Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng CN 29 và Khánh Nhật Truyền Giáo

Đăng lúc: Thứ năm - 16/10/2014 01:28 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng

Chúa Nhật XXIX thường niên và Khánh Nhật Truyền Giáo

Lời Chúa: 
Is 45, 1. 4-6; Tv 95, 1 và 3. 4-5. 7-8. 9-10a và c; 1 Tx 1, 1-5b; Mt 22, 15-21

                và      Is 60, 1-6; Tv 18, 2-3. 4-5; 1 Tm 2, 1-8; Mt 28, 16-20

**********

MỤC LỤC

CHÚA NHẬT 29 TN

1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: Nộp thuế cho Xêda
2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
3. Chú giải của Noel Quesson
4. Trả nợ cuộc đời (Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
5. Ác ngầm (Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
6. Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa (ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)
7. Nên nộp thuế chăng? (R. Veritas)
8. Con người – Hình ảnh của Thiên Chúa (Lm Nguyễn Hữu An)
9. Tôn giáo và chính trị
10. Thiên Chúa và Xêda (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
11. Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
12. Vấn đề Nộp thuế cho Xêda và tương quan giữa Giáo Hội với chính quyền dân sự(LH)

KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO

13. Truyền giáo là ra đi (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
14. Niềm vui của người loan báo Tin Mừng (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
15. Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
16. Hãy đến với muôn dân (JM. Lam Thy ĐVD.)
17. Chứng nhân trong sự hiệp nhất yêu thương (Lm Tạ Duy Tuyền)
18. Cách thức truyền giáo (Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
19. Truyền giáo (R. Veritas)
20. Nối bước các thừa sai (Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
21. Chứng tá
22. Truyền giáo
23. Hãy loan báo Tin mừng
24. Đời sống chứng nhân
25. Hãy thả lưới bên phải thuyền

 

ThuongNien29A

A. BẢN VĂN

CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN

Bài đọc I (Is 45, 1. 4-6)

Đây Chúa phán cùng Cyrô, kẻ xức dầu của Chúa mà Ta đã cầm tay hữu nó, để bắt các dân suy phục trước mặt nó, bắt các vua quay lưng lại, mở các cửa trước mặt nó, và các cửa không được đóng lại: Nhân vì Giacóp tôi tớ Ta, và Israel kẻ Ta kén chọn, Ta đã gọi đích danh ngươi: Ta đã kêu gọi ngươi khi ngươi không nhận biết Ta. Ta là Chúa, và chẳng còn chúa nào khác: ngoài Ta ra, không có Thiên Chúa nào nữa. Ta đã thắt lưng cho ngươi khi ngươi không nhận biết Ta, để các kẻ từ đông sang tây nhận biết rằng ngoài Ta ra không có ai khác: Ta là Chúa, và chẳng có chúa nào khác.

Bài đọc II (1 Tx 1, 1-5b)

Phaolô, Silvanô và Timôthêu kính gửi giáo đoàn thành Thêxalônica trong Thiên Chúa Cha và trong Chúa Giêsu Kitô. Nguyện chúc cho anh em được ân sủng và bình an. Tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa cho mọi người anh em, trong khi tôi cầu nguyện, tôi hằng nhớ đến anh em không ngừng; tôi nhớ đến sự nghiệp của lòng tin, công việc của lòng bác ái, sự vững lòng trông cậy của anh em vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta. Hỡi anh em là những kẻ được Thiên Chúa yêu mến, tôi từng biết anh em được Chúa tuyển chọn, bởi vì Tin Mừng của chúng tôi ở nơi anh em, không phải chỉ với lời nói mà thôi, mà là với quyền năng, với Thánh Thần và với lòng xác tín.

Tin Mừng (Mt 22, 15-21)

Khi ấy, các người biệt phái họp nhau lại bàn mưu để bắt bẻ Chúa Giêsu trong lời nói. Các ông sai môn đồ của các ông đi với những người thuộc phái Hêrôđê đến nói với Người rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người ngay chính, căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa. Thầy chẳng cần để ý đến ai, vì Thầy không tây vị người nào. Vậy xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào: Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?” Chúa Giêsu thừa hiểu ác ý của họ, nên nói: “Bọn người giả hình, các ngươi gài bẫy Ta làm gì? Hãy đưa Ta xem đồng tiền nộp thuế”. Họ đưa cho Người một đồng bạc. Và Chúa Giêsu hỏi họ: “Hình tượng và danh hiệu này là của ai?” Họ thưa rằng: “Của Cêsarê”. Bấy giờ Người bảo họ rằng: “Vậy, cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”.

CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁOCẦU CHO VIỆC RAO GIẢNG TIN MỪNG CHO CÁC DÂN TỘC

Bài đọc I (Is 60, 1-6)

Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra, hỡi Giê-ru-sa-lem! vì sự sáng của ngươi đã tới, và vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi. Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, và u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, và vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi. Hãy ngước mắt lên chung quanh, và hãy nhìn coi: Tất cả những người đó đang tập họp, đang tìm đến với ngươi, các con trai của ngươi tự đàng xa đi tới, và các con gái ngươi đứng dậy từ khắp bên hông. Bấy giờ ngươi sẽ nhìn coi, và ngươi trở nên rực rỡ, tim ngươi sẽ rạo rực và sẽ phồng lên. Bởi vì những kho tàng bể khơi tuôn đến với ngươi, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới tay ngươi. Những con lạc đà tràn ngập vây phủ lấy ngươi, những lạc đà một bướu tự xứ Ma-đi-an và Ê-pha. Tất cả những ai từ Sa-ba đi tới, họ sẽ tuyên-rao lời ca ngợi Chúa.

Bài đọc II (1 Tm 2, 1-8)

Trước tiên, cha khuyên con hãy cầu nguyện, khẩn nguyện, kêu van và tạ ơn cho mọi người: cho vua chúa, và tất cả những bậc vị vọng, để chúng ta được sống bằng yên vô sự, trong tinh thần đạo đức và thanh sạch. Đó là điều tốt lành và đẹp lòng Đấng Cứu độ chúng ta là Thiên Chúa. Người muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến nhận biết chân lý. Vì chỉ có một Thiên Chúa, và một Đấng Trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, là Đức Kitô, cũng là Con Người. Người đã phó mình làm giá cứu chuộc thay cho mọi người, để nên chứng tá trong thời của Người, mà vì chứng tá đó, cha đã được đặt lên làm kẻ rao giảng, làm tông đồ. Cha nói thật chứ không nói dối, và làm Thầy dạy dân ngoại trong đức tin và chân lý. Vậy cha muốn rằng những người đàn ông cầu nguyện trong mọi nơi, hãy giơ lên hai tay thanh sạch, không oán hờn và cạnh tranh.

Tin Mừng (Mt 28, 16-20)

Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi. Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thày. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thày đã truyền cho các con. Và đây Thày ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.

[Mục Lục]

 

khoangcah

B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI VÀ SUY NIỆM

B1. CHÚA NHẬT 29 TN

Bài 1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: NỘP THUẾ CHO XÊDA

1. Ngữ cảnh

Tiếp sau phân đoạn Mt 21,23–22,14 về các dụ ngôn là bốn giai thoại tường thuật các thức Đức Giêsu đánh bại các đối thủ trong các cuộc tranh luận tại Đền Thờ. Có thể gọi đây là các “truyện về tranh luận”. Nét tiêu biểu của các truyện này là người tường thuật không quan tâm đến lập trường của các đối thủ của Đức Giêsu. Ông thường cho thấy: hoặc các đối thủ giăng một cái bẫy bằng câu hỏi hiểm độc (cc. 15-22), hoặc câu hỏi của họ tạo ra cơ hội cho một câu trả lời (cc. 34-40). Nếu có nói đến lập trường của họ, thì chỉ nói rất ngắn gọn (cc. 23.42), vì cần phải nói ra cho cuộc tranh luận. Các đối thủ của Đức Giêsu được mô tả giống như các diễn viên ranh ma nhưng thừa thãi.

Hình thái của bốn truyện cũng có đặc tính của cuộc tranh luận tại lớp học, trong đó các học trò đặt câu hỏi cho thầy (22,16.24.36). Theo một lược đồ của truyền thống kinh sư Do Thái, các tranh luận nhà trường được bố trí thành bốn bậc với độ mạnh tăng dần và được đặt tên như sau:

1- [K]hokmâh (“sự khôn ngoan”): đây là mộttranh luận về quy tắc phải theo khi liên hệ đến những bản văn pháp luật;

2- Haggadâh (“truyện ký”): đây là một lối giải thích các bản văn Kinh Thánh bề ngoài mâu thuẫn với nhau;

3- Bôrut (“sự tầm thường”): đây là một tranh luận nhắm biến niềm tin thành mộttrò hề;

4- Derek ‘erets (“đường đất”): đây là một tranh luận về những nguyên tắc cơ bản của đời sống luân lý.

Chúng ta có thể cho rằng tác giả Mt đã trình bày các đoạn văn trong chương 22 từ c. 15 đến c. 46 theo lược đồ này, nhưng ngài đảo thứ tự truyền thống, bằng cách đặt haggadâh vào cuối cuộc đối chất, hầu nêu bật tính tiệm tiến của cuộc đối chất cho đến câu hỏi cuối cùng của Đức Giêsu (x. c. 42):

1- [K]hokmâh:22,15-22,

2- Bôrut: 22,23-33;

3- Derek ’erets: 22,34-40,

4- Haggadâh: 22,41-46.

Ba tranh luận đầu được gợi lên bởi ba nhóm đại diện Do Thái giáo chính thức. Họ tìm cách gài bẫy Đức Giêsu bằng chính những lời nói của Người (cc. 15 và 35) về những vấn đề ngày càng thêm quan trọng: nộp thuế cho Xêda, là vấn đề đặt đối lập các nhóm Hêrôđê, Pharisêu và Nhiệt Thành (Quá Khích) với nhau; sự sống lại của kẻ chết, là vấn đề được phái Xađốc đặt ra; điều răn lớn nhất, là mối bận tâm của người Do Thái tuân thủ luật Môsê nghiêm nhặt, tức phái Pharisêu. Các vấn đề ấy được đặt ra cho mộtvị Rabbi: “Thưa Thầy” (didaskale; x. cc. 15.24.36); đây là danh hiệu cho thấy là họ hiểu Đức Giêsu đứng vào vị trí nào. Nhưng cứ mỗi lần Đức Giêsu lại đưa họ đến mộtcâu hỏi triệt để hơn. Để rồi cuối cùng, Người chủ động đặt rõ ràng cho họ câu hỏi phát sinh do dự hiện diện của Người giữa họ trong Đền Thờ, và như thế Người buộc họ phải lấy lập trường dứt khoát.

2. Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Toan tính của các đối thủ của Đức Giêsu (22,15);

2) Cuộc gặp gỡ với vấn đề nộp thuế cho Xêda (22,16-17);

3) Câu trả lời của Đức Giêsu (22,18-21):

a) lật mặt nạ bằng nhận định mở đầu (c. 18),

b) lật mặt nạ bằng cách dùng đồng tiền nộp thuế (cc. 19-21a),

c) giáo huấn quan trọng nhất của Đức Kitô: tìm kiếm Thiên Chúa (c. 21b).

Bài đọc phụng vụ bỏ câu kết của cuộc tranh luận (c. 22).

3. Vài điểm chú giải

- người Pharisêu … người thuộc phe Hêrôđê (1-2): Những người Pharisêu đại diện cho thái độ không khoan nhượng về tôn giáo. Họ nhất định không bỏ mất tự do của Dân Thiên Chúa trước chính quyền Rôma. Còn người thuộc phe Hêrôđê thì ủng hộ Rôma, bởi vì Đế quốc nâng đỡ các tiểu vương xuất thân từ gia đình Hêrôđê Cả.

- người chân thật … chẳng vị nể ai (16): Đây là hai đòi hỏi mà các kinh sư luôn phải nhớ mà đáp ứng: trung thành với Lề Luật và không cả nể, thiên vị.

- được phép … hay không (17): “Đưọc phép” (exestin) [và “không được phép”] là công thức tiêu biểu của TM Mt (12,2.4.10.12; 14,4; 19,3; 20,15; 27,6). Câu hỏi “được phép không?” thường được người tín hữu Do Thái đặt ra cho mình và cho các kinh sư. Tầm mức của câu hỏi có tính quy thần: dưới mắt Thiên Chúa, tức dưới ánh sáng của Lề Luật, có được phép nộp thuế không? Như thế, câu hỏi không được đặt ra trên bình diện Luật dân sự hoặc thời cơ chính trị.

- nộp thuế (17): Ngoài nhiều khoản thu được bổ cho tất cả các công dân trong Đế quốc (thuế cầu đường, thuế quan…), các tỉnh phải đóng một thứ cống (Lt. tributum) cho hoàng đế, để bày tỏ sự thuần phục. Người Do Thái rất ghét thứ cống thuế này, còn Nhóm Quá Khích thì buộc phải coi việc từ chối nộp thuế này như mộtbổn phận tôn giáo.

- đồng tiền nộp thuế (19): Người Do Thái chỉ có quyền đúc tiền đồng, chứ không được đúc tiền bạc. Như vậy các đồng tiền của họ có giá trị nhỏ nên không được phép dùng để đóng thuế. Họ phải dùng đồng quan (dênarion). Chẳng hạn, đồng quan của hoàng đế Tibêriô có một bên là hình cái đầu hoàng đế, bên kia là hình bà Livia, mẹ của hoàng đế, được coi như nữ thần hòa bình.

4. Ý nghĩa của bản văn

* Toan tính của các đối thủ của Đức Giêsu (15)

Câu 15 mở đầu cho toàn phân đoạn (cc. 15-46). Các đối thủ của Đức Giêsu lần lượt xuất hiện: tại Đền Thờ, các thượng tế và kinh sư đã can thiệp (21,15), kế đó là các thượng tế và kỳ mục trong dân (21,23), rồi đến các thượng tế và người Pharisêu (21,45), bây giờ đến lượt những người Pharisêu và những người thuộc phe Hêrôđê (22,15). Sau này những người thuộc nhóm Xađốc cũng đến (22,23), và cuối cùng lại là những người Pharisêu (22,35.41). Họ vẫn chống nhau, nhưng bây giờ họ liên minh với nhau để chống mộtkẻ thù “chung”.

Hôm nay nhóm Pharisêu nhắm rút được một tuyên bố (logos) của Đức Giêsu, để lời ấy trở thành một cái bẫy hại Người.

* Cuộc gặp gỡ với vấn đề nộp thuế cho Xêda (16-17)

Ở đây những người Pharisêu sai các môn đệ của họ (thật ra người Pharisêu không có môn đệ, mà là các kinh sư) cùng đi với những người thuộc phe Hêrôđê mà gài bẫy Đức Giêsu. ỞMc 12,14-15, câu hỏi của họ vừa có tính lý thuyết (“có được phép nộp thuế?”) vừa thực tiễn (“chúng tôi có phải nộp thuế?”); ngược lại trong Mt, câu hỏi chỉ có tính lý thuyết (như ở Lc20,20-26). Thật ra câu hỏi của họ hết sức nham hiểm. Lời đầu tiên họ nói, rất dài, nhắm ru ngủ các nghi ngờ, là mộtlời khen hết sức giả hình (c. 16: captatio benevolentiae): họ chào Người là “Thầy” (Rabbi); họ đề cao sự chân thành, khả năng, tính chí công vô tư của Người. Thật ra, Đức Giêsu đúng là như thế, nhưng nơi môi miệng của những sứ giả do người Pharisêu thù nghịch gửi đi, các lời của họ rỗng tuếch và không lương thiện. Từ đó, họ xin Người ban giáo huấn về mộtvấn đề phức tạp; họ “nhả chất độc ra” (c. 17): mộtcâu hỏi dứt khoát và đột ngột: “có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?”. Nếu trả lời “có”, Đức Giêsu sẽ khiến dân chúng nổi giận, vì Người tỏ ra là người nghiêng theo Đế quốc; và người Pharisêu chẳng bỏ lỡ cơ hội mà đánh đổ tất cả uy tín của Người trước mặt dân chúng. Còn nếu trả lời “không”, Người sẽ bị coi là chống chính quyền Rôma; và phe Hêrôđê có lẽ sẽ là những người đầu tiên tố cáo Người là người muốn phá rối trị an. Hơn nữa, câu hỏi còn có tầm mức thần học, bởi vì các nhóm Do Thái cực đoan coi việc sử dụng đồng bạc ngoại quốc như mộtkiểu thờ ngẫu tượng, mà điều răn thứ hai lên án: không được đưa các hình ảnh hoàng đế hoặc các biểu hiệu tượng trưng quyền bính của ông vào Đền Thờ để khỏi làm giảm thiểu vương quyền của Đức Chúa (Yhwh). Khi các tổng trấn (chẳng hạn Philatô) đã tìm cách làm như thế để hạ nhục người Do Thái, các vị này đã gặp phải phản ứng chống đối gay gắt nhất. Những người thuộc Nhóm Quá Khích (Nhiệt Thành) dứt khoát không nhận quyền Hoàng đế nên cũng không đóng thuế. Họ không đặt vấn đề về lý thuyết hay thực hành. Nhưng người Pharisêu thì chọn một thái độ trung dung; họ đã chấp nhận đóng thuế để đổi lấy tự do tôn giáo. Vậy câu hỏi đặt ra cho Đức Giêsu rất nham hiểm, để Người không có ngõ thoát: “có được nộp thuế hay không?”. Nhưng Đức Giêsu thấy rõ cái bẫy.

* Câu trả lời của Đức Giêsu (18-21)

Trước tiên, Đức Giêsu lật mặt nạ của họ bằng nhận định mở đầu: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ đạo đức giả” (c. 18). Người cho thấy Người không phải là kẻ khù khờ. Họ đã mở đầu câu chuyện rất mềm mỏng (c. 16b) không phải vì họ tha thiết tìm kiếm chân lý của Thiên Chúa, nhưng chỉ vì muốn đưa Người vào thế lưỡng nan, để hại Người. Họ đáng bị gọi là “những kẻ đạo đức giả” theo hai nghĩa: trước tiên, bởi vì họ giả bộ rất quan tâm đến mộtvấn đề thời sự; kế đó, bởi vì khi sử dụng đồng quan để giao dịch buôn bán, họ đã minh nhiên nhìn nhận quyền của Hoàng đế từ lâu rồi.

Kế đó, dù câu hỏi được đặt ở bình diện lý thuyết, Đức Giêsu đã chuyển sang bình diện thực hành để trả lời (“Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế”, c. 19). Nếu họ cũng như mọi người Do Thái có trong túi các đồng quan Rôma, mặc dù có các hình ảnh và dòng chữ bất kính, ngẫu tượng, điều đó có nghĩa là họ đã có mộtgiải pháp cho vấn đề. Tại sao khi dùng đồng quan ấy (của Đế quốc) mà giao dịch buôn bán thì họ không áy náy bao nhiêu, mà bây giờ “trả về Xêda” (nộp thuế) thì họ lại áy náy đến thế? Nếu có vấn đề ở đây, thì họ đã giải quyết từ lâu rồi: được phép nộp thuế. Trong lãnh vực tiền bạc, họ đã nhìn nhận họ lệ thuộc Xêda.

Nhưng rồi Đức Giêsu đi quá câu hỏi được đặt ra: chỉ có mộtđiều quan trọng nhất, mà họ hoàn toàn có thể làm ngay khi phải sống dưới ách đô hộ, đó là “trả về Thiên Chúa”, điều thuộc về Người (c. 21b). Đây là điều Đức Giêsu đã không ngừng nói đến kể từ khi ra đi hoạt động: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33. Xem Bài giảng trên núi). Khi nói như thế, Đức Giêsu không có ý thiết lập hai trật tự khác nhau là Quốc gia và Hội Thánh như hai điểm quy chiếu khác nhau, cũng không biện minh cho việc quy phục Hoàng đế. Người chỉ muốn đặt các vấn đề vào đúng chỗ của chúng. Thật ra các vấn đề liên hệ đến Hoàng đế chẳng là gì so với các vấn đề liên hệ đến Nước Thiên Chúa. Người ta đã hỏi Đức Giêsu về thuế, chứ không hỏi gì về các đòi hỏi của Thiên Chúa cả. Người không tìm cách tránh né, vì không thể được, nhưng khi trả lời, Người cũng chỉ đặt mỗi chuyện vào đúng chỗ của nó. Các đối thủ chẳng còn biết tiếp tục câu chuyện như thế nào nữa. Các quyền của Hoàng đế đã không bị vi phạm, nhưng các quyền của Thiên Chúa thì đã được khẳng định rất mạnh. Người ta hoàn toàn có thể thỏa mãn các đòi hỏi của Thiên Chúa trong khi vẫn đóng thuế cho Hoàng đế.

+ Kết luận

Thật ra, Đức Giêsu không muốn thiết lập hai trật tự khác nhau song song, trong đó Thiên Chúa và Xêda đều là chúa tể; Người cũng không dạy về thái độ tùng phục Hoàng đế. Người chỉ muốn đặt các vấn đề vào đúng vị trí của chúng. Người không phủ nhận rằng cũng có thể có những xung đột, và đôi khi phải chọn lựa (x. Cv 4,18-20). Nhưng Người muốn nói rằng xung đột ấy không có ở chỗ người Pharisêu muốn thấy có. Bởi vì người nào thật sự tùng phục Thiên Chúa và sống trong niềm chờ mong Nước Trời và sự công chính của Thiên Chúa, thì có thể nhìn nhận tính chính đáng cũng như những giới hạn của những quyền của Xêda (x. 1 Pr 2,13-16).

5. Gợi ý suy niệm

1. Chúng ta hoàn toàn có thể lấy lại lời người Pharisêu khen ngợi Đức Giêsu, nhưng gột rửa sạch mọi toan tính giả hình, để thưa với Đức Giêsu. Đức Giêsu đúng là Đấng chân thật: Người không uốn cong các đòi hỏi của chân lý hoặc luật luân lý theo các nhận định về thời cơ hoặc nhằm thành công cho riêng mình. Người chính là Sự Thật (x. Ga 14,6). Đức Giêsu dạy đường lối của Thiên Chúa: đây không phải là Luật Môsê hay sự khôn ngoan loài người của các triết gia và các nhà luân lý; Người là “ánh sáng cho thế gian” dẫn đưa chúng ta (Ga8,12), để chúng ta khỏi đi trong bóng tối. Người chẳng vị nể ai: Người là Đấng cứu độ mọi người (x. 1 Tm 2,3-6), nên không bận tâm về màu da, chủng tộc, trình độ trí tuệ, hoàn cảnh xã hội của con người (x. Ga 3,28).

2. Thiên Chúa vẫn dành chỗ cho Hoàng đế. Nếu hết lòng với Thiên Chúa, con người có thể và phải chu toàn các quy định của Hoàng đế (chính quyền) trên nhiều lãnh vực, nhưng trọn vẹn bản thân thì thuộc về Thiên Chúa và không được từ chối Người bất cứ điều gì của mình. Thiên Chúa đòi hỏi mộtđiều hoàn toàn khác với việc từ chối nộp thuế cho Xêda, Người đòi hỏi mộtđiều to lớn hơn vô cùng. Người đòi hỏi chính bản thân con người, cách tuyệt đối và trọn vẹn (“Yêu mến Thiên Chúa hết lòng…”).

3. Quyền dân sự nằm trong bình diện trần thế, là bình diện phải lệ thuộc các thực tại của bình diện tôn giáo. Ở trong bình diện trần thế, Đức Giêsu nhìn nhận rằng việc nộp thuế cho chính quyền Rôma chẳng có gì là vô luân hay phạm thánh cả. Thánh Phaolô có viết: “Anh em nợ ai cái gì, thì hãy trả cho người ta cái đó: nộp sưu cho người đòi sưu, trả thuế cho người đòi thuế, sợ người phải sợ, kính người phải kính” (Rm 13,7). Người Kitô hữu không được viện cớ là mình phải chu toàn các bổn phận tôn giáo để miễn chuẩn các bổn phận đối với quốc gia hoặc trong quốc gia. Chúng ta là công dân Nước Trời (x. Pl 3,19-20), nhưng sống tư cách ấy tại mộtquê hương trần thế.

[Mục Lục]

Bài 2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Trong cuộc tranh luận của Ngài với nhóm Biệt Phái, Đức Giê-su trả lời một vấn đề nan giải giữa nghĩa vụ của người công dân trần thế và nghĩa vụ của người công dân Nước Trời khi công bố rằng “Của Xê-da trả về Xê-da, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa”.

CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nêu lên một vấn đề thật tinh tế: mối tương quan giữa công dân trần thế và công dân Nước Trời.

Is 45: 1, 4-6

Trong Bài Đọc I được trích từ I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ an ủi những người lưu đày ở Ba-by-lon, ông thoáng thấy vua Ba-tư là Ky-rô là khí cụ mà Thiên Chúa chọn để giải thoát dân Ngài khỏi cảnh đời nô lệ.

Tv 96 (95): 1, 3-5, 7-10

Tác giả thánh vịnh kêu mời dân Thiên Chúa hãy kể lại vinh quang của Đức Chúa và loan truyền những kỳ công của Ngài, cũng như muôn dân nước hãy tôn vinh Đức Chúa, vì Ngài là Thiên Chúa duy nhất, xứng đáng muôn lời chúc tụng.

1Th 1: 1-5

Bài Đọc II được trích từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca. Đây là bản văn Tân Ước đầu tiên làm chứng về sức sống mãnh liệt của Giáo Hội tiên khởi, trong đó thánh nhân ca ngợi đức tin, đức mến và đức cậy của họ.

Mt 22: 15-21

Trong cuộc tranh luận của Ngài với nhóm Biệt Phái, Đức Giê-su trả lời một vấn đề nan giải giữa nghĩa vụ của người công dân trần thế và nghĩa vụ của người công dân Nước Trời khi công bố rằng “Của Xê-da trả về Xê-da, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa”.

BÀI ĐỌC I (Is 45: 1, 4-6)

Bản văn này là một trong nhiều sứ điệp an ủi mà vị ngôn sứ biệt danh I-sai-a đệ nhị ngỏ lời với những người lưu đày ở Ba-by-lon. Vị ngôn sứ nầy, trên mười năm, từ 550 đến 539 trước Công Nguyên, đã tìm cách an ủi đồng bào của mình, họ nhục chí trước cuộc lưu đày tưởng chừng như vô tận nầy. Ông hứa với họ rằng Thiên Chúa sắp ra tay giải thoát dân Ngài khỏi cảnh đời nô lệ tại Ba-by-lon. Niềm hy vọng của ông nhắm đến vua Ky-rô, nước Ba-tư.

Vào năm 553 trước Công Nguyên, vua Ky-rô đã cất đi quyền thống trị của vua Mê-đi là Astyage. Sau khi đã thống nhất quyền lực Ba-tư và quyền lực Mê-đi, ông xuất quân chinh phục miền Tiểu Á. Vào năm 539, ông tiến quân vào Ba-by-lon, chấm dứt thời kỳ thống trị của Đế Quốc Ba-by-lon. Ngay cả trước khi những cuộc chiến thắng ngoạn mục của vua Ky-rô vang dội khắp nơi, vị ngôn sứ lưu đày này đã loan báo rằng ý định Thiên Chúa là sử dụng vua Ky-rô để giải thoát dân Ngài khỏi cảnh đời tù đày tại Ba-by-lon.

1. Sấm ngôn của vị ngôn sứ

Sấm ngôn này thật sự gây hoang mang. Phải chăng Đức Chúa nhờ đến một vị vua ngoại giáo để giải thoát dân Ít-ra-en? Vị ngôn sứ xua đi những thành kiến của những người lưu đày bằng cách khẳng định đó là cách hành xử của Thiên Chúa. Ông mạnh dạn quả quyết rằng vua Ky-rô đã được Đức Chúa tuyển chọn và thánh hiến để trở nên khí cụ trung thành của Ngài.

Phần đầu sấm ngôn được trình bày như một bản văn phong vương, đồng hóa vua Ky-rô với một vị vua của dân Ít-ra-en: Đức Chúa thánh hiến vị vua mà Ngài đã tuyển chọn, và “cầm lấy tay phải”, nghĩa là trợ giúp và bảo vệ vua, đảm bảo rằng vua sẽ chiến thắng mọi quân thù. Tất cả những diễn ngữ trong sấm ngôn nầy được gặp thấy không chỉ trong các bản văn Kinh Thánh nhưng cũng trong các bản văn miền Cận Đông. Người ta có thể đọc những dòng chữ được khắc trên một hình trụ: “Marduk (vị thần Ba-by-lon) tìm kiếm một lãnh tụ chí công vô tư mà thần có thể cầm tay. Đó là Ky-rô mà Ngài công bố là Chúa Tể muôn dân. Ngài đặt dưới chân vua xứ sở Guti, thúc dục ông xuất chinh chống lại Ba-by-lon, đi bên cạnh ông như một người bạn”.

Trong sấm ngôn của mình, vị ngôn sứ xác định rằng Đức Chúa hứa với vua Ky-rô một cuộc chiến thắng như thế nào khi gợi lên “mở toang cửa thành trước mặt vua, khiến các cổng không còn đóng kín”. Cốt là các cổng thành danh tiếng bằng đồng của Ba-by-lon. Quả thật, các cổng thành mở toang đón tiếp vua Ky-rô mà ông không phải tốn một làn tên mũi kiếm. Ba-by-lon bị sụp đổ mà không cần phải giao chiến.

2. Đức Chúa, Chúa Tể của mọi biến cố

Chính vì dân Ngài mà Đức Chúa dẫn đưa vua Ky-rô từ chiến thắng nầy đến chiến thắng khác. Ngài “gọi đích danh vua”, đây là diễn ngữ Kinh Thánh muốn nói rằng Thiên Chúa đã trao phó cho vua một sứ mạng. Ngài ban cho vua một tước hiệu (có thể là tước hiệu “Đấng được xức dầu” hay “người mục tử của Ta”, được ngôn sứ trích dẫn ở nơi khác) dù vị vua ngoại giáo nầy không biết Ngài.

Quả thật, vua Ky-rô hành xử như một vị vua được Đức Chúa tuyển chọn. Vua tỏ ra mình hào hiệp: khi chiến thắng vua Mê-đi là Astyage, ông để cho vua nầy được sống và khi chiến thắng vua Ba-by-lon là Crésus, ông cũng hành xử như thế. Ông không gây bất kỳ thiệt hại nào đối với thành Ba-by-lon, bày tỏ lòng tôn kính tôn giáo của kẻ bại trận và nhất là giải thoát những dân tộc bị lưu đày tại Ba-by-lon trong số đó có dân Do thái. Dù thế nào, vị ngôn sứ quả quyết chính Đức Chúa là Chúa Tể của mọi quyền bính chính trị, chính Ngài ban quyền lực, chính Ngài hướng dẫn mọi biến cố: “Ta là Đức Chúa, không còn Chúa nào khác”.

Sứ điệp của vị ngôn sứ thật rõ ràng. Đức Chúa không chỉ là Thiên Chúa của dân Do thái mà còn là Thiên Chúa của muôn dân muôn nước. Ngài không lệ thuộc vào một quyền lực trần thế nào, trái lại mọi quyền bính đều xuất phát từ Ngài. Dù có ‎ý thức hay không, họ đều là khí cụ trong tay Ngài để thi hành chương trình cứu độ của Ngài. Không phải Đức Giê-su sẽ nói với Phi-la-tô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Ga 19: 11) sao?.

THÁNH VỊNH 96 (95): 1, 3-5, 7-10

Một thánh vịnh ca ngợi vương quyền của Thiên Chúa. Thánh Vịnh này có một số lượng những đối chiếu với Tv 98 và một nhị trùng trong 1Sb 26: 23-33. Một nét đặc thù của thánh vịnh này là tính cách sứ vụ của nó: tác giả kêu mời trước hết dân Thiên Chúa hãy kể lại vinh quang của Đức Chúa và loan truyền những kỳ công của Ngài, (cc. 2-6); tiếp đó, muôn dân nước hãy tôn vinh Đức Chúa (cc. 7-10); và sau cùng, toàn thể vũ trụ hãy rao mừng trước tôn nhan Thiên Chúa (cc. 11-13), vì Ngài là Thiên Chúa duy nhất và công minh chính trực. Đoạn trích Thánh Vịnh này được cấu trúc như sau:

- Dẫn nhập (c. 1)

Tác giả mời gọi toàn thể địa cầu hãy ca mừng vương quyền của Đức Chúa bằng những tâm tình mới qua một bài ca mới (x. Tv 33: 3).

A. Lời mời gọi được gởi đến dân Thiên Chúa (cc. 3-5)

Trước hết, lời mời gọi được gởi đến dân Thiên Chúa hãy thi hành sứ vụ của mình là tường thuật vinh quang của Đức Chúa và loan truyền những kỳ công của Ngài (x. Tv 9: 12; 105: 1; Is 66: 19), bởi vì Đức Chúa là Thiên Chúa siêu vượt trên hết chư thần (cc. 3-4). Lời đoan quyết: “Chư thần các nước đều là hư ảo” (c. 5), đánh dấu một bước tiến đến Độc Thần giáo tuyệt đối: “Đức Chúa là Thiên Chúa duy nhất, ngoài Ngài ra không có vị thần nào khác”.

B. Lời mời gọi được gởi đến muôn dân nước (cc. 7-9)

Tiếp đó, lời mời gọi cũng được gởi đến muôn dân nước hãy dâng lên Đức Chúa những lời ca ngợi xứng với vinh quang của Ngài. Chúng ta ghi nhận rằng những câu này được rút ra từ Tv 29: 1-2; tuy nhiên, ở đây “các dân các nước”, chứ không “chư thần”, được kêu mời tôn vinh Đức Chúa trong Đền Thánh (x. cc. 6 và 8) bằng cách nhận ra Đức Chúa là Thiên Chúa tối thượng (cc. 7-8a). Lời mời gọi này cũng được được gởi đến các vua chúa trần thế, họ có bổn phận phải nghiêm chỉnh trình diện và dâng tiến lễ vật trước thánh nhan Thiên Chúa (8b-9).

- Kết luận (c. 10)

Vương quyền của Thiên Chúa: “Chúa là Vua hiển trị!” (x. Tv 93: 1; 97: 1; 99: 1), đã được mặc khải cho dân Thiên Chúa, nay được công bố cho muôn dân nước được tỏ tường.

BÀI ĐỌC II (1Th 1: 1-5)

Chúng ta bắt đầu đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca. Thánh nhân viết thư nầy từ Cô-rin-tô vào năm 51. Đây là bức thư đầu tiên của thánh nhân và đồng thời cũng là bản văn Tân Ước cổ kính nhất. Được viết chưa tới hai mươi năm sau cái chết của Đức Giê-su, bức thư nầy thật sự là một chứng liệu quý báu vén mở cuộc sống đức tin của Giáo Hội tiên khởi.

1. Lời chứng:

Phần đầu của bức thư cung cấp một lời chứng đáng chú ý về đức tin của Giáo Hội tiên khởi. Trước hết, đây là một trong những bức thư liên kết thường hằng nhất danh xưng “Thiên Chúa” với tước vị “Cha”: “Thiên Chúa là Cha” và “Thiên Chúa là Cha chúng ta”; tiếp đó, danh xưng “Chúa Giê-su Ki-tô”, nghĩa là Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a và là Chúa, một tước hiệu bao hàm thần tính và vinh quang của Ngài. Cựu Ước dành riêng tước hiệu“Chúa” nầy cho Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Cuối cùng, quyền năng của Chúa Thánh Thần được bày tỏ trong việc loan truyền Tin Mừng. Như vậy, Ba Ngôi Thiên Chúa là nét độc đáo của Ki-tô giáo.

Mặc khác, ngay từ bản văn Tân Ước đầu tiên này, xuất hiện thuật ngữ “ecclesia” (“Hội Thánh”) được dùng để chỉ một cộng đoàn Ki-tô hữu: “Kính gởi Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca”. Trước tiên, thuật ngữ “Hội Thánh” mang nét nghĩa phàm trần: tại dân Hy lạp, thuật ngữ nầy chỉ Hội Đồng nhân dân. Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất đã đặt trên môi miệng Đức Giê-su thuật ngữ nầy trong sách Tin Mừng Hy-lạp của mình (Mt 16: 18; 18: 17). Phải nói rằng để loan báo Giáo Hội tương lai của mình, Đức Giê-su thật ra đã sử dụng thuật ngữ Híp-ri và A-ram: “qahal”, một thuật ngữ chỉ “đại hội” trong sa mạc (Đnl 4: 9-13; 9: 10; 18: 16; 23: 2; 31: 30) hoặc cộng đồng phụng vụ của dân Thiên Chúa Cựu Ước (1Sb 13: 2; 28: 8; 2Sb 20: 3; 30: 1; Nkm 1: 12). Vả lại, hai thuật ngữ Do thái và Hy lạp cùng chia sẻ một thực tại bởi ngữ căn của chúng: trong khi thuật ngữ Do thái: “qahal”, bao hàm một khái niệm về một dân được Thiên Chúa kêu gọi, triệu tập thành dân riêng của Ngài dưới chân núi Xi-nai, thì thuật ngữ Hy lạp: “ecclesia”, phát xuất từ động từ “kaleô” ở thể thụ động (được kêu gọi) và tiếp đầu ngữ: “ex” (tách riêng ra). Cả hai được dùng để diễn tả cách chính xác thực tại Hội Thánh: không tự mình hình thành nên, nhưng được Thiên Chúa quy tụ lại thành dân riêng của Ngài.

Nếu thánh Phao-lô gọi các cộng đoàn Ki-tô hữu địa phương là Hội Thánh, thánh nhân luôn luôn hiệp nhất các cộng đoàn nầy vào Hội Thánh Mẹ, là Hội Thánh Giê-ru-sa-lem. Toàn thể hình thành nên một Hội Thánh duy nhất, mà thánh nhân sẽ gọi là “Thân Thể Đức Ki-tô”.

2. Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca:

Thê-xa-lô-ni-ca là thủ phủ miền Ma-kê-đô-ni-a. Đây là thành phố thứ hai của Châu Âu mà thánh Phao-lô mang Tin Mừng đến. Thành phố thứ nhất là Phi-líp-phê cũng thuộc miền Ma-kê-đô-ni-a.

Thê-xa-lô-ni-ca là một thành phố cảng được hưởng một nền thương mại phồn vinh. Tên của thành phố được một trong các tướng lãnh của A-lê-xan-đê đại đế lấy tên vợ của mình là Thê-xa-lô-ni-ca đặt cho. Ở đây có một cộng đồng kiều bào Do thái sinh sống. Họ có một hội đường. Trong sách Công Vụ, thánh Lu-ca đã thuật lại tiến trình thành lập Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca nầy vừa ngắn gọn vừa gian nan (Cv 17: 1-9). Chính trong hội đường Do thái nầy mà thánh Phao-lô rao giảng trong ba ngày sa-bát liên tiếp.

Lời rao giảng của thánh nhân được vài người Do thái và một số đông người Hy-lạp hoan hỉ tiếp đón, trái lại gây phẩn nộ cho cộng đoàn Do thái ở đây. Họ gây náo loạn trong thành phố đến nổi thánh Phao-lô và bạn đồng hành của ngài là ông Xi-la buộc phải vội vã trốn khỏi thành phố ngay đêm ấy. Thánh Phao-lô trốn chạy đến Bê-roi-a và từ đó đến A-thê-na bằng đường biển. Lo lắng vì đã để lại một cộng đoàn non trẻ, đức tin chỉ vừa mới bén rễ, ấy vậy đã phải chịu nhiều phiền nhiễu rồi, thánh nhân khẩn khoản xin người môn đệ thân tín của mình là ông Ti-mô-thê trở lại Thê-xa-lô-ni-ca để ủy lạo những người Kitô hữu non trẻ nầy. Khi gặp lại thánh Phao-lô lúc đó ở Cô-rin-tô, ông Ti-mô-thê đem đến cho thánh nhân những tin tức đầy khích lệ: Hội Thánh non trẻ nhưng thật kiên vững trong đức tin. Vui mừng và an tâm, thánh Phao-lô viết thư thứ nhất nầy. Bức thư nầy cùng với thư gởi các tín hữu Phi-líp-phê chất chứa những lời trìu mến nhất của thánh nhân.

3. Chúng tôi, Phao-lô, Xin-va-nô và Ti-mô-thê

Theo thể thức thư tín vào thời đó, một hay nhiều người đồng k‎ý tên vào một bức thư:“Chúng tôi, Phao-lô, Xin-va-nô và Ti-mô-thê”. Ông Xin-va-nô cũng được gọi Xi-la trong sách Công Vụ và sau nầy trở thành thư k‎ý của thánh Phê-rô ở Rô-ma (1Pr 5: 12). Vào lúc nầy, ông thay thế ông Ba-na-bê ở bên cạnh thánh Phao-lô, sau khi thánh nhân chia tay với Ba-na-bê ở Cô-rin-tô. Còn ông Ti-mô-thê là một trong những người đồng hành trung tín nhất của thánh Phao-lô. Chúng ta gặp thấy tên ông bên cạnh tên thánh Phao-lô trong sáu bức thư của thánh nhân.

4. Thiên Chúa là Cha chúng ta và Chúa Giê-su Kitô

Tiếp đó là tên người nhận thư: “kính gởi Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca”. Chúng ta lưu ‎ ý việc chuyển từ danh từ số ít để chỉ tập thể: “Hội Thánh”, đến ngôi thứ hai số nhiều: “Chúc anh em được ân sủng và bình an”. Đây thật sự là điều hoàn toàn mới mẻ và có sức hấp dẫn của cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi, trong đó mọi người đều nhận ra nhau như anh chị em trong Thiên Chúa được tuyên xưng là Cha và trong Đức Giê-su Ki-tô được tuyên xưng là Chúa, tương phản với tổ chức cơ cấu của xã hội dân sự và thậm chí của Do thái giáo. Quả thật, chúng ta cũng gặp thấy danh xưng “anh chị em” và biểu thức tiêu biểu của thánh Phao-lô:“trong Đức Giê-su Ki-tô” hay “trong Đức Ki-tô” không chỉ ngay từ những hàng đầu tiên của bức thư đầu tiên nầy, nhưng còn thường được lập đi lập lại trong tất cả các bức thư khác của thánh nhân. Đây thật sự là danh xưng diễn tả mối tương quan thân thiết của thánh nhân với tất cả mọi Ki-tô hữu và đây cũng là biểu thức chủ chốt hình thành nên cuộc sống nội tâm của thánh nhân, cũng như tính năng động sứ vụ Tông Đồ của ngài.

Như vậy, thuật ngữ “Hội Thánh” tự nó nói lên cộng đồng Ki-tô hữu, trong đó mọi người, dù ở chức vụ nào, đều coi nhau như anh chị em, tránh được quan niệm Giáo Hội trước Công Đồng Vatican II theo đó, Giáo Hội như gắn liền với các Đấng các Bậc mà bỏ qua một thành phần đông đảo và sinh động là Giáo Dân.

5. Ân sủng và bình an

Lời chào mở đầu của bức thư liên kết lời chào của người Do thái: “bình an” (“shalom”) với lời chào của người Hy-lạp: “ân sủng” (“charis”). Thánh nhân sẽ sử dụng lời chào nầy trong tất cả các bức thư của ngài, ngoài trừ hai bức thư gởi Ti-mô-thê trong đó thánh nhân thêm vào “lòng thương xót”“ân sủng, lòng thương xót và bình an”. Thật ra, sự liên kết của hai thuật ngữ: “bình an” và “ân sủng” nầy vốn đã hiện diện trong Do thái giáo rồi. Chúng ta gặp thấy như vậy trong sách Dân Số: “Nguyện xin Đức Chúa chúc phúc cho anh em…Nguyện xin Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em”. Lời nguyện chúc nầy tái xuất hiện trong các sách khải huyền Do thái ngoại thư như sách Hê-nốc 1: 4: “Nguyện xin Thiên Chúa ban cho anh em ân sủng và bình an, cũng như trong các lời cầu nguyện của cộng đồng Qum-rân. Nhưng thánh Phao-lô đem lại cho lời cầu chúc nầy ý nghĩa phong phú của Ki-tô giáo như khi thánh nhân viết cho các tín hữu Phi-líp-phê: “Bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết” (Pl 4: 7).

6. Cảm tạ Thiên Chúa

Sau nầy, hầu như tất cả những bức thư của mình, thánh Phao-lô đều bắt đầu với lời “cảm tạ” hay “chúc phúc” theo cách thức Do thái. Ở trong thư gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca nầy, thánh nhân đặc biệt khai triển lời cảm tạ: “Chúng tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa khi nghĩ đến anh em”. Thánh Phao-lô diễn tả niềm vui của mình khi biết rằng các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca vẫn một mực trung thành và vững mạnh bất chấp những phiền nhiễu mà những người Do thái gây ra cho họ.

7. Ba nhân đức đối thần

Một lần nữa, một trong những lợi ích lớn lao về phương diện lịch sử cũng như về phương diện thần học của bản văn Tân Ước đầu tiên nầy, đó là khám phá ở đây lời phát biểu ba nhân đức căn bản mà sau nầy sẽ được gọi là ba nhân đức đối thần: “Chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những nghịch cảnh anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa chúng ta là Đức Giê-su Kitô”. Ở đây cũng như ở Col 1: 4-5, thánh nhân trích dẫn ba nhân đức đối thần nầy theo cùng một trật tự: đức tin, đức mến và đức cậy, còn ở 1Cr 13: 13 theo một trật tự khác: đức tin, đức cậy và đức mến.

8. Chiều kích Ba Ngôi

Các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca đa số đều xuất thân từ lương dân. Thánh nhân nhấn mạnh họ thuộc về dân Chúa chọn, cùng một tước hiệu như những người đồng đạo của họ xuất thân từ Do thái. Từ đây, ơn tuyển chọn của Thiên Chúa mở rộng cho hết mọi người. Nhưng nhất là thánh nhân thán phục những thành quả đáng ngạc nhiên ở Thê-xa-lô-ni-ca: họ không thể là hoa trái duy nhất do lời loan báo Tin Mừng của thánh nhân, nhưng trên hết do tác động của Chúa Thánh Thần.

Trong thư gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân viết: “Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan phàm nhân, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa.” (1Cr 2: 1-4). Thật ra, đây là điều mà thánh nhân đã nói với các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca rồi: “Khi chúng tôi rao giảng Tin Mừng cho anh em , thì không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa”.

TIN MỪNG (Mt 22: 15-21).

Bài Tin Mừng nầy rất nổi tiếng được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại. Lời công bố của Đức Giê-su: “Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” đã được biện luận như một sự phân biệt giữa hai lãnh vực: đạo và đời. Biện luận nầy gợi lên nhiều áp dụng thực tiển khác nhau qua nhiều thế kỷ. Trong bối cảnh trực tiếp, lời công bố nầy được ghi ở giữa những cuộc tranh luận với nhóm Biệt Phái vào những ngày cuối cùng sứ vụ của Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem trước cuộc Tử Nạn của Ngài: “Nghe các dụ ngôn Ngài kể, các thượng tế và người Biệt phái hiểu là Người nói về họ. Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì dân chúng cho Người là một ngôn sứ” (Mt 21: 45).

1. Âm mưu thâm độc:

Những người Biệt Phái bàn mưu tính kế với nhau tìm cách làm cho Đức Giê-su phải lỡ lời để triệt hạ Ngài. Họ cấu kết với phe Hê-rô-đê, một đảng phái chính trị, được thiết lập từ Hê-rô-đê Cả, luôn luôn sát cánh với chính quyền Rô-ma với hy vọng rằng lần nầy có thể làm chứng tố cáo Đức Giê-su để có thể hãm hại Ngài.

Bằng cách rào trước đón sau, họ tán dương bản tính chí công vô tư của Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật, và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa”. Chữ “đường lối” là ngữ vựng tôn giáo. Thuật ngữ nầy có nguồn gốc trong các Thánh vịnh, đặc biệt Tv 119 trong đó tác giả đề xuất hai con đường, một dẫn đến việc thực thi đức công chính và một dẫn đến sự hư vong. Bất chấp ác ý của họ được khôn khéo bọc trong những lời tâng bốc, lời khen ngợi này phải thật sự phản ảnh dư luận quần chúng về con người của Ngài qua lời nói cũng như hành động của Ngài, nếu không làm thế nào những lời này có thể trở nên cái bẫy được chứ. Cuối cùng, viện cớ soi sáng lương tâm của mình, họ đặt ra một câu hỏi gài bẫy: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da, hoàng đế Rô-ma hay không?”.

Phải nhận định rằng vào thời đó miền Giu-đa có hoàn cảnh đặc thù. Kể từ khi vua Ác-khê-lao, con vua Hê-rô-đê Cả, bị hoàng đế Au-gút-tô truất quyền vào năm 6 Công Nguyên, miền Giu-đa đặt dưới quyền cai trị trực tiếp của chính quyền Rô-ma, đại diện tại chỗ là một quan Tổng Trấn Rô-ma, trong khi miền Ga-li-lê và những địa hạt phía Bắc vẫn dưới quyền cai trị của hai người con khác của vua Hê-rô-đê Cả là tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pát và tiểu vương Phi-líp-phê. Ở miền Giu-đa, nhóm Nhiệt Thành khuyến cáo không được nộp thuế, vì đây là thái độ thuần phục chính quyền chiếm đóng, trong khi nhóm Sa-đu-xê-ô, hợp tác với chính quyền Rô-ma, ủng hộ việc nộp thuế, còn nhóm Biệt Phái giữ lập trường trung dung: họ không tán thành chủ trương bạo động của bè Nhiệt Thành cũng như thái độ cộng tác của bè Sa-đu-xê-ô. Vì thế, “nộp thuế hay không” là một vấn đề có tính thời sự. Nhưng ý định của các địch thủ của Ngài thì hoàn toàn khác: họ muốn đặt Ngài vào một vấn đề tiến thoái lưỡng nan để trừ khử Ngài.

Nếu trả lời “được phép”, Đức Giê-su sẽ đánh mất uy tín của Ngài đối với quần chúng, vì họ đặt ở nơi Ngài niềm hy vọng giải phóng quốc gia khỏi ách đô hộ của đế quốc Rô-ma. Nếu trả lời “không được phép”, Ngài tự đặt mình đối đầu với chính quyền Rô-ma, và chắc chắn những người thuộc phe Hê-rô-đê thân chính quyền Rô-ma sẽ có cớ để tố cáo Ngài là phản động, là sách động quần chúng chống chính quyền đô hộ. Nhưng nếu như Ngài giữ thái độ im lặng, các đối thủ của Ngài có cớ để bài bác tính chí công vô tư của Ngài mà họ đã rào trước đón sau trước đó rồi.

2. Câu trả lời của Đức Giê-su

Nhưng Đức Giê-su không tránh né câu hỏi hóc búa nầy. Ngài yêu cầu họ cho Ngài xem“một quan tiền nộp thuế”. Lời đòi hỏi rất quan trọng, vì nó quyết định cho câu trả lời của Ngài. Chung quy có hai loại tiền tệ hiện hành ở Giê-ru-sa-lem. Đồng tiền chính thức của đế quốc Rô-ma mang hình và danh hiệu của Xê-da, hoàng đế Rô-ma. Mọi hình thức nộp thuế đều phải được quy định bằng đồng tiền chính thức nầy. Ngoài ra, còn có “tiền đền thờ” đặc thù của dân Do thái, được dành riêng cho các cách dùng trong phụng tự (đó là lý do tại sao có những người đổi tiền trong sân đền thờ). Cầm lấy một quan tiền mà họ trao cho Ngài, Ngài hỏi họ: “Hình và danh hiệu nầy là của ai đây?” Họ đáp: “Của Xê-da”. Ngài trả lời:“Của Xê-da trả về Xê-da; của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa”.

3. Công dân trần thế và công dân Nước Trời:

Về phương diện lịch sử, đây là lần đầu tiên mà sự phân biệt giữa hai nghĩa vụ: người công dân trần thế và người công dân Nước Trời, được diễn tả cách rõ nét nhất. Đứng trước sự phân biệt ấy người ta dể rơi vào hai thái cực: hoặc đặt nặng các giá trị công dân Nước Trời mà xem thường các giá trị công dân trần thế, hay quá chú tâm vào các giá trị công dân trần thế mà hờ hửng với những giá trị công dân Nước Trời. Câu trả lời của Đức Giê-su “Của Xê-da trả về Xê-da; của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa” đặt người tín hữu trước hai nghĩa vụ phải chu toàn: công dân trần thế và công dân nước trời. Cả hai không hề loại trừ nhau, nhưng đồng hiện diện và ảnh hưởng hổ tương: tìm cách xây dựng Nước Trời qua việc cùng chung sức xây dựng trần thế bằng cách thăng tiến đời sống con người về phương diện vật chất lẫn tinh thần, thăng hoa những giá trị của con người, và nhất là làm cho mọi lãnh vực trần thế thấm nhuần sự hiện diện của Thiên Chúa để rồi cuối cùng dẫn đưa trần thế trở về với Thiên Chúa. Đó cũng là lời dạy của Công Đồng Va-ti-can II: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngay nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Ki-tô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (“Vui Mừng và Hy Vọng”, 1).

Các đối thủ của Đức Giê-su nghĩ là đặt Ngài vào thế bí không có lối thoát, nhưng cuối cùng chính họ phải nhận ra rằng Ngài quán triệt vấn đề đến nỗi họ phải kinh ngạc. Những kẻ muốn Ngài cứng họng chắc hẳn phải gặp thấy ở nơi câu trả lời của Ngài một giáo huấn rành mạch thấu tình đạt lý: một sự hiệp nhất cuộc đời của người tín hữa giữa công dân Nước Trời và công dân trần thế, bởi vì hai nghĩa vụ này hàm chứa một huấn lệnh quan trọng bậc nhất, một huấn lệnh làm nên chân tính của người Ki-tô hữu: mến Chúa và yêu người là một.

[Mục Lục]

Bài 3. Chú giải của Noel Quesson

Bấy giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy. Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với nhau người phe Hê-rô-đê đến gặp Đức Giêsu…

Chúng ta thường sai lầm mà cho rằng thời đại của chúng ta là thời đại khó sống nhất. Không còn có sự “nhất trí về đạo đức và xã hội” hôm nay. Những quan điểm chống đối nhau có thể được bày tỏ công khai. Người ta không còn biết suy nghĩ gì, và có thái độ thế nào đối diện với một số vấn đề lớn.

Nếu chúng ta thật sự biết đọc Tin Mừng, chúng ta sẽ khám phá ra rằng thời đại của Đức Giêsu cũng khó sống không kém. Đức Giêsu đã sống trong một bối cảnh lịch sử thật sự bùng nổ. Những đạo quân La Mã chiếm đóng miền Pa-lét-tin và cuộc kháng chiến của người Do Thái không ngừng âm ỉ vào những năm 30 ấy, Hoàng Đế Xê-da ngườibắt cả một Đế quốc mênh mông quỳ mọp là Tibêre một ông già cai trị Đế quốc từ hòn đảo Capri của nhà vua. Những người không cộng tác với quân chiếm đóng, nhóm Dê-lốt hô hào từ chối nộp thuế. Nhà Hê-rô-đê, trái lại dựa vào chính quyền La Mã để giữ địa vị của họ. Sau hết, có nhóm Pha-ri-sêu ra sức bảo vệ sự tự do tôn giáo bằng cách chiều theo hoặc ít hoặc nhiều các quyền lực chính trị.

Phái đoàn đến tìm Đức Giêsu để giăng bẫy Người được cố ý bao gồm những con người có quan điểm trái ngược nhau phe Pha-ri-sêu và phe Hê-rô-đê. Dù Đức Giêsu có theo “cánh hữu’ hay “cánh tả”, Đức Giêsu sẽ mắc bẫy và làm hại thanh danh của Người mà thôi!?

Họ đến nói với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta.”

Bốn lời khen ngợi nịnh hót là miếng mồi xảo quyệt để che giấu cái bẫy. Tuy nhiên cái bẫy ấy cũng là một lời tôn kính mà các nhân viên gây hấn đó đã khen một thầy Rabbi trẻ tuổi: Họ thừa nhận Đức Giêsu là một con người độc lập sống phục vụ Thiên Chúa và cương quyết. Thực ra, chúng ta biết rằng Đức Gi’êsu thường có thái độ ngược lại với những quan điểm đang thịnh hành: Người đã thán phục đức tin của ông đội trưởng của đạo quân La Mã (Mát-thêu 8,10). Người đã giao du với những người thu thuế và tệ nhất là một trong các người thu thuế ấy có mặt trong số các tông đồ của Người (Mát-thêu 9,9-10). Trước khi đi xa hơn, chúng ta hãy dành thời gian để nguyện ngắm Đức Giêsu, một con người không giống như những người khác. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết theo gương Chúa để luôn luôn là người chân thật… để đi theo chính lộ của Thiên Chúa… không để chúng con bị lôi kéo bới những ảnh hưởng định đưa chúng con đến nơi mà chúng con không muốn… để chúng con luôn luôn được tự do hoàn toàn, không cứng nhắc, không thỏa hiệp không đánh giá người ta theo bề ngoài.

Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?”.

Câu hỏi này khéo léo một cách quỷ quyệt: Nếu Đức Giêsu trả lời “có”, Người sẽ không còn được quần chúng ủng hộ vì họ đang chờ đợi một. Đấng Mê-si-a xua đuổi kẻ xâm lược… Nếu Người trả lời “không”, Người sẽ bị phe Hê-rô-đê tố giác như một kẻ xúi giục nguy hiểm chống lại La Mã.

Như thế, Giáo Hội HÔM NAY, cũng như ở mọi thời, thấy mình đối đầu với cùng một vấn đề: vai trò của Giáo Hội không thể trực tiếp làm chính trị… nhưng Giáo Hội cũng không thể đứng trung lập. Và dầu sao đi nữa, dầu nói “có” hoặc nói “không”, dầu có nói hay không nói, Giáo Hội thấy mình bị kéo vào trong phe này hay phe khác. Vậy lời đáp lại của Đức Giêsu là gì?

Nhưng Đức Giêsu biết họ có ác ý nên Người nói: “Tại sao các người lại thử tôi hỡi những kẻ giả hình? Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi? Họ liền đưa cho Người một đồng bạc.

Trước tiên Đức Giêsu cho họ thấy Người không bị họ lừa! Và Người lột mặt nạ đạo đức giả của họ, bằng cách yêu cầu họ chỉ cho Người thấy một đồng tiền với sự ngây thơ. Không ngần ngại một giây, họ rút tiền ra khỏi túi họ. Như thế, trong khi đóng vai trò của những người đắn đo thận trọng tự vấn mình về việc giữ mình trong sạch trước kẻ ngoại xâm, họ biết sử dụng tốt đồng tiền của kẻ vô đạo để kinh doanh! Dẫu sao, việc đóng thuế không làm cho lương tâm họ ô uế hơn là sử dụng mỗi ngày đồng tiền xấu đó.

Và Người hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai đây?”. Họ đáp: “Của Xê-da”.

Những người La Mã giành quyền đúc đồng tiền bằng bạc, dấu ấn vương quyền của họ. Và đồng bạc có mang tính của Hoàng đế với danh hiệu của ông ta. Hình cái đầu của Tibère được coi như dấu chỉ sự lệ thuộc ô nhục vào La-Mã: Hoàng đế tự xưng mình là thần linh? Người ta biết rằng nhóm Dê-lốt (Zélotes) cấm các thành viên của họ nộp thuế. Đức Giêsu với danh tiếng về sự trung tín với chỉ mình Thiên Chúa làm thế nào mà lại không đứng về cánh tả với những người xúi giục nổi loạn nhân danh Kinh Thánh chứ?

Đức Giêsu sẽ trả lời gì.

Bấy giờ, Người bảo họ: ‘Thế thì của Xê-da, trả về Xê da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”.

Câu trả lời của Đức Giêsu đã trở thành một câu châm ngôn đến độ nó trở thành một câu tục ngữ bình dân có trong các trang hồng của từ điển Larousse. Tuy nhiên người ta thường hiểu câu đó rất sai, như thể Đức Giêsu hoàn toàn theo chủ trương tách rời “Giáo Hội và Nhà Nước” đồng thời chấp nhận một thứ độc lập hoàn toàn của quyền lực chính trị…hoặc, ngược lại như thể Đức Giêsu yêu cầu các môn đệ của Người không được tham gia vào các công việc trần thế…

Vậy phải cố gắng hiểu biết tư tưởng ẩy của Đức Giêsu để áp dụng nó vào thời đại chúng ta. Vì thế chúng ta phải chú trọng đến cả hai phần của câu đó, mà vẫn cho phần thứ hai tất cả giá trị của kết luận có tính quyết định.

a) Của Xê-da, trả về Xê-da…

Trong viễn cảnh của toàn bộ Cựu ước, mọi quyền bính đều do Thiên Chúa mà có. Và chúng ta cũng đã nghe trong bài đọc đầu tiên của Chúa nhật hôm nay: Một ông vua dân ngoại như Ki-rô đã được Thiên Chúa xức dầu để thực hiện các công việc của Thiên Chúa “dù không biết Thiên Chúa” (I-sai-a 45,1-4-6). Thánh Phaolô áp dụng chính nguyên tắc ấy để yêu cầu các Kitô hữu đầu tiên tuân phục các chính quyền dân sự (Rôma 13,1-7; Titô 3,1-2).

Thật vậy, không ai có thể coi chừng sự liên đới xã hội và dân sự. Và hẳn người ta sẽ giải thích Tin Mừng rất sai khi muốn cắt đời sống con người thành những lát rời nhau như thể các Kitô hữu và Giáo Hội có thể không biết đến chính trị… như thể tôn giáo phải quanh quẩn trong nhà thờ và không được ảnh hưởng trên đường phố, đô thị, các công việc, gia đình, luật pháp, thuế khóa… Quả thật, Đức Giêsu đã thướng từ chối đóng vai trò của “Đấng Mê-si-a” xã hội chính trị mà người ta muốn bắt Người làm: đó là ý nghĩa sâu xa của kinh nghiệm tâm linh của các cám dỗ đến với Người lúc bắt đầu đời sống công khai (Mt 4,8-10); đó là ý nghĩa của việc Người chạy trốn vào sự cầu nguyện khi người ta muốn đưa Người lên làm vua sau khi hóa bánh ra nhiều (Ga 6,14-15); đó là ý nghĩa lời Người quở trách Phêrô khi ông này xuống ngăn cản Người trở thành Đấng Mê-si-a đau khổ (Mt 16,21-23); đó là ý nghĩa rất rõ ràng của lời Người tuyên bố với Philatô: “Tôi là vua, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18,36).

Tuy nhiên, trong lời đáp lại của Đức Giêsu: “của Xê-da, trả về Xê-da”, khó mà không nhận thấy một lời mời gọi phải tính đến quyền bính đã được thiết lập và tôn trọng các quyền hành của nó. Khi chọn thái độ ấy, Đức Giêsu đưa vào thế giới cổ đại một sự phân biệt cách mạng: Người giản thiêng chính trị bằng việc khẳng định Xê-da là Xê-da… nhưng không phải là Thiên Chúa! Trong khi mà Xê-da vì là Xê-da nên tiếp tục thực hiện chức vụ của ông ta! Đó là một chức năng thuộc về con người phụ thuộc mọi sự cố bất ngờ, và những thực tế xã hội chính trị phức tạp, khống chế độ, những hệ thống, những ý thức hệ. Nhưng vẫn chưa nói hết tất cả.

b) Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa…

Chúng ta là những con người hiện đại nên chúng ta biết giờ đây mọi nền chính trị coi thường phần thứ hai này của tư tượng Đức Giêsu rồi sẽ dẫn con người đi về đâu. Những xã hội “không Thiên Chúa” cũng là những xã hội phi nhân. Khi Nhà Nước coi mình là thần linh, nó sẽ đè bẹp con người. Chính Xê-da cũng phải phục tùng Thiên Chúa, và trả cho Thiên Chúa sự gì thuộc về Người. Việc Đức Giêsu đề cao “bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa” là một việc rất có ý nghĩa, trong khi mà người ta không hỏi Người câu hỏi ấy nhưng chỉ hỏi Người một câu hỏi thế tục: Vì thế mệnh đề này là đỉnh điểm của toàn bộ trang Tin Mừng hôm nay. “Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa”. Cả cuộc đời của Đức Giêsu không ngừng kêu gọi chúng ta điều đó. Chính trị dù rất quan trọng bởi vì nó là nghệ thuật đem lại công ích, không phải là tất cả con người, không phải là phần chủ yếu nhất của con người. “Con người không chỉ sống bởi bánh”… bởi chỗ ở, bởi thị trường, bởi sự sản xuất. Được tạo dựng theo “hình ảnh của Thiên Chúa” “theo hình và hiệu của Thiên Chúa”, con người có số phận phải chia sẻ chính sự sống của Thiên Chúa. Nếu Xê-da đã có thể in hình của mình lên những đồng tiền và vì thế người ta phải trả lại tiền đó cho Xê-da thì còn hợp lý hơn thế biết bao đối với Con người đã được hình ảnh của Thiên Chúa đóng ấn, con người phải “trả mình” trọn vẹn về cho Thiên Chúa! (St 1,26). Con người đáng được tôn trọng tuyệt đối vì số phận của con người vốn thánh thiêng. Như thế Đức Giêsu không để cho Người bị mắc bẫy mà người ta giăng ra cho Người. Một lần nữa, người đã mạc khải điều kín nhiệm và sứ mạng của Người: Thiết lập Triều đại của Thiên Chúa… và bởi thế mạc khải chiều kích cao cả nhất của con người! Nhưng quả thật, có phải tôi trả cho Xê-da điều thuộc về Xê-da? Có phải tôi coi chiều kích chính trị của đời tôi là điều nghiêm túc? Và có phải tôi cũng trả cho Thiên Chúa điều thuộc về Người. Có phải đời sống tôi được hiến dâng hoàn toàn cho Thiên Chúa.

[Mục Lục]

Bài 4. Trả nợ cuộc đời
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Có một câu chuyện kể rằng: có một người con gái nông thôn lên thành thị học, sau khi học thì cưới chồng giàu sang. Khi đám cưới, mẹ cô từ dưới quê nghèo lên dự, nhưng vẫn mang dáng dấp quê mùa với bộ đồ đã bạc màu, cũ kỹ. Sợ khách chê cười và xem thường mình, cô con gái không dám nhìn mặt mẹ và không dám giới thiệu mẹ với khách. Dù rằng, cô vẫn biết bà mẹ nhà quê rất tủi thẹn, nhưng cô vẫn lạnh lùng làm ngơ. Cô con gái đã đánh mất lòng thương yêu ngay cả đến với mẹ mình. Cô là loại người vong ân bội nghĩa. Cô đã phạm tội bất hiếu khi đang tâm không nhìn nhận công đức của mẹ đã dành cho cô: “chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, tất bật nuôi con cho tới khi trưởng thành”. Những loại người như vậy thường bị người đời kết án, tẩy chay, xem thường…

Lời Chúa hôm nay như là lời chất vấn lương tâm chúng ta. Của Xê-za hãy trả về cho Xê-za, của Thiên Chúa hãy trả về cho Thiên Chúa. Của Xê-za có thể là những thứ công bình bác ái giữa người với người, hay có thể là bổn phận phải thi hành cho đất nước, cho gia đình và xã hội. Của Thiên Chúa chính là con người phải lệ thuộc vào Thiên Chúa vì sự sống là của Thiên Chúa ban, và còn được Ngài ưu ái dựng nên giống hình ảnh Ngài. Của Thiên Chúa còn là những kỳ quan thiên nhiên mà Thiên Chúa đã quan phòng xếp đặt cho có thời, có lúc để nuôi dưỡng con người. Chính vì thế mà có ai đó nói rằng: con người sinh ra đã mang kiếp nợ trần. Con người đã mang ơn khi vào trần gian nên phải trả nợ cho hết cuộc đời. Trả nợ Thiên Chúa và trả nợ tha nhân.

Vậy, chúng ta phải trả lại cho Thiên Chúa và tha nhân những gì?

Hãy trả lại cho Thiên Chúa những thứ thuộc về Thiên Chúa. Đó chính là con người là hoạ ảnh Thiên Chúa, là “nhân chi sơ tính bản thiện”. Nhưng đáng tiếc, con người đã quay lưng lại với Thiên Chúa, đã phá vỡ những nét đẹp của hình ảnh Thiên Chúa khi lao vào những đam mê lầm lạc như: ngoại tình, dâm ô, cướp của, giết người hay gian dối, điêu ngoa… khiến con người trở thành “chó sói của con người” như lời của Saint paul Sart đã từng thốt lên trong chua chát!

Hãy trả lại cho Thiên Chúa quyền làm chủ sự sống. Nhưng đáng tiếc, con người đã lạm dụng tự do để bức tử các thai nhi vô tội khiến hàng triệu thai nhi bị tước đoạt quyền sống, quyền làm người của mình.

Hãy trả lại cho Thiên Chúa những trật tự thiên nhiên mà chính Ngài đã khôn ngoan xếp đặt. Nhưng đáng tiếc, con người đã đang tâm phá vỡ khi ngăn sông, lấp biển, chặt cây, đốt rừng khiến lũ lụt tràn lan, mưa nắng thất thường…

Hãy trả lại cho tha nhân lòng biết ơn mà mỗi người chúng ta từng mang ơn khi bước vào đời. Nhưng đáng tiếc, nhiều người đã sớm vong ân bội nghĩa khi dứt bỏ tình cha, tình mẹ. Họ đã sống thiếu trách nhiệm với gia đình và xã hội khi lười biếng và sống sa đoạ tội lỗi.

Hãy trả lại cho tha nhân sự công bình và bác ái mà mỗi người khi sinh ra đều được hưởng dùng của cải mà Thượng Đế ban tặng qua vũ trụ vạn vật. Nhưng đáng tiếc, nhiều người đã làm dụng quyền bính để vun quén cho bản thân, để bóc lột kẻ thấp cổ bé họng để làm giầu cho bản thân.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy trả lại cho Thiên Chúa sự trong trắng tâm hồn của con người là hình ảnh ban đầu mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên. Hãy trả lại cho tha nhân không chỉ là quyền được sống mà còn được sống dồi dào trong sự tôn trọng tự do của nhân quyền giữa người với người, không phân biệt giai cấp hay màu da sắc tộc . . .

Chúng ta đang sống trong một xã hội mà mọi giá trị đang mai một và đảo ngược. Ngay thẳng thật thà thì bị coi là ngu khờ dại dột… “Lương tâm không bằng lương tháng”. Một xã hội mà dối trá đang ngự trị khắp nơi mà có ai đó nói trong cay đắng rằng: xã hội hôm nay đang tiến từ thời kỳ đồ đá, đồ đồng sang thời kỳ “đồ đểu”! Một xã hội mà Cái TÔI lên ngôi Thượng Đế nên có quá nhiều những thị phi. Con người hôm nay đang lừa dối lòng mình và lừa dối tha nhân khi nói rằng: không có Thiên Chúa, không có thần linh. Chết là hết… Vì vậy mà người ta luôn đang tâm làm hại lẫn nhau, luôn tìm cách loại trừ Thiên Chúa để dễ dàng làm ngược với lương tri con người.

Ước gì mỗi người chúng ta biết nhận ra sự sống là quà tặng Thiên Chúa ban và được nuôi dưỡng trong tình yêu thương của đồng loại, để rồi mỗi người chúng ta luôn biết sống trong tâm tình tri ân Thiên Chúa và cảm tạ tha nhân. Amen.

[Mục Lục]

Bài 5. Ác ngầm
Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn

Cổ Học Tinh Hoa có thuật lại câu chuyện xảy ra trong thời Chiến quốc bên Trung Hoa: Vua nước Nguỵ muốn cầu hoà với vua Kinh nước Sở nên đã dâng cho vua này một cô gái tuyệt đẹp. Vua Kinh yêu nàng ta mê mệt đến nổi chẳng còn thiết gì đánh nhau. Vua đem cô gái về nước và lập làm vợ thứ.

Hoàng hậu nước Sở là Thịnh Tụ thấy vua thương cô gái cũng đem lòng quí mến chiều chuộng. Muốn mặc gì, đi chơi đâu, nhất nhất hoàng hậu cũng đồng ý. Thấy thế vua Kinh mừng lắm, có lần khen: “Hoàng hậu thấy ta yêu quí vợ mới mà cũng đem lòng thương mến như thế thì có gì khác nào con thảo biết thờ kính cha mẹ, tôi trung biết làm vui chủ mình”.

Hoàng hậu thấy vua không nghi ngờ gì nên một dịp kia mới bảo cô gái đẹp: “Đức vua thương yêu ngươi lắm, chỉ ghét có cái mũi của ngươi. Giá mà từ nay, mỗi lần trông thấy đức vua, ngươi che mũi lại thì chắc sẽ được yêu thương hơn nhiều”.

Nghe lời khuyên nên hễ vừa thấy đức vua, cô gái nọ liền che mũi lại. Thấy lạ vua Kinh mới dò thăm với hoàng hậu. Trước thì hoàng hậu trả lời “không biết” đến khi thấy vua cứ gặng hỏi, bà mới nói; “Thiếp nghe đâu cô ấy nói thân thể đức vua có mùi hôi khó ngửi, nên cứ phải che mũi thế đấy”.

Nghe vậy nhà vua nổi giận quát lên: “Thế thì xẻo ngay cái mũi của nó cho ta”.

Lập tức một tên lính cầm dao đi xẻo mũi cô gái, bởi hoàng hậu có dặn: hễ nghe vua phán gì thì phải thi hành ngay.

Ôi nham hiểm và thâm độc thay! Lòng bừng bừng ghen tức, nhưng ngoài mặt lại rộng lượng vô bờ. Bên trong muốn xé nát người ta, nhưng bên ngoài vẫn quyến luyến thiết tha. Rồi cuối cùng, bằng một mũi tên độc, Trịnh Tụ hạ được hai “con nhạn”: tình địch bị cắt mũi, nhà vua mất người yêu. Thế mới hay tác hại kinh khủng của những kẻ khẩu tâm bất nhất. Miệng nam mô, lòng là một bồ dao găm.

Tội nghiệp nhà vua, vô tư đến nỗi tưởng lời nói của hoàng hậu là chân tình. Thấy người ta thuận ý thì đắc chí, khi nghe tiếng chê thì lồng lộn căm tức, không cần suy xét, nên mắc vào cạm bẫy gian manh.

Hôm nay, một chiếc bẫy cũng được giương lên rất khéo. Kẻ đặt bẫy cũng tinh ranh không kém Trịnh Tụ. Nhưng người họ muốn gài bẫy không dại khờ như vua Kinh.

Các ký lục biệt phái cùng nhóm người Hêrôđê giăng lên một chiếc bẫy. Họ chắc mẩm Chúa có chạy đường trời cũng không thoát. Đầu tiên họ ca tụng tang bốc Ngài lên tận mây xanh. Nào là “chúng tôi biết Thầy là người ngay chính”, nên chúng tôi tìm đến. Nào là “Thầy cứ căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa”, nên chúng tôi xin học hỏi. Nào là “Thầy không thiên tư tây vị ai”, nên thầy sẽ nói tất cả, chẳng sợ mất lòng người nào.

Thật ghê gớm! Lời ca tụng của họ ngầm bảo rằng chuyến này Đức Giêsu phải mở miệng. Mà như thế ắt sẽ mắc quai.

Sau khi rào đầu chắn đuôi, họ mới giăng bẫy để Chúa bước vào: “Thưa Thầy, có nên nộp thuế cho Cêsarê không?”. Nếu không im lặng thì câu trả lời chỉ còn là “có” hay “không”. Nhưng “có” cũng chết, mà “không” cũng hết sống. Vì khi trả lời “có”, lập tức Đức Giêsu bị ghép với phường thu thuế, đám người đang bị dân Do thái ghét đắng ghét cay: hễ ai ủng hộ nộp thuế hay cộng tác với chính quyền Rôma đều bị xem như bọn cấu kết với ngoại bang, thiếu tinh thần dân tộc, và đáng khinh chứ không đáng kính, đáng tôn.

Nhưng nếu Đức Giêsu nói “không”, ngay lập tức bọn theo phe Hêrôđê sẽ tố cáo Ngài có tinh thần dấy loạn, dám chống lại chính sách nhà nước. Và tất nhiên Ngài sẽ khó tránh khỏi án phạt đích đáng.

Một câu hỏi đơn sơ nhưng sao khó giải quyết. Tuy nhiên việc giải quyết câu hỏi vẫn không phức tạp cho bằng giải quyết lòng người. Phức tạp là vì người hỏi không mang chủ đích tìm một con đường hay một hướng đi cho đời, nhưng là để làm hại kẻ khác. Phức tạp còn là vì người hỏi không định lái đời mình theo điều dạy bảo, nhưng mong có câu trả lời theo ý mình muốn.

Đừng tưởng chỉ có đời xưa người ta mới hỏi phức tạp như thế. Đời nay cũng thế thôi!

Có người từng đặt vấn đề: “Con đi làm, bị chủ trả lương thấp, con câu giờ, làm ít tính nhiều có tội không? Mình ‘ăn’ tiền chính phủ rồi thỉnh thoảng đem cúng nhà thờ có sao không?” Có người lại thắc mắc: Nếu vợ chồng chẳng còn nồng ấm, gia đình đang biến thành hoả ngục, li dị hay ngoại tình sẽ là lối thoát hay nhất, nhưng tại sao Giáo hội không cho phép?” Người khác còn nói: “Thời buổi này nuôi dạy con cái không dễ, nhưng sao Giáo quyền không cho ngừa thai như chính quyền cho phép? Tại sao Giáo hội không rộng rãi đôi chút để đáp ứng lối sống và nhu cầu con người thời đại? Dường như lề luật của Chúa và Giáo hội làm nên xiềng xích trói buộc tự do và hạnh phúc con người?”

Thế đấy, xưa và nay không thiếu những câu hỏi “đơn sơ” như của biệt phái và bè Sađoc.

Nhưng một câu hỏi và cũng là câu trả lời căn bản nhất sẽ là: Tại sao người ta không chịu thay đổi lối sống cho phù hợp với những giá trị bất biến của Tin Mừng như công bằng, hy sinh, bác ái, yêu thương, tha thứ, tôn trọng sự sống, một vợ một chồng…, mà lại cứ đòi Chúa Kitô và Giáo hội thay đổi chân lý theo sở thích và đam mê của con người? Tại sao không dùng những phương cách chính đáng để đạt đến mục đích tốt lành mà lại dùng những mục đích rất kêu để biện minh cho các hành động vô luân và bất nhân?

Thành ra vấn nạn không phải nơi Thiên Chúa nhưng là nơi con người. Thay vì “con vâng ý cha”, người ta lại cứ muốn “Cha theo ý con”. Vấn đề không phải là Thiên Chúa hay Giáo hội khắt khe, độc tài, thiếu cảm thông hiểu biết, nhưng vấn đề là vì con người cứ cho mình hiểu biết hơn Thiên Chúa, khoan nhân hơn Hội Thánh. Thế rồi khi lên tiếng thì tiếng đó không phát xuất từ con tim khao khát chân lý, muốn tìm con đường đúng nhất hầu có được niềm vui thẳm sâu, nhưng nó lại phát xuất từ ích kỷ dối gian, đam mê bất chính, khát khao tội lỗi. Chúng đến từ ý tưởng của thế gian chứ không phải từ Thiên Chúa.

Trong khi người ta hỏi Chúa Giêsu về chuyện thế tục, Ngài lại hướng họ đến một chiều kích cao hơn: Hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Thử hỏi, có gì tốt đẹp người ta nhận được mà không đến từ Thiên Chúa. Thành ra, vượt lên Cêsarê để đi đến Thiên Chúa, vượt qua vật chất để hướng về tâm linh là bổn phận cần thiết nhất trong đời con người.

Ước chi bao tâm tư mỗi ngày đời tôi sẽ luôn khởi đi từ con tim mến thương chân thành, nhiệt tình xây đắp nhân phẩm, tha thiết làm sáng danh Cha. Có thể, hồn tôi sẽ được bình an; cuộc sống sẽ chứa chan tin yêu hy vọng.

[Mục Lục]

Bài 6. CỦA THIÊN CHÚA TRẢ CHO THIÊN CHÚA
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Người Do Thái muốn gài bẫy Chúa nên đưa ra câu hỏi hóc búa. Không ngờ Chúa trả lời thật khôn ngoan: “Của César trả cho César, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Với câu trả lời này, Chúa Giêsu minh định hai điều:

Thứ nhất: Tôn giáo và chính trị tách biệt nhau. Chính trị không thể trở thành tôn giáo hoặc bắt tôn giáo làm nô lệ. Tôn giáo cũng không thể đi vào chính trị, đánh mất bản chất của mình.

Thứ hai: Mỗi người phải chu toàn hai nhiệm vụ. Nhiệm vụ đối với xã hội là “trả cho César” những gì của César. Nhiệm vụ đối với Thiên Chúa: “trả cho Thiên Chúa” những gì thuộc về Thiên Chúa.

Hình và huy hiệu khắc trên đồng tiền là của hoàng đế César vì thế phải trả lại cho ông. Nhưng linh hồn con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa nên linh hồn phải được trả về cho Thiên Chúa.

Để có được đồng tiền mang hình ảnh César, người dân phải làm việc vất vả. Cũng thế, để linh mang hình ảnh Thiên Chúa, con người cũng phải ra sức làm việc.

Nhưng hai cách làm việc thật khác xa nhau. Để chia sẻ phần nào quyền lực của vua chúa trần gian, người ta phải làm việc theo cách vua chúa đó là tìm chiếm hữu của cải. Để trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa, con người phải suy nghĩ và hành động như Thiên Chúa đó là yêu thương và cho đi.

Bí tích Thánh Thể là minh họa rõ nét nhất về tính cách yêu thương và cho đi của Thiên Chúa. Nói về bí tích Thánh Thể, lòng trí ta tự nhiên hướng về bữa Tiệc Ly, cuộc Khổ Nạn và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Qua đó ta thấy một vài khía cạnh trong tình yêu của Chúa.

Đó là tình yêu phục vụ. Tin Mừng thánh Gioan thuật lại. Chúa Giêsu yêu thương những kẻ thuộc về mình thì yêu thương cho đến cùng. Nên trong bữa ăn tối, Người cầm lấy chậu nước và khăn rồi đi rửa chân cho từng môn đệ.

Đó là tình yêu tự hiến. Khi lập phép Thánh Thể. Chúa Giêsu đã nói: “Đây là Mình Thày bị nộp vì anh em; Đây là Máu Thày đổ ra cho anh em và mọi người được tha tội” (Lc 22,19).

Đó là tình yêu hiền lành khiêm nhường. Chúa Giêsu cam lòng chịu kết án oan ức, chịu sỉ nhục, chịu hành hạ chịu chết mà chẳng một lời oán thán.

Đó tình yêu tha thứ. Không chỉ tha thứ mà còn cầu xin Chúa Cha tha cho những kẻ làm hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm không biết” (Lc 23,34). Người cũng tha thứ cho kẻ trộm lành: “Thật Ta bảo thật, hôm nay con sẽ ở với Ta trên thiên đàng” (Lc 23,43).

Đó là tình yêu muốn tiếp diễn mãi mãi. Nên Người truyền cho ta: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lc 22,19). Cử hành thánh lễ, chầu Mình Thánh, kiệu Thánh Thể để Chúa ở mãi với ta, tiếp tục bày tỏ tình yêu thương với ta.

Người mong muốn kéo dài tình yêu của Người cho đến tận cùng không gian và đến tận cùng thời gian nơi cuộc đời chúng ta. Vì thế khi ta chịu lễ, ta phải kết hiệp mật thiết với Người, nên một với Người. Nên một với Người là biến đổi để ta suy nghĩ, nói năng và hành động như Người, nghĩa là sống như Người.

Sống như Chúa là hãy có tình yêu thương phục vụ. Vì Chúa đã dạy: “Như Thày đã rửa chân cho các con, các con cũng hãy rửa chân cho nhau” (Ga 13,14). Sống như Chúa là hãy có tình yêu tự hiến. Quên mình vì hạnh phúc của người khác. Dám hy sinh thời giờ, sức khỏe, tiền bạc vì anh em. Sống như Chúa là hãy có lòng hiền lành khiêm nhường. Vì Chúa đã dạy: “Hãy học cùng Thày, vì Thày hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Sống như Chúa là hãy tha thứ, không phải chỉ tha thứ 7 lần mà đến 70 lần 7 (x. Mt 18,21-22).

Sống như thế, ta trở nên hình ảnh sống động của Thiên Chúa giữa trần gian. Sống như thế, ta trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Sống như thế ta tôn sùng bí tích Thánh Thể một cách thiết thực và hữu hiệu nhất. Sống như thế là sống nhờ Thánh Thể. Không còn sống cho những giá trị trần gian mau qua, nhưng sống cho những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin dạy con biết sống bí tích Thánh Thể để con được kết hiệp với Chúa và càng ngày càng nên giống Chúa hơn. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Bạn đã phải trả cho César những gì thuộc về César. Nhưng bạn có thực sự trả cho Chúa những gì thuộc về Người không?

2- Bạn làm gì để nên giống Chúa?

3- Qua bí tích Thánh Thể, bạn có thể hiểu được gì về tình yêu Chúa đối với bạn?

[Mục Lục]

Bài 7. Nên nộp thuế chăng?
R. Veritas

Đi hỏi xem Đức Giáo Hoàng có bao nhiêu sư đoàn? Stalin đã có lần thốt lên như thế khi nhắc đến người có vai trò trung gian của Tòa thánh trong chiến trường quốc tế. Không đầy một thế kỷ sau, một vị Giáo hoàng đến từ Đông Au đã làm lung lay tận gốc rễ chế độ của Liên xô. Quả thật, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tỏ ra là một con người đáng sợ đối với rất nhiều nhà lãnh đạo chính trị và người cuối cùng hẳn phải là chủ tịch Phidel Castro, người đã đặt tất cả nhân loại dưới bờ vực của chiến tranh nguyên tử từ đầu thập niên 60. Dưới mắt giới truyền thông, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chỉ là một con người bảo thủ, bênh vực giá trị truyền thống. Thế nhưng, nếu ta cần chứng kiến khi những giá trị truyền thống ấy bảo đảm cho phẩm giá con người thì không ai tỏ ra thẳng thắn, can đảm cho bằng ngài.

Người ta vẫn còn nhớ khi đến Pháp lần đầu tiên từ năm 1981, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không ngần ngại hỏi từng người dân Pháp, kể cả vị nguyên thủ quốc gia của nước này như sau: “Hỡi nước Pháp, tôi đã làm gì với phép rửa của ngươi?”. Câu hỏi ấy ngài đi thẳng vào lương tâm mỗi người dân Pháp: “Đâu là chỗ đứng của niềm tin tôn giáo trong cuộc sống của mỗi người?”.

Một câu hỏi như thế cũng có thể được nêu lên cho mỗi một người Kitô hữu chúng ta. Người có tôn giáo dễ có khuynh hướng phân chia cuộc sống thành nhiều ô độc lập với nhau, ô ở Công giáo, ô ở phố chợ với nhau, ô ở nhà thờ v.v. Sự phân chia ấy dễ tạo nên hai bộ mặt tương phản nơi người tín hữu. Một bộ mặt rất đạo đức ở nhà thờ hay khi cầu kinh và một bộ mặt phi đạo đức bên ngoài nhà thờ.

Khi tuyên bố: “Của Xêda hãy trả lại cho Xêda, của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa”, Chúa Giêsu không những đã thoát được cái bẫy thâm độc của những người Biệt phái và phe Hêrôđê. Ngài còn khẳng định về chỗ đứng trong cuộc sống con người: “Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”.

Thiên Chúa không phải là một vị thần, hay vị thần của thế giới thần linh. Thiên Chúa không phải là món đồ trang sức cho con người, nhưng Thiên Chúa là Chủ tể, là gia nghiệp, là tất cả của con người. Ngài không chiếm chỗ nhất trong cuộc sống con người, mà con người phải tìm kiếm Ngài trong tất cả mọi sự. Ngài không chỉ ngự một góc nào đó trong nhà thờ, Ngài không chỉ hiện diện trong một buổi cầu kinh nào đó. Ngài gặp gỡ con người ở khắp mọi nơi, trong mọi sinh hoạt của cuộc sống con người. “Của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa”, có nghĩa là hãy dành chỗ nhất cho Ngài trong cuộc sống, tìm kiếm Ngài, gặp gỡ Ngài, yêu mến Ngài trong tất cả mọi sự.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm và xác định lại sự chọn lựa căn bản của chúng ta. Niềm tin tôn giáo không phải là một sinh hoạt xa xỉ tùy tiện, được giản lược trong bốn bức tường của nhà thờ, hay chỉ trong bài diễn văn đặc biệt trong năm hay trong suốt một đời người. Niềm tin ấy phải thấm nhập vào toàn bộ cuộc sống và hướng dẫn mọi chọn lựa, suy nghĩ và hành động của người Kitô hữu.

Khi niềm tin được sống một cách triệt để như thế, thì Giáo Hội không chỉ có một vài sư đoàn, mà sẽ là một đạo binh có sức cải tạo và thay đổi bộ mặt của xã hội. Khi người tín hữu Kitô sống cho đến cùng những đòi hỏi của niềm tin, họ sẽ tìm được bình an và hạnh phúc đích thực cho cuộc sống, bởi vì họ có Chúa làm gia nghiệp cho cuộc đời.

[Mục Lục]

Bài 8. CON NGƯỜI – HÌNH ẢNH THIÊN CHÚA
Lm Nguyễn Hữu An

Trong Phật giáo có một câu chuyện nổi tiếng:

Có một người đàn ông cao ngạo chẳng biết sợ ai, luôn coi thường đạo lý. Nghe Đức Phật dạy rằng đừng bao giờ lấy ác báo ác và một ngày kia, hắn đến gặp Đức Phật và dự tính xem Phật có sống được điều Ngài giảng không. Hắn bắt đầu tuôn ra đủ mọi lời thóa mạ Ngài và gọi Ngài là tên đần độn. Trong khi hắn liên tục xổ ra đủ thứ lời lăng mạ thì Đức Phật vẫn kiên nhẫn lắng nghe. Chờ hắn mỏi miệng không nói thêm lời nào nữa, Ngài mới lên tiếng: “Này con, nếu một người không chịu nhận món quà mà kẻ khác biếu cho thì món qùa ấy sẽ đi về đâu”? Gã cay cú đáp: “Thằng điên nào mà chẳng biết, dĩ nhiên là món ấy sẽ trở về lại với người đem cho”. Đức Phật liền nói: “Hỡi con, con vừa tặng ta rất nhiều lời thóa mạ nhưng ta chẳng nhận đâu nhé”. Gã kia câm miệng không thốt ra lời nào nữa. Đoạn Đức Phật nói tiếp: “Kẻ nào lăng mạ một người thánh thiện thì cũng giống như hắn ta khạc nhổ lên trời. Những thứ hắn khạc nhổ ra khôntg làm nhơ bẩn bầu trời, trái lại sẽ rơi xuống làm nhơ bẩn gương mặt của chính hắn. Cũng thế kẻ nào thóa mạ một người nhân đức thì khác nào tung bụi ngược chiều gió, bụi sẽ chỉ bay vào mắt hắn mà thôi.” (Trích tuyển tập chuyện hay, Giấc mộng vàng trang 167)

Câu chuyện trên là một minh họa cho cuộc tranh luận nổi tiếng giữa các Pharisiêu, Luật sĩ và Chúa Giêsu qua bài Tin mừng hôm nay.

Nhóm Biệt phái bàn mưu để làm cho Đức Giêsu lỡ lời mắc bẩy. Họ hợp tác với phe Hêrôđê để chất vấn Người về vấn đề nộp thuế. Nhóm Biệt phái ghét cay ghét đắng người Rôma đang đô hộ Israel, còn phe Herôđê thì lại nịnh bợ các quan bảo hộ để được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi. Dù không ưa nhau nhưng họ lại liên kết với nhau để chống lại Đức Giêsu. Một mình đối nghịch với Đức Giêsu trong lãnh vực tôn giáo, nhóm Biệt phái không làm được gì đến Người, họ muốn nhờ bàn tay chính quyền là phe Hêrôđê để gài bẫy Người trong vấn đề chính trị. “Chúng tôi có được nộp thuế cho Xêda hay không?” Câu hỏi đặt Đức Giêsu trong tình thế tiến thoái lưỡng nan, bẫy gài sắc như con dao hai lưỡi. Trả lời có cũng mắc bẫy, không có cũng mắc bẫy. Nếu Đức Giêsu bảo không thì nhóm Hêrôđê tố cáo là không trung thành với Hoàng đế. Còn nếu Người bảo có thì Người sẽ bị nhóm Pharisiêu tố cáo là không trung thành với dân tộc. Hai đàng, đàng nào cũng trọng tội. Trước gọng kềm đang siết chặt, Đức Giêsu rất bình tĩnh, rất tự chủ, không ngạo mạn khiêu khích nhưng cũng không khúm núm sợ sệt. Người bảo họ đưa cho xem đồng tiền và hỏi: hình va danh hiệu này là của ai?. Khi được trả lời là “của Xêda” Đức Giêsu liền tuyên bố “thế thì của Xêda trả về Xêda; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa”. Câu trả lời của Người làm cho 2 phe nhóm bẽ bàng hụt hẫng. Đức Giêsu phân biệt đâu ra đó: của Hoàng đế hãy trả cho Hoàng đế, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Đức Giêsu không dùng miệng lưỡi mình để kết án họ, nhưng bắt chính họ phải tự tuyên án cho mình như có lời chép rằng: Vì nhờ lời nói của anh mà anh sẽ được trắng án và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án (Mt 12, 37).

Sứ mạng của Đức Giêsu khi đến trần gian là sứ mạng tôn giáo, là đưa nhân loại về với Thiên Chúa chứ không phải là chính trị. Chính Người đã từ chối làm vua, làm Messia đánh đông dẹp bắc theo mong đợi của người Do Thái. Câu trả lời của Đức Giêsu làm nổi bật chân lý ấy. Với sứ mạng tôn giáo, Đức Giêsu nhắc cho họ nghĩa vụ phải trở về với Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa những gì là của Thiên Chúa. Những kẻ chất vấn muốn nhìn Đức Giêsu dưới gốc độ chính trị thì Người làm cho những kẻ có lập trường chính trị phải thấy Người là con người tôn giáo.

Một cuộc đối thoại giữa thần quyền và thế quyền, giữa Thiên Chúa và Xêda. Cũng như sau này trong cuộc đối thoại với Philatô, Đức Giêsu trịnh trọng tuyên bố: Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì thuộc hạ của tôi sẽ chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này. Qua lời tuyên bố này Đức Giêsu có vẻ như khẳng định vương quyền của mình, một vương quyền mà Philatô chưa có thể hiểu thấu.

Mối tranh chấp giữa thần quyền và thế quyền, giữa đạo và đời đã xảy ra từ thời Chúa Giêsu cũng như từ muôn thưở. Đức Giêsu không muốn được coi như vị cứu tinh chính trị theo ý của người Do thái. Người không đến để nắm lấy chính quyền, thống trị như một vị hoàng đế Xêda hay như vua Hêrôđê. Trong thực tế Người phân biệt rõ thần quyền và thế quyền, tuy công nhận quyền hành chính trị như một điều tất nhiên nhưng Người tự đặt mình vào mức độ khác. Nước Trời mà Người đang rao giảng, đang thể hiện hoàn toàn khác biệt vàkhông cạnh tranh với đế quốc của Xêda, vì Nước Trời là vương quốc trường tồn của Thiên Chúa dành cho tất cả, nơi đó không có áp chế, không có thống trị, chỉ có niềm vui, bình an và hạnh phúc miên trường.

Những gì của Xêda hãy trả cho Xêda. Xêda là hiện thân cho một đế quốc hùng mạnh và giàu có của một thời lịch sử đã qua. Xêda cũng còn là biểu tượng cho thế lực tiền bạc, tham vọng quyền bính và danh lợi dưới mọi hình thức trong xã hội ngày nay đối với mọi người.

Những gì của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Đức Giêsu đã khéo léo nhắc đến bổn phận của con người đối với Thiên Chúa. Có cái gì ngoài Thiên Chúa mà lại không phải là thụ tạo của Ngài? Phải trả cho Thiên Chúa những gì mang hình ảnh Ngài, những gì được khắc ghi tên Ngài trên đó. Hình ảnh nổi bật nhất là con người (St 1, 26). Toàn bộ con người mang dấu ấn Thiên Chúa và cả vũ trụ cũng tiềm tàng dấu ấn của Thiên Chúa. Trả con người lại cho Thiên Chúa là dâng nó cho Ngài, là nhìn nhận chủ quyền của Ngài. Trả vũ trụ trong lành cho Thiên Chúa cũng là trả lại cho con người món quà lớn lao mà Ngài đã trao tặng.

Mỗi người Kitô hữu luôn hãnh diện vì mang trong bản thân mình hình ảnh cao quý của Thiên Chúa và luôn sống phong cách của Ngài: quảng đại chia sẻ, yêu thương trao hiến, bao dung tha thứ, khiêm tốn phục vụ. Được như thế, mỗi người chúng ta sẽ luôn làm cho hình ảnh Thiên Chúa ngày càng rõ nét trong cuộc đời mình.

[Mục Lục]

Bài 9. Tôn giáo và chính trị

- Nếu Thầy chống nộp thuế thì Thầy chống lại người Rôma; nếu Thầy ủng hộ việc nộp thuế, thì Thầy chống lại Thiên Chúa.

Để làm hại Chúa Giêsu, người ta giăng một cái bẫy buộc Ngài phải rơi vào đó. Đất nước đang sống dưới sự chiếm đóng của Rôma và người Do thái biến đều đó thành một vấn đề tôn giáo. Cho nên đó là điều Tin Mừng muốn làm cho chúng ta suy nghĩ: tôn giáo và chính trị.

Những người theo Hêrôđê là những người hợp tác và rình mò Chúa Giêsu có lời nào bất cẩn nhằm tố cáo Ngài là người xách động. Nhưng những người Pharisêu, và thực tế là toàn thể dân Do thái, ghét người Rôma và xem họ là những kẻ đàn áp và là dân ngoại. Đóng thuế, tức là công nhận phục tùng một vị hoàng đế ngoại đạo. Như thế chẳng phải là chống lại Thiên Chúa hay sao? Thầy tự xưng là Đấng Cứu Thế, Thầy không thể chấp nhận điều đó, Thầy không ủng hộ việc đóng thuế chứ?

Chúa Giêsu bẻ gẫy cái bẫy kết hợp đó: các ngươi đang sử dụng tiền của César, các ngươi chấp nhận tình cảnh đất nước bị chiếm đóng, do đó, “hãy trả cho César những gì thuộc về César”, nhưng các ngươi đừng trộn lẫn điều này bất cứ như thế nào với đức tin của các ngươi vào Thiên Chúa.

Cho nên Chúa Giêsu phân biệt tôn giáo với chính trị. Không như người ta thường làm bằng cách cắt cuộc sống ra làm hai: một bên là lãnh vực của César, chính trị, và bên kia là lãnh vực của Thiên Chúa, tôn giáo. Không, tôn giáo và chính trị khác hẳn nhau, tuy nhiên chúng chồng chéo lên nhau.

Hẳn có hai lãnh vực, hoặc đúng hơn là nhiều lãnh vực. Trước hết là lãnh vực của Thiên Chúa là lãnh vực bao trùm tất cả. “Hãy trả cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa” có nghĩa là: các ngươi hãy xem tất cả trong cuộc sống của các ngươi liên quan đến Thiên Chúa như thế nào. Ai cũng có quyền có quan điểm. Cho nên phải “trả lại cho Thiên Chúa” tất cả những gì chúng ta làm trong chính trị cũng như trong tất cả. Đó là ánh sáng rõ ràng về các vấn đề “đức tin và chính trị” và về bao nhiêu vấn đề khác nữa.

Bởi vì bên trong quyền tối thượng hoàn toàn cuả Thiên Chúa, có biết bao nhiêu là lãnh vực trong đó chúng ta phải thực thi tự do của chúng ta: cuộc sống cá nhân, gia đình, xí nghiệp, xã hội. Không có vấn đề sống tất cả những cuộc sống đó một cách độc lập với Thiên Chúa. Cũng không có vấn đề ràng buộc Ngài với sự chọn lựa của chúng ta, trong khi tuyên bố rằng thái độ chính trị này là thái độ chính trị duy nhất của người Kitô hữu chẳng hạn. Trước kia, người ta dễ dàng nghĩ rằng bỏ phiếu cho cánh hữu là “vì Thiên Chúa”; ngày nay, đúng hơn là ngược lại, và đây là cũng sai nốt. Dầu sao thì cũng có cám dỗ lớn lao trong việc đặt Thiên Chúa vào trong những đề cương bầu cử hoặc trong nhiệt tình chính trị. Không, đó là César chứ không phải Thiên Chúa. Thiên Chúa không còn thuộc về cánh hữu hay cánh tả nữa.

Nhưng cám dỗ ngược lại cũng xấu: tìm cách thoát ra để gần Chúa, xa rời mọi sự dấn thân tập thể. Thế là chúng ta trốn tránh yêu thương anh em chúng ta, bởi vì phần lớn nhờ hoạt động chính trị mà chúng ta có thể thăng tiến công bằng xã hội và chất lượng cuộc sống. Ở kỹ trong nơi ấm áp, đọc kinh, và để cho người ta làm bất cứ điều gì trong nước thì đó không phải là đạo đức mà là ích kỷ.

Người ta đã sử dụng câu trả lời của Chúa Giêsu theo nhiều cách. Tôi nghĩ rằng đây là nguyên tắc phát xuất từ đó cho phép từ chối sự tách biệt hoàn toàn giữa đức tin và chính trị trong khi tránh được sự tập hợp các khuynh hướng: không có một nền chính trị nào có thể ràng buộc Thiên Chúa, nhưng tất cả các nền chính trị đều phải trả lẽ cho Ngài.

[Mục Lục]

Bài 10. THIÊN CHÚA và XÊ DA
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta thấy có nhiều câu chuyện thật đáng nực cười, và nhiều chuyện làm chúng ta suy nghĩ…Buồn vì sự có mặt của Chúa Giêsu đã khiến các người Pharisêu, các Thượng tế, Kỳ mục, Biệt phái tức tối, tìm đủ cách gài bẫy, ám hại Chúa Giêsu. Họ muốn trừ khử Ngài ra khỏi thế giới này, do đó, mọi việc làm, mọi câu nói của Chúa đều bị họ bẻ ngược lại, nghĩ xấu, ác ý đối với Chúa Giêsu. Câu chuyện về việc nộp thuế trong đoạn Tin mừng của thánh Matthêu cho chunhg1 ta hiểu sự nham hiểm, ác độc của những thành phần vừa nói…

Thuế là sinh hoạt của một quốc gia. Thuế là nghĩa vụ và quyền lợi của mọi người dân trong một đất nước. Hầu như mọi nước trên thế giới đều có những loại thuế tùy theo pháp luật của nước đó qui định. Hầu như ngân sách quốc gia nào cũng dựa vào các loại thuế thu được. Và mọi người công dân đều có nghĩa vụ và bổn phận nộp thuế cho quốc gia, cho nước mình. Trường hợp của Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài lại khác bởi vì người Roma đang đô hộ đất nước Do thái. Do đó, nộp thuế là phản bội tổ quốc, nộp thuế là nối giáo cho đế quốc tiếp tục đô hộ nước Do thái. Lợi dụng cái nghịch lý mà đa số người Do thái lúc đó đang suy nghĩ, nhóm Pharisiêu liên kết với bè phái Hêrôđê tìm cách gài bẫy Chúa Giêsu trong vấn đề nộp thuế. Gài bẫy Chúa Giêsu vì nhóm lãnh đạo tôn giáo, nhóm Pharisiêu và nhiều nhóm khác thù ghét Chúa Giêsu. Nếu Chúa nói: Không nộp thuế. Họ sẽ tố cáo với người Roma Chúa Giêsu đang xúi giục dân chúng làm loạn, phá rối trật tự trị an, phá rối Chính quyền v.v… Nếu Chúa nói phải nộp thuế, họ sẽ tố cáo với người Do thái, Chúa đi theo đế quốc, phản bội lại tổ quốc, phản bội lại dân tộc của mình. Trả lời nộp hay không nộp cũng là mối nguy cho Chúa Giêsu và Ngài cũng bị mắc bẫy họ giăng ra. Tuy nhiên, như bài đọc I của ngôn sứ Isaia viết: “Ta là Đức Chúa, không còn Chúa nào khác, ngoài Ta ra, chẳng ai là Thiên Chúa… để từ Đông sang Tây, thiên hạ biết rằng ngoài Ta ra, chẳng có thần nào, Ta là Đức Chúa, không còn Chúa nào khác”. Chúa là Thiên Chúa chân thật, luôn hành động theo sự thật, chỉ bảo đường lối ngay chính, không tây vị ai, không xu nịnh người nào. Thiên Chúa vượt lên trên mọi sự tầm thường của trần gian. Chúa Giêsu đã không bị mắc bẫy mà đã khiến cho những người ác độc, nham hiểm phải câm miệng khi Chúa nói: “Của Xê Da, trả cho Xê Da; của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa” (Mt 22, 21). Chúa Giêsu đã nhìn nhận thế quyền của Xê Da, bởi vì hình trên đồng bạc là hình của Xê Da. Tuy nhiên, đối với Chúa thì Xê Da hay Philatô chẳng có quyền gì trên Ngài, nếu Đấng trên cao không ban quyền ấy cho Xê Da và Philatô (Ga 19, 11).

Lập trường của Chúa Giêsu quả rất rõ ràng, Chúa không tây vị ai, Ngài luôn công minh chính trực, dạy đường lối ngay thẳng: “Của Xê Da, trả về cho Xê Da. Của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa” (Mt 22,21). Chúa Giêsu đã khẳng định rõ ràng khi bị người ta chất vấn: “có được phép nộp thuế cho Xê Da hay không?” (Mt 22, 17). Chúa Giêsu đã khẳng định rõ ràng đồng tiền này hình của ai, họ thưa: “Hình của Xê Da”. Chúa liền nói với họ câu hết sức bình thường, nhưng cương quyết làm cho họ im hơi, lặng tiếng vì Ngài nói rất chí lý, chính xác. Thực tế, Chúa dạy con người bài học rất chân thành và hết sức ý nghĩa: “đã là người dân trong một nước, trong một quốc gia phải thi hành, vâng phục sự lãnh đạo của nước đó, quốc gia đó”. Chúa không bao giờ dạy con người làm xằng làm bậy, Chúa luôn dạy con người phải sống ngay lành, công chính như Cha trên trời là Đấng công chính.

Hình ảnh của Thiên Chúa đã họa lại nơi bản thân của người môn đệ Chúa. Bởi vậy, người môn đệ phải sống đời sống của Chúa, phải hành động, phải yêu như Chúa.Sách sáng thế ký viết: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Chúa” (St 1, 27). Con người là tác phẩm của Thiên Chúa. Do đó, người môn đệ Chúa phải luôn sống tốt thế giới do Thiên Chúa sáng tạo và phải làm cho thế giới luôn có sự an lành, yêu thương. Bởi Thiên Chúa chính là tình yêu như lời Thánh Gioan đã nói.

Xin mượn lời của Claire để kết luận bài chia sẻ này: “Để minh họa cho rõ đâu là điểmchính, Đức Giêsu cho người đi lấy một đồng tiền: một quan tiền trên đó có đúc hình Xê Da. Như Người đã làm với dụ ngôn đồng bạc, Đức Giêsu ví con người như một đồng tiên. Như trên đồng tiền có đúc hình của Xê Da, thì cũng vậy, con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa như thể được đúc với huy hiệu của Thiên Chúa, mang trên người mình dấu ấn của Thiên Chúa. Con người là icôn của Thiên Chúa. Điều thiết yếu là con người, vốn là hình ảnh của Thiên Chúa Hằng Sống, quy hướng về Thiên Chúa với tất cả tầm hồn”.

Hôm nay cũng là Chúa nhật truyền giáo, xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta luôn biết nhiệt thành loan báo Tin Mừng vì còn biết bao nhiêu người chưa được nghe rao giảng, và chưa nhận biết Chúa bởi vì như lời Chúa phán: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

1. Tại sao những người Pharisêu, Biệt phái, Kinh sư, Đầu mục lại chống đối Chúa Giêsu?

2. Chúa có cấm nộp thuế không? Tại sao?

3. Tiền ở đâu Chúa có để nộp thuế?

4. Xê Da là ai?

5. Chúa nói làm sao khi nộp thuế?

[Mục Lục]

Bài 11. CỦA THIÊN CHÚA TRẢ VỀ THIÊN CHÚA
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

Lời của Chúa Giê-su Ki-tô nói với những người Pha-ri-sêu có ý đồ gài bẫy để hãm hại Người: “Của Xê-da trả về Xê-da, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa” (Mt 28,18-20) mang tính thời sự hơn lúc nào hết đối với Giáo Hội và dân tộc Việt Nam ta nói riêng và với thế giới lòai người nói chung. Thật vậy trên mảnh đất hình chữ S và trong thế giới hiện nay đang xẩy ra rất nhiều chuyện khiến chúng ta phải khẳng định rằng có không ít người -trong đó có cả các nhà lãnh đạo đạo/đời- không tôn trọng, thậm chí tiếm đoạt, những gì thuộc về Thiên Chúa.

Vì thế mà chúng ta được mời gọi suy gẫm cho thấu đáo và thực hành cho đến nơi đến chốn sứ điệp của Lời Chúa hôm nay:

“Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta.” (Isaia)

và “Của Xê-da trả về Xê-da, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa.” (Mát-thêu).

II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH

2.1 Trong bài đọc 1 (Is 45,1.4-6): Đức Chúa đã cầm lấy tay phải vua Ky-rô để bắt các dân suy phục ông.

2.2 Trong bài đọc 2 (1 Tx 1,1-5b): Chúng tôi nhớ đến lòng tin, lòng mến và lòng trông cậy của anh em.

2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 22,15-21): Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa.

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH

3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:

- là Đấng đã làm cho vua Kyrô được các dân xung quanh quy phục vì Thiên Chúa muốn dùng vua ấy để làm cho các dân biết rằng Người là Thiên Chúa duy nhất trên trần gian này không có Chúa nào khác (bài đọc 1).

- là Chúa Giê-su, Đấng đã xử sự một cách hết sức khôn ngoan và tỉnh táo trước lòng nham hiểm và thâm độc của những kẻ thù ghét Người. Chúa Giê-su chẳng những không để cho mình sa bẫy mình của họ mà Người còn lợi dụng cơ hội để truyền đạt một giáo huấn hết sức quan trọng trong cuộc sống con người thời xưa cũng như thời nay: nếu các vua chúa thời xưa và các chính quyền ngày nay có quyền của mình (thật ra thì quyền này cũng do chính Thiên Chúa ban cho) thì Thiên Chúa cũng có quyền của mình. Chúa Giê-su đòi hỏi quyền này cho Thiên Chúa, vì các nhà cầm quyền thường có xu hướng lãng quên, không nhìn nhận và thậm chí tiếm quyền của Thiên Chúa: “Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (bài Phúc âm).

- là Chúa Thánh Thần, Đấng hiện diện và hành động cùng Chúa Cha và Chúa Giê-su. Người cũng là Đấng tác động và giúp đỡ các Ki-tô hữu và những ai thành tâm thiện chí nhìn nhận quyền của Thiên Chúa mà tôn trọng trong đời sống cá nhân và xã hội.

3.2 Giáo Huấn của Thiên Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?):

Qua ba bài Sách Thánh, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: Giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa được diễn tả trong hai câu Lời Chúa, một ở trong Sách I-sai-a, một ở trong Phúc Âm Mát-thêu:

“Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta”(Is 45,5) và “Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21).

IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI

4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, như tạo vật đối với Đấng Tạo Hóa, như đầy tớ đối với ông chủ.

4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa

chúng ta có hai việc phải làm:

* Một là chúng ta CHỈ TÔN THỜ MỘT MÌNH THIÊN CHÚA MÀ THÔI và

NHÌN NHẬN QUYỀN TỐI THƯỢNG & TUYỆT ĐỒI CỦA THIÊN CHÚA

trên tất cả những gì chúng ta đã đang và sẽ có: hiện hữu của chúng ta với thân xác và linh hồn bất tử, tài năng, sức khỏe, của cải, thời gian và hoàn cảnh xã hội của chúng ta như những nén vàng nén bạc mà Thiên Chúa trao cho chúng ta quản lý và sinh lời sinh lãi cho Nước Trời.

* Hai là chúng ta phải tôn trọng và bảo vệ quyền của Thiên Chúa trong đời sống con người và cộng đồng xã hội, bằng cách tôn trọng và bảo vệ sự sống, phẩm giá và quyền con người, công lý và sự thật.

V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH

[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]

5.1 «Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta.» Chúng ta hãy hiệp lời cầu nguyện cho các dân, các nước trong thế giới ngày nay để mọi người và mọi dân sớm nhìn nhận Thiên Chúa là Chúa, là Thần Linh duy nhất trong vũ trụ này.

X. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Đ. Xin Chúa nhận lời chúng con.

5.2 «Thưa anh em là những người được Thiên Chúa thương mến, chúng tôi biết rằng Thiên Chúa đã chọn anh em.» Chúng ta hãy hiệp lời cầu nguyện cho Đức Thánh Cha Phanxicô, các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ Nam Nữ và cho toàn thể các tín hữu, để mọi Ki-tô hữu cảm nghiệm được tình yêu nhưng không và sự chọn lựa yêu thương của Thiên Chúa.

5.3 «Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình!» Chúng ta hãy hiệp lời cầu nguyện cho các mọi người thuộc giáo xứ/cộng đoàn chúng ta, để mọi người sống chân thật với Chúa và với nhau như ý Chúa muốn.

5.4 «Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa» Chúng ta hãy hiệp lời cầu nguyện cách đặc biệt cho các cấp chính quyền Việt Nam để mọi quan chức nhà nước biết tôn trọng quyền của Thiên Chúa và của con người khi điều hành mọi hoạt động kinh tế tài chánh, văn hóa, chính trị và xã hội của đất nước.

[Mục Lục]

Bài 12. Vấn đề Nộp thuế cho Xêda và tương quan giữa Giáo Hội với chính quyền dân sự
LH

Tương quan giữa Giáo hội Công giáo với thực tại trần thế, giữa thần quyền với thế quyền hoặc giữa tôn giáo với chính trị là một đề tài xưa như trái đất, nhưng đồng thời cũng luôn được hiện đại hóa. Đã có nhiều cuộc tranh luận, bút chiến, khẩu chiến xảy ra chung quanh vấn đề này. Đâu là khuôn mẫu, là định hướng cho người công giáo sống trong các tương quan với chính quyền dân sự? Người giáo dân dấn thân trong lĩnh vực chính trị cần có những thái độ nào? Không ai có thể phủ nhận sự rõ ràng và minh bạch nơi nguyên tắc của Đức Giêsu: “Của César trả về cho César; của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa.

I. Từ một mẩu đối thoại

Bản văn đề cập đến những người Pharisêu cùng với nhóm Hêrôđê đến chất vấn Đức Giêsu nhằm gài bẫy Người về những gì Người nói, tức là gài bẫy cho Người lỡ lời hay tìm cách để Người lỡ lời mà mắc bẫy“Họ cử mấy người Pharisêu và mấy người thuộc phe Hêrôđê đến cùng Người để Người phải lỡ lời mà mắc bẫy”. Họ đã từng thất bại khi công kích Đức Giêsu, nên lần này họ tiếp cận Người cách tinh vi hơn.

Nhà văn X. Xvait đã rất có lý khi nói: “Một khi giữa con chó và con mèo bổng nhiên nảy sinh ra tình đồng chí thì đấy không phải là điều gì khác ngoài âm mưu ám hại người đầu bếp”. Phe Hêrôđê là những người thuộc đảng phái chính trị ủng hộ triều đình vua Hêrôđê. Những người này thân thiện với nhà cầm quyền Rôma, về mặt chính trị, họ có quan điểm hoàn toàn trái ngược với nhóm Pharisêu nổi tiếng vì chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Tuy nhiên hai nhóm này đã hợp lực để chống lại Đức Giêsu. Các Pharisêu cùng với đồng minh bắt đầu vào cuộc, họ âm mưu khiến Đức Giêsu lỡ lời và mắc bẫy, vì trả lời thế nào thì Người cũng đụng chạm một trong hai nhóm. Nếu trả lời nộp thuế cho Xêda tức là “chấp nhận quyền của Xêda, mà chấp nhận quyền của Xêda đồng nghĩa với việc coi ông ta là một vị thần linh. Như vậy là phạm tội chối đạo”[1], nhưng nếu trả lời “không nộp thuế cho Xêda là phản động chống lại Xêda. Như vậy, một là Người sẽ bị đám đông xa lánh, vì đã ủng hộ phe Hêrôđê là những kẻ phò Rôma, hai là có thể bị xử tử nếu chống đối Rôma. Họ dùng những lời tán tụng dài dòng để mào đầu là nhằm khiến Đức Giêsu mất cảnh giác mà phản ứng xốc nổi: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa”. Rồi họ gắng gượng làm ra vẻ khiêm tốn, ngây thơ xin ý kiến Người: “Vậy có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không? Chúng tôi phải nộp hay không phải nộp?”. Bằng việc đề cao tính chân thật và độc lập của Người, họ hy vọng Người sẽ nói những lời mang tính chống đối nhà cầm quyền Rôma, hoặc sẽ xúc phạm đến dân tộc. Ngoài ra, có lẽ họ còn mong biết đâu vì tài khua môi múa mép của mình, họ sẽ làm cho Đức Giêsu bối rối mà không dám nói gì nữa. Vì thế, dù những lời họ nói về Đức Giêsu là thật, thì chẳng qua cũng chỉ là vỏ bọc che dấu sự thù ghét. Và giống như nụ hôn Giuđa, những lời đường mật của họ chỉ là những xảo ngôn để nhằm đạt được mục đích.

Thời bấy giờ, ở Rôma có ba loại thuế phổ biến:

- Thuế điền thổ: Đánh vào tài sản, đất đai

- Thuế cầu đường: Thu ở các thành thị và bến cảng

- Thuế thân: Đánh vào mọi công dân trong đế quốc

Trong bản văn, đề cập đến thuế thân là loại thế đóng cho hoàng đế như biểu hiện sự tùng phục. Do đó, loại thuế này bị những người cho mình là tự do ghét cay ghét đắng. Hơn nữa, trên đồng denarius có khắc “hình và danh hiệu” của hoàng đế, nên ít nhiều đi ngược lại quan điểm tôn sùng ngẫu tượng. Chắc chắn những người thuộc nhóm nhiệt thành không đời nào chấp nhận đóng thứ thuế này. Các Pharisêu hy vọng một khi câu trả lời của Đức Giêsu nghiêng về phe họ, thì họ sẽ xúi những người thuộc phe Hêrôđê đi tố cáo với tổng trấn. Còn nếu câu trả lời của Đức Giêsu ủng họ phe Hêrôđê, thì hẳn uy tín của Người là một vị thầy khả kính trước mặt bàn dân thiên hạ sẽ bị tổn hại nghiêm trọng. Đây là dạng thường thấy của cách hỏi bắt bí, được sắp đặt sao cho người ta chỉ có thể trả lời  hoặc không. Họ chắc mẩm rằng Đức Giêsu sẽ sập bẫy.

Với vẻ bề ngoài là ca tụng, cung kính pha chút ngây thơ, họ có thể che đậy tâm địa độc ác, gian tham và đầy sự hận thù trước mặt người đời, nhưng với Đức Giêsu thì không, đó chỉ là những tấm vải thưa hòng che mắt thánh. Người đã nhìn thấu lòng dạ hiểm độc của họ. Người đã lột trần bộ mặt thật của họ bằng cách hỏi thẳng: “Tại sao các người lại thử tôi? Đem một đồng bạc cho tôi xem!”. Với những chiếc mặt nạ lừa phỉnh và bằng những thứ ngôn ngữ tụng ca, họ không thể che đậy được tâm địa hiểm độc của họ!

Mức thuế thân là một đồng denarius. Đây là một đồng bạc có khắc hình và danh hiệu của hoàng đế: TI CAESAR DIVI AUG F AUGUSTUS, nghĩa là: Tibêriút Xêda, con trai của Augúttô thần thánh. Thực tế, người Do Thái phản đối kịch liệt những hình ảnh được chạm khắc trên đồng tiền này, vì với họ làm như thế là vi phạm giới răn thứ hai. Trước đó, không ai trong hoàng tộc Hêrôđê dám thực hiện điều này. Vua Hêrôđê Aríppa (con của Hêrôđê Cả, tiểu vương miền Galilê và Pêrê, từ năm 4tcn đến năm 36scn, người đã ra lệnh sát hại Gioan Tẩy Giả và góp phần chính trong vụ xử án tử Đức Giêsu) là người đầu tiên dám làm điều đó. Đồng tiền thể hiện sức mạnh của nhà cầm quyền. Nguyên tắc chung là tầm ảnh hưởng và những vùng nhà vua trị vì sẽ được mở rộng đến những nơi mà tiền tệ lưu hành ở đó có hình nhà vua. Như vậy, nội chuyện những kẻ chất vấn Đức Giêsu sở hữu những đồng bạc này đủ để trả lời chính câu hỏi đầu tiên của họ rồi: Vậy có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?.

Vì đồng denarius của Rôma là đơn vị tiền tệ đang được lưu hành tại Giuđê nên Đức Giêsu có lý khi bảo rằng, hoàng đế có quyền lấy những gì thuộc về hoàng đế, không chỉ thuế má, mà còn tất cả những gì hoàng đế yêu cầu cách hợp lý nữa. Bằng quan điểm này, Đức Giêsu cho thấy Người không đồng tình với nhóm quá khích và công cuộc cách mạng của họ. Nếu Thiên Chúa cho phép dân ngoại nắm quyền cai trị một thời gian, thì hẳn là để thực hiện ý định của Người. Hơn nữa, chính Thiên Chúa là Đấng quyết định khi nào thì thế lực đó chấm dứt, và nước Thiên Chúa được thiết lập. Vì thế, việc tùng phục chính quyền dân sự khi nó chu toàn các dấn thân và bổn phận đặc thù của quyền bính công cộng, đó là điều hành công lý và tổ chức cuộc sống dân sự vì thiện ích chung của mọi người, cũng là sự thể hiện việc tuân phục Thiên Chúa (Rm 13,1-7; 1Pr 2,13-17). Tuyên nhiên, Đức Giêsu không dừng lại ở đây. Câu trả lời của Người tiếp tục đẩy câu chuyện lên tới đỉnh điểm khi nói:“Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”. Thật vây, khi chính quyền dân sự biến thành các cơ chế độc tài, gian tham, hối lộ, thối nát, ức hiếp, chèn ép người dân và chà đạp các quyền con người để chỉ biết củng cố và bảo vệ quyền lợi của thiểu số lãnh đạo hay của một phe nhóm, đảng phái thì nó không còn chính đáng và không có lý do hiện hữu. Khi đó, quyền tự do lương tâm và trách nhiệm bổn phận được mời gọi nhằm giải phóng con người khỏi “các cơ chế áp bức xuất phát từ những lạm dụng về sở hữu hoặc quyền bính, từ sự bóc lột cần lao hoặc bất công trong vấn đề giao thương”[2], không đòi buộc người dân phải tuân thủ mà còn phải lên tiếng phản kháng. Như thế, một mặt nghĩa vụ của người ta đối với chính quyền chỉ có thời hạn. Mặt khác, khi tuân vẹn ý Thiên Chúa, người ta sẽ không bị chi phối bởi những sắc lệnh trái với luật Thiên Chúa mà hoàng đế Rôma ban hành[3].

II. Đến thực tiễn đa phức trong các tương quan với chính quyền dân sự

Từ câu chuyện cái bẫy chính trị mà đối phương đã tinh ma giương lên với thâm ý hạ nhục Đức Giêsu và câu trả lời khôn khéo của Người, chúng ta nhận thấy tính cách tương phản, xung đột giữa thần quyền và thế quyền, giữa Giáo Hội và Nhà nước thế tục vẫn là câu chuyện còn vẹn nguyên tính cấp thiết của nó. Làm sao để có một đường hướng mục vụ tạo lập được mối tương quan với các thực tại trần thế, cụ thể là với các cơ chế chính trị của Nhà nước thế tục, đặc biệt là trong bối cảnh xã hội Việt Nam. Câu trả lời của Đức Giêsu “là một cơ sở cho Học thuyết của Giáo Hội về vấn đề xã hội”, thể hiện lập trường của Người đối với nhà cầm quyền, một chỉ dẫn đúng đắn cho việc thiết lập mối tương quan giữa Nhà nước và Giáo Hội.

Lập trường của Giáo Hội về vấn đề này được thể hiện trong các văn kiện “từ Thông Điệp Tân Sự của Đức Thánh Cha Lêô XIII, ngày 15 tháng 5 năm 1891, đến Thông ĐiệpQuadragesimo Annocủa Đức Thánh Cha Piô XI, ngày 15 tháng 5 năm 1931, kỷ niệm 40 nămThông Điệp Tân Sự, đến Thông ĐiệpOctogesima Advenienscủa Đức Thánh Cha Phaolô VI, ngày 15 tháng 5 năm 1971, kỷ niệm 80 năm, và rồi đến lượt Thông Điệp Centesimo Annocủa Đức Joan Phaolô II, tháng 5 năm 1991, kỷ niệm 100 năm Thông Điệp Tân Sự,và gần nhất là Thông điệp Phát triển các dân tộc của Đức Giáo hoàng Phaolô VI, năm 1976, Giáo Hội đã có nhiều giáo huấn liên quan đến các vấn đề xã hội”. Đặc biệt là Hiến chế Gaudium et Spes của Công đồng Vatican 2. Tuy nhiên, “thật khó mà phân ranh giữa lãnh vực Thần quyền và Thế quyền. Vì với người Kitô, cho dù phải tuyệt đối theo thần quyền nhưng không vì thế mà sao nhãng những việc thế quyền. Câu nói của Đức Giêsu đã trở thành kinh điển để phân ranh giữa hai lãnh vực này”[4].

Thật vậy, xưa nay mối quan hệ giữa thần quyền và thế quyền bao giờ cũng phức tạp. Có lúc thần quyền chi phối thế quyền như thời Trung cổ. Nhưng cũng có lúc thế quyền áp đặt thần quyền như dưới triều đại của Theophylac (896-965). Trong vòng 70 năm, triều đại này đã thao túng tới 20 người để đặt lên ngôi Giáo hoàng. Sự tranh giành này đã nổ ra nhiều cuộc chiến ở nhiều nơi và người ta đã tìm ra giải pháp ứng xử là tách bạch đạo-đời qua “luật Phân ly” (1905). Bây giờ đạo là đạo, đời là đời, không bên nào can thiệp vào bên nào. Nhưng người tín hữu lại cũng là công dân. Mà nghĩa vụ công dân và bổn phận người kitô hữu không phải bao giờ cũng đồng thuận đã đẩy người Công giáo vào những tình huống chọn lựa khó khăn: đạo hay đời? Trong khi cả nhà nước và Giáo Hội đều muốn lôi kéo, chinh phục “thần dân” không chỉ “phần xác” mà cả “phần hồn” nữa.

Công đồng Vatican 2 đã đưa ra một phương án giúp xử lý những xung đột trong quan hệ đạo-đời: “Vì căn cứ vào vai trò và thẩm quyền của mình, giáo hội không cách nào bị đồng hóa với một cộng đoàn chính trị và cũng không bị cấu kết với bất cứ hệ thống chính trị nào… Cộng đoàn chính trị và giáo hội, mỗi bên một lĩnh vực riêng của mình, đều độc lập và tự trị. Tuy nhiên, dầu dưới danh nghĩa khác nhau, cả hai cũng đồng phục vụ con người trong sứ mạng cá nhân và xã hội. Tùy theo hoàn cảnh địa phương, nếu cả hai càng duy trì được sự cộng tác lành mạnh, cả hai càng phục vụ lợi ích của con người một cách hữu hiệu hơn”[5]. Trong sứ điệp gửi các nhà cầm quyền do hồng y A. Lienart đọc còn có đoạn: “Chúng tôi lớn tiếng tuyên bố: Chúng tôi kính trọng quyền hành của quý vị, chúng tôi tôn trọng chức vụ của quý vị. Chúng tôi nhìn nhận những pháp luật chính đáng của quý vị, chúng tôi quý chuộng người làm ra cũng như người áp dụng những luật ấy”[6]. Như vậy, đạo-đời tách bạch nhưng không tách rời mà cộng tác lành mạnh với nhau để phục vụ con người và cũng chính là tháo gỡ cho người tín hữu làm tròn bổn phận công dân của cả hai vương quốc nước Trời và trần thế như tinh thần của Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes đã nêu lên.

Tuy nhiên, xuất phát từ đặc tính thế tục của chính trị, Giáo Hội cần có một vị thế tách biệt tự lập khỏi quyền lực chính trị: “Của Xêda trả về Xêda, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa”; nhưng tự lập khỏi quyền lực chính trị không có nghĩa là tự lập đối với lĩnh vực luân lý: “Các vị chủ chăn của Giáo hội không có ý sử dụng quyền lực chính trị, cũng không có ý từ chối tự do của người tín hữu công giáo đối với các vấn đề trần thế. Trái lại, các Ngài muốn, như là chính bổn phận của các Ngài đòi buộc, dạy dỗ và soi sáng lương tâm các tín hữu, nhất là đối với những tín hữu dấn thân vào đời sống chính trị, để cho hành động của họ luôn luôn nhằm phục vụ thăng tiến toàn vẹn con người và công ích”. Người tín hữu được kêu gọi “trung gian điều giải” các giá trị luân lý căn bản, là những giá trị thuộc kho tàng Kitô giáo, thành những giá trị cho con người, được mọi người chấp nhận. Người tín hữu tôn trọng tính cách đa nguyên và đa dạng, đặc tính trần thế và tính cách hợp pháp dân chủ, không được phép “dửng dưng đứng ra bên lề” lĩnh vực thiêng liêng và văn hóa. Vì như vậy là họ đang làm tiêu hao đến sứ mạng nhân chứng Phúc Âm của họ và biến các nỗ lực dấn thân chính trị của mình dần dần thành vô hiệu lực[7].

Đối với người Công giáo Việt Nam, để rõ hơn sứ mạng dấn thân trong lĩnh vực chính trị chúng ta cần nhắc lại lời mời gọi của Đức cố Giám Mục Nguyễn Văn Thuận: “Đừng để thiên hạ xây dựng thế giới này mỗi ngày mà con không biết, không khám phá, không thao thức, không nhúng tay vào. Chúa đã cứu chuộc con và đặt con vào thế gian trong thế kỷ này, thập niên này, môi trường này. Đặt con, chứ không phải cục đá! Khác nhau lắm! Đừng làm “Công giáo bù nhìn”; “Sự ly dị giữa cuộc sống đạo ở nhà thờ và ngoài xã hội, là gương xấu tai hại nhất trong thời đại chúng ta”[8]. Thư chung của Hội đồng Giám Mục Việt Nam năm 2001 cũng nêu rõ: “Chúng ta phải tiếp tục đồng hành với dân tộc, đồng cảm, chia sẻ, hy vọng và lo âu của dân tộc trong tiến trình phát triển xã hội và thăng tiến con người. Ta không nhìn những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục như những kẻ đứng ngoài cuộc nhưng nhận đó là những vấn đề của ta và chủ động góp phần giải quyết hầu cho mọi người được sống và sống dồi dào”.

Thật vậy, người tín hữu có thể phạm một lỗi lầm to lớn, nếu từ bỏ chính trị vì sợ “hoen ố” bản tính Kitô hữu của mình hoặc “bế quan tỏa cảng” trong trạng thái đứng “tách biệt ngoạn mục và trong sáng”, từ chối mọi đối thoại với bất cứ ai, “những bước tiến tích cực, dẫu cho tuần tự, có giá trị hơn là sự đóng kín quyết liệt của những phán quyết ‘không’, bởi lẽ thái độ đó không lợi gì về lâu về dài”[9].

Nghĩa là đồng thời với việc công nhận sự hiện hữu và tính độc lập tương đối của các thực tại trần thế, người Công giáo phải ưu tiên cho việc vâng phục Thiên Chúa. Vì Nhà nước – ngay cả Nhà nước ngoại đạo hay vô đạo – có vai trò, có giá trị và ý nghĩa đặc biệt trong lãnh vực riêng biệt của mình. Nhân danh công ích, Nhà nước có quyền ban hành luật pháp, thu thuế và đòi hỏi công dân nghiêm chỉnh chấp hành luật lệ. Nhưng bên trên Nhà nước vẫn còn một thẩm quyền khác. Nhà nước không được tiếm quyền hay đòi hỏi người công dân những gì mà họ chỉ phải trả lại cho một mình Thiên Chúa mà thôi. Nhà nước cũng không thể chống lại quyền lợi của Thiên Chúa, cấm đoán việc thờ phượng Người hoặc đi ngược lại chương trình của Người[10]. Giáo huấn của Giáo Hội Công giáo cũng không bao giờ công nhận Quốc gia như mục tiêu tối thượng của cuộc sống. Con người có những quyền lợi tự nhiên và một sứ mệnh vượt trên thực tại thế trần, mà chính Quốc gia phải tôn trọng. Nếu người Do Thái thời xưa thần thánh hóa luật giữ ngày “hưu lễ”, biến nó thành bất khả xâm phạm và nhiều khi còn đặt nó trên cả con người, Đức Kitô, trái lại, đã thẳng thắn và cương quyết xác định mối tương quan giữa con người và lề luật: “Ngày sabát vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabát”. Nói cách khác, cơ cấu chính trị, luật pháp, văn hóa… chỉ có ý nghĩa trong viễn tượng phục vụ và làm triển nở con người. Không thể đảo lộn mức thang giá trị để biến hay bắt con người làm vật hy sinh cho những cơ chế đó”[11].

[1] Lm. Vinh sơn Đinh Trung Nghĩa, Giáo trình Phúc âm Marcô
[2] Thông điệp phát triển các dân tộc (Populorum Progressio, Phaolô VI, 26/03/1967), số 21
[3] Học viện Đa Minh, Chân Ngôn, Chú giải Tin Mừng Chúa Nhật và đại lễ
[4] Lm. Vinh sơn Đinh Trung Nghĩa, Giáo trình Phúc âm Marcô
[5] Hiến chế Gaudium et Spes, số 76
[6] Thánh công đồng Vatican 2, Giáo hoàng học viện Đà Lạt 1972, tr. 892 và 880
[7] Ghi Chú Tín Lý về những vấn đề liên quan đến việc dấn thân và cách cư xử của người Công giáo trong chính trị” (L’osservatore Romano) của Thánh Bộ Đức Tin ban hành ngày 16/01/2003
[8] Fx. Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy Vọng. 621.622
[9] Ghi Chú Tín Lý về những vấn đề liên quan đến việc dấn thân và cách cư xử của người Công giáo trong chính trị” (L’osservatore Romano) của Thánh Bộ Đức Tin ban hành ngày 16/01/2003
[10]Tham luận của Lm Paul Nguyễn Thái Hợp đọc tại Tọa đàm “Tương quan giữa Giáo hội với thực tại trần thế”, do Câu lạc bộ Phaolô Nguyễn Văn Bình tổ chức, 28-11-2009
[11] Lm Nguyễn Thái Hợp, Tương quan phức tạp giữa Công giáo với Nhà nước Việt Nam, NS Công giáo và Dân tộc, số 138 tháng 6/2006

[Mục Lục]

B2. KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO

Bài 13. TRUYỀN GIÁO LÀ RA ĐI
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Lời mở đầu của “Sứ điệp ngày Thế giới Truyền Giáo 2014”, Đức Thánh Cha Phanxicô viết:Ngày nay còn rất nhiều người không biết Đức Giêsu Kitô. Vì thế, việc rao giảng cho người ngoài Kitô Giáo là công việc rất khẩn cấp, mà tất cả mọi thành viên của Giáo hội được kêu gọi để tham dự vào sứ vụ truyền giáo này, bởi vì tự bản tính Giáo hội là truyền giáo: Giáo hội được sinh ra là để “đi ra”.

Thiên Chúa hỏi ngôn sứ Isaia : “Ta sẽ sai ai đi ? Và ai sẽ đi cho chúng ta ?”. Isaia đã đáp: “Này con đây, xin hãy sai con” (Is 6,8). Isaia ca tụng : “Đẹp thay bước chân người đi khắp vùng đồi núi loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ…” (Is 52,7).

Truyền giáo là ra đi, đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân.

Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như Cha đã sai Thầy,Thầy cũng sai anh em”. Chúa Giêsu thực hiện sứ vụ bằng việc ra đi.

Suốt mấy năm ra mặt với đời để hành đạo, Chúa Giêsu không ngừng đi, rày đây mai đó. Ngài luôn ngang dọc trên mọi nẻo đường đất nước của Ngài để truyền đạo.Từ hội đường này đến hội đường khác (Mt 4,23), hay ở ngoài trời, ở ngoài đường.Trên một sườn núi cũng có (Mt 5,1), bên một bờ hồ hiu quạnh cũng có (Mc 6,30-34). Có khi “mệt mỏi vì đường sá”, một mình ngồi trên thành giếng nói chuyện với người phụ nữ đến kín nước (Ga 4,6). Có lúc vì dân chúng chen lấn xung quanh đông đảo quá thì “Ngài mới lên một chiếc thuyền,thuyền của Simon và xin ông ấy chèo ra xa bờ một tí.Ngài ngồi xuống rồi từ ngoài thuyền nói vào mà giảng dạy dân chúng” (Lc 5,3).

Chúa Giêsu thực hiện những cuộc hành trình liên miên.Theo ngôn ngữ của Phúc âm Maccô chương 1: Ngài bỏ Nazareth để đến gặp Gioan bên sông Giođan,rồi đến Galilê,dọc theo bờ biển Galilê,và Ngài đi rao giảng trong các hội đường khắp xứ Galilê. Trong chương 2 : Ít lâu sau, Ngài lại về Capharnaum… Ngài ngang qua đồng lúa… Cứ đi và đi như vậy mãi.

Chính giữa khung cảnh đường dài trời rộng thênh thang ấy mà lời giảng dạy của Ngài bao giờ cũng khởi hứng từ một hoàn cảnh của cuộc sống.Các hình ảnh đời thường gần gũi tràn ngập trong lời rao giảng: Cánh huệ mọc ngoài đồng; Đàn chim sẻ đang bay; Một đám ruộng lúa chín vàng mở rộng đến chân trời; Một mẻ cá lớn bên biển hồ; Những hạt giống người nông phu gieo vương vãi trên đường mòn,giữa bụi gai, trên sỏi đá; Một đàn cừu, dê, người chăn lùa về buổi chiều tối; Từng tảng đá,từng hạt sạn người ta nhặt từ một đống muối rồi vất đi; Từng con còng người đánh cá nhặt ra bỏ lại bên bờ sau một mẻ cá…

Việc thu thập môn đệ, Ngài cũng vừa đi, vừa gọi, vừa nhận…Như các môn đệ đầu tiên (Mc 1,16-20).Chúa Giêsu không dừng lại, yên nghĩ, hưởng thụ hay cũng cố vị trí người ta dành sẵn cho.Sau một ngày thành công rực rỡ ở Capharnaum chẳng hạn “Sáng đến,Ngài ra đi vào nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài, họ cố giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi chỗ họ. Nhưng Ngài bảo họ: Ta còn phải đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa” (Lc 4,42-43).

Như thế, quả là suốt đời Chúa Giêsu đã không hề có trụ sở, không hề có chỗ trụ trì, không hề có nhà thờ. Ngài đi khắp mọi nẻo đường trên thế giới Ngài sống.

Chúa Giêsu bị bắt lúc đang cầu nguyện giữa vườn Giệtsêmani hoang vắng.Bị điệu đến Hanna rồi Caipha.Từ toà đạo qua toà đời. Hết bị điệu đến dinh Philatô lại bị gửi qua dinh Hêrôđê, rồi bị đưa trả về cho Philatô. Không đầy một ngày một đêm mà kẻ tử tù đã phải đi không biết bao nhiêu dặm trên con đường “công lý” của loài người.

Bị kết án thập hình. Hai tay dang rộng, bị đóng đinh thập giá.Tảng đá lấp cửa mồ (Mc 14,32 -15,47). “Lính canh phòng cẩn mật,niêm phong tảng đá lại” (Mt 27,62-66). Thế nhưng, Đức Giêsu đã không dừng chân cả trong cái chết. Ngày thứ ba, Ngài sống lại, vượt cái chết qua sự sống bất diệt.

Sau khi Phục sinh, Ngài cũng đi nhiều nơi, đến với với các môn đệ, cũng cố lòng tin và sai họ ra đi loan báo Tin mừng. Hoàn thành sứ mạng “Ngài lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” (Mc 16,19) và luôn đồng hành cùng Giáo hội “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).

Chúa Giêsu lập nên Nhóm Mười Hai. Họ được Ngài sai đi rao giảng (Mc 6,7). Giáo hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, ra đi đến với muôn dân.

Hai động từ Gọi – Sai Đi diễn tả rõ rệt ơn gọi của Nhóm Mười Hai.Các Tông Đồ là những người được sai đi.

Chúa căn dặn rằng: người được sai đi phải có tinh thần nghèo khó và từ bỏ.

- Nghèo khó về hành trang đi đường : 1 cây gậy, 1 đôi dép,không mang 2 áo. Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải là những con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.

- Nghèo khó về phương diện sinh sống: không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc. Hành trình như vậy đặt các người được sai đi trong tư thế tuỳ thuộc. Không vướng víu, không “mọc rễ” bất cứ nơi đâu để nhẹ nhàng ra đi nơi nào Chúa muốn.

Chúa Giêsu cũng không dấu giếm họ điều gì cả.Con đường truyền giáo là con đường đầy chông gai, lắm gian khó. Cũng như Ngài, họ đón nhận sự rủi ro bị từ chối, bị xua đuổi. Cần phải hy sinh bản thân. Đó là thân phận kẻ được gọi, được sai đi. Ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi.Thành công cũng không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng cay. Bởi lẽ người được sai đi luôn xác tín rằng: “Tôi trồng, Apollô tưới, còn Chúa cho mọc lên”.

Người truyền giáo luôn bị cám dỗ định cư, tìm an toàn bảo đảm bản thân, an nghĩ trong những thành công tạm bợ…và không muốn ra đi. Càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ. Sâu đậm bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuối tiếc bấy nhiêu.Vì vậy, Chúa muốn các môn đệ luôn sẵn sàng ra đi, lên đường bao giờ cũng đẹp, hạnh phúc chỉ dành cho ai dám lên đường tìm kiếm.

Cuộc đời người Kitô hữu cứ phải ra đi không ngơi nghĩ.Ra khỏi cái cũ và đi tới cái mới. Ra khỏi cái đang có để đi tới cái chưa có. Ra khỏi cái mình đang là để đi tới cái mình phải là. Như thế, hành trình xa xăm nhất lại chính là hành trình của con tim “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi. Nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông”.

Sứ vụ truyền giáo là sứ vụ của người ra đi mang tin vui, tin cứu độ, tin được Thiên Chúa đoái thương. Đức Maria mang trọn niềm vui Đấng Cứu Độ mà nhân loại đón đợi. Đức Maria trở nên người loan báo Tin Mừng vì Mẹ mang trọn niềm vui Chúa Thánh Thần. Ai để cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong cuộc đời của mình cũng là người mang trọn niềm vui loan báo. Đức Maria còn là người công bố Tin Mừng: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn” (Lc 1, 49). Thấy được tình thương Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời mình nên lời công bố mang một niềm tin xác tín, đã gặp và đã thấy nên chan chưa niềm vui.

Xuyên suốt Sứ điệp Truyền giáo năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô luôn nói đến niềm vui Tin Mừng: “Tôi mời gọi anh chị em đắm mình vào niềm vui của Tin Mừng và nuôi dưỡng một tình yêu có thể thắp sáng ơn gọi và sứ mạng của anh chị em…Các môn đệ của Đức Kitô luôn luôn vui mừng khi cảm nhận sự hiện diện của Ngài, khi thi hành ý Ngài và chia sẻ đức tin, đức cậy và đức ái Phúc Âm của mình cho người khác” (Sứ điệp Truyền giáo 2014).

Để trở thành người loan Tin Mừng, Đức Maria đã “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 3,51). Cầu nguyện là chiêm ngắm những điều Thiên Chúa đã thực hiện nơi mình. Đối với Đức Maria, truyền giáo là đem chính Chúa Giêsu cho nhân loại. Chúa Giêsu là lẽ sống, là hạnh phúc, là niềm vui của cuộc đời mỗi kitô hữu. Chúng ta phải xác tín như Đức Maria: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Lc 1, 46). Tràn ngập niềm hân hoan bởi Mẹ đã gặp thấy và cưu mang chính niềm vui có Chúa Giêsu trong lòng Mẹ. Đức Maria reo ca: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1, 47). Đức Maria đã cưu mang chính Chúa Giêsu, quà tặng tuyệt hảo nhất của Thiên Chúa, nguồn ơn cứu rỗi duy nhất, công bố, trao tặng cho nhân loại.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ra đi từ trời cao xuống đất thấp, mang Tin mừng chiếu soi nhân trần. Xin sai chúng con ra đi nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin giúp chúng con chỉ biết cậy dựa vào Chúa.Chỉ mình Chúa là đủ cho chúng con. Amen.

[Mục Lục]

Bài 14. NIỀM VUI CỦA NGƯỜI LOAN BÁO TIN MỪNG
Jos. Vinc. Ngọc Biển

Cách đây ít lâu, vào Năm Thánh 2000, người giáo dân Việt Nam có ấn tượng rất vui đối với thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam với tựa đề: “Hãy vui lên”. Khi ngỏ lời với từng thành phần: “Các linh mục, tu sĩ và chủng sinh; các cụ cao tuổi; những người cha; người mẹ; các bạn trẻ; các em thiếu nhi và anh chị em đau yếu, khổ cực, buồn phiền, bị bỏ rơi – Hãy Vui Lên!”.Khi nghe lời mời gọi của các vị Chủ Chăn, ai nấy đều cảm thấy tràn trề niềm hy vọng.

Năm nay, nhân ngày Khánh Nhật Truyền Giáo, ngày cả thế giới cầu nguyện cho công cuộc loan báo Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã gửi thông điệp đến toàn thể cộng đồng Dân Chúa trên toàn thế giới. Nội dung của thông điệp đều nói đến: niềm vui của người loan báo Tin Mừng.

Như vậy, ta có thể hiểu rằng: loan báo và đón nhận Tin Mừng phải là một niềm vui sâu xa cho cả người đón nhận và người loan báo.

1. Nhu cầu cấp bách của việc loan báo Tin Mừng

Từ sau Công Đồng Vaticanô II, cách riêng từ những thập niên cuối thế kỷ 20, chúng ta không ngừng nhắc đến hai từ “Truyền Giáo”, hay cụm từ đồng nghĩa “Loan Báo Tin Mừng”. Tuy nhiên, loan báo Tin Mừng có đem lại cho chúng ta niềm vui, hay đúng hơn người loan báo Tin Mừng có cảm thấy vui mừng vì họ đang được tham dự vào công cuộc cứu chuộc của Thiên Chúa cho nhân loại hay không? Đây là câu hỏi được đặt ra cho từng người chúng ta mỗi dịp lễ Khánh Nhật Truyền Giáo.

Thật vậy, sứ mạng truyền giáo phải được người tham gia cảm được, thấu được sự hạnh phúc khi họ đang được diễm phúc làm cho lệnh truyền của Đức Giêsu hiện tại hóa nơi hành động, lời rao giảng của chính mình: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15). Đồng thời, niềm thao thức, sự khát khao cho muôn dân được cứu độ phải nung đốt tâm hồn những người tham gia sứ vụ này như một luật buộc vì lòng mến. Nói như thánh Phaolô: “Khốn thân tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng” (1Cr 9, 16).

Xác định như thế, chúng ta thấy: sứ vụ Loan Báo Tin Mừng là của chúng ta, thuộc về chúng ta. Sứ vụ này là bản chất của Giáo Hội. Vì thế, Giáo Hội không ngừng loan báo điều mà mình đã tin và lãnh nhận. Nếu không loan báo thì chẳng khác gì kẻ khờ dại không biết sinh lời nén bạc đã được Chúa trao, ngược lại, vô tình, chúng ta đã chôn vùi dưới lòng đất. Không loan báo Tin Mừng là chúng ta phản bội lại chính mình, vì hẳn chúng ta đang bị đánh mất mình khi không sống đúng bản chất.

Sứ vụ này lại càng khẩn thiết khi xã hội và con người đang lao xuống dốc với vận tốc quá nhanh, khiến cho nhiều người mất phương hướng khi không biết hay không thể dừng chân để suy nghĩ lại niềm hy vọng hay mục đích tối hậu của cuộc đời mình.

Chính Đức Thánh Cha Phanxicô trong Tông huấn “Niềm vui Tin Mừng” đã viết: “Mối nguy lớn trên thế giới hôm nay, một thế giới hầu như thấm nhiễm chủ nghĩa tiêu thụ, đó là cảm giác cô đơn và lo lắng phát sinh từ một con tim tự mãn nhưng tham lam, sôi nổi chạy theo những thú vui phù phiếm, và một lương tâm chai lỳ” (Evangelii Gaudium, 2).

Đứng trước thực trạng đó, chúng ta không thể ngồi yên khi thế giới này đang mất dần hy vọng khi bám víu vào những điều mau qua chóng hết mà không hề có hy vọng đích thực. Vì thế, cuộc đời buồn tẻ đang bao trùm nhân loại, và một ngày nào đó, con người sẽ phải thất vọng khi lấn sâu vào con đường diệt vong (xc. Sứ điệp ngày thế giới truyền giáo 2014).

2. Sức hút nơi người tông đồ là niềm vui có Chúa

Tuy nhiên, loan báo bằng cách nào; thái độ của chúng ta ra sao khi đứng trước sứ mạng cũng như trong khi loan báo Tin Mừng cho anh chị em?

Để trả lời cho vấn nạn trên, Đức Thánh Cha Phanxicô nhân ngày Thế Giới Truyền Giáo, ngài đã thổ lộ tâm tình của mình với các nhà truyền giáo như sau: “Chúng ta đừng để mình bị tước mất niềm vui của việc loan báo Tin Mừng! Tôi mời gọi anh chị em đắm mình vào niềm vui của Tin Mừng và nuôi dưỡng một tình yêu có thể thắp sáng ơn gọi và sứ mạng của anh chị em” (xc. Sứ điệp truyền giáo năm 2014).

Như vậy, niềm vui là điều rất cần thiết cho hồn người tông đồ. Nếu không có niềm vui, người loan báo sẽ không thể cảm thấy một niềm hạnh phúc phát xuất từ sứ mạng, và như vậy, thay vì loan báo Tin Mừng, họ sẽ loan tin buồn! Hoặc quá mâu thuẫn khi chúng ta mang trong mình một não trạng được biểu hiện qua hành động bằng thái độ buồn rầu, thất vọng khi giới thiệu một Đức Giêsu là Chúa Cứu Thế mang lại niềm vui và hy vọng cho nhân loại!

Những lúc như vậy, người tông đồ đã làm cho hình ảnh của Đức Giêsu trở nên méo mó ngang qua hành động của mình. Và như thế, người được ta loan báo Tin Mừng, họ không dại gì lại đi tin và theo một Đức Giêsu không có gì hấp dẫn, không có gì hy vọng và không hề có niềm vui! Điều này đã mang lại cho chúng ta sự thất vọng và sứ vụ bị hiểu sai cũng như thi hành không đúng.

Khi nói về sự phản chứng nơi người tông đồ khi loan báo Tin Mừng, Đức Hồng Y Phanxicô X. Nguyễn Văn Thuận đã nói như sau: “Ưu sầu, chán nản, năn nỉ, phàn nàn… Lúc này người ta mới thấy rõ giá trị những lời khuyên nhủ hùng hồn, những lời tuyên bố nẩy lửa của con đến đâu. Thấy mặt con, ai dám theo Chúa nữa?” (ĐHV. số 538). Tại sao vậy? Thưa bởi vì: chúng ta không nuôi dưỡng niềm vui rao giảng Tin Mừng (xc. Sứ điệp ngày thế giới truyền giáo 2014)

3. Nguyên nhân sâu xa để có được niềm vui là lòng mến

Nuôi dưỡng niềm vui là gì nếu không phải là lòng mến! Thật vậy, vì yêu mến Chúa, tôi hy sinh tất cả, chịu đựng tất cả, tha thứ tất cả… Vì yêu mến, tôi phải vui mừng vì đang được chung chia tâm tư, thao thức của người mình yêu. Vì yêu mến, tôi cũng mong muốn cho mọi người được hưởng sự vui mừng mà tôi đang tận hưởng.

Như vậy, nguyên nhân sâu xa chính là người tông đồ không để cho tình yêu của Đức Giêsu xâm chiếm tâm hồn. Hoặc cũng không để cho ngọn lửa tình yêu của Chúa Thánh Thần nung nấu trái tim. Vì thế, hồn người tông đồ đâu có say mê Nước Thiên Chúa và đâu có niềm vui khi rao giảng Tin Mừng!

Khi nói về bản chất của niềm vui được khởi đi từ lòng mến và được đức ái thúc đẩy, Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 đã nói trong Thông điệp ngày thế giới truyền giáo 2006 như sau: “Sứ mạng truyền giáo, nếu không được định hướng bởi lòng mến, nếu không phát sinh từ một hành động sâu xa của tình yêu thần thiêng, thì sứ mạng đó liền bị rút gọn về chỉ còn như là một hành vi nhân ái và xã hội không hơn không kém. Tình yêu mà Thiên Chúa có đối với mỗi người, kết thành trung tâm của kinh nghiệm sống và loan báo Phúc Âm”.

Muốn trở nên người tông đồ thực thụ vì chan chứa niềm vui, người được sai đi loan báo Tin Mừng phải gặp gỡ thân tình với Đức Kitô, cảm nghiệm được ơn gọi và sứ vụ cao quý của mình, và phải yêu mến những người mà mình có cơ may tiếp xúc, nhất là với người nghèo, người bị bỏ rơi, người sống bên lề… Có được điều đó, người tông đồ sẽ đem lại cho họ niềm vui đích thực khi trong mình đang tỏa lan một niềm vui có Chúa.

Thật thế, Đức Giêsu chính là nội dung của Tin Mừng, hay nói cách khác, Ngài chính là cội nguồn của niềm vui và hạnh phúc. Vì thế, người loan báo và người đón nhận, tất cả đều được: “Niềm vui của Tin Mừng đổ đầy trái tim và cuộc sống của tất cả những ai gặp Chúa Giêsu. Những ai chấp nhận đề nghị cứu độ của Người thì được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn. Với Đức Kitô, niềm vui luôn luôn được tái sinh.”(Evangelii Gaudium, 1).

Mong sao, mỗi người chúng ta hãy hân hoan vui mừng trước, trong và sau khi loan báo Tin Mừng. Chúa sẽ không bao giờ vui vì một người loan báo Tin Mừng nhưng lại với một khuôn mặt buồn rầu, ủ rũ. Biểu hiện đó làm cho họ tự mâu thuẫn với chính mình. Đức cố Hồng Y Phanxicô X. đã nói: “Một ông thánh buồn là một ông thánh đáng buồn”.

Như vậy, niềm vui của Chúa tràn ngập tâm hồn chúng ta và qua đó, chúng ta đem lại cho nhân loại một niềm hy vọng lớn lao là có niềm vui của Chúa ở cùng. Như thế, đến ngày sau hết, chúng ta sẽ vui mừng vì: “Tên anh em đã được ghi trên trời” (Lc 10,20).

Lạy Chúa Giêsu, lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít, xin Chúa ban cho chúng con những thợ gặt lành nghề để ra đi gặt lúa về cho Chúa. Tuy nhiên, xin Chúa ban cho Giáo Hội những thợ gặt với tâm hồn chan chứa niềm vui để đem lại niềm hy vọng cho con người. Amen.

[Mục Lục]

Bài 15. Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Tháng 10, tháng truyền giáo

Bước vào tháng 10 tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy khám phá lại nét đẹp của lời Kinh này và siêng năng đọc kinh Mân Côi cầu cho thế giới được hoà bình. Tháng 10 còn là tháng truyền giáo,Giáo hội cũng kêu gọi con cái mình dấn thân cho việc truyền giáo, bước theo Chúa Giêsu trong hành trình đức tin, và có Mẹ Maria Nữ Vương truyền giáo đi đầu dẫn chúng ta đến với Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế và dạy chúng ta mang Chúa đến cho tha nhân.

Nhưng Chúa nhật truyền giáo để làm gì?

Để nhắc lại rằng bản chất của Giáo hội là truyền giáo; mục đích đầu tiên của Giáo hội khi được Chúa Giêsu thiết lập là truyền giáo.

Ai phải truyền giáo?

Là chi thể của Hội Thánh, tất cả những người đã chịu phép rửa tội phải thi hành nhiệm vụ truyền giáo. Điều này không có ý nói họ phải đi thật xa. Những nơi nào có họ, họ phải truyền giáo. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô nói: “Không ai được ngưng nghỉ việc này, vì là bổn phẩn khẩn thiết của ngày hôm nay”. Với lại, chính Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân” (Mt 28, 19). Thánh Phaolô kêu lên: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9, 16).

Giáo hội tự bản chất là truyền giáo

Nếu như Isaia con trai Amót được thị kiến: “Các dân nước sẽ đổ xô về núi Chúa… trong ngày sau hết” (x. Is 2, 1-5). Thánh Phaolô cho người con tình thần của mình biết: “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi” (x.1 Tm 2, 4 – 6). Cả bốn sách Tin Mừng đều nêu bật ý nghĩa của việc truyền giáo, nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo hội, chứng tỏ bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Chính Chúa Giêsu Phục sinh đã nói với các tông đồ nơi Phòng Tiệc Ly như sau: “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Ga 20, 21). Đến lượt Chúa Con cũng sai Giáo Hội ra đi cho đến tận cùng trái đất. Ðây là sứ điệp duy nhất phát xuất từ Thiên Chúa gửi đến hết mọi người ngõ hầu họ được cứu chuộc và trở nên con cái Thiên Chúa.

Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh: Sứ vụ truyền giáo là “bổn phận của toàn thể Giáo hội”, vốn “tự bản chất là thừa sai” (Ad gentes, 2). Trích dẫn lời Đức Phaolô VI, ngài tiếp: “Giáo Hội hiện hữu để truyền giáo, để giảng thuyết và giáo huấn, để làm máng chuyển quà tặng của các ân sủng, để hoà giải các tội nhân với Thiên Chúa, để trường tồn hy lễ của Chúa Kitô trong Thánh Lễ, đó là việc tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Người.”

Ðức Bác Ái là linh hồn của sứ mạng truyền giáo

Thánh Phaolô viết: “Tình Yêu Chúa Kitô thôi thúc tôi” (2 Cr 5, 14). Đức Kitô thúc bách những người đã chịu phép Rửa tội nam phụ cũng như lão ấu, kể cả người đau yếu lẫn người nghèo, khi đã đón nhận tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, có sứ mạng rao giảng và mang tình yêu cho hết mọi người, bằng lời nói và chứng tá cụ thể của Đức Ái. Truyền giáo là gì gì nếu không phải là loan báo Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Ngài không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người, Ngài còn hy sinh mạng sống để làm chứng cho tình yêu đó. Hơn thế nữa, Ngài mạc khải và nhập thể tình yêu đó nơi chính bản thân mình. Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa. Nơi Ngài, tình yêu chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì thế, sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa trở thành Tin Mừng Phục Sinh, Niềm Hy vọng cho toàn thế giới.

Nhân dịp Đại Năm Thánh 2000, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Sứ mạng của Giáo Hội kéo dài sứ mạng của Chúa Kitô. Giáo Hội không ngừng rao giảng cho thế giới Tình Phụ Tử của Thiên Chúa, bằng việc rao giảng và bằng chứng tá của những con cái mình…nhờ việc thực hành mệnh lệnh tình thương đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em”. Ngài cũng khuyến khích mọi thành phần trong Giáo hội can đảm khởi hành “mùa truyền giáo mới”, vì “Giáo Hội cần đến với con người, với sự tế nhị và tôn trọng của một người phục vụ. Và Giáo Hội tin tưởng rằng công việc phục vụ trước tiên và cao cả nhất là công việc rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô”, ngài kêu gọi: “Anh chị em đừng sợ: hãy mở toang mọi cửa để tiếp đón Chúa Kitô”(Huấn Đức ngày 22 tháng 10/2000, tại Roma).

Cử hành ngày Thế giới Truyền giáo năm nay diễn ra vào ngày cuối của THĐGM về gia đình, trong bối cảnh của Năm Tân Phúc Âm Hóa gia đình. Đức Thánh Cha Phanxicô viết trong sứ điệp của mình rằng: “Ngày nay vẫn còn rất nhiều người không nhận biết Chúa Giêsu Kitô. Thế nên, sứ mạng ad gentes vẫn còn hết sức cấp bách. Mọi thành viên của Hội Thánh được kêu gọi tham gia sứ mạng này, vì Hội Thánh tự bản chất là truyền giáo: Hội Thánh được sinh ra để “đi ra”…Ngày Thế giới Truyền giáo cũng là dịp để làm bùng cháy lên ước muốn và nghĩa vụ tinh thần của việc hân hoan tham gia vào sứ mạng ad gentes. Các cá nhân đóng góp tiền bạc là một dấu chỉ của sự hiến dâng, trước là cho Chúa và rồi cho đồng loại; bằng cách này, sự đóng góp của cải vật chất có thể là một phương tiện để loan báo Tin Mừng cho nhân loại dựa trên tình thương(Trích Sứ điệp truyền giáo 2014).

Thế giới hôm nay có biết bao tin mừng, tin mừng con ra đời, mừng cưới hỏi, thi cử đỗ đạt, tìm được việc làm đã mất, làm ăn phát đạt… tuy nhiên, đó không phải là Tin Mừng viết hoa. TIN MỪNG, thì chỉ có một: là nhận biết (Thiên Chúa yêu thương chúng ta!) Vậy lệnh Chúa truyền vẫn còn khẩn trương: “Hãy đi rao giảng Tin Mừng”. Tin Mừng Thiên Chúa yêu thương mọi người và từng người, đồng thời phải bận tâm với những người chưa có đức tin hoặc mất đức tin vì tình yêu là lòng thương xót Chúa thôi thúc.

Nhờ lời chuyển cầu của thánh Phanxicô Xaviê, thánh nữ Têrêsa Hài Ðồng Giêsu là quan thầy các xứ truyền giáo, nhất là của Mẹ Maria Ngôi Sao truyền giáo, mẫu gương loan báo Tin Mừng, cầu thay nguyện giúp cho Hội Thánh trở nên một mái nhà niềm nở tiếp đón mọi người; một người mẹ cho mọi dân tộc và là nguồn suối tái sinh cho thế giới chúng ta. Amen.

[Mục Lục]

Bài 16. HÃY ĐẾN VỚI MUÔN DÂN
JM. Lam Thy ĐVD.

Sứ Điệp Ngày Khánh Nhật Thế Giới Truyền Giáo 2014 được mở đầu bằng đoạn văn: “Ngày nay vẫn có rất nhiều người chưa biết Đức Chúa Giê-su Ki-tô. Vì lý do đó mà sứ vụ ad gentes (rao giảng cho muôn dân) vẫn tiếp tục là sứ vụ cấp bách nhất, trong đó tất cả các phần tử của Hội Thánh được mời gọi tham gia, bởi vì tự bản chất, Hội Thánh là truyền giáo: Hội Thánh được sinh ra “để đi ra.” Ngày Khánh Nhật Thế Giới Truyền Giáo là một thời điểm đặc quyền trong đó các tín hữu của các châu lục khác nhau tham gia bằng lời cầu nguyện và các cử chỉ cụ thể của tinh thần đoàn kết trong việc giúp đỡ các Hội Thánh trẻ trong các xứ truyền giáo. Đây là một cuộc cử hành ân sủng và niềm vui. Ân sủng, bởi vì Chúa Thánh Thần, được Chúa Cha sai đến, ban ơn khôn ngoan và sức mạnh cho những ai vâng phục tác động của Ngài. Niềm vui, bởi vì Đức Chúa Giê-su Ki-tô, Con của Chúa Cha, được sai đến để Phúc Âm hoá thế gian, nâng đỡ và đồng hành với chúng ta trong công việc truyền giáo của chúng ta. Chính vì niềm vui của Chúa Giê-su và của các môn đệ truyền giáo nên tôi muốn đề ra một biểu tượng Thánh Kinh, mà chúng ta tìm thấy trong Tin Mừng Thánh Lu-ca (x. 10, 21-23)”.

Khi viết “sứ vụ ad gentes”, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô muốn nhắc đến Sắc lệnh “Ad Gentes” (Đến Với Muôn Dân) do Thánh GH Gio-an Phao-lô II ban hành ngày 7/12/1965. Đó chính là sứ vụ căn bản của Hội Thánh: “Đem Tin Mừng đến cho mọi loài thụ tạo”. Vì tính cách trọng đại đó, xin cùng tìm hiểu về sứ vụ Truyền Giáo của Giáo Hội, của mỗi Ki-tô hữu:

I- TRUYỀN GIÁO – TÍNH CHẤT CĂN BẢN CỦA GIÁO HỘI:

A- XUẤT PHÁT ĐIỂM VÀ ĐÍCH ĐIỂM CỦA VIỆC TRUYỀN GIÁO: Xuất phát từ lòng nhân từ thương xót vô biên, Thiên Chúa dựng nên loài người có nam có nữ, để làm vinh danh Người và tạo nên hạnh phúc nhân loại. Nói rõ hơn, vì tình yêu, Thiên Chúa ban sự sống cho con người và lại quay lại mời gọi loài người san sẻ tình yêu ấy cho nhau, liên kết nhau thành một dân duy nhất quy hướng về nguồn cội: Thiên Chúa Tình Yêu (tức là khơi nguồn từ “Suối Tình Yêu” Thiên Chúa tuôn trào, để lại trở về với cội nguồn là “Biển Tình Yêu” bao la vô lượng của Thiên Chúa). Dòng chảy không ngừng ấy cũng chính là nguyên lý Thiên Chúa Ba Ngôi cực thánh (“Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo, vì chính Giáo Hội bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần theo Ý Ðịnh của Thiên Chúa Cha. Ý định này tuôn trào từ “suối tình yêu” cũng là lòng thương của Thiên Chúa Cha, vì chính Ngài là Nguyên lý vô Nguyên lý, bởi Ngài mà Chúa Con được sinh ra, và cũng bởi Ngài và nhờ Chúa Con mà phát xuất Chúa Thánh Thần.” – Sắc lệnh về Truyền Giáo “Ad Gentes”, số 2).

Chính vì thế, nên chân lý “Thiên Chúa Tình Yêu” vừa là xuất phát điểm, vừa là đích điểm của hoạt động truyền giáo. Công cuộc truyền giáo bắt nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi, được duy trì và tiếp nối từ khi loài người hiện diện trên trái đất. Những Thánh vịnh, Thánh ca, những ngôn từ, sách vở (Kinh Thánh) được lưu truyền rộng rãi, hoặc những hình ảnh về một cây nho, một vườn nho đan tử trong Cựu Ước, minh họa sống động cho điều này. Cho đến khi Thiên Chúa Cha sai Con Một xuống thế thực thi sứ mạng cứu độ nhân loại, thì một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vĩ đại – về truyền giáo được khai sinh. Và cũng từ đó, Giáo Hội được thiết lập như một tiếp nối hành trình của Đức Ki-tô: Con Đường Cứu Rỗi. Rõ ràng, Truyền Giáo tức là tình yêu “nhận về” (eros) – đón nhận Tình Yêu từ Thiên Chúa – và tình yêu “cho đi” (agape) – chia sẻ Tình Yêu ấy cho anh em (“Tuy nhiên, eros và agape– tình yêu nhận về và cho đi – không bao giờ có thể hoàn toàn tách rời. Hai thứ tình này, trong những khía cạnh khác nhau của chúng, càng tìm được sự tương đồng thích đáng trong cùng một thực tại tình yêu thì bản chất thực sự của tình yêu càng được nhận ra rõ ràng.” – Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu “Deus Caritas Est”, số 7)

B- TÍNH CHẤT CĂN BẢN CỦA GIÁO HỘI TRẦN THẾ: Giáo Hội trần thế còn gọi là Giáo Hội Lữ hành, đó là một cộng đồng Dân Chúa đang trên hành trình tiến về Quê Trời (Giáo Hội Thiên Quốc – GH Khải Hoàn). Vì tính cách tìm kiếm để chiếm hữu được Nước Trời, nên mọi hoạt động của Giáo Hội nơi trần thế đều quy về một hướng: Loan báo Tin Mừng Cứu Độ. Loài người vì được Thiên Chúa ban cho sự tự do đến gần như tuyệt đối, phát sinh kiêu ngạo “muốn bằng Đức Chúa Trời” (câu chuyện “Nguyên Tổ ăn trái cấm” – St 2, 1-7; câu chuyện “xây tháp Babel” – St 11, 1-9…), và vì thế ngày càng đắm chìm trong tội lỗi nhuốc nhơ, trong bóng tối của tử thần. Đức Giê-su Ki-tô nhận lãnh sứ vụ từ Thiên Chúa Cha – qua sự thông hiệp của Chúa Thánh Thần – đã đến trong thế gian để hiện thực hóa sứ vụ rao truyền ơn Cứu Rỗi.

Với dụ ngôn “Cây nho và vườn nho”, Đức Giê-su đã dạy cho các môn đệ cũng như cho mọi tín hữu biết tất cả dân Thiên Chúa là những cành nho hút nhựa từ thân cây nho duy nhất là Đức Ki-tô, thì phải có bổn phận trổ sinh hoa trái, đó chính là bổn phận Truyền Giáo. Lệnh truyền: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28, 19-20), đã minh chứng rằng khi thiết lập Hội Thánh Chúa nơi trần thế, Đức Giê-su đã trao cho Giáo Hội sứ mạng tiếp nối hành trình Cứu Độ mà Người đã thực hiện qua hy tế Thập Giá và sự Phục Sinh vinh hiển, đem lại sự sống vĩnh cửu cho nhân loại.

Rõ ràng, tính chất căn bản của Giáo Hội là truyền giáo (“Như thế, rõ ràng là hoạt động truyền giáo bắt nguồn sâu xa từ chính bản tính của Giáo Hội. Nó truyền bá đức tin cứu rỗi của Giáo Hội, hoàn tất sự hiệp nhất công giáo của Giáo Hội bằng cách làm bành trướng sự hiệp nhất này, nó dựa vào tính cách tông truyền của Giáo Hội, nó thể hiện ý nghĩa cộng đoàn của hàng Giáo Phẩm, nó làm chứng, truyền bá và thúc đẩy sự thánh thiện của Giáo Hội” – SL “Ad Gentes”, số 6). Trách vụ của toàn thể Giáo Hội (bao gồm mọi Ki-tô hữu, mọi thành phần Dân Chúa – không phân biệt giáo sĩ hay giáo dân), là phải loan báo Tin Mừng.

C- TÍNH CHẤT CÁNH CHUNG CỦA HOẠT ĐỘNG TRUYỀN GIÁO: Hoạt động truyền giáo là trường kỳ, là miên viễn, khơi nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi truyền sang con người là loài thụ tạo, trải qua thời gian từ Cựu Ước tới Tân Ước, và chỉ chấm dứt khi không còn sự hiện diện của loài người trên trần gian (từ Khởi nguyên đến Tận cùng – Alpha và Omega). Nói khác hơn, “… thời gian hoạt động truyền giáo là thời gian ở giữa hai lần Chúa đến; và khi Chúa đến lần thứ hai, Giáo Hội ví như mùa gặt được thu góp vào Nước Chúa từ bốn phương trời. Thực vậy, trước khi Chúa đến, Phúc Âm phải được rao giảng cho mọi dân tộc” (SL “Ad Gentes”, số 9).

Vào những thời điểm thuận tiện và cần thiết đáp ứng nhu cầu của thời đại, Giáo Hội thường phát động và mở ra những tiêu điểm truyền giáo, nhằm nhắc nhở và thúc đẩy mọi tín hữu nhớ đến sứ mạng chính yếu của mình, đồng thời tác động vào tiềm năng loan báo Tin Mừng nơi mỗi Ki-tô hữu. Đó chính là lý do các Năm Thánh, Đại Năm Thánh được mở ra, và cho dù có nhiều chủ đề được nêu lên, nhưng tựu trung vẫn là phục vụ cho một mục đích duy nhất mà Hội Thánh Chúa hằng theo đuổi, đó là Truyền Giáo.

II- TRUYỀN GIÁO – SỨ VỤ NHẤT QUÁN CỦA KI-TÔ HỮU:

A- KI-TÔ HỮU VỚI 3 CHỨC VỤ CỦA ĐỨC KI-TÔ: Nhờ bí tích Thánh Tẩy, mọi Ki-tô hữu được tháp nhập vào Thân Thể Đức Giê-su Ki-tô, như những cành nho tháp nhập vào thân cây nho duy nhất, hút nhựa và trổ sinh hoa trái. Cũng từ đó, được “trở nên Dân Thiên Chúa và tham dự vào chức vụ Tư tế, Ngôn sứ, Vương giả của Chúa Ki-tô” (Hiến chế Tín Lý về Giáo Hội “Lumen Gentium”, số 31)

1- Tư Tế: (Tư: riêng từng người; Tế: lễ dâng, lễ tế), Tư tế là dâng cuộc sống riêng tư làm của lễ, như Đức Ki-tô trong hy tế thập giá (“Chúa Giê-su Ki-tô, Linh Mục thượng phẩm và vĩnh cửu, vì cũng muốn giáo dân tiếp tục công việc chứng tá và việc phục vụ của mình, nên đã nhờ Thánh Thần ban cho họ sự sống, và không ngừng thôi thúc họ thực hành những điều thiện hảo. Thực vậy, những kẻ mà Người đã cho tham dự mật thiết vào sự sống và sứ mệnh Người, Người cũng cho họ dự phần vào chức vụ tư tế, để họ thực hành việc phụng thờ thiêng liêng hầu tôn vinh Thiên Chúa và cứu rồi loài người. Bởi thế, vì giáo dân đã được hiến dâng cho Chúa Ki-tô và được Thánh Thần xức dầu, nên họ được mời gọi và được ban ơn cách lạ lùng để Thánh Thần sinh hoa trái nơi họ ngày càng phong phú hơn.” (Hc “Lumen Gentium”, số 34).

2- Ngôn Sứ: Trước đây, dùng tiếng Tiên Tri (“Tiên tri” là biết trước, ngụ ý: người được Thiên Chúa mạc khải, nên biết trước kết quả việc mình tin theo, làm theo); nhưng về sau dùng tiếng Ngôn sứ để phù hợp và cụ thể hóa chức vụ của Đức Ki-tô khi Người được Chúa Cha sai xuống trần rao giảng Tin Mừng và thực hiện việc cứu độ nhân loại, và đó cũng là lý do gọi mầu nhiệm “Ngôi Hai giáng trần” là “Ngôi Lời nhập thể”. Ngôn sứ có nghĩa là người được sai đi rao giảng Lời Chúa (Ngôn: lời nói, Sứ: được sai đi). Đó chính là công việc loan báo Tin Mừng, mở mang Nước Chúa, mà từ trước khi Chúa Ki-tô giáng trần, Thiên Chúa đã sai những ngôn sứ (thời Cựu Ước) thực hiện. Kể từ khi Chúa Giê-su được Thiên Chúa Cha sai đi như một ngôn sứ, thì Người đã sai toàn thể môn đệ làm những việc mà Người đã và đang làm.

Việc được sai đi mang tính tập thể hơn Cựu Ước (“Việc tham gia vào trách vụ rao giảng của Đức Ki-tô ‘là Đấng lấy cả cuộc sống mình cũng như lấy sức mạnh của lời nói để tuyên bố vương quốc Chúa Cha’, sự tham gia này làm cho người giáo dân có đủ năng lực và tư cách dấn thân để nhận lãnh Phúc âm trong Đức Tin, để rao giảng bằng lời nói và hành động, và để tố cáo một cách bạo dạn không do dự những gì là điều ác. Người tín hữu giáo dân hợp nhất với Đức Ki-tô ‘vị Đại Tiên Tri’ (Lc 7, 16) và được đặt làm “chứng nhân” của Đức Ki-tô Phục Sinh trong Chúa Thánh Thần, họ trở thành những người tham dự vào ý thức Đức Tin siêu nhiên của Giáo Hội ‘không thể sai lầm trong Đức Tin’ cũng như tham gia vào ân sủng của lời nói (Acts. 2, 17-18, Ap. 19, 10). Hơn nữa họ được gọi để chiếu sáng sự mới lạ và sức mạnh của Phúc Âm trong đời sống thường ngày, trong đời sống gia đình và xã hội của họ, cũng như để diễn tả niềm hy vọng vinh quang ‘ngay cả trong những cơ cấu của cuộc sống trần thế’ (LG. 35) với một tâm hồn nhẫn nại và can đảm giữa những khó khăn của thời hiện đại” (Tông huấn Ki-tô hữu Giáo dân “Christi Fideles”, số 14).

3- Vương giả: Vương giả là ông vua, người lãnh đạo (Vương: vua, Giả: ông, người). Tham dự vào chức vụ Vương giả, ngụ ý tham dự vào công việc của Vua Giê-su; mà Vua Giê-su khác hẳn những ông vua phong kiến ở trần thế (chỉ biết ngồi thụ hưởng, được mọi người phục vụ hết mình), Vua Giê-su thì “Thầy đến để phục vụ chớ không phải để được phục vụ” (Mt 20, 28). Được tham dự vào chức vụ Vương giả có nghĩa là được làm chủ (tinh thần dân chủ): Làm chủ bản thân, làm chủ trần thế. “Vì thế, tín hữu phải nhận biết bản tính sâu xa của tạo vật, giá trị của chúng, và cùng đích của chúng là ca tụng Thiên Chúa; đồng thời phải giúp nhau sống đời thánh thiện, nhờ những việc trần thế, để thế gian thấm nhuần tinh thần Chúa Ki-tô và đạt đến cùng đích một cách hữu hiệu hơn trong công lý, bác ái và hòa bình. Giáo dân giữ lấy vai trò chính yếu trong khi chu toàn nhiệm vụ phổ quát đó.” (Hc “Lumen Gentium”, số 36).

B- GIÁO HỘI LÀ MỘT CỘNG-ĐỒNG-HIỆP-THÔNG-VÀ-TRUYỀN-GIÁO: Như đã trình bày, căn tính, chân tính của Giáo Hội là truyền giáo, là loan báo Tin Mừng Cứu Độ, là chia sẻ cho nhau Tình Yêu vô lượng của Thiên Chúa. Rõ ràng Giáo Hội là một tập thể, một cộng đồng sống tình huynh đệ chan hòa yêu thương trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, như lời chúc của Thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô: “Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy tình thương của Thiên Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần” (2Cr 13,13). Có thể khẳng định Giáo Hội là một-cộng-đồng-hiệp-thông-và-truyền-giáo, vì “Qua mọi thời đại, Chúa Thánh Thần “hợp nhất toàn thể Giáo Hội trong mối hiệp thông và thừa hành, ban phát các ơn phẩm trật và đặc sủng khác nhau”, như là linh hồn làm sống động những Tổ Chức trong Giáo Hội và đổ dần vào lòng các tín hữu cũng một tinh thần truyền giáo đã thúc đẩy chính Chúa Ki-tô. Ðôi khi Chúa Thánh Thần lại chuẩn bị một cách hữu hình cho hành động truyền giáo, cũng như không ngừng dùng những phương thế khác nhau để theo sát và hướng dẫn vậy” (SL “Ad Gentes”, số 4).

Vâng, “Sự hiệp thông và việc truyền giáo gắn liền với nhau, xâm nhập và quấn quít nhau và đã trở nên như nguồn mạch, và là hoa trái của việc truyền giáo. Hiệp thông là truyền giáo, và truyền giáo có mục đích thể hiện sự hiệp thông. Chính một Chúa Thánh Thần kêu gọi và hiệp nhất Giáo Hội và sai Giáo Hội đi rao giảng Phúc âm “khắp trên mặt đất” (Acts. 1, 8)… Sứ mệnh của Giáo Hội nằm ngay trong bản tính của mình như Chúa Ki-tô đã muốn: đó là sứ mệnh phải trở nên “dấu chỉ và phương thế làm cho toàn thể nhân loại được hợp nhất”. Sứ mệnh này có mục đích làm cho mọi người biết và sống sự hiệp thông “mới”; sự hiệp thông đi vào lịch sử thế giới nhờ con Thiên Chúa làm người” (Tông huấn “Christi Fideles Laici”, số 32). Chính vì thế, tất cả mọi thành phần Dân Chúa trong Giáo Hội đều sống hiệp thông huynh đệ với nhau để cùng thực thi sứ vụ chung là “đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15).

C- TÍNH CHẤT CÁCH TÂN VÀ NHẤT QUÁN TRONG SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO:Kể từ khi được Thiên Chúa dựng nên và hiện diện trên trái đất, nếu loài người cùng thực hành, thực thi một công việc nào đó cho đến lúc thế giới cánh chung, thì đó chính là tính cách nhất quán của công việc ấy. Vậy thì từ khi những Ki-tô hữu được ơn gọi trở nên Dân Thiên Chúa, chỉ được trao có một nhiệm vụ duy nhất, cao cả nhất là rao giảng Tin Mừng cứu độ, thì sứ vụ ấy đã mang tính nhất quán (trước sau là một, chỉ có một mà thôi). Sứ vụ được trao tuy chỉ là một, là bất di bất dịch, là bất biến, nhưng lại luôn luôn thích nghi với thời đại, với từng giai đoạn trong trường kỳ lịch sử nhân loại, luôn phù hợp với từng hoàn cảnh địa dư, thì đó chính là tính chất cách tân (luôn luôn đổi mới) của hoạt động truyền giáo của Giáo Hội.

Từ thời Cựu Ước, vấn đề truyền giáo đã được đặt ra. Đến thời Tân Ước, chính Đức Giê-su Kitô thực hiện việc loan báo Tin Mừng thông qua Hy tế Thập Giá và sự Phục Sinh vinh hiển của Người – một cuộc canh tân vĩ đại đã mở ra “trời mới đất mới” cho loài người. Khi hoàn tất sứ mạng, trong ngày lễ Ngũ Tuần, Đức Ki-tô lại phán cùng các môn đệ: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em… Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20, 19-23). Đó là Giáo Hội sơ khai do chính Đức Ki-tô thiết lập với viên đá tảng đầu tiên là Thánh Phê-rô. Trải qua 2000 năm lịch sử, với các Công Đồng Chung, Giáo Hội luôn luôn kiện toàn và đổi mới phương cách trong sứ vụ duy nhất là truyền giáo cho phù hợp với từng giai đoạn, từng bối cảnh lịch sử loài người. Đặc biệt và gần đây nhất là Thánh Công Đồng Chung Va-ti-ca-nô II (1962-1965) đã làm một cuộc canh tân vĩ đại chưa từng thấy trong lịch sử Giáo Hội. Cả một triều đại Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II (và vẫn được tiếp nối tới triều đại đương kim: Đức GH Phan-xi-cô), một khẩu hiệu luôn luôn được Đức Giáo Hoàng nhắc đi nhắc lại và tận tâm, tận lực thực hiện là khẩu hiệu “Canh tân và sám hối” (Đã đến giờ phải đổi mới việc rao giảng Phúc âm” – Tông huấn “Christi Fideles Laici”, số 34).

Rõ ràng việc rao giảng Tin Mừng Cứu Độ luôn luôn thích nghi với thời đại và là sợi chỉ vàng xuyên suốt quá trình lịch sử hình thành và phát triển của Giáo Hội. Sự thích nghi với từng thời điểm của lịch sử nhân loại là tính chất cách tân (đổi mới), và phải chăng sợi chỉ vàng xuyên suốt ấy là tính chất nhất quán (duy nhất) của hoạt động truyền giáo của Giáo Hội? Cũng có thể khẳng định rằng để có Giáo Hội (Giáo Hội hiện hữu) và để Giáo Hội mãi mãi tồn tại (Giáo Hội bất biến), điều tất yếu là phải Truyền Giáo.

III- KẾT LUẬN

Tóm lại, tự bản chất, Giáo Hội là một cộng đồng, một tập thể bao gồm tất cả Dân Thiên Chúa. Tất cả và mỗi Ki-tô hữu là thành phần của Giáo Hội, bởi vì họ đã là “cành nho của thân cây nho duy nhất là Đức Giê-su”. Mỗi cành nho hút nhựa từ thân cây nho để tồn tại và trổ sinh hoa trái, và việc trổ sinh hoa trái ấy chính là một sứ vụ đáp trả ân sủng nguồn nhựa đã hút được. Nói khác hơn, việc trổ sinh hoa trái chính là việc “đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15). Và đó chính là sứ vụ Truyền Giáo mà Hiền thê Giáo Hội được chính vị Hôn phu Giê-su Ki-tô trao phó, để tiếp nối hành trình cứu độ nhân loại. Vâng, và xin mượn lời dạy của Sắc lệnh Truyền Giáo (Ad Gentes), để một lần nữa minh họa hoạt động trong sứ vụ chung của tất cả chúng ta, những Ki-tô hữu trong Giáo Hội:

“Hoạt động truyền giáo không gì khác hơn, cũng không gì kém hơn là biểu lộ hoặc bày tỏ ý định của Thiên Chúa và hoàn tất ý định đó nơi trần thế và trong lịch sử thế trần… Bởi vậy, bất cứ điều gì tốt đẹp được nhận biết là đã được gieo vãi trong tâm trí con người, hay trong những lễ chế và văn minh riêng của các dân tộc, sẽ không bị hủy diệt, mà còn được thanh tẩy, thăng tiến và hoàn tất, để Chúa được tôn vinh, ma quỷ bị xấu hổ và con người được hạnh phúc. Vì thế, hoạt động truyền giáo hướng về sự viên mãn cánh chung: nhờ hoạt động truyền giáo này, Dân Chúa được phát triển tới mức độ và thời gian mà Chúa Cha đã ấn định do quyền riêng của Ngài như lời tiên tri nói với Dân này rằng: ‘Hãy mở rộng nơi con cắm trại, hãy căng rộng lều vải của con, đừng ngần ngại’ (Is 54, 2). Cũng nhờ hoạt động truyền giáo, Nhiệm Thể được triển nở đến thời hạn viên mãn của Chúa Ki-tô, và đền thờ thiêng liêng, nơi Thiên Chúa được thờ lạy trong tinh thần và chân lý, sẽ lớn lên và được xây dựng ‘trên nền móng là các Tông đồ và các Tiên tri mà chính Chúa Giêsu Kitô là viên đá góc’ (Ep 2, 20)” (SL “Ad Gentes”, số 9).

Quả thật, “Thiên Chúa yêu người vui vẻ cho đi” (2Cr 9, 7). Ngày Khánh Nhật Thế Giới Truyền Giáo cũng là một thời gian để khơi lại ước muốn và trách nhiệm luân l‎ý của việc tham gia cách vui vẻ vào sứ vụ truyền giáo – Ad Gentes… Chúng ta đừng để ai cướp mất niềm vui của việc loan báo Tin Mừng! Tôi mời anh chị em đắm mình trong niềm vui của Tin Mừng và nuôi dưỡng một tình yêu có sức soi sáng ơn gọi và sứ vụ của anh chị em. Tôi mong mỏi anh chị em nhớ lại, như trong một cuộc hành hương tâm linh, “tình yêu ban đầu” mà Đức Chúa Giê-su Ki-tô đã sưởi ấm tâm hồn tất cả mọi người, không phải để có một cảm giác nhớ nhung, nhưng để kiên trì trong niềm vui. Các môn đệ của Chúa kiên trì trong niềm vui khi họ ở với Người, khi họ làm theo Thánh Ý Người, và khi họ chia sẻ với những người khác đức tin, niềm hy vọng và đức ái của Tin Mừng.” (Sứ Điệp Ngày Khánh Nhật Thế Giới Truyền Giáo 2014, phần kết luận).

Xin cùng hiệp ý với lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô: “Chúng ta hãy cầu xin cùng Đức Mẹ Maria, mẫu gương truyền giáo khiêm tốn và vui vẻ, để cho Hội Thánh trở nên một nhà cho nhiều người, một người mẹ cho tất cả các dân tộc và việc ra đời của một thế giới mới có thể xảy ra.” Ước được như vậy. Amen.

[Mục Lục]

Bài 17. Chứng nhân trong sự hiệp nhất yêu thương
Lm Tạ Duy Tuyền

Thế giới ngày hôm qua cũng như hôm nay luôn ngưỡng mộ những chứng nhân cho tình yêu. Một Tê-rê-sa thành Calcutta nhỏ bé nhưng có một trái tim lớn lao đã làm cho cả thế giới kính phục. Ở Việt Nam, người công giáo hay không công giáo họ vẫn nói với nhau về một vị giám mục dám bỏ ngai tòa để đến ở cùng những người cùi tại trại cùi Di linh. Đó chính là Đức Giám mục Cassien. Ngài đã dùng tình yêu để xoa dịu những những đau đớn cho người cùng khổ. Ngài đã chết cho tình yêu, nên tình yêu của Ngài mãi ở lại nơi dương thế qua mọi thời đại.

Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, thiết tưởng là dịp thuận lợi để chúng ta nhìn lại tinh thần chứng nhân tin mừng của giáo hội sơ khai. Một giáo hội non trẻ nhưng có sức mạnh biến đổi trần gian. Một giáo hội bị cấm đoán nhưng vẫn lan tỏa đến tận cùng thế giới. Một giáo hội nhỏ bé nhưng ai cũng có tinh thần truyền giáo, khiến thánh Phao-lô đã từng nói rằng: “Tôi trồng, Apolo tưới, Thiên Chúa mới cho mọc lên”. Vậy đâu là điểm son để giáo hội có thể vượt qua mọi trở ngại để phát triển và canh tân bộ mặt trái đất? Thưa đó chính là tinh thần hiệp nhất yêu thương.

Theo sách tông đồ công vụ, thời giáo hội sơ khai, các tín hữu “sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự là của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu” (Tđcv 2, 44). Họ hợp nhất với nhau không chỉ về niềm tin mà còn hiệp nhất trong tình liên đới chia sẻ của cải vật chất cho nhau. Sự liên đới này tạo nên một cộng đoàn bác ái yêu thương, trong đó mỗi người đều được cộng đồng quan tâm, nâng đỡ và chia sẻ cho nhau tùy theo nhu cầu của từng người.

Chính đời sống yêu mến nhau nơi các tín hữu mà Giáo hội sơ khai đã được toàn dân thương mến. Sự thương mến đó đã đem nhiều người về với Chúa. Sự thương mến đó cũng là nơi bảo vệ các tín hữu khỏi những cuộc tàn sát của bạo chúa hung tàn. Vâng, nếu ngày xưa cộng đoàn Giáo hội sơ khai đã được “toàn dân thương mến” (Tđcv 2,47a), thì đời sống của xứ đạo chúng ta hôm nay, cũng phải là một cộng đoàn được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến thân thương. Đó cũng là cách chúng ta ca tụng Chúa và giúp cho “càng ngày càng có nhiều người gia nhập Giáo hội” (Tđcv 2, 47b).

Thế nên, tinh thần truyền giáo mời gọi chúng ta hỗ trợ nhau không chỉ về tinh thần mà còn cả về vật chất, không chỉ là những người có đạo mà còn cả những người lương dân. Đồng thời sự chia sẻ này cũng nói lên sự xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét trong cộng đoàn để đón nhận nhau trong tinh thần bác ái huynh đệ. Lấy “dĩ hòa vi quý” để sống hài hòa, nâng đỡ đùm bọc lẫn nhau tạo nên một cộng đoàn chan hòa yêu thương, bác ái, chia sẻ, cảm thông. Đó cũng là dấu chỉ cho thấy chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu, là chứng nhân của Tin mừng giữa lòng dân tộc Việt Nam.

Vì chưng, giới luật quan trọng nhất của kytô giáo chính là Mến Chúa – yêu người, thì người người ky-tô hữu chúng ta phải thể hiện điều đó qua từng lời nói, từng việc làm, luôn được cân nhắc cho vừa ý trời và phù hợp với luân thường đạo lý làm người. Vì vậy, một đời sống chứng nhân Tin mừng cũng phải thể hiện bằng một đời sống hòa hợp với cộng đồng, với tha nhân. Nhất là biết thể hiện sự tương thân tương ái nơi cộng đồng giáo xứ, sự hiệp nhất yêu thương trong tình huynh đệ với tha nhân, nhờ đó mà Tin mừng mới nở hoa trên từng môi trường sống của người tín hữu. Chúng ta không thể là một người kytô hữu tốt mà lại đối xử thật tồi tệ với anh chị em chung quanh. Lối sống này không chỉ là lỗi luật Chúa mà còn là cớ vấp phạm cho những người chưa biết Chúa. Nhà lãnh tụ Ganhi của An Độ đã từng nói: “Nếu những người kytô giáo sống đúng tinh thần giáo lý của họ. Tôi sẽ mời gọi cả dân tộc Ấn trở lại”. Chúng ta không thể truyền giáo mà còn mang nặng tính bè phái, tỵ hiềm, chia rẽ. Lối sống này đã không thu góp về cho giáo hội những tín đồ mới mà còn đẩy biết bao người ra khỏi giáo hội bởi lối sống ích kỷ, độc đoán của chúng ta. Thực tế đã có rất nhiều những cộng đoàn, những xứ đạo đổ vỡ vì sự bè phái đã phá đổ tình hiệp nhất yêu thương. Đã có rất nhiều người bỏ đạo, chối đạo vì sự bất khoan dung của chúng ta đã đẩy họ ra khỏi Giáo hội, khỏi cộng đoàn. Và cũng có rất nhiều cái nhìn thiếu thiện cảm của anh em lương dân nhìn đến chúng ta, chỉ vì chúng ta sống thiếu công bình, thiếu lòng bác ái, thiếu lòng bao dung.

Thế nên mỗi người tín hữu phải biết sống tinh thần truyền giáo khởi đi từ lòng mến Chúa, yêu người nơi mỗi người chúng ta. Chúng ta mến Chúa nên chúng ta hăng say truyền giáo. Chúng ta yêu mến tha nhân nên chúng ta muốn chia sẻ niềm vui với tha nhân. Tình yêu mến mời gọi chúng ta đi đến với tha nhân bằng một tình yêu chân thành, không khoe khoang, không giả dối. Tình yêu mến mời gọi chúng ta dấn thân một cách quảng đại để đem tình yêu Chúa nối kết tình người, đưa con người đến cùng Thiên Chúa và giúp con người xích lại gần nhau.

Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đã từ trời xuống để gieo tin mừng yêu thương vào cho nhân thế, nâng đỡ và giúp chúng ta sống ơn gọi truyền giáo bằng một tình yêu mến nồng nàn. Ước gì đời sống chúng ta cũng trở thành một lời chứng sống động cho tin mừng khi chúng ta dám sống triệt để theo những đòi hỏi của tin mừng là mến Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân như chính mình. Amen.

[Mục Lục]

Bài 18. Cách thức truyền giáo
Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, chúng ta nghe âm vang lời mời gọi của Chúa vẫn còn vang vọng tới hôm nay: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. Chúa không nói riêng một ai. Chúa mời gọi tất cả. Chúa không đòi hỏi khả năng, bằng cấp, học vị mà chỉ cần có nhiệt huyết làm tông đồ cho Chúa. Chúa cũng không đòi hỏi người truyền giáo phải hiểu biết tín lý thần học sâu xa, hay luân lý uyên thâm, Chúa chỉ cần có lòng quảng đại dấn thân mở mang nước Chúa. Chúa đã sai 72 môn đệ ra đi với đôi bàn tay trắng, thế mà khi trở về ai cũng vui mừng vì thành quả họ đã đạt được. Chúa đã thưởng công cho mỗi người như nhau, không phân biệt người đến sớm, kẻ đến muộn, người đạo gốc hay mới theo đạo. Từ người thợ giờ thứ 9 cho tới giờ thứ 11 đều được ân thưởng theo lòng nhân từ của Chúa.

Vậy đâu là cách thức truyền giáo hữu hiệu nhất cho người tông đồ của Chúa?

Thánh Gioan Tông đồ đã viết: “Ngôi lời đã hoá thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta”. Chúa Giêsu là Lời hằng sống gieo vào thế gian, nhưng Lời đã mang lấy xác phàm giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngôi Lời đã trở thành nguồn ơn cứu độ để những ai tiếp xúc với Ngài đều có thể nhận lãnh được sự sống dồi dào cả tinh thần lẫn thể xác. Ngôi Lời đã mặc lấy thân phận con người, để có thể gần gũi, cảm thông và chia sẻ với những khổ đau của con người. Cuộc sống của Ngài đã trở thành trở thành lẽ sống cho con người, “Sống để yêu thương”, và Ngài đã đi trọn con đường tình yêu là “dám chết cho người mình yêu”. Vì vậy, cách thức duy nhất mà Chúa trối lại cho chúng ta là “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Lời Chúa và giáo huấn của Chúa phải trở thành cung cách sống của người tín hữu. Một đời sống bác ái yêu thương mới thực sự là phương thế hữu hiệu nhất để giới thiệu về Chúa cho tha nhân. Lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau. Mang danh kytô hữu và sống đời kytô hữu phải nên một trong con người có đạo mới thực sự trở thành chứng nhân cho Chúa.

Vì vậy, Truyền giáo không thể chỉ đi lễ, đọc kinh cầu nguyện là xong bổn phận chứng nhân cho Chúa. Nếu như thế mới chỉ là hành vi trả lại công bằng cho Chúa, vì việc tạ ơn là hành vi đền đáp lại ân ban của Thiên Chúa dành cho con người. Truyền giáo không phải là việc tuân giữ các giới răn của Chúa. Nếu như thế mới là giữ đạo chứ chưa truyền đao. Truyền giáo không phải là nói thật hay, thuyết trình thật hùng hồn là có thể đem nhiều người về với Chúa. Nếu như thế mới chỉ là tiếp thị chứ chưa mang đạo vào đời như muối như men ướp mặn trần gian.

Trong thông điệp “khánh nhật truyền giáo 2006″, Đức Thánh Cha Bênedictô 16 đã viết: “Sứ mạng truyền giáo, nếu không được định hướng bởi Lòng mến, nếu không phát sinh từ một hành động sâu xa của tình yêu thần thiêng, thì sứ mạng đó liền bị rút gọn về chỉ còn như là một hành vi nhân ái và xã hội không hơn không kém. Tình yêu mà Thiên Chúa có đối với mỗi người, kết thành trung tâm của kinh nghiệm sống và loan báo Phúc Âm”.

Như vậy, Đức Thánh Cha đã tái khẳng định cách thức mà Chúa Giêsu muốn chúng ta đi đó là thực hành bác ái. Không có lòng mến thì không thể trở thành nhân chứng cho niềm tin của mình. Yêu Chúa luôn đi liền với yêu mến tha nhân. Và thánh Phaolô còn quả quyết “Lòng mến chính là sợi giây ràng buộc chúng ta nên một với Đức Kytô”.

Hôm nay nhân ngày khánh nhật truyền giáo, chúng ta hãy rà xét lại lòng mến của chúng ta đã trở nên dấu chỉ của người kytô hữu hay chưa? Ngày xưa cộng đoàn tín hữu tiên khởi họ đã sống thật hiệp nhất với nhau, ngày ngày họ đến hội đường để nghe các tông đồ rao giảng. Họ chia sẻ đời sống hằng ngày với nhau, để không ai phải thiếu thốn. Họ được toàn dân thương mến và ngày càng có thêm nhiều người gia nhập Giáo Hội. Ước gì cộng đoàn xứ đạo chúng ta cũng được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến, đầy thiện cảm và tôn trọng, và ngày càng có những người muốn sống đời kytô hữu như chúng ta. Amen.

Bài 19. Truyền giáo
R. Veritas

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm Ấn Độ hồi tháng 11.1999. Cao điểm của chuyến viếng thăm này là nghi thức công bố Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu. Tông Huấn này là một đúc kết kết quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tại Á Châu nhóm họp tại Rôma hồi tháng 4.1999. Việc chọn Ấn Độ làm nơi công bố Tông Huấn mang một ý nghĩa đặc biệt. Những nơi mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong mỏi đến viếng thăm nhất hẳn phải là Đài Loan, Hồng Kông, Trung Hoa Lục Địa và đặc biệt là Việt Nam. Thế nhưng, cho đến nay người ta vẫn cứ nại đến lý do chính trị và quan hệ ngoại giao để không cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm Giáo Hội ở phần đất này. Dĩ nhiên đằng sau những lý do chính trị và quan hệ ngoại giao ấy, ai cũng thấy rõ chủ trương bài trừ tôn giáo và nhất là chống lại Giáo Hội. Tựu trung linh hồn của bất cứ một chế độ độc tài ý thức hệ nào cũng là tinh thần bất khoan nhượng. Người dân không những bị cưỡng bách phải tuyên xưng ý thức hệ của chế độ mà còn bị kỳ thị loại trừ và bách hại về niềm tin tôn giáo của mình.

Tuy là một quốc gia có nền dân chủ lớn nhất thế giới hiện nay, Ấn Độ đang bị xâu xé vì tinh thần bất khoan nhượng. Tại một quốc gia với một tỷ dân này, liên minh cầm quyền gồm những người theo chủ nghĩa Ấn Giáo, trong đó có một số thành phần cực đoan lại tái cử thêm nhiệm kỳ nữa, tinh thần bất khoan nhượng ngày càng gia tăng tại Ấn Độ. Trong những năm gần đây, người ta ước tính là đã có gần 150 vụ tấn công nhắm vào nhân sự và các cơ sở của Kitô Giáo, nhiều vị mục sư và linh mục bị sát hại, nhiều nữ tu bị bạo hành, nhiều nhà thờ bị đốt phá.

Một nhóm Ấn Giáo cực đoan đã tổ chức cuộc biểu tình phản đối nhân dịp Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Ii viếng thăm Ấn Độ. Họ đòi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lên án các cuộc trở lại Công Giáo cũng như xin lỗi người Ấn Độ về những phương pháp truyền giáo cho người Ấn trong quá khứ. Chính trong bầu khí đầy bất khoan nhượng ấy mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đến viếng thăm Ấn Độ, đúng hơn chính bầu khí bất khoan nhượng ấy đã khiến Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chọn Ấn Độ làm nơi để công bố Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu.

Trong bầu khí đó chúng ta thấy rằng, sứ điệp mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ngỏ với các tín hữu Kitô tại Ấn Độ và toàn thể Á Châu, cũng như với tất cả mọi người Ấn Độ là sứ điệp về lòng khoan nhượng. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trưng dẫn cuộc cách mạng bất bạo động vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại do Mahatma Gandhi chủ xướng, Ngài cũng nói đến tấm lòng khoan dung độ lượng của biết bao nhiêu nhà hiền triết Ấn Độ.

Quả thật, tôn giáo nào cũng tốt trong một mức độ nào đó, câu nói này nói lên tinh thần khoan nhượng vốn là yếu tính của tất cả mọi tôn giáo. Thật thế, tôn giáo nào cũng dạy con người ăn ngay ở lành; tôn giáo nào cũng lên án ích kỷ, bạo động, hận thù và tinh thần bất khoan nhượng.

Trong tuyển tập có tựa đề “Con Đường Đơn Sơ” của Mẹ Têrêsa Calcutta, vị Sáng Lập Dòng Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái đã viết như sau: “Chỉ có một Thiên Chúa và Ngài là Thiên Chúa của tất cả mọi người. Do đó, cần phải nhận ra mọi người bình đẳng trước mặt Chúa. Tôi vẫn luôn luôn nói rằng, chúng ta phải giúp cho một người Ấn Giáo trở thành người Ấn Giáo tốt hơn; một người Hồi Giáo được trở thành một người Hồi Giáo tốt hơn và một người Công Giáo trở thành một người Công Giáo tốt hơn.” Lễ quốc táng mà chính phủ Ấn Độ đã dành cho Mẹ cách đây 4 năm chứng tỏ rằng, sứ điệp mà Mẹ mang đến cho dân tộc này đã được mọi người đón nhận. Sứ điệp ấy không chỉ được Mẹ Têrêsa nói lên bằng những lời nói suông mà còn bằng cả cuộc sống của Mẹ nữa.

Hôm nay là ngày thế giới truyền giáo, chúng ta hiệp nhau cầu nguyện cho công việc truyền giáo của Giáo Hội, chúng ta cầu nguyện cách đặc biệt cho các nhà thừa sai trên cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội. Chúng ta tuyên xưng rằng, Chúa Giêsu Kitô là Đấng duy nhất cứu rỗi nhân loại, nhưng quan trọng hơn cả là chúng ta được Giáo Hội mời gọi mỗi người ý thức về sứ mệnh truyền giáo của mình, nhất là hiểu được ý nghĩa đích thực của việc truyền giáo trong thế giới hôm nay.

Mẹ Têrêsa Calcutta đã định nghĩa về một nhà truyền giáo: “Đó là một tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài”. Mẹ Têrêsa không những chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ. Do đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêsa là dùng cả cuộc sống của mình để làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu.

Truyền giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu thương. Đây chính là cốt lõi mà Chúa Giêsu cô đọng trong giới răn mến Chúa và yêu người được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong Tin Mừng hôm nay. Trong xã hội mà Kitô giáo chỉ là thiểu số thì truyền giáo đối với Kitô hữu hiện nay là quyết tâm sống như thế nào để cho mọi người nhận biết Chúa Giêsu là Đấng đã đến chỉ để rao giảng một thứ đạo, đó là đạo của tình thương. Trong một chế độ chối bỏ những quyền tự do cơ bản nhất của con người, thì truyền giáo đối với các tín hữu Kitô hiện nay chính là biểu lộ được bộ mặt đích thực của Đạo là yêu thương và khoan nhượng.

[Mục Lục]

Bài 20. Nối bước các thừa sai
Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Trong tông huấn Ecclesia in Asia, Đức Cố Gioan Hoàng Gioan Phao-lô II đã kêu gọi: “Thiên niên kỷ thứ nhất truyền giáo cho Châu Âu. Thiên niên kỷ thứ hai truyền giáo cho Châu Mỹ. Thiên niên kỷ thứ ba phải truyền giáo cho Á Châu”.

Cách riêng với Giáo Hội việt Nam năm 2003 mừng 470 năm Tin Mừng được rao giảng trên quê hương đất nước chúng ta, các Đức Giám mục Việt Nam đã hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Thánh Cha, công bố thư mục vụ mang tựa đề “Sứ Mạng Loan báo TinMừng Của Hội Thánh Việt Nam Hôm Nay” đã khẳng định: “Đầu thiên niên kỷ mới, sứ mạng loan báo Tin mừng được đặc biệt trao vào tay chúng ta. Chúng ta hãy tiếp bước các vị thừa sai đầy nhiệt tình tông đồ, hãy phát huy truyền thống kiên cường của các bậc tiền nhân anh hùng tử đạo. Ta hãy đáp lại kỳ vọng của Hội thánh đem Tin mừng cho anh em trên lục địa mênh mông này. Và đặc biệt đem Tin mừng cho anh chị em sống ngay trên quê hương Việt nam”. (Thư chung 2003)

Hơn nữa, Giáo hội Việt Nam ngày nay là con cháu của 117 vị thánh Tử Đạo và của hàng chục ngàn người Việt Nam đã chết vì đạo. Nhưng gần 5 thế kỷ trôi qua, Giáo hội Việt Nam xem ra vẫn còn bé nhỏ giữa lòng dân tộc Việt nam. Theo thống kê năm 2006 thì Giáo hội việt nam có 26 Giáo Phận, gồm khoảng 7 triệu giáo dân, trên tổng số hơn 80 triệu người Việt Nam, chiếm tỉ lệ 6,62%.

Là người con của dân tộc Việt Nam, là dòng máu các anh hùng Tử đạo Việt Nam chúng ta cần phải có bổn phận loan báo Tin mừng cho chính quê hương, dân tộc của mình. Đạo làm người dạy chúng ta phải “thương người như thể thương thân”, thì đạo làm con Chúa đòi hỏi chúng ta chia sẻ tất cả những gì mình có cho tha nhân, cho đồng loại. Các thánh Tông Đồ, các vị Thừa Sai đã đem niềm vui lớn nhất là Tin mừng Chúa Giêsu được công bố cho toàn thế giới. Các Ngài đã không quản ngại hy sinh tính mạng để đổi lấy niềm vui ơn cứu độ được trao ban tới muôn triệu tâm hồn. “Từng đoàn người vượt suối băng rừng. Từng đoàn người ra khơi giữa biển rộng sóng lớn. Biết bao người bỏ mạng nơi rừng sâu núi thẳm. Biết bao người bỏ xác ngoài biển khơi. Nhưng lớp này nằm xuống, lớp khác đứng lên nối tiếp nhau đem Tin mừng đến tận cùng thế giới”. (Thư chung 2003)

Nhờ các vị thừa sai tràn đầy nhiệt huyết, quê hương Việt Nam đã được đón nhận Tin mừng. Nhờ đời sống đức tin anh dũng của các bậc tiền nhân mà thế hệ chúng ta được thừa hưởng một gia tài đức tin vô cùng quý giá. Gia sản này chúng ta không có quyền lưu giữ cho riêng mình, nhưng phải có bỗn phận chia sẻ cho con người thời đại hôm nay. Chúa Giêsu sau khi phục sinh, Ngài đã uỷ thác cho Hội Thánh nhiệm vụ loan báo tin mừng khi Ngài nói: “Anh em hãy đi tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin mừng” (Mc 16,15). Lệnh truyền này đã trở thành sứ mạng chính yếu của Hội Thánh Chúa Ky-tô. Hội thánh hiện hữu là để loan báo Tin mừng và làm cho những ai thành tâm đón nhận Tin mừng trở nên môn đệ Chúa Ky-tô, đồng thời quy tụ cho Thiên Chúa mọi con cái tản mác khắp nơi về một mối (Ga 10,52). Thế nên, là người công dân của Nước Trời, chúng ta phản có bỗn phận chu toàn sứ vụ đó cho anh chị em chung quanh chúng ta, cụ thề là cho chình đồng bào và dân tộc Việt Nam.

Vậy, truyền giáo là gì?

Theo công đồng Vat II: “Việc truyền giáo là tất cả những công tác đặc biệt qua đó các nhà rao giảng Phúc âm được Giáo hội sai đi khắp thế gian, thi hành nhiệm vụ rao giảng Phúc âm và vun trồng Giáo hội nơi các dân tộc cũng như giữa những nhóm người chưa tin vào Chúa”. (TG 6c)

Trước đó, cha Pierre Charles cũng cho rằng: “mục tiêu truyền giáo không phải là cứu rỗi các linh hồn”, hoặc “làm cho dân ngoại trở về với Chúa”…; song là “mở rộng biên cương Giáo hội hữu hình, nhằm hoàn tất tiến trình lớn lên, hầu bao phủ toàn thế giới với lời cầu nguyện và việc phụng tự, tức là để mang cho Đấng Cứu Thế toàn bộ gia sản của Ngài”.

Như vậy, việc truyền giáo là “đưa Thiên Chúa đến với con người và đưa con người trở về với Thiên Chúa”. Đó chính là mục tiêu chính của việc truyền giáo và cũng là sứ mạng cấp bách của Giáo hội Chúa Ky-tô. Vì Giáo hội được hình thành để tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, Đấng sang lập Giáo hội. Khi hoàn tất sứ mạng của mình ở trần gian, Chúa Giêsu đã sai phái các tông đồ tiếp tục sứ mạng đó cho đến tận cùng trái đất. “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sia anh em” (Ga 20, 21″. “Anh em hãy làm chứng cho Thầy khởi đầu từ Giê-ru-sa-lem đến tận cùng trái đất” (Lc 24, 47)

Vì vậy, là người công giáo chúng ta phải có bổn phận mang Tin mừng của Chúa đến cho anh em minh. Hãy tiếp nối sứ mạng của Chúa Ky-tô đưa muôn người đang còn tản mác khắp nơi về với Chúa. Hãy tiếp nối truyền thống của các Thừa sai Việt Nam mang Tin mừng đến cho những anh em nghèo đói, đến những phận người bị bỏ rơi . . # Hãy tiếp nối tinh thần quả cảm hy sinh, kiên cường của các tiền nhân mà mạnh dạn làm chứng cho Chúa, cho dù có bị thua thiệt trước mặt người đời, cho dù có bị hiểu lầm, ngược đãi… nhưng cùng chịu chết với Đức Ky-tô là một mối lợi mà không có một gia sản nào trên trần gian có thể sánh bằng.

Nguyện xin Chúa Giêsu là người thợ lành nghề được sai đến trần gian để gặt lúa của Người, xin giúp chúng con biết dấn thân quảng đại vào cánh đồng truyền giáo Việt Nam hôm nay. Amen.

[Mục Lục]

Bài 21. Chứng tá

Truyền giáo là nhiệm vụ của mọi Kitô hữu. Đây là điều công đồng Vaticanô II nhắc đi nhắc lại nhiều lần: việc rao giảng Tin Mừng là bổn phận chính yếu. Bổn phận căn bản của Giáo hội và mỗi Kitô hữu. Công đồng đã làm nổi bật vấn đề truyền giáo và đã định nghĩa Giáo hội là Giáo hội truyền giáo và coi việc truyền giáo là nghĩa vụ tông đồ của mỗi Kitô hữu. Theo công đồng, không một tín hữu nào đáng gọi là tín hữu mà có thể khước từ nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không thể là một việc tùy sở thích, nhưng mỗi tín hữu phải coi đây là vấn đề sống đạo, vấn đề sinh tồn của Giáo hội và là trách nhiệm của chính mình.

Đối với người giáo dân, qua sắc lệnh về tông đồ giáo dân. Công đồng còn cho thấy vai trò quan trọng của người giáo dân trong việc truyền giáo, vai trò là men, là muối, là ánh sáng, là chứng nhân giữa đời. Bởi vì giáo sĩ không thể sống chân bùn tay lấm nơi đồng ruộng với những nông dân; giáo sĩ không thể gồng gánh theo chân những người buôn bán đi vào đầu đường xó chợ; giáo sĩ không thể đầu tắt mặt tối làm việc trong những cơ xưởng, nhà máy, công trường… nhưng chính những giáo dân nhà nông, những giáo dân buôn bán, những giáo dân công nhân, có nhiệm vụ đem Chúa đến cho anh em mình nơi đồng ruộng, chợ búa, xí nghiệp, nhà máy, nghĩa là những nơi mà giáo sĩ không thể có mặt và không thể đi đến, thì giáo dân sẽ đóng vai trò chủ chốt và chủ động. Bởi đó, không những giáo dân đóng vai trò yểm trợ cho giáo sĩ mà còn đóng vai trò chính yếu, thay thế cho giáo sĩ trong những nơi hay những hoàn cảnh đó.

Như vậy cách truyền giáo tốt nhất và có hiệu quả nhất là đời sống gương mẫu, đời sống Công giáo đích thực, nhất là đời sống thể hiện tình yêu thương của chúng ta. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo, khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những bạn tốt, những công nhân gương mẫu trong nhà máy, những công nhân gương mẫu ngoài công trường. Tóm lại, chúng ta hãy nắm lấy những cơ hội đi lại đây đó, khi thi hành công tác, khi làm ăn sản xuất, khi xê dịch thăm viếng… để nói hay làm chứng về Chúa qua lời nói, thái độ và cách đối xử đầy tình yêu thương của chúng ta.

Mẹ Têrêxa Cancutta đã định nghĩa về một nhà truyền giáo như sau: đó là “một tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài”. Mẹ Têrêxa không chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ. Do đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêxa là dùng cả cuộc sống của mình để làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu, truyền giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu thương.

Có người đã kể lại lý do và động lực thúc đẩy ông theo đạo như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đưa tôi vào bệnh viện, không ai chăm sóc tôi cả ngoài một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và tận tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: “Chị quỳ làm gì thế?”. Chị trả lời: “Tôi cầu nguyện cho ông”. Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ làm cho tôi bấy lâu không biết Chúa, bây giờ được biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi người chị y tá ấy. Giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.

Câu chuyện trên cho chúng ta thấy gương sáng và tình yêu thương là bằng chứng cho người ta nhận ra Thiên Chúa. Có nhiều người không bao giờ thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ, vì họ có đạo đâu mà đến nhà thờ, nhưng họ thấy cách chúng ta biểu lộ tình thương với họ hay với những người chung quanh mà họ nhận ra Thiên Chúa của tình yêu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo Chúa, khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những người bạn tốt của nhau.

Trong thư mục vụ năm 2003 của các giám mục Việt Nam, số 10 cũng nói đến cách truyền giáo này: cầu nguyện cho việc truyền giáo là việc quan trọng hàng đầu, việc truyền giáo phải đặt nền tảng trên lời cầu nguyện: cá nhân, gia đình, cộng đoàn, giáo xứ. Trước khi rao giảng bằng lời nói, hãy rao giảng bằng đời sống, chúng ta hãy nêu gương về đời sống hiệp nhất yêu thương, không có lời rao giảng nào có sức thuyết phục bằng sự hiệp nhất yêu thương trong gia đình, xóm làng, trong giáo xứ, trong giáo phận, như lời Chúa phán: “Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết anh em là môn đệ của Thầy, ấy là nếu anh em thương yêu nhau”.

Tóm lại, ngày thế giới truyền giáo hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy luôn ý thức về sự quan trọng của việc truyền giáo và nhắc nhở chúng ta hãy góp phần mình vào công cuộc truyền giáo của Giáo hội bằng việc cầu nguyện và bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta.

[Mục Lục]

Bài 22. Truyền giáo

“Mỗi người ở ngoài Chúa là một cánh đồng truyền giáo, và mỗi người ở trong Chúa là một nhà truyền giáo”. Câu nói trên rất đúng và cũng rất hay.

“Mỗi người ở ngoài Chúa là một cánh đồng truyền giáo”. Điều đó rất đúng. Như vậy, cánh đồng truyền giáo vẫn còn bao la, mênh mông. Mặc dầu Tin Mừng đã được loan truyền và đạo Chúa đã được thiết lập cả hai ngàn năm rồi mà số đông vẫn chưa được nghe biết Tin Mừng, hay nói ngược lại, chưa được một phần ba nhân loại nhận biết Chúa Kitô. Với đà gia tăng dân số kinh khủng hiện nay, thì một ngày kia số ngày tin theo Chúa sẽ trở thành thiểu số đáng ngại.

Các nước được mệnh danh là “Công giáo” như Tây Ban Nha, Pháp, Ý… có tới 70-80 phần trăm dân số được rửa tội, nhưng được mấy chục phần trăm sống theo đức tin? Từ hơn nửa thế kỷ rồi, ngay giữa Âu Châu đã vang lên những lời cảnh tỉnh: “Nước Pháp, xứ truyền giáo”. Nước Pháp mà còn gọi là xứ truyền giáo thì nói gì đến những xứ truyền giáo chính hiệu như ở Á Châu, Phi Châu. Hai nước có dân số lớn nhất nhì thế giới là Trung Quốc và An độ, chỉ có không tới một phần trăm là Công giáo. Nếu đất nước chúng ta đã thấm nhiều máu tử đạo và đang có một cộng đồng Công giáo tương đối đông đảo, thì sát cạnh nước chúng ta, hai nước Lào và Campuchia kể như vẫn chưa được rao giảng Tin Mừng.

Ngay tại Việt Nam chúng ta, tính đến ngày 31-12-2004, số người Công giáo trên toàn quốc là 5.776.972 người trên tổng số dân cả nước là 82.032.300 người, chiếm tỷ lệ khoảng 7,04% dân số. Việt Nam vẫn còn là xứ truyền giáo, và việc truyền giáo vẫn luôn là vấn đề cấp bách. Chính vì sự cấp bách đó nên Giáo Hội luôn luôn cổ võ tinh thần truyền giáo, nhất là trong những văn kiện gần đây của Công đồng Vaticanô II cũng như của các Đức Giáo Hoàng. Cũng nhằm mục tiêu đó, mỗi năm Giáo Hội dành riêng một Chúa Nhật để cầu cho công cuộc truyền giảng Tin Mừng, kêu gọi các tín hữu cầu nguyện, hy sinh, đóng góp, đồng thời thúc giục mọi người tham gia vào công cuộc cao quý vĩ đại ấy.

Truyền giáo là bổn phận của mọi người và mỗi người, việc truyền giáo không của riêng ai, và không phải là một việc làm tùy sở thích, muốn làm hay không cũng được, đây là một bổn phận, một nhiệm vụ bắt buộc, không ai có quyền trốn tránh và không ai có lý do nào tự miễn chuẩn cho mình hay tự bào chữa cho mình được. Từ một em bé đến một cụ già, từ một bệnh nhân đến một lực sĩ, từ một người buôn bán đi khắp đó đây đến một người nội trợ, từ một người bình dân đến một người trí thức… trong mỗi hoàn cảnh sinh sống, ai cũng phải truyền giáo, người nào cũng có thể tìm thấy cách thức truyền giáo thích hợp với khả năng của mình. Do đó, “Mỗi người ở trong Chúa là một nhà truyền giáo”, câu nói đó rất đúng, mỗi người chúng ta phải là một nhà truyền giáo.

Đành rằng không phải ai cũng có thời giờ hoặc khả năng làm công việc truyền giáo trực tiếp, nhưng tất cả mọi người đều có thể và phải thực hiện cách gián tiếp. Chẳng hạn, cầu nguyện cho việc truyền giáo; đóng góp vào việc truyền giáo bằng những hy sinh; bớt tiêu xài một chút trong gia đình hay cho cá nhân mình để đóng góp vào công cuộc truyền giáo, nhưng trên hết là truyền giáo bằng đời sống chứng nhân. Đây là cách truyền giáo tốt nhất và hữu hiệu nhất: Truyền giáo bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta, một đời sống đạo đức chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng trước mặt mọi người.

Cách đây khá lâu, có một cuốn Phim Việt Nam gây được nhiều chú ý ở ngoại quốc là phim “Chuyện Tử tế” của đạo diễn Trần văn Thuỷ, phim được hãng truyền hình Pháp mua và trình chiếu trong chương trình có tên là Đại Dương. Sau khi xem cuốn phim này, một ký giả ngoại quốc đã hỏi đạo diễn Trần văn Thuỷ: “Những người Kitô Việt Nam có thể làm gì để truyền giáo cho dân tộc họ?” Nhà đạo diễn đã trả lời: “Với tôi, điều người ta mong đợi ở các Kitô-hữu là niềm tin của họ và họ phải sống điều họ tin”. Lời phát biểu trên đáng để chúng ta suy nghĩ. Sống trong một đất nước còn nhiều khó khăn, sống trong một dân tộc còn nhiều người chưa biết Chúa, sống trong một xã hội còn nhiều tiêu cực, thì đối với người Kitô, tin và sống niềm tin của mình là phải sống, phải tin thật tử tế, tức là tin và sống tình nhân loại, sống quảng đại, tóm lại là sống tình người. Tin và sống như thế không phải chỉ là cách sống dành cho các nữ tu, các linh mục mà cũng chính là sứ mạng và ơn gọi của mỗi Kitô hữu.

Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu không chỉ sai 12 tông đồ đi rao giảng nhưng Ngài sai tất cả 72 môn đệ. Điều này có nghĩa là việc rao giảng Tin Mừng không phải chỉ dành cho một số thành phần trong Giáo Hội: Giám mục, linh mục, tu sĩ, nhưng là bổn phận của mọi người và mỗi người. Điều đáng chú ý nữa là khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu không mấy chú trọng đến phương tiện. Phương tiện mà Chúa trao cho họ là đừng mang theo túi tiền, bao bị gì cả, phương tiện duy nhất và tiên quyết là đem lại bình an cho mọi người, là sống chia sẻ, sống trọn tình người với họ. Tóm lại là sống tử tế với mọi người.

Sống tử tế là sống vui tươi, sống lạc quan, sống biết điều, sống lịch sự, sống cảm thông, sống yêu thương với mọi người, sống như thế là chúng ta đang góp phần làm cho danh Chúa được cả sáng và nước Chúa được trị đến, tức là chúng ta đang truyền giáo vậy.

[Mục Lục]

Bài 23. Hãy loan báo Tin mừng

Một đạo sĩ hỏi các đệ tử: Các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện, khi nào ánh sáng tới và bóng tối lui đi không? Các đệ tử thi nhau trả lời: Thưa thầy, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi từ xa nhìn một đoàn vật người ta có thể phân biệt được con nào là con bò con nào là con trâu không? Thày lắc đầu: không phải. Đệ tử khác trả lời: Thưa thầy có phải ánh sáng tới và bóng tối lui là khi từ xa nhìn vào vườn cây, người ta có thể phân biệt được cây nào là cây xoài cây nào là cây mít không? Thầy vẫn lắc đầu: không phải. Thấy không ai trả lời được, thầy mới giải nghĩa: Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nào ta nhìn vào mặt người xa lạ và nhận ra đó là anh em mình.

Thật là khó hiểu. Tuy trên đời ta thấy có nhiều thứ ánh sáng. Có ánh sáng mặt trăng mặt trời. Có ánh sáng đèn dầu, đèn điện. Có những ánh sáng như tia X, tia hồng ngoại. Nhưng tất cả những ánh sáng đó chỉ giúp ta nhìn rõ sự vật. Không thấy có thứ ánh sáng nào soi vào mặt người xa lạ mà biến người ấy thành người thân của mình.

Mẹ Têrêxa dường như đã tìm ra thứ ánh sáng ấy. Mẹ là một nữ tu người Anbani, được sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn Độ, thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người hấp hối ngoài lề đường. Chết rồi xác bị quẳng vào đống rác như xác thú vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia đình chui rúc trong các căn nhà ổ chuột. Biết bao người đói khát không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo.

Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ phải động lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không thèm muốn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: Ô, cây đèn đẹp quá. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho ông không? Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn ấm áp trong căn lều ấm cúng. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đi thăm mọi người. Mọi người đến thăm ông. Cuộc đời ông vui tươi trở lại.

Trước kia cuộc đời ông tăm tối không phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt. Trái tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hỏa soi sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc âm, khi người Samaritanô nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương cho người bị nạn bên đường. Hai người nhìn nhau. Một làn ánh sáng lóe lên. Và họ nhận ra nhau là anh em.

Cứ như thế Mẹ Têrêxa miệt mài phục vụ người nghèo. Lập những trung tâm đón tiếp những người hấp hối, săn sóc để họ được chết, được chôn cất như một con người. Nuôi trẻ mồ côi. Xây bệnh viện. Xây trường học. Công việc càng ngày càng mở rộng. Số người theo Mẹ ngày càng đông và Mẹ lập dòng Nữ tử Thừa sai Bác ái chuyên phục vụ người nghèo. Hiện nay nhà dòng đã có mặt trên 132 quốc gia. Mẹ được thế giới biết tiếng. Mẹ được nhiều giải thưởng trong đó có giải Nobel Hòa bình. Năm 1997, khi Mẹ qua đời, 80 nguyên thủ quốc gia, trong đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill Clinton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn Độ, đa số dân theo Ấn Độ giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, đã chôn cất Mẹ theo nghi thức quốc tang. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về trời.

Mẹ Têrêxa là một nhà truyền giáo thành công của thế kỷ 20. Vì Mẹ đã biết thắp lên ngọn đèn soi trong đêm tối. Giữa đêm tối vật chất hưởng thụ. Mẹ đã thắp lên ngọn đèn siêu nhiên của thiên đàng. Giữa đêm tối rụt rè nghi kỵ Mẹ đã thắp lên ngọn đèn ấm áp tình người. Trái tim Mẹ là một ngọn đèn sáng. Ánh sáng ấy tỏa lan tới muôn người làm cho mọi người nhận biết khuôn mặt hiền lành khiêm nhường của Đức Kitô và làm cho mọi người nhìn nhau là anh em.

Vào thời Cộng sản còn mạnh và còn chống đối Công giáo kịch liệt, Mẹ Têrêxa vẫn có thể lập nhà ở Nga, ở Cuba và cả ở Việt Nam. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã có thể đi khắp thế giới như lời Chúa truyền. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng khắp thế giới.

Hôm nay Giáo hội cầu nguyện cho việc truyền giáo. Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta góp phần vào việc truyền giáo. Không gì bằng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mình, đem ngọn lửa yêu thương phục vụ soi sáng khắp nơi. Thế giới sẽ bừng sáng và mọi người sẽ nhìn nhận nhau là anh em.

[Mục Lục]

Bài 24. Đời sống chứng nhân

Hôm nay, ngày thế giới truyền giáo. Chúng ta cùng tìm hiểu xem: Truyền giáo là gì? Chúng ta phải truyền giáo thế nào?

Trước hết, truyền giáo là gì? Truyền là truyền bá, truyền thông, chuyển giao, rao giảng, loan truyền… Giáo là giáo lý, đạo giáo, Tin Mừng, Phúc âm… Truyền giáo là truyền bá đạo, là rao giảng Phúc âm, là loan truyền chân lý của Chúa cho người khác. Đó là ý nghĩa thứ nhất, nghĩa hẹp, nghĩa chặt và chính xác. Đàng khác, truyền giáo còn có nghĩa là lập những cộng đoàn Kitô hữu trong đức tin, trong phụng tự Thánh Thể, bác ái như Giáo hội mong muốn. Nói khác đi, truyền giáo là “trồng” Giáo hội vào các dân tộc, các địa phương, cho đến khi những người trong địa phương ấy trở nên tín hữu, thành một đoàn chiên. Theo ý nghĩa này, truyền giáo không phải chỉ là truyền bá một số giáo lý, nhưng là truyền thông sự sống của Chúa cho anh em khác, vì Thiên Chúa là Đấng hằng sống, đạo Chúa là đạo sự sống, là nguồn sống, có khả năng thay đổi, biến cải những con người từ không có Chúa trở thành có Chúa, từ mất Chúa trở thành tìm lại được Chúa. Truyền giáo theo nghĩa này là truyền sự sống của Chúa Kitô mà chúng ta đã có sang cho anh em mình, như thân cây nho chuyển nhựa sống sang cho cành nho. Sau hết, truyền giáo còn có một nghĩa nữa là củng cố, tăng cường, huấn luyện đức tin cho một cộng đoàn, cho các tín hữu, để họ lại ra đi truyền giáo cho những người khác.

Những ý nghĩa trên đây cho thấy hai chiều của việc truyền giáo: chiều rộng và chiều sâu. Nếu làm cho những người chưa biết Chúa hoặc những người biết mà đã bỏ Chúa, được nhận biết và yêu mến Chúa. Đó là truyền giáo theo chiều rộng, là mở rộng nước Chúa và làm tăng thêm số người thờ phượng Chúa. Còn nếu làm cho những người đã biết và yêu mến Chúa được hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, để rồi họ lại tiếp tục làm những công việc ấy nơi những người khác. Đó là truyền giáo theo chiều sâu, vì làm cho nước Chúa được vững chắc hơn và làm tăng thêm số người Công giáo sốt sắng, đạo đức.

Việc phân biệt ý nghĩa như trên đây rất quan trọng để chúng ta hiểu rõ hơn việc truyền giáo, vì truyền giáo không phải chỉ có nghĩa là làm cho những người ngoại, những người lương, những người chưa biết được biết và yêu mên Chúa, nhưng còn có nghĩa là truyền giáo cho cả những người Công giáo sống trong một họ, một xứ với chúng ta nữa. Chúng ta phải sống một đời đạo đức, sốt sắng, thánh thiện để làm gương tốt cho họ, để giúp cho họ thêm lòng yêu mến và tôn kính Chúa.

Đó là ý nghĩa của việc truyền giáo. Và như vậy tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không của riêng ai và không phải là một việc làm tùy sở thích, muốn làm hay không cũng được. Nhưng đây là một bổn phận, một nhiệm vụ bắt buộc. Mỗi người chúng ta phải coi đây là vấn đề sống đạo, là vấn đề sinh tồn của Giáo Hội và là trách nhiệm của chính mình.

Vậy chúng ta phải truyền giáo thế nào? Có rất nhiều cách. Chúng ta muốn dùng cách nào cũng được, nhưng nhất thiết phải thi hành hai cách này là cầu nguyện và đời sống chứng nhân: Cầu nguyện cho việc truyền giáo là cách thức rất quan trọng: cầu nguyện cho những người đi truyền giáo, cầu nguyện cho mọi người mở rộng lòng sẵn sàng đón nhận ơn Chúa, Lời Chúa. Cụ thể như thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, cả đời không đi đâu truyền giáo, chỉ ở trong bốn bức tường dòng kín cầu nguyện cho việc truyền giáo. Thế mà Giáo Hội đã tôn phong ngài là quan thầy các nơi truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê. Xin anh chị em hãy suy nghĩ: Chúng ta có thường xuyên thi hành việc này không? Chúng ta có cầu nguyện cho việc truyền giáo không? Nếu không thì đó là tội thiếu sót, bỏ việc phải làm. Thứ hai là truyền giáo bằng chính đời sống chứng nhân của mình: Đây là cách truyền giáo tốt nhất và hữu hiệu nhất, đó là truyền giáo bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta. Một đời sống đạo đức, chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng trước mặt mọi người. Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những lời nói hay, vì “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”. Chúng ta hãy suy nghĩ: đời sống chúng ta hiện nay có làm chứng cho Chúa, cho đạo không?

[Mục Lục]

Bài 25. Hãy thả lưới bên phải thuyền

Các Tông đồ đã đánh cá vất vả suốt đêm mà không được con cá nào. Nay Chúa Giêsu bảo các ngài phải ra khơi một lần nữa. Chắc các ngài phải ngần ngại lắm. Ngần ngại vì vừa qua một đêm vất vả, thân thể mỏi nhừ vì suốt đêm phải vật lộn với biển cả, với sóng gió, với chài lưới. Ngần ngại vì đang buồn ngủ. Mắt chĩu nặng vì suốt đêm không ngủ, đang cần một giấc ngủ để hồi phục sinh lực. Ngần ngại vì vừa bị thất bại ê chề, đã mất hết ý chí phấn đấu. Thế nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa, ra khơi, thả lưới. Và kết quả thật là bất ngờ. Lưới đầy cá chất đầy hai thuyền đến gần chìm.

Qua bài Tin Mừng này Chúa muốn dạy tôi những bài học về việc truyền giáo.

Bài học thứ nhất: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi vất vả. Phải lao động đêm ngày. Như các Tông đồ đã chài lưới suốt đêm thâu trong sương đêm giá lạnh, trong sóng gió biển khơi, trong vất vả cực nhọc. Suốt đêm đã lênh đênh trên biển cả, sáng sớm vừa mới về tới đất liền, tưởng được nghỉ ngơi, không ngờ lại phải ra khơi ngay tức khắc. Ra khơi cả lúc đang mệt mỏi cần nghỉ ngơi. Người muốn truyền giáo cũng phải noi gương các tông đồ. Làm việc không nghỉ. Phải đầu tư sức lực và trí tuệ. Phải phấn đấu không ngừng. Làm cho hết việc chứ không làm cho hết giờ. Và phải chấp nhận tất cả những mỏi mệt, những thử thách.

Bài học thứ hai: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi kiên trì. Vì việc truyền giáo có nhiều thất bại hơn thành công, có nhiều mệt nhọc hơn vui thích, nên việc truyền giáo đòi hỏi rất nhiều kiên trì. Kiên trì khi đã gặp thất bại. Kiên trì khi đã chán nản, mệt mỏi rã rời. Kiên trì khi gặp những trắc trở. Như lời thánh Phaolô khuyên dạy: “Hãy rao giảng Lời Chúa. Hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2Tim 4,2). Các Tông đồ thật kiên trì, mặc dù đã thất bại sau suốt một đêm vất vả, các ngài vẫn tiếp tục ra khơi theo lệnh Chúa truyền. Trong quá khứ, ta đã gặp nhiều thất bại trong việc truyền giáo. Hôm nay Chúa lại mời gọi ta hãy ra khơi, hãy lên đường truyền giáo. Ta hãy mau mắn đáp lời Chúa mời gọi, kiên nhẫn làm việc trên cánh đồng truyền giáo, bất chấp mọi thất bại, bất chấp mọi chán nản.

Bài học thứ ba: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi thanh luyện bản thân. Truyền giáo là công việc thánh thiện nên người truyền giáo phải thánh thiện. Sự thánh thiện khởi đi từ nhận thức thân phận yếu hèn tội lỗi. Và từ đó nảy sinh nhu cầu được thanh luyện. Như Phêrô cảm thấy mình tội lỗi không xứng đáng ở gần Chúa. Như Phaolô ngã ngựa cảm thấy mình lầm lạc. Như Isaia cảm thấy môi miệng mình ô uế. Sau khi được thanh luyện các ngài đã trở thành những nhà truyền giáo gương mẫu. Thánh hóa bản thân là một điều kiện quan trọng để truyền giáo thành công.

Bài học thứ tư: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi lắng nghe Lời Chúa. Vì truyền giáo là một công việc thiêng liêng. Nên ta không thể cậy dựa vào sức lực phàm nhân, phương tiện phàm trần. Các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp. Các ngài biết rõ biển hồ Galilê như lòng bàn tay. Thế mà các ngài đánh cá suốt đêm chẳng được con nào. Đó là bài học dạy ta biết rằng, nếu cậy dựa vào tài sức riêng, việc truyền giáo sẽ không có kết quả. Việc các tông đồ vâng lời Chúa ra khơi và vâng lời Chúa thả lưới bên phải mạn thuyền cho ta thấy một thái độ khiêm nhường lắng nghe. Dù Chúa Giêsu không phải là ngư phủ chính gốc. Dù Chúa Giêsu không hiểu biết biển hồ, nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa. Chính nhờ thế, các ngài đã thành công. Người làm việc truyền giáo phải noi gương các tông đồ biết khiêm nhường nhận biết sự bé nhỏ nghèo hèn của bản thân để thao thức lắng nghe Lời Chúa. Chỉ làm theo Lời Chúa, làm theo ý Chúa, làm vì Chúa việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.

Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta một nghị lực mạnh mẽ để sẵn sàng chấp nhận những vất vả khổ cực trong việc truyền giáo. Xin cho chúng ta biết chấp nhận cả những thất bại mà vẫn kiên trì lên đường truyền giáo. Và nhất là xin cho mọi người chúng ta được Chúa dạy bảo, để biết làm theo ý Chúa. Chỉ có như thế, việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.

Lạy Chúa Giêsu, xin kêu gọi chúng con lên đường truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin thanh luyện chúng con để xứng đáng làm việc truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết cách làm việc truyền giáo. Amen.

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận