, chúng con được gặp gỡ Chúa mỗi ngày. Xin gia tăng lòng tin cậy mến để chúng con luôn cảm nghiệm tình thương Chúa vẫn bao phủ trên cuộc đời chúng con. Xin giúp chúng con luôn nhận ra sự hiện diện đầy quan phòng của Chúa vẫn dành cho chúng con.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, năm xưa dân làng Nagiaret đã không tin vào Chúa vì Chúa xuất thân từ người thợ nghèo làng Nagiaret. Các môn đệ đã mất lòng tin Chúa khi tay Chúa chịu treo trên thập tự giá. Và hôm nay, đôi khi chúng con vẫn chưa có niềm tin đủ để tin rằng Chúa đang hiện diện trong tấm bánh đơn sơ nhỏ bé. Chúng con đến nhà thờ nhưng vẫn lo ra chia trí, đôi khi còn có hành vi, cử chỉ xúc phạm đến Chúa như nói chuyện, nô giỡn. Xin tha thứ cho chúng con. Xin thêm đức tin để chúng con nhận ra Chúa đang hiện diện trong Thánh Thể mà biết tôn kính phụng thờ. Xin giúp chúng con cũng nhận ra Chúa trong tha nhân, trong bạn bè để chúng con luôn đối xử với nhau trong yêu thương và tôn trọng.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một đức tin sắt son và một lòng mến nồng nàn để chúng con luôn phụng sự Chúa qua việc chu toàn bổn phận hằng ngày, nhất là biết phục vụ Chúa trong những người anh em hèn mọn chung quanh. Amen.
 
Suy Niệm 4: Tâm Thức Thời Ðại

Dư luận trong giới trí thức Âu Mỹ hiện nay đang nhắc nhiều đến cuốn sách bàn về tương lai nhân loại với tựa đề: "Ngỡ Ngàng Trước Tương Lai", trong đó tác giả nói về những thay đổi nhanh chóng hiện nay trên đời sống con người khiến ông cảm thấy ngỡ ngàng. Theo tác giả thì tâm lý thường tình của con người thích những khuôn sẵn có cho cuộc sống của mình nhờ đó con người dễ ổn định và dự liệu cho những gì xảy ra. Tắt một lời, dù có khuynh hướng sống thay đổi nhưng tận thâm tâm,con người sống và suy tưởng theo những khung sẵn có, và tệ hại hơn theo điều mà chúng ta gọi là thành kiến.
Tâm thức trên đây giúp chúng ta hiểu phần nào biến cố được trình thuật trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu trở về giảng dạy tại quê hương của Ngài là Nazareth, nhưng dân chúng tại đây không tin nhận Chúa, bởi vì họ suy tưởng và hành động theo thói quen, theo thành kiến. Họ đã quen với Chúa Giêsu như là con bác thợ mộc Giuse sống giữa họ từ bao năm nay, do đó giờ đây phải nhìn Chúa và đón nhận giáo huấn của Ngài với một tâm thức mới thì họ bị vấp phạm. Quả thật, như lời cụ già Simêon đã nói trong biến cố dâng Chúa vào Ðền thánh: Chúa Giêsu luôn luôn là dấu gợi lên chống đối; trực diện với Ngài, con người phải chọn lựa hoặc tin nhận, hoặc chối từ.
Chúng ta hãy xét lại xem đức tin của chúng ta hiện nay đối với Chúa Giêsu có còn sống động hay đã trở thành một thói quen khô khan, nguội lạnh, chỉ vì quá quen thuộc như dân làng Nazareth ngày xưa? Phải chăng cuộc sống của chúng ta đã trở thành mù quáng hoặc nô lệ cho những thành kiến đến độ không còn tin nhận Chúa và không còn bén nhạy trước tác động của ơn Chúa?
Xin Chúa tha thứ cho thái độ lạnh nhạt của chúng ta. Xin ban Thánh Thần để chúng ta nhìn thấy những dấu chỉ Chúa thực hiện trong đời sống và trong những biến cố hằng ngày để chúng ta luôn tin nhận Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
 
Suy Niệm 5: Nghĩa Vụ Ngôn Sứ (Mt 13,54-58)

Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đào sâu về sứ vụ ngôn sứ của Chúa Giêsu mà các tín hữu Kitô đều tham dự vào. Sau một thời gian rao giảng làm phép lạ, Chúa Giêsu đã được nhiều người biết đến. Tuy nhiên, khi trở về làng cũ, những người quen biết với Ngài lại chỉ dành cho Ngài một sự tiếp đón lạnh nhạt. Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng là ở chính quê hương mình và gia đình mình. Ðây là lần đầu tiên áp dụng cho mình tước hiệu ngôn sứ; vị ngôn sứ mà Ngài tự đồng hóa là một ngôn sứ bị ngược đãi.
Ý niệm về ngược đãi và ngay cả bị bách hại được Chúa Giêsu nhiều lần nhắc tới trong những cuộc tranh luận với nhóm biệt phái. Nêu bật tư cách bị ngược đãi và bách hại ấy, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ rằng Ngài vẫn tiếp tục truyền thống ngôn sứ trong Cựu Ước. Ðược Thiên Chúa sai đến để thay cho Ngài nói lên sự thật, các ngôn sứ trong Cựu Ước không chỉ nói bằng lời nói mà còn bằng cả cuộc sống của mình. Ðộc đáo nhất hẳn phải là cung cách của một Giêrêmia. Không biết phải dùng lời lẽ nào để tố cáo sự bất trung và phản bội của cả một dân tộc, ông đã đeo một cái gông vào cổ và đi giữa phố chợ. Với cử chỉ ấy, vị ngôn sứ này muốn nói với mọi người rằng chính vì đã xé bỏ giao ước với Thiên Chúa mà họ phải bị xiềng xích trong gông cùm của ngoại bang.
Riêng tiên tri Hôsê thì lại triệt để hơn trong sứ mệnh của mình khi ông đi cưới một cô gái điếm về làm vợ. Với hành động này ông cũng muốn nói với dân Do Thái rằng họ đã bất trung với Thiên Chúa. Không thể chọn lựa thái độ thinh lặng, thỏa hiệp hay sợ hãi, ông đã lên tiếng tố cáo bất công, tội ác hay bạo quyền và hành động của ông đã gây nên phẫn nộ trong dân.
Chính vì thế và cũng như các ngôn sứ trong Cựu Ước; cũng như thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, và nhất là cũng như chính Chúa Giêsu, tất cả những ai dám lên tiếng nói lên sự thật cũng đều được liên kết chung với nhau trong cùng một số phận là bị khinh rẻ, ngược đãi, oán ghét, sỉ vả và khai trừ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
 
Suy Niệm 6: VẪN CHỈ CÓ TỪ CHỐI.

Người về quê, giảng dạy dân chúng trong hội đường của họ, khiến họ sửng sốt và nói: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được nhiều phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Gio-xép, Simon và Giu-đa sao?” (Mt. 13, 54-55)
Người ta không còn cảm thấy giật mình khi nghe tư tưởng này: “Giả như hôm nay Chúa Giêsu trở lại với chúng ta…”
Tôi nghĩ rằng, nếu hôm nay Chúa Giêsu trở lại, thì Người cũng sẽ chẳng có được may mắn hơn với những người đồng hương của Người đâu.
Chẳng có được may mắn đâu.
Giả như hôm nay Người trở lại làm người Do-thái? Liệu Người có được những đồng bào của mình ở Giê-ru-sa-lem hay ở Tel-Aviv lắng nghe không? Liệu Người có được các thành viên Liên Hiệp Quốc hay các nghị viện trong các thượng hạ viện của chúng ta lắng nghe không?
Liệu Người có phải dành một chỗ ở sân thế vận hội để công bố sứ điệp của Người không. Còn chúng ta, những người có đức tin, những người tin vào Chúa Giêsu liệu chúng ta có chấp nhận để cho Người thôi thúc ta, chấp nhận sống triệt để sứ điệp của Người chăng?
Chúa có cần đến một bộ máy tuyên truyền để thu hút quần chúng? Có lẽ Người phải làm những phép lạ hoàn toàn “giật gân” như có người nói. Rồi sau màn “trình diễn” và những phép lạ, người ta có nghe Chúa không?
Bởi vì có lẽ Chúa sẽ nói cho ta hay, dù rằng chúng ta chọn sống chế độ nào: tư bản, dân chủ, độc tài, quân phiệt, thì Người cũng sẽ nói: “Lệnh truyền của tôi là anh em hãy yêu thương nhau” Dù anh em là người Phật Giáo, Tin Lành, Hồi Giáo, Công Giáo “Anh em hãy yêu thương nhau”
Dù anh em là công nhân của một nghiệp đoàn nào đó, hay dù là ông chủ của xí nghiệp “Anh em hãy yêu thương nhau.” Rồi có lẽ Người sẽ nhắc nhở ta nhớ đến Mười Điều Răn y như Người đã dạy ta vậy.
Giả như Người trở lại.
Người có trở lại không? có lẽ người ta sẽ gọi vấn đề này là một Xì-căng-đan! Ngay trong chúng ta, có nhiều người không tin điều này, họ muốn chúng ta sống trung thực.
Đức Kitô đã chết và đã sống lại, Người đã gửi Thần Khí Người đến với ta để nhắc nhở ta tình yêu Cha Người dành cho ta! Như vậy mà còn không đủ thúc đẩy ta sống yêu thương, thì giả như Chúa Kitô có trở lại, Người cũng chẳng hoán cải nổi chúng ta đâu.


Thánh Anphongsô và lòng yêu mến Chúa Giêsu (chuacuuthe.com)

 

Nói về cuộc đời của thánh Anphonso là nói về cuộc đời của một con người ngoại hạng, một người vĩ đại của thế kỷ Ánh sáng với những tác phẩm để đời mà ảnh hưởng còn kéo dài cho đến hôm nay như bộ Thần Học Luân Lý, Vinh Quang Mẹ Maria, Nữ Tu Thánh Thiện, Chân Lý Đời Đời…một cuộc đời hoạt động không mỏi mệt vì các linh hồn, một trái tim đầy lòng thương xót đối với những con người bị bỏ rơi bên lề cuộc sống tâm linh, một đời sống bôn ba xuôi ngược để xây dựng một hội dòng lo đến phần rỗi linh hồn của những người nghèo khổ để rồi cuối cùng lại là người chết bên ngoài hội dòng, một người dám thề hứa với Chúa không bỏ phí một phút nào trong đời mình, một vị thánh của cầu nguyện với câu nói thời danh “ai cầu nguyện chắc chắn sẽ được cứu rỗi, ai không cầu nguyện sẽ phải hư mất”… Làm thế nào mà Anphongsô  có thể làm được tất cả những điều cao cả ấy ? Đó là vì lòng yêu mến Chuá Giêsu, vì khi yêu người ta có thể làm được tất cả. 

NHỜ ĐÂU ANPHONGSÔ CÓ LÒNG YÊU MẾN CHÚA GIÊ SU 

Trong tác phẩm được rất nhiều người biết đến “ Vinh quang Mẹ Maria” ngài đã viết trong lời tựa: Mẹ biết rồi đó, sau Chúa Giêsu thì mẹ là người con đặt tất cả niềm cậy trông sẽ được phần rỗi đời đời. Như vậy có nghĩa là lòng yêu mến Chúa Giêsu được đặt ở vị trí hàng đầu trong lòng mến của ngài. Yêu mến Chúa Giêsu là điều ngài luôn bận tâm trong suốt cuộc đời để rồi ngài đã có thể nói lên xác quyết cách mạnh mẽ : tất cả những sự trọn lành của chúng ta chỉ hệ tại ở việc yêu mến Chúa với trót cả tâm hồn (Thực hành Yêu Mến Chúa Giêsu). Có nhiều người đã tưởng rằng sự trọn lành hệ tại việc sống khổ hạnh, việc đọc nhiều kinh, việc siêng năng lãnh các bí tích, việc làm phúc bố thí… song họ đã lầm. Thánh Anphongsô đã quả quyết như thế. Có lẽ đây là kinh nghiệm của chính ngài. Thời trẻ ngài đã hi sinh, hãm mình phạt xác cách nhặt nhiệm, có cả việc đánh tội rất dữ dội nhưng rồi ngài đã khám phá ra điều cốt yếu lại chính là là lòng yêu mến Chúa Giêsu chứ không phải viêc làm nào khác.

Nhưng làm cách nào để có được lòng yêu mến Chúa Giêsu? Đó là một câu hỏi mà biết bao nhiêu linh mục, tu sĩ, giáo dân đạo đức đã tìm kiếm. Đó là điều họ mong muốn, họ khát khao và họ đã tìm kiếm nhưng xem chừng như họ chưa tìm ra lời giải đáp. Thánh Anphongsô đã trả lời thế nào về ưu tư khẩn thiết này? Một quyển sách được ngài viết với tựa đề “Thực hành Yêu Mến Chúa Giêsu”, một quyển sách tuyệt vời cô đọng những kinh nghiệm sống lòng yêu mến Chúa Giêsu của ngài, một quyển sách cho ta cảm thấy bừng lên ngọn lửa sốt mến đã thiêu đốt lòng ngài, một quyển sách tóm kết những điều cốt yếu của lòng yêu mến Chúa Giêsu. Trong đó, Ngài nhắc cho chúng ta biết rằng không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước mà Thiên Chúa đã yêu mến chúng ta và đã đặt vào trong tâm hồn ta khả năng yêu mến để đáp trả lòng yêu thương của Chúa như thánh nữ Agnes đã trả lời người cầu hôn “ có một người yêu tuyệt vời đã yêu tôi trước”.

11Ngay nơi tựa đề của chương đầu quyển Thực hành Yêu Mến Chúa Giêsuta lại thấy câu này “Nếu ai không yêu mến Chúa Giêsu thì là kẻ bị chúc dữ” (1Cr 16,22). Chẳng lẽ lòng yêu mến lại phát xuất từ một lời đe dọa, một lời nguyền rủa? Chắc chắn là không phải là như vậy! Tựa đề này chỉ muốn diễn tả điều này: Không thể nào mà không yêu mến Chúa Giêsu được! Tại sao vậy? Vì Chúa đã làm mọi cách để ta yêu mến ngài. Khi yêu, người ta tìm mọi cách để người mình yêu biết mình đang yêu thương họ. Và họ sẽ phải làm cho mình cảm được cách thấm thía tình yêu của họ. Ngày nào mà tâm hồn ta rung động trước tình thương sâu thẳm thì ta biết phải làm gì rồi. Chỉ còn một con đường là đáp trả lại tình thương ấy bằng một tình yêu say đắm, một tình yêu đến điên dại, đến hi sinh tất cả, không đắn đo, hối tiếc để được làm đẹp lòng người mình yêu.

Câu chuyện cổ tích Việt Nam “Trương Chi Mỵ Nương” đã minh họa cho điều này cách rất sâu sắc.

Trương Chi là một người đánh cá trên sông và chàng có tài thổi sáo. Tiếng sáo du dương, réo rắt đến nỗi công chúa Mỵ Nương say mê tiếng sáo tuyệt vời. Rồi khi Trương Chi đi sang nơi khác đánh cá thì Mỵ Nương nhớ tiếng sáo ấy đến ốm tương tư. Vua cha đã cho tìm chàng trai về cho công chúa gặp. Nhìn thấy Trương Chi, Mỵ Nương đã khỏi bệnh nhưng lại thất vọng vô cùng vì chàng có khuôn mặt quá xấu xí. Nhưng từ đó, Trương Chi lại bắt đầu tương tư công chúa Mỵ Nương. Và mối tình tuyệt vọng ấy đã khiến chàng trai sầu héo đến ngã bệnh rồi chết. Xác Trương Chi được chôn dưới một gốc cây. Vào một đêm mưa gió, sét đánh bật gốc cây, người ta thấy thân xác của Trương Chi đã tan thành đất bụi nhưng trái tim lại hóa thạch, đẹp như ngọc. Quả tim ngọc được đưa về cho thợ làm thành chén uống trà. Mỗi lần rót trà vào chén lại nghe vẳng vẳng tiếng sáo tương tư, u uất, réo rắt và còn thấy thấp thoáng trong nước trà hình một chiếc thuyền với người thổi sáo. Người ta dâng chén ngọc quí này cho vua. Vua rất quí chén ngọc này. Một hôm công chúa Mỵ Nương được vua cho dùng chén ngọc để uống trà. Khi nghe tiếng sáo công chúa đã nhận ra đó là tiếng sáo của chàng Trương Chi ngày nào, và tiếng sáo ấy nghe rất não lòng, da diết và thắm thiết đến nỗi công chúa cảm thấy bị đánh động cách mãnh liệt, xúc động đến rơi lệ. Khi giọt nước mắt công chúa rớt xuống trong chén ngọc thì chén vỡ ra và tan chảy như nước. Mối tình của Trương Chi nay đã chạm được lòng của công chúa và chàng đã thỏa lòng nguyện ước.

Câu chuyện muốn kể rằng tình yêu chưa được đáp lại dù chết cũng vẫn chưa được nguôi ngoai, vẫn cứ kết tinh lại, vẫn cứ mãi hóa đá cho một ngày nào đó tình yêu ấy chạm được trái tim người mình yêu. Khi trái tim ấy rung cảm được trước tình yêu thì tình yêu được thỏa nguyện.

Vì thế mà ca dao đã có câu thơ:

Nợ tình chưa trả cho ai

Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan

Và nếu tình yêu ấy là tình yêu của một Thiên Chúa thì chắc chắn ngài có thể làm nhiều cách, sẽ làm tất cả mọi sự cho ta hiểu được Ngài yêu ta. Thiên Chuá tỏ bày tình yêu ấy như thế nào cho thánh Anphongsô? 

ANPHONGSÔ ĐÃ NHẬN RA TÌNH YÊU CỦA CHÚA 

Sau vụ kiên của nhà Orsini thất bại, Anphongsô không còn tha thiết gì với tòa án nữa. Ngài dành thời gian nhiều cho cầu nguyện, viếng Chúa, đọc sách thánh, thường xuyên lui tới nhà thờ, vào bệnh viện thăm viếng bệnh nhân nhất là những bệnh nhân nan y. Một lần kia, trên đường về nhà sau cuộc thăm viếng ngài đã nghe một tiếng nói: Hãy để thế gian lại đó và hiến mình cho Ta. Tiếng nói vang lên hai lần thật rõ ràng như một ánh sáng tỏa rạng trên mọi diễn biến đã qua của cuộc đời Anphongsô. Như Phaolô ngã ngựa trên đường Damas, Anphongsô  chợt bừng tỉnh cơn mê để nhận ra rằng :

Lạy Chúa, con đã chống lại ơn Chúa- Anphongsô vừa nói vừa khóc- Này con đây, xin Chúa cứ làm nơi con điều gì Chúa muốn.

Kể từ giờ đó, Anphongsô đã là  một  con người khác. Tình yêu Thiên Chúa đã chạm được vào cuộc đời, vào trái tim của Anphongsô để từ nay Anphongsô sẽ sống cho một tình yêu, tình yêu ấy đã tìm mọi cách và đã làm cho Anphongsô hiểu được. Ngay lập tức Anphongsô đã chạy đến với Đức Mẹ Chuộc Kẻ Làm Tôi và thưa rằng:

Vĩnh biệt thế gian và của cải phù vân. Lạy Chúa, đời con nay thuộc về Chúa! Con xin dâng chức tước của cải làm của lễ toàn thiêu cho Thiên Chúa con và Mẹ Maria.

THÁNH ANPHONGSÔ  ĐÁP LẠI TÌNH YÊU CHÚA 

Kể từ ngày đó Anphongsô quyết định đi tu, xin làm linh mục vì ngài xác tín rằng Thiên Chúa đã muốn mình ra khỏi thế gian để phục vụ Giáo Hội, dù cha ngài không muốn thế. Ngài đã nói với Viện Phụ Giambattista Miro: Con có bổn phận đáp lại tiếng Chúa chứ không phải ý muốn của bố con.

Ngài vào chủng viện (1723), nhập hàng giáo sĩ, chịu chức linh mục 4 năm sau (1727). Anphongsô là một linh mục nhiệt thành, sốt sắng, lo lắng đến phần rỗi các linh hồn qua các cuộc Đại phúc, ngoài ra ngài còn có sáng kiến đặc biệt về “Nguyện Đường buổi tối” ( Capelle Serotine) để săn sóc mục vụ, dậy dỗ, giải tội cho những người nghèo hèn, mạt hạng, cùng đinh (lazzaroni). Ngài dậy cho họ cầu nguyện, bác ái cả tông đồ nữa, đến nỗi ĐHY Pignatelli phải thốt lên: Giáo dân mà làm được việc như vậy sao? Thế là Đức Tổng Giám Mục cho mở toang các nhà thờ trong Giáo Phận để cho giáo dân được tự do thờ phượng mọi lúc.

Lòng yêu mến Chúa đã làm cho Anphongsô tận tâm tận lực đến độ kiệt sức phải đi dưỡng bệnh ở Scala. Nhưng rồi cuộc nghỉ dưỡng ấy lại trở thành cuộc giảng dậy cho những người chăn chiên, chăn dê đang bị bỏ rơi về đàng thiêng liêng. Kỳ nghỉ hè thành kỳ đại phúc với nhiều kết quả.

Cũng tình yêu mến Chúa Giêsu đã thúc đẩy Anphongsô lập Dòng Chúa Cứu Thế chuyên lo việc loan báo Tin Mừng cho những người nghèo, người bị bỏ rơi hơn cả.

Anphongsô đã đáp lại tình yêu Chúa bằng một tình yêu trao hiến được biểu tỏ trong mọi hành vi của cuộc đời, là hiến thân hoàn toàn cho Chúa để phục vụ các linh hồn, dành thời gian cho việc rao giảng tin Mừng, viết sách vở giúp các linh mục và hàng giáo sĩ, tu sĩ và bề trên, giáo dân nhất là tầng lớp những con người bình dân, nghèo khổ, ít học thiếu thốn sự hướng dẫn thiêng liêng. Ngài đã cảm và đã hiểu được tác động và ý nghĩa của lòng yêu mến và đã đáp trả bằng cách hiến trọn cho tình yêu, nhất là lòng yêu mến Chúa Giêsu. 

Vì thế Thánh Anphongsô trong quyển “Thực hành Yêu Mến Chúa Giêsu”, từ kinh nghiệm bản thân cũng như nhờ kinh nghiệm của các thánh, ngài chỉ cho thấy Thiên Chúa đã bằng nhiều cách cho ta hiểu Ngài yêu thương ta thế nào. Ngoài việc tỏ bày bằng công trình tạo dựng, Thiên Chúa còn cho ta thấy tình yêu của Ngài qua công cuộc cứu độ nơi Chúa Giêsu.

Thiên Chúa chưa lấy làm đủ khi ban cho chúng ta những loài thụ tạo muôn phần tốt đẹp. Để chiếm trọn tình yêu của chúng ta, ngài còn muốn tự trao ban chính Ngài cho chúng ta, không giữ lại bất cứ thứ gì. Cha hằng hữu đã ban cho chúng ta người con duy nhất của Ngài. Chính chúa Giêsu đã nói “Thiên Chúa  đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban chính con một Ngài” (Ga 3,16). “Thiên Chúa giàu lòng thương xót đã rất mực yêu mến chúng ta” (Ep 2,4) nên đã sai Con chí ái của Người đến trần gian đổ máu để cứu chuộc ta. Chúa Giêsu đã tỏ tình yêu mến con người bằng cách tự hiến thân cho ta “Người đã yêu thương tôi và đã phó nôp mình vì tôi” ( Gl 2,20). Vâng, Đức Giêsu đã yêu mến chúng ta, và vì chính tình yêu ấy mà Ngài đã phó nộp mình chịu đau khổ, nhục nhã và chịu chết bằng một cái chết thê lương mà không kẻ nào trong con cái loài người phải chịu.

Lòng mến được đánh động không phải vì những đau khổ Chúa Giêsu đã chịu mà vì chính lòng mến mà Chúa Cứu Thế đã  thi thố ra khi chịu đau khổ vì ta. Nhắc lại lời thánh Phanxicô Salêsiô thánh Anphongsô viết :“Biết rằng Đức Kitô đã yêu mến chúng ta đến độ chết vì ta, và là cái chết thập giá, há điều đó lại chẳng thúc bách ta yêu mến Người sao? Tình yêu Đức Kitô vừa thúc bách ta một cách hết sức mạnh mẽ, lại vừa vô cùng ngọt ngào

Chính trong cuộc khổ nạn diễm phúc mà ta hiểu và cảm được lòng mến sâu thẳm của tình yêu Chúa Giêsu muốn dành cho ta. Để rồi những ai cảm nhận được tình yêu ấy sẽ phải thốt lên như thánh Phanxicô Salêsiô :Xin hãy đốt lên trong tâm hồn con ngọn lửa tình yêu của Ngài. Hoặc là yêu, hoặc là chết! Chết đối với mọi thứ tình yêu khác, để chỉ sống cho một mình Chúa Giêsu mà thôi.

Thánh Gioan Avila lại viết : Trong thế giới loài người, cách thế lớn lao nhất để biểu lộ tình yêu là chết cho người mình yêu mến, song cách thế tuyệt đỉnh ấy vẫn không đủ để cho Chúa Giêsu Kitô diễn tả cho hết tình yêu ngài dành cho ta.

Chúa Giêsu đáng chúng ta yêu mến vì tình yêu Ngài dành cho chúng ta khi lập bí tích Thánh Thể. (x.Chương II “Yêu Mến Chúa Giêsu”)

Khi trao hiến chính mình trong cuộc nhập thể, cuộc thương khó và cái chết đau thương Người chưa lấy thế làm đủ. Người thấy như còn quá ít. Vì vậy Người muốn tìm một phương thế để có thể trao ban chính Người cho mỗi người chúng ta, đặt chính Người vào tay mỗi người chúng ta. Người lập bí tích Thánh Thể để hoàn toàn kết hiệp với từng người tín hữu và mỗi người được kết hiệp với Ngài. 

 Ngài còn tác động trên các tâm hồn thánh thiện để họ cảm thấy hạnh phúc tột độ khi được chiêm ngưỡng tình yêu tuyệt vời ấy. Với biết bao những việc cao cả ấy cũng như bao điều lớn lao khác chúng ta sẽ phải tự hỏi. Làm sao để đáp trả được tình yêu vô cùng lớn lao của Chúa Giêsu đây? 12

CÁCH TỎ LÒNG LÒNG MẾN CHÚA GIÊSU

Sách “yêu mến Chúa Giêsu” đã tổng hợp những hướng dẫn giúp ta tỏ lòng yêu mến Chúa Giêsu.

“ Tình yêu đối với Chúa Giêsu, đó là cùng đích của tất cả nỗ lực của chúng ta.”

 Vậy theo các bậc thầy về đời sống thiêng liêng thì tình mến đích thật có những tính chất sau:

Yêu thì sợ làm mất lòng Chúa.

Yêu thì phó thác cho Chúa nhắm làm vinh danh Chúa.

Yêu thì mạnh mẽ chống lại mọi cám dỗ và ưu phiền.

Yêu thì vâng phục không tránh né tiếng nói của Thiên Chúa.

Yêu thì thuần khiết chỉ dành cho mình Chúa trên hết mọi sự.

Yêu thì nồng cháy như được thiêu đốt cả trí lòng.

Yêu thì hăng hái, say sưa như điên dại quên hết mọi sự thế gian.

Yêu thì duy nhất muốn nên một trí lòng với Chúa.

Yêu thì thiết tha muốn vươn lên kết hợp hoàn toàn trong thực tại huyền nhiệm để được yêu hết sức mình.

Còn việc thực thi tình mến, tỏ bày lòng mến thánh Anphongsô giải thích và triển khai thư của thánh Phaolô gửi giáo đoàn Corintô chương 13 cách cụ thể và thực tiễn:

Lòng mến thì nhẫn nại: Người yêu mến Chúa Giêsu luôn sẵn sàng đón nhận các đau khổ.

Điều này ta cũng thấy được trong những biến cố ngài đã trải qua. Khi từ giã người cha yêu dấu đi lập Dòng Chúa Cứu Thế ngài đã phải chịu những đau khổ đến nỗi đã phải thốt lên: “Tôi chỉ muốn bỏ cuộc để khỏi làm đau lòng cha mình.” Khi bắt đầu lập Dòng ngài đã cảm thấy quá cô đơn lúc mà những người cộng sự dần dần rút lui đến nỗi ngài phải khấn sẽ không bỏ dòng dù chỉ còn lại một mình. Khi dòng bị Tòa Thánh quyết định chia cắt vì luật dòng bị sửa chữa ở Napoli khiến ngài phải vô cùng đau đớn. Ngài đã nhẫn nại chịu đựng những gian khó vì lòng yêu mến Chúa Giêsu.

Lòng mến thì hiền hậu: Một linh hồn yêu mến Chúa Giêsu thì dịu dàng hiền hậu, yêu mến tất cả mọi người, giúp đỡ những người nghèo khổ, nâng đỡ những ai hèn yếu, hiền hậu với cả kẻ thù, thương xót các tôi nhân. Từ một con người nóng nảy  ngài đã trở nên hiền hòa, đầy nhân ái. Chính lòng yêu mến hiền hậu mà ngài đã chủ trương thuyết đồng hữu lý (equiprobabilisme) trong thần học luân lý. Thuyết này chủ trương khi có những lý lẽ cân bằng giữa tội trọng và không phải là tội trọng thì không được coi là trọng nếu không có lý mạnh mẽ hơn. Điều này đã giúp cho biết bao linh hồn không còn áy náy, mặc cảm, lo lắng sợ sệt vì đã mắc tội trọng dù lương tâm vẫn còn phân vân chưa chắc chắn. Nguyên tắc luân lý này cũng đã giải tỏa cho thánh Gioan Vianey để ngài giải tội cho rất nhiều linh hồn mà trước đây ngài đã phải từ chối.

Lòng mến không vênh vang, tự đắc: người yêu mến Chúa Giêsu không ao ước sự gì khác ngoài Chúa Giêsu. Người yêu mến không còn ham danh lợi, địa vị để khỏi mất sự khiêm nhường và đặt mình vào tình trạng rơi xuống vực thẳm. Ngài cũng cấm các tu sĩ DCCT không được nhận những chức tước, bổng lộc cả trong Hội Thánh nữa.

Lòng mến tin tưởng tất cả, hi vọng tất cả, chịu đựng tất cả: người yêu mến Chúa Giêsu tin tưởng mọi lời Người đã nói, luôn hết lòng trông cậy vào Chúa, người yêu mến Chúa Giêsu chịu đựng mọi sự vì Chúa Kitô, nhất là bệnh tật, nghèo khó và bị khinh thường. Đó là những nghịch cảnh mà với con mắt thế gian coi như bất hạnh thì thánh Anphongsô coi như là cơ hội chuẩn bị gặp Chúa, ăn năn đền bù tội lỗi, lấy Chúa làm hạnh phúc cho đời mình. Phải coi mọi gian truân đến từ bàn tay nhân lành của Chúa hầu sinh ích cho những ai yêu mến nên ta lãnh nhận trong an vui.

Tóm lại, người yêu mến Chúa Giêsu Kitô cách say mến thiết tha thì không ngừng yêu mến Người ngay giữa các cơn cám dỗ và thử thách.

Thánh Anphongsô đã diễn tả lòng yêu mến Chúa Giêsu của mình bằng việc làm phi thường nhưng ngài vẫn ý thức như thánh Phaolô rằng: Lòng mến của Đức Kitô thúc bách chúng tôi (x.2Cr 5,14). Ngài đã đón nhận lòng mến của Chúa Giêsu và đã làm cho lòng yêu mến ấy sinh hoa, kết trái cách phong phú trong đời mình và cho nhiều thế hệ mai sau mãi đến hôm nay. 

Phần chúng ta chúng ta có thể làm gì để yêu mến Chúa Giêsu ?

Bí quyết mà thánh Anphongsô đã trình bày trong sách “Yêu mến Chúa Giêsu” sẽ giúp chúng ta chuẩn bị đón nhận tình yêu đến từ Thiên Chúa.

Để đạt được một tình yêu hoàn hảo đối với Chúa Giêsu cần phải có các phương thế:

  1. Hãy nhớ đến những ơn huệ, những điều tốt lành Chúa ban để nhận ra cách cụ thể lòng thương Chúa dành cho mình, mời gọi mình yêu mến Chúa.
  2. Tránh mọi điều làm phiền lòng Chúa ngay cả trong những việc nhỏ.
  3. Từ bỏ những quyến luyến thế gian, những thú vui bất chính để sẵn sàng cho Chúa tỏ tình thương và dễ dàng nhận ra lòng yêu mến của Ngài.
  4. Năng suy gẫm mầu nhiệm thương khó của Chúa Giêsu để cảm được lòng thương vô biên của Người.
  5. Năng viếng Thánh Thể để được kết hợp với Chúa Giêsu.
  6. Đọc những lời nguyện tắt để năng nhớ đến Chúa.

 

Nhìn vào lòng yêu mến Chúa Giêsu của thánh Anphongsô, chúng ta hiểu được sự kỳ diệu của tình yêu khiến cho ngài trở nên một vị thánh vĩ đại với lòng yêu mến các linh hồn cách mãnh liệt, làm nhiều việc cao cả sinh ích cho Giáo hội, giúp chúng ta có được những hướng dẫn thiêng liêng thật quí giá để tiến tới trên con đường yêu mến Chúa Giêsu .

Chúng ta cùng cầu nguyện với thánh Anphongsô trong những lời này:

Lạy Chúa Giêsu là niếm cậy trông của con, là tình yêu ngọt ngào duy nhất của hồn con! Con thật chẳng xứng đáng được Chúa an ủi. Xin Chúa dành ơn ấy cho những người vô tội vốn hằng yêu mến Ngài. Phần con là kẻ tội lỗi. Con chẳng đáng được như vậy. Con chẳng dám xin ơn ấy. trọn cả ước muốn của con là: xin Chúa hãy làm cho con yêu mến Chúa, xin Chúa hãy làm cho con biết thực thi thánh ý Chúa trong mọi cảnh huốn cuộc đời con, và hãy thực hiện nơi con điều đẹp lòng Chúa. Amen.  

  


Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận