Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng CN XXVIII – năm A

Đăng lúc: Thứ năm - 09/10/2014 14:46 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng

Chúa Nhật XXVIII thường niên – năm A


Lời Chúa: 
Is 25, 6-10a; Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6; Pl 4, 12-14. 19-20; Mt 22, 1-14

****************

MỤC LỤC
1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: Dụ ngôn tiệc cưới hoàng gia
2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
3. Chú giải và gợi ý suy niệm của Noel Quession
4. Cần có y phục xứng hợp (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
5. Y phục xứng kỳ đức (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
6. Hãy mặc áo cưới (JM. Lam Thy ĐVD.)
7. Cửa Nước Trời luôn mở, nhưng y phục phải xứng hợp (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
8. Mặc lấy Chúa Ki-tô (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
9. Mặc áo cưới (ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
10. “Những kẻ được mời không xứng đáng” (Lm Gioan B. Phan Kế Sự)
11. Suy niệm của Lm. Anthony Đinh Minh Tiên
12. Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng
13. Nếu cuộc sống thiếu tình yêu? (Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
14. Tiệc cưới, áo cưới (Radio Veritas Asia)
15. Tiệc cưới
16. Áo cưới

 

ThuongNien28A

A. BẢN VĂN

Bài đọc I (Is 25, 6-10a)

Ngày ấy, Chúa các đạo binh sẽ thết tất cả các dân trên núi này một bữa tiệc đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon. Trên núi này, Người sẽ cất khăn tang bao trùm muôn dân và tấm khăn liệm trải trên mọi nước. Người tiêu diệt sự chết đến muôn đời. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt, và cất bỏ khỏi toàn mặt đất sự tủi hổ của dân Người, vì Người đã phán. Ngày đó, người ta sẽ nói: Này đây Chúa chúng ta. Đây là Chúa, nơi Người, chúng ta đã tin tưởng, chúng ta hãy hân hoan và vui mừng vì ơn Người cứu độ, vì Chúa sẽ đặt tay của Người trên núi này.

Bài đọc II (Pl 4, 12-14. 19-20)

Anh em thân mến, tôi biết chịu thiếu thốn và biết hưởng sung túc. Trong mọi trường hợp và hết mọi cách, tôi đã học cho biết no, biết đói, biết dư dật và thiếu thốn. Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi. Nhưng anh em đã hành động chí lý khi san sẻ nỗi quẫn bách của tôi. Xin Thiên Chúa cung cấp dư dật những nhu cầu của anh em, theo sự phú túc vinh sang của Người trong Đức Giêsu Kitô. Vinh danh Thiên Chúa là Cha chúng ta muôn đời. Amen!

Tin Mừng (Mt 22, 1-14)

Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những dụ ngôn này rằng: “Nước trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: “Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới”. Những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán; những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố của chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: “Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới”. Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc. Đoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: “Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?” Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: “Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng! Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít”.

[Mục Lục]

 

khoangcah

B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI VÀ SUY NIỆM

Bài 1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: DỤ NGÔN TIỆC CƯỚI HOÀNG GIA

1. Ngữ cảnh

Cả ba dụ ngôn nối tiếp nhau – Hai người con (21,28-32), Những người thợ vườn nho(21,33-46) và Tiệc cưới hoàng gia (22,1-14) – đều được gửi đến cho các thượng tế và các kỳ mục của Dân (x. 21,23) và đều mang mộtsứ điệp rất giống nhau. Bằng các dụ ngôn này, với mộtlời khuyến cáo lặp đi lặp lại, nghiêm túc, mạnh mẽ, Đức Giêsu muốn làm cho họ mở mắt ra để hiểu tương quan của họ với Thiên Chúa. Các thượng tế và các kỳ mục không được chạy theo ảo tưởng nào, nhưng phải thấy rõ tương quan đó trước khi quá muộn và phải điều chỉnh bản thân cho kịp thời.

Thật ra các dụ ngôn và các lời khuyến cáo không phải chỉ được dành cho giới lãnh đạo Do Thái giáo, nhưng cũng được gửi đến cho thính giả mọi thời. Thiên Chúa không ép buộc; Ngài ngỏ với chúng ta và chờ đợi chúng ta tự do quyết định. Các người con được mời đi làm việc trong vườn nho của cha; những người thợ vườn nho được nhắc nhở giao nộp hoa lợi thuộc về ông chủ; những khách được mời được kêu gọi đến dự tiệc cưới. Không mộtai bị bó buộc phải xử sự theo cách nào cả. Thiên Chúa kiên nhẫn và đại lượng ước muốn rằng lời mời của Ngài được đón nhận.

2. Bố cục

Bản văn có thể chia thành bốn phần:

1) Mở (22,1);

2) Dụ ngôn Tiệc cưới thất bại (22,2-7);

3) Dụ ngôn Tiệc cưới thành công (22,8-13):

a) Mời mọi người (cc. 8-10),

b) Vấn đề áo cưới (cc. 11-13);

4) Kết luận: Lời bình của Đức Giêsu (22,14).

3. Vài điểm chú giải

- mở tiệc cưới cho con mình (1): Hình ảnh bữa tiệc thiên sai có lẽ được mượn từ Cựu Ước(Is 25,6; 55,1-3). Nó diễn tả tính nhưng-không của ơn cứu độ được Thiên Chúa ban tặng cho Dân Ngài.

- nhưng họ không chịu đến (3): Dịch sát là “không muốn đến”. Mt dùng động từ “muốn” (thelô), là mộtđộng từ ngài ưa chuộng (x. 11,14; 16,24; 18,30; 19,17; 23,27b) để diễn tả mộtquyết định rõ ràng.

- Vậy các ngươi đi ra (9): Công thức mệnh lệnh poreuesthe (các ngươi hãy đi) oun (vậy) khiến chúng ta hướng tới công thức phân từ poreuthentes oun có giá trị như mộtmệnh lệnh ở Mt 28,19, khi Đức Giêsu sai phái các môn đệ đi đến với Dân ngoại (“muôn dân”).

các ngả đường (9): Từ diexodos thuộc Bản LXX có nghĩa là điểm bắt đầu hay là điểm đến, phần xa nhất của một miền đất. Vậy dịch diexodoi tôn [h]odôn là “các ngả đường” dường như không chính xác. Đây là điểm mà từ đó con đường ([h]odos) bắt đầu hay kết thúc. Như thế các đầy tớ đi ra khỏi thành và tỏa ra khắp nơi cho đến tận biên cương của vương quốc.

- bất luận xấu tốt (10): Những người “xấu” này có thể là những người tội lỗi, một khi đã được kêu gọi nhưng-không, sẽ sửa mình khi đã vào trong Vương Quốc hoặc trong Hội Thánh; mà cũng có thể là những người xấu theo nghĩa tuyệt đối, sẽ bị loại trừ ngày nào đó khỏi Vương Quốc (hoặc khỏi Hội Thánh). Các câu 11-14 hiểu theo nghĩa thứ hai này.

- quan sát (11): Động từ theaomai có nghĩa là “nhìn xem; chiêm ngưỡng; quan sát”. Bên Đông phương, các nhân vật quan trọng không ngồi ăn chung với các khách mời, nhưng chỉ xuất hiện vào mộtlúc nào đó để chào cách quan khách. Phân đoạn gồm cc. 11-13 hẳn là một bản văn áp dụng cho đời sống Hội Thánh (trong khi cc. 1-10 áp dụng cho lịch sử dân Do Thái), nay được đưa vào đây để sửa chữa mộtlối giải thích quá tự do cc. 1-10. Quả thật, việc đi vào Hội Thánh là chuyện nhưng-không, nhưng cũng không được quên rằng đấy là Hội Thánh của Đức Vua! Đã nhận ơn, thì phải sống theo chiều hướng của ơn đã nhận.

- không có y phục lễ cưới (12): Vào thời Thượng Cổ, không có tập tục các khách mời phải mặc một bộ y phục riêng cho tiệc cưới; chỉ cần một bộ y phục sạch sẽ, trang trọng, là được. Do đó, công thức “y phục lễ cưới” khiến độc giả phải nghĩ đến nghĩa ẩn dụ. Cụm từ “y phục lễ cưới” (endyma gamou) này hẳn cũng là thực tại được dụ ngôn Những người thợ vườn nho nói đến, đó là các hoa trái của Vương Quốc, phải có trước khi ra trước tòa phán xét. Đây là “sự công chính” thường được TM Mt nói đến (ch. 5–7: 5,20; 6,33…). Xem thêm: Is 61,10; Ep 4,24; Gl 3,27; Kh 19,6-8; 7,9-17.

- kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít (14): Ngôn ngữ Híp-ri không có những hình thái đặc biệt cho các tính từ ở dạng so sánh (comparative: better; more) hay tối thượng cấp (superlative: best; most); do đó, người ta dùng cách kiểu nói quanh (paraphrases). Phải dựa vào ngữ cảnh thì mới xác định được nghĩa so sánh nằm ở dưới. Xem Mc 9,42; Mt22,36; 26,24; Lc 10,42; 18,14…

4. Ý nghĩa của bản văn

* Mở (1)

Dụ ngôn này được ngỏ với những thính giả đã được nói đến (“họ” = “các thượng tế và người Pharisêu”, x. 21,45), những người phải gánh lấy tất cả trách nhiệm và tội lỗi, khi từ khước Đức Kitô.

Chính dụ ngôn gồm các câu 2-13. Câu 14 là một lời bình của người kể, tức Đức Giêsu. Sau lời giới thiệu ở c. 2, dụ ngôn được triển khai thành hai phân đoạn, cc. 3-7 và cc. 8-13. Mỗi phân đoạn bắt đầu bằng việc nhà vua sai các đầy tớ đi mời khách đến dự tiệc cưới. Lần mời thứ nhất thất bại; lần mời thứ hai thành công. Tuy nhiên, mỗi lần đều kết thúc bằng một tai họa. Trong trường hợp thứ nhất, tai họa đổ xuống trên những người được mời; trong trường hợp thứ hai, tai hoạ chỉ đổ xuống trên một người khách.

Ta thấy dụ ngôn này và dụ ngôn trước có những điểm giống nhau. Một bên, đó là ông chủ nhà có một vườn nho, ở đây là mộtvị vua. Ông chủ nhà sai đầy tớ hai lần đến vườn nho để nhận hoa lợi; đức vua sai các đầy tớ hai lần đi mời khách tới dự tiệc. Trong cả hai trường hợp, các tôi tớ đều thất bại vì những người họ đến gặp tỏ ra xấu xa. Trong cả hai trường hợp, có liên quan đến một“người con [trai]”. Những điểm song song đó cho hiểu rằng hai câu chuyện nhắm đến mộtsố nhân vật như nhau. Ông chủ vườn nho và đức vua chỉ là một, đó là Cha trên trời; người con trai chắc chắn là Đấng đã tự gọi mình là “Người Con” (11,27). Các tôi tớ chính là các ngôn sứ. Còn những người được mời chính là Dân bất trung của Thiên Chúa.

Trong dụ ngôn Tiệc cưới, nhân vật duy nhất hành động tích cực là nhà vua. Chỉ một mình ông nói, chứ không có đối thoại. Ngoại trừ cc. 5-6 và c. 10, truyện hệ tại các hành vi hoặc các lệnh truyền của nhà vua.

* Dụ ngôn Tiệc cưới thất bại (2-7)

Tuy nhiên, hai dụ ngôn cũng có những điểm khác nhau. Trong dụ ngôn Những người thợ vườn nho, vấn đề là một đòi hỏi về công bình; ở đây là mộtlời mời, mộtvinh dự diễn tả cho mộtai đó. Một bên là ông chủ đòi hỏi điều thuộc về ông, bên kia là vị vua quảng đại, muốn mời tối đa người ta đến thông phần vào niềm vui của ngày cưới hoàng tử. Trong trường hợp sau này, thái độ thiếu quan tâm càng đáng trách hơn, vì ở đây không còn chuyện vi phạm mộtquyền, nhưng là mộtxúc phạm nặng nề đến danh dự. Đã thế, thái độ thiếu quan tâm còn trầm trọng đến mức trở thành sự căm thù chẳng hiểu vì sao. Ngay ở đây cũng có thể đặt lại câu hỏi của dụ ngôn trước: “Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?” (21,40). Câu trả lời không còn phải là mộtđe dọa, nhưng là mộthành động trừng phạt. Như thế, từ dụ ngôn kia sang dụ ngôn này, có mộtsự tiệm tiến.

Những “người đã được mời” (keklêmenous) là những người được báo tin về tiệc cưới đúng thời điểm. Đây là các bạn hữu, những người đang sống trong những tương quan thân tình với nhà vua. Việc nhà vua sai đầy tớ đến và mời thúc bách (c. 4) cho thấy cử chỉ tối hậu của lòng tốt của nhà vua, nhưng đã không được đáp lại. Thế mà nhà vua chỉ nhận được mộtsự từ khước dứt khoát (“không muốn đến”, c. 3). Các động lực thâm sâu là họ có những mối quan tâm thực tiễn, những của cải vật chất (chủ đề của Mt: x. 8,18-22; 19,21). Dưới ánh sáng của dụ ngôn trước, qua việc nhà vua sai các đầy tớ lần đầu (c. 3), độc giả có thể nghĩ đến các ngôn sứ trong Cựu Ước; qua lần sai phái thứ hai (cc. 4-6), họ có thể nghĩ đến các tông đồ và các nhà thừa sai (x. 21,34.36). Các độc giả cũng đã biết Israel thường xử tệ và giết các ngôn sứ (x. 23,34-35). Còn những khách được mời, thoạt tiên độc giả sẽ nghĩ đến các thượng tế và người Pharisêu, vì các dụ ngôn được nói cho họ. Tuy nhiên, không nhất thiết chỉ nghĩ tới giới lạnh đạo Do Thái, bởi vì các sứ giả của Đức Giêsu được cử đến với toàn thể Israel (x. 10,5-6.23).

Câu 6 có vẻ đột ngột: đi từ “kẻ thì … , người thì …” (hos men … hos de), ta không chờ đợi “còn những kẻ khác” (hoi de loipoi), nhất là một tội ác (giết các đầy tớ). Nhưng các độc giả đã quen với truyền thống Do Thái, thì hiểu rằng dụ ngôn đang nói về các thừa sai của họ, các vị này đã bị bách hại tại Israel (10,16-23) cũng như nói về các ngôn sứ Cựu Ước cũng đã bị bắt bớ trước rồi (5,12; 21,35-36). Nhưng c. 7 thì thật lạ, kể cả với các độc giả đã quen với truyền thống Do Thái. Không còn cỗ bàn, bò tơ, thú béo nữa. Nhà vua lên đường hành quân, chắc chắn đâu có thể làm một sớm một chiều. Dù sao, từ tư cách những người đầu tiên được ưu đãi, người Do Thái trở thành những đối thủ đầu tiên chống lại ơn cứu độ, và mục tiêu đầu tiên cơn giận Thiên Chúa nhắm tới. Họ bị đánh giá là “không xứng đáng” (c. 8) không phải vì họ có những thiếu sót hay sự ngu dốt nào tự nhiên, nhưng do họ từ khước.

Đức vua đã huy động quân lính đi “tru diệt bọn sát nhân và thiêu hủy thành phố của chúng” (c. 7). Các khách được mời nay được gọi đơn giản là “bọn sát nhân”. Tại sao sự việc lại trở nên gia trọng đến mức ấy? Dường như các khách được mời sống ngay trong thành phố nơi tổ chức lễ cưới. Các kẻ sát nhân chỉ là mộtvài người trong số khách được mời thôi. Chẳng lẽ mọi người khách mời khác đều đáng xử như những kẻ sát nhân? Đàng này, cả thành bị thiêu hủy, hẳn là với tất cả những người vô tội. Nếu muốn tiếp nối câu chuyện cho hợp lý, thì phải nói đến việc mời những người khác. Tất cả các thắc mắc này khiến ta phải nhìn nhận rằng cc. 6-7 là mộtcâu lạc lõng. Rất có thể tác giả đang nghĩ đến cuộc tàn phá Giêrusalem đã xảy ra vào năm 70. Chỉ điều này mới giải thích được vì sao tác giả gán mộttầm quan trọng đặc biệt cho chuyến hành quân trừng phạt và cuộc thiêu hủy thành phố. Và những kẻ sát nhân không phải chỉ là mộtvài người tạo cớ cho tác giả viết dụ ngôn, nhưng là tất cả các thợ làm vườn nho đã giết người con sau khi bàn bạc với nhau (21,38-39). Như thế ở đây tác giả Mt không chỉ làm chứng trung thành về các lời của Đức Giêsu đã được truyền đạt cho ngài, nhưng còn cung cấp cho chúng ta cách thức giải thích các lời này cho các thành viên của các cộng đoàn tiên khởi của Hội Thánh. Hai phương diện này được kết nối chặt chẽ với nhau. Chỉ lời được Hội Thánh phát xuất từ các tông đồ hiểu và giải thích đúng đắn mói có thể được coi như là Lời Chúa, được Chúa Thánh Thần linh hứng và buộc chúng ta tin nhận.

* Dụ ngôn Tiệc cưới thành công (8-13)

Phân đoạn này gồm hai truyện khác nhau được kết nối lỏng lẻo (cc. 8-10 và 11-13). Câu truyện có thể kết thúc ở c. 10. Chính cụm từ “xấu và tốt” ở c. 10 khiến độc giả nghĩ rằng câu truyện có thể còn tiếp.

Bây giờ các đầy tớ có nhiệm vụ ngỏ lời mời với những người khác, mà không chọn lựa. Họ có nhiệm vụ đưa tất cả những ai họ gặp trên đường khắp cùng bờ cõi vương quốc (diexodoi tôn [h]odôn) vào phòng tiệc. Tác giả Mt không nói là “người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt” như Lc 14,21, vì hiểu chữ “tất cả” (“mời hết vào”) theo nghĩa khác: kẻ xấu người tốt đều được mời. Lần mời này thành công. Chẳng mấy chốc phòng tiệc đã đầy mộtkhối người đa tạp. Sự đa tạp này không do khác nhau về y phục, về địa vị xã hội hay về những yếu tố bên ngoài. Đây là mộtsự khác biệt bên trong, chủ yếu, giữa “người xấu và người tốt” (c. 10). Chúng ta chỉ hiểu được tình trạng này nếu khởi đi từ thực tế tác giả đang nghĩ tới. Lời mời đã được ngỏ với dân Israel, nhưng họ đã không muốn đón nhận; thế là lời mời được gửi đến mộtdân mới, Dân ngoại. Đây không còn phải là mộtdân gồm những người trong sạch và các thánh, mà là mộtxã hội đa tạp gồm những người xấu và những người tốt. Ta gặp thấy có cả hai hạng người này trong Hội Thánh, như cỏ lùng giữa lúa tốt (13,28; x. dụ ngôn Chiếc lưới: 13,47-50). Dù sao, phòng tiệc cũng đã đầy vì mọi người được tự do đi vào. Thế nhưng đến đây, bài dụ ngôn vẫn chưa kết thúc “có hậu”. Bởi vì sẽ có mộtcuộc biện phân quyết định: lời mời không khẳng định là người ta sẽ thực sự được tham dự vào lễ cưới. Trước tiên phải có mộtcuộc phán xét: phải tách cỏ lùng khỏi lúa tốt. Đây chính là mục tiêu của phân đoạn thứ hai (cc. 11-13).

Đến đây khung cảnh vẫn là bữc tiệc, nhưng sự chú ý lại xoáy vào chiếc áo cưới. Ông chủ dường như không còn phải là vị vua trước đây nữa. Ông không đến để chiêu đãi một bữa tiệc linh đình nữa, mà đến để “quan sát” (theasasthai; x. 2 V 9,18) các khách dự tiệc. Ông đã thấy có một người không có “y phục lễ cưới” (endyma gamou). Nhà vua gọi anh ta là “này bạn” (hetairos), nhưng thái độ rất cứng rắn, không khoan nhượng. Dĩ nhiên người ta tự hỏi là làm thế nào người kia có thể có một cái áo cưới (và tất cả những người khác thì lại có sẵn áo cưới!) khi mà anh ta bị mời đột ngột giữa đường. Như thế là bất công trắng trợn! Chính điểm gây “sốc” này cho hiểu rằng đây không phải là vấn đề mộtcái áo theo nghĩa cụ thể. Chúng ta đã được chuẩn bị cho cách giải thích này bởi vì dụ ngôn đã ghi trước đó là trong phòng có kẻ xấu người tốt. Rõ ràng người không có áo cưới thuộc về hạng kẻ xấu. Cũng chính điểm này mới giúp hiểu cách đối xử người ấy sẽ phải chịu: không phải là đuổi ra ngoài, nhưng “quăng ra chỗ tối tăm” (x. 8,12; 25,30), nơi sẽ phải “khóc lóc nghiến răng” (x. 8,12; 13,42.50; 24,51; 25,30), tức là người ấy bị tiêu vong. Sự “câm miệng” của người khách này chứng tỏ lời trách của ông chủ là đúng. Người này, cũng như những người đầu tiên, đã không hề quan tâm đến vinh dự đã nhận; họ đã đến tiệc cưới với đầu óc tầm thường, thô thiển, không trân trọng, không biết ơn.

Bữa tiệc là hình ảnh Nước thiên sai; chiếc áo tượng trưng cho các tư thế căn bản để được vào và ở lại đó. Trong Bài Giảng trên núi, Đức Giêsu đã yêu cầu các môn đệ phải có một“sự công chính dồi dào hơn” (x. 5,20); đây chính là tinh thần mới người ta phải có để sống các tương quan với Thiên Chúa.

Nhận được lời mời không đương nhiên là được cứu độ vĩnh viễn. Con số những người được kêu gọi thì nhiều, điều này có nghĩa là nhiều người được để cho đi vào, không phân biệt, không điều kiện. Họ không cần phải giữ luật Môsê, họ không cần phải chịu cắt bì. Nhưng khả năng đi vào không có nghĩa là mộtbảo đảm; đi vào trong sự hiệp thông Hội Thánh không có nghĩa là được đi vào trong Nước Thiên Chúa và lúc tận thế. Phải phân biệt giữa niềm cậy trông đầy tín thác và phó thác với sự tự phụ, tự hào không cơ sở là mình có ơn cứu độ.

* Kết luận (14)

Câu kết luận này là một lời bình của Đức Giêsu. Câu này, “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít”, thường được giải thích theo hai cách. Cách thứ nhất cho rằng “những người được chọn” đây là những người được nhận mộtơn đặc biệt khiến họ có thể sống gần kề hơn với những sự thuộc về Thiên Chúa và có thể cậy dựa nhiều hơn vào lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa đối với họ. Dĩ nhiên con số này ít, còn đa số chỉ nhận được mộtơn thông thường. Cách thứ hai, phổ biến hơn, giới hạn khẳng định của Đức Giêsu vào trường hợp những người Do Thái thời Người mà thôi: tất cả đều được gọi vào Nước Trời theo nghĩa là tin vào Người, nhưng tuyệt đại đa số đã từ khước đi vào Nước ấy khi loại trừ Đấng Mêsia.

Cả hai cách giải thích này đều có phần giá trị, nhưng không khớp với dụ ngôn. Cách thứ nhất giả thiết rằng người khách bất xứng đã bị quăng ra ngoài bởi vì đã lén đi vào mộtnhóm nhỏ gồm những người được ưu tuyển; nhưng bản văn nói rõ là người ấy bị loại bởi vì thiếu điều tối thiểu cần thiết cho sự đoan trang của bữa tiệc. Cách thứ hai cũng không thỏa đáng. Bởi vì người khách bị loại đã đi vào với nhóm thứ hai, nên người này là mộtngười ngoại chứ không phải là mộtngười Do Thái; thế nhưng lại chính vào lúc loại trừ người ấy mà Đức Giêsu mới công bố lời nói về nhóm nhỏ những người được chọn. Đàng khác, hiểu sát bản văn, chúng ta thấy câu này không phù hợp với các sự hiện: trên con số lớn các khách dự tiệc, chỉ có người bất xứng này bị loại trừ; làm sao có thể nói đến mộtsố “ít” (nhỏ) những người được chọn?

Do đó, giải pháp đơn giản nhất nằm ở bình diện ngữ học (philologie): đây là hai công thức so sánh theo ngôn ngữ Sê-mít ở thể ngầm, mà ta có thể dịch ra như sau: “Những kẻ được gọi thì nhiều [hơn], nhưng những người được chọn thì ít hơn”. Hiểu như thế, chúng ta thấy phù hợp với ngữ cảnh: con số người được gọi thì rất đông, nhưng rồi có những người từ khước và có người bị loại trừ. Quả thật, nhiều người được gọi, nhưng những người được chọn thì ít hơn. Do đó, điều hết sức quan trọng là để ý mà thực hiện những điều kiện cần thiết để cho việc chúng ta được kêu gọi đưa chúng ta đến chỗ được chọn vĩnh viễn (x. Lc13.22-24 trong chiều hướng này).

+ Kết luận

Tầm nhìn của bản văn có thay đổi: Từ chỗ minh họa lời rao giảng của Đức Giêsu, dụ ngôn đã trở thành mộtminh họa đời sống của Hội Thánh. Đã là những người được thừa hưởng những lời hứa của Thiên Chúa, người Do Thái cũng là những người đầu tiên được đón nhận Tin Mừng, từ phía Đức Giêsu cũng như từ phía các tông đồ. Vậy mà họ vẫn không tin: thái độ cứng tin này quả là một mầu nhiệm, nhưng cũng không làm hỏng được các kế hoạch của Chúa quan phòng. Vào lúc tác giả Tin Mừng viết, thì Hội Thánh đã quy tụ lại nơi bàn tiệc thứ hai rồi. Các tín hữu thuộc về Hội Thánh cũng như các khách dự tiệc phải luôn luôn trong y phục chỉnh tề vì bất cứ khi nào vị thẩm phán cũng có thể xuất hiện và loại họ khỏi phòng tiệc vĩnh viễn. Cũng như dân Do Thái đã bị loại bởi vì họ đã tỏ ra bất xứng khi từ chối lời mời, người Kitô hữu cũng có thể bị loại trừ mặc dù đã đón nhận lời mời.

Tuy nhiên, chính chúng ta phải thấy mình được Thiên Chúa kêu gọi và chờ đợi chúng ta tự do quyết định. Thiên Chúa vẫn cứ nhắc lại các lời kêu gọi và tiếp tục gửi đến các sứ giả của Ngài.

5. Gợi ý suy niệm

1. Hoàn cảnh hiện tại có đặc điểm là Thiên Chúa kêu gọi qua trung gian các tôi tớ, sự tự do của con người và sự đại lượng của Thiên Chúa. Từ hoàn cảnh này, ta không được rút ra những hậu quả sai lạc. Ta không được cho rằng tiếng gọi của Thiên Chúa là mộtđề nghị không quan trọng, rằng chúng ta có thể tùy nghi đón nhận hoặc từ khước, rằng chúng ta có mộttự do không giới hạn có thể không những chọn lựa mà còn xác định được các hậu quả của sự chọn lựa, rằng sự tự do của Thiên Chúa là dấu cho thấy Ngài yếu đuối và dửng dưng. Bây giờ Thiên Chúa là Đấng kêu gọi và mời mọc; con người là những người hành động, đáp trả với khả năng quyết định tự do. Nhưng đến cuối, Thiên Chúa sẽ là Đấng hành động và xác định vĩnh viễn. Ai từ chối làm việc trong vườn nho sẽ bị loại khỏi Nước Trời (x. 21,31). Ai không giao nộp các hoa lợi của vườn nho và xử tệ với các tôi tớ của ông chủ sẽ bị mất vườn nho và phải chịu mộtkết thúc thảm thương (21,41). Ai không đón nhận lời mời đến dự tiệc, sẽ bị loại trừ (22,8).

2. Chúng ta có thể chọn lựa tự do, nhưng chúng ta không còn tự do nữa đối với các hậu quả của sự chọn lựa của chúng ta, bởi vì chúng ta không thể tự do xác định chúng, nhưng chúng thuộc về cách do Thiên Chúa xác định. Chúng ta có thể nói không với tiếng gọi của Thiên Chúa, nhưng chúng ta không thể đạt được sự thể hiện tốt đẹp cuộc sống chúng ta với tiếng không này. Cần phải ý thức như thế để không xử sự cách phi lý, khi không đón nhận tiếng gọi của Thiên Chúa.

3. Bữa tiệc không chứa những yếu tố khiến có thể nghĩ đến tiệc Thánh Thể, nhưng chính hình ảnh vẫn có thể gợi ra những bữa tiệc agapê và các cuộc cử hành phượng tự thường xuyên trong Hội Thánh. “Các đầy tớ” (douloi) của dụ ngôn thứ nhất ở đây được gọi là “những người phục dịch” (diakonoi); từ ngữ diakonoi khiến ta nghĩ đến các thừa tác viên trong các cử hành phụng vụ. Áo cưới nêu bật tình trạng thánh thiện và ân sủng mà người ta phải có để được đến gần bàn tiệc của Chúa.

4. Trong các dụ ngôn Cỏ lùng và Lưới cá (13,37-43.49-50), Đức Giêsu cũng đã nói rõ rằng Hội Thánh cũng là một phần của tập thể pha trộn là thế giới, “thửa ruộng” của Con Người. Như thế, các thành viên của Hội Thánh phải để ý đừng thuộc về “những kẻ xấu” đứng đó mà không có y phục lễ cưới. Chỉ có một người trong dụ ngôn bị cật vấn có nghĩa là từng người phải trả lẽ, chứ không thể cây dựa vào người khác.

5. Vào ngày chúng ta được rửa tội, chúng ta đã được mặc mộtáo trắng, và vị chủ lễ đã chúc chúng ta giữ cho nó được tinh tuyền cho đến ngày Phán xét. Nếu chúng ta đã làm hoen ố bộ áo rửa tội này, chúng ta vẫn có thể đến trình diện trước tòa của lòng từ bi thương xót, đo là bí tích hòa giải. Tại đây Đức Giêsu lại giặt sạch bộ áo cưới của chúng ta và lại mời chúng ta vào tham dự bữa tiệc vương giả của Người, trong niềm vui của tình thân mật đã tìm lại được. Như thế, cũng đừng bao giờ tự hào rằng mình đã “tới nơi”, cũng đừng phê phán ai. Không phải vì ta đang “ở trong” mà ta đã được bảo đảm, và có quyền xét đoán những người “ở ngoài”, những người chưa biết mà đi vào, hoặc thậm chí những người đã từ khước. Cho dù có ở trong Hội Thánh hay Nước Thiên Chúa, chúng ta vẫn chỉ là “khách được mời”, do ân huệ nhưng-không.

[Mục Lục]

Bài 2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Tin Mừng thuật lại dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử được Đức Vua thiết đãi cho các vị quan khách thân hữu của mình. Tuy nhiên các vị quan khách lại từ chối, vì thế lời mời được gởi đến tất cả mọi người….

Qua hình ảnh bàn tiệc, các ngôn sứ đã thử mô tả niềm vui tương lai của những người công chính trong thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc, đồng thời ơn cứu độ và muôn vàn thiên ân đa dạng vào thời Thiên Sai. Bàn tiệc thời Cánh Chung hay bàn tiệc thời Thiên Sai trộn lẫn với nhau ít nhiều trong cùng một biểu tượng.

Is 25: 6-9

Trong Bài Đọc I, được trích từ “sấm ngôn khải huyền của I-sai-a”, bàn tiệc mà Thiên Chúa thiết đãi muôn dân là bàn tiệc thời Cánh Chung cũng là bàn tiệc thời Thiên Sai. Đây là niềm hân hoan khôn tả của những người được tuyển chọn, vì mọi đau khổ và sự chết đều hoàn toàn biến mất trong Nước Trời.

Tv 23 (22)

Tác giả thánh vịnh bày tỏ niềm tin tưởng phó thác thuần khiết của mình: chẳng hề sợ hãi hay than vãn nhưng hoàn toàn mãn nguyện đến mức không cần phải khẩn cầu bất cứ điều gì, bởi vì “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì”.

Pl 4: 12-14, 19-20

Trong thư gởi các tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô bày tỏ tấm lòng tri ân đối với cộng đoàn Phi-líp-phê nầy. Trái với thông lệ vốn có của mình, thánh Phao-lô đã chấp nhận sự giúp đỡ vật chất của họ khi thánh nhân gặp phải sự khốn khó trong cảnh giam cầm.

Mt 22: 1-14

Tin Mừng thuật lại dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử được Đức Vua thiết đãi cho các vị quan khách thân hữu của mình. Tuy nhiên các vị quan khách lại từ chối, vì thế lời mời được gởi đến tất cả mọi người.

BÀI ĐỌC I (Is 25: 6-9)

Trong văn mạch của các chương 24-27, bản văn này là một phân đoạn đặc thù của sách I-sai-a, thuộc thể loại sấm ngôn khải huyền. Người ta nghi ngờ tác giả của phân đoạn nầy không phải là ngôn sứ I-sai-a, bởi vì văn phong và tư tưởng thuộc thời đại sau nầy. Viễn cảnh của đoạn văn này là thời Cánh Chung (25: 6-8) và thời Thiên Sai (25: 9). Hình ảnh bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi muôn dân diễn tả ơn cứu độ phổ quát và niềm hân hoan khôn tả của những người được tuyển chọn.

1. Viễn cảnh thời Cánh Chung:

“Ngày ấy, trên núi nầy, Thiên Chúa sẽ thiết tiệc đãi muôn dân”“Trên núi nầy”, đó là ngọn đồi Si-on trên đó Đền Thờ được xây dựng. Theo ngôn ngữ khải huyền, “núi Si-on”chỉ thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc, nơi Thiên Chúa thiết tiệc đãi “muôn dân muôn nước”. Ơn gọi phổ quát của núi thánh đã được ngôn sứ I-sai-a loan báo, chính xác vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên: “Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi. Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi.” (Is 2: 1-5), và cũng được chính vị ngôn sứ này nhắc lại:“Đức Chúa các đạo binh hiển trị trên núi Si-on và tại Giê-ru-sa-lem” (24: 23). Vào thời hậu lưu đày, ngôn sứ Da-ca-ria cũng loan báo theo cùng một cách như thế: “Các dân đông đảo và các nước hùng cường sẽ đến tìm kiếm Đức Chúa các đạo binh ở Giê-ru-sa-lem”(Dcr 8: 22). Thời cánh chung sẽ là giờ Đức Chúa hiển trị. Bữa tiệc cánh chung là bữa tiệc của Đức Vua. Đức Giê-su sẽ lấy lại chủ đề nầy trong dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử.

Chất lượng tuyệt hảo của thức ăn thức uống: “tiệc cao lương, tiệc rượu nồng”, nhấn mạnh tấm thịnh tình của Thiên Chúa đối với các quan khách mời. Cho đến lúc đó, trong các hy lễ,“thịt béo” luôn luôn được dành riêng để dâng tiến Chúa (Lv 3: 3-5, 9-11, 14-15). Điều đó muốn nói lên rằng con người sẽ được dự phần vào những thiện hảo được dành riêng cho chỉ một mình Thiên Chúa.

Trong Kinh Thánh, rượu luôn luôn là dấu chỉ của niềm vui. Vào dịp nầy, đây là một niềm vui vĩnh viễn, bởi vì Thiên Chúa “sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ muôn dân, và tấm khăn liệm bao trùm muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần”. Sách Khải Huyền Gioan sẽ lấy lại viễn cảnh chứa chan hy vọng nầy: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21: 4).

3. Viễn cảnh thời Thiên Sai (25: 9)

Sấm ngôn hoàn tất với cuộc hội ngộ vượt quá niềm mong đợi: “Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trong đợi Người, và được Người thương cứu độThiên Chúa chúng ta đây rồi, chúng ta từng trông đợi Người, và Người đã cứu chúng ta”, và một niềm hân hoan chưa bao giờ dám ước mơ: “Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông. Nào chúng ta hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ”. Niềm vui viên mãn, sự no thỏa dư dật cũng sẽ là những dấu hiệu của thời Thiên Sai như tiệc cưới Ca-na hay phép lạ bánh hóa nhiều, cả hai đều là dấu chỉ của bàn tiệc thời Thiên Sai đích thật là bàn tiệc Thánh Thể: “Hãy cầm lấy mà ăn”.

THÁNH VỊNH 23 (22)

Đây là một thánh vịnh ngắn gọn về ngôn từ, nhưng súc tích về ý tưởng và dồi dào về cảm xúc. Mục sư Alexander Maclaren, chuyên viên Thánh Vịnh, đã nhận xét cách xác đáng như sau: “Thế gian có thể bỏ nhiều cuốn sách dày cộm, nặng nề mà không bị thiệt hại bằng bỏ đi Thánh Thi ngắn gọn và tươi sáng này. Nó đã làm khô nhiều suối lệ và cung cấp một khuôn mẫu cho nhiều tấm lòng đồ vào đó niềm tin tưởng bình an và thanh thản của mình”(“Giải Nghĩa Thi Thiên”, q.I, tr. 238). Quả thật, thánh vịnh này đã tạo nguồn cảm hứng cho nhiều bài thánh ca tuyệt vời. Thánh vịnh này được cấu trúc như sau:

A.Đức Chúa là mục tử nhân lành (cc. 1-4).

B.Đức Chúa là gia chủ hiếu khách (cc. 5-6).

Hai hình ảnh: “mục tử” và “gia chủ” có mối liên hệ rất mật thiết trong tư tưởng Cận Đông xưa, cả hai đều được dùng để chỉ minh quân. Vì thế, bài thánh vịnh này có tính thống nhất.

A. Đức Chúa là Mục Tử nhân lành (cc. 1-4)

Hình ảnh “mục tử”, được dùng để chỉ vua rất phổ biến vào thời xưa, nhấn mạnh quyền thủ lãnh và tấm lòng ân cần chăm lo của vị minh quân cho thần dân của mình. Dân Ít-ra-en, tự nguồn gốc là dân du mục, đã dùng hình ảnh “mục tử và đàn chiên” để diễn tả kinh nghiệm của dân tộc mình trong mối quan hệ mật thiết và gần gũi của Đức Chúa với dân Ngài. Vì thế, không lạ gì hình ảnh thân yêu này chạy xuyên suốt Cựu Ước từ thời xa xưa (x. St 48: 15; 49: 24) cho đến thời sau này qua các thánh vịnh (Tv 28: 9; 79: 13; 80: 2) và qua các ngôn sứ (Hs 4: 16; Is 40: 11; Ed 34: 11-16). Trong Tân Ước, Đức Giê-su tự giới thiệu mình là “Mục Tử nhân lành” vì Ngài tự hiến mạng sống mình để cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào (Ga 10: 11, 14-16, 27-29). Sách Khải Huyền đã áp dụng “Mục Tử nhân lành”này cho Con Chiên (Đức Giê-su): “Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh” (Kh 7: 17). Câu 1 là câu mở đầu và cũng là tiền để để từ đó tác giả khai triển tấm lòng ân cần chăm sóc của Đức Chúa đối với dân Ngài, nhất là đối với chính tác giả, bằng một chuỗi những hình ảnh thật đẹp và sinh động được lấy ra từ khung cảnh du mục: trong đồng cỏ xanh tươi (c. 2a), bên dòng suối trong lành (c. 2b), trên nẻo đường ngay chính (c. 3), ngay cả dù qua thung lũng âm u (c. 4a), tác giả vẫn an lòng“vì có Chúa ở cùng” (c. 4b).

B. Đức Chúa là gia chủ hiếu khách (cc. 5-6)

Các vua chúa Cận Đông xưa thích thiết đãi những bữa tiệc thịnh soạn cho các thần dân của mình vào những dịp đặc biệt (x. 1V 8: 65-66). Vì thế, đề tài “vua-mục tử” chăm lo cho thần dân của mình vẫn được tiếp tục với đề tài “vua-gia chủ” tiếp đón nồng hậu các thần dân của mình. 5. Đức Chúa bày tỏ tấm lòng trân trọng và quý mến khách mời qua bàn tiệc và nghi thức đón tiếp như xức dầu thơm trên đầu, hầu rượu. 6. Tác giả nguyện xin cho mối ân tình giao ước của Chúa với cuộc đời mình được mãi mãi keo sơn bền vững.

BÀI ĐỌC II (Pl 4: 12-14, 19-20).

Với đoạn trích nầy, chúng ta kết thúc thư của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Phi-líp-phê. Xin nhắc lại rằng thánh Phao-lô viết bức thư nầy khi thánh nhân đang sống trong cảnh giam cầm ở Rô-ma hoặc ở Ê-phê-sô. Các tín hữu Phi-líp-phê đã giúp đỡ ngài, vả lại đây không là lần đầu tiên (Pl 4: 16). Quả thật, các tín hữu Phi-líp-phê là cộng đoàn độc nhất mà thánh nhân đã không từ chối sự giúp đỡ vật chất của họ. Thánh nhân luôn luôn bận lòng là không bao giờ để cho mình phải trở thành gánh nặng cho các cộng đoàn mà ngài loan báo Tin Mừng để không bao giờ làm hại đến sứ vụ của ngài. Để người ta có thể tin rằng lời loan báo Tin Mừng của ngài là vô vị lợi, thánh nhân đã không ngừng lặp đi lặp lại Tin Mừng mà ngài đem đến là một ân ban nhưng không. Với tư cách là “tôi tớ” của Đức Kitô, thánh nhân không mong chờ bất kỳ bổng lộc nào. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, thánh nhân đã lao động bằng chính bàn tay của mình để chi cấp cho nhu cầu của mình: “Chúng tôi phải vất vả và tự tay làm lụng. Bị nguyền rủa, chúng tôi chúc lành; bị bắt bớ, chúng tôi cam chịu” (1Cr 4: 12). Khi từ chối sự giúp đỡ của các tín hữu, thánh Phao-lô muốn họ hiểu rằng ngài không muốn bị ràng buộc với bất cứ ai và quyết tâm gìn giữ sự tự do của mình để Tin Mừng mà ngài rao giảng không gây trở ngại cho bất kỳ ai, như ngài viết cho các tín hữu Cô-rin-tô:“Chúng tôi chịu đựng tất cả mọi sự để khỏi gây trở ngại cho Tin Mừng của Đức Kitô” (1Cr 9: 12).

Tuy nhiên, do mối quan hệ thân tình và niềm tin tưởng gắn bó của thánh nhân với các tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô chấp nhận sự giúp đỡ của họ, vì biết rằng nghĩa cử của họ biểu lộ tấm lòng yêu mến chân thành đối với ngài. Thánh Phao-lô tế nhị cám ơn họ và xin họ đừng bận lòng thái quá đối với ngài, vì thánh nhân biết hài lòng trong mọi sự và thích nghi với mọi hoàn cảnh. Ở đây, người ta có thể gặp lại cách nói tương tự dưới ngòi bút của các triết gia khắc kỷ như Ēpictète hay Sénèque. Nhưng trong khi các vị hiền triết xưa múc lấy nguồn bình an tự tại nơi chính mình, thánh Phao-lô đánh dấu sự khác biệt: múc lấy sức mạnh của mình chỉ từ Đức Kitô, Đấng đang sống trong thánh nhân.

Thánh Phao-lô bày tỏ tấm lòng biết ơn chân thành của ngài đối với các tín hữu Phi-líp-phê, bởi vì thánh nhân biết rất rõ cộng đoàn Phi-líp-phê không giàu có gì. Quả thật, trong bức thư thứ hai gởi các tín hữu Cô-rin-tô về việc lạc quyên giúp Giáo Hội Giê-ru-sa-lem, chúng ta đọc thấy những lời nầy khi thánh nhân nói về các tín hữu Phi-líp-phê: “Trải qua bao nỗi gian truân, họ vẫn chan chứa niềm vui; giữa cảnh khó nghèo cùng cực, họ trở nên những người giàu lòng quảng đại. Họ tự nguyện theo sức họ, và tôi xin làm chứng là quá sức họ nữa” (2Cr 8: 2-3). Dù không muốn nhận bất kỳ sự giúp đỡ của bất cứ ai, thánh Phao-lô biết rằng những quà tặng của các tín hữu Phi-líp-phê vượt quá con người của ngài. Chúng đẹp lòng Thiên Chúa. Đó thật sự là một sự giàu có tinh thần. Thánh nhân có thể nói với các tín hữu Phi-líp-phê: “Họ đầy công đức vì những việc lành và bố thí họ đã làm”, như Lu-ca nói về bà Ta-bi-tha ở Gia-phô: “Bà này đầy công đức vì những việc lành và bố thí bà đã làm”(Cv 9: 36). Vì thế, họ phải tôn vinh Thiên Chúa.

Trong phần cuối, trước tiên thánh nhân nói về “Thiên Chúa của tôi”, vì Thiên Chúa sẽ thay thánh nhân trả công bội hậu cho những người làm phúc cho thánh nhân; tiếp đó “Thiên Chúa là Cha chúng ta”, vì Thiên Chúa là Cha đầy lòng từ bi nhân hậu sẽ săn sóc các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của thánh nhân.

TIN MỪNG (Mt 22: 1-14).

Dụ ngôn “tiệc cưới” hôm nay cùng với hai dụ ngôn đi trước: “hai người con” và “những tá điền gian ác”, hình thành nên một bức tranh bộ ba theo cùng một chủ đề: việc lương dân thay thế cho dân được tuyển chọn vì bất trung với sứ mạng của mình. Tuy nhiên, có một sự tiến triển: trong dụ ngôn “tiệc cưới”, dấu nhấn được đặt trên ơn cứu độ phổ quát. Dụ ngôn nầy chứa đựng hai bài học: “tiệc thời Thiên Sai” (22: 1-10) và “tiệc thời Cánh Chung” (22: 11-14), cả hai viễn cảnh nầy rất thường được đặt chồng chéo lên nhau (như trong trường hợp Bài Đọc I).

1. Tiệc thời Thiên Sai (22: 1-10)

Như trong sấm ngôn khải huyền của Bài Đọc I, hình ảnh bàn tiệc gợi ra sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài trong niềm vui cứu độ. Trong dụ ngôn, Đức Vua đại diện Thiên Chúa, Người Con đại diện Đấng Mê-si-a, và tiệc cưới biểu tượng giao ước mới, giao ước vĩnh viễn của Thiên Chúa với nhân loại. Nhưng các quan khách được mời không thèm đếm xỉa tới giao ước mới nầy, đó là dân Ít-ra-en, họ từ chối nhận ra Người Con là Đấng Mê-si-a. Vài khách mời còn đi xa hơn nữa, họ ngược đãi và giết chết các gia nhân của vua, tức là các ngôn sứ thời Cựu Ước và các tông đồ thời Tân Ước.

“Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng”: Thái độ như thế được đặt vào trong bối cảnh Kinh Thánh: những án phạt của Đức Chúa, nhưng dường như ở đây là một trong những lời tiên báo trực tiếp của Đức Giê-su về biến cố đạo quân Rô-ma tàn phá Giê-ru-sa-lem vào năm 70 sau Công Nguyên. Vài nhà chú giải thấy ở đây không là một lời tiên báo, nhưng lời nhắc nhở về một sự kiện đã xảy ra. Tuy nhiên, trong câu chuyện đối chiếu của Lu-ca (14: 15-24), không có chi tiết nầy. Vì thế, người ta có thể nghĩ chi tiết nầy đã được thêm vào Tin Mừng Mát-thêu sau các biến cố nầy.

Các quan khách đã được mời nhưng không đến. Mỗi người đã theo đuổi lợi ích riêng của mình. Họ đã không đáp trả lời mời, từ chối dự phần vào vương quốc thiên sai, hình ảnh của Giáo Hội.

Thành phố bị thiêu hủy, tuy nhiên, tiệc cưới vẫn được tiến hành. Các quan khách từ chối lời mời được thay thế. Lời mời gọi được vang lên khắp các ngã đường: “Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai thì mời hết vào tiệc cưới“Gia nhân liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại”. Dụ ngôn nhấn mạnh tính nhưng không của lời mời gọi: toàn thể nhân loại, không phân biệt chủng tộc, được mời gọi thế chỗ dân Ít-ra-en bất trung.

Trong câu chuyện đối chiếu của mình, thánh Lu-ca ghi nhận các đầy tớ ra các ngã đường đến hai lần (Lc 14: 21-24). Trong lần thứ nhất, các đầy tớ mời các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt vào tham dự tiệc cưới; trong lần thứ hai, tất cả những khách qua đường. Có lẽ thánh Lu-ca đã nghĩ trước hết đến những “người nghèo của Đức Chúa”, những người mà chính Đức Giê-su đã ưu ái đặc biệt; còn họ đã hoan hỉ tiếp đón Tin Mừng và dự phần vào niềm vui thời Thiên Sai, vì thế, họ không thể nào bị loại ra ngoài. Hạng người thứ hai là lương dân, đây là nét tinh tế của thánh Lu-ca khi đề cập đến hạng người nầy.

2. Tiệc thời Cánh Chung (22: 11-14)

Từ tiệc thời Thiên Sai, dụ ngôn chuyển sang tiệc thời Cánh Chung. Vả lại, dụ ngôn ngắn về một khách mời bị loại trừ có thể tự ban đầu đã là một dụ ngôn độc lập. Quả thật, có sự khác biệt đáng kể giữa phần trước và phần tiếp theo nầy. Trong bàn tiệc thời Thiên Sai, mọi người đều được mời tham dự, dù tốt hay xấu, công chính hay tội lỗi, dân Do thái hay dân ngoại. Thật ra, đó không phải là lời mời gọi của Đấng Thiên Sai đặc biệt gởi đến những người tội lỗi hay sao? Trái lại, trong bàn tiệc thời Cánh Chung, nghĩa là trong Nước Trời, người ta chỉ được phép dự tiệc khi mặc y phục của những người công chính. Đức Vua nói:“Này bạn, làm sao bạn vào đây mà không có y phục lễ cưới?”. Trong Tin Mừng Mát-thêu, lời chất vấn nầy luôn luôn hàm chứa sắc thái khiển trách, như ông chủ vườn nho đáp lại lời kêu ca của người thợ làm vườn nho ngay từ sáng sớm: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn” (Mt 20: 13), hay Đức Giê-su nói với ông Giu-đa, kẻ dẫn người đến bắt Ngài:“Nầy bạn, bạn đến đây làm gì thì cứ làm đi” (Mt 26: 50).

Ấy vậy, trong dụ ngôn này, làm thế nào có thể khiển trách người khách nầy không mặc y phục lễ cưới khi anh ta được mời cách bất ngờ từ ngoài đường vào phòng tiệc? Vài nhà chuyên môn giải thích rằng tại vài dân tộc Đông Phương, gia chủ đã tiên liệu vài y phục lễ cưới cho khách mời ở lối vào tiệc cưới. Tuy nhiên, một tập tục như vậy không được chứng thực ở Ít-ra-en. Vì thế, không nên quá coi trọng vài chi tiết nhỏ nhặt của dụ ngôn. Ý nghĩa thì rõ ràng. Người ta không được dự phần vào bàn tiệc Nước Trời nếu như đã không chu toàn những đòi hỏi sứ điệp Tin Mừng.

Câu cuối: “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít” rõ ràng không ăn nhập với toàn bộ dụ ngôn trong đó có một số lượng lớn khách mời dự tiệc trong khi chỉ riêng một người bị loại. Đúng hơn lời cuối nầy có liên quan đến phần thứ nhất của dụ ngôn, theo đó có ít người dân Ít-ra-en, dân được tuyển chọn, được dự phần vào bàn tiệc thời Thiên Sai, trong khi so sánh với muôn dân muôn nước hân hoan tiếp đón Tin Mừng và gia nhập Giáo Hội.

[Mục Lục]

Bài 3. Chú giải và gợi ý suy niệm của Noel Quession

Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình…

Tin Mừng không bao giờ cho chúng ta những định nghĩa to tát trừu tượng về Thiên Chúa, về thiên đàng, về Giáo hội. Không? Tin Mừng đúng ra là một là một cuốn sách cao cả bằng nhiều hình ảnh. Khi nhìn sự thành công về mặt truyền hình của các đám với hoàng gia thì hình ảnh mà Đức Giêsu sử dụng trong thời đại ấy xem ra còn mới… dù hình ảnh ấy có tính chất Phương Đông rõ nét.

Như thế, Đức Giêsu trình bày với chúng ta một Thiên Chúa làm đám cưới cho con trai mình: đây là câu chuyện đẹp nhất trần gian, câu chuyện tình yêu đẹp nhất! Rõ ràng là câu chuyện liên quan đến Người. Đức Giêsu là người yêu. Người đã cưới một hôn thê mà Người yêu say đắm: hôn thê đó là nhân loại. Hình ảnh hôn lễ này như “một sợi chỉ vàng” xuyến suốt toàn bộ Kinh Thánh: Hôsê 1 đến 3; I-sai-a 54,4-8 – 61,10 – 62,4-5; Giê-rê-mi-a 2,2 – 31,3; ê-đê-ki-en 16; Thánh vịnh 45,7-8,Diễm Ca, toàn bộ; Mác-cô 2, 19; Gioan 3;29; Mát-thêu 2 5, 1 -1 3 – 9, 1 5; Ê-phê-sô 5,25; 2 Cô-rin-tô 19,29 – 21,2-9′ – 22,17; Khải Huyền 20,9 – 21,2-9 v.v…). Vâng, từ đầu này đến đầu kia của mạc khải, những quan hệ của Thiên Chúa với nhân loại là một “Giao ước” một “Lễ cưới”. Điều đó sẽ thay đổi gì cho tôn giáo của tôi nếu như thay vì chỉ quan niệm tôn giáo ấy như những chân lý phải tin và những quy tắc về đạo đức phải tuân thủ, tôi đi đến chỗ quan niệm tôn giáo của tôi thật sự là “một câu chuyện tình yêu?

Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc cưới…

Thiên Chúa mơ đến một bữa tiệc hoàn vũ cho nhân loại một bữa tiệc thật sự “vương giả”… một lễ hội! Bạn hãy thử hỏi bất cứ đứa trẻ nào để biết những trường hợp làm chúng rất sung sướng. “Đó là khi có nhiều khách mời đến nhà? “. Bữa ăn ngày lễ hội hoàn toàn là một biể u tượng của niềm vui được chia sẻ. Và ngày hôm nay vẫn thế, bữa tiệc cưới thường quy tụ nhiều khách khứa vui vẻ nhất: Món ăn chọn lọc, rượu ngon, tiếng nhạc lời ca, y phục lễ hội, khiêu vũ… Đến ngày lễ hội, bàn ăn đã sẵn sàng, Thiên Chúa cũng quy tụ các khách mời của Người. Nhưng khách được mời sắp làm gì?

Nhưng họ không chịu đến.

Ông vua tội nghiệp và thất vọng biết bao! Có gì mà chán nản.

Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi và dặn họ: “Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rãi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới!”.

Như trong dụ ngôn “những tá điền sát nhân”, nhưng sự từ chối của nhân loại dường như không làm Thiên Chúa ngạc nhiên. Không chán nản, Người sai những đầy tớ khác đi để một lần nữa mời họ. Đây không phải là một câu chuyện cũ trong quá khứ. Hiện nay vẫn luôn luôn có những lời mời gọi. Trước tiên đây không phải là lời mời gọi của những người khác. Thiên Chúa đã gợi cho tôi một “thẻ” vào cửa. Tôi có nhận thức tôi đang được chờ đợi và có một chỗ đành cho tôi ở bàn ăn không? Thật vậy, tôi phải dùng thời gian để mỗi buổi tối tự hỏi về những lời mời gọi mà Thiên Chúa đã không ngừng gọi đến tôi suốt một ngày. Và mỗi Chúa nhật, hãy dùng thời gian để tự hỏi tôi đã bỏ lỡ những lời mời gọi nào của Thiên Chúa trong tuần.

Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì thăm trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết.

Nhu trong “mùa hái nho đẫm máu” của Chúa nhật vừa qua chúng ta như chìm ngập vào bi kịch. Tiệc cưới đẫm máu cũng là biểu tượng cho sự khước từ Thiên Chúa. Chúng ta chớ quên rằng Đức Giêsu kể lại câu chuyện này, có lẽ một ít ngày trước cuộc khổ nạn của Người… trong tuần lễ cuối cùng của Người. Cái chết của Người đã được các thủ lãnh ở Giêrusalem quyết định trong bóng tối. Nhưng, chúng ta biết rõ không chỉ liên quan đến những người đồng thời của Đức Giêsu. Chính tôi… chính thế giới hiện nay…đang từ chối lời mời của Thiên Chúa. Sự mô tả tâm trạng sâu kín của những khách được mời ấy có tính thời sự nóng bỏng. Đức Giêsu mô tả hai hạng người: 1. những người “thờ ơ” với một sự lãnh đạm hầu như tự nhiên không có vẻ gì quan tâm đến việc mình được mời, và một cách rất đơn giản họ để cho công việc của họ cuốn họ đi… 2. và đến những người.”phản bác” họ từ chối lời mời một cách có ý thức và tham gia dùng bạo lực giết hại các đầy tớ.

Như thế Đức Giêsu mô tả cho chúng ta tình trạng của thế giới hiện đại một cách chính xác. Chỉ cần đưa ra một vài ví dụ xác đáng của ngày hôm nay dưới những từ ngữ của ngày xưa… “Làm thế nào mà các ông muốn tôi đi lễ? Tôi chỉ có một ngày Chúa nhật để chơi bóng đá và quần vợt. Đó là ngày mà tôi sẽ di du lịch. Đó lâu ngày mà tôi sửa chữa máy móc trong nhà. Tôi đã nhảy đầm cả buổi tối thứ bảy, làm thế nào mà các ông muốn tôi đi lễ ngày Chúa nhật… Và rồi, tôi còn có bài tập phải làm và các kỳ thi phải ôn thi…”. Thế đấy chúng ta đều bị xã hội tiêu thụ và chủ nghĩa duy vật ở xung quanh khống chế. Và chúng ta đều có nguy cơ cho Thiên Chúa đứng ở chỗ cuối. Biết bao âm thanh khác lấp mất những ‘lời’ kêu gọi của Người. “Hãy đến dự tiệc cưới của Ta?”. Và chúng ta không hề nghe thấy!

Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng.

Lịch sử phương Đông cổ đại cung cấp cho chúng ta những giai thoại thuộc loại này. Nhưng một lần nữa, chúng ta biết mình đang ở trong thể loại dụ ngôn. Không nên tìm kiếm ý nghĩa chính xác cho mỗi chi tiết. Tuy nhiên, thành phố bị thiêu hủy làm chúng ta nghĩ đến một biến cố lịch sử chính xác đã lầm tổn thương những người Do Thái và những Kitô hữu của thế kỷ đầu tiên và đó là cơ hội để Hội Đường và Hội Thánh đoạn tuyệt nhau (Do Thái giáo và Kitô giáo tách rời nhau). Khi Mát-thêu viết câu chuyện này thì trong thực tế những đạo quân của Titus đã tàn phá thành Giêrusalem vào năm 70. Một số phận như thế đã có thể xảy đến cho thủ đô nổi tiếng của dân tộc ít-ra-en như thế nào? Những biến cố lịch sử có thể được giải thích theo nhiễu cách. Tuy nhiên, các ngôn sứ đã giải thích sự tàn phá của các thành phố lớn như một hình phạt của Thiên Chúa” (I-sai-a 5,26-29; Giê-rê-mi-a 5,15-17).

Rồi nhà vua bảo đầy tớ: “Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới”. Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.

Vậy đây là những khách mời mà người ta không chờ đợi và chính họ chấp nhận lời mời. Những người Do Thái, những người khách mới đầu tiền, vì thế sẽ nhường chỗ cho dân ngoại.

Nhưng một lần nữa, chúng ta phải cảnh giác với sự tự mãn về chủng tộc. Bởi vì đây cũng là vấn đề của chính chúng ta. Một cách chân thật, chúng ta có thể đáp “vâng” với những lời mời gọi mà Thiên Chúa lặp lại trong đời sống hàng ngày của chúng ta hay không?

Đức Giêsu đã báo trước cho chúng ta: Căn phòng tiệc cưới sẽ đầy cho dù các “ông lớn” không thèm đáp lại. Người sẽ làm đầy phòng tiệc với những người rách rưới, bị loại trừ, những người đầu đường xó chợ. Thánh Luca trong bài dụ ngôn song song xác định rõ thành phần: “Các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt” sẽ thế chỗ cho những người được mời đầu tiên (Luca 14,21). Và Mát-thêu, trong một đoạn văn khác cũng đã nói với chúng ta điều dó: Những người thu thuế và những cô gái.điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”

Vậy các người đi ra các ngã động gặp ai cũng mời, tốt xấu gì cũng mời… “.

Chúng ta hãy để cho những lời khác thường ấy tra vấn chúng ta. Chúng ta có được tấm lòng cũng bao la như Thiên Chúa hay không? Chẳng phải chúng ta luôn luôn bị chủ nghĩa ưu tuyển cám dỗ sao? Chẳng phải chúng ta luôn luôn mơ đến một Giáo Hội của những người thanh khiết, những chiến sĩ, những người có đức tin hoàn toàn sáng suốt sao? Chẳng phải chúng ta coi nhẹ những thực hành của “tôn giáo bình dân sao?”.

Còn Thiên Chúa, Người mời gọi mọi người, không phân biệt, đủ mọi thành phần. Người lại còn ưu ái đến những người nghèo, những người ở bên lề, những người bị bỏ rơi vì thiếu thốn, những người nghèo khổ.

Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?”. Người ấy câm miệng không nói được gì.

Lòng nhân từ của Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người xấu và tốt, không vì thế mà buông xuôi thành nhu nhược Biểu tượng về y phục thường gặp trong Kinh Thánh. Ơn cứu chuộc không bao giờ tự động có được: phải “đáp ứng” lời mời gọi của Thiên Chúa bằng sự biến đổi chính mình Phải “mặc lấy con người mới” (Ga-’lét 3,27; E-phê-sô 4,24; Cô-lô-xê 3,10).

Bấy giờ nhà vua bảo những người phục dịch: Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng?”

Hình phạt to lớn này và những từ ngữ khuôn sáo (Mt 8,12; 13,42; 24,51; 25,30) dùng để mô tả sự xét xử ấy làm nổi bật tính chất hoàn toàn tượng trưng của “Y phục lễ cưới”, của chiếc áo dài hôn lễ! Đi vào trong phòng tiệc cưới một lần rồi thôi chưa đủ. Tiếp nhận Lời Chúa không phải để sau cùng cất Lời ấy vào chỗ an toàn.

Những người đã thay thế cho những khách mời đầu tiên cũng thế, không Phải là những người có quyền ưu tiên: nếu họ tỏ ra bất xứng với tiệc cưới của Thiên Chúa, họ sẽ bị ném “ra ngoài”. Lời cảnh báo ấy rất nghiêm trọng? Nó cáo giác sự an toàn dễ dãi của chúng ta? Người tín hữu được nhắc nhở đến trách nhiệm của mình.

Lòng thương xót của Thiên Chúa thì vô cùng. Nhưng người ta không thể coi thường sự thánh thiện của Người. Khi chúng ta được linh mục “mời gọi” đến hiệp lễ trong thánh lễ chúng ta nghe Ngài đọc: “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Thiên Chúa”. Và chúng ta chỉ có thể nói tiếng “vâng” nhưng trước hết phải nói rằng: “Lạy Chúa con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con… nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con được lành mạnh”.

[Mục Lục]

Bài 4. CẦN CÓ Y PHỤC XỨNG HỢP KHI DỰ TIỆC HOÀNG TỬ GIÊSU
Jos. Vinc. Ngọc Biển

Theo truyền thống, phong tục của nhiều dân tộc xưa, mỗi khi nhà vua cưới cho hoàng tử, thì các đại thần được ưu tiên mời, đồng thời mọi người dân cũng được hưởng ân lộc đó của nhà vua.

Còn với chúng ta hiện nay, không nhiều thì ít, hẳn mỗi người cũng đều được mời đi dự tiệc cưới của một ai đó.

Hôm nay, bài Tin Mừng cũng trình thuật câu chuyện Vua mở tiệc cưới cho Hoàng Tử. Một đám cưới rất đặc biệt cho cả người thiết đãi lẫn khách dự tiệc! Cách hành xử của Vua cũng như quan khách lại rất khác thường!

1. Ý nghĩa dụ ngôn

Trong dụ ngôn, chúng ta thấy Đức Giêsu đã khéo léo trình bày dung mạo của Thiên Chúa với lòng bao dung, độ lượng; đồng thời thấy được sự ích kỷ của khách mời. Mặt khác, Đức Giêsu còn mặc khải cho chúng ta biết rằng: hết mọi người đều được mời đến tham dự tiệc Nước Trời. Tuy nhiên, khi được mời thì cần phải có y phục xứng đáng.

Giờ đây, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của dụ ngôn:

Trước tiên, ông Vua chính là Thiên Chúa Cha: “Ðức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25, 6). Người luôn chuẩn bị sẵn sàng: “Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng”. Tuy nhiên, không chỉ những người ưu tuyển, mà Người còn quan tâm, để ý đến mọi người: “Hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới”.

Qua hình ảnh này, thần dân sẽ cảm thấy Người là vị Vua nhân hậu, hay thương xót và quảng đại với hết mọi người.

Thứ đến, Hoàng Tử chính là Đức Giêsu. Hôn Thê là Giáo Hội. Đây là hình ảnh đẹp tuyệt vời diễn tả tình yêu giữa Đức Kitô và Giáo Hội. Hoàng Tử sẽ sống hết mình vì Hôn Thê. Chàng Rể này vì vâng lời Cha và yêu Hôn Thê của mình, mặc dù nhiều khi Hôn Thê phản bội, cố chấp, do sự hận thù, ích kỷ, bảo thủ, bất trung, bội nghĩa. Nhưng vị Hoàng Tử đặc biệt này đã sẵn sàng đón nhận tất cả, chịu đựng tất cả, yêu thương tất cả, đến nỗi chết cho người mình yêu.

Tiếp theo, khách được mời là dân Dothái, tuy nhiên họ đã khước từ và lấy lý do: “Người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán; những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi”, vì thế, nhà Vua đã quyết định mời hết mọi người, không phân biệt. Ngày cưới là ngày chung cuộc, ngày phán xét, ngày Vua tập hợp tất cả mọi người trên mọi nẻo đường, mọi thành phần tốt cũng như xấu, và đến giờ, nhà Vua mới tiến vào và phán xét mọi người để phân biệt đâu là chiên và đâu là dê!

Cuối cùng là y phục lễ cưới: tiêu chuẩn để không bị xét xử là phải mặc y phục của lễ cưới. Nếu không sẽ bị đuổi ra ngoài.

Y phục mà Đức Giêsu muốn nói đến ở đây chính là sự đổi mới. Đổi mới là từ bỏ lòng ích kỷ cá nhân để mặc vào lòng bác ái vị tha. Từ bỏ sự hiềm khích, vô ơn, bất chính, để mặc vào tình yêu thương chân chính và lòng biết ơn. Từ bỏ sự hờ hững, vô tâm để mặc lấy lòng nhiệt thành, liên đới, cảm thông.

Vì thế, mặc y phục lễ cưới là mặc lấy tinh thần mới, lối nhìn mới và cách sống mới. Tuy nhiên, thật tiếc thay, điều kiện của Vua thì rất là dễ, nhưng lại trở thành quá khó đối với một số người cố thủ trong ích kỷ, biếng nhác, tham lam và ghen ghét. Vì thế, họ bị đuổi ra ngoài: “Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng! Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít”.

Như vậy, qua bài Tin Mừng, Ðức Giêsu trình bày dung mạo một vị Vua hiền hậu lạ lùng: Ông tự ý mở tiệc và cho các đầy tớ hết lớp này đến lớp khác đi mời, dù khách được mời không thèm đến, lại còn giết các sứ giả được sai đến với họ.

Dung mạo vị Vua càng hiền hậu bao nhiêu thì càng làm nổi bật sự vô ơn bất xứng của khách được mời bấy nhiêu. Họ tỏ ra khinh mạn, hỗn xược với tấm lòng quảng đại của nhà Vua.

2. Thái độ của chúng ta trước lời mời gọi của Chúa

Trong đời sống Đạo của chúng ta hiện nay, nhiều khi không khác gì những người Dothái. Nên vẫn còn đó tình trạng: “Gần chùa gọi Bụt bằng anh”; hay không quan tâm đến việc sống đạo, mà chỉ quan tâm đến chuyện bề ngoài; hoặc không muốn nghe những lời giáo huấn của Chúa qua các đấng bậc trong Giáo Hội.

Tất cả đều khởi đi từ sự kiêu ngạo và ích kỷ. Họ để cho cái tôi quá lớn và coi mình đã đạo đức đủ nên không cần nghe và cũng chẳng có gì phải sửa!

Vì kiêu ngạo, nên không thể chấp nhận sửa sai, dù đó là Lời Chúa dạy.

Vì ích kỷ nên khó lòng chấp nhận ngồi lại với nhau để làm việc… bởi nghĩ rằng người anh chị em chúng ta không xứng tầm với mình, nên chẳng cần quan tâm.

Những người như vậy, họ như ly nước đã đầy, nên không thể tiếp thêm cho dù chỉ một giọt nước. Hay như mảnh đất quá khô cằn, nhưng khi mưa xuống thì họ lại che đậy lại, khiến nước mưa không thể tiếp xúc…

Sự hóng hách, khinh thường, chê bai, chỉ trích, bè phái… luôn luôn thường trực trong trái tim vốn đã hóa đá của họ, vì thế, nơi họ, không ai lấy đi được khỏi mắt họ cặp kính râm, vì thế họ nhìn mọi sự trước mắt đều là màu đen… tiêu cực.

Quả thật, họ đâu nhận ra tình thương của Thiên Chúa dành cho mình, nên việc khước từ ơn Chúa đến như những người được mời dự tiệc mà không hề để ý đến thiện tình của ông chủ là lẽ đương nhiên nơi những con người này.

3. Sứ điệp Lời Chúa

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đến tham dự bàn tiệc Nước Trời. Một cách cụ thể, đó là chúng ta được mời đến tham dự bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể Chúa hằng ngày nơi thánh lễ. Tuy nhiên, chúng ta đã đáp trả như thế nào? Thờ ơ lãnh đạm như dân Dothái xưa không đi dự tiệc vì quá nhiều bận rộn trong đời sống, hay chúng ta đi dự tiệc mà không mặc y phục lễ cưới là phẩm hạnh của bàn tiệc mà Đức Giêsu đòi hỏi như: y phục của lòng tin, cậy, mến; y phục của lòng ăn năn sám hối và sự kính trọng đối với Thiên Chúa; y phục của tình yêu thương, liên đới và chia sẻ với người nghèo!

Mỗi khi chúng ta hiệp dâng thánh lễ, ấy là lúc chúng ta được Thiên Chúa mời gọi vào dự bữa tiệc của tình yêu, chia sẻ, hiệp nhất. Khi được mời gọi như thế, hẳn chúng ta phải có một tâm hồn trong sạch để xứng đáng với hồng ân cao trọng này.

Đồng thời mỗi người chúng ta khi tham dự tiệc Thánh Thể, cần mặc lấy tinh thần tự hủy, liên đới vì tha thân để noi gương Đức Giêsu yêu thương hết mọi người.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con khi được tham dự bàn tiệc Thánh Thể và Lời Chúa thì cũng được biến đổi, để ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa và đủ điều kiện để một ngày kia tham dự vào bàn tiệc Thiên Quốc. Amen.

[Mục Lục]

Bài 5. Y phục xứng kỳ đức
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Tin mừng hôm nay là sự nối kết của hai dụ ngôn “hai người con” và “các tá điền sát nhân” thành một đề tài giáo huấn về tính phổ quát của ơn cứu độ, con người cần phải thống hối, ăn năn, hoán cải, phục thiện, phải cố gắng không những vào số những người được gọi, mà còn phải vào số những người được chọn nữa, bởi lẽ gọi thì nhiều mà chọn thì ít.

1. Tính phổ quát của ơn cứu độ

Câu chuyện Tin mừng gồm hai phần rõ rệt. Nhà vua mời thực khách dự tiệc cưới của hoàng tử (câu 1-10) và người khách không mặc y phục lễ cưới (câu 11-14).

a. Điều khó hiểu

- Thái độ của khách mời: Bình thường khi được các bậc vị vọng mời dự tiệc, khách được mời sẽ rất hãnh diện. Ở đây nhà vua mời dự tiệc cưới của hoàng tử. Vậy mà các khách được mời đều từ chối. Thánh Mátthêu ghi lại hai lý do: “người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán“. Thánh Luca thì ghi tới ba lý do: “Người thứ nhất nói: tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; người khác nói: tôi mới tậu 5 cặp bò, tôi đi thử đây; người khác nói: tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được” (Lc 14,18-19). Họ khước từ vì lo làm ăn và hưởng thụ cá nhân. Họ bận rộn, mải mê kiếm sống, không còn giờ cho tình người.Một số khách được mời nóng nảy quá khích, đã không dự tiệc vua mời còn bắt đầy tớ của vua, đánh đập, sỉ nhục và giết chết.

- Hành động của ông vua: Ông mời khách đến mấy lần, mời đi mời lại, năn nỉ họ tham dự. Ông còn tỏ ra hào phóng là thu nạp mọi người, bất luận tốt xấu, giàu nghèo.Thế nhưng, khi thấy một thực khách không mặc y phục lễ cưới ông ra lệnh trói chân tay, bỏ vào nơi tối tăm bên ngoài mà khóc lóc nghiến răng. Người đọc cảm thấy thật khó hiểu: những người đang ở ngoài đường đột nhiên được mời vào dự tiệc cưới thì làm sao có sẵn áo lễ mà mặc?

b. Ý nghĩa dụ ngôn

Nên nhớ, đây là một dụ ngôn nằm trong chuỗi ba dụ ngôn theo cùng một chủ đề mà Chúa Giêsu kể cho các thượng tế và kỳ mục Do thái khi họ đến chất vấn Người về thẩm quyền của Người (x. Mt 21,23). Hai Chúa Nhật trước qua hai dụ ngôn “hai người con” (21,28-32) và “các tá điền sát nhân” (21,33-43). Dụ ngôn “tiệc cưới” (22,1-14) là câu trả lời cho những thái độ của các thượng tế và pharisiêu.Thiên Chúa ban hạnh phúc Nước Trời trước tiên cho dân Do Thái, nhưng họ đã từ chối vì chuộng những giá trị trần gian hơn; Thiên Chúa lại ban hạnh phúc ấy cho muôn dân. Tuy nhiên, cũng như người dự tiệc cưới phải mặc áo cưới, tượng trưng cho cách sống. Những người được mời gia nhập Nước Trời cũng phải có một nếp sống mới phù hợp với Tin Mừng.

2. Được mời dự tiệc là niềm vinh dự và là hạnh phúc

Người Do Thái được Thiên Chúa tuyển chọn làm dân riêng của Ngài để chuẩn bị ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Thế nhưng họ đã từ chối đặc ân. Họ thờ ơ, không đếm xỉa gì đến lời mời gọi dự tiệc cưới : người thì đi thăm trại, kẻ thì đi buôn, người khác thì bắt đầy tớ nhục mạ và giết đi…

Con người có thái độ thờ ơ, lãnh đạm và coi thường như thế bởi vì họ không yêu mến Thiên Chúa, không cần Thiên Chúa. Nếu yêu thương, tôn trọng người chủ tiệc thì chắc chắn cho dù có vướng bận đến đâu họ cũng sẵn sàng sắp xếp công việc, thời gian để đi dự tiệc. Được mời là một vinh dự, nhưng đáp lời mời là biểu lộ tình cảm của bản thân dành cho gia chủ. Cũng thế, Thiên Chúa mời gọi con người vào hưởng hạnh phúc Nước Trời là do tình yêu của Ngài dành cho nhân loại, còn đáp lời mời này để hân hoan tiến vào Nước Chúa là lời đáp trả tình yêu của con người với Thiên Chúa.

Thiên Chúa mời con người đến tham dự tiệc cưới. Tiệc cưới là tiệc vui tươi, chúc mừng tình yêu của cô dâu chú rễ. Chúa Giêsu là chàng rễ, Giáo hội là cô dâu. Thiên Chúa đã mời gọi các Kitô hữu đền bàn tiệc để chia sẽ niềm vui và hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài (GLCG # 1384).

Được mời và đón nhận lời mời là một biểu lộ của tình yêu từ hai phía, Thiên Chúa và con người dành cho nhau. Thế nhưng, trong cuộc sống Kitô hữu ngày hôm nay, thái độ từ chối Thiên Chúa, thờ ơ với lời mời gọi của Ngài vẫn còn tiếp diễn nơi nhiều người.

Dụ ngôn tiệc cưới luôn mang tính thời sự. Những người từ chối dự tiệc cưới đã viện dẫn nhiều lý do chỉ vì họ không muốn đến. Những người không tham dự Thánh Lễ ngày Chúa nhật cũng có rất nhiều lý do để biện minh. Người ta có trăm ngàn lý do để từ chối lời mời tha thiết của Chúa đến dự bàn tiệc Thánh Thể, bàn tiệc Lời Chúa. Nào là chuyện gia đình, bạn bè, chuyện làm ăn, chuyện học hành, chuyện giải trí, chuyện tương lai… nào là quá bận rộn không có thời gian. Có khi chỉ là một cuốn phim đang xem, một trận đá bóng trên tivi, một bữa nhậu… nhiều người đã bỏ lễ Chúa nhật.

Người ta nại vào rất nhiều lý do từ công ăn việc làm đến những lý do bận rộn với những sinh họat xã hội để từ chối các sinh hoạt đạo đức, từ chối tham dự Thánh Lễ. Người ta nại đến nhiều lý do, nhiều hoàn cảnh khó khăn để từ chối gặp gỡ, đón nhận Chúa qua anh chị em chung quanh, để khước từ sống giới răn yêu thương của Chúa.

Là Kitô hữu, chúng ta cần xét mình về thái độ của bản thân trước những lời mời gọi dấn thân vì Nước Trời, vì tha nhân của Chúa. Đừng lấy lý do tôi quá bận rộn với công việc làm, với gia đình mà không dành giờ cho Thiên Chúa, không dành giờ cho Nước Trời, không dành giờ lo đến linh hồn mình. Bận rộn chỉ là bình phong che đậy những lười biếng, những ích kỷ. Đừng hỏi tôi có bận hay không, nhưng hãy hỏi tôi có muốn hay không? Vì lòng muốn sẽ thắng vượt mọi trở ngại, mọi toan tính.

Thánh lễ chính là tiệc cưới Nước Trời mà Thiên Chúa thiết đãi cho chúng ta hưởng nếm trước hạnh phúc, vinh quang và sự sống thần linh. Vậy chúng ta hãy dẹp bỏ đi mọi lo toan của công việc, mọi vướng bận của cuộc sống đời thường để hân hoan tiến đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể. Sau khi đã vui hưởng Tiệc Thánh, mỗi người sẽ thêm nghị lực, thêm niềm tin, thêm tình yêu.

3. Đến dự tiệc cưới phải mặc áo cưới

Muốn tham dự tiệc cưới, vào bàn tiệc chưa đủ mà còn phải mặc y phục cho thích hợp. Y phục đó tượng trưng cung cách sống đạo,trang phục bằng những đức tính và tinh thần của Ðức Kitô. Là người Kitô hữu, cần sống cho xứng đáng với danh hiệu Kitô hữu mới được vào Nước Trời. Ân sủng không chỉ là một quà tặng mà còn là một trách nhiệm phải chu toàn.

Chiếc áo cưới vào dự tiệc Nước Trời chính là ơn Thánh tẩy của Bí tích Rửa Tội. Ngày chịu phép rửa tội, tất cả mọi Kitô hữu được nhắn nhủ: “Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Ðức Ktiô. Chiếc áo trắng này là dấu chỉ tước vị của con. Nhờ lời chỉ bảo và gương lành của thân nhân giúp đỡ, con hãy mang nó tinh tuyền mãi cho đến cõi trường sinh.”

Mỗi một Kitô hữu đều có một bộ y phục lễ cưới, đó là chiếc áo trắng ngày chịu phép Rửa tội. Chiếc áo trắng ấy là tâm hồn thanh khiết của những người con cái Chúa đã được tẩy trắng trong máu Con Chiên. Chiếc áo trắng ấy được dệt bằng sợi tơ Lời Chúa mà người tín hữu phải nâng niu, gìn giữ suốt cuộc đời. Chiếc áo trắng ấy phải tinh tuyền cho đến ngày bước vào dự tiệc cưới trong Nước Trời.

Có người đã vào phòng tiệc mà vẫn bị mời ra, vì không mang y phục lễ cưới. Có người theo đạo mà vẫn không được vào Nước Trời vì họ đánh mất chiếc áo trắng ngày Rửa tội. Theo ý kiến của một số giáo phụ, chiếc áo cưới ám chỉ đức ái, tối thiểu là cuộc sống ăn ngay ở lành. Còn theo ý kiến của các nhà chú giải Kinh Thánh hiện đại, thì chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải hay sự trở về, tức là tinh thần sám hối chân thật. Như thế, chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải tâm hồn, một tâm hồn trong sạch, một tấm lòng bác ái yêu thương và một đức tin vững mạnh.

Đành rằng “chiếc áo dòng không làm nên thầy tu”, nhưng qua cách ăn mặc cũng chứng tỏ cho người khác thấy phần nào con người của mình. Khi đến thăm gia đình của người bạn với quần áo lịch sự, chứng tỏ rằng chúng ta kính trọng người bạn đó. Khi đến nhà thờ dâng thánh lễ ngày Chúa nhật, chúng ta mặc y phục đẹp nhất của mình, chứng tỏ mình kính trọng Thiên Chúa, tôn trọng anh chị trong cộng đoàn, và biểu lộ sự tự trọng đối với chính bản thân mình.

Quần áo bề ngoài xã hội như vậy, nhưng còn y phục của tinh thần và linh hồn nữa. Mỗi lần đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng phải mặc lấy y phục phẩm hạnh của bàn tiệc mà Chúa Giêsu đòi hỏi. Y phục của lòng tin, cậy, mến. Y phục của lòng ăn năn sám hối và sự kính trọng đối với Thiên Chúa.

Y phục phải xứng với kỳ đức. Chiếc áo cưới của Kitô hữu không được dệt bằng lụa là gấm vóc, không được mua từ hàng hiệu đắt tiền nhưng chính là lòng khiêm hạ, lòng tin, lòng cậy, lòng mến Chúa, lòng mến đối với mọi người.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa. Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa. Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo chân Chúa luôn.

Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.

Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.

Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.

Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen (Thánh Augustinô).

[Mục Lục]

Bài 6. HÃY MẶC ÁO CƯỚI
JM. Lam Thy ĐVD.

Việc tổ chức tiệc cưới trong xã hội loài người cũng khá đa dạng. Việc mời khách đến dự tiệc cưới cũng có nhiều phương cách khác nhau. Tiệc cưới dân dã nơi một vùng quê, bình thường thì chủ hôn mời cả làng đến dự cho đông vui và cũng thể hiện tình làng nghĩa xóm vui buồn ấm lạnh có nhau; nhưng tiệc cưới ở thành thị có khác hơn, khách mời được chọn lọc từ những mối dây thân tình, thân tộc, không đặt nặng vấn đề địa chỉ cư trú, thậm chí nhiều khi ở liền vách với nhau cũng không được mời vì lý do này nọ. Đến như tiệc cưới nơi cung đình thời phong kiến tuy cách tổ chức thật lộng lẫy xa hoa, nhưng khách được mời lại càng được chọn lọc kỹ càng, dân đen đừng hòng bén mảng. Nhìn vào những tiệc cưới như vừa kể, mới thấy cái lạ lùng nơi tiệc cưới trong bài Tin Mừng CN XXVIII/TN-A (“Dụ ngôn tiệc cưới” – Mt 22, 1-14).

Cái la lùng thứ nhất không phải ở chỗ nhà vua chọn lọc khách mời, nhưng ở chỗ khách được mời thay vì vui mừng hãnh diện, mau mắn áo quần bảnh bao tới dự, thì lại tỏ ra thờ ơ, lơ là, chẳng thèm để ý. Đến khi được nhắc nhở, không những đã không nhìn thấy cái sai của mình, mà còn chống đối lại chủ tiệc bằng cách sỉ nhục và giết chết những đầy tớ được sai đi nhắc lại lời mời dự tịêc. Chính vì thế, nhà vua mới giận dữ tru diệt những khách mời hết sức lạ lùng ấy, và sau đó nhà vua hạ lệnh mời tất cả mọi người bất kể quan hay dân, tốt hay xấu. Và đó chính là cái lạ lùng tiếp theo của tiệc cưới này. Cứ tưởng chỉ có lần trước, những người được chọn mời vì là những quan khách có vai vế trong dân mới chống đối lại ông chủ tiệc cưới; nhưng thật không ngờ lần sau (những người được mời ở những tầng lớp bình dân) cũng vẫn còn có kẻ coi thường nhà vua, không chịu mặc áo cưới.

Khi thấy có người không mặc y phục lễ cưới, nhà vua ôn tồn hỏi: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?”, nhưng “người ấy câm miệng không nói được gì”. Vì thế, nhà vua nổi giận bảo những người phục dịch: “Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng!” (Mt 22, 13). Anh chàng ngoan cố đó không thể biện hộ cho việc mình khinh thường nhà vua, bởi vì đâu có ai đi dự tiệc cưới mà lại không mặc y phục lễ cưới. Sự ngoan cố của anh ta đã chuốc lấy bản án khốc liệt. Dụ ngôn trình thuật đó là cơn thịnh nộ của nhà vua chủ tiệc cưới; tuy nhiên, suy cho cùng thì anh chàng không mặc áo cưới đã “tự kết án mình”. Phải chi anh ta “mặc y phục lễ cưới” cho đàng hoàng thì đâu đến nỗi! Những cái lạ lùng ấy cho thấy đây không phải là một tiệc cưới ở trần gian, dù cho đó có là một tiệc cưới đặc biệt nơi cung đình những triều đại phong kiến đầy xa hoa kiểu cách.

Cũng bởi vì tiệc cưới trong dụ ngôn không phải là một tiệc cưới trần gian và chủ nhân tiệc cưới tất nhiên cũng không phải là vua chúa gian trần. Và vì thế tấm áo cưới ấy hoàn toàn không phải là những soirées, những complets loè loẹt kiểu cách. Từ đó suy ra khi kể dụ ngôn này, Đức Giê-su Ki-tô muốn nói đến một tiệc cưới tối quan trọng, độc nhất vô nhị: tiệc cưới Nước Trời. Nói khác hơn, Người muốn nói đến lịch sử Cứu Độ của Thiên Chúa đối với nhân loại, mà chính Người đóng vai trò chủ yếu. Có thể thấy được 2 giai đoạn lịch sử cứu độ qua dụ ngôn: Giai đoạn đầu là giai đoạn dân It-ra-en được chọn mời, nhưng họ không những đã khước từ, mà còn có thái độ chống đối thô bạo (giết hại những đầy tớ được sai đi mời hoặc nhắc lại lời mời, đó chính là những ngôn sứ, tiên tri là những người được sai đi loan truyền Ơn Cứu Rỗi). Tuy rất thịnh nộ vì kẻ được chọn mời đầu tiên, nhưng lòng khoan nhân đại độ của Thiên Chúa vẫn không vì thế mà suy giảm. Và cũng vì thế, lịch sử cứu độ bước sang giai đoạn hai: Tất cả các dân nước trên thế giới đều được mời gọi và chỉ với một điều kiện duy nhất là phải mặc áo cưới khi dự tiệc.

Cũng vì tiệc cưới đó là “Nước Trời” nên lời mời dự tiệc cưới không gì khác hơn là “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4, 17). Nói cách cụ thể thì trước khi tham dự lễ cưới, khách được mời hãy tẩy rửa con người của mình cho trong sạch (mặc áo cưới). Sự tẩy rửa này đã được “Tiếng hô trong hoang địa” Gio-an rao giảng và thực hành. Đến ngay cả Người kể dụ ngôn “Tiệc cưới” (Đức Giê-su Ki-tô) cũng làm gương bằng cách đến xin Thánh Gio-an Tẩy Giả làm phép rửa (Lc 3, 21; Mt 3, 13-17; Mc 1, 9-11). Đó chính là Phép Rửa mà từ đó về sau, Giáo Hội quy định: Trong lễ Rửa tội, tấm áo trắng được trao cho người tân tòng mặc vào. Nó biểu tượng cho sự sống mới Chúa Giê-su đem lại cho họ nhờ cái chết trên thập giá của Người. Qua Bí tích Thánh Tẩy, người tín hữu đã cởi bỏ con người cũ tội lỗi để mặc lấy con người mới mà sống theo tinh thần Giao Ước Mới do chính Chúa Ki-tô thi hành theo ý định của Thiên Chúa Cha. Tất cả những ai muốn được dự Tiệc Cưới của Chúa Ki-tô do Thiên Chúa Cha đãi tiệc, đều phải tiếp nhận lối sống ấy (mặc áo cưới Nước Trời).

Rõ ràng “mặc áo cưới” là “cởi bỏ con người cũ tội lỗi (sám hối) để mặc lấy con người mới (canh tân)” mà vui mừng vào dự Tiệc Cưới Nước Trời. Nói cách cụ thể là phải sống đúng tinh thần CANH TÂN và SÁM HỐI (Mt 3, 1-2; Lc 3, 3). Nói đến canh tân và sám hối là nói đến chuyện vượt qua chính mình. Trèo đèo, lội suối, vượt qua sông này, biển nọ, có thể thực hiện được, chớ “vượt qua chính mình” mới là thiên nan vạn nan. Kẻ viết bài này cứ thích nhắc đi nhắc lại cho bản thân câu nói rất hay của Nguyễn Bá Học: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Vâng, khi được mời gọi, hãy chân thành nhìn lại mình với cái quá khứ chắc chắn không ít thiếu sót sai lầm của bản thân, quyết tâm sửa chữa (sám hối) để đổi mới (canh tân) toàn bộ con người của mình. Chỉ có như thế mới tránh được “vết xe đổ It-ra-en”, hầu xứng đáng là thực khách diễm phúc trong Tiệc Cưới Nước Trời.

Là Ki-tô hữu, tức là những người “được mời gọi”, phải chân nhận đó là một hồng ân, một đặc sủng, phải quyết tâm cố gắng làm sao để có thể trở thành người “được chọn”, bởi vì “Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít” (Mt 22, 14). Muốn được như vậy, thì đừng ỷ tài, cậy sức mình, mà phải biết cậy nhờ vào sức mạnh của Thần Khí, cũng bởi vì “Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ Thần Khí Ta cả trên tôi nam tớ nữ của Ta, và chúng sẽ trở thành ngôn sứ” (Cv 2, 18). Mà muốn đến được với Chủ nhân Tiệc Cưới để Người “đổ Thần Khí” cho, thì đừng quên chạy đến với Đức Maria trong tiệc cưới Ca-na, xin Mẹ ban cho “Áo Đức Bà” (*) cùng với tràng chuỗi Mân Côi huyền nhiệm làm vũ khí lợi hại để hộ thân, trước khi tiến vào Tiệc Cưới Nước Trời. Hãy vững tin kiên trì vững bước theo hành trình ấy, chắc chắn sẽ đạt được ước nguyện.

Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng, ước gì ân sủng Chúa vừa mở đường cho chúng con đi, vừa đồng hành với chúng con luôn mãi, để chúng con sốt sắng thực hành những điều Chúa truyền dạy. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN.XXVIII/TN-A).

(*) xc “Áo Đức Bà Ca-mê-lô” trong “Tài liệu về Mẹ Maria” (Thanhlinh.net)

[Mục Lục]

Bài 7. Cửa Nước Trời luôn mở, nhưng y phục phải xứng hợp
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Lại một dụ ngôn khác về Nước Trời được trình bày cho chúng ta với chủ đề sâu xa tương tương như các Chúa nhật trước. Thiên Chúa luôn đi bước trước, “Chúa dọn ra cho con mâm cỗ ” (Tv 22) “đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon” (Is 25, 6) ; “Đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa ” (x. Tv 22) “theo sự phú túc vinh sang của Người trong Đức Giêsu Kitô” (Pl 4, 12). Nước Trời luôn rộng mở cho hết thảy mọi người, bất luận tốt xấu, miễn là phải có y phục xứng hợp : “Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới ” (Mt 22, 9).

Lời mời gọi phổ quát

Qua dòng thời gian, Thiên Chúa đã mời gọi dân Ngài đi vào trong giao ước, chia sẻ tình yêu với Ngài. Nhưng tiếc thay, con người luôn đáp lại một cách khác, ngược đãi, xua đuổi các tiên tri. Giao ước không được đáp trả. Nhưng Thiên Chúa vẫn một mực trung thành, tiếp tục mở tiệc mời con người tới dự tiệc giao ước mới và đó chính là niềm vui cho mỗi người chúng ta.

Những người đầu tiên được đức vua mời đến dự tiệc cưới, nhưng viện cớ lấy lý do “như đi thăm trại…đi buôn bán” để từ chối (Mt 22, 5-6). Vì họ từ chối, nên những người khác được mời vào chia sẻ niềm vui với gia đình hai bên và đôi bạn trẻ.

Khác với những người được mời trước, những người được mời sau chẳng có công gì cũng được mời dự tiệc cưới. Họ chỉ có cơ may là được các người đầy tớ gặp ở ngã ba đường. Họ thuộc đủ mọi thành phần, bình thường không ai để ý tới.

Chúng ta tự hỏi : Liệu họ có hy vọng, có trông đợi mình được mời dự tiệc cưới kia không ? Isaia trả lời. Mọi người đều sống niềm hy vọng vì trong con người có một sự chờ đợi vô song. “Này đây Chúa chúng ta…nơi Người, chúng ta đã tin tưởng…vì ơn Người cứu độ” (Is 25). Họ hy vọng và chờ đợi chứ.

Hy vọng vào lời mời gọi phổ quát này, giả thiết không có một điều kiện tiên quyết nào, cũng không phải là lời mời của những người có lên hệ với nhà vua : “Chúa dọn ra cho con mâm cỗ…”, cho hết mọi người (Tv 22). Thật khó có thể tưởng tượng, hoặc tin rằng Thiên Chúa ban ơn ơn cứu độ nhưng không cho hết mọi người. Đây chính là Tin Mừng Thiên Chúa kêu gọi chúng ta.

Hạnh phúc vì được mời

Tiệc cưới Con Chiên” được sách Khải Huyền mô tả (19, 7, 9) hàm chứa một ý nghĩa sâu xa : “Phúc cho những ai được mời dự tiệc cưới của Chiên Con! ” Thật hạnh phúc cho chúng ta, phúc này vượt quá những gì chúng ta có thể nếm hưởng trên trần gian, đây là yến tiệc Chúa Giêsu ban cho chúng ta.

Sau Chiên Thiên Chúa linh mục mời gọi : “Đây Chiên Thiên Chúaphúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa” (Thánh lễ). Lời này gửi đến tất cả những ai sẽ tham dự vào tiệc cưới Con Chiên. Mỗi Thánh lễ là một lời loan báo và tham dự trước vào yến tiệc Nước Trời, tiệc của Hoàng Tử, Con yếu dấu của Chúa Cha, tiệc của Đức Kitô kết ước với nhân loại. Thánh Têrêsa Avila nói : “Lạy Chúa vị Hôn Thê của con, giờ đã đến, giờ con hằng mong đợi, giờ chúng ta gặp nhau. Ôi lạy Thiên Chúa là tình yêu duy nhất của con! Này là giờ con ao ước từ lâu, tâm hồn con vui sướng khi được kết hợp với Chúa! ” Chúng ta không thể gần Chúa mà không mặc lấy tâm tình của Chúa.

Nhưng phải có y phục lễ cưới

Có một điều khiến người đọc không khỏi thắc mắc và tìm lời giải đáp cho người được mời không mặc y phục lễ cưới, họ vào và bị đức vua ra lệnh: “Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng! ” (Mt 22, 13). Họ đang ở ngã ba đường, đầy tớ đức vua tình cờ gặp họ, mời họ vào bất luận họ là ai, sao lại đòi họ phải có y phục lễ cưới ?

Áo cưới mà Tin Mừng nói tới ở đây là áo nào ? Có phải các bí tích không ? Hay là Phép Rửa tội ? Vì không chịu phép Rửa tội, không ai có thể đạt tới Thiên Chúa được, nhưng có một số người lãnh nhận phép Rửa tội, không đến cùng Thiên Chúa… Có thể là bàn thờ hay điều người ta lãnh nhận từ bàn thờ không ? “Vì kẻ ăn và uống, mà không phân biệt được Thân mình, tức là ăn và uống án phạt cho mình” (1Cr 11, 29). Vậy thì là cái gì ? Ăn chay ư ? Những kẻ gian ác cũng làm thế. Đi nhà thờ ư? Những kẻ gian ác cũng đi nhà thờ như bao người khác … Vậy áo cưới này là áo nào?

Ở đây, người vào dự tiệc cưới không thụ động, chấp nhận vào thì phải tìm cách thể hiện mình xứng đáng, và đó là áo cưới. Ơn cứu độ là phổ quát, đồng ý để được cứu độ là chấp nhận sống theo những đòi hỏi của Nước Trời, áo cưới vừa thể hiện sự đồng ý, vừa chứng tỏ trách nhiệm của chúng ta.

Đời sống luân lý không phải là điều kiện duy nhất để được cứu độ, Maria Mađalêna, Giakêu và nhiều người khác được mời, họ đã hoán cải để trở nên xứng đáng với Chúa hơn. Áo cưới là những điều tốt, người dự tiệc phải có. Thánh Phaolô nói : “Ðiều lời truyền dạy phải nhằm đưa tới đức mến, phát tự tấm lòng trong sạch, lương tâm thiện hảo, và đức tin không giả hình” (1Tm 1, 5). Đây là y phục lễ cưới.

Người được mời đến dự tiệc cưới không đơn giản chỉ ăn, nhưng chia sẻ niềm vui với họ hàng hai bên, mừng hạnh phúc cho đôi bạn trẻ, nên phải có y phục xứng đáng.

Chúng ta là những tội nhân được Thiên Chúa mời dự tiệc Nước Trời. Chắc chắn ai cũng muốn mặc chiếc áo cưới tinh tuyền, không vương tội lỗi. Giáo hội Chúa không phải là một xã hội hoàn hảo, gồm có tội nhân, nhưng ý thức được tội lỗi của mình và mong muốn được tha thứ : “mặc lấy Ðức Kitô” (Gl 3, 27), chấp nhận hoán cải, thanh tẩy chính mình “để sao cho xứng với Chúa, mà làm đẹp lòng Ngài trong mọi sự ” (Cl 3, 10). Giờ đây hãy chúng ta hãy nghe lời Chúa : “Mọi sự đã sẵn sàng hãy đến !

Lạy Chúa, ước gì ân sủng Chúa vừa mở đường cho chúng con đi, vừa đồng hành với chúng con luôn mãi, để chúng con sốt sắng thực hành những điều Chúa truyền dạy. Amen.

[Mục Lục]

Bài 8. Mặc lấy Chúa Ki-tô
Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Trong một trăm người đang sống trên lục địa Á châu, chỉ có hai người được diễm phúc gia nhập Hội Thánh Công Giáo. Trong số một trăm người đang sống trên giải đất Việt Nam, chỉ có bảy người có cơ may gia nhập Hội Thánh Công Giáo. Chúng ta cũng được may mắn thuộc về thiểu số nầy. Đây quả là một hồng phúc lớn lao.

Qua dụ ngôn “Tiệc cưới” được trích đọc hôm nay, Chúa Giê-su yêu cầu chúng ta, với tư cách là những vị khách được mời dự tiệc, phải bận y phục lễ cưới.

Khi mặc đồ tang chế mà đi dự tiệc cưới, người ta nghĩ là bạn bị khùng nặng và xua đuổi bạn tức khắc. Khi bước vào bệ kiến Đức Vua mà còn mặc nguyên bộ đồ ngủ thì không khỏi bị kết tội khi quân. Khi bước vào đời quân ngũ mà ăn mặc rách rưới như kẻ bần cùng, thiếu tác phong quân nhân, thì bạn sẽ bị tống cổ ra ngay vì làm ô danh quân đội.

Hội Thánh của Chúa luôn mở rộng cửa để tiếp nhận tất cả mọi người từ khắp muôn phương bất kể sang hèn tốt xấu. Nhưng một khi đã gia nhập đại gia đình nầy, các thành viên phải cởi bỏ tấm áo xấu xa để khoác lên người trang phục xứng đáng, nghĩa là phải có những phẩm chất phù hợp với Tin Mừng.

Một con sâu tuy nhỏ nhưng cũng đủ để làm rầu nồi canh. Vài ba giọt mực tuy không nhiều nhưng cũng đủ để làm hư tấm vải trắng. Chỉ một ít tín hữu sống trái nghịch với Tin Mừng và giáo huấn Hội Thánh, cũng đủ để làm cho khuôn mặt của Giáo Hội trở nên khó thương trước mặt người khác.

Vì thế, một khi đã gia nhập Hội Thánh mà cách ăn thói ở không phù hợp thì chúng ta sẽ bị Thiên Chúa lên án nặng nề. Đoạn Tin Mừng sau đây nhắc nhở chúng ta điều đó.

“Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?” Người ấy câm miệng không nói được gì. Nhà vua liền bảo những người phục dịch: “Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”

Mặc lấy Đức Giê-su Ki-tô

Trong cuốn “Tự thú”, Augustino thuật lại kinh nghiệm lý thú sau đây: Hôm đó, Anh bị giằng co xâu xé mãnh liệt trong nội tâm giữa một bên là cải thiện đời sống để trở về với Chúa ngay và một bên là đừng vội trở về với Chúa để được hưởng thêm lạc thú trần gian. Sự xung đột nội tâm nầy gay gắt đến độ khiến Augustino gào khóc cách cay đắng và nài xin Chúa ban ơn giải thoát.

Ngay lúc bấy giờ, Augustino nghe có tiếng hát trẻ con từ nhà bên kia vọng lại: “Hãy cầm lấy mà đọc, hãy cầm lấy mà đọc…”

Nhận ra đó chính là tiếng Chúa nói với mình, Augustino vào phòng, chộp lấy Thánh Thư của Thánh Phao-lô và đọc ngay đoạn đang mở ra trước mắt: “Anh em hãy sống đoan trang tiết độ, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đảng, không kình địch ghen tương; nhưng hãy mặc lấy Đức Giê-su Ki-tô và đừng lo tìm thoả mãn những đam mê xác thịt.” (Rm 13, 13-14)

Augustino bừng tỉnh trước Lời Chúa. Anh cảm thấy đây quả là những lời Chúa nói riêng với mình. Thế là từ đây, Anh từ bỏ quãng đời tội lỗi, từ bỏ những đam mê xác thịt, rũ bỏ bộ áo bẩn thỉu hôi hám để mặc áo mới, mặc lấy Đức Giê-su Ki-tô. Anh được lãnh bí tích Thánh Tẩy vào năm 33 tuổi, hiến mình cho Chúa để trở thành một linh mục thánh thiện, về sau được cất nhắc lên giám mục và trở thành vị thánh chói ngời, đồng thời cũng là tiến sĩ Hội Thánh.

Trong ngày chúng ta lãnh bí tích Thánh Tẩy, ngày chính thức gia nhập Hội Thánh, linh mục chủ sự thay mặt Hội Thánh trao cho chúng ta tấm áo trắng với lời kêu gọi: “Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Chúa Ki-tô. Vậy con hãy nhận chiếc áo trắng nầy, hãy mang lấy và giữ nó tinh tuyền cho đến khi ra trước toà Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, để con được sống muôn đời”.

Lạy Chúa Giê-su,

Xin giúp chúng con đừng luyến tiếc áo cũ đã hoen ố vì vô vàn thói xấu tật hư. Xin ban thêm sức mạnh để chúng con dứt khoát cởi bỏ nó để quyết tâm mặc lấy áo mới, mặc lấy Đức Ki-tô, mang những tâm tình cao đẹp như Chúa, cư xử ôn hoà nhân ái như Chúa, biết thứ tha, yêu thương và phục vụ như Chúa… Nhờ đó, chúng con sẽ được cùng với Chúa dự tiệc vui muôn đời.

[Mục Lục]

Bài 9. Mặc áo cưới
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Với tình thương yêu, Thiên Chúa dọn tiệc mời.

Đọc dụ ngôn tiệc cưới, tôi không khỏi ngỡ ngàng trước tình yêu thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa mời con người đến dự tiệc cưới Con của Người. Điều đó chứng tỏ Thiên Chúa yêu thương con người.

Đó là một tình yêu nhưng không.

Thiên Chúa là vị vua cao sang. Ta chỉ là đám tiện dân hèn hạ. Sao Chúa lại mời ta. Theo lẽ thường ở đời người ta chỉ mời những người ngang vai bằng vế. Một bữa tiệc thường có mục đích củng cố uy tín của chủ nhân và ràng buộc khách mời vị vọng để khi hữu sự cần nhờ. Vua Trời mời tiện dân hèn hạ thì có lợi gì. Không những hèn hạ mà còn đui, què, mẻ, sứt nữa. Ta là những hạng rác rưởi của xã hội, chẳng có gì đền đáp cho chủ nhân. Chẳng đem lại một chút vinh dự nào cho chủ nhân. Thế mà Người vẫn mời ta. Rõ ràng là do tình thương của Người. Đó là tình yêu nhưng không. Người không mong ta có gì đền đáp. Người mời ta chỉ vì yêu thương ta mà thôi.

Đó là tình yêu chia sẻ.

Thiên Chúa tràn đầy vinh quang không còn thiếu thốn gì. Tại sao Người còn mời những con người hèn hạ vào Nước Trời làm gì cho thêm bận. Thưa vì Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu của Người vô biên nên Người khao khát chia sẻ. Người vô cùng tốt lành nên Người muốn thông ban hạnh phúc cho loài người. Tình yêu mãnh liệt khiến người nảy sinh những sáng kiến kỳ diệu. Cho Con Một mặc lấy bản tình loài người để nâng loài người lên. Mời gọi loài người vào hưởng hạnh phúc với Người. Nâng loài người hèn hạ lên bậc thượng khách trong tiệc cưới. Nâng loài người tôi tớ lên hàng con cái trong Nước Trời. Đưa nhân loại bơ vơ đầu đường xó chợ vào ngồi đồng bàn với hàng thần thánh trên trời.

Chẳng có gì có thể giải thích được thái độ của Thiên Chúa. Chỉ có tình yêu. Đó là một tình yêu vô cùng mãnh liệt và hoàn toàn vô vị lợi. Tình yêu muốn chia sẻ hết những gì mình có. Tình yêu hoàn toàn vì người mình yêu. Mong muốn mọi sự tốt đẹp cho người mình yêu.

Tôi phải mặc áo cưới tới dự.

Tình yêu Thiên Chúa tha thiết nhưng vẫn tôn trọng tự do. Trước lời mời gọi của Thiên Chúa, tôi có thể nhận lời hoặc chối từ. Khi dọn tiệc, Chúa mong tôi tới dự. Khi mở rộng cửa trời, Chúa mong tôi bước vào. Khi mời gọi, Chúa mong tôi trả lời. Khi bày tỏ tình yêu, Chúa mong tôi đền đáp. Tuy nhiên, nhận lời đền đáp đòi phải có điều kiện. Đến dự tiệc cưới phải mặc áo cưới.

Mặc áo cưới là mặc lấy nhân phẩm. Được mời vào dự tiệc cưới Con Vua, tôi không còn là phường rác rưởi của xã hội nữa. Tôi đã được Chúa trân trọng. Nâng lên hàng thượng khách, là khách mời của Vua. Mặc áo cưới ở đây là tự trọng, cư xử như người tự do. Chúa đã phục hồi nhân phẩm cho tôi, tôi phải trân trọng giữ gìn.

Mặc áo cưới là mặc lấy tình yêu. Vì yêu thương Chúa đã mời tôi vào chung hưởng hạnh phúc với Người trong tiệc cưới. Đáp lại, tôi phải có tình yêu mến đối với Người. Tình yêu đáp đền tình yêu. Mặc áo cưới là trân trọng tình yêu của Chúa, là muốn đáp lại tình yêu của Chúa.

Mặc áo cưới là mặc lấy Chúa Kitô (x. Gl 3,27). Được ơn cứu độ, ta trở thành em Chúa Kitô, vì thế ta phải noi gương Người mặc lấy tâm tình người con được Cha yêu thương và biết lấy tâm tình hiếu thảo đáp lại tình Cha. Mặc lấy Chúa Kitô cũng là mặc lấy con người mới là hình ảnh của Thiên Chúa công chính và thánh thiện (x. Ep 4,24).

Thiên Chúa yêu thương mời gọi ta vào hưởng hạnh phúc Nước Trời. Đáp lại, ta phải đổi mới đời sống cho phù hợp với Nước Chúa, với tình yêu của Chúa và với địa vị mới của ta.

Lạy Chúa, xin cho con biết mạnh dạn đáp lại lời Chúa mời gọi.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Hằng ngày Chúa vẫn mời gọi tôi đến dự tiệc Thánh Thể, tôi có mau mắn đáp lời hay tôi thường từ chối?
2) Mặc áo cưới là theo Chúa quyết liệt, không nửa vời tôi theo đạo nhưng tôi có thực hành Lời Chúa không?
3) Bạn phải làm những gì để được coi là “mặc áo cưới”
?

[Mục Lục]

Bài 10. “Những kẻ được mời không xứng đáng”
Lm Gioan B. Phan Kế Sự

1. “Làm sao bạn vào đây mà không có y phục lễ cưới”

Chuyện dài nhiều tập của những kẻ coi thường mọi hành rào của luân thường đạo lý. Chuyện thật dễ hiểu của nét văn hóa dành cho những người học thức: khi ta biết tôn trọng người khác thì người khác cũng sẽ tôn trọng mình. Thường người ta chỉ thích và bắt người khác tôn trọng ý riêng mình, còn ngược lại thì lại làm lơ tất cả, thậm chí coi thường và tỏ ra mình là phường vô học. Thái độ không đúng mức sẽ bị trừng phạt như những kẻ được mời nhưng không xứng đáng.

Thật hớ hênh và lố bịch khi chúng ta “không có lòng tự trọng”. Thật khó coi, khi chính mình muốn được người khác kính trọng và đánh giá cao về mình, thì chính hành động lố bịch của chúng ta tự tố cáo sự trơ trẽn của mình. Cũng thật công bằng, khi chính mình không biết tôn trọng tha nhân hay không biết tự trọng mình, thì chẳng ai dại gì mà kính trọng chúng ta.

Thật trơ trẽn khi chúng ta không biết trân trọng “lời mời” của Đức Vua khi vào dự tiệc cưới của Hoàng Tử. Được mời vào dự tiệc cưới của Hoàng Tử, được chung chia vinh dự cùng với khách dự tiệc, được hưởng dùng những “cao lương mỹ vị”… Quả là điều vượt mọi ước mơ của mỗi người chúng ta. Không còn biết đâu là trọng, đâu là hèn, đâu là điều cần phải làm, đâu là điều phải tránh; thì tự thân giá trị của người đó trở thành con số không. Chẳng ai dại gì mà phải kính trọng những hạng người chỉ biết sống cho mình, vì mình, vì cái chỗ đứng của mình mà chẳng bao giờ biết trân trọng những giá trị khác ngòai mình!

Thật xấu hổ khi chúng ta không biết chuẩn bị, không biết sắm sửa được một “bộ cánh đàng hoàng” cho chính mình. Và cũng thật nhục nhã khi chính chúng ta bị “tống vào ngục”, không tự lo được cho phần rỗi mình. Con cái trong nhà, lẽ ra là người được ưu tiên hơn cả, nay lại bị đuổi ra ngoài đường, là kẻ ngoại cuộc. Quả thực là quá xấu hổ và đáng thương thay cho họ.

2. “Những kẻ được mời không xứng đáng”

Trong tình thương của Thiên Chúa, mỗi người chúng ta có “một chỗ đứng rất riêng và khác biệt” Ngài muốn tất cả chúng ta thuộc về Ngài và không để một ai phải hư mất. Ngài mời gọi từng người chúng ta vào vui hưởng hạnh phúc của bàn tiệc muôn đời.

Trong tình thương của Thiên Chúa, Ngài mời gọi tất cả chúng ta dự tiệc cưới của Hoàng Tử không loại trừ ai, dù là những người nghèo khổ, hèn kém “không có tiền để mua rượu và thịt” Trong tình thương của Ngài không có từ ngữ loại trừ, nhưng rộng mở để đón nhận tất cả, ôm trọn tất cả và tha thứ tất cả.

Nhưng Thiên Chúa lại luôn tôn trọng tự do của mỗi người chúng ta. Ngài không áp đặt quyền của Ngài trên sự tự do và chọn lựa của mỗi người chúng ta. Ngài muốn tất cả chúng ta tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình.

Chiếc áo cưới mà mỗi người phải biết chuẩn bị cho mình, chính là chiếc áo tình thương mà mỗi người phải tự sắm. Trong bữa tiệc vui của gia đình, chẳng ai dại mời một người xa lạ vào dự tiệc, khi họ không hề có một chút liên hệ tình cảm hay chút tình nghĩa gì. Khoác tấm áo Lời Chúa, mặc vào thân giới răn yêu thương của Chúa, chúng ta sẽ trở thành người nhà của Chúa.

Lời cầu nguyện:

Lạy Chúa, thật vinh dự cho mỗi người chúng con khi được Chúa mời gọi vào tham dự Bàn Tiệc Nước Trời. Nhưng Chúa cũng đòi hỏi chúng con phải tự kiếm cho mình chiếc áo cưới. Thật xấu hổ khi cả đời chúng con không tự dệt nổi cho mình chiếc áo cưới. Xin giúp chúng con biết tích cực tích lũy những giá trị cho đời mình, để xứng đáng hơn với lời mời của Chúa. Amen.

[Mục Lục]

Bài 11. Suy niệm của Lm. Anthony Đinh Minh Tiên

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Giữ quân bình cho cuộc sống

- Nhu cầu vật chất, nhất là ăn uống, có thể nói là nhu cầu căn bản nhất của con người. Để có thể thỏa mãn nhu cầu này, con người phải dành hầu hết thời gian để làm việc kiếm tiền, để chuẩn bị nấu nướng, và để thưởng thức. Tuy nhiên đây không phải là nhu cầu duy nhất của con người, bên cạnh đó, con người còn có những nhu cầu về tình cảm, hiểu biết, và nhất là mối tương quan với Thiên Chúa. Các Bài đọc Chủ Nhật tuần này đều hướng về nhu cầu ăn uống, nhưng với những bài học khác nhau.

- Trong Bài đọc I, tiên tri Isaiah hướng lòng con người về Bữa Tiệc Nước Trời. Chỉ có Bữa Tiệc này mới hòan tòan thỏa mãn mọi khát vọng của con người.

- Trong Bài đọc II, thánh Phaolô dạy cho chúng ta biết làm chủ cuộc đời, khi no cũng như khi đói, khi đầy đủ cũng như lúc tùng thiếu. Điều quan trọng là biết trông cậy vào Chúa trong mọi lúc; chỉ có Ngài mới có thể thỏa mãn mọi nhu cầu của con người.

- Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu gióng lên tiếng chuông để cảnh tỉnh mọi người: Quá bận rộn với nhu cầu vật chất có thể làm cho con người quên đi hay từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa vào tham dự Bàn Tiệc Nước Trời.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Bàn Tiệc Nước Trời

Tiên tri Isaiah được Thiên Chúa cho thấy trước hòan cảnh đau khổ của dân tộc Do-Thái khi phải sống lưu đày bên Assyria và Babylon. Họ sẽ phải đau khổ vì đói khát, vì chết chóc, và vì bị Thiên Chúa bỏ rơi; nhưng ông cũng thấy trước ngày Thiên Chúa sẽ khôi phục và cho họ trở về. Đó là ngày họ sẽ được hân hoan vào dự Bàn Tiệc Nước Trời. Giống như cuộc lưu đày của dân Do-Thái, cuộc đời con người cũng được ví như những chuỗi ngàu lưu đày xa Chúa, con người cũng ra sức tìm kiếm để thỏa mãn các nhu cầu trong cuộc đời; nhưng con người sẽ không tìm thấy bất cứ đâu ngòai Bàn Tiệc Nước Trời. Những nhu cầu căn bản được tiên tri Isaiah ghi lại trong Bài đọc hôm nay:

(1) Hai nhu cầu căn bản cho cuộc sống con người là ăn và uống. Con người ra sức làm việc và dành rất nhiều thời gian cho hai nhu cầu này, nhưng vẫn không hòan tòan thỏa mãn cho đến ngày: “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế.”

(2) Con người có thể đạt mọi ước mơ trong cuộc đời: vợ đẹp, con khôn, giàu có, danh vọng, quyền lực … Nhưng khi phải đối diện với tử thần, con người không thể kéo dài cho đời mình dù chỉ một giây phút ngắn ngủi. Sự chết là nỗi đau khổ lớn nhất của con người vì nó tước đọat tất cả những gì mà con người vất vả xây dựng. Nhưng con người vẫn còn hy vọng thắng được cái chết, vì ngày ấy: “Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần.”

(3) Con người muốn hạnh phúc nhưng cuộc đời là bể khổ. Đau khổ vì trăm ngàn thứ bệnh tật, đau khổ vì hận thù chiến tranh, đau khổ vì thiên tai bão lụt… Con người chỉ tìm thấy sung sướng hạnh phúc trong Ngày ấy, ngày mà: “Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người sẽ xoá sạch nỗi ô nhục của dân Người. Đức Chúa phán như vậy.”

(4) Không có sự dằn vặt nào lớn hơn sự dằn vặt của con người có mặt trong cuộc đời mà không biết ai sinh ra mình. Không những thế, con người còn được nghe và xem thấy rất nhiều những sự tốt lành và hứa hẹn của Đấng ấy, như lời của Thánh Augustine trong tác phẩm Tự Thú: “Thiên Chúa dựng nên con cho Ngài, và hồn con những khắc khỏai mong chờ, cho tới khi được an nghỉ trong Chúa.” Niềm mong đợi sâu xa nhất của con người cũng sẽ được thỏa mãn trong Ngày đó, ngày mà người ta sẽ nói: “Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông. Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ.”

Chỉ khi nào những niềm trông đợi trên của con người được hòan tòan thỏa mãn thì “Bàn tay Đức Chúa sẽ đặt trên núi này mà nghỉ.”

2/ Bài đọc II: Tin tưởng nơi Thiên Chúa hơn là tin tưởng nơi con người.

2.1/ Cần luyện tập để trở thành con người có bản lãnh: Có những người đã quá quen với cuộc sống sung túc nên cảm thấy rất đau khổ khi phải sống thiếu thốn. Ngược lại, có những người đã sống trong cảnh nghèo lâu năm, không biết phải cư xử làm sao khi bỗng chốc trở nên sang giầu vì trúng số hay được thừa hưởng gia tài; rốt cuộc, tiền của cũng hết mà cuộc sống còn tàn tệ hơn trước. Người có bản lãnh là người biết điều khiển cuộc sống mình trong mọi hòan cảnh như thánh Phaolô: “Tôi sống thiếu thốn cũng được, mà sống dư dật cũng được. Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen cả. Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết. Tuy nhiên, anh em đã chia sẻ với tôi, khi tôi gặp cơn quẫn bách, như thế là phải.”

2.2/ Thiên Chúa sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời: Cái đau khổ nhất của con người là không tin nơi Thiên Chúa; vì thế, họ phải vất vả để lo cho mình. Thánh Phaolô nhắc nhở những người này: “Thiên Chúa của tôi sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Giêsu Kitô.” Hơn nữa, có những điều mà con người không thể tự lo cho mình được: sức mạnh để chịu đau khổ, sự chết, ơn cứu độ. Một thái độ tin tưởng nơi quyền năng và tình yêu Thiên Chúa sẽ giúp con người sống vui vẻ, bình an, và hạnh phúc trong cuộc đời hơn.

3/ Phúc Âm: Tiệc cưới Nước Trời: Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.

3.1/ Quan khách được mời vào dự tiệc cưới Nước Trời: Giống như Bàn Tiệc Nước Trời trong Cựu Ước của tiên tri Isaiah, Chúa Giêsu cũng ví Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình. Người Vua này là hình ảnh của Chúa Cha, Người Con đây là Chúa Giêsu, quan khách được mời là người Do-Thái, dân riêng được Chúa tuyển chọn. Các đầy tớ của nhà Vua là các tiên tri, các Tông Đồ, và những môn đệ của Chúa. Nhà vua tuy có quyền lực để truyền lệnh hay bắt tới, nhưng ông rất kiên nhẫn sai các đầy tớ đi mời quan khách ít là hai lần; nhưng các quan khách vẫn từ chối không chịu đến.

3.2/ Phản ứng của quan khách: Tuy nhà vua đã làm đủ mọi cách, nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới. Phúc Âm tường thuật 2 phản ứng chính:

- Kẻ thì ra đồng, người thì ra tiệm: Phản ứng này có lẽ là thông thường nhất. Con người vì quá bận rộn với công việc làm ăn khiến họ không còn thời giờ và từ chối lời mời gọi vào dự tiệc cưới Nước Trời.

- Còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết. Phản ứng của hạng người này thật khó hiểu: không đi thì thôi, tại sao lại bắt người, sỉ nhục, và giết chết? Nếu chúng ta quan sát những gì đang xảy ra ở Hà-Nội, chúng ta có thể hiểu phản ứng của những người này. Được mời gọi để tôn trọng công bằng và sự thật, họ đáp lại bằng bất công, gian trá, đàn áp, và đe dọa tù đày! Được mời gọi để hướng lên Trời suy nghĩ về đích điểm của cuộc đời, họ từ chối không nhìn lên và tiếp tục nhìn vào những mối lợi vật chất mà họ sẽ mất. Nếu đã được chứng kiến niềm tin của biết bao tín hữu coi thường cái chết và sẵn sàng chịu đau khổ để làm chứng cho Tin Mừng, mà họ vẫn giả điếc làm ngơ thì con người mới thấu hiểu được sự tức giận của nhà vua khi biết họ đối xử tàn tệ với các đầy tớ của mình.

3.3/ Phản ứng của nhà Vua: Khi hay tin các phản ứng của quan khách đối xử tàn tệ với các đầy tớ của mình, nhà Vua liền nổi cơn thịnh nộ và làm 2 việc chính:

(1) Trước tiên, nhà vua sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu huỷ thành phố của chúng. Sự phá hủy tan tành của Jerusalem vào năm 70 AD bởi đế quốc Rôma có lẽ là những gì mà Chúa Giêsu muốn ám chỉ ở đây.

(2) Thứ đến, nhà vua bảo đầy tớ: “Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới.” Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách. Vì người Do-Thái khước từ không chịu tiếp nhận Con Thiên Chúa, nên Tin Mừng được loan báo cho tất cả mọi người, mọi quốc gia, mọi thành phần trong xã hội: tốt cũng như xấu.

(3) Dự tiệc cưới mà không mặc y phục lễ cưới: Khi nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?” Người ấy câm miệng không nói được gì. Nhà vua liền bảo những người phục dịch: “Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng!” Nhiều người cho phản ứng của nhà Vua khó hiểu ở đây vì những khách dự tiệc được mời sau không có thời giờ để chuẩn bị y phục lễ cưới. Lý do này không vững chắc vì tại sao biết bao nhiêu người khác với hòan cảnh tương tự như anh ta lại có thời giờ chuẩn bị? Hơn nữa, không phải tất cả những người được mời là xứng đáng được chọn, như lời Chúa kết luận: “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.” Để được vào Nước Trời, con người cần đáp ứng những điều kiện đưa ra bởi Thiên Chúa.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Không có gì trên thế gian có thể thỏa mãn hòan tòan những khát vọng của con người. Chỉ có Bàn Tiệc Nước Trời mới có thể thỏa mãn mọi khát vọng đó.

- Chúng ta cần phải ăn uống để sống, nhưng đừng quá lệ thuộc vào chúng mà quên đi những nhu cầu khác. Như thánh Phaolô, chúng ta cần làm chủ cuộc sống khi đói cũng như khi no; và trong mọi lúc, chúng ta phải luôn trông cậy vào Chúa, là Đấng duy nhất có thể cho con người thỏa mãn hòan tòan.

- Chúng ta phải rất cẩn thận để đang khi phải lo lắng làm việc kiếm của ăn cho thân xác, chúng ta đừng quên lời mời gọi của Thiên Chúa vào dự Tiệc Cưới Nước Trời. Thiên Chúa đã gọi nhưng để được vào con người có tự do đáp trả, như Chúa Giêsu đã cảnh cáo: “Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.”

[Mục Lục]

Bài 12. Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng

TỪ BÀN TIỆC THÁNH

Câu chuyện về cái chết của triết gia Socrates như sau:

Năm 399 BC. Meletus và Anytus đã tố cáo Socrates là “vô đạo và làm hư hỏng thanh niên”. Socrates bị 11 vị Thẩm phán của chính quyền Hy Lạp kết án tử hình về tội dụ dỗ thanh niên theo tà thuyết và phản loạn. Trong các hình phạt dành cho tử tội, ông chọn chén thuốc độc. Apollodore luôn đầm đìa nước mắt, có lúc gào lên, làm cho Platon không thể cưỡng lời thầy, khóc theo. Còn Criton thì như đứt từng khúc ruột, nhưng sợ thầy, ông lén ra ngoài khóc cho bớt đau khổ. Tuy vậy, khi thấy các học trò khóc, Socrates phải quát lên: “Các con làm gì kỳ vậy? Sở dĩ thầy đuổi hết các bà các cô ra ngoài, là để tránh sự mất bình tĩnh như vậy. Các con phải cương nghị. Chúng ta phải chấm dứt cuộc đời một cách êm ái, thảnh thơi chứ!

Buổi chiều hôm ấy, mặt trời xuống dần, Socrates bước ra từ phòng tắm, ông gặp ba người con một lúc rồi bảo họ ra ngoài chỗ mấy người đàn bà đang sụt sùi. Chỉ mấy người môn đệ của ông là được ở lại. Người cai ngục bước ra bảo ông hãy tự uống chén thuốc độc, đã có người mang tới, sẵn sàng ở phòng bên. Người này tỏ ra mến phục nhân cách của ông, thậm chí anh ta cũng khóc sướt mướt lúc vĩnh biệt ông. Socrates ra dấu cho Criton môn sinh của mình, bảo người mang thuốc độc vào cho ông uống. Criton nói: “Thưa thầy, mặt trời chưa lặn. Đừng vội lìa bỏ chúng con. Thiếu gì người nấn ná, ăn uống, chuyện vãn với gia đình, họ hàng rất lâu”, Nhưng Socrates mắng ông: “Họ làm như vậy có được thêm lợi lộc gì đâu. Thầy không muốn bám chặt thêm cuộc sống, khi chẳng thể giữ nó mãi được! Con hãy nghe lời thầy”…

Cầm chén thuốc trong tay, ông căn dặn lại các môn đồ: “Hãy bình tĩnh, đừng thay đổi sắc diện” rồi từ từ đưa chén độc dược lên miệng uống một hơi êm ái hiền hoà. Lúc ấy, Plato và các môn đệ khác nhìn ông uống từng hớp tử thần mà chết đứng, tê cóng người. Nước mắt tuông trào như hai giòng suối mà không dám để tiếng nức nở thoát ra. Trong Phaedo Plato thốt lên: “Từ đây thế là hết!”, ông không khóc cho thầy, vì một người như thầy mình, không cần ai khóc khi qua đời. Tôi khóc cho chính tôi, vì từ đây, tôi đã mất đi một người thầy, một người anh, một người bạn, mà không sao có thể kiếm được người thứ hai trên cõi đời này.

Đó là một cái chết can đảm. Socrates đã bước vào thế giới vĩnh hằng với sự “chấm dứt cuộc đời một cách êm ái và thảnh thơi”. Đó là bài học cuối cùng ông dạy cho các môn sinh.

ĐẾN VỚI CHÚA VỚI TÂM HỒN TRONG TRẮNG

Đời ai cũng có một đoạn kết, để bước vào cõi bất tử. Cho dù con người có lý tưởng và tâm linh thế nào, một sự ra đi bình an vẫn là niềm mong đợi. Một sự ra đi bình an để vào thế giới hạnh phúc, đó là niềm tin tôn giáo. Thế giới Tình Yêu và được chung hưởng vinh quang Thiên Chúa, là niềm tin Kitô hữu.

Đối với niềm tin chân chính, người vào thế giới vĩnh hằng đều có một tâm hồn trong sáng. Họ rửa sạch tâm hồn họ theo tiếng gọi của Đấng Tối Cao mà nhiều khi họ chưa hiểu rõ về Ngài. Họ sống theo nẻo thiện lương, ăn ngay, ở lành, và họ được Thiên Chúa yêu thương vì tâm hồn đơn sơ như trẻ thơ của họ.

Đối với niềm tin Công Giáo, tâm hồn họ đã được tẩy rửa trắng tin trong máu Đức Kitô, và họ không ngừng được thanh luyện qua các bí tích.

Sau đó, tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng. Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế…

“Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên”. (Kh.7,9-14).

“Chiếc áo trắng tinh” ấy là mặc lấy Đức Kitô, là “y phục lễ cưới” mà Thiên Chúa muốn con người mặc vào trong tiệc cưới dành cho mối duyên Con Thiên Chúa và nhân loại. Là tình yêu Thiên Chúa dành cho con người.

“Chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đúng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng; cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng”. (Rm 13, 12-14).

Thiên Chúa yêu thương con người vô điều kiện, nhưng để thật sự gọi là tình yêu, bao giờ cũng có sự tự nguyện đón nhận. Nó không phải là điều kiện để yêu, mà là điều kiện để có thể gọi là tình yêu. Yêu, là yêu ai. Tự dưng nói yêu, động từ yêu trơ trọi, nó chỉ là một từ ngữ vô nghĩa!

Tình yêu chỉ đạt được trọn vẹn, khi tình yêu có sự tự nguyện đáp lại. Con người đáp lại tình yêu Thiên Chúa khi họ đã tự nguyện thanh luyện để vươn lên với tình yêu của Ngài.

Nếu con người không đáp lại tình yêu Thiên Chúa, con người thuộc về thế giới đen tối – thế giới Sa-tan – thì làm sao có tình yêu tồn tại được?

Sao lại không mặc “y phục lễ cưới”? Y phục lễ cưới đã có sẵn ở phòng trang điểm, người không màng vì tới khâu chuẩn bị vào dự tiệc, chắc chắn lòng cũng không tha thiết gì đến niềm vui tiệc cưới. Không có sự tôn trọng, có tình yêu không?

TỪ BÀN TIỆC THÁNH ĐẾN TIỆC CƯỚI NƯỚC TRỜI.

Một bé gái bệnh nặng, một hôm biết mình khó qua khỏi, em gọi cha mình lại để nói chuyện. Người cha này rất nguội lạnh, lại hay chè chén ăn chơi, không bao giờ đến nhà thờ. Em hỏi: – “Cha có thương con không?”. Người cha cảm động nói: – “Sao con lại hỏi thế, cha rất yêu con!”. – “Con sắp xa cha rồi, con sắp về với Chúa rồi!”. – “Không! Con sẽ mạnh, cha thương con lắm!”. Người cha ôm con khóc nức nở. – “Con sẽ gặp Chúa, con yêu Chúa, nhưng con cũng yêu cha, con không muốn xa cha, cha có muốn gặp lại con không?” – Người cha nghẹn ngào đáp: – “Có, con yêu!”. – “Vậy cha hứa với con là cha sẽ đi nhà thờ nhé! Con muốn được gặp lại cha trên Thiên Đàng”. Người cha trả lời trong nước mắt: – “Cha hứa!”. – “Con vui lắm rồi, con sẽ gặp lại cha nhé!”. Bé gái nhìn cha mỉm cười, sau đó vài phút, nó ra đi.

Người cha từ đó trở thành một con chiên ngoan đạo, rồi ông giúp nhiều việc ở nhà thờ.

Để đến Bàn Tiệc Thánh, đến với bí tích Thánh Thể, người Công Giáo có sự chuẩn bị trước đó: “mặc chiếc áo tâm hồn trắng tinh” để đón nhận Mình Thánh Chúa.

Và từ Bàn Tiệc Thánh trong Giáo Hội Lữ Hành này, người Công Giáo đã sẵn sàng cho mình “y phục lễ cưới” để vào dự Tiệc Cưới Nước Trời.

“Họ đã giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên”, trong bí tích Rửa Tội, và họ không ngừng chiến đấu trong cuộc đời để giữ mãi màu áo trinh nguyên ấy trong ăn năn sám hối, trong bí tích Hòa Giải, trong ơn sủng của những bí tích thánh hóa, trong việc thực thi Giới Luật Yêu Thương.

Từ Bàn Tiệc Thánh, đời sống người có Đức Tin luôn thăng hoa, họ tránh xa được những dục vọng hạ đẳng, những ước muốn thấp hèn, đời sống nhân bản của họ được đặt trên nền tảng của Tình Yêu Thiên Chúa. Tình yêu biến đổi lòng họ để họ xứng đáng đón nhận tình yêu bao la mà Thiên Chúa dành cho họ. Người ta luôn vượt qua những thử thách, từ bên ngoài hay chính tại lòng mình, để gìn giữ tình yêu. Vì tình yêu cho ta hạnh phúc. Chúa là Tình Yêu, là suối nguồn hạnh phúc, sao ta không vượt qua thử thách để gìn giữ Tình Yêu đó. Sao ta không mặc “y phục lễ cưới” để bước vào Tiệc Vui của Ngài?

Chiếc áo trắng tinh nào mà không cần phải tẩy sạch. Tâm hồn trong sáng nào mà không cần sám hối ăn năn!

Vì thế, từ Bàn Tiệc Thánh, từ Thánh Thể, người Công Giáo đã chuẩn bị sẵn sàng “Y phục lễ cưới” vào dự Tiệc Cưới Nước Trời – “Bàn Tiệc Thánh Đời Đời” trong Vương Quốc Tình Yêu Thiên Chúa.

Lạy Chúa,

Xin rửa con sạch hết lỗi lầm

tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy…

Xin dùng cành hương thảo

rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được tinh tuyền;

xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết… Amen.

[Mục Lục]

Bài 13. Nếu cuộc sống thiếu tình yêu?
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Ở đời có yêu nhau người ta mới dám hy sinh dành thời giờ cho nhau, mới hy sinh làm vui lòng nhau. Có yêu nhau người ta mới chẳng quản ngại ngăn sông cách núi để “Tam tứ núi cũng trèo – Thất bát sông cũng lội, thập cửu đèo cũng qua”. Ngược lại nếu không có tình yêu thì cuộc đời sẽ không có hy sinh và càng không cần làm vui lòng nhau. Phải chăng đó cũng là lối cư xử thiếu tình yêu của con người đối với Thiên Chúa mà bài tin mừng hôm nay Chúa Giê-su đề cập đến? Phải chăng lời Chúa hôm nay là bức tranh tương phản giữa tình yêu quảng đại của Thiên Chúa và thái độ vô ơn, bất kính của con người?

Thiên Chúa là chủ tiệc. Thiên Chúa thiết đãi một bữa tiệc chứa chan hạnh phúc cho con người. Nhưng tiếc thay, con người đã từ chối lòng tốt của Thiên Chúa. Ngay từ đầu trong vườn địa đàng, Adam đã từ chối chung bàn với Thiên Chúa. Ông muốn loại trừ Thiên Chúa. Ông muốn bước đi theo lối đi của ông. Một lối đi theo ý mình. Một lối đi không có Thiên Chúa. Hậu quả là đau khổ và sự chết đã đi vào kiếp người. Cũng từ đây tình yêu của Thiên Chúa theo đuổi con người suốt dọc dài lịch sử ơn cứu độ. Thiên Chúa vẫn tiếp tục kiên nhẫn mời gọi, dẫn dắt con người trở về trong sự hiệp nhất với Ngài. Các tiên tri và Chúa Giê-su đều dùng hình ảnh bữa tiệc để nói về niềm vui của sự xum vầy bên Chúa và bên nhau trong hoan lạc hạnh phúc.

Thế nhưng, cho thì nhiều mà đáp trả chẳng bao nhiêu. Con người qua mọi thời đại vẫn tìm nhiều cách để khước từ lời mời gọi đầy yêu thương của Chúa. Nhiều người vẫn đang tìm cho mình một lối đi không có Thiên Chúa. Họ muốn tự hành xử theo ý mình và bắt người khác theo ý mình. Một thế giới không có Thiên Chúa chỉ dẫn đến chiến tranh hận thù, nghị kỵ và kết án lẫn nhau. Một thế giới không có Thiên Chúa sẽ dẫn đến một nhân loại gồm toàn những người quá đề cao cái tôi đến nỗi chẳng ai chịu nghe ai. Đó là kinh nghiệm đắng cay nhưng đáng tiếc, chẳng mấy ai chịu sửa sai!

Có nhiều người hôm nay nhân danh đạo tại tâm để từ chối việc đến nhà thờ, ngay cả thánh lễ Chúa nhật họ vẫn dửng dưng xem thường. Họ cho rằng đạo tại tâm là không cần biểu lộ ra bên ngoài nhưng họ quên rằng cái tâm đó phải thể hiện ra bên ngoài bằng thái độ giữ đạo chân thành, không giả dối, không khoe trương. Đây là điều mà Chúa Giê-su đã từng nói: “nghe và thực hành Lời Chúa” mới là điều quan trọng. Và chính Chúa thêm rằng: “Ai xưng mình là môn đệ của Thầy trước mặt người đời, thì Thầy mới xưng nó trước mặt Cha Thầy”.

Có nhiều người viện lý do ghét người này người nọ để từ chối việc đến nhà thờ. Họ cho rằng “tin đạo nhưng không tin người có đạo”. Điều đó có thể đúng, nhưng không thể “vơ đũa cả nắm” càng không thể “đánh lận con đen”, Đạo và người có đạo như nhau. Đạo là đường. Người có đạo đang đi trên con đường đó. Đường ta ta đi. Tại sao vì một vài người mà mình lại bỏ đạo? Tại sao ta không tiếp tục đi để nâng đỡ anh em đang vấp té trên đường? Tại sao ta không trở thành bạn đồng hành để giúp anh em sai lỗi biết sống và thực hành đạo? Xem ra đó chỉ là nguỵ biện cho thái độ từ chối thông hiệp với Thiên Chúa của chính mình!

Bên cạnh những người bỏ đạo còn có những người lấp lửng nửa vời. Họ nại vào lý do “có thực mới vực được đạo”. Họ không đi lễ vì phải lo kế sinh nhau. Lo đồng tiền bát gạo trước, rồi khi rãnh mới tranh thủ đi lễ. Họ là những người thờ thần tài trên cả Thiên Chúa. Họ say mê tìm kiếm của cải trần gian mau qua, mà lãng quên giá trị vĩnh cửu là Nước Trời. Họ là những người sống theo chủ nghĩa thực dụng. Cái gì có lợi trước mắt là làm ngay. Họ quên rằng: mọi sự thế gian này sẽ qua đi, và những gì họ đã một đời bán mạng để tìm kiếm cũng thuộc về người khác. Công việc tìm kiếm danh vọng của họ chỉ là “dã tràng xe cát biển đông”.

Hình ảnh vị khách đã không mặc áo “xứng kỳ đức” có thể là chính chúng ta. Những người mang danh ky-tô hữu nhưng không có nếp sống phù hợp với tư cách của người môn đệ Chúa. Chúng ta vẫn khoác trên mình biết bao thói hư tật xấu, biết bao những đam mê lầm lạc. Chúng ta chưa dám mặc lấy Đức Ky-tô. Chúng ta không dám sống như lời thánh Phaolo đã từng nói: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là Đức Ky-tô sống trong tôi”. Vì thế, cuộc đời chúng ta vẫn đầy những lầm lạc, gian dối và tội lỗi.

Phải chăng, bài dụ ngôn này là lời nhắc nhở chúng ta hãy chỉnh đốn lại lối sống cho phù hợp với tình yêu của Thiên Chúa? Hãy nhìn lại tương quan của mình với Thiên Chúa cho đúng, để có cách sống cho phù hợp. Chúng ta là thụ tạo hãy biết lệ thuộc vào Đấng tạo hoá. Chúng ta là tôi tớ hãy sống theo ý của chủ. Chúng ta là môn đệ của Chúa hãy từ bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới. Con người của ân sủng không bị lệ thuộc vào những đam mê thấp hèn làm mờ lương tri. Chúng ta là con Chúa hãy sống thông hiệp với Chúa và với nhau để xây dựng một thế giới hiệp nhất, yêu thương, thắm đượm tình Chúa tình người.

Ước gì chúng ta luôn biết chọn Chúa làm gia nghiệp thay cho những phù vân ở đời mau qua. Ước gì chúng ta luôn trân trọng tình Chúa để dám dành thời giờ cho Chúa hơn là lao mình vào những danh vọng trần gian. Xin Chúa giúp chúng ta gìn giữ nét đẹp của phẩm giá con người bằng chiếc áo ân sủng của Chúa luôn gìn giữ chúng ta trong sạch và tinh tuyền. Amen.

[Mục Lục]

Bài 14. Tiệc cưới, áo cưới
Radio Veritas Asia

Dụ ngôn tiệc cưới và chiếc áo cưới trong Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta mặc lấy một trong những tâm tình cơ bản nhất của Kitô giáo, đó là hân hoan, vui mừng. Kitô giáo thiết yếu là đạo của Tin Mừng.

Trong rất nhiều sinh hoạt và hình ảnh của cuộc sống, Chúa Giêsu đã chọn bữa ăn như dấu chỉ ưu việt nhất để rao giảng Tin Mừng của Ngài. Nước Trời giống như một tiệc cưới, đây là một trong những hình ảnh được Chúa Giêsu sử dụng nhiều nhất để nói lên niềm vui của Nước Trời. Chúa Giêsu cũng mặc cho bữa tiệc của Ngài một ý nghĩa tượng trưng đặc biệt. Chúng ta chỉ cần nhớ lại tiệc cưới Cana, trong đó Chúa Giêsu đã biến nước thành rượu để khách dự tiệc được tiếp tục cuộc vui. Ngài dự tiệc do Lêvi, do Zakêu và rất nhiều người thu thuế khoản đãi; Ngài đồng bàn với họ, chia sẻ một tấm bánh và uống một chén rượu với họ.

Không những đồng bàn với những người tội lỗi, Chúa Giêsu cũng không từ chối lời mời của những người Biệt phái, những người giàu có. Ngài chia sẻ bữa ăn thân thiết với gia đình Marta, Maria và Lazarô tại Bêtania. Ngài thiết lập Bí Tích Thánh Thể trong bữa ăn cuối cùng của Ngài với các môn đệ. Sau khi sống lại, Ngài ngồi đồng bàn với hai môn đệ trên đường Emmau. Ngài hiện ra trên bờ hồ và chuẩn bị bữa ăn cho các môn đệ, rồi Ngài cùng ăn cùng uống với các ông.

Bữa ăn là nơi thể hiện của những giá trị cao quí nhất trong cuộc sống của con người, như gặp gỡ, hiệp thông, trao ban, chia sẻ, hân hoan. Chính vì ý nghĩa cao quí ấy, Chúa Giêsu đã mượn hình ảnh bữa tiệc để nói lên những thực tại Nước Trời. Ðến đây, chúng ta hiểu được ý nghĩa của hình ảnh chiếc áo cưới mà thực khách phải mặc vào khi dự tiệc cưới. Chiếc áo cưới ấy chính là tâm tình gặp gỡ, chia sẻ, trao ban, hân hoan mà con người phải mặc lấy để thuộc về Nước Trời.

Có người đã tưởng tượng ra Thiên đàng, hỏa ngục như hai bàn tiệc. Bàn tiệc dưới hỏa ngục cũng mâm cao cỗ đầy, thế nhưng khách dự tiệc thì ngồi ủ rũ buồn thiu, bởi vì mỗi người đều cầm trong tay một đôi đũa dài đến độ thức ăn thì gắp được, nhưng không thể đưa thức ăn vào miệng. Bàn tiệc trên Thiên đàng cũng y hệt, nhưng khác một điều, là thay vì gắp thức ăn cho vào miệng mình, người ta lại gắp thức ăn và đưa vào miệng người đối diện, thế là vui vẻ cả, vì ai cũng được ăn uống no nê.

Ước gì niềm vui bàn tiệc thánh mà chúng ta tham dự cũng được tiếp tục thể hiện trong đời thường của chúng ta. Ước gì cả cuộc sống chúng ta luôn được diễn ra trong gặp gỡ, chia sẻ, trao ban, vui tươi, nhờ đó chúng ta cảm nhận được niềm vui đích thực của Nước Trời và thắng vượt được mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống.

Chiếc áo cưới

Không ai biết đích xác được là con người đã bắt đầu biết may mặc từ thời nào, nhưng chắc chắn là rất xa xưa. Cái mặc đã đi theo cái ăn như là một trong hai cách thế hiện thân độc đáo của loài người, và ngay từ sớm, nó đã vượt ra ngoài cái ý nghĩa sở đẳng là một vật dụng để che thân cho kín đáo, cho ấm áp, hầu mang lấy những ý nghĩa khác có tính cách văn hoá, kinh tế, chính trị và tôn giáo.

Thực vậy, cái áo có thể cho chúng ta biết được giai cấp, địa vị, nghề nghiệp, và thậm chí đến cả tư cách và tính tình của một người. Người nông dân nghèo không ăn mặc như một cậu công tử thành phố. Ông quan không mặc như người lính, thầy tu không mặc như dân thường. Người con gái nết na kín đáo thì không thích ăn mặc hở hang khêu gợi. Người khiêm tốn không ăn mặc loè loẹt phô trương. Cái áo do đó có một vai trò, một ý nghĩa quan trọng trong đời sống con người. Vì thế mà Chúa Giêsu đã sử dụng nó như một hình ảnh để nói lên cái tư cách của một người công dân Nước Trời.

Bài Tin Mừng vừa nghe ghi lại hai dụ ngôn. Dụ ngôn tiệc cưới và dụ ngôn chiếc áo cưới. Hai dụ ngôn này, nguyên thuỷ có lẽ đã được Chúa Giêsu nói trong hai trường hợp riêng biệt, nhưng đã được Matthêu chắp lại thành một đề tài chung vì thấy có liên hệ với nhau.

Dụ ngôn thứ nhất ám chỉ dân Do Thái là dân hai lần được mời gọi tham dự tiệc cưới, nhưng họ đã từ chối và không những thế, họ còn sát hại những sứ giả của Thiên Chúa. Bởi đó cuối cùng, Ngài lại sai các sứ giả đi khắp các ngả đường để mời gọi tất cả mọi người, không phân biệt tốt xấu. Tuy nhiên lời mời gọi ấy đã được đưa ra với điều kiện là phải sám hối, phải hoán cải, phải đổi đời.

Sám hối, hoán cải hay đổi đời được diễn tả qua dụ ngôn chiếc áo cưới, là dụ ngôn thứ hai đã được ghi lại. Như chúng ta đã nói cái áo không phải chỉ là một đồ dùng để che thân mà còn là một trang phục, nghĩa là một phương tiện tô điểm, đánh giá con người, nói lên địa vị, nghề nghiệp cũng như tư cách của một con người. Đã hẳn tuyệt đối mà nói, cái áo không làm nên thầy tu, nhưng bình thường thì thầy tu vẫn có cái áo của thầy tu. Nhưng lính có cái áo của người lính hay ít ra thầy tu không được ăn mặc loè loẹt diêm dúa.

Ngoài ra cái áo còn là điều kiện để cho con người nhập cuộc với tha nhân: không ai ở trần và và mặc quần xà lỏn mà đi ăn đám cưới, trái lại không ai mặc bộ đồ vét mà lại đi hôi cá dưới ao.

Khi Chúa Giêsu dùng dụ ngôn chiếc áo cưới để nói về những điều kiện mà kẻ đón nhận Tin Mừng phải có để được vào Nước Trời, dĩ nhiên Ngài không muốn nói đến cái áo theo nghĩa thông thường mà là nói tới cái thái độ bên trong, tới những đức tính, hay nói đúng hơn đến cái tinh thần mà người đó phải có. Nói theo thánh Phaolô thì mặc áo cưới ở đây là mặc lấy con người mới được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Hay nói một cách mạnh mẽ hơn, đó là hãy mặc lấy Đức Kitô.

Mặc lấy Đức Kitô là mang những tâm tình của Ngài, là sống hiền từ và khiêm tốn, biết chia sẻ nỗi bất hạnh của người anhem, biết yêu thương cho đến cùng như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta và hiến mạng sống mình vì chúng ta.

Mặc lấy Đức Kitô là nên giống Ngài, đó là chiếc áo cưới mà tất cả những ai được nghe Tin Mừng và đón nhận lời mời vào Nước Chúa phải mặc lấy. Thế nhưng, có mấy ai trong chúng ta đã thực sự mặc lấy Đức Kitô như thế hay chưa?

[Mục Lục]

Bài 15. Tiệc cưới

Mùa xuân năm 1947, cả thế giới chú ý tới hàng tin lớn trên báo chí cho biết: công chúa Êlisabét của nước Anh sẽ đẹp duyên với hoàng tử Philip người Hy Lạp. Cuộc tình duyên này quan trọng, bởi vì công chúa Êlisabét sẽ lên ngôi kế vị vua cha trị vì không những trên vương quốc Anh và bắc Ailen mà còn đứng đầu khối thịnh vượng lớn, gồm trên 50 quốc gia lớn nhỏ như Ấn Độ, Canađa, Úc, Tân tây Lan… Ai cũng tò mò theo dõi lễ cưới lịch sử này. Cuộc lễ được tổ chức ngày 20-11-1947 tại tu viện cổ kính Oét-minh-tơ, nơi chôn cất các bậc vương quân và những nhân vật lớn nước Anh. Người ta không những theo dõi hai nhân vật chính là cô dâu chú rể mà còn chăm chú điểm danh từng nhân vật lớn trên thế giới. Không ai được mời tới dự mà muốn vắng mặt, từ những vị nguyên thủ quốc gia đến các vị thủ tướng và các nhà chính trị, từ những nhà quý tộc đến những nhà tỷ phú. Nói tắt, tất cả những nhân vật quan trọng hàng đầu của nước Anh và nhiều nước trên thế giới đều lấy làm vinh dự được mời và được xuất hiện trong lễ cưới long trọng đó.

Bài Tin Mừng hôm nay cũng kể một lễ cưới long trọng được tổ chức do một ông vua mở tiệc cưới cho hoàng tử. Câu chuyện tiệc cưới này có cái gì khác thường, từ thực khách cho đến những sự tham dự, và nhất là cách xử sự của chủ tiệc, cho chúng ta thấy có điều gì không bình thường, và đó chính là điều Chúa Giêsu muốn dạy bảo và chúng ta cần tìm hiểu. Trong thực tế có lẽ chẳng có tiệc cưới nào diễn ra như thế. Đúng, đây không phải là một tiệc cưới bình thường mà là tiệc cưới nước trời. Bữa tiệc cưới này là hình ảnh tiệc cưới nước trời mà Thiên Chúa khoản đãi loài người, không phân biệt ai, đều được mời tham dự, chỉ với một điều kiện tối thiểu là mặc áo cưới.

Qua dụ ngôn này Chúa Giêsu đã phác hoạ cho chúng ta thấy các giai đoạn chính của lịch sử cứu chuộc. Từ khi Thiên Chúa gửi đến các ngôn sứ cho đến khi Ngài gửi đến chính Con Một Ngài, nhưng tất cả đều thất bại. Cây thánh giá như chóp đỉnh của lịch sử. Có phải thất bại thật không? Thưa không, qua biến cố phục sinh, lịch sử cứu chuộc vẫn tiếp diễn. Phòng tiệc cưới vẫn rộng mở, mời gọi hết mọi người, mọi dân tộc đến tham dự, làm sao cho đầy phòng tiệc. Không ai có thể từ chối, viện lý do nọ lẽ kia ti tiện, hẹp hòi để khước từ ơn Chúa. Nếu làm như vậy là họ tự chuốc lấy án phạt cho mình.

Quả thực, qua mọi thời đại, Thiên Chúa đã gửi các đầy tớ, các vị thừa sai, đi qua mọi nẻo đường thế giới kêu gọi mọi người vào Giáo Hội. Bất cứ họ là ai, tốt xấu bất kể, đều được mời tất cả. Thiên Chúa không loại bỏ ai bao giờ, nhưng chính chúng ta tự loại bỏ chính mình, đó là hình ảnh người không mặc áo cưới. Chúng ta cần hiểu rằng: Giáo Hội đón nhận tất cả mọi người, nhưng Giáo Hội không phải là một quán cơm bình dân, nên cũng đòi hỏi một chút điều kiện tối thiểu nào đó. Nói cách khác, đành rằng Thiên Chúa rất thương kẻ có tội, và Giáo Hội của Ngài đầy tội nhân hơn là thánh nhân, nhưng dầu sao, muốn vào Giáo Hội, Chúa cũng đòi hỏi một điều kiện tối thiểu nào đó.

Y phục lễ cưới ở đây chính là điều kiện tối thiểu để được dự tiệc cưới trong nước Thiên Chúa. Theo ý kiến của một số giáo phụ, chiếc áo cưới ám chỉ đức ái, tối thiểu là cuộc sống ăn ngay ở lành. Còn theo ý kiến của các nhà chú giải Kinh Thánh hiện đại, thì chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải hay sự trở về, tức là tinh thần sám hối chân thật. Nội dung của dụ ngôn cho thấy rõ điều đó: tất cả những người xấu và cả những người tốt đã được gọi vào dự tiệc. Vì lòng thương bao la của nhà vua, những người xấu này đã tỏ ra dấu hoán cải thật sự hay đã thi hành những công việc cụ thể do đức ái đòi hỏi. Chính vì thế họ đã thoát khỏi cặp mắt xét xử của nhà vua. Trong khi đó, con người kia đã không thèm để ý gì tới việc cố gắng và còn dám bước vào phòng tiệc mà không mặc áo cưới. Vì vậy, anh ta đã tự chứng tỏ rằng anh ta không xứng đáng tham dự bàn tiệc. Nói ngắn gọn hơn, Giáo Hội là một “bữa tiệc” của người tội lỗi, nhưng là những người tội lỗi tin tưởng vào Chúa Kitô và ơn cứu độ Ngài đem đến, nên đã hoán cải để nhận được ơn đó. Tóm lại, Thiên Chúa yêu thương con người, nhất là người tội lỗi. Tình thương ấy đòi hỏi một chút tình thương đáp trả mới xứng đáng dự vào bữa tiệc tình thương.

Như vậy, bài Tin Mừng này muốn dạy chúng ta ba điều: Thứ nhất, cho chúng ta thấy tính phổ quát của ơn cứu độ, bao gồm tất cả mọi người, ai cũng được mời gọi đón nhận ơn cứu độ, nhất là những người tội lỗi. Tất cả đều do sáng kiến nhân từ của Thiên Chúa hay thương xót. Thứ hai, ơn cứu độ Thiên Chúa mang đến là nhưng không, nhưng vẫn có điều kiện, là phải thống hối, ăn năn, hoán cải, phục thiện. Nói cách khác, Thiên Chúa yêu thương con người, nhất là người tội lỗi. Tình thương ấy đòi hỏi một chút tình thương đáp trả, mới xứng đáng dự vào bữa tiệc tình thương. Thứ ba, chúng ta phải cố gắng không những vào số những người được gọi, mà còn phải vào số những người được chọn nữa, bởi vì gọi thì nhiều, chọn thì ít. Được rửa tội không có nghĩa là đã được cứu rỗi không cần phải làm gì nữa. Cũng thế, vào Giáo Hội của Chúa Kitô cũng không đương nhiên vào thẳng nước trời, mà còn phải tỉnh thức, phải ra sức lập công và bền đỗ đến cùng mới được cứu rỗi.

Bài Tin Mừng làm chúng ta rất phấn khởi: chúng ta biết Thiên Chúa là một người cha thương yêu chúng ta vô cùng, lúc nào cũng sẵn sàng ban ơn trợ giúp chúng ta. Nhưng chính chúng ta phải đáp lại tình yêu thương đó bằng đời sống tốt đẹp hoặc bằng thái độ chân thành sám hối. Mọi người chúng ta hãy giúp đỡ nhau để cùng nhau sống đẹp lòng Chúa và rồi cùng nhau dự tiệc cưới nước trời vĩnh cửu mai sau.

[Mục Lục]

Bài 16. Áo cưới

Phong tục đám cưới của người Do Thái có hai giai đoạn. Lời mời được gửi đi trước, nhưng không nói rõ ngày và giờ của tiệc cưới. Khi chủ nhà chuẩn bị xong, mới sai đầy tớ đi mời khách dự tiệc cưới vào. Những người khách khôn ngoan tắm rửa sạch sẽ, sẵn sàng áo cưới và chờ đợi ngay cửa triều đình, khi có lệnh liền nhập vào tiệc cưới ngay. Những người khách ngu dại nghĩ rằng phải chờ đợi rất lâu mới có tiệc, nên họ vẫn đi lao động ngoài đồng ruộng, nơi lò gốm… Thình lình lệnh vua mời vào dự tiệc cưới, họ chưa sẵn sàng, không mặc áo cưới, nên bị loại ra ngoài phòng tiệc, buồn bã và đói khát.

Một lần nữa Chúa Giêsu dùng dụ ngôn này để tố cáo những người Do Thái là những người khác được mời đến dự tiệc cưới nhưng từ chối. Trải qua bao nhiêu thế hệ, Thiên Chúa đã sai các tiên tri và sứ giả đến mời họ, như dân tộc được tuyển chọn, họ đã từ chối, hành hạ và giết chết các đầy tớ của Thiên Chúa, ngay cả đến Con Thiên Chúa. Vì thế, những người ở ngoài đường sá là dân ngoại và những người tội lỗi đã được mời tham dự vào vương quốc Thiên Chúa.

Ngày xưa, một vị vua kia có bốn người con trai được yêu cầu phải tự chọn lựa nghề nghiệp cho tương lai của mình. Bốn người con mới bàn tính với nhau: “Nào chúng mình hãy đi khắp nơi trong thiên hạ và tìm kiếm lấy một nền khoa học đặc biệt”. Họ đồng ý sẽ gặp lại nhau ở một chỗ nào đó, và bốn anh em bắt đầu ra đi theo bốn hướng khác nhau. Thời gian qua đi, bốn anh em gặp lại nhau ở chỗ đã hẹn để tổng kết điều họ học hỏi được. “Tôi đã làm chủ một nền khoa học”. Người anh cả nói, “khoa học này cho phép tôi có thể làm ra một tạo vật có đầy đủ bắp thịt với điều kiện tôi phải có một miếng xương”. “Tôi”, người thứ hai nói, “học được cách làm ra da và lông nếu đã có các bắp thịt trên xương của nó”. Người thứ ba nói, “Tôi có thể tạo ra chân tay nếu tôi đã có thịt, da và tóc”. Và tôi”, người thứ tư kết luận, “biết cách ban cho tạo vật đó sự sống, nếu nó đã có đầy đủ hình thù tay chân”.

Sau khi bàn tính với nhau, bốn anh em đi vào rừng sâu tìm một miếng xương để có thể chứng tỏ những tài năng chuyên môn của họ. Như số phận đã định, miếng xương họ tìm thấy là miếng xương của một con sư tử, nhưng họ đã không biết. Một người đắp thịt vào xương, người thứ hai thêm da, lông và tóc, người thứ ba hoàn chỉnh với tay chân, và người thứ tư ban cho con sư tử sự sống. Đang khi lúc lắc bộ lông rậm rạp trên gáy, con sư tử hung dữ gầm lên một tiếng, nó chồm lên ngoác to miệng đe doạ với những chiếc răng nanh và móng vuốt nhọn hoắt. Nó nhẩy về phía những nhà sáng tạo, giết chết tất cả, rồi biến mất vào trong rừng.

Bất cứ khi nào chúng ta cố ý sống tách rời ra khỏi Thiên Chúa, chúng ta cũng có thể trở nên nạn nhân của chính những công trình do mình làm ra. Tách biệt ra khỏi Thiên Chúa, sự tự do và những khả năng trí tuệ cho phép con người tạo nên vũ khí hạch nhân, sử dụng quyền hành và của cải trần gian để áp đặt sự thống trị trên những người khác… cũng tiềm ẩn một khả năng tự huỷ diệt con người.

Những người từ chối dự tiệc cưới đã viện dẫn rất nhiều lý do chỉ vì họ không muốn đến. Và những người không muốn tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật cũng có rất nhiều lý do để biện minh.

Người Ả Rập có một ngụ ngôn kể về một người sang nhà hàng xóm xin mượn một sợi dây thừng. Người hàng xóm trả lời: “Tôi không thể cho anh mượn được, vì tôi đang dùng nó để cột đống cát”. Về nhà suy nghĩ một lúc, anh trở sang nhà hàng xóm và phân trần: “Nhưng anh không thể nào cột đống cát bằng sợi dây thừng được!” Lúc đó người hàng xóm mới trả lời một cách xảo quyệt rằng “Phải rồi, bạn có thể… làm bất cứ điều gì bằng sợi dây thừng khi bạn không muốn cho người khác mượn!”

Thiên Chúa mời gọi con người đến tham dự tiệc cưới. Tiệc cưới là tiệc vui tươi, chúc mừng tình yêu của cô dâu, chú rể. Chúa Giêsu là chàng rể và Giáo Hội là cô dâu. Thiên Chúa đã mời gọi các Kitô hữu đến bàn tiệc để chia sẻ niềm vui và hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài.

Niềm vui đó được trao ban ngay từ đời này và cả đời sau nữa. Kitô giáo không phải là thuốc phiện ru ngủ con người trong đau khổ, quên đi hạnh phúc của cuộc sống ở đời này để chỉ mơ tưởng nước thiên đàng ở đời sau.

Có một huyền thoại kể về một người câu cá tên là Aaron. Aaron sống ở bên bờ sông. Vào một buổi chiều, đang khi đi bộ về nhà, mắt nhắm mắt mở sau một ngày làm việc vất vả, anh mơ tưởng mình sẽ phải làm gì nếu giàu có. Đang khi bước đi, chân anh đá phải một cái túi da, trong lúc lơ mơ, anh nghĩ dường như đó là những hòn sỏi nhỏ. Đãng trí, anh nhặt cái túi lên và bắt đầu ném từng viên sỏi xuống mặt nước sông. “Khi ta giầu có”, anh nói, “Ta sẽ mua một cái nhà thật lớn”. Anh lại ném hòn sỏi khác xuống nước. Ném hết hòn này tới hòn khác rồi anh nghĩ, “Vợ ta và ta sẽ có những người đầy tớ phục vụ, đồ ăn dư giả với tất cả mọi sự sang trọng”. Và cứ như vậy xảy ra cho đến khi chỉ còn lại một hòn sỏi trong tay. Khi Aaron cầm nó trong tay và nhìn xuống, một luồng ánh sáng phát ra lấp lánh. Anh nhận ra rằng đây là một hòn ngọc quý giá. Anh ném xuống nước bao nhiêu viên ngọc quý đã có trong bàn tay, trong khi đó lại mơ tưởng những của cải không có thực ở tương lai.

Niềm vui trong tâm hồn giúp cho con người sống hy vọng và tin tưởng, giữa những khó khăn và khổ đau ở đời này. Bài đọc thứ hai, trích thư thánh Phaolô gửi tín hữu Philipphê: “Trong mọi trường hợp, và hết mọi cách, tôi đã học biết no, biết đói, biết dư thừa và thiếu thốn”. Ngài viết những lời khuyên nhủ này đang khi ở trong nhà tù. Ngài nói: “Trong mọi sự hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa”. “Trong mọi hoàn cảnh hãy tạ ơn Thiên Chúa”.

Từ khóa:

hoàng tử

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận