Thứ tư tuần 4 mùa chay

Đăng lúc: Thứ tư - 18/03/2015 02:31 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
THỨ TƯ TUẦN 4 MÙA CHAY.
"Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Người làm cho ai sống là tuỳ ý Người".
 
Lời Chúa: Ga 5, 17-30
Khi ấy, Chúa Giêsu trả lời dân Do-thái rằng: "Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy". Bởi thế, người Do-thái càng tìm cách giết Người, vì không những Người đã phạm luật nghỉ ngày Sabbat, lại còn gọi Thiên Chúa là Cha mình, coi mình ngang hàng với Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu trả lời họ rằng:
"Quả thật, quả thật, Ta nói cho các ngươi biết: Chúa Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy. Vì chưng, Chúa Cha yêu Chúa Con và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm, và sẽ còn bày tỏ những việc lớn lao hơn thế nữa, đến nỗi các ngươi sẽ phải thán phục. Bởi vì, cũng như Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Ngài làm cho ai sống là tuỳ ý Ngài. Vì hơn nữa, Chúa Cha không xét xử ai cả, mà trao cho Chúa Con trọn quyền xét xử, để cho mọi người tôn trọng Chúa Con cũng như tôn trọng Chúa Cha: ai không tôn trọng Chúa Con thì không tôn trọng Chúa Cha, Ðấng đã sai Ngài. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi, vì đến giờ và ngay bây giờ, kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã nghe thì sẽ được sống. Cũng như Chúa Cha có sự sống nơi chính mình thế nào, thì Người cũng cho Chúa Con có sự sống nơi mình như vậy, và Người đã ban cho Chúa Con quyền xét xử, vì Ngài là Con Người. Các ngươi đừng ngạc nhiên về điều này, vì đến giờ mọi kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và ra khỏi mồ; kẻ đã làm việc lành thì sống lại để được sống, còn kẻ đã làm việc dữ thì sống lại để bị xét xử. Ta không thể tự mình làm điều gì. Nghe sao, Ta xét xử vậy. Và án Ta xử thì công minh, vì Ta không tìm ý riêng Ta, mà tìm ý Ðấng đã sai Ta".

 
SUY NIỆM 1: Công Việc Của Cha.
Một họa sĩ chuyên vẽ chân dung nọ di chuyển đến một thành phố nhỏ với hy vọng tìm được nhiều khách hàng. Vừa đến trước cửa thành, ông gặp ngay một người say rượu. Hai bên trao đổi với nhau và người say rượu đồng ý cho người họa sĩ vẽ chân dung của mình. Dù say túy lúy, gương mặt hốc hác, quần áo xốc xếch, người say rượu vẫn còn có thể ngồi yên để nhà họa sĩ làm việc. So với những khách hàng khác, thì đây là bức chân dung mà nhà họa sĩ phải tốn nhiều thời giờ nhất để vẽ. Đứng ngắm tác phẩm vừa được hoàn thành, người say rượu không thể cầm được sự ngạc nhiên: thay cho gương mặt chán đời của mình, anh thấy trong vức chân dung một nụ cười tươi tỉnh lạc quan; thay cho cách ăn mặc cẩu thả của mình, anh thấy mình được khoác lên một bộ quần áo lộng lẫy. Nhìn vào bức chân dung một lúc, anh lắc đầu và nói: “Người trong hình không phải là tôi”. Nhà nghệ sĩ trả lời một cách khéo léo vì đã biết nhìn xuyên qua bề ngoài để thấy vẻ đẹp nội tâm: “Thưa ông, đây là con người mà ông phải đạt đến”.
Mùa chay là mùa của thanh luyện, của hoán cải. Giáo Hội mời gọi chúng ta trở về: trở về với Chúa, với anh em, với bản thân. Tựu trung tội lỗi là một chối bỏ Thiên Chúa, khước từ anh em, đánh mất bản thân. Qua những việc làm của Mùa chay, như cầu nguyện, sám hối, hãm mình, thực thi bác ái. Giáo Hội muốn chúng ta tìm lại được chính bản thân như Thiên Chúa mong muốn. Bản thân ấy chúng ta chỉ có thể nhận ra khi nhìn ngắm Chúa Giêsu.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy chân dung của Chúa Giêsu, Đấng hoàn toàn sống cho Thiên Chúa: “Ta đến không phải để làm theo ý Ta, nhưng là làm theo ý Đấng đã sai Ta”. Nên một với Thiên Chúa, thể hiện sự nên một ấy đến cùng, đó là con đường mà Chúa Giêsu đã chọn lựa và đi cho đến cùng. Thực thế, cái chết của Chúa Giêsu gắn liền với mầu nhiệm Ba Ngôi. Người Do Thái kết án Ngài không những vì Ngài không tuân giữ ngày hưu lễ, mà còn vì Ngài tự cho mình ngang hàng với Chúa Cha. Cái chết của Chúa Giêsu là một mạc khải về Chúa Cha. Cái chết của Chúa Giêsu nói lên tiếng xin vâng trọn vẹn với Chúa Cha. Qua cái chết ấy, quyền năng và tình yêu của Chúa Cha được tỏ bày.
Mùa chay thường gợi lại một thực hành có tính truyền thống trong Giáo Hội, đó là hãm dẹp thân xác, tức là tham dự vào cái chết của Chúa Giêsu từng ngày qua những hy sinh, quên mình, để cũng được chia phần vinh quang Phục Sinh của Ngài, nghĩa là mỗi ngày một biến đổi để trở thành con người mới cho đến khi đạt được tầm mức viên mãn của Ngài. Đó là bức chân dung mà mỗi Kitô hữu đều mang trong mình và mỗi ngày họ cố gắng họa lại bằng cả cuộc sống của họ. Cùng với Chúa Kitô, Đấng đã nên một với Chúa Cha trong tất cả mọi sự cho đến chết, xin cho từng giây phút cuộc sống chúng ta luôn là một thể hiện thánh ý của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
 
SUY NIỆM 2: Không ngừng yêu thương
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã trả lời cho những người biệt phái cách Ngài chữa lành cho người đang làm việc gần bên giếng nước rằng: "Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy". Thiên Chúa Cha nhân từ luôn luôn trao ban điều tốt cho con người mà Ngài đã tạo dựng giống hình ảnh Ngài. Giờ đây đến phiên mình xuống trần để chu toàn thánh ý Chúa Cha, Chúa Giêsu cũng muốn liên lỉ làm việc, làm điều tốt cho con người, bất luận đó là ngày Sabát hay không. Ngày Sabát là cho con người chứ không phải con người cho ngày Sabát.
Cũng trong dịp này Chúa Giêsu mạc khải cho những kẻ chống đối Ngài mối tương quan giữa Thiên Chúa Cha và Chúa Con, tình yêu thương đó được thể hiện bằng những hành động nhân từ mà Chúa Con thực hiện cho con người, cho mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu đã mạc khải chân tính tình yêu đời đời đó và mời gọi con người hãy đáp trả, hãy cộng tác với chương trình yêu thương này để được sống đời đời: "Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta thì được sống đời đời, khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống".
Hãy nhìn mọi sự với đôi mắt của Thiên Chúa, ta sẽ thấy giá trị khác, kích thước khác: "Cha Ta làm việc liên lỉ và Ta cũng làm việc như vậy". Chúa Giêsu đã không bao giờ ngừng yêu thương con người, cả khi con người chống đối Ngài.
Lạy Chúa, xin cho con luôn hướng mắt nhìn lên Chúa, đặt đời con vào trong viễn tượng cuộc sống đời đời để con được luôn can đảm, kiên trì chu toàn thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
 
SUY NIỆM 3: Lời Hằng Sống
Thật, tôi bảo thật các ông:
Ai nghe lời tôi
Và tin vào Đấng đã sai tôi,
Thì có sự sống đời đời
Và khỏi bị xét xử,
Nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống
Thật, tôi bảo thật các ông:
Giờ đã đến- và chính là lúc này đây-
Giờ các kẻ chết nghe tiến Con Thiên Chúa
Ai nghe thì sẽ được sống. (Ga. 5, 24-25)
Người Do thái không tha thứ cho Đức Giêsu về sự vi phạm ngày Sa-bát khi Người chữa kẻ tê liệt. Người còn nói cho họ nghe Người làm như Cha Người hằng làm việc. Nên Người cũng không nghỉ làm việc dù là ngày Sa-bát.
Lời quả quyết đó càng làm họ tức giận hơn. Làm sao Đức Giêsu dám tự cho mình là Thiên Chúa nếu như Thiên Chúa không phải là Cha mình. Họ càng không ngớt nổi giận vì Đức Kitô nói thêm rằng: “Cha Tôi và Tôi cũng nhất tâm làm tất cả, và ai không tôn vinh Con thì không tôn vinh Cha”. Người còn chủ trương rằng lời Người có sức mạnh ban sự sống đời đời cho những ai nghe theo, như thế là tột bậc rồi.
Thật là một chủ trương đầy phấn khởi và hào hùng! Tuy nhiên, lời Đức Giêsu không chỉ là lời Thiên Chúa, mà còn là lời nhập thể hoàn toàn. Lời Người nói với chúng ta như anh em, như bạn tri kỷ, như sư phụ hoàn toàn biết rõ thân phận con người xác thịt của chúng ta. Người còn phối hiệp toàn diện với xác thân này ngay từ khi xuống thế. Do đó lời Người nắm bắt được mọi tâm tư nguyện vọng của chúng ta và thấy được tiếng lòng rung động kỳ diệu của con tim, khối óc của những ai nghe lời Người. Người cũng biết rõ những hoàn cảnh của mọi người nam nữ chúng ta trở lại với cái gì.
Lời hằng sống đã được công bố trong bài giảng trên núi chứa đựng toàn bộ kế hoạch của Phúc âm về sự gắn bó của chúng ta vào Đức Kitô và được làm thành bản hiến chương nước Thiên Chúa. Lời hằng sống đầy thương xót tha thứ làm sáng lên niềm hy vọng và tình yêu cho mọi người và được thốt ra từ miệng lưỡi của Đức Giêsu trước người đàn bà ngoại tình làm cho Ma-đa-lê-na thống hối, phụ nữ Sa-ma-ri bị chinh phục, ông Gia-kêu thấp bé hoán cải và người trộm lành ăn năn trở về. Cũng như Phê-rô khóc lóc vì chối Thầy. Lời hằng sống chứa đựng trong những dụ ngôn đầy hình ảnh tiêu biểu giáo huấn soi sáng, dẫn dắt chúng ta đến với Thiên Chúa.
Lời hằng sống loan báo những đau khổ để chuẩn bị các môn đệ và mọi người biết can đảm mạnh mẽ theo Đức Kitô qua mọi thời đại, sẵn sàng chịu vác thập giá khổ nạn như là nguồn hy vọng được sống lại vinh quang. Lời hằng sống nhất là đã trở thành lời hứa hấp dẫn của tế lễ Thánh Thể đưa lại sự hiện diện và tình yêu của Đức Kitô tồn tại mãi mãi.
G.F

SUY NIỆM 4
1. Chân lí ngôi vị
Để biện minh cho cung cách ứng xử và hành động của mình, người Do Thái và Đức Giê-su đều nói mình thuộc về Thiên Chúa và đều nhân danh Thiên Chúa. Người Do Thái dựa vào hai yếu tố khách quan gần như tuyệt đối bất khả xâm phạm, đó là luật Sa-bát, vốn là trung tâm của Mười Điều Răn, và là luật do chính Thiên Chúa lập ra để tưởng nhớ Ngày Thứ Bảy được chúc lành và thánh hóa trong công trình sáng tạo và biến cố Ngài giải phóng dân khỏi kiếp nô lệ (x. Xh 20 và Đnl 5) ; và yếu tố thứ hai còn quan trọng hơn, đó chính là sự siêu việt tuyệt đối của Thiên Chúa ; và vì là siêu việt tuyệt đối, không ai được phép tự coi mình là ngang hàng.
Còn Đức Giê-su thì không dựa vào những yếu tố ngoại tại nào khác, chẳng hạn Lề Luật, bản văn Kinh Thánh xét như chữ viết hay suy tư thần học, mà chỉ dựa vào Điều Người Là trong sự thật : đó là tương quan duy nhất và đồng nhất của Ngài với Thiên Chúa mà Ngài gọi là Cha : “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” ; “Chúa Cha yêu Người Con… Kẻ nào không tôn kính Người Con, thì cũng không tôn kính Chúa Cha, Đấng đã sai Người Con”.
Vậy thì ai chân thật, ai không chân thật ? Xem ra, người Do Thái có lí hơn, vì Luật Sa-bát là luật thành văn, có thể mở sách ra kiểm chứng ; và sự siêu việt của Thiên Chúa cũng là lời tuyên xưng đức tin của mọi người, vừa có thể kiềm chứng nơi Sách Thánh và vừa phù hợp với những suy tư về Thiên Chúa. Còn những gì Đức Giê-su nói về căn tính “Người Con” của Ngài, về tương quan duy nhất và đồng nhất của Ngài với Thiên Chúa, thì chẳng tìm thấy dẫn chứng trong bất cứ văn bản nào (văn bản Kinh Thánh của người Do Thái thời đó) và cũng không thể là kết quả của bất cứ suy tư “thần học” nào ! Chính vì thế, trong trường hợp này cũng như trong những trường hợp khác, khi tranh luận với người Do Thái về căn tính của mình trong tương quan với Thiên Chúa, nhất là khi Ngài nói, mình là “Bánh Hằng Sống từ trời xuống” (x. Ga 6), Ngài chỉ khẳng định mình “một cách không không” như thế thôi, và không dựa vào bất cứ dẫn chứng hay dấu lạ ngoại tại nào. Tại sao vậy ? Đơn giản vì đó làchân lí liên quan đến ngôi vị không có bằng chứng nào khác ngoài chính mình. Một kinh nghiệm đời thường có thể giúp chúng ta hiểu phần nào : để nhìn nhận “chân lí” của trái soài là vừa thơm và vừa ngon, thì trái soài không có bằng chứng nào khác ngoài chính mình, với lời mời gọi : “Hãy ăn tôi đi” ! Vì thế, để đón nhận chân lí của trái soài, chúng ta không có cách nào khác ngoài việc “áp dụng ngũ quan”, nghĩa là “nhìn, nghe, ngửi, nếm và đụng”, để thưởng thức và cảm nếm, qua đó đón nhận và sống với, thậm chí sống nhờ và sống bởi. Và cũng như vậy đối với ngôi vị của Đức Giê-su trong tương quan với Thiên Chúa là Cha và đối với sự sống của con người.
Hiểu như thế, trong đời sống chung, chúng ta sẽ tìm lại được bình an và tự do đối với tất cả những tâm tình, lời nói và thái độ không đúng về bản thân chúng ta ; bởi vì “chân lí ngôi vị không có bằng chứng nào khác ngoài chính mình”. Chúng ta được mời gọi cảm nếm sự bình an và sự tự do của Đức Giê-su, khi Ngài bị “bao phủ” bởi biết bao tâm tình, lời nói và hành động vu cáo, sỉ nhục và lên án trong cuộc đời và nhất là trong cuộc Thương Khó của Người.
2. Dấu chỉ sự sống dư tràn
Tuy nhiên vẫn còn một cách thức giúp chúng ta tin nhận ra ai thuộc về Thiên Chúa và đến từ Thiên Chúa. Đó là phương pháp “nhận định thiêng liêng”, ngang qua dấu chỉ “sự sống” và nhất là dấu chỉ “sự sống dư tràn”. Loài người chúng ta dường như thích sòng phẳng hơn, sống với Thiên Chúa theo qui tắc “ngang bằng” của Lề Luật, mà hình ảnh là cái cân và nghĩ Thiên Chúa cũng “phải theo” qui tắc ngang bằng. Nếu là như thế, Thiên Chúa không còn là Thiên Chúa nữa, vì Lề Luật lớn hơn Thiên Chúa, ở trên và chi phối cách hành xử của Thiên Chúa !
Dấu chỉ diễn tả căn tính thần linh của Thiên Chúa là dấu chỉ “sự sống dư tràn”, bởi vì Người là tình yêu ; và dấu chỉ này hiện diện tràn ngập trong các sách Tin Mừng kể về lời nói, hành động và cách hiện diện của Đức Giêsu :
- Mưa nắng được ban không phân biệt ; người gieo giống ra đi gieo giống và gieo cách quảng đại ; sinh hoa kết quả gấp trăm ; làm một giờ cũng được một đồng như người làm cả ngày ; mục tử bỏ chín mươi chín con chiên lại đi tìm một con chiên lạc ; người cha nói với mọi người : “Con ta đã chết nay sống lại” ; người chủ chạnh lòng thương tha mười ngàn yến vàng ; chủ vườn nho sai luôn người duy nhất yêu dấu..
- Sáu chum nước đầy trở thành rượu ngon, ai nấy được ăn và được ăn no nê trong hoang địa, và dư với số lượng lớn : mười hai thùng bánh đầy, cùng với cá con dư ; mẻ cá lạ ; chữa bệnh nhưng không, chữa bệnh bởi lòng tin của người khác ; chữa bệnh gắn liền và hướng tới tha tội…
- Nước hằng sống ; từ bỏ thì nhận lại gấp trăm ; tha thứ bảy mươi lần bảy ; “tội nhiều, nhưng được tha nhiều” ; không dùng bạo lực chống bạo lực, yêu kẻ thù…
Và mọi dấu chỉ “sự sống dư tràn” đều hướng tới và được hoàn tất bởi dấu chỉ Mầu Nhiệm Vượt Qua : tình yêu đến cùng được thể hiện nơi hành vi rửa chân, nơi bí tích Thánh Thể và nơi mầu nhiệm Thập Giá ; từ đau khổ và sự chết tột cùng chuyển hóa thành niềm vui và sự sống viên mãn. Bởi vì Thiên Chúa là nguồn sự sống viên mãn và dư tràn, là Thiên Chúa của sự sống viên mãn và dư tràn. Và từ nguyên tắc này, chúng ta có thể áp dụng cho mọi trường hợp khác, mỗi khi chúng ta băn khoăn về một hiện tượng hay một lựa chọn, ngoại tại hay nội tại, có đến từ Thiên Chúa hay không, có hợp với Thiên Chúa hay không, có đẹp lòng Thiên Chúa hay không, có phải là “Ý Chúa” hay không, có làm Thiên Chúa vui thích hay không, có làm vinh Danh Chúa hay không ?
Người Do Thái nhân danh Thiên Chúa, nhưng mà nhân danh Thiên Chúa để giết người, hay để gieo bầu khí sợ hãi, chết chóc khi xét đoán, lên án và ra án phạt. Khi huấn luyện đức tin, người ta vẫn hay gieo sự sợ hãi vào tâm trí trẻ thơ như thế ! Làm như thế, người ta đã gieo một hình ảnh lệch lạc về Thiên Chúa vào tâm hồn trẻ thơ, vốn là tình yêu và chỉ là tình yêu mà thôi. Chúng ta không thể sống với ai một cách bền vững trong sự sợ hãi được, theo nguyên tắc thưởng phạt được. Thiên Chúa là sự sống và chỉ là sự sống mà thôi, như Đức Giê-su nói : Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban con một của Ngài…” (Ga 3, 16) ; “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (10, 10). Thực vậy, như Đức Giê-su nói trong bài Tin Mừng, tương quan của Đức Giê-su với Thiên Chúa là để và chỉ để thông truyền sự sống mà thôi : “Chúa Cha làm cho kẻ chết trỗi dậy và ban sự sống cho họ thế nào, thì người Con cũng ban sự sống cho ai tuỳ ý”.
3. Trong Đức Ki-tô, không còn lên án nữa
Đức Giê-su cũng nói về xét xừ. Nhưng không phải là xét xử mọi người. Vì Ngài nói : “Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống.” Và thánh Phao-lô cũng nói : “Những ai ở trong Đức Ki-tô, thì không còn bị lên án nữa” (Rm 8, 1). Đơn giản là vì, Ngài không thể xét xử những người thuộc về Ngài, không thể xét xử người thân của Ngài, anh chị em của Ngài, “người nhà” của Ngài. Hơn nữa, ai lựa chọn bóng tối, sự dữ, sự chết, thì đã tự xét xử và lên án mình rồi, đã thuộc về chúng rồi, đã “sống chết” với chúng rồi. Như Đức Giê-su nói : ai không tin vào Con Người, thì đã bị xét xử rồi. Hơn nữa, Ngài là sự sống, Ngài không thể lên án tử cho bất cứ ai. Quyền năng, sức mạnh và cách xét xử của Ngài, là cung cách của Ánh Sáng, ánh sáng đi tới đâu, bóng tối rút lui và tiêu tan đến đó, một cách “tự nhiên” ! Đó là ý nghĩa sâu xa của lời Thánh Vịnh, loan báo mầu nhiệm Vượt Qua :
Cho bọn ác nhân mắc bẫy chính chúng gài,
còn con đây thì được thoát khỏi. (Tv 141, 10)
*  *  *
“Ai tin vào Thầy, thì dù có chết, cũng sẽ sống”. Xin cho chúng ta xác tín sâu sa điều này, và xác tín đến độ không bao nghi ngờ về tình yêu, lòng thương xót và quyền năng dẫn đưa chúng ta đến sự sống của Chúa. Và không chỉ lúc chết, nhưng cả những lúc chúng ta gặp khó khăn, thử thách, bế tắc, ngõ cụt, hoàn cảnh éo le, những tình huống bi đát, những tai họa của mình hay của những người thân yêu. Bởi vì,
Đường của Chúa băng qua biển rộng,
lối của Ngài rẽ nước mênh mông,
mà chẳng ai nhận thấy vết chân Ngài.

                                                       (Tv 77, 20)
Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần
hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai,
hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm
hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác,
không có gì tách được chúng ta ra khỏi
tình yêu của Thiên Chúa thể hiện
nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.

                                            (Rm 8, 38-39)
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

Suy niệm 5
 
A. Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài trích Phúc Âm hôm nay tiếp theo đoạn Phúc Âm hôm qua: vì Chúa Giêsu chữa bệnh cho người bất toại vào ngày Sabbat nên một số người Do Thái trách Ngài đã làm việc vào ngày đáng nhẽ ra phải nghỉ ngơi. Trả lời cho họ, Chúa Giêsu nói “Cha Ta làm việc liên lỉ. Ta cũng làm việc như vậy…Điều gì Chúa Cha làm thì Chúa Con cũng làm y như vậy”.
2. Bài đọc: (trích sách Isaia) có thể giúp ta hiểu công việc mà Chúa Cha và Chúa Con vẫn làm liên lỉ là gì: đó là việc xót thương, cứu giúp loài người, nhất là những người cùng khổ. Giống như một người mẹ không bao giờ ngừng thương con cái mình: “Nào người mẹ có thể quên con mình được chăng? Cho dù người mẹ có quên, nhưng ta không quên được đâu”.
B. Suy gẫm (...Nẩy mầm)
1. Trái tim không bao giờ ngừng đập, tình thương không bao giờ nghỉ ngơi. Thiên Chúa và Chúa Giêsu vẫn luôn liên lỉ làm những việc tình thương. Nhưng phần con người thì lại có câu “Tình thương mệt mỏi!”.
2. Trong ngày Sabbat hay trong ngày Chúa Nhật bây giờ, chúng ta nghỉ bớt những việc khác, để có thể làm nhiều việc bác ái hơn. Nói cách khác, trong ngày đó, ta nghỉ làm những việc cho mình, để làm những việc cho người khác.
3. Chúa Giêsu tỏ ra là một người rất tự do vì Ngài không bị ràng buộc vào những tập tục ngày Sabbat. Nhưng sự tự do này xuất phát tự một sự lệ thuộc: “Ta không thể tự mình làm điều gì…vì Ta không tìm ý riêng Ta mà tìm ý Đấng đã sai Ta”. Như thế bài Phúc Âm hôm nay là một sự nghịch lý: Tự do nhờ lệ thuộc ý Thiên Chúa. Khi con người lệ thuộc hoàn toàn vào ý Thiên Chúa thì con người sẽ tự do, ngược lại khi con người không theo ý Thiên Chúa thì con người sẽ thành nô lệ cho rất nhiều thứ khác. Ta hãy suy nghĩ thêm về cái nghịch lý này.
4. Một thiếu niên đi xem đấu bóng với Cha sở, nói với Cha rằng anh không thích vâng phục. Anh nói: “Thưa Cha, con rất ghét ai bảo thế này, thế nọ. Không có tự do trong việc này”.
Cha sở không nói một lời. Liền sau đó, họ gặp một biển chỉ đường hướng đi đến sân chơi. Cha sở làm như không thấy, cậu bé la lên: “Chúng ta đi sai đường! Thưa Cha, Cha không thấy dấu đường kia à!”.
Cha sở bình tĩnh trả lời: “Cha thấy chứ, nhưng Cha nghĩ đường này xem ra tốt hơn, và Cha ghét bị ai chỉ bảo đi đường này, đường kia bởi một biển chỉ đường cũ kĩ. Nó không cho Cha tự do hành động”.
Cậu bé nhận ra bài học, và họ vòng trở lại đi vào hướng sân chơi (Góp nhặt).
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, mỗi lần chúng con rước Chúa là một lần chúng con được nuôi dưỡng bởi sức sống thần linh của Chúa. Xin cho chúng con biết học nơi Chúa luôn tận tuỵ trong công việc và trung tín với bổn phận của mình.
Lạy Chúa, vì yêu thương nên Chúa đã tự nguyện đi vào con đường đau khổ để cứu độ trần gian. Tình yêu của Chúa tựa như nhịp đập của con tim không bao giờ ngưng nghỉ,. Chúa luôn làm tất cả để chúng con được sống và sống dồi dào trong ân sủng của Chúa.
Hôm nay chúng con cũng xin Chúa chúc lành cho cha mẹ chúng con. Vì cả một đời luôn vất vả hy sinh cho chúng con. Bất kể mưa nắng. Đầu hôm sớm mai nơi ruộng vườn và ngược xuôi nơi bến chợ, để bòn nhặt từng chén cơm, từng quyển vở cho chúng con ăn học. Xin giúp chúng con biết trả ơn cha mẹ bằng đời sống ngoan hiền, chăm học và luôn chu toàn bổn phận hằng ngày của mình. Xin Chúa cũng cất đi những gánh nặng của bao cha mẹ đang đau khổ vì tội lỗi của con cái gây nên. Xin giúp chúng con đừng bao giờ chồng chất thêm những gánh nặng trên cha mẹ, nhưng biết chia sẻ những mệt nhọc của cha mẹ trong khả năng và sức lực của mình. Amen.
(Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
 
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận