Thứ Ba Tuần 24 TN

Đăng lúc: Thứ ba - 16/09/2014 03:00 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
THỨ BA TUẦN 24 THƯỜNG NIÊN – Thánh Cornêliô, giáo hoàng, và thánh Cyprianô, giám mục, tử đạo. Lễ nhớ.
“Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy”.
 
* Thánh Conêliô làm giám mục giáo phận Rôma năm 251. Người đã chống lại giáo phái Novaxianô. Chưa được bao lâu, người bị hoàng đế Ganlô bắt đi đầy ở Xivitavéckia và đã qua đời ở đây (253). Người đã được thánh Síprianô kính trọng và quý mến. Chính vì thế, ngay từ thế kỷ IV, Hội Thánh Rôma đã mừng lễ thánh Conêliô trong chính hang mộ của người vào ngày lễ thánh Síprianô.
Thánh Xíprianô sinh tại Cácthagô quãng năm 210, trong một gia đình ngoại giáo. Người lãnh nhận đức tin, làm linh mục, rồi làm giám mục năm 249. Trong cuộc bách hại dưới thời hoàng đế Valêrianô, người bị lưu đày, rồi ngày14 tháng 9 năm 258, người chịu chết để làm chứng cho Chúa Kitô. Các thư từ và các tác phẩm của người viết ra cho thấy người có tâm hồn của một vị mục tử đích thực, luôn đứng ở chỗ nguy hiểm nhất để nâng đỡ các anh em đang phải chịu bách hại và để duy trì sự hiệp nhất trong Hội Thánh. Trong mọi việc, người lo nêu gương sáng về lòng trung thành với Chúa Giêsu Kitô.
 
Bài đọc (1 Cr 12, 12-14. 27-31a)
Anh em thân mến, như thân xác là một, mà có nhiều chi thể, và tất cả các chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân xác, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng, trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta chịu phép rửa để làm thành một thân xác, cho dầu Do-thái hay Hy-lạp, tự do hay nô lệ, và tất cả chúng ta cùng uống trong một Thánh Thần. Vì thân xác không chỉ gồm một chi thể, mà là nhiều chi thể.
Phần anh em, anh em là thân xác Chúa Kitô và là chi thể Người, mỗi người theo phận sự mình. Có những người Thiên Chúa đã thiết lập trong Hội thánh, trước hết là các Tông đồ, thứ đến là các tiên tri, thứ ba là các tiến sĩ. Kế đến là quyền làm phép lạ, các ơn chữa bệnh, các việc từ thiện, quản trị, nói nhiều thứ tiếng. Vậy tất cả mọi người là Tông đồ ư? Tất cả là tiên tri ư? Tất cả là tiến sĩ ư? Tất cả được ơn làm phép lạ ư? Tất cả được ơn chữa bệnh ư? Tất cả nói nhiều thứ tiếng ư? Tất cả được ơn diễn giải ư? Anh em hãy cần mẫn sao cho được những ân điển cao trọng hơn.


Tin Mừng (Lc 7, 11-17)
Khi ấy, Chúa Giêsu đến một thành gọi là Naim. Các môn đệ và đám đông dân chúng cùng đi với Người. Khi Người đến gần cửa thành, thì gặp người ta đang khiêng đi chôn người con trai duy nhất của một bà goá kia và có đám đông dân thành đi đưa xác với mẹ nó. Trông thấy bà, Chúa động lòng thương và bảo bà rằng: “Đừng khóc nữa”. Đoạn tiến lại gần, Người chạm đến quan tài và những người khiêng đứng lại. Bấy giờ Người phán: “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy”. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi Người trao lại cho mẹ nó.
Mọi người đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa rằng: “Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã thăm viếng dân Người”. Và việc này đã loan truyền danh tiếng Người trong toàn cõi Giuđêa và khắp vùng lân cận.


Thánh Corneliô, Giáo hoàng Tử đạo, và Cyprianô, Giám mục Tử đạo (qua đời năm 253)

Trống ngôi giáo hoàng 14 tháng sau khi Thánh Fabianô tử đạo vì Giáo hội bị bách hại dữ dội. Trong thời gian đó, Giáo hội được một số linh mục điều hành. Thánh Cyprianô, bạn của Thánh Corneliô, viết rằng Corneliô được bầu làm giáo hoàng “bởi phán quyết của Thiên Chúa và của Đức Kitô, bởi chứng thực của đa số giáo sĩ, bởi mọi người, với sự đồng thuận của các linh mục cao niên và các giáo dân tốt lành.
Vấn đề lớn nhất trong hai năm làm giáo hoàng của Corneliô là phải xứ lý về Bí tích Hòa giải và tập trung vào việc tái thu nhận các Kitô hữu đã bội giáo trong thời gian bị bách hại. Thánh Cyprianô, giám mục của Phi châu, kêu gọi giáo hoàng xác nhận vị thế của mình mà những người trở lại chỉ được hòa giải bằng quyết định của giám mục – ngược lại cách khoan dung của Novatus.
Tuy nhiên, tại Rôma, Thánh Corneliô có cách nhìn khác. Sau khi ngài được chọn làm giáo hoàng, một linh mục tên là Novatian (một trong những người cai điều hành Giáo hội lúc đó) đã tự phong cho mình làm giám mục của Rôma – đây là ngụy giáo hoàng đầu tiên. Ngụy giáo hoàng này phủ nhận Giáo hội có quyền hòa giải không chỉ với những người bội giáo đã trở lại, mà cả những người phạm tội giết người, tà dâm, thông dâm hoặc vợ nọ con kia. Thánh Corneliô đã nâng đỡ Giáo hội (nhất là Cyprianô của Phi châu) trong việc kết án tà thuyết Novatian, dù tà thuyết này hiện hữu suốt vài thế kỷ. Thánh Corneliô triệu tập một công nghị tại Rôma năm 251 và cho phép những người bội giáo đã trở lại được gia nhập Giáo hội qua Bí tích Hòa giải.
Tình bạn giữa Thánh Corneliô và Thánh Cyprianô bị căng thẳng một thời gian khi một trong số đối thủ của Thánh Cyprianô kết án ngài. Nhưng mọi chuyện đã được sáng tỏ. Một tài liệu của Thánh Corneliô cho thấy mức độ quy mô tổ chức trong Giáo hội Roma hồi giữa thế kỷ III: 46 linh mục, 7 phó tế, 7 phụ phó tế. Số Kitô hữu ước tính khoảng 50.000 người. Thánh Corneliô qua đời vì cực khổ trong thời gian bị đi đày ở nơi mà nay là Civitavecchia (gần Rôma).


Suy niệm 1: HÃY SỐNG LIÊN ĐỚI VÀ THƯƠNG XÓT

Đức Giêsu “chạnh lòng thương” và làm cho con trai bà góa thành Naim đã chết được sống lại. Qua phép lạ này, Đức Giêsu tiên báo về sự phục sinh mai ngày của chính Ngài, đồng thời, Ngài cũng nói lên quyền năng của mình trong vai trò là Con Thiên Chúa, và thể hiện bản chất của Thiên Chúa là Đấng hay thương xót.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:
Hãy vững tin vào Chúa, vì không có việc gì mà Chúa không làm được. Hãy học nơi Đức Giêsu bài học về lòng thương xót, để sẵn sàng ra tay cứu giúp người khác. Không bao giờ được phép vô cảm và vô tình trước nỗi khốn cùng của anh chị em.
Sự nhạy bén với nhu cầu của người khác phải là tinh thần sống động nơi tâm hồn chúng ta.
Bên cạnh đó, hình ảnh trỗi dạy của con trai bà góa cho chúng ta một bài học về sự sám hối là: trở về với Chúa thì được sống.
Hôm nay, phụng vụ mừng kính hai thánh Cornêliô Giáo Hoàng và Cyprianô Giám Mục, tử đạo.
Thánh Cornêliô sinh trưởng ở Rôma, còn Cyprianô thì sinh tại Châu Phi. Các ngài dù khác nhau về địa vị, nơi chốn, nhưng cùng gặp nhau ở một điểm chung, đó là: lòng bao dung, hay thương xót và sẵn sàng tha thứ… luôn trung thành trong đức tin, hăng say loan truyền Lời Chúa và sẵn sàng chết để bảo vệ chân lý Tin Mừng cũng như những lựa chọn chân chính của người môn đệ.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một đức tin mạnh mẽ. Một tấm lòng biết “chạnh lòng thương”. Một đôi tay biết mở ra để chia sẻ cho những người bất hạnh. Một đôi chân biết đi tới để đến những nơi cần sự hiện diện của chúng con. Amen.


Suy niệm 2: CHẠNH LÒNG NƯỚC MẮT CỦA MẸ

Khi Đức Giê-su đến gần cửa thành, thì đang lúc người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà goá…. Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa!” (Lc 7,12-13)
Suy niệm: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình”, thế nên nỗi đau của người mẹ khi đứa con yêu dấu của mình mất đi lại càng mênh mông hơn biết mấy. Đức Giê-su là Thiên Chúa Tình Yêu, sao lại không thể chạnh lòng thương xót trước nỗi đau lớn lao người mẹ làng Na-in này! Lời Chúa Giê-su nói: “Bà đừng khóc nữa” và việc Ngài cho người thanh niên sống lại, rồi “trao anh ta lại cho người mẹ” là dấu chỉ tình yêu vô biên của Thiên Chúa và hơn nữa còn tiên báo Ngài chính là Người Con duy nhất của Thiên Chúa sẽ được Chúa cho sống lại và trao cho Mẹ Giáo Hội để mãi mãi ở lại với con người chúng ta.
Mời Bạn: Chúa chạnh lòng trước tiếng khóc người mẹ đau khổ. Ngài cũng chạnh lòng thương trước những nỗi thống khổ của con người. Và Chúa còn xót thương gấp bội khi chúng ta chết về phần linh hồn vì tội lỗi của mình. Bạn đã làm gì khi rơi vào tình trạng “chết linh hồn” đó? Với những giọt lệ thống hối, cùng với tiếng khóc của Mẹ Giáo Hội, bạn hãy đến với Bí tích Hoà Giải, để nhận được ơn tha tội, để được sống lại trong ân sủng Chúa.
Chia sẻ: Điều gì làm bạn ngại đến với bí tích Hoà Giải?
Sống Lời Chúa: Thường xuyên lãnh nhận bí tích Hoà Giải thay vì dừng lại ở giới hạn “một năm ít là một lần”.
Cầu nguyện: Lạy Chúa xin cho con được đánh động bởi lòng thương xót Chúa, bởi nước mắt của mẹ Giáo Hội, để con có lòng ăn năn tội thực sự.
 
SUY NIỆM 3: Ý Nghĩa Của Cuộc Sống

Trong cuộc sống công khai, chắc chắn Chúa Giêsu đã chứng kiến nhiều cái chết cũng như tham dự nhiều đám tang. Nhưng việc Ngài làm cho kẻ chết sống lại được Tin Mừng ghi lại không quá ba lần: một em bé gái con của vị kỳ mục trong dân; Lazarô em trai của Marta và Maria; người thanh niên con của bà góa thành Naim. Cả ba trường hợp chỉ là hồi sinh, chứ không phải là phục sinh theo đúng nghĩa, bởi vì cuộc sống của những người này chỉ kéo dài được thêm một thời gian nữa, để rồi cuối cùng cũng trở về với bụi đất.
Chúa Giêsu đã không đến để làm cho con người được trường sinh bất tử ở cõi đời này, đúng hơn, Ngài đưa con người vào cuộc sống vĩnh cửu. Nhưng để đi vào cuộc sống vĩnh cửu thì điều kiện tiên quyết là con người phải kinh qua cái chết. Chết vốn là thành phần của cuộc sống và là một trong những chân lý nền tảng nhất mà Chúa Giêsu đến nhắc nhở cho con người. Mang lấy thân phận con người là chấp nhận đi vào cái chết. Chính Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi số phận ấy. Thánh Phaolô đã nói về thái độ của Chúa Giêsu đối với cái chết: "Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá". Ðón nhận cái chết và đi vào cõi chết như thế nào để cuộc sống có ý nghĩa, đó là điều Chúa Giêsu muốn bày tỏ cho con người khi đi vào cái chết.
Một trong những cái chết vô nghĩa và do đó cũng chối bỏ ý nghĩa cuộc sống, đó là tự tước đoạt sự sống của mình. Những cái chết như thế là lời tự thú rằng cuộc sống không có, cuộc sống không còn ý nghĩa và như vậy không còn đáng sống. Jean Paul Sartre, người phát ngôn của cả thế hệ không tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống, đã viết trong tác phẩm "Buồn Nôn": "Tôi nghĩ rằng chúng ta đang ngồi đây ăn uống là để bảo tồn sự quí giá của chúng ta, nhưng kỳ thực, không có gì, tuyệt đối không có lý do gì để sống cả".
Chúa Giêsu đã vâng phục cho đến chết. Ðón nhận cái chết, Ngài đã thể hiện cho chúng ta thấy thế nào là một cuộc sống sung mãn, Ngài đã chứng tỏ cho chúng ta thấy thế nào là một cuộc sống có ý nghĩa và đáng sống. Ðón nhận cái chết như ngõ đón vào vinh quang phục sinh, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy điểm đến và vinh quang đích thực, đó là sự sống vĩnh cửu. Ngài đã vâng phục cho đến chết. Vâng phục của Ngài là vâng phục trong tin tưởng, phó thác, trong khiêm tốn và yêu thương; đó là điều mang lại ý nghĩa cho cuộc sống và làm cho cuộc sống trở thành đáng sống.
Nguyện xin Chúa Kitô Phục Sinh ban cho chúng ta niềm tin, can đảm và vui tươi để biết đón nhận và sống từng giây phút hiện tại một cách sung mãn, để tham dự vào sự phục sinh vinh hiển của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
 
SUY NIỆM 4: Người cho kẻ chết sống lại

Khi Đức Giêsu đến gần cửa thành, thì người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà góa. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa!”Rồi Người lại gần sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy chỗi dậy!” (Lc. 7, 12-14)
Trong bốn Tin Mừng, chỉ một mình Thánh Lu-ca kể lại câu chuyện cho thanh niên con bà góa thành Naim sống lại.
Hôm đó, hai đoàn người gặp nhau ở gần cổng Naim: một đoàn có vị dẫn đầu là Đấng ban sự sống và một đoàn tiễn đưa người chết. Người chết là một con trai duy nhất của một bà góa. Tình trạng càng đau khổ hơn nữa cho bà mẹ góa này không còn người đàn ông nào đứng ra bảo lãnh tài sản mình trước pháp luật và bảo vệ danh dự mình trong xã hội trọng nam khinh nữ đó. Đó là lý do đau khổ cùng cực của bà khiến cho đoàn người đông đảo đã cảm thương đến tiễn đưa con bà, như bản văn lưu ý tới.
Đức Giêsu đã xúc động và cảm thương nỗi đau buồn lớn lao này. Người là con Thiên Chúa thấy rõ những khốn cực của loài người, người là con người nên càng vô cùng nhạy bén trước những nỗi bất hạnh và đau khổ của loài người. Nhiều trang Tin Mừng đã chứng tỏ cho chúng ta thấy rõ điều đó. Người dừng lại trước bà mẹ tuyệt vọng và thì thầm an ủi bà, với tấm lòng chân thành cảm thương nồng nàn qua giọng nói nghẹn ngào: “Bà đừng khóc nữa!”.
Rồi Người tiến về phía quan tài, sờ vào nó, Người kêu gọi với giọng nói lạ lùng: Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy chỗi dậy! Người chết liền chỗi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ! một sự thật vô cùng kinh ngạc! không phải chỉ xảy ra lúc này mà còn cho đến tận cùng lịch sử loài người, mãi mãi Đức Kitô còn cho người ta sống lại, mãi mãi sứ điệp sự thật về phục sinh vẫn còn tiếp tục cho loài người. Đức Kitô, nhờ sự sống lại của Người đã mặc khải một sự sống phục sinh muôn đời: Một sự sống không bao giờ phải chết nữa, một sự sống hoàn toàn mới, vượt trên mọi xác phàm trần gian.
“Đức Giêsu đã trao anh ta cho bà mẹ”, Thánh Lu-ca đã đặc biệt chú thích thêm, để nhấn mạnh đến vai trò các phụ nữ trong thế giới đã liệng bỏ phụ nữ vào bóng tối không còn đếm xỉa gì đến công lao của họ. Người ta có thể đoán rằng chính lúc đó, Đức Giêsu đã tha thiết nghĩ đến Mẹ Người biết chừng nào! quyền năng và tâm tình tế nhị cảm thương đi đôi với nhau khi các Ngài bởi Thiên Chúa đến với nhân loại.
 
Suy niệm 5:

1. Lòng thương xót
Để giúp đọc hiểu và cầu nguyện với bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay, trong một lớp giáo lý, Ma Soeur hỏi các em thiếu nhi: “Tại sao Chúa cho người con trai sống lại?” Các em trả lời: “Vì khi còn sống, người con đã sống đạo đức, ngoan ngoãn và học giỏi”!
Có lẽ, khi được hỏi, những người lớn như chúng ta cũng sẽ đưa ra một câu trả lời tương tự, dựa trên sự xứng đáng của con người trong tương quan ân sủng với Chúa: con người phải sống xứng đáng, phải giữ luật, thì Chúa mới ban an ơn; hay nói cách khác và một cách rộng hơn, ơn cứu độ là có điều kiện. Điều này đúng, nhưng không đúng hoàn toàn, hay ít nhất, không phải lúc nào cũng đúng, bởi vì ơn Chúa luôn vượt xa những nỗ lực của con người, và nhất là con người không thể, và vì thế không nên, “luật hóa” hay “công thức hóa” ơn huệ Thiên Chúa ban và nhất là ơn cứu độ (x. Dụ ngôn những người thợ làm vườn nho trong Mt 20, 1-16).
Thật vậy, bài Tin Mừng trình bày chúng ta nmột Thiên Chúa, được thể hiện nơi Đức Giê-su, với một khuôn mặt khác hẳn:
Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa”.
Chúa chạnh lòng thương trước nỗi đau của người mẹ mất người con trai duy nhất, trước mọi nỗi đau của loài người chúng ta; và Ngài chạnh lòng thương một cách nhưng không, nghĩa là không để ý đến người mẹ hay người con đã từng là gì, đã làm gì, và có xứng đáng hay không. Chưa hết, tình thương của Chúa con đi xa hơn. Chúng ta nghe lại lời của Tin Mừng:
Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa”. Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài và làm cho người con trai sống lại.
Như thế, vì thương người mẹ đang đau nỗi khổ mất con, hay đúng hơn, Chúa chạnh lòng vì tình yêu của người mẹ dành cho người con, nên Chúa cứu người con. Chứ không phải vì người con khi còn sống đã sống đạo đức, ngoan ngoãn và học giỏi.
3. Sự sống hôm nay
Đọc lại các Tin Mừng, chúng ta sẽ nghiệm ra được rằng, rất nhiều lần điều tương tự đã xẩy ra. Và đó cũng là trường hợp của hai mẹ con thánh nữ Monica và thánh Augustinô, và của vô vàn trường hợp trong đời sống của chúng ta: vì thương người mẹ, là thánh nữ Mô-ni-ca mà Chúa đã cứu người con, là thánh Âu-tinh. Như thế, Chúa cũng mến thương những người chúng ta thương mến trong Chúa. Chính vì thế, chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho nhau, cho những người còn sống cũng như những người đã qua đời.
Người con trai là người con duy nhất của người mẹ góa bụa. Đức Giêsu cũng là người con trai duy nhất của Mẹ Maria ; và về phương diện xã hội, Mẹ Maria của Ngài cũng « góa bụa » ; vì thế, Ngài thấu suốt nỗi đau của người mẹ góa bụa mất người con duy nhất.
Sau khi cho sống lại, Đức Giêsu trao người con cho người mẹ. Như thế, người con bây giờ là quà tặng thuần túy của Đức Giê-su dành cho người mẹ. Và trong tương quan gia đình, cộng đoàn hay nhóm, chúng ta cũng được mời gọi nhận ra người này là quà tặng Chúa ban cho người kia. Bởi vì, đó chính là kinh nghiệm thiêng liêng nền tảng làm nên bầu khi yêu thương, tha thứ, bao dung và hiệp nhất giữa chúng ta.
3. Sự sống mai sau
Tuy nhiên, quà tặng này vẫn là quà tặng có giới hạn, vì đến một ngày nào đó, người con cũng phải chết một lần nữa, hay người mẹ phải lìa xa người con. Vì đó là thân phận chóng qua của loài người chúng ta.
Đức Giê-su, Người Con Duy Nhất, cũng cảm thương thân phận phải chết của loài người chúng ta. Vì thế, trong cuộc Thương Khó, Người không chỉ « đụng vào quan tài » của người con đã chết, và của mỗi người chúng ta, nhưng còn để cho mình chịu đóng đinh và chịu chết trên Thập Giá, để cho thấy Người mạnh hơn  sự chết và cả sự dữ nữa, để trao ban với tình yêu đến cùng sự sống đời đời cho loài người phải chết của chúng ta,
§  để cho hai mẹ con, mà bài Tin Mừng của ngày lễ hôm nay kể lại, tìm lại được nhau và ở bên nhau mãi mãi trong sự sống muôn đời của Đức Ki-tô và Thiên Chúa Cha ;
§  và để cho tất cả những ai thương mến nhau, trong đó có hai mẹ con là thánh Mo-ni-ca và thánh Âu-tinh, và có mọi người chúng ta đang thương yêu nhau, bây giờ ở bên nhau, và sau này cũng được ở bên nhau mãi mãi, vì tình thương và lòng thương xót nhưng không và vô biên của Thiên Chúa.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
 
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

 
Tin Giáo phận