Phỏng vấn Đức Phanxicô trên chuyến bay từ Philadelphia về Roma

Đăng lúc: Thứ tư - 30/09/2015 14:36 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

Phỏng vấn Đức Phanxicô trên chuyến bay từ Philadelphia về Roma

30/09/2015
52


Vatican Insider – Andrea Tornielli – 28/9/2015

f6eeabb71f02b6661bb731191ebda639-750x486

Điều gì khiến cha ngạc nhiên về Hoa Kỳ, và những gì cha thấy khác với những gì cha từng hình dung về điểm nào? Giáo hội Hoa Kỳ đang đối diện với thách thức nào?

Đây là lần đầu tiên tôi đến đây. Tôi chưa ở đây lần nào. Tôi ngạc nhiên vì sự nồng hậu của người dân, mọi người quá thân thiện, thật là đẹp, và có đôi chút khác biệt, khi ở Washington, tôi được đón tiếp nồng hậu nhưng hình thức nghiêm trang, còn New York thì sự nồng hậu tuôn tràn và Philadelphia, thì mọi người đều tràn đầy cảm xúc. Đây là ba dạng khác nhau của sự chào đón. Tôi xúc động trước sự tốt lành và lòng hiếu khách mọi người đã dành cho tôi, và cũng xúc động bởi sự sốt mến trong các buổi phụng vụ, bạn có thể thấy mọi người cầu nguyện thế nào rồi đấy. Tạ ơn Chúa vì mọi chuyện tốt đẹp, không có khiêu khích, lăng mạ, không có chuyện gì phức tạp xảy ra. Thách thức của Giáo hội Hoa Kỳ là, chúng ta phải tiếp tục làm việc với các tín hữu như lâu nay đã làm, trong những thời điểm vui mừng cũng như khó khăn. Nếu như không làm việc, là đổ bệnh đấy. Thách thức ngày nay, cũng là thách thức mà Giáo hội luôn phải đối diện, đó là gần gũi với người dân Hoa Kỳ. Đừng xa cách, nhưng hãy gần gũi dân. Và đây là một thách thức mà Giáo hội Hoa Kỳ đang nhận thức rất rõ.

Ở Philadelphia có những thời điểm rất khó khăn liên quan đến tai tiếng xâm hại tình dục. Nhiều người ngạc nhiên khi thấy trong bài diễn văn với các giám mục ở Washington, cha đã có những lời an ủi với Giáo hội Hoa Kỳ. Cha có thấy cần phải tỏ lòng cảm thông với các giám mục không?

Ở Washington, tôi nói chuyện nhắm đến tất cả các giám mục ở Hoa Kỳ. Tôi cảm thấy cần phải bày tỏ sự cảm thông của tôi với các ngài, bởi đã có một chuyện khủng khiếp xảy ra, và nhiều người đã phải chịu đựng rất nhiều bởi họ không biết gì về chuyện đó, và khi tất cả mọi chuyện ập đến, họ phải đau khổ rất nhiều, họ là những con người của Giáo hội, con người của cầu nguyện, những mục tử đích thực. Tôi dùng một từ trong sách Khải Huyền mà nói với các ngài: Tôi biết các cha đã đi qua gian truân lớn. Những gì đã xảy ra là một cuộc gian truân thử thách. Rồi còn những từ tôi nói với những người bị xâm hại: Đây như là một sự phạm thượng! Sự xâm hại này xảy ra ở mọi nơi, trong gia đình, trong hàng xóm, ở trường học, trong phòng tập. Nhưng khi một linh mục phạm tội xâm hại này, thì đây thực sự là chuyện rất nghiêm trọng, bởi ơn gọi của linh mục là dạy dỗ cho cô bé cậu bé đó yêu mến Thiên Chúa, để các em lớn lên thành những người tốt. Nhưng người đó đã tàn phá các em bằng sự dữ này, và phản bội ơn gọi của mình, phản bội tiếng Chúa. Những người trong Giáo hội mà che đậy cho những vụ xâm hại, cũng có tội, và trong đó có cả các giám mục. Thật là khủng khiếp, và thông điệp tôi muốn nói qua những lời với các giám mục không phải là kiểu: đừng có lo, không có gì đâu. Không phải. Mà ý là: Đây là một chuyện khủng khiếp, tôi hình dung các cha đã phải khóc rất nhiều vì chuyện này.

Với giám mục Hoa KỳCha nói rất nhiều về sự tha thứ. Có nhiều linh mục không xin tha thứ khi bị đưa ra ánh sáng vụ việc xâm hại. Cha có tha thứ cho họ không. Và cha nghĩ gì về các gia đình không sẵn sàng để tha thứ cho chuyện này?

Khi một người phạm một hành động tội lỗi, họ ý thức về những gì mình đã làm, và lại không xin tha thứ. Thì tôi xin Chúa nhận lấy người đó, tôi tha thứ cho người đó, nhưng chính bản thân người đó không đón nhận sự tha thứ này bởi đang khép kín. Tất cả chúng ta có trách nhiệm tha thứ bởi tất cả chúng ta đều được tha thứ. Đón nhận sự tha thứ là một chuyện khác. Nếu một linh mục cứ khép kín, thì người đó không nhận lấy sự tha thứ, bởi đã khóa cửa linh hồn mình từ bên trong. Tât cả những gì chúng ta có thể làm là xin Thiên Chúa mở cánh cửa đó ra. Không phải ai cũng có thể đón nhận sự tha thứ, cũng không phải tất cả đều biết cách đón nhận hay sẵn sàng đón nhận. Điều này giải thích lý do vì sao người ta chấm hết cuộc đời trong đường sự dữ và không thể cảm nhận sự ân cần âu yếm của Thiên Chúa.

Tôi hiểu việc các gia đình không thể tha thứ cho chuyện này. Tôi cầu nguyện cho họ, tôi không phán xét ho. Tôi hiểu họ. Có một bà từng nói với toi rằng, khi mẹ con nhận ra là con bị xâm hại, mẹ nguyền rủa Thiên Chúa, mẹ mất đức tin và trở thành người vô thần. Tôi hiểu bà ấy. Và Thiên Chúa, Đấng tốt lành tột bậc, hiểu bà ấy. Tôi chắc rằng Thiên Chúa đã nhận lấy bà này, bởi chính máu thịt của bà, thân xác của con gái bà bị xâm hại. Tôi không phán xét những ai không thể tha thứ. Nhưng Thiên Chúa, Ngài là Đấng giỏi nhất trong việc tìm ra cách để tha thứ.

Chúng ta nghe nhiều về chuyện tiến trình hòa bình cho Colombia. Bây giờ, đã có một thỏa ước lịch sử giữa chính phủ Colombia và phiến quân FARC. Cha có thấy mình có phần trong thỏa ước này hay không?

Khi tôi nghe tin rằng vào tháng 3, hòa ước sẽ được ký, tôi nói với Chúa, ‘Lạy Chúa, xin giúp chúng con sớm đến tháng 3.’  Thiện chí này đến từ hai bên. Chính ở đó, ngay cả trong một nhóm nhỏ, mọi người đồng thuận với nhau. Chúng ta phải đạt được tháng 3 này, phải đạt được hòa ước chắc chắn cuối cùng, là điểm biểu lộ công lý quốc tế. Tôi rất hạnh phúc và tôi cảm thấy như mình có phần trong đó, bởi tôi luôn ước muốn có việc này. Tôi đã nói với tổng thống Santos (của Colombia) hai lần về vấn đề này, và không chỉ tôi, mà cả Tòa Thánh cũng hướng về việc này. Tòa Thánh, chứ không chỉ riêng tôi, luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ và làm những gì có thể.

Cha cảm thấy thế nào khi máy bay cất cánh khỏi đất nước mà cha vừa viếng thăm?

Nói thật lòng, khi máy bay cất cánh sau chuyến viếng thăm, tôi thấy nhiều gương mặt lướt qua trước mắt mình, và tôi cảm thấy thúc giục phải cầu nguyện cho họ và nói với Chúa rằng: ‘Lạy Chúa, con đến đây để làm vài việc, để làm tốt, có lẽ con đã làm chuyện gì đó sai, xin Chúa tha thứ cho con, nhưng xin bảo vệ tất cả những người đã gặp con, những người suy nghĩ về những gì con nói, những người lắng nghe con, ngay cả những người chỉ trích con.’

Con muốn hỏi cha về cuộc khủng hoảng nhập cư ở châu Âu: nhiều nước đang lắp đặt hàng rào kẽm gai nơi đường biên giới. Cha phải nói gì về việc này?

Bạn vừa nhắc đến từ ‘khủng hoảng.’ Chuyện này đã trở thành tình trạng khủng hoảng sau một quá trình kéo dài. Trong nhiều năm, quá trình này đã bùng phát, bởi chiến tranh mà những người này phải bỏ nhà chạy trốn, và đây là những cuộc chiến đã dấy lên trong nhiều năm. Nạn đói. Và là nạn đói trong nhiều năm. Khi tôi nghĩ về châu Phi, có lẽ hơi chút đơn giản hóa, tôi nghĩ đây như là ‘châu lục bị bóc lột.’ Đây là nơi người ta từng đến để bắt nô lệ, rồi lại đến để chiếm tài nguyên, và bây giờ là chiến tranh, vì lý do bộ lạc hay lý do khác. Nhưng những chuyện này xảy ra vì lợi ích kinh tế ẩn đàng sau. Và tôi nghĩ rằng, thay vì bóc lột một châu lục, hay một quốc gia, hãy nên đầu tư để người dân ở đó có công ăn việc làm. Làm được như thế sẽ tránh được cuộc khủng hoảng này.

Bạn hỏi tôi về các hàng rào chắn. Bạn biết chuyện gì xảy ra cho mọi bức tường không. Tất cả. Tất cả bức tường đều sụp đổ. Hôm nay, ngày mai, hay 100 năm nữa, chúng sẽ sụp đổ. Đây không phải là một giải pháp. Các bức tường không phải là một giải pháp. Ngay lúc này, châu Âu đang thấy mình lâm vào một hoàn cảnh khó khăn, thật sự là như vậy. Chúng ta phải thông minh. Tìm giải pháp không phải là chuyện dễ. Nhưng đối thoại giữa các quốc gia có thể dẫn đến giải pháp. Các bức tường không bao giờ là một giải pháp. Nhưng cầu nối thì có, và luôn luôn là vậy. Những gì tôi nghĩ là, các bức tường tồn tại được một thời gian ngắn hay dài, nhưng chúng không phải là giải pháp. Vấn đề vẫn cứ còn đó, và thậm chí giải quyết kiểu như thế chỉ gây thêm lòng oán ghét mà thôi.

Đức Phanxicô gặp gia đình Catire và Noel Walker và các con, từ trái, Cala, Dimas, Mia và Carmin) ngày chúa nhật tại Đại chủng viện San Carlos Borromeom, Philadelphia. 3Về Hội đồng, chúng con muốn biết liệu trong tấm lòng mục tử, cha có thực sự muốn một giải pháp cho vấn đề li dị rồi tái hôn. Và liệu tự sắc của cha về việc thúc đẩy nhanh tiến trình tiêu hôn đã khép lại thảo luận này hay chưa. Cuối cùng, cha phản ứng thế nào với những người lo sợ rằng với sự cải cách này, sẽ tạo nên, một cách không chính thức, cái gọi là ‘li hôn của Công giáo’?

Với việc cải cách thủ tục tiêu hôn, tôi khép lại cánh cửa cho con đường hành chính, con đường mà việc li hôn có thể len lỏi vào. Những ai nghĩ rằng điều này tương đồng với ‘li hôn của Công giáo’, thì họ đã lầm, bởi văn kiện mới nhất này đã khép lại cánh cửa mà việc li hôn có thể len vào. Việc li hôn sẽ dễ hơn nhiều nếu theo lộ trình hành chính. Sẽ luôn luôn có lộ trình tòa án. Đa số các nghị phụ trong Hội đồng năm ngoái, đã kêu gọi tổ chức lại tiến trình này, bởi có những trường hợp phán xử đến 10 năm hoặc hơn. Có một phán quyết, rồi lại phán quyết khác, và sau đó là xin phúc thẩm, và lại phúc thẩm khác. Nó cứ triền miên không bao giờ dứt. Phán quyết đôi được đưa vào từ thời Đức Lambertini, Bênêđictô XIV, bởi ở Trung Âu, có một vài sự vi phạm, và ngài đưa điểm này vào để chặn đứng các vi phạm đó, nhưng đây không phải là một sự nhất thiết phải có. Thủ tục thay đổi, luật học thay đổi, trở nên tốt hơn. Tự sắc của tôi làm thuận tiện hóa cho tiến trình này, và cả về thời gian nữa, nhưng đây không phải là li hôn, bởi hôn nhân là bất khả phân ly khi được cử hành theo bí tích. Và Giáo hội không thể thay đổi điều này. Đây là giáo lý. Đây là bí tích bất khả phân ly.

Tòa án pháp lý là để chứng minh rằng, những gì có vẻ là bí tích lại không phải là bí tích, bởi thiếu sự tự do chẳng hạn, hay thiếu sự chính chắn, hay vì chứng bệnh thần kinh, hay vì rất nhiều lý do khác dẫn đến việc tiêu hôn, sau một cuộc nghiên cứu, một cuộc điều tra. Và kết luận là đó không phải là bí tích. Ví dụ như, khi người đó không tự do.  Một ví dụ khác, dù bây giờ không phổ biến lắm, đó là ở một vài nơi, ít nhất là ở Buenos Aires, có những cuộc hôn nhân vì người phụ nữ lỡ mang thai, ‘con phải cưới thôi.’ Tôi kiên quyết khuyên các linh mục của tôi, và gần như ngăn cấm các cha, không được cử hành các lễ cưới thuộc tình trạng này. Chúng ta gọi đây là ‘cưới chạy.’ Họ cưới để giữ thể diện. Rồi đứa trẻ được sinh ra, và một số thì sống tốt với nhau, nhưng khi cưới, thì không có sự tự do. Nhiều người khác thì cuộc hôn nhân ngày càng tệ hơn, họ li thân và nói rằng: ‘Tôi bị buộc phải cưới, bởi vì chúng ta phải che đậy tình trạng này’ và như thế, đây là một lý do để tiêu hôn.

Còn về vấn đề cuộc hôn nhân thứ hai, nghĩa là những người li hôn, rồi có cuộc hôn nhân mới, thì hãy đọc Văn kiện Làm việc của Hội đồng. Với tôi, có vẻ hơi đơn giản hóa khi nói rằng giải pháp cho những người này là việc có thể cho họ được rước lễ. Nhưng, những người li dị rồi tái hôn không phải là vấn đề duy nhất, còn có vấn đề của các cặp tân hôn và những người trẻ không muốn lập gia đình. Một vấn đề khác nữa là sự chính chắn cảm xúc để kết hôn, là đức tin: ‘Liệu tôi có tin hôn nhân là vĩnh viễn hay không?’ Để làm linh mục, cần có 8 năm chuẩn bị, nhưng để kết ước cả đời với ai đó qua hôn phối, thì tất cả những gì cần chuẩn bị lại chỉ là 4 khóa học tiền hôn nhân. Nghĩ về cách nào để chuẩn bị cho hôn nhân, thật là chuyện khó khăn.

Nhưng ‘li hôn của Công giáo’ là chuyện không tồn tại. Tiêu hôn thì được, bởi sự liên kết đó chưa bao giờ tồn tại. Nhưng nếu có tồn tại, thì cuộc hôn nhân đó là bất khả phân ly.

Tiểu muội của Người nghèoChúng con biết là cha đã đến thăm các Tiểu muội của Người nghèo, và chúng con cũng được nghe là cha muốn thể hiện sự nâng đỡ của mình cho trường hợp đi kiện của các xơ. Thưa Đức Thánh Cha, cha có ủng hộ các viên chức nhà nước, những người nói rằng họ không đúng lương tâm khi ký hôn thú cho những cặp đồng tính?

Tôi không nhắc lại mọi trường hợp cụ thể của việc cự tuyệt do bởi lương tâm. Nhưng những gì tôi có thể nói, cự tuyệt vì lương tâm là một quyền con người. Và nếu một người không cho phép người khác được cự tuyệt vì lương tâm, thì đó chính là bác bỏ quyền của họ. Cự tuyệt vì lương tâm phải có trong mọi cơ cấu pháp chế, bởi đây là quyền con người. Nếu không, chúng ta sẽ rơi vào tình trạng là chúng ta tự mình quyết định xem quyền là thế nào, kiểu như, ‘quyền này có giá trị, quyền kia thì không.’ Khi còn nhỏ, tôi luôn xúc động khi đọc Hùng ca Roland, trong đó có đoạn những người Hồi giáo xếp hàng dài trước bình nước rửa tội hay thanh gươm đoạt mạng. Và họ phải chọn. Cự tuyệt vì lương tâm không phải là việc được cho phép hay không. Mà đây là quyền, và nếu chúng ta muốn xây dựng hòa bình, thì phải tôn trọng mọi quyền.

Tại Liên hiệp quốc, cha đã dùng một lối nói rất mạnh để lên án sự im lặng của thế giới trước nạn bách hại các Kitô hữu. Tổng thống Hollande đã bắt đầu cho ném bom quân ISIS ở Syria. Quan điểm của cha về việc này như thế nào?

Tôi có nghe chuyện này cách đây vài ngày, và tôi không hoàn toàn theo kịp tình hình hiện thời. Khi tôi nghe về những từ như ném bom, chết chóc, máu me, thì tôi xin lặp lại những gì đã nói trước Lưỡng viện và Liên hiệp quốc, đó là chúng ta phải tránh những điều này. Nhưng tôi không thể phán xét tình hình chính trị, bởi tôi không biết đủ về chuyện này.

Ignazio Marino, thị trưởng Roma, thành phố của Năm Toàn xá, nói rằng ông đến Đại hội Gia đình Thế giới vì cha đã mời ông …

Tôi không mời thị trưởng Marino, rõ ràng chứ? Và tôi cũng không bảo các nhà tổ chức mời ông. Ông đã tuyên xưng mình là người Công giáo, ông đến theo ý muốn của ông.

Con muốn hỏi cha một câu về mối quan hệ giữa Tòa Thánh và Trung Quốc, cũng như về tình hình nước này, vốn khá là khó khăn cho Giáo hội Công giáo. Quan điểm của cha về việc này như thế nào?

Trung Quốc là một nước lớn, đem lại cho thế giới một nền văn hóa vĩ đại, và quá nhiều điều tốt đẹp. Tôi từng nói trên chuyến bay ngang qua Trung Quốc, trên đường về từ Hàn Quốc, rằng tôi rất thích đến Trung Quốc. Tôi yêu người dân Trung Quốc, và tôi hi vọng sẽ có khả năng thiết lập quan hệ tốt đẹp. Chúng tôi đang liên lạc, nói chuyện, tiến tới. Nhưng với tôi, viếng thăm một đất nước thân thiện như Trung Quốc, với văn hóa phong phú và quá nhiều cơ hội là việc tốt, sẽ là một niềm vui.

Những lời của cha nói về các nữ tu ở Hoa Kỳ thật đánh động. Một số đang yêu cầu phong linh mục cho nữ giới. Chúng ta sẽ thấy các nữ linh mục trong Giáo hội Công giáo như trong các Giáo hội Kitô giáo khác chứ?

Các xơ ở Hoa Kỳ đã làm những điều tuyệt vời trong lĩnh vực giáo dục và y tế. Người dân Hoa Kỳ yêu mến các xơ, tôi không biết họ mến các linh mục đến đâu nữa (cười) nhưng họ mến các xơ, họ yêu các xơ rất nhiều. Các xơ là những người tuyệt vời, rất rất, tuyệt vời. Đó là lý do vì sao tôi thấy phải cảm ơn những gì các xơ đã làm. Một nhân vật quan trọng trong chính phủ Hoa Kỳ đã nói với tôi cách đây vài ngày rằng: ‘Sự giáo dục tôi có được, là đều nhờ các xơ.’ Các xơ có những trường học ở mọi nơi, dù là khu giàu hay nghèo. Họ làm việc với người nghèo và trong bệnh viện.

Về vấn đề linh mục nữ giới, chuyện này là không thể được. Thánh Gioan Phaolô II đã nói rất rõ ràng. Không phải bởi phụ nữ không có năng lực. Trong Giáo hội, phụ nữ quan trọng hơn đàn ông, bởi giáo hội là một người nữ: Trong tiếng Ý, Giáo hội là “la chiesa”, chứ không phải “il chiesa”. Giáo hội là tân nương của Chúa Giêsu Kitô. Và Đức Mẹ thì quan trọng hơn các giáo hoàng, giám mục và linh mục. Tôi phải thừa nhận rằng chúng ta hơi chậm trễ trong việc soạn một thần học về nữ giới. Chúng ta phải tiến tới về thần học này. Đúng thật là thế.

Chuyến công du Hoa Kỳ của cha là một thành công. Cha có cảm thấy mình quyền lực hơn sau tất cả những đám đông quây quần bên cha hay không?

Tôi không biết liệu tôi có thành công hay không. Nhưng tôi lo cho mình, bởi nếu tôi lo lắng về bản thân mình thì tôi luôn luôn ít cảm thấy lo về chuyện mình thiếu quyền lực. Quyền lực là thứ phù du, đến hôm nay, và ra đi ngày mai. Nó quan trọng nếu như bạn có thể làm việc tốt với quyền lực trong tay. Và Chúa Giêsu đã định nghĩa quyền lực là gì, quyền lực đích thực là phục vụ, phục vụ cách khiêm nhượng nhất. Và tôi vẫn phải tiến thêm trên con đường phục vụ, bởi tôi cảm giác rằng tôi đang không làm mọi sự mà tôi có thể làm.

Đức Thánh Cha, cha đã thành một ngôi sao ở Hoa Kỳ. Có tốt cho Giáo hội không khi Giáo hoàng trở thành một ngôi sao?

Bạn có biết tước hiệu của giáo hoàng là gì không? Là Nô bộc của mọi nô bộc của Chúa. Điều này hơi khác với một ngôi sao. Ngôi sao thì đẹp để chúng ta ngắm nhìn. Tôi thích ngắm sao vào mùa hè khi bầu trời quang đãng. Nhưng giáo hoàng phải là nô bộc của mọi nô bộc của Chúa. Và còn một sự thật nữa là. Chúng ta đã thấy biết bao nhiêu ngôi sao rơi rụng. Đây là chuyện phù du thôi. Nhưng là nô bộc của mọi nô bộc của Thiên Chúa thì không phải là chuyện thoáng qua.

 

20150927cnsnw0703_800-800x500J.B. Thái Hòa chuyển dịch

 

Các sinh hoạt của ĐTC tại Philadelphia chiều thứ bẩy và sáng Chúa Nhật

Tác giả: 
 Linh Tiến Khải
 
 

Tường thuật các sinh hoạt của ĐTC Phanxicô tại Philadelphia chiều thứ 7 và sáng Chúa Nhật

 

Sáng Chúa Nhật hôm qua là ngày cuối cùng chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của ĐTC Phanxicô. Ban sáng sau khi gặp các Giám Mục khách của cuộc gặp gỡ quốc tế các gia đình, ngài đến thăm trung tâm cải huấn Curran-Fromholf Philadelphia. Vào ban chiều ĐTC chủ sự thánh lễ bế mạc đại hội quốc tế các gia đình lần thứ 8, chào uỷ ban tổ chức, các thiện nguyện viên và các ân nhân, rồi ra phi trường lấy máy bay về Roma.

 

Sâu đây xin quý vị cùng chúng tôi theo dõi các sinh hoạt của ĐTC chiều thứ bẩy và sáng Chúa Nhật tại Philadelphia.

 

Lúc 3 giờ 15 phút chiều ĐTC đã từ đại chủng viện thánh Carlo Borromeo đi xe tới Công viên lịch sử độc lập quốc gia để gặp gỡ cộng đoàn nói tiếng Tây Ban Nha và các người di cư khác.

 

Công viên lịch sử độc lập quốc gia rộng 22 hecta nằm bên trong thành phố Philadelphia và có nhiều đài kỷ niệm và dinh thự liên quan tới cuộc chiến tranh giành độc lập 1763-1783.

 

Hai đài kỷ niệm chính là Independence Hall và Liberty Bell Center. Independence Hall là dinh thự xây năm 1753, nơi đã diễn ra các cuộc thảo luận của Quốc hội lập hiến và công bố Tuyên ngôn độc lập ngày mùng 4 tháng 7 năm 1776 cũng như Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787. Dinh thự này nằm trong danh sách Gia tài nhân loại của UNESCO. Liberty Bell “Qủa chuông hòa bình” là một trong các biểu tượng của nền Độc Lập Hoa Kỳ. Chuông được đúc tại Luân Đôn năm 1752 với hàng chữ. “Hãy công bố năm ân xá cho mọi người sống trong xứ” (Lv 25.10) và được đặt tại Toà

 

 Nhà Quốc Gia Philadelphia, hồi đó là thủ đô tạm của Hoa Kỳ. Chuông được đánh lên để tụ họp các nhà làm luật vào đầu các phiên họp quốc hội, và để quy tụ dân chúng trong các cuộc hội họp công cộng. Sau khi được đúc lại chuông được các hiệp hội tranh đấu cho quyền bầu cử của nữ giới dùng, và trong thời chiến tranh lạnh hồi thập niên 1960 trở thành nơi tụ họp của các phong trào chủ hòa. Chuông cũng đã được đem đi triển lãm tại nhiều nơi trên thế giới, và năm 2003 được để trong trung tâm xây cất cho mục đích này.

 

Xe díp chở ĐTC đã đi một vòng để ngài chào dân chúng. Hai Tổng Giám Mục Gomez và Miller cùng với 5 đại diện cuộc gặp gỡ đã giới thiệu lên ĐTC sách Thánh Kinh Công Giáo cho gia đình và cho giới trẻ và Thánh Giá cuộc gặp gỡ để ngài làm phép. Chúng sẽ thánh du trong mọi tiểu bang Hoa Kỳ để chuẩn bị cho các đại hội gia đình trên bình diện quốc gia của cộng đoàn nói tiếng Tây Ban Nha. Các cuộc gặp gỡ này đã được HĐGM Hoa Kỳ khởi xướng hồi năm 1972 để khích lệ các cộng đoàn nói tiếng Tây Ban Nha trở thành các tác nhân trong cuộc sống của Giáo Hội Hoa Kỳ. Sau các đại hội năm 1977 và 1985, đại hội lần thứ 4 năm 2000 đã đem lại các kết quả tốt đẹp, vi thế nó được trải rộng kinh nghiệm ra cho các sắc dân và các nền văn hóa khác. Đại hội lần thứ 5 sẽ được triệu tập vào năm 2017.

 

Các truyền thống tôn giáo phục vụ xã hội qua sứ điệp chúng loan báo

 

Ngỏ lời với mọi người trong buổi gặp gỡ với đề tài “Tự do tôn giáo” ĐTC nói:

 

Các bạn thân mến, một trong các cao điểm chuyến viếng thăm của tôi là tại đây, trước Independence Mall, là nơi sinh ra Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ. Chính tại nơi đây các quyền tự do xác định đất nước này đã được công bố lần đầu tiên. Tuyên ngôn độc lập đã khẳng định rằng tất cả mọi người nam nữ đều đã được dựng nên bình đẳng, được Đấng Tạo Hóa ban cho vài quyền bất khả nhượng,  và các chính quyền hiện hữu để che chở và bảo vệ các quyền bất khả nhượng đó. Các lời rúng động này tiếp tục gợi hứng cho chúng ta ngày nay cũng như chúng đã gợi hứng cho các dân tộc khác trên toàn thế giới với mục đích chiến đấu cho quyền tự do sống phù hợp với phẩm giá của họ.

 

Nhưng lịch sử cũng cho thấy rằng, cũng giống như mọi chân lý, nó cần được liên lỉ tái khẳng định, biến thành của riêng và bảo vệ. Lịch sử của quốc gia này cũng là lịch sử của một nỗ lực liên lỉ cho tới nay để hình thành các nguyên tắc cao cả ấy trong cuộc sống xã hội và chính trị. Chúng ta hãy nhớ tới các cuộc chiến đấu lớn đưa tới chỗ huỷ bỏ chế độ nô lệ, trải dài các quyền bỏ phiếu, làm cho phong trào công nhân lớn lên, cố gắng từ từ để loại bỏ mọi hình thức kỳ thị chủng tộc và thành kiến chống lại các làn sóng di cư mới Điều này chứng minh cho thấy, khi một quốc gia cương quyết  trung thành với các nguyên tắc thành lập, dựa trên việc tôn trọng phẩm giá con người, thì trở nên mạnh mẽ hơn và được canh tân.

 

ĐTC nói thêm trong diễn văn: Nhớ lại qúa khứ đem lại ích lợi cho cuộc sống. Một dân tộc có ký ức, thì không lập lại các sai lầm quá khứ, trái lại tin tưởng nhìn các thách đố của hiện tại và tương lai. Ký ức cứu linh hồn của một dân tộc khỏi tất cả những gì hay những ai có thể mưu toan thống trị nó hay sử dụng nó cho các lợi lộc riêng tư. Khi việc thực thi đích thực các quyền liên hệ được bảo đảm cho các cá nhân và các cộng đoàn, thì họ không chỉ tự do thực hiện các tiềm năng riêng, mà cũng còn góp phần vào hạnh phúc và sự phong phủ của xã hội nữa.

 

Tại nơi biểu tượng này, tôi muốn suy tư về quyền tự do tôn giáo, là một quyền nền tảng nhào nặn kiểu  chúng ta tác động giữa nhau một cách xã hội và cá nhân, với các ngưởi sống gần chúng ta nhưng có các quan điểm tôn giáo khác chúng ta. Rồi ĐTC quảng diễn quyền tự do tôn giáo như sau:

 

Tự do tôn giáo chắc chắn bao gồm quyền thờ phượng Thiên Chúa một cách cá nhân và cộng đồng, như lương tâm nói với chúng ta. Nhưng tự bản chất của nó,  tự do tôn giáo vượt trên các nơi thờ tự cũng như vượt trên lãnh vực cá nhân và gia đình.

 

Các truyền thống tôn giáo phục vụ xã hội qua sứ điệp chúng loan báo. Chúng mời gọi các cá nhân và các cộng đoàn thờ phượng Thiên Chúa, là nguồn mọi sự sống, sự tự do và lòng tốt. Chúng nhắc nhớ chiều kích siêu việt của cuộc sống con người và sự tự do không thể giản lược trước mọi  yêu sách quyền bính tuyệt đối. Chỉ cần nhìn lại lịch sử của thế kỷ vửa qua để thấy các tàn bạo vi phạm bởi các chế độ, yêu sách xây dựng thiên đàng dưới  thế này, thiên dàng dưới thế kia, bằng cách thống trị các dân tộc, bắt họ phục tùng các nguyên tắc xem ra không thể tranh luận được,  và bằng cách khước từ mọi loại quyền lợi đối với họ. Các truyền thống tôn giáo phong phú của chúng ta tìm cống hiến ý nghĩa và định hướng. “Chúng có một sức mạnh động viên luôn mở rộng ra các chân trời mới, kích thích tư tưởng, mở rộng tâm trí và sự nhậy cảm” (Evangelii gaudium, 256). Chúng mời gọi hoán cải, hoà giải, dấn thân cho tương lai của xã hội, hy sinh chính mình để phục vụ công ích, cảm thương những người thiếu thốn, Ở trọng tâm sứ mệnh tinh thần của chúng có việc công bố chân lý và nhân phẩm cũng như các quyền con người.

 

ĐTC khẳng định thêm rằng : Các truyền thống tôn giáo của chúng ta nhắc nhớ chúng ta rằng,  như là các bản vị con người, chúng ta được mời gọi nhận biết Đấng Khác, là Đấng mạc khải cho chúng ta biết căn tính tương quan trước mọi mưu toan thiết lập một sự đồng nhất, mà tính ích kỷ của kẻ mạnh, hay chủ trương thích nghi của kẻ yếu, hoặc ý thức hệ của kẻ ảo tưởng có thế tìm áp đặt trên chúng ta.

 

Các tôn giáo phải hợp tiếng bênh vực và bảo vệ hòa bình, phẩm giá và các quyền con người

 

Trong một thế giới, trong đó các hình thức  chuyên chế khác nhau tìm hủy bỏ quyền tự do tôn giáo hay tìm giảm thiểu nó thành một loại văn hóa hạng thấp không có quyền biểu lộ nơi công cộng, hay tìm sử dụng tôn giáo như cớ cho thù hận và tàn bạo, thì tín hữu của các tôn giáo khác nhau có bổn phận phải hợp tiếng với nhau để khẩn cầu hoà bình, khoan nhượng, tôn trọng phẩm giá và các quyền của người khác.

 

Chúng ta đang sống trong một thế giới nằm dưới sự toàn cầu hoá của mô thức kỹ thuật cai trị,  cố ý đồng nhất hoá một chiều con người và tìm loại trừ các khác biệt và các truyền thống, biến chúng thành việc tìm một sự hiệp nhất hời hợt. Vì thế các tôn giáo có quyền và có bổn phận giúp hiểu rẳng  có thể xây dựng một xã hội, trong đó có một chế độ đa nguyên lành mạnh, thật sự tôn trọng người khác và các giá trị như chúng là.

 

ĐTC ca ngợi các người Quakers đã thành lập thành phố Philadelphia lấy hứng từ Tin Mừng liên quan tới phẩm giá con người và lý tưởng của một cộng đoàn hiệp nhất bởi tình yêu thương huynh đệ. Xác tín đó đã dẫn đưa họ tới chỗ thành lập một cộng đoàn thiên dàng của tự do tôn giáo và khoan nhượng, dấn thấn huynh đệ cho phẩm giá của mọi người, đặc biệt các người yếu đuối và dễ bị tổn thưong nhất. Và tinh thần đó đã trở thành tinh thân nóng cốt của Hoa Kỳ. ĐTC đã nhắc lại lời thánh Gioan Phaolô II đã nói trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ năm 1987: “Bằng chứng định đoạt sự cao cả của anh chị em là kiểu anh chị em tôn trọng mọi bản vị con người, đặc biệt của những người yếu đuối và không được bênh đỡ nhất” (Diễn văn từ biệt tại phi trường Detroit, 19-9-1987,3)

 

ĐTC đã nhân dịp này cám ơn tín hữu mọi tôn giáo tìm phục vụ Thiên Chúa của hoà bình, xây dựng tình huynh đệ và trợ giúp người thiếu thốn, bênh vực phẩm gía sự sống trong mọi giai đoạn, bênh vực người nghèo và người di cư. Anh chị em là tiếng nói của họ, và nhiều người trong anh chị em một cách trung thực đã cho phép tiếng kêu của họ được lắng nghe. Với chứng tá thường gặp phải kháng cự mạnh mẽ này, anh chị em nhắc cho nền dân chủ Mỹ nhớ tới các lý tưởng, vì thế  nó đã được thành lập, và nhớ rằng xã hội bị suy yếu đi mỗi lần và ở bất cứ đâu bất công thắng thế.

 

ĐTC đã đặc biệt khích lệ các anh chị em di cư nói tiếng Tây Ban Nha can đảm đương dầu với các khó khăn, và đừng quên rằng họ cũng có nhiều điều hay đẹp để đóng góp cho Hoa Kỳ là quốc gia mới của họ, giống như những thế hệ đi trước họ đã làm. Ngài xin họ  đừng xấu hổ vì các truyền thống cao quý, căn tính và dòng máu của họ. Trái lại, cần sống như những công dân có tinh thần trách nhiệm góp phần xây dựng cuộc sống của các cộng đoàn một cách phong phú, nhất là đóng góp đức tin sống động mạnh mẽ và giúp canh tân xã hội.

 

Sau khi đọc kinh Lậy Cha và ban phép lành cho mọi người ĐTC đã đi xe về đại chủng viện thánh Carlo Borromeo cách đó 10 cây số để nghỉ ngơi trước khi đến Franklin Parkway để chủ sự buổi canh thức cho các gia đình.

 

Đại chủng viện thánh Carlo Borromeo được ĐC Francis Kenrick, vị Giám Mục thứ ba của giáo phận Philadelphia cho xây năm 1832. Từ hơn 180 năm nay đại chủng viện đã đào tạo hàng ngàn linh mục của nhiều giáo phận. Các chương trình đào tạo hiện nay bao gồm cả môn mục vụ cho các linh mục, phó tế, nam nữ tu sĩ và giáo dân

 

Xe chở ĐTC đã tới Benjamin Franklin Parkway lúc sau 7 giờ chiều giờ Philadelphia. Tại đây ĐTC đã lên xe díp để chào tín hữu tụ tập dọc đại lộ mang tên Benjamin Franklin là một trong những người cha thành lập Hoa Kỳ. Ông là người sinh trưởng tại Philadelphia, văn sĩ, nhà vật lý nghĩ ra cột thu lôi và kính hai tròng, chuyên viên chính trị và là chính trị gia dấn thân. Ông đã là thống đốc tiểu bang Pensylvania và là người đã phóng thích các nô lệ của mình. Hình của ông được in trên tờ 100 mỹ kim và có nhiều thành phố, học viện văn hóa và cả tầu chiến cũng mang tên ông.

 

Cuộc gặp gỡ quốc tế các gia đình đã do thánh Gioan Phaolô II thành lập ngày mùng 9 tháng 5 năm 1981. Đại hội này do Hội Đồng Toà Thánh về Gia Đình tổ chức ba năm một lần tại nhiều nơi trên thế giới: lần thứ nhất tại Roma năm 1994, lần thứ hai tại Rio de Janeiro năm 1997, lần thứ ba tại Roma năm 2000, lần thứ tư tại Manila năm 2003, lần thứ năm tại Valencia năm 2006, lần thứ sáu tại thành Phố Mêxicô năm 2009, lần thứ bẩy tại Milano năm 2012. Đã có 1 triệu người tham dự thánh lễ bế mạc đại hội tại Milano do ĐTC Biển Đức XVI chủ sự tại phi trường Brescia.

 

 Đại hội quốc tế các gia đình lần thứ tám đã diễn ra tại Philadelphia trong các ngày 22-25 và có khẩu hiệu là “Tình yêu là sứ mệnh của chúng ta: gia đình sống động tràn đầy”. Mỗi ngày đều có thánh lễ, các buổi thuyết trình và các buổi học giáo lý do nhiều Hồng Y và Giám Mục cũng như các chuyên viên đảm trách. Đồng thời cũng có các chứng từ và nhiều sinh hoạt khác cho nhiều lứa tuổi khác nhau.

 

Buổi canh thức đã là một lễ hội gia đình với ca nhạc, mầu sắc, vũ điệu và các chứng tử. Hơi ấm, tình yêu và niềm vui của các gia đình toàn thế giới đã được phản ánh trong sự xúc dộng và nụ cuời của ĐTC lắng nghe các chứng từ  cuộc sống của nhiều người. Chị Amy Wall được khỏi bệnh điếc nhờ lời bầu cử của thánh nữ Catarina Mary Drexel; các nỗi sợ hãi và và lời hứa trong các lời nói xúc động của Camillus và Kelly sẽ cưới nhau vào tháng 11 tới đây; Mario và Rosa người Argentina trái lại vừa mới mừng lễ Ngọc 60 năm lấy nhau. Gianna Emanuela Molla con gái của thánh Gianna Beretta Molla cũng hiện diện. Thế rồi còn có ông Herb Lusk cầu thủ bóng đá đầu tiên của Hoa Kỳ. Trong các hoạt cảnh cũng có các nốt nhạc của Aretha Franklin. Rồi còn có biết bao chứng từ niềm vui, các khó khăn và tái sinh từ Ucraina cho tới Nigeria, từ Hoa Kỳ cho tới Giordania.

 

Thiên Chúa dã gửi Con Ngài đến sống trong một gia đình. Ngài  thích gõ cửa các gia đình và đồng hành với các gia đình

 

Lên tiếng nói buông sau các chứng từ của các gia đình, ĐTC mời gọi mọi người săn sóc và bênh vực gia đình, bởi vì gia đình chính là tương lại của chúng ta. Ngài chân thành cám ơn các gia đình đã can đảm chia sẻ với mọi người cuộc sống của họ, và các trình diễn nghệ thuật là các con đường đưa tới Thiên Chúa. Thiên Chúa là Chân, Thiện Mỹ. Gia đình là do ý muốn của Thiên Chúa. Một xã hội lớn lên mạnh mẽ, xinh dẹp và chân thật được xây dựng trên nền tảng gia đình. ĐTC đã chia sẻ một câu hỏi mà một trẻ em hỏi ngài:”Thiên  Chúa làm gì trước khi tạo dựng thế giới?” Trước khi tạo dựng thế giới Thiên Chúa đã yêu thương, bỏi vì Thiên  Chúa là Tình Yêu… Một tình yêu thương to lớn và lôi cuốn tạo dựng thế giới. Thế giới là một tuyệt tác mà chúng ta đang tàn phá. Thiên Chúa đã cho con người tất cả. Tất cả tình yêu Thiên Chúa có nơi Ngài, tất cả vẻ đẹp Thiên Chúa có trong Ngài, tất cả sự thật Thiên Chúa có trong Ngài Ngài đã trao ban cho gia đình. Thiên Chúa đã gửi Con Ngài tới trong một gia đình, để đồng hành với chúng ta trong gia đình.

 

ĐTC giải thích rằng một gia đình thực sự là gia đình khi có khả năng mở rộng đôi tay và tiếp nhận tất cả tình yêu. Vì ghen tức với con người nên ma quỷ khiến cho con người phạm tội và chia rẽ nhau. Và con người đánh mất đi tình yêu của Thiên  Chúa. Hậu qủa là cảnh anh em giết nhau, các chiến tranh và mọi tan vỡ khổ đau khác. Nhưng chúng ta có thể quyết định lựa chọn con đường phải đi. Thiên  Chúa không bỏ rơi chúng ta cả sau khi Adam và Evà phản bội Ngài, Thiên  Chúa đồng hành với con người tới độ trao ban Con của Ngài cho nhân loại. Chúng ta hãy học nơi Đức Maria và Cha Thánh Giuse biết rộng mở con tim cho Thiên Chúa và chương trình cứu độ của Chúa và hãy là một gia đình có con tim rộng mở cho tình yêu. ĐTC nói thêm trong bài giảng:

 

Thiên Chúa luôn luôn gõ cửa các con tim. Ngài thích làm như thế. Ngài muốn vào trong đó. Nhưng anh chị em có biết ngài thích gì nhất không? Ngài thích gõ cửa các gia đình, và gặp các gia đình hiệp nhất và ước muốn tìm các gia đình khác: như thế chúng ta tạo dựng một xã hội  của “chân, thiện, mỹ”. Đối với ĐTC gia đình có một bức thư của công dân thiên linh và được xây dựng trên tình yêu, vẻ đẹp và sự thật.

 

Dĩ nhiên trong gia đình có các khó khăn, các cãi cọ, mệt mỏi và vấn đề, nhưng gia đình luôn luôn là lò sản xuất hy vọng, sự sống lại và sự sống, bởi vì Thiên  Chúa muốn như vậy.  Tiếp đến ĐTC đề cập tới trẻ em và người trẻ là tương lai cuả nhân loại, và tới các ông bà là ký ức của nhân loại Chính các ngài đã trao ban và thông truyền cho chúng ta đức tin. Săn sóc các ông bà và trẻ em là giấc mơ của tình yêu. Một dân tộc không biết lo lắng cho trẻ em và ông bà thì không có tương lai, không có sức mạnh và không có ký ức. Chúng ta hãy bênh vực gia đình bởi vì tương lai của chúng ta là ở đó. Sau cùng ĐTC khuyên các gia đình: “Đừng bao giờ kết thúc một ngày với cãi cọ, nhưng với sự tha thứ và làm hoà.”

 

Sau bài giảng buông của ĐTC ĐTG Chaput đã giới thiệu một tác phẩm và ba mảnh lớn của một bức tường mà tín hữu đã làm trong suốt mùa hè có các hình vẽ và chữ ký của họ. Chúng sẽ được dựng trước trường Thánh Malakia. ĐTC cũng ký tên trên bức tường này. Tiếp theo đó là phần trình diễn của danh ca Tenor Andrea Boccelli. Trước khi ban phép lành ĐTC đa xin Đức Mẹ và Cha Thánh Giuse bầu cử cho các gia đình để các gia đình tin rằng chiến đâu cho gia đình là điều đáng công.

 

Sau khi từ gĩa tín hữu ĐTC đã vể đại chủng viện thánh Carlo Boromeo dùng bữa tối và nghỉ qua đêm.

 

Lúc 9 giờ 15 sáng Chúa Nhật ĐTC đã gặp gỡ các Giám Mục tham dự Cuộc gặp gỡ quốc tế các gia đình tại nhà nguyện đại chủng viện thánh Carlo Borromeo. Ngỏ lời chào mừng ĐTC và các Giám Mục ĐC Chaput TGM Philadelphia đã cám ơn các vị vì nhờ lời cầu nguyện của các vị mà cuộc gặp gỡ quốc tế các gia đình đã có thể diễn ra tốt đẹp. Khi soạn chương trình cách đây hơn hai năm tổng giáo phận đứng trước các khó khăn tài chánh cũng như vân đề pháp lý, hàng linh mục tu sĩ bị chấn thương vì các tin tức gây đau khổ trong nhiều năm qua. Nhưng mọi người tín thác nơi Chúa. Và trong các tháng qua đã có hàng ngàn gia đình và người trẻ  khích lệ và nhắc nhở cho biết Thiên Chúa tạo dựng nên chúng ta cho hạnh phúc và cuộc sống có ý nghĩa. Sự hiện diện và tham dự hăng say cũng như chứng tá của biết bao gia đình nói lên điều đó.

 

Động viên sức lực và lòng hăng say giúp các gia đình tái sinh và đáp trả trân đầy phước lành của Thiên Chúa

 

Ngỏ lời với các Giám Mục khách của đại hội quốc tể gia đình, trong đó có ĐHY Nguyễn Văn Nhơn, TGM Hà Nội và Đức Cha Bùi Văn Đọc TGM Sài Gòn, ĐTC tái khẳng định xác tín của ngài: gia đình không phải là một vấn đề gây âu lo, nhưng là xác nhận hạnh phúc phước lành của Thiên  Chúa khiến cho nó là tuyệt tác của công trình tạo dựng. Vì thế cần phải hăng hái canh tân mục vụ gia đình trong giai đoạn có nhiều thay đổi này. Trước hết việc trân quý và biết ơn đối với gia đình phải thắng vượt sự than van, mặc dù tất cả các chướng ngại khó khăn trước mắt.  Gia đình là nơi nền tảng giao ước của Giáo Hội với việc tạo dựng của Thiên Chúa. Không có gia đình Giáo Hội cũng sẽ không hiện hữu, không thể là điều nó phải là hay là dấu chỉ và dụng cụ sự hiệp nhất của nhân loại (LG, 1).

 

Bản chất của gia đình không được khiến cho chúng ta quên đi sự thay đổi sâu rộng của nền văn hóa xã hội và cả pháp lý nữa của các mối dây gia đình liên lụy tới tất cả mọi người,  tin cũng như không tin. Kitô hữu không được miễn nhiễm đối với các thay đổi thời đại. Trong môi trường xã hội xưa kia định chế hôn nhân có sự yểm trợ và gắn bó của cơ cấu dân sự và bí tích kitô. Ngày nay không còn như thế nữa. Hình ảnh của các hàng quán nhỏ và siêu thị hay trung tâm thương mại có thể giúp chúng ta hiểu sự khác biệt này. Trước kia các hàng quán nhỏ trong các khu phố bán đủ mọi thứ cần thiết cho cuộc sống thường ngày. Người dân trong khu phố gần gũi và quen biết nhau, tin tưởng nơi nhau, có thể mua chịu, có can đảm tin nhau. Trong các thập niên qua đã phát triển các hàng quán to lớn hơn là các siêu thị, các trung tâm thương mại, nơi nền văn hóa cạnh tranh thương mại thống trị. Không có tương quan cá nhân, không có sự gần gũi và tin tưởng, không thể mua chịu. Nền văn hóa ngày nay là năng động không gắn bó với bất cứ gì và bất cứ ai. Tiêu thụ xác định điều gì là quan trọng. Tiêu thụ các tương quan, tiêu thụ tình bạn, tiêu thụ tôn giáo, tiêu thụ và tiêu thụ. Giá cả và các hậu qủa không quan trọng. Một sự tiêu thụ không làm nảy sinh ra các tương quan. Các tương quan ở dưới việc thỏa mãn “các nhu cầu của tôi”. Tha nhân với gương mặt của họ,  lịch sử của họ, tình cảm của họ hết quan trọng.

 

Thái độ hành xử này làm nảy sinh ra nền văn hóa loại bỏ tất cả những gì không ích lợi hay không làm thoả mãn các sở thích của người tiêu thụ. Thế là chúng ta biến xã hội trở thành một cửa hàng đa văn hóa rất rộng rãi gắn bó với các sở thích của vài người tiêu thụ và đàng khác có biết bao nhiêu người “ăn các mảnh bánh vụn rơi từ bàn của chủ” (Mt 15,27). Sự kiện này gây ra một vết thương rất lớn, Nó là một trong các nghèo túng chính hay gốc rễ của biết bao nhiêu tình trạng cô đơn hiện nay mà nhiều người phải gánh chịu… một sự cô đơn kinh khiếp của việc dấn thân tìm kiếm không kìm hãm được thừa nhận.

 

Là chủ chăn chúng ta được mời gọi noi bước Chúa Giêsu Mục Tử, tìm kiếm, đồng hành, nâng dậy, băng bó các vết thương thời đại, chứ không lên án, ra vạ tuyệt thông các người trẻ sinh ra và lớn lên trong xã hội ấy, không bắt họ phải nghe những câu “Xưa kia không như thế”, “thế giới này là một thảm họa”. Chúng ta sẽ lầm,  nếu giải thích rằng nền văn hóa của thế giới ngày nay không yêu thích hôn nhân và gia đình với các phạm trù của sự ích kỷ thuần túy. Có lẽ người trẻ thời nay đã trở thành xanh xao yếu ớt và không kiên trì một cách không thể sửa chữa được nữa chăng? Khung cảnh nền văn hóa này đã khiến cho họ bị tê liệt đối với các hăng hái đẹp hơn, cao cả và cần thiết hơn.

 

Như là các chủ chăn chúng ta được mời gọi thu lượm các sức mạnh và tái hăng say làm cho các gia đình tái sinh và đáp trả lại phước lành của Chúa một cách tràn đầy hơn. Chúng ta phải đầu tư sức lực của chúng ta, không phải để giải thích và tái giải thích  các khuyết điểm của tình trạng ngày nay, cho bằng thẳng thắn mời gọi người trẻ can đảm liều lĩnh chọn lựa hôn nhân và gia đình. Mục tử phải cho thấy Tin Mừng gia đình thật sự là tin vui trong một thế giới, trong đó sự chú ý tới mình xem ra toàn quyền ngự trị.

 

ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: Chủ chăn thanh thản và đam mê loan báo Lời Chúa, và khích lệ tín hữu nhắm cao, canh thức trên giấc mơ, cuộc sống, sự lớn lên của đoàn chiên. Sự canh thức ấy không được làm bằng các diễn văn nhưng qua việc săn sóc mục vụ, có khả năng ở giữa đoàn chiên và không sợ các câu hỏi, biết tiếp xúc và đồng hành, biết giúp họ hướng nhìn lên cao khi họ nàn lòng, bị tước đoạt hay ngã qụy. Phải tự vấn xem chúng ta có biết “mất thời giờ” với các gia đình hay không, ở với họ, chia sẻ các khó khăn và vui buồn của họ hay không.

 

Để có thể sống sự thân tình gia đình tươi vui với Thiên Chúa cần cầu nguyện và loan báo Tin Mừng, tránh biến mình trở thành những người chỉ học sống một mình không có gia đình. Lý tưởng cuộc sống chúng ta không phải là khưóc từ tình yêu thương trìu mến. Mục Tử nhân lành từ chối các yêu thương gia đình riêng để dành trọn sức lực và ân sủng ơn gọi riêng của mình cho việc chúc lành cho các yêu thương trìu mến của người nam và người nữ thực hiện chương trình tạo dựng của Thiên  Chúa. Sứ mệnh của chủ chăn là noi gương trong tất cả và cho tất cả cung cách sống của Chúa Con đối với Chúa Cha….

 

Nếu chúng ta có khả năng sống các yêu thương khắt khe như Thiên Chúa, vô cùng  kiên nhẫn, không oán hờn, bước theo các luống cầy không luôn luôn thẳng hàng phải gieo hạt, thì cả một người đàn bà Samaria có 5 đời chồng cũng khám ra mình có khả năng làm chứng tá… Xin Thiên  Chúa cho chúng ta ơn của sự gần gũi mới giữa gia đình và Giáo Hội.

 

ĐTC đã tặng bức tường Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng mà ngài đem theo từ Cuba cho một cộng đoàn Cuba ước ao có tượng đó. Ngài xin ĐTGM Joseph Eđwarrd Kurtz chủ tịch HĐGM Mỹ đảm trách việc này. Tiếp đến ngài tặng đại chủng viện thánh Carlo Borromeo một chén thánh. Rồi ĐTC bắt tay chào các Hồng Y và Giám Mục hiện diện.

Nguồn: 
 vietvatican.net

1 triệu người tham dự lễ bế mạc Đại Hội Gia Đình thế giới

Tác giả: 
 G. Trần Đức Anh OP
 

PHILADELPHIA. Hơn 1 triệu người đã tham dự thánh lễ bế mạc Đại hội kỳ 8 các gia đình Công Giáo thế giới do ĐTC cử hành chiều chúa nhật 27-9-2015 tại Philadelphia.

 

 Lúc gần 3 giờ chiều, ĐTC đã tới đại lộ công viên Benjamin Franklin ở Philadelphia để cử hành thánh lễ bế mạc đại hội các gia đình Công Giáo thế giới. Đây cũng là nơi đã diễn ra buổi canh thức cầu nguyện của của ngài với các gia đình lúc 7 giờ tối thứ bẩy hôm trước 26-9, với phần trình bày chứng từ của 6 gia đình, xen lẫn các bài đọc Sách Thánh, tông huấn ”Familiaris consortio” của thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng về gia đình, và thư của thánh nữ Gianna Beretta Molla gửi người yêu, thánh nữ đã chết cho bào thai trong lòng được tiếp tục sống.

 

 Khi đến nơi, ĐTC đã dành hơn 20 phút đi xe có mái kiếng che để chào thăm các tín hữu tụ tập tại đây. Rất nhiều màn hình khổng lồ được bố trí trong khu vực công viên đại lộ để các tín hữu ở xa cũng có thể tham dự thánh lễ.

 

 Trong số các tín hữu hiện diện cũng có hàng ngàn tín hữu người Việt, từ quốc nội cũng như từ nhiều nơi ở Mỹ đến tham dự. Đặc biệt có Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc, Chủ tịch HĐGM Việt Nam,

 

 Đồng tế với ĐTC có rất nhiều GM, trong đó hơn 300 vị đến từ nước ngoài và hàng ngàn LM quốc tế. Số tín hữu Việt Nam chiếm 10% những người có đăng ký tham dự đại hội, nên bài đọc thứ hai trong thánh lễ được xướng lên bằng tiếng Việt.

 

 Bài giảng của ĐTC

 

 Trong bài giảng Thánh Lễ, ĐTC đã đi từ sự tích trong hai bài đọc: Ông Môisê không khiển trách hai người trong dân nói tiên tri mà không được ủy nhiệm, và sự kiện Chúa Giêsu dạy các môn đệ đừng cấm cản một người trừ quỉ nhân danh Ngài. Môisê và Chúa Giêsu trách cứ những cộng tác viên có tinh thần khép kín. Các môn đệ phản ứng vì lòng ngay, nhưng cũng có cám dỗ cần cảnh giác là cảm thấy bị vấp phạm vì tự do của Thiên Chúa, Đấng cho mưa rơi xuống trên những người công chính cũng như những kẻ bất chính.

 

 ĐTC cũng bình luận về lời Chúa Giêsu: ”Ai cho các con một ly nước nhân danh Thầy, họ sẽ không bị mất phần thưởng” (Mc 9,41). Ngài nói:

 

 ”Đó là những cử chỉ rất bé nhỏ mà ta học ở nhà; những cử chỉ trong gia đình bị mất hút trong sự vô danh của đời sống thường nhật, nhưng nó làm cho ngày này khác với ngày kia. Đó là những cử chỉ của bà mẹ, bà nội ngoại, của người cha, người ông, người con, của anh em. Đó là những cử chỉ dịu dàng, thương mến, cảm thông. Những cử chỉ như một đĩa đồ ăn nóng cho người đang chờ bữa ăn tối, như bữa điểm tâm sáng sớm của người biết tháp tùng trong việc thức dậy sớm. Đó là những cử chỉ gia đình. Như sự chúc lành trước khi đi ngủ, hay một vòng tay ôm khi trở về nhà sau một ngày làm việc. Tình yêu được biểu lộ qua những điều bé nhỏ, trong sự quan tâm đến những chi tiết mỗi ngày làm cho cuộc sống luôn có hương vị của mái ấm gia đình. Niềm tin được tăng trưởng khi được sống và được tình yêu nhào nặn. Vì thế, các gia đình, gia cư của chúng ta là những Giáo Hội tại gia đích thực: đó là nơi thích hợp trong đó đức tin trở thành sự sống và sự sống tăng trưởng trong đức tin”.

 

 ĐTC cũng khẳng định rằng: ”Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đừng cản trở những cử chỉ bé nhỏ lạ lùng như thế, đúng ra Chúa muốn chúng ta khơi dậy những cử chỉ như vậy, làm cho chúng tăng trưởng..

 

 ”Thái độ mà chúng ta được mời gọi thực thi như thế, làm cho chúng ta tự hỏi vào cuối đại lễ này: chúng ta đang làm thế nào để sống tiêu chuẩn ấy trong gia đình và xã hội chúng ta? Đâu là loại thế giới mà chúng ta muốn để lại cho con cháu chúng ta? Chúng ta không một mình trả lời những câu hỏi ấy. Chính Chúa Thánh Linh kêu gọi chúng ta và thách thức chúng ta trả lời những câu hỏi ấy với đại gia đình nhân loại. Căn nhà chung của chúng ta không thể chấp nhận những chia rẽ vô bổ. ”Thách đố cấp thiết phải bảo vệ căn nhà chung của chúng ta đòi phải cố gắng liên kết toàn thể nhân loại trong sự tìm kiếm một sự phát triển lâu dài và toàn diện, vì chúng ta biết rằng sự việc có thể thay đổi được” (Laudato sì 13). Ước gì con cái chúng ta tìm được nơi chúng ta những điểm tham chiếu để hiệp thông chứ không phải để chia rẽ”.

 

 Và ĐTC kết luận rằng ”Mỗi người mong ước thành lập trong thế giới này một gia đình, hãy dạy cho con cái vui mừng vì mỗi hành động nhắm chiến thắng sự ác - một gia đình biết chứng tỏ Chúa Thánh Linh hằng sống và đang hoạt động - họ sẽ tìm được lòng biết ơn và sự quí chuộng đối với bất kỳ dân tộc, tôn giáo hoặc miền địa lý mà họ thuộc về”.

 

 Xin Thiên Chúa ban cho tất cả chúng ta trở thành những ngôn sứ loan báo Niềm Vui Phúc Âm về gia đình, về tình yêu gia đình, trở thành những ngôn sứ như môn đệ của Chúa, và xin Chúa ban cho chúng ta ơn được xứng đáng với con tim thanh khiết, không cảm thấy bị vấp phạm vì Tin Mừng”

 

 Trong phần lời nguyện giáo dân, các ý nguyện được xướng lên bằng tiếng Anh, Tây Ban Nha và tiếng Việt.

 

 Cám ơn và thông báo

 

 Cuối thánh lễ, Đức TGM Vincenzo Paglia, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân loan báo địa điểm cử hành Đại hội kỳ 9 các gia đình Công Giáo thế giới sẽ được cử hành trong vòng 3 năm tới đây tại Dublin, thủ đô cộng hòa Ailen vào năm 2018.

 

 Rồi theo lời thỉnh cầu của Đức TGM Paglia, ĐTC trao sách Tin Mừng Luca cho 5 đại diện các gia đình ở mỗi đại lục: Hà nội được đại diện cho Á Châu, Kinshasa thủ đô Congo đại diện cho Phi châu, La Habana Cuba cho Mỹ châu, Sydney đại diện cho Australia và Marseille đại diện cho Âu Châu. Và có thêm một gia đình đến từ Damasco, thủ đô Siria. Gia đình này đến đây để lại đằng sau bom đạn, nhưng họ không ở lại đây, họ sẽ trở về Damasco để mang Tin Mừng về đó, hầu chữa lành những vết thương, an ủi trong đau thương và mang lại hy vọng. Tòa Thánh dự kiến sẽ phổ biến hàng trăm ngàn cuốn Tin Mừng theo thánh Luca cho các gia đình tại nhiều nước.

 

 Thánh lễ kết thúc lúc gần 6 giờ rưỡi chiều. ĐTC đã đi thẳng ra phi trường quốc tế của thành phố Philadelphia cách đó 10 cây số. Tại một căn nhà lớn để máy bay, vào lúc 7 giờ tối, ĐTC đã gặp gỡ và cám ơn Ban tổ chức, những người thiện nguyện và ân nhân, tổng cộng khoảng 500 người, đã góp phần tổ chức Đại hội các gia đình Công Giáo quốc tế tại Philadelphia.

 

 Phó Tổng thống Joe Binden đã cùng với các GM tiễn biệt ĐTC. Sau 8 giờ bay, ngài đã về đến Roma bằng an khoảng 10 giờ sáng ngày 28-9-2015. Và trên đường về Vatican, ngài đã ghé lại Đền thờ Đức Bà Cả để tạ ơn Đức Mẹ.

 

Nguồn: 
 vietvatican.net

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận