Đời tu và ba lời khấn

Đăng lúc: Thứ ba - 16/01/2018 01:08 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

 

ĐỜI TU VÀ BA LỜI KHẤN

 

Tại sao lại phải tuyên khấn? Không cần khấn các lời khấn, các linh mục triều vẫn có thể sống tốt, phục vụ tốt và trở thành các vị thánh được mà? Vậy đâu là bản chất của lời khấn? Lời khấn trói buộc hay làm người ta tự do hơn?

 

 

Những đặc sủng mà Thánh Thần thổi vào Giáo Hội rất phong phú. Có những người được mời gọi lập gia đình. Có những người cảm thấy mình hợp với sự độc thân; họ sống giữa đời nhưng không lập gia đình. Cũng có những người khác dành trọn cuộc đời mình cho Chúa. Người Việt Nam gọi chung tất cả những ai thuộc nhóm này là “người đi tu”, mà ít khi biết rằng trong số những người “độc thân vì Nước Trời” này, có một sự phân chia nữa: những người sống đời tu trong phạm vi giáo phận, dưới quyền Đức Giám Mục và những người sống đời tu trong phạm vi một dòng tu, dưới quyền Bề Trên. Những người đi tu mà tuyên khấn công khai các lời khấn được Giáo Hội chuẩn nhận, dù là nam hay nữ, thì được gọi là tu sĩ (từ chuyên môn gọi là người sống đời thánh hiến). Những người tu đi mà không khấn, dù có là phó tế, linh mục hay giám mục, thì không mang danh xưng này (dù họ đã được thánh hiến).

 

Bởi thế, các chủng sinh tại các chủng viện chỉ là các sinh viên thần học. Họ được gọi là “thầy”, chính vì được mọi người yêu mến, nể trọng vì ước nguyện cao đẹp muốn hiến dâng cuộc đời để phụng sự Chúa của mình, chứ không phải vì họ có gì khác biệt về mặt bí tích so với những người khác. Xét cho cùng, họ chỉ là giáo dân. Nhưng vì đang được đào tạo để hướng đến chức linh mục, phục vụ giáo phận trong tương lai, nên họ phải tập sống trong khuôn khổ: trong cách ăn mặc (mặc áo sutan), cách đi đứng, nói năng sao cho chững chạc, chỉnh chu… Chỉ khi nào chịu chức phó tế, họ mới được tháp nhập vào trong hàng “có chức thánh”. Các nữ tu thì không lãnh nhận chức thánh, nhưng từ khi tuyên khấn, ngay cả khi chưa học triết hay thần học gì cả, họ đã trở thành tu sĩ. Các dòng nam cũng vậy. Khi các tu sĩ dòng nam được phong chức thánh, họ trở thành phó tế-tu sĩ hoặc linh mục-tu sĩ.

 

Sự phân biệt này không nhằm so sánh ai hơn ai, nhưng chỉ để nói đến những đặc nét khác nhau trong cùng một lối sống độc thân vì Nước Trời. Hy sinh cả một đời chỉ lo chuyện nhà Chúa đã là điều quý hoá vô cùng rồi. Nhưng hy sinh ra sao, trong môi trường nào, lo chuyện nhà Chúa thế nào lại là điều khác. Trên bình diện bí tích, cả linh mục triều và linh mục dòng (linh mục-tu sĩ) đều là linh mục, đều được thánh hiến. Nhưng trên bình diện hoạt động, mỗi bên có đặc nét riêng của mình. Trong khi linh mục triều được mời gọi để sống khó nghèo theo gương Đức Giêsu, phải giữ luật độc thân theo quy định của Toà Thánh và hứa vâng phục Giám Mục trong sứ mạng được trao, thì các linh mục dòng không chỉ là được mời gọi nhưng còn cụ thể hoá lời mời gọi ấy qua việc tuyên những lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục, và ràng buộc mình với những điều này. Các chủng sinh và linh mục triều chỉ giữ kỷ luật giáo sĩ chứ không hề bị ràng buộc bởi các lời khấn, nên giả như một ngày nào đó, Giáo Hội Công Giáo cho phép linh mục của mình được lập gia đình thì các linh mục triều được phép cưới vợ, trong khi các linh mục dòng thì không thể, vì họ đã khấn với Chúa lời khấn khiết tịnh. Ở Giáo Hội Đông Phương, các chủng sinh có thể cưới vợ trước khi chịu chức linh mục; còn khi đã chịu chức linh mục rồi thì không được cưới vợ nữa. Nhưng nếu một tín hữu thuộc Giáo Hội Đông Phương có ý hướng dâng mình trong một dòng tu thì trong ý hướng sẽ khấn lời khấn khiết tịnh, người đó không được có giao kết hôn phối với người khác.

 

Có rất nhiều định nghĩa về đời tu. Chẳng hạn, đi tu là hiến thân phụng sự Chúa và phục vụ Giáo hội và con người (như ta vẫn hay nói); đời tu là một cuộc sống hoàn toàn hướng về thánh ý Thiên Chúa trong niềm tin và tình yêu, nỗ lực không ngừng trong cầu nguyện, giữ các mối phúc; hay đi tu là trở thành môn đệ Chúa, ở với Chúa, được Chúa dạy dỗ và sai đi với quyền trừ quỷ (dựa trên Mc 3,13-15). Nhưng những định nghĩa này không giúp ta thấy được đâu là khác biệt giữa tu dòng với tu triều. Ta có thể tự đặt câu hỏi: ngoài chuyện khác nhau trong hoạt động mục vụ và vấn đề thuộc quyền, đâu là sự khác biệt giữa hai lối sống này? Tại sao lại phải tuyên khấn? Không cần khấn các lời khấn, các linh mục triều vẫn có thể sống tốt, phục vụ tốt và trở thành các vị thánh được mà? Vậy đâu là bản chất của lời khấn? Lời khấn trói buộc hay làm người ta tự do hơn?

 

Khó nghèo, khiết tịnh, vâng phục được gọi là ba lời khuyên Phúc Âm. Thực ra, trong Phúc Âm còn có rất nhiều lời khuyên khác, chứ không chỉ ba điều này. Nhưng đây được xem là ba điều căn cốt, trọng yếu nhất giúp người đi tu noi gương Thầy Chí Thánh của mình, là người đã sống trọn vẹn nó trong hành trình sứ mạng nhận lãnh từ Cha. Vào thời độc tu, người ta chẳng cần khấn hứa gì, chỉ cần rút vào sa mạc sống một mình với Chúa là đủ. Dĩ nhiên, người ta đã sống sự khó nghèo qua việc từ bỏ mọi sự, dù không thực hiện nghi thức chính thức nào. Khi lối sống cộng tu ra đời, điều làm cho một người trở thành tu sĩ là việc mặc tu phục, chứ không phải tuyên khấn. Một thời gian sau, người ta cảm thấy cần phải có lời cam kết rằng mình sẽ cố gắng phục vụ Chúa và sống tốt trong cộng đoàn. Rồi khi cộng đoàn lớn mạnh, lời khấn vâng phục ra đời như một đòi buộc tất yếu để quản trị Đan viện. Tiếp theo đó, thánh Biển Đức đòi các tu sĩ của mình phải khấn vĩnh cư và không ngừng hoán cải. Thánh Âu-tinh thì nói đến độc thân, khó nghèo và chay tịnh. Vào thế kỷ thứ 7, John Climacus nói về độc thân, khó nghèo và vâng phục. Bộ ba lời khấn khó nghèo-khiết tịnh-vâng phục ra đời lần đầu tiên vào năm 1148 trong công thức khấn của các kinh sĩ dòng Geneviene tại Paris. Thánh Phanxicô Assisi sử dụng bộ ba này trong bản sửa luật dòng đầu tiên của Ngài. Giữa thế kỷ 13, các nữ tu Clara cũng khấn ba lời khấn này. Thánh Tôma Aquinô đã gọi ba điều này là ba yếu tố căn bản của đời tu.

 

Người Kitô hữu nào cũng được mời gọi để sống đức ái và hoàn thiện bản thân mà không cần xin phép ai. Nhưng để sống trong một dòng tu và trở thành một tu sĩ thì phải được Giáo Hội chuẩn nhận. Ta có thể nói nôm na thế này: sống đời dâng hiến [ở đây muốn nói đến những người sống trong dòng tu và tuyên các lời khấn] là một cách [trong nhiều cách] bước theo Đức Kitô vác thập giá trong linh đạo của vị sáng lập để phục vụ Giáo Hội và xã hội cách hiệu quả nhất. Thật khó để diễn tả cho rõ việc tại sao một số người không hài lòng khi chỉ đơn thuần là sống đức ái và phục vụ Đức Kitô. Họ muốn “tự trói buộc” mình với Đức Kitô qua các lời khấn để thấy mình gần gũi hơn, thiết thân hơn với Ngài. Sự ràng buộc này không chỉ nằm trên bình diện lề luật, nhưng trên hết và trước hết là do sự thúc đẩy của tình yêu. Các lời khấn là gợi ý của Thánh Thần, giúp những ai có con tim bừng cháy lửa yêu dành cho Giêsu đáp lại lời mời của Ngài trong cõi lòng sâu thẳm.

 

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Bài tiếp theo: Nền tảng của ba lời khấn

 

 

ĐỜI TU VÀ THẾ TỤC

 

Đừng bao giờ cho rằng tôi không đi tu nên không cần phải sống tốt, hay tôi đi tu nên tôi thánh thiện hơn người khác. Tu đi hay không đi tu, không phải chỉ là chọn lựa xuất phát từ ý muốn cá nhân mình, nhưng...

 

 

Tư tưởng phân lằn ranh giữa đời tu và đời thế tục đã có nguồn gốc thời xa xưa, khi xã hội con người bắt đầu có xu hướng phân chia lao động. Một nhóm người có học thức được chọn để cai quản; một nhóm khác là bộ phận lo lao động để cung cấp thức ăn cho mọi người; một nhóm khác nữa có sức mạnh thể lý trở thành nhóm lo bảo vệ cộng đồng khỏi bạo lực trong nội bộ cũng như khỏi sự xâm lược của ngoại bang. Trong tất cả những nhóm này, sẽ có một số người được cho là có khả năng giao tiếp với thần linh, phụ trách những vấn đề tế tự. Họ đóng vai trò như trung gian giữa thần và người. Một cách tự nhiên, nhóm người này trở thành một phần trong bộ máy lãnh đạo, chăm lo đời sống tâm linh cho người dân. Những người khác trong cộng đoàn phải dành cho họ một chỗ đứng quan trọng và một sự tôn kính đặc biệt, bởi nếu không, sẽ chẳng có ai cầu khẩn thần linh cho mình. Các tư tế được xem là “người của thần”. Xúc phạm họ là xúc phạm đến thần. Người ta có thể làm mọi thứ, nhưng chẳng ai dám làm điều gì có lỗi với thần linh. Sự phân cực càng trở nên rõ ràng khi học thuyết nhị nguyên ra đời: phân chia giữa thân xác với linh hồn, giữa điều thiêng liêng với điều phàm tục.

 

Khi người ta đề cao đời tu thì cũng đồng thời có một thái độ “hạ thấp” dành cho đời thế tục, những người bị gán cho cái tên “sống ngoài đời”. Trong nhiều nền văn hoá, một cái nhìn phân cực dành cho ơn gọi dâng hiến và ơn gọi thế tục vẫn còn tồn tại. Khi lược lại lịch sử đời tu, chúng ta đã biết rằng sở dĩ thời xưa có nhiều người vào sa mạc để tu là vì họ muốn trốn tránh cuộc sống đời thường với nhiều bon chen phức tạp. Đối với họ, đời sống gia đình là một cái gì đó khiến cho tâm hồn họ không được thanh tịnh, không thể chuyên tâm để chiêm niệm Thiên Chúa. Cũng không quá khó để ta có thể hiểu được điều này. Người đi tu thì chỉ chăm lo chuyện thiêng liêng; họ đọc kinh, dự lễ, suốt ngày chỉ hướng đến những điều thánh thiêng, chăm lo nhà thờ nhà thánh. Trong khi những người sống cuộc sống thế tục phải làm việc, và trong khi làm việc, họ không sao tránh khỏi những lúc phải dối gian, phải lượn lẹo để kiếm đồng tiền. Bản thân người đi tu tự đề cao chính mình, và người sống đời thế tục cũng tự hạ thấp mình.

 

Thái độ này không phải là chuyện bây giờ mới có, hay chỉ tồn tại nơi những người “phàm phu tục tử” như chúng ta. Ngay từ lúc bình minh của đời dâng hiến, nhiều vị thánh cũng đã có những tư tưởng kiểu nhị nguyên này. Tác phẩm Quy luật của Tôn Sư (The Ruler of Master) cho rằng cần phải có sự phân biệt giữa người đi tu và người đời trong cách ăn mặc và nói năng: đi tu thì quý giá hơn, sống tiết độ hơn, thánh thiện hơn, tốt lành hơn và là mối lo sợ của ma quỷ; người đi tu thì làm những việc thiêng liêng còn người không đi tu thì làm những chuyện thấp hèn. Thánh Biển Đức gọi người đi tu là những người sống trung tín với Tin Mừng. Thánh Basiliô mời gọi những ai muốn đi tu thì phải từ bỏ những gì cản trở và phải xa tránh luôn cả người đời vì họ không sống gắn kết với Tin Mừng. Với thánh Giêrônimô, hôn nhân là rào cản, khiến ngài không thể toàn tâm toàn ý cho Chúa. Đức Urbano II cũng có ý tương tự khi nói rằng trong Giáo Hội có hai lối sống: một dành cho người yếu kém, một dành cho người mạnh mẽ. Cũng có một số người cho rằng hôn nhân là xấu, là hậu quả của tội. Họ chú giải Mt 19,16-22 theo hướng rằng Đức Giêsu nói đến hai bậc sống: người đi tu được xếp ở bậc hoàn thiện, còn người không đi tu (người thanh niên giàu có chỉ giữ luật mà không chịu bỏ tất cả để theo Chúa) thì chỉ được ơn cứu độ chứ không hoàn thiện.

 

Thật ra, ơn gọi dâng hiến và ơn gọi thế tục tuy khác nhau về lối sống nhưng không nên bị xếp bậc theo kiểu cái này hơn cái kia. Không có sự phân biệt gì về mức độ hoàn thiện giữa người đi tu và người đời, vì cả giáo dân và giáo sĩ đều có nghĩa vụ phải sống hoàn thiện. Luật của Tin Mừng dành cho tất cả mọi người, không trừ ai. Mọi đặc sủng trong Giáo Hội đều từ Thiên Chúa mà ra. Các ơn gọi khác nhau trong Giáo Hội thể hiện sự phong phú của Thánh Thần. Thánh Tôma Aquinô cho rằng mọi người đều phải hướng đến sự hoàn thiện, mà sự hoàn thiện hệ ở đức ái, Lời Chúa và bí tích, chứ không phải ở bậc sống. Công đồng Vatican II, trong văn kiện Lumen Gentium, cũng mời gọi các tín hữu nên hoàn thiện trong ơn gọi của mình. Tất cả đều phải cố gắng cộng tác với ơn Chúa, sống theo ý Chúa và phục vụ anh em như Đức Kitô đã làm. Bậc sống chỉ là phương tiện giúp con người hướng về Chúa. Tự bản thân nó không phải cùng đích.

 

Có thể nói, thế tục và dâng hiến là hai cách thức khác nhau thi hành ơn gọi Kitô hữu. Những người sống đời thế tục thì làm việc trong tương quan với những người khác một cách mạnh mẽ qua mối dây gia đình mà mình tạo lập hay trong môi trường lao động, nghề nghiệp. Họ cùng cộng tác với công trình tạo dựng của Thiên Chúa qua việc sinh sản và giáo dục con cái. Họ đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa qua niềm tin, cậy, mến, chu toàn bổn phận hàng ngày, phục vụ Chúa qua những hy sinh cho gia đình, đóng góp tài năng và sức lực để xây dựng xã hội cách trực tiếp nơi môi trường mình sống. Còn người sống đời dâng hiến thì xây dựng tương quan với Chúa như tiêu chí độc nhất kiến tạo đời mình. Họ chọn sống độc thân để chỉ lo việc của Chúa và say mê yêu mến Chúa bằng một con tim không chia sẻ. Họ biểu lộ giá trị Thiên Đường đang hiện diện trong thế giới này. Bằng lối sống của mình, họ là chứng nhân cho sự sống mới, tiên báo sự phục sinh trong tương lai và vinh quang Nước Thiên Chúa.

 

Trong tương quan với thế giới bên ngoài, những người sống đời thế tục có nhiệm vụ làm sinh ra những mầm sống mới, tiếp nối công cuộc tạo dựng của Đấng Tạo Hoá. Còn người sống đời dâng hiến thì biểu lộ một sự tự do, cho thấy con người không bị trói buộc bởi cấu trúc gia đình. Họ cũng đóng góp cho sự phong phú của Tạo Hoá qua việc hướng con người đến những giá trị nhân văn, và mở con người mình ra, hướng đến sự hiệp thông của đức ái Tin Mừng.

 

Bởi vậy, đừng bao giờ cho rằng tôi không đi tu nên không cần phải sống tốt, hay tôi đi tu nên tôi thánh thiện hơn người khác. Tu đi hay không đi tu, không phải chỉ là chọn lựa xuất phát từ ý muốn cá nhân mình, nhưng trên hết và trước hết, nó là một tiếng gọi từ trên cao. Tự bản thân nó không làm cho người ta tốt hơn hay xấu đi. Cả ơn gọi thế tục và ơn gọi dâng hiến đều cao quý. Sống trọn vẹn ơn gọi của mình chính là phương thức để nên thánh. Ta vẫn thấy có rất nhiều vị thánh trong Giáo Hội là những người bình dân, giản dị, những người cha, người mẹ, giáo lý viên, thanh niên thiếu nữ, trẻ em. Trên bình diện thiêng liêng, ta có thể nói thế này: chính bí tích Rửa Tội là cửa ngõ và cũng là nền tảng cho đời sống đức tin và sự nên thánh của chúng ta. Lãnh nhận bí tích Rửa Tội cũng là nhận lãnh lời mời gọi đi vào trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Nên một với Thiên Chúa là cùng đích của mọi loài thụ tạo, đời tu hay đời thế tục chỉ là phương tiện (con đường) giúp ta đạt đến cùng đích này.

 

 

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ(dongten.net)

Từ khóa:

gọi là

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 12 trong 3 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận