Những bài suy niệm về Thánh Giuse

Đăng lúc: Thứ tư - 18/03/2015 20:47 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
THÁNH GIU SE NGƯỜI CÔNG CHÍNH
Mt 1, 16. 18-21. 24a
 
 
 
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
 
Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền.

II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
 
Khi mừng lễ thánh Giu se, tôi thường tự hỏi. Không biết thánh Giu se, người sống cách đây 2 000 năm có còn thích hợp với thời đại chúng ta không ? Không biết thánh Giu se, Đấng đã coi sóc một gia đình gồm toàn những đấng thánh có thể làm gương mẫu cho gia đình chúng ta, những gia đình gồm toàn những con người phàm trần không?

Tin mừng hôm nay nói thánh Giu se là người công chính. Nhìn vào cuộc đời thánh Giu se, ta có thể hiểu được nội dung tính từ công chính.

Công chính trước hết là trả lại cho người khác những gì thuộc về họ. Nói khác đi công chính là không dám nhận những gì không phải của mình. Thánh Giu se định trốn đi khi biết Đức Ma ria mang thai. Theo lối giải thích xưa kia thì thánh Giu se trốn đi vì nghi ngờ Đức Ma ria. Nhưng theo các nhà chú giải thời mới thì thánh Giu se định bỏ trốn vì thấy mình không xứng đáng với danh hiệu làm cha nuôi Đấng Cứu Thế. Chức vị làm cha Đấng Cứu Thế là một chức vị quá cao trọng, thánh Giu se thấy mình không phải là Cha Đấng Cứu Thê, không xứng đáng làm Cha Đấng Cứu Thế,nên Ngài bỏ trốn.

Công chính là chu toàn nhiệm vụ của mình. Nhiệm vụ của thánh Giu se là gìn giữ Đức Giê su và Đức Ma ria. Chúa đã trao cho Ngài nhiệm vụ đó và Ngài đã hết sức chu toàn. Chu toàn với tinh thần trách nhiệm cao, không để xảy ra chuyện gì đáng tiếc. Chu toàn với sự tế nhị, kính cẩn, nâng niu. hãy nhìn cảnh thánh gia trốn sang Ai cập, Đức Ma ria bế Đức Giê su ngồi trên lưng lừa. Thánh Giu se dắt lừa đi trong đêm tối. Không còn cảnh tượng nào đẹp đẽ hơn. Thánh Giu se trân trọng kho tàng Chúa trao cho Ngài gìn giữ. Thánh Giu se kính cẩn nâng niu Đức Ma ria và Đức Giê su. ngài chu toàn nhiệm vụ với tinh thần dấn thân hi sinh không ngại gian khổ. Đang đêm mà chúa bảo thức dậy trốn sang Ai cập, Ngài cũng thức dậy lên đường tức khắc.

Những nhiệm vụ của thánh Giu se xem ra tăm tối, không có gì vinh quang. Nhưng thánh Giu se vẫn chăm chỉ chu toàn, và không đòi cho mình nhiệm vụ nào khác. Chẳng hạn sau này các tông đò được Đức Giê su sai đi rao giảng, có quyền làm phép lạ, được mọi người kính phục, thánh Giu se vẫn không ghen tị và đòi cho mình quyền đó. Ngài thật là người công chính.

Sau cùng, công chính là trung tín với nhiệm vụ. Thánh Giu se được Chúa trao cho nhiệm vụ gìn giữ Đức Ma ria và Đức Giê su, gìn giữ gia đình, Ngài đã hết sức chu toàn trong hoàn cảnh thuận lợi cũng như trong hoàn cảnh khó khăn. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh Giu se phải lao động vất vả để nuôi sống gia đình. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh Giu se phải chung sống với súc vật trong ngày Đức Ma ria hạ sinh Đức Giê su. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh Giu se phải vất vả bồng bế Đức Giê su chạy trốn sang Ai cập. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh Giu se kiên trì tìm kiếm khi Đức Giê su đi lạc 3 ngày trong đền thờ. Trung tín không hề xao nhãng, không hề lẩn tránh, không hề lùi bước trước nhiệm vụ khó khăn, thánh Giu se thật là người công chính.
 
Ngày nay thánh Giu se vẫn hợp thời, vẫn là gương mẫu cho con người, vẫn là niềm mơ ước của con người.

Vì thế giới ngày nay đang thiếu vắng sự công chính. Người ta gian tham nhận những gì không phải của mình. Không phải chỉ gian tham tiền bạc mà còn gian tham chức quyền, danh vọng. Vì thiếu công chính mà người ta hãm hại người khác, chiếm đoạt tiền của, danh dự của người khác.

Vì thiếu công chính mà người ta sống giả dối, làm hàng giả, nói dối, mượn bằng giả.

Vì thiếu công chính nên người ta trốn tránh nhiệm vụ. Chỉ thích những việc nhàn tản, phô trương, trốn tránh những việc nặng nhọc, hèn kém.

Các gia trưởng nhiều khi lười biếng, ham vui mà thiếu trách nhiệm với gia đình, với vợ con.

Sự trung tín ngày nay đang là một vấn đề lớn. người ta bất tín, lừa đảo, gian dối trong đời sống xã hội, trong kinh doanh buôn bán. người ta thiếu trung tín cả trong gia đình. Chỉ một vài thử thách, thiếu thốn, người ta sẵn sàng từ bỏ nhiệm vụ, từ bỏ người thân.
 
Nên thánh Giu se vẫn còn là gương mẫu rất cần thiết cho người thời nay. Những đức tính của Ngài, sự công chính của Ngài rất hữu ích để chấn chỉnh, xây dựng xã hội hôm nay.
 
 
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

THÁNH GIUSE, CON NGƯỜI KHÔN NGOAN
 
 
Tại Việt Nam, thánh Giuse được tôn kính đều khắp. Nơi thì đề cao ở Ngài vai trò gia trưởng. Chỗ thì nhấn mạnh nơi Ngài chức vị Đấng bảo vệ Hội Thánh.

Dù với xu hướng nào, hầu như mọi người tôn sùng thánh Giuse đều nhìn Ngài là một Đấng thánh khôn ngoan. Khôn ngoan trong việc bảo vệ thánh gia. Khôn ngoan trong việc bảo vệ Hội Thánh.
 
Khôn ngoan nói đây là thứ khôn ngoan được ca ngợi trong sách Khôn Ngoan của Cựu Ước. Khôn ngoan đó cũng được Chúa Giêsu khuyên nhủ và khen thưởng nhiều lần trong Tân Ước.

Ở đây, suy gẫm của tôi về sự khôn ngoan nơi thánh Giuse sẽ để ý đến ba lãnh vực, mà sự khôn ngoan của Ngài được sáng tỏ:
·         Khôn ngoan của nghề nghiệp.
·         Khôn ngoan của Lời Chúa.
·         Khôn ngoan của chiêm niệm.
 
1/ Khôn ngoan của nghề nghiệp
 
Trước hết, thánh Giuse được Kinh Thánh giới thiệu là ông thợ mộc. Dân làng gọi Ngài bằng tên một người có nghề.

Có một nghề, đó là một danh dự. Kẻ được thụ hưởng, mà không có nghề, vẫn không được kính trọng.

Nghề mộc có nhiều liên hệ tốt. Như liên hệ trực tiếp với thiên nhiên. Cây gỗ là một chất liệu của thiên nhiên. Thiên nhiên có trước nghề mộc. Người thợ mộc đẽo gọt nó thành dụng cụ, để phục vụ con người.

Khi phục vụ con người bằng nghề mộc, người ta có những liên hệ trực tiếp với đủ loại người. Những liên hệ đó không chỉ trong vấn đề tiền công, mà còn trong những lãnh vực đòi thăng tiến nghề nghiệp: Làm sao sản phẩm của mình có những tiến tới về sáng tạo, về mỹ thuật. Nó chứng tỏ phần nào óc thông minh và ý chí.
 
Từ những liên hệ trực tiếp với con người, thánh Giuse đã có những liên hệ về cuộc đời. Những cuộc đời khát vọng và thất vọng. Những cuộc đời nụ cười và nước mắt.

Thánh Giuse coi mình cũng như mọi người. Ngài hoà mình vào cuộc đời. Ngài ở giữa mọi người, kiếm sống như mọi người. Họ và Ngài có những liên hệ quen thân.

Từ những kinh nghiệm đó, thánh Giuse rút ra sự khôn ngoan cần thiết, để nuôi dưỡng và bảo vệ thánh gia. Những liên hệ thân thương hài hoà sẽ bảo vệ thánh gia một cách có hiệu quả.

2/ Khôn ngoan của Lời Chúa
 
Khi nhận được lời thiên thần báo mộng, thánh Giuse hiểu đó là ý Chúa. Chúa muốn trao cho Ngài một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Nhiệm vụ đó là bảo vệ Đức Maria và Hài nhi Giêsu.

Mặc dù sự việc coi như có phần nghịch lý, nhưng thánh Giuse vẫn vâng phục. Ngài giữ luật đời, luật đạo, và vâng phục kế hoạch Chúa trao cho Ngài.

Ngài tin chắc Lời Chúa là con đường phải đi.
 
Sức mạnh xây dựng niềm tin nơi Ngài là ơn thiêng của Chúa Thánh Thần. Ơn thiêng ấy tác động từ bên trong tâm hồn, đi đôi với báo mộng. Ngài đón nhận như ơn gọi, một ơn gọi chỉ dành riêng cho Ngài.

Ngài sống ơn gọi đó một cách khiêm nhường. Khiêm nhường nên giữ kín. Khiêm nhường nên vẫn khó nghèo. Khiêm nhường là môi trường cho ơn gọi của Ngài được phát triển. Phát triển một cách sâu rộng, từ ý thức, đến tiềm thức, vô thức.
 
Nếu ồn ào, phô trương, Ngài sẽ không bảo vệ được thánh gia.
 
Chính vì Lời Chúa được đón nhận và thực hiện một cách khiêm nhường, mà thánh Giuse có được sự khôn ngoan. Sau này thánh Phaolô tông đồ gọi đó là sự khôn ngoan của thánh giá. Chính sự khôn ngoan này đã giúp thánh Giuse bảo vệ Đức Mẹ và Chúa Giêsu một cách rất hiệu quả qua biết bao thử thách.

3/ Khôn ngoan của chiêm niệm
 
Ngôi Hai xuống thế làm người, đó là một sự kiện. Sự kiện cao cả đó đã được Ngài nhìn thấy và chạm tới. Sự kiện ấy không xuất hiện như một sự kiện, nhưng như là một mầu nhiệm. Thánh Giuse chiêm niệm mầu nhiệm ấy, một mầu nhiệm luôn sống động bên Ngài.

Chiêm niệm đã cho Ngài khám phá thấy sự tự hạ lạ lùng của Đấng Cứu thế.

Thánh Phaolô viết: "Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế" (Pl 2,6-7).
Khám phá trên đây của thánh Phaolô đã là chứng kiến của thánh Giuse. Nếu tìm lý do tại sao Chúa Giêsu đã có một chọn lựa tự hạ như vậy, thì câu trả lời vẫn là: mầu nhiệm của tình yêu Chúa.

Một tình yêu dùng sự tự hạ và thánh giá, để chiến thắng tội lỗi và xây dựng Nước Trời là nước tình yêu.
 
Một tình yêu đơn sơ và thiết thực, để đưa người ta đi vào cuộc sống thân mật của Chúa giàu lòng thương xót.

Một khi đã được nếm sự ngọt ngào của mầu nhiệm tình yêu Chúa, thánh Giuse chỉ còn biết đi sâu vào thân phận nghèo khó, bé mọn. Ý nguyện đó được Chúa thực hiện qua đời sống kín đáo và cái chết thầm lặng của thánh Giuse. Như thế là để tập trung vào điểm chính là Đức Giêsu Kitô. Đó là sự khôn ngoan của đời chiêm niệm.

Suy gẫm trên đây khiến tôi khát khao sự khôn ngoan của thánh Giuse. Khát khao có nghĩa là chưa có. Khát khao cũng có nghĩa là đi tìm.
Tôi chưa có, nên tôi đi tìm. Trên đường đi tìm, tôi luôn cầu nguyện cho tôi gặp được thánh Giuse. Tôi tin Ngài thương tôi, bây giờ và suốt đời. Sao cho suốt đời tôi luôn được chia sẻ phần nào sự khôn ngoan, mà Chúa đã ban cho Ngài.

Chúng ta cần rất nhiều khôn ngoan để có thể bảo vệ Hội Thánh, nhất là trong những tình thế phức tạp.
 
 
Gm.  J.B. Bùi Tuần

ƠN KHÔN NGOAN NƠI THÁNH GIUSE
 
Gm.  J.B. Bùi Tuần
 
Thánh Giuse là một vị thánh âm thầm. Nhưng tại Giáo Hội Việt Nam, Ngài rất được yêu mến với cái nhìn thân thương. Thực vậy, trong Hội Thánh Việt Nam, thánh Giuse được tôn kính trong hầu hết các nhà thờ, trong hầu hết các cộng đoàn, trong hầu hết các gia đình. Ngài rất gần gũi với các tâm hồn, đặc biệt là với các thân phận nghèo khổ bệnh tật, cô đơn. 
 
Khi tình hình trở nên khó khăn, người công giáo Việt Nam hay chạy đến thánh Giuse. Ngài luôn đáp trả rộng lượng những ai cậy tin Ngài, sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa. Nếu cần ca tụng thánh Giuse, tôi xin dựa vào kinh nghiệm riêng của tôi. Quả thực, đời tôi đã trải qua nhiều chặng đường lịch sử phức tạp. Xét về phương diện người được Chúa sai đi phục vụ Hội Thánh, cuộc đời của tôi đến nay có thể coi là khá dài. Cuộc đời đó luôn như trên đường mạo hiểm, với những khúc lầy lội, tăm tối, hiểm nguy. 
 
Biết mình được sai đi với sứ mạng phục vụ Tin Mừng, nên trong bất cứ hoàn cảnh nào, tôi hay cầu xin thánh Giuse thương giúp đỡ tôi. Ơn tôi thường tha thiết nài van là ơn khôn ngoan. Xưa thánh Giuse đã bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ một cách khôn ngoan. Nay xin Ngài cũng thương giúp tôi biết phục vụ Hội Thánh một cách khôn ngoan. 
 
Thánh Giuse nhậm lời tôi. Ơn khôn ngoan, mà tôi cảm nhận đã được phần nào nhờ sự cầu bầu của thánh Giuse, có thể tóm tắt vào một điều. Điều đó là: Hãy vâng phục thánh ý Chúa. Theo Ngài, vâng phục thánh ý Chúa là một ơn Chúa ban. Nó không dựa trên lý luận, nhưng dựa trên một xác tín về liên hệ thân mật giữa Chúa và kẻ được Chúa thương yêu. Khi đi vào cụ thể, xác tín đó được nổi bật lên trong những điểm sau đây: 
 
1/ Nhận biết Chúa Giêsu là quà tặng lớn nhất không gì sánh được 
Thánh Giuse đã nhận thức được điều đó. Nên Ngài sung sướng phục vụ Chúa Giêsu. Nhất là khi thánh Giuse được thiên thần cho biết Chúa Giêsu là Emmanuel "Thiên Chúa ở cùng chúng ta." (Mt 1,23), "Chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ" (Mt 1,21). 
 
Chúa Giêsu ở giữa dân Người một cách khiêm nhường và đầy chia sẻ. Như tác giả thư gởi dân Do Thái sau này đã viết: "Vị thượng tế (Chúa Giêsu) của chúng ta không phải là không biết cảm thương nỗi yếu hèn của chúng ta. Vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội." (Dt 4,15). 
 
Không những Chúa Giêsu ở giữa loài người một cách khiêm nhường, mà còn tự nguyện chịu mọi đau khổ vì loài người. Về điểm này, thánh Phaolô nói một cách rất rõ ràng dứt khoát: "Hồi còn giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá." (1 Cr 2,2). 
 
Thánh Giuse còn hơn thánh Phaolô trong sự gắn bó với Chúa Giêsu là tình yêu Thiên Chúa cao cả, cho dù thánh Phaolô đã dám nói: "Tôi coi tất cả là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi." (Pl 3,8). 
 
Suốt đời tôi, tôi coi sự gắn bó mật thiết và tuyệt đối với Chúa Giêsu chính là điều Chúa muốn để nên người khôn ngoan, nhất là trong lãnh vực tu đức, mục vụ và truyền giáo. Từ sự gắn bó với Chúa Giêsu, thánh Giuse đưa tôi đến một sự khôn ngoan khác, đó là hãy theo gương Ngài biết sống đức ái với mọi chi tiết cao đẹp. 
 
2/ Biết sống đức ái với mọi chi tiết cao đẹp 
 
Về điểm này, thánh Giuse cũng chẳng viết gì. Nhưng khi đọc thư thánh Giacôbê, tôi thấy thánh tông đồ xem như nói thay thánh Giuse. Ngài viết: "Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước hết là thanh khiết, sau là hiền hoà, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị cũng không giả hình." (Gc 3,17).
 
"Nếu trong anh em có sự ghen tương hay chua chát và tranh chấp, thì anh em đừng có tự cao tự đại, nói dối, trái với sự thật. Sự khôn ngoan đó không phải từ trời cao ban xuống, nhưng là sự khôn ngoan của thế gian, của con người tự nhiên, của ma quỷ.” (Gc 3,14-15). 
 
Đời sống của thánh Giuse giữa những người xung quanh không những là hài hoà, khiêm tốn, mà còn tích cực nâng Ngài lên thế giới các nhân đức cao cả. Như bài ca đức ái của thánh Phaolô tông đồ đã diễn tả: 
 
"Đức ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, 
không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, 
không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, 
không nóng giận, không nuôi hận thù. 
Không mừng khi thấy sự gian các, 
nhưng vui khi thấy điều chân thật. 
Đức ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, 
hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả." (1 Cr 13,4-7). 
 
Những chi tiết cao đẹp trên đây nói về đức ái, khi áp dụng vào đời sống của thánh Giuse, tôi có cảm tưởng là còn chưa đủ. Có được những tâm tình tốt là điều hay, nhưng biết diễn tả những tâm tình tốt là một đòi hỏi quan trọng. Thánh Giuse đã biết diễn tả khôn khéo, tế nhị những tâm tình tốt đối với đủ mọi thứ người trong suốt cuộc đời bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ. 
 
Đây là một ơn khôn ngoan, mà tôi thấy rất cần cho mọi người công giáo nói chung, và các nhà truyền giáo nói riêng. Nhất là trong những hoàn cảnh lịch sử phức tạp. Tôi thấy đôi khi chỉ một vài sơ suất nhỏ đã có thể gây nên đại hoạ. Giống như một tàn lửa có thể gây nên một đám cháy lớn. Thời sự hiện nay về nguy cơ nghi kỵ và xung đột tôn giáo là một nhắc nhở về sự khôn ngoan đối xử trong việc diễn tả thái độ đối với nhau. Yếu tố sau cùng của ơn khôn ngoan nơi thánh Giuse là tỉnh thức và cầu nguyện. 
 
3/ Tỉnh thức và cầu nguyện 
 
Phúc Âm nói rất ít về thánh Giuse. Nhưng có một điều chắc chắn đã giúp Ngài chu toàn bổn phận bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Điều đó là tỉnh thức và cầu nguyện. 
 
Ngài biết mình mong manh, hoàn cảnh đời đạo phức tạp, ý Chúa nhiệm mầu, biết được ý Chúa là điều không dễ, thực thi ý Chúa càng không dễ chút nào. Nên Ngài coi việc tỉnh thức và cầu nguyện là điều cực kỳ quan trọng cho ơn gọi của Ngài. 
 
Mặc dầu chức cao quyền trọng, Ngài đã chọn cách sống âm thầm nghèo khó. Sẽ không thể có lựa chọn đó, nếu Ngài không tỉnh thức và cầu nguyện. Trong tỉnh thức và cầu nguyện của Ngài luôn có tạ ơn, xin ơn và phó thác khiêm nhường. Còn đối với chúng ta, tỉnh thức và cầu nguyện còn đòi phải thêm sám hối ăn năn.
 
Hơn bao giờ hết, Hội Thánh Việt Nam đang rất cần những vị lãnh đạo khôn ngoan. Chúng ta tha thiết cầu xin ơn đó, đặc biệt trong tháng Ba này là tháng kính thánh Giuse, Quan Thầy Hội Thánh Việt Nam.
 
 
Gm.  J.B. Bùi Tuần


Giuse, mẫu gương của vâng phục
 
 
Lịch sử là một chuỗi những biến cố xảy ra trong quá khứ. Lịch sử cứu độ là sự can thiệp cách khôn ngoan và lạ lùng của Thiên Chúa trong từng biến cố của dòng đời. Thiên Chúa luôn can thiệp vào những thăng trầm của dòng đời để ghi dấu sự hiện diện của Ngài trong lịch sử. Ngài đã can thiệp vào việc thành hình một dân riêng của Ngài qua việc tuyển chọn Abraham. Ngài đã chọn Mô-sê để giải thoát dân khỏi kiếp nô lệ Ai Cập. Ngài đã tuyển chọn các ngôn sứ để dẫn dắt dân Thiên Chúa đi trong đường lối những huấn lệnh của Ngài.

Hôm nay lễ Thánh Giuse phù hộ là bổn mạng của Giáo hội Việt Nam. Thánh Giuse đã được chọn để làm cha nuôi của Chúa Giê-su và là bạn trăm năm của Đức trinh nữ Maria. Thánh Giuse đã dấn thân một cách quảng đại và không hề so đo tính toán. Ngài đã hành động dứt khoát và mau lẹ. Bởi vì ngài biết rằng: Thiên Chúa đang cần một người cha để bảo vệ sự sống cho một hài nhi. Thiên Chúa đang cần một người bạn trăm năm để bảo vệ danh tiết cho một người phụ nữ. Ngài không thể chần chờ. Vì nếu chần chờ thì tính mạng của một người mẹ, của một thai nhi sẽ gặp nguy hiểm. Ngài không thể so đo tính toán, bởi vì Thiên Chúa là Chúa của ngài, ngài phải hết lòng phụng sự cho chương trình của Thiên Chúa.

Thánh Giuse đã trở thành mẫu gương cho sự tuân phục thánh ý Thiên Chúa. Ngài đã gác bỏ mọi toan tính của bản thân để chu toàn bổn phận Thiên Chúa trao. Ngài đã vượt qua mọi trở ngại để hoàn thành sứ vụ được trao. Ngài đã dám quên đi bản thân để cho chương trình của Chúa được thực hiện. Thánh Kinh không để lại một lời nào của ngài, nhưng sự im lặng của ngài là để cho ý Chúa được thực hiện. Đó là sự im lặng trong sự tuân phục. Đó là sự im lặng biểu lộ một tâm hồn thanh thoát bình an.

Cuộc đời hôm nay vẫn rất cần những con người như Cha Thánh Giuse. Một người cha để bảo vệ gia đình khỏi những sự tấn công của tục hoá đang làm băng hoại luân lý gia đình và xã hội. Một người cha có trách nhiệm để mang lại cho vợ con điểm tựa của cuộc sống. Một người cha dám quên đi hạnh phúc riêng của mình để mang lại an cư lạc nghiệp cho gia đình. Một người cha biết tuân phục thánh ý Chúa để nêu gương sống đạo cho gia đình.

Song le, Chúa Giê-su cũng đang cần chúng ta trở nên dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa giữa thế giới hôm nay. Nếu ngày xưa, Chúa Giê-su cần đến sự cộng tác của thánh Giuse để Ngài có một vị trí trong xã hội được sinh ra trong một gia đình, một dòng tộc vua Đavit, thì ngày nay, Ngài cũng cần lòng quảng đại của chúng ta để Ngài lại tiếp tục được sinh ra giữa lòng đời hôm nay. Chính Ngài cũng tự đồng hoá mình với những mảnh đời khổ đau, bất hạnh trên đường đời. Chính Ngài đang hiện diện trong những người nghèo đói, tật nguyền, trong người bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Ngài đang cần chúng ta gạt ra ngoài những toan tính trần thế, những nghi nan, những khó khăn để mạnh dạn và quảng đại đón nhận những anh em hèn yếu, đói khổ đang cần sự trợ giúp của chúng ta. Chính Ngài cũng hứa trả công bội hậu cho những ai đã đón nhận và giúp đỡ Ngài. Ngài đã từng nói rằng: “Hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy vào hưởng Nước Trời là gia nghiệp đã dành sẵn cho các ngươi, vì khi xưa Ta đói, Ta khát, Ta trần truồng, bị bỏ rơi, tù đầy, bị ngược đãi các ngươi đã cho ăn, cho uống và tiếp rước.

Hôm nay, Chúa vẫn thiết tha mời gọi chúng ta hãy để cho Chúa được tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Hãy để cho Chúa làm chủ cuộc sống của mình bằng việc tuân hành thánh ý Chúa, đừng sợ những nghi nan, những khó khăn khi phải tuân theo thánh ý Chúa. Hãy đón nhận Chúa qua những người anh em đang cần sự trợ giúp, nâng đỡ, bác ái và cảm thông của chúng ta. Hãy chia sẻ nỗi đau của Chúa qua những người bất hạnh đang cần sự trợ giúp của chúng ta. Hãy là một Giuse của thời đại để vì Chúa mà yêu mến anh em, vì Chúa mà dấn thân phục vụ vì lợi ích của tha nhân.

Nguyện xin Thánh Cả Giuse cầu thay nguyện giúp cho chúng ta biết lắng nghe lời Chúa và dám thực thi trong cuộc sống hằng ngày. Ước gì mỗi người chúng ta biết noi gương thánh Giuse, biết đón nhận Chúa vào trong cuộc đời mình và qua đời sống tuân hành thánh ý Chúa, chúng ta gieo vãi niềm vui và sự an bình của Chúa cho anh chị em chung quanh.Amen
 
Lm Jos Tạ Duy Tuyền


Giuse, nhà đào tạo người công chính
 
 
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
 
Cụm từ: Giuse là người công chính rất thân quen với Kitô hữu. Người ta cũng quen với những hình ảnh nói về thánh cả Giuse như người cha nuôi, Đấng bảo trợ Con Thiên Chúa làm người, khuôn mẫu của người lao động… Thế nhưng, chúng ta cần thú nhận rằng thật thiếu sót khi bỏ qua chân dung nhà giáo dục Giuse. Chính Thiên Chúa qua lời sứ thần báo mộng đã truyền rằng chính Giuse là người phải đặt tên cho Con Trẻ tức là giao phó trách nhiệm đào tạo, giáo dục Con Trẻ Giêsu cho Thánh Cả. Ý nghĩa của việc đặt tên theo Thánh Kinh cho ta xác tín chân lý này ( x. Mt 1,21 ).

NGƯỜI CÔNG CHÍNH:
 
Dưới nhãn quan nhân loại thì người công chính là người chính trực trong tâm tình và suy nghĩ, công minh trong lời nói và hành động. Người công chính theo Thánh Kinh thì vượt lên trên đức công chính nhân bản. Đó là người không chỉ công minh, chính trực trong tư tuởng, lời nói và hành động mà còn là người luôn tín trung trong tình yêu. Chúng ta hiểu được điều này khi Thánh Phaolô nói rằng Thiên Chúa bày tỏ sự công chính của Người khi tín trung với lời Người đã hứa là yêu thương con người đến cùng, không muốn bất cứ ai phải hư mất, nên đã sai Con của Người đến thế gian thực thi công trình cứu độ (x. Rm 3,25 ).

VAI TRÒ CỦA NGƯỜI CÔNG CHÍNH:
 
Thưa Chúa, nếu tìm thấy trong thành có 50 người công chính thì với 50 người chính chính ấy Chúa có tha cho cả thành không ? Giavê Thiên Chúa đã chấp thuận điều kiện Abraham đặt ra. Abraham đã kỳ kèo bớt dần bớt dần xuống con số 10 thì Giavê cũng chấp nhận ( x. St 18,16-33 ). Sau khi ra khỏi đời này khá lâu, Abraham mới vui mừng vì hiểu được rằng chỉ với một người công chính duy nhất chính hiệu thì Thiên Chúa cũng ban ơn tha thứ cho cả nhân loại ( x. Ga 8,56 ). Người công chính là người lôi kéo ân lộc trời cao cho nhân trần, là người trung gian hòa giải đất với trời, là người thể hiện tình yêu nhưng không của Thiên Chúa và là người nối kết mối dây giao hòa giữa nhân loại với Đấng tác thành mọi sự mọi loài.
 

KHÔNG AI CÓ THỂ TRAO BAN ĐIỀU MÌNH KHÔNG CÓ:
 
Đã yêu Maria thì dù cho không hiểu sự kiện người mình yêu thụ thai, Giuse vẫn tín trung, trước sau như một, không thay dạ, đổi lòng. Ngài dự tính chọn con đường rút lui trong âm thầm là vì yêu Maria, không muốn làm hại Maria, cho dù bản thân sẽ phải hứng chịu nhiều tai tiếng như hàng sở khanh. Khi được sứ thần báo mộng, Giuse đã mau mắn đón nhận Maria với đầy đủ bổn phận người chồng, người cha, nhưng quyền lợi thì nguyện hy sinh rất nhiều. “Bất hiếu hữu tam, vô hậu chi đại”. Tự nguyện cắt đứt việc lưu truyền nguồn sống tự nhiên ( không có con nối dõi tông đường ) vì tình yêu và nhất là vì niềm tin, thật là một lễ hy sinh cao quý. Sống đức tin và thể hiện tình yêu cho đến cùng trong sự âm thầm không chút danh phận trước mặt người đời quả là sự tự hiến, sự tự hủy cao độ. Chúng ta nhận ra điều này khi xóm giềng, người đồng hương kinh ngạc về sự khôn ngoan của Chúa Giêsu và những sự phi thường được thể hiện do bởi tay Người: Ông ta không phải là con bác thợ sao ? ( Mc 6,3 )

MỘT NGƯỜI CÔNG CHÍNH XỨNG DANH ĐƯỢC NHÌN NHẬN:
 
Con người, nhân cách và có thể nói là cả niềm tin của Chúa Giêsu mang đậm dấu ấn của Thánh Giuse. Ở đây chúng ta không một chiều theo nghĩ suy thường tình: “cha nào con nấy”, nhưng chính cung cách ứng xử của Chúa Giêsu, những lời giảng dạy của Người và cả cuộc đời của Người minh chứng cho sự thật này. Khi khẳng định mình không làm điều gì mà không trông xem cha đã làm thì dù Chúa Giêsu có ý nói về Cha trên trời nhưng hẳn có sự góp phần của người cha nuôi Giuse. Thánh Giuse không chỉ tập tành cho Chúa Giêsu ngành nghề thợ mộc mà nhất là dìu dắt Con Trẻ sống đức tin, sống yêu thương đến cùng trong sự thủy chung.

Một cách nào đó, chính nhờ gương mẫu của Giuse và sự giáo dục của Ngài mà nhân loại đã hưởng nhận một Người Công Chính xứng danh là Giêsu. Người đã yêu thương những kẻ thuộc về Người, những kẻ mà Cha trên trời đã ban cho Người và yêu thương họ đến cùng, đồng thời tìm mọi cách thế để chẳng một ai bị hư mất. Phải nói chắc chắn rằng chẳng có một ai mà Chúa Cha lại không trao ban cho Con Một Người. Chính vì thế phút giây hấp hối trên thập giá Chúa Giêsu đã khẩn xin Chúa Cha tha cho cả kẻ giết Người vì họ lầm chẳng biết ( x.Lc 23,34 ). Một điều chắc chắn không kém đó là tông đồ Giuđa, kẻ phản bội cũng ở trong số đó. Trước tình yêu kiên vững và tín trung của người tử tội trên đồi Can-vê, “viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng: Người này đích thực là người công chính !” ( Lc 23,47 ).

Tạ ơn Chúa đã tặng ban cho đời một Người Công chính xứng hiệu, cám ơn Thánh Cả Giuse đã góp phần đáng kể trong việc dệt xây cho loài người một Người Công Chính chính danh. Vì một Người Công Chính này, Giêsu-Kitô, cả vũ hoàn mừng rỡ hân hoan, toàn thể nhân loại cất tiếng reo vui vì được ơn giao hòa.
 
 
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa



Thánh Giuse: Vị thánh thầm lặng

 

Phụng vụ dành ngày 19 tháng 3 hàng năm để tôn kính một vị thánh vốn dĩ ưa thích sự thinh lặng. Đó chính là thánh cả Giuse, Người công chính và là bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria. Trong các sách Tin Mừng, Giuse được nhắc đến khoảng chục lần trong Tin Mừng theo thánh Mátthêu và Luca, một lần duy nhất nơi Tin Mừng theo thánh Gioan và không hề được nhắc đến trong Tin Mừng theo thánh Máccô. Liệu có phải thánh Giuse chỉ được người ta biết tới là nhờ sự nổi tiếng của Đức Maria và Đức Giêsu ? Có phải thánh nhân chỉ là một nhân vật phụ ?

Câu trả lời hoàn toàn theo chiều hướng ngược lại. Thánh Giuse giữ một vai trò rất quan trọng trong chương trình của Thiên Chúa như lời nguyện đầu lễ có nhắc đến: « Lạy Chúa, Chúa đã giao phó Đức Giêsu cho thánh cả Giuse và thánh nhân đã trung thành gìn giữ trong giai đoạn đầu của công trình cứu độ ». Vâng, sứ mạng quan trọng này hoàn toàn cần được thực hiện trong bầu khí tĩnh lặng. Điều đó giúp chúng ta nhận ra rằng thánh cả Giuse đã được Thiên Chúa « chọn mặt để gửi vàng ». Sự thinh lặng bao trùm nơi thánh nhân nói lên đời sống đức tin mãnh liệt được hun đúc bằng đời sống chiêm niệm và được thể hiện qua những việc làm cụ thể. Đó là bức thông điệp của thánh Giuse muốn nhắn gửi cho mỗi Kitô hữu trong lòng đời hôm nay.

Thánh sử Mátthêu đã đề cập đến nét vàng son về đời sống đức tin này. Thật vậy, nơi thánh cả Giuse không hề có sự tách biệt giữa đời sống chiêm niệm và đời sống thi hành sứ vụ. Nhờ đắm mình vào chiều sâu của đời sống chiêm niệm, thánh Giuse đã đọc được thánh ý Chúa và thực hiện một cách tức khắc không chần chừ. Ngài không hề nghi hoặc về sứ mệnh cùng với cách thức cần phải tiến hành làm sao. Đức Maria, người bạn trăm năm của ngài, trước khi thưa « xin vâng » thì đã băn khoăn hỏi lại sứ thần truyền tin về cách thức thực hiện. Thánh Giuse không dùng lời để đáp trả lời mời gọi của sứ thần nhưng ngài biết thi hành công việc mà sứ thần chỉ dạy. Những điều chỉ dạy đó hoàn toàn liên quan đến cơn chiêm bao trong đêm

tối. Trong chiêm bao, Giuse nhận được lời mời gọi của sứ thần đề nghị đón nhận và nâng đỡ Maria trong sứ vụ cưu mang Ngôi Lời Nhập thể. Trong đêm tối lạnh giá, thánh nhân chiêm ngắm Con Chúa giáng trần. Cũng trong đêm tối, sứ thần nói với Giuse trong mộng về việc đưa Hài Nhi Giêsu và Mẹ Người trốn sang Ai Cập để tránh sự sát hại từ bàn tay khát máu của bạo chúa Hêrôđê. Lại một lần nữa, Giuse đã thi hành sứ mệnh hồi hương Hài Nhi Giêsu và Đức Maria sau khi được sứ thần cho biết trong chiêm bao. Giuse đưa gia đình Thánh Gia trở về « an cư lạc nghiệp » tại Nazareth và nên gương mẫu về đời sống lao động và cầu nguyện.

Suốt khoảng thời gian dài trong đời sống ẩn dật của Đức Giêse tại Nazareth, thánh cả Giuse ngày qua ngày có dịp tiếp xúc và chiêm ngắm Màu Nhiệm Ngôi lời Nhập Thế và Cứu Chuộc qua lao động, qua cầu nguyện và qua tất cả các chiều kích của cuộc sống. Nazareth trở nên ngôi trường dạy đức tin. Tại đây giữa lao động và chiêm niệm chỉ hai hai khía cạnh của một vấn đề duy nhất là đức tin. Đời sống lao động cũng là một lời cầu nguyện thật cụ thể và sống động. Đời sống chiêm niệm là suối nguồn ân sủng thánh hóa toàn diện mọi chiều kích của gia đình Nazareth. Cuộc sống diễn ra một cách âm thầm đầy nhịp nhàng trong sự kết hợp hài hòa của chiêm niệm và lao động mà không hề có một chút tiếng động của sự đao to búa lớn. Trong bầu khí ấy, Giuse lắng nghe tiếng Con Một Thiên Chúa. Trong bầu khí thực thi thánh ý Chúa, Giuse muốn gửi gắm trọn vẹn điều mình muốn nói.

Mừng lễ thánh Giuse, chúng ta hãy xin thánh nhân bầu cử ngõ hầu đáng được hưởng kho tàng của ơn cứu độ mà ngài đã có công cưu mang ngay trong buổi bình mình. Nguyện xin thánh cả Giuse dạy dỗ mọi gia đình biết noi gương gia đình Nazareth. Trong đó mọi người biết đắm mình trong đời sống chiêm niệm để kiếm thánh ý Chúa, biết suy đi nghĩ lại trong lòng với thứ lương thực bổ dưỡng này và biết thực thi ngay tức khắc trong tâm tình tín thác và cậy trông.
 
Thánh Giuse gương mẫu của đời sống lao động
 
Quang Huyền
 
Dọc theo dòng lịch sử truyền giáo và hình thành Giáo Hội Việt Nam, chúng ta nhận thấy thánh Giuse có một vị trí rất đặc biệt trong lòng tôn kính của các kitô hữu Việt Nam, nhất là dưới bình dân. Phải chăng tinh thần lao động cần mẫn của Thánh Giuse trong vai trò là người cha của gia đình Nazaret đã đánh động nhiều người? Người viết xuất thân từ miền quê nên từ rất sớm đã được hấp thụ được một lòng tôn kính thánh Giuse từ gia đình. Và từ đó, Thánh Giuse đã trở thành một mẫu gương cho tôi trong các chiều kích của cuộc sống, nhưng tinh thần lao động trong âm thầm và hy sinh của ngài đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng nhất. Sắp tới ngày lễ kính Thánh nhân, tôi lại nhớ đến ngài trong đời sống cần lao.
 
Nghề Nghiệp của Thánh Giuse.
 
Lần giở các sách Tin Mừng, chúng ta nhận thấy, kể từ sau sự kiện tìm gặp Chúa Giêsu trong đền thánh Gierasalem (x. Lc 2,46), thì các tác giả Tin Mừng chỉ nhắc đến thánh Giuse một hoặc hai lần mà thôi. Thánh Mátthêu kể rằng: “Khi Chúa Giêsu giảng dạy trong hội đường, người ta sửng sốt trước tài năng của Chúa và nói: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được nhiều phép lạ như thế? Ông ta không phải là con bác thợ mộc sao?”(Mt 13,55). Còn thánh Luca thì cho biết rằng trước mặt mọi người, Chúa Giêsu là con ông Giuse: “Đức Giêsu khởi sự rao giảng khi Người trạc 30 tuổi, thiên hạ coi người là con ông Giuse”(Lc 3. 55). Thánh Gioan cũng vài lần đề cập đến đến thánh Giuse.

Từ các chứng từ Kinh Thánh ít ỏi, chúng ta biết về được rằng, thánh Giuse là Cha nuôi của Chúa Giêsu, người làm nghề thợ mộc. Nghề của Thánh Giuse là một nghề rất bình thường trong xã hội Do thái lúc bấy giờ. Nhưng trong nghề nghiệp khiêm tốn của bác thợ mộc, Giuse có tinh thần lao động cần cù trong âm thầm và cầu nguyện. Tinh thần đó được tô điểm thêm xinh nhờ thánh Giuse hướng lao động tới mục đích cao cả là cộng tác vào trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa và thăng tiến đời sống đạo đức của mình. Chính vì thế, Thánh Giuse xứng đáng là mẫu gương về đời sống lao động cho người kitô hữu chúng ta nói riêng và cho con người thời đại hôm nay nói chung.

Thánh Giuse lao động để cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
 
Nhìn ngắm hình ảnh đẹp của Chúa Giêsu thời niên thiếu, Ngài sống bên Đức Mẹ và thánh Giuse: “Con trẻ càng ngày càng khôn ngoan…” (Lc 2,52), chúng ta được phép nghĩ về một gia đình hạnh phúc, một tổ ấm yêu thương nơi gia đình Thánh Gia. Cột trụ, bức nền của đời sống hạnh phúc yêu thương trong gia đình Thánh Gia là sự cộng tác của Thánh Giuse và Đức Mẹ. Các ngài với tình yêu và khả năng của mình đã làm lan tỏa đời sống hạnh phúc yêu thương và thánh thiện lên Trẻ Giêsu “nhìn quả biết cây”. Hơn nữa, chứng quá trình khôn lớn, đạo đức và thánh thiện của Chúa Giêsu, chúng ta biết được sự chăm sóc và giáo dục của cha mẹ Ngài là thánh Giuse và Mẹ Maria biết là dường nào.

Riêng thánh Giuse, với nghề thợ mộc, ngài đã phải lao động chăm chỉ và vất vả, để đảm bảo đời sống vật chất cho gia đình. Những giọt mồ hôi, những đường cưa, những sự tính toán của thánh Giuse trong công việc, như làm tăng thêm vị đượm đà và thi vị cho đời sống hạnh phúc cuả gia đình Nazaret. Quá trình lao động miệt mài để xây dựng tổ ấm yêu thương của Thánh Giuse, làm toát lên tinh thần cao đẹp của ngài trong việc thực hiện thánh ý Chúa là nuôi dưỡng và bảo vệ Chúa Giêsu. Đó cũng là cách thánh nhân cộng tác đắc lực vào trong chương trình cứu độ của thiên Chúa.

Hơn thế nữa, chúng ta sẽ tỏ tường hơn mục đích cao đẹp này của Thánh Giuse, khi chiêm ngắm những bước chân thăng trầm của ngài trong suốt cuộc đời bên Chúa Giêsu và Đức Mẹ.

Thánh Giuse đã từng đặt những bước chân mệt mỏi và lo lắng của ngài trên đường Bêlem, khi chưa tìm được chỗ trọ cho hai mẹ con trú ngụ trong lúc Mẹ Maria sắp tới giờ mãn nguyệt khai hoa. Có lẽ ngài đã khóc và an ủi Mẹ rất nhiều trong cảnh thê lương của đêm đông Belem giá buốt năm ấy.

Những bước chân gấp gáp, hoang mang lo sợ của thánh Giuse trên đường đưa Chúa Giêsu và Đức Mẹ trốn sang ai cập. Ngài những mong cho cả hai mẹ con được an toàn và quên đi sự cực nhọc của chính mình.
 
Những bước chân khắc khoải kiếm tìm con trên đường Girusalem. Sự lo lắng vì sợ mất con xâm chiếm và làm nặng trịu con tim ngài, nhưng không thấy một lời than van từ miệng ngài.

Những bước chân âm thầm, lao nhọc suốt 30 năm ở làng Nazaret, để xây dựng và bảo vệ cuộc sống ấm êm cho Gia đình Thánh Gia.

Hành trình cuộc đời của thánh Giuse là những bước chân thăng trầm không mệt mỏi, nhưng luôn chất chứa niềm vui, hạnh phúc và hy vọng, vì đó là sự cộng tác hết mình vào công trình cứu độ của thiên Chúa. Người ta vẫn thường có lý rằng “Lời vô ngôn bất tận ý”, vì có những điều mà ngôn ngữ bất lực, không thể diễn tả và truyền đạt hết tất cả tư tưởng tình cảm con người. Đó là sự hữu hạn của ngôn ngữ. Đó là lúc mà con người phải dùng đến vô ngôn, đối diện với vô ngôn. Lúc mà con người làm cuộc trò chuyện trong im lặng, đối thoại trong im lặng. Điều này rất hay để nói về sự âm thầm của thánh Giuse trong các Tin Mừng.

Thánh Giuse lao động trong thinh lặng và cầu nguyện
 
Các tác giả Tin Mừng không ghi lại lời nói nào của Thánh Giuse. Đây có lẽ là một sự lựa chọn đúng của các ngài, với mục tiêu làm mổi bật sự thing lặng và chuyên cần lao động của thánh Giuse là một vẽ đẹp thánh thiện. Đây là mẫu gương sáng đẹp của thánh Giuse về đời sống lao động và thing lặng cho nhiều người.

Lao động trong thing lặng giúp con người hoàn thiện chính mình. Người ta thường xem đây là một hình thức tu thân. Thánh Giuse đi theo con đường này, hằng ngày thánh nhân vun tưới, chăm sóc những hạt giống tình yêu thiên Chúa đã gieo trong lòng ngài. Ngài đã không ngừng luyện tập để biết tự do chọn lựa những điều tốt lành và xa xa lánh những điều xấu. Trong công việc thơ mộc, thánh Giuse phải tiếp xúc với nhiều người, làm những việc khác nhau tại xưởng cũng như tại nhà người ta. Vì thế ngài không ngừng luyện tập để sống tốt, chọn những điều có ích cho người khác và nhất là làm gương cho Chúa Giêsu. Hình ảnh của một Chúa Giêsu yêu thương đám dân đói khát và hoá bánh nuôi họ, luôn bênh đỡ và bảo vệ người yếu thế trong xã hội, luôn dạy người ta ăn ngay ở lành…là những biểu hiện rõ nhất sự ảnh hưởng của thánh Giuse đối với Ngài.
 

Thánh Giuse đã sống một cuộc đời thầm lặng của một gia trưởng, nuôi sống gia đình bằng nhề lao động chân tay, Ngài đã nên thánh trong hoàn cảnh đó bắng cách tu tâm dưỡng tính và rèn nhân cách mỗi ngày. Nhờ đó, ngài luôn sẵn sàng thực hiện thánh ý Thiên Chúa, luôn sẵn sàng hoàn thành nghĩa vụ người chồng, người cha trong gia đình Nazaret, với sự lựa chọn căn bản là hiến thân phục vụ Thiên Chúa và mọi người. Gương sáng này của thánh Giuse vẫn đúng cho mọi người và mọi thời, nếu con người khao khát tìm kiếm thực hiện thánh ý Thiên Chúa trong lao động.
 

Cuộc đời của con người vẫn sẽ mãi gắn liền với lao động, nhưng ngày nay con người có xu hướng lao động với mục tiêu kiếm tiền, kiếm lợi nhuận để thoả mãn các nhu cầu hưởng thụ cá nhân ích kỷ. Hậu quả của nó là hàng triệu trái tim đang mỏi mệt và đói khát của ăn vật chất lẫn tinh thần, ngôi nhà chung của thế giới đang bị tàn phá một cách không thương tiếc mỗi ngày. Và như thế, con người đang dần đánh mất đi những ý nghĩa cao quý của lao động là làm thăng tiến con người và xây dựng xã hội loài người ngày càng tươi đẹp hơn.
 
Là những người Kitô hữu, thiết nghĩ mỗi người hãy chiêm ngắm gương lao động của thánh cả Giuse, nhằm hướng dẫn đời sống lao động chân tay và trí thức của mình vào đúng quỹ đạo của nó là cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, phục vụ sự thăng tiến bền vững của xã hội và con người. Hy vọng rằng dưới sự dẫn dắt của thánh Giuse, chúng ta sẽ thể nghiệm đời sống lao động của mình phù hợp thánh ý Chúa, ngõ hầu mỗi người chúng ta trở thành những người khôn ngoan và đầy ân sủng của Chúa trong hành trình đi tìm kiếm hạnh phúc vĩnh cửu cho mình và cho anh em mình.
 
Quang Huyền
 
THÁNH GIUSE,
VỊ THÁNH KHIÊM NHƯỜNG VÀ BÁC ÁI
 
Ngô Suốt, CTS
 
Thánh Frances de Sales viết rằng: “Thật không cần thiết để luôn luôn lúc nào cũng chăm chú đến tất cả mọi nhân đức để diễn tập; có thể làm gãy gập và lúng túng ý tưởng và cảm giác của bạn rất nhiều. Khiêm tốn và bác ái là những sợi dây chủ chốt; tất cả các nhân đức khác đều gắn liền vào. Chúng ta chỉ cần nắm giữ hai sợi dây này: một ở dưới đáy và một ở trên đỉnh. Sự đứng vững của tòa nhà tùy thuộc vào móng và mái của nó. Chỉ cần tập trung tâm hồn để diễn tập hai nhân đức này chúng ta sẽ không bị khó khăn đối với các nhân đức khác. Đây là những nhân đức mẹ và những nhân đức khác theo sau giống như gà con theo gà mẹ”. Dường như hầu hết các thánh của Giáo hội đều chuyển tải hai nhân đức chủ chốt này, nhưng vượt trội hơn cả phải nói đến vị đại thánh đáng kính và đáng yêu của chúng ta là thánh cả Giuse.
 
Thánh Giuse đáng kính vì Ngài có quá nhiều nhân đức siêu phàm, người bình thường không thể có được, điều này cũng dễ hiểu vì Ngài được tiền định chăm lo gia đình Thánh, Ngài được những ân sủng đặc biệt thiết tưởng không có gì lạ cả. Đến nổi người ta cho rằng Ngài không hiểu, không biết, cũng không hỏi, chỉ tin và làm theo lời Chúa. Thí dụ khi Thiên thần báo mộng cho Ngài: ”Đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần...”, tôi không nghĩ rằng Ngài hiểu được vấn đề, kể cả Chúa Thánh Thần là gì. Khi được mộng báo đem con trẻ và Mẹ Người trốn sang Ai Cập cũng vậy, Ngài không biết gì về ý định cũng như kế hoạch của Chúa, chỉ làm theo -một cách liều lĩnh- không thắc mắc, thật mạo hiểm vì không những đưa con trẻ đi trốn trong lúc mới sinh ra, còn đưa đi đến một xứ sở xa lạ không người quen biết.

Ngài đáng kính vì khiêm nhường và bác ái đến độ chỉ thi hành không nói. Ngày xưa ở Do Thái người ta rất trọng nam khinh nữ. Tuy vậy sau khi lạc Chúa 3 ngày, tìm thấy Chúa, đáng lý Thánh Giuse lên tiếng. Nhưng không, Ngài im lặng để vợ mình nói. Trong bốn cuốn Tin Mừng, đều có thấp thoáng bóng dáng Đức Trinh Nữ Maria, Thánh Giuse chỉ được nhắc đến trong Tin Mừng của Mathiêu và Luca mà thôi. Đức Mẹ lên tiếng tại tiệc cước Cana (Tin Mừng của Gioan), lên tiếng bốn lần trong Tin Mừng của Luca nói về thời thơ ấu của Chúa Giêsu. Còn Thánh Giuse hoàn toàn không nói lời nào trong toàn bộ Thánh kinh. Ngài đúng là con người kỳ diệu.

Sống trong ơn gọi gia đình, chúng ta phải công nhận ơn gọi độc thân vì nước trời của các tu sĩ nam nữ là điều hết sức khó khăn. Thế nhưng thánh Giuse lại sống chung đụng –dù trên nguyên tắc pháp lý là vợ chồng- với cô thôn nữ xinh xắn, nhưng giữ mãi nhân đức trong sạch là điều làm cho nhiều người nghi ngờ, vì họ nghĩ rằng điều đó không thể làm được đối với bản tính tự nhiên của con người. Người ta suy luận hợp lý, đúng nếu không có sự can thiệp của Đấng Toàn Năng thì rõ ràng vô phương. Theo các nhà tâm lý học con người có hai bản năng mạnh mẽ nhất là tôn giáo (Religion) và tình dục (Sex). Kết luận này cho chúng ta biết được rằng khi bản năng tôn giáo thắng thế người ta có thể khống chế nhu cầu tính dục mặc dù không hoàn toàn dễ dàng. Điều này cũng giải thích được lý do khi tôn giáo mất đi sự thu hút, trân trọng trong xã hội, tình dục sẽ thắng thế, thống trị, do đó tội lỗi lan tràn. Riêng thánh cả Giuse còn khác thường, tuyệt vời hơn nữa. Trong Tin Mừng thánh Mathiêu kể chuyện người đàn bà bị bịnh băng huyết 12 năm, chỉ lén đụng vào gấu áo Chúa Giêsu tức khắc được lành bệnh. Theo Do Tháí Giáo thì việc gì liên quan đến máu huyết là ô uế (cụ thể phụ nữ sinh con 40 ngày phải đem lễ vật lên đền thờ để tẩy uế), Người đàn bà bịnh hoạn ấy chỉ lén đụng vào gấu áo tức thì sự ô uế kinh niên của bà biến mất, phương chi Thánh Giuse trực tiếp ẵm bồng, chăm sóc, nuôi nấng và dạy dỗ Đấng Toàn Năng.
 

Các tu sĩ Công Giáo của chúng ta (đáng được trân quý cùng động viên và nâng đỡ vì ơn gọi độc thân), dĩ nhiên nhờ sự trợ lực của Thiên Chúa, họ còn có thể đè bẹp được bản năng tình dục, nhu cầu đòi hỏi của thân xác, huống chi thánh Giuse, người công chính (công chính là kính sợ Thiên Chúa; hiểu biết điều tốt lành rồi đem thực hành những điều tốt lành đó cả đời).Thử hỏi, giả như Thánh Giuse có một lúc nào đó thoáng vấn vương ý tưởng không trong sáng nào đó trong đầu chẳng hạn, ý tưởng mờ ảm ấy làm sao tồn tại được dù chỉ một giây–dù chỉ trong ý nghĩ- khi đụng chạm trực tiếp thân thể tinh tuyền, trong suốt hơn pha lê Đấng Chí Thánh Chí Tôn, cùng hít thở chung không khí với Mặt Trời Công Chính. Chúng ta có thể xác quyết bản năng tình dục trong thánh Giuse đã bị khống chế đến tận cùng hay có thể nói bị triệt tiêu hoàn toàn, nhường chỗ cho bản năng tôn giáo được phát huy đến tột đỉnh. Đây chúng ta không muốn nói đến yêu tố Ngài đã được Thiên Chúa chuẩn bị, tin tưởng trao phó Con Một mình. Vật gì của Chúa đều thánh thiêng, Cha Mẹ của Thiên Chúa –dù nuôi- dĩ nhiên các Đấng Thánh, phải được Thiên Chúa gìn giữ, bảo toàn cách đặc biệt nguyên tuyền hẳn chuyện đương nhiên.
 

Nếu chúng ta cho rằng thánh Gioan Tiền Hô vị ngôn sứ sau cùng của thời Cựu Ước, Đức Trinh Nữ Maria là người tín hữu đầu tiên thời kỳ Tân Ước, thì chúng ta cũng có thể nói rằng Thánh Giuse là vị Linh mục Công Giáo đầu tiên thời Tân Ước. Ngài có đủ phẩm cách, đức độ của người Linh Mục. Người Linh Mục Công Giáo đưọc kính trọng, quý mến vì sự hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa qua việc trung thành với ba lời khấn, thử hỏi còn ai sống trong sạch, khó nghèo và vâng lời hơn Thánh cả Giuse; còn ai yêu mến, tận tụy phục vụ Thiên Chúa bằng Thánh Giuse đáng kính đáng yêu, còn ai khiêm tốn và bác ái hơn Ngài. Ngài đáng kính vì không phải ngày xưa, hôm nay chúng ta vẫn chạy đến xin Ngài bảo bọc, phù trì. Đức Giáo Hoàng Benedict XV, ngày 25-07-1920 công bố: ”...Khi chúng ta quan tâm đến sự bao vây, tấn công nhân loại của ma quỷ hôm nay. Chúng ta thấy dường như tất cả các bằng chứng cho thấy lòng sùng kính thánh Giuse gia tăng vô cùng mạnh mẽ, nó được lan truyền rộng rãi trong các tín hữu...”

Hai nhân đức khiêm tốn và bác ái đúng là nhân đức mẹ. Nó khó khăn vô vàn, phải phấn đấu, vật lộn từ trong bản ngã thẳm sâu con người. Nhân đức trong sạch cũng khó, nhưng còn dễ kềm hãm hay khống chế, bởi đa phần nó kích thích hoặc cám dỗ do yếu tố khách quan. Còn nhân đức khiêm tốn luôn luôn bị lòng kiêu ngạo chèn ép đến ngộp thở, tuy nói dễ lắm nhưng làm không dễ, cái tôi con người quá lớn, ít khi chịu hạ mình, chấp nhận nhường thua kẻ khác. Nhân đức khiêm tốn khó đến nỗi tự mình chúng ta không thể làm được, do đó thánh St. Anthony Mary Claret phát biểu: ”“Để một móng tay trên tấm ván, Tự nó có thể di chuyển xuyên sâu vào ván cho dù nó sắc bén đến mấy không ? Không thể. Bạn chỉ làm cho nó xuyên sâu vào ván bằng cách dùng cái búa đập vào nó. Chúng ta cũng giống y như vậy, chỉ có cách bằng những nhát búa Thiên Chúa làm cho chúng ta trở nên khiêm tốn, bất luận bản chất tính khí chúng ta tốt lành cỡ nào.”

Thánh Giuse là nhân vật thánh thiện thứ hai, chỉ sau vợ Ngài. Thiêt nghĩ Thánh Giuse là Đấng bảo trợ xứng đáng nhất, quyền thế nhất, chúng ta có thể nói Ngài đi đầu trong tất cả các nhân đức, nên xin Ngài cầu bầu và học tập những nhân đức tuyệt vời của Ngài là hết sức khôn ngoan, đúng đắn. Ngài ở vị trí, uy thế cao trọng trên thiên đáng, lời chuyển cầu của Ngài vô cùng thần thế, hiệu nghiệm. Chúng ta thử tưởng tượng: tất cả các thánh đến trước ngai của Đức Mẹ như những đứa con lệ thuộc vào Bà, còn Thánh Giuse hiện diện trong vị thế người chồng. Tất cả các thánh đến trước Ngai Tòa Chúa Giêsu như những đầy tớ, trong khi thánh Giuse xuất hiện trước mặt Chúa như một người cha. Thử hỏi còn ai mạnh thế hơn nữa ! Bởi đó nên vào năm 1870 Đức Giáo Hoàng Piô IX công bố là Thánh Bản Mệnh của Giáo Hội Hoàn Vũ. Còn Giáo Hội Việt Nam sau đó nhận Ngài làm Thánh Quan Thầy.
 

Tóm lại, Giáo hội đã chuẩn bị cho chúng ta rất nhiều gương nhân đức của các thánh để chúng ta noi theo, đặc biệt nhất có Đức Trinh Nữ Maria và Thánh cả Giuse, vì hai Ngài với những nhân đức vượt trội tất cả các thánh, được thưởng công xứng đáng trên thiên quốc. Học tập cũng như chạy đến hai Ngài là con đường an toàn, ngắn nhất để đến với Con các Ngài. Chúng ta có thể ví hai Ngài như chiếc cầu hay con thuyền đưa chúng ta đến vương quốc của Con các Ngài cách bảo đảm và nhanh chóng nhất. Tha thiết xin các Ngài chuyển cầu cùng dạy dỗ, trợ sức để chúng ta có thể học và diễn tập nhất là nhân đức khiêm tốn và bác ái. Giáo hội cũng mong muốn chúng ta sùng kính các Ngài, học tập nơi các Ngài và nhờ các Ngài chuyển cầu. Xin mở ngoặc: mặc dù biết rằng nhận thức đức tin của người Tín Hữu hôm nay phần lớn đã trưởng thành, tuy vậy ngày nay thời đại đối thoại, đại kết, nhất là với các hệ phái anh em - tôi nghĩ rằng tìm cách đưa những anh em sai lạc trở về với Giáo Hội đích thực là đòi hỏi của nhân đức bác ái -, do đó Giáo hội vẫn khôn khéo, cẩn thận nhắc nhở qua Tông Huấn Marialis Cultus của Đức Giáo Hoàng Phaolô đệ Lục ngày 02-02-1974: ”Mục đích tận cùng của lòng sùng kính Đức Trinh Nữ Maria là để tôn vinh Thiên Chúa và đưa người Kitô hữu đến chỗ tự ký thác cuộc đời, điều chỉnh cuộc sống họ cho phù hợp với Thánh ý của Chúa.”. Để kết thúc xin mượn ý tưởng sau đây: ”Chúng ta hãy chạy đến Thánh Cả Giuse trong mỗi nhu cầu và ánh sáng rực rỡ trong nụ cười của Đấng Cứu Độ sẽ dừng lại trên chúng ta. Chúng ta hãy cầu nguyện bên cạnh Ngài, Ngài linh hứng tất cả chúng ta dâng lời tạ ơn lên Đấng Cứu Chuộc Yêu Thương, vì những mầu nhiệm ẩn dấu của ân sủng trong cuộc sống chúng ta và vì mọi lời chúc lành của Thiên Chúa Tình Yêu ”.
 
Ngô Suốt, CTS


GIUSE-NGƯỜI THỢ MỘC CÔNG CHÍNH
 
Linh Mục Giuse Trần Đình Long. sss
 
Cầu Nguyện là phương thế tuyệt diệu
đụng được vào tình yêu Thiên Chúa
 
Trong sa mạc, Môisê giương cao con rắn đồng, ai trong Israel bị rắn độc cắn mà nhìn lên con rắn bằng đồng đó, thì được chữa lành và khỏi chết.
 
          Con rắn đồng trong sa mạc là hình bóng Đức Giêsu chết tử nạn thập giá.
 
          Đức Giêsu cũng được Đức Chúa Cha giương cao trên thập giá trước thế gian, nơi cuộc tử nạn và chói lòa vinh quang phục sinh của Người. Những ai tin vào Đức Giêsu Phục Sinh sẽ được Người kéo lên, không phải lên trời, nhưng kéo từ cõi thấp u buồn của tội lỗi lên cõi cao, được hội nhập vào trong Nước Thiên Chúa đầy tràn bình an, vui mừng, hạnh phúc muôn đời.
 
          Trong Mùa Chay này, việc làm đầu tiên của chúng ta là tin và nhận Đức Giêsu, không tin và nhận những nghi thức bên ngoài. Việc tin và nhận Đức Giêsu vào đời mình chính là tin và nhận Con Thiên Chúa chết đau thương thập giá đã sống lại để cứu độ ta, vì yêu thương ta, “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ.” (Ga 3,17)
         
Nếu chúng ta chỉ tin vào các của lễ, các việc đạo đức ăn chay hãm mình, các nghi thức phụng tự bên ngoài để đạt được Nước Trời mà không tin nhận Đức Giêsu, tin như thế là đang nằm trong án chết, như Kinh Thánh nói: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.” (Ga 3,18).
 
Chúng ta đang ở trong tháng ba, tháng kính thánh Giuse. Cùng nhau dành ít phút suy niệm về ngài.
 
          Nếu thánh Giuse là gương mẫu cho các gia trưởng hôm nay, thì chúng ta phải noi gương ngài thế nào ?
 
·         Xét về mặt xã hội : Thánh Giuse quả thật là một vị gia trưởng đã thất bại nặng nề trên đường đời. Nhiều gia trưởng thời đó cũng như ngày nay đã làm cho gia đình họ được sung túc, cơm no áo ấm, nhà cao cửa rộng hơn thánh Giuse nhiều lần.
·         Về chức vị ở đời : Rất nhiều gia trưởng đã làm rạng rỡ cho gia đình vì chức tước thế giá địa vị của họ. Có khi“một người làm quan, cả họ được nhờ!” Vợ con của những người gia trưởng này hãnh diện vì địa vị của cha/chồng họ trong xã hội. Phần thánh Giuse, suốt đời chẳng có được chức tước địa vị nào. Ngài bị khinh rẻ, không những ở Nazaret, mà còn ở khắp vùng Galilê. Nên khi Đức Giêsu đi rao giảng, những kẻ chống đối đã miệt thị: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao?” (Ga 6,42).
·         Về vấn đề lao động : Cũng phải công nhận rằng không cần có thánh Giuse làm gương về lao động, thì mọi người cũng đã phải lao động, tay làm hàm nhai, hai bàn tay đen đổi lấy bát cơm trắng. Vì lao động là quy luật gắn liền với con người kể từ khi Adam bỏ Chúa mà đi phạm tội. Đọc báo chí, ta thấy ngày nay có những người chồng người cha nhọc nhằn mưu sinh cơ cực để lo cho vợ con đâu thua gì Thánh Giuse ngày xưa!
·         Về mặt gia đình : Thật sự thánh Giuse là một gia trưởng “lép vế” nhất. Khi bằng an thì âm thầm làm việc sau bốn bức tường. Khi tai biến phải trốn chạy thì thiên thần kêu Giuse. Nhưng lúc giao dịch với bên ngoài thì vai chính lại là Đức Maria và Hài Nhi Giêsu. Khi các nhà hiền sĩ đến bái lạy Đức Giêsu thì Kinh Thánh chép: “Vào nhà, họ thấy Hài Nhi cùng Maria Mẹ Người, và họ phục mình xuống bái yết Người” (Mt 2,11). Không thấy nhắc gì đến Giuse cả!
Khi Đức Mẹ và Thánh Giuse đem hài nhi Giêsu lên Giêrusalem để tiến dâng cho Chúa, tiên tri Simêon chỉ nói với Đức Mẹ : “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.” (Lc 2,35). Còn Giuse, chỉ là cái bóng mờ bị lãng quên!
 
·         Trước mặt Thiên Chúa : Giuse coi như một người bị bạc đãi! Công nghiệp như thế, tận tụy như thế, mà thánh Giuse hầu như còn kém cạnh với các tông đồ và các thánh khác. Vì suốt đời thánh Giuse, Ngài không được làm một phép lạ nào. Và khi Đức Giêsu sống lại trong vinh quang thì thánh Giuse chắc đã qua đời rồi, không thấy nhắc gì tới!
 
Thánh Giuse sống âm thầm, chết âm thầm, thậm chí ngày hôm nay người ta cũng chẳng biết nấm mồ của Ngài ở đâu. Nhưng có một điều chắc chắn, thánh Giuse đã an nghỉ trong bàn tay Đức Giêsu và đã được chôn cất trong sâu thẳm của trái tim Đức Giêsu Kitô (Lc 10,20). Suy niệm như vậy làm cho các tín hữu phải nghĩ lại khi thấy mình còn quá lo âu và quá tốn phí trong việc ma chay mồ mả giỗ chạp. Đã có những người sẵn sàng “vung tiền qua cửa sổ” thi nhau làm những nấm mồ tốn kém hàng tỉ đồng cho những người quá cố trong gia đình mình như trong trong các “Thành Phố ma”. Mục đích chỉ để lấy tiếng như “con gà đua nhau tiếng gáy”, mà nào có hiếu đễ gì?
         
Hôm nay, trong Nước Thiên Chúa, ngoài Đức Maria Nữ Vương trời đất, Thiên Chúa đặt Giuse tôi tớ trung tín của Người làm đấng cao trọng trên tất cả.
 
          Bởi đâu mà thánh Giuse được như vậy ?
 
          Muốn nhìn một vị thánh đích thực, Hội Thánh chỉ nhìn vào Đức Giêsu. Những ai muốn được gọi là thánh đều phải dính liền thành một thân mình với Đức Giêsu. Không ai ở ngoài Đức Giêsu, dùng công lao khó nhọc giữ đạo của mình để làm thánh được “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15,6).
         
Thánh Giuse là một vị đại thánh. Ngài đã làm trọn bước khởi đầu Thiên Chúa giao phó, như bức bình phong che chở hài nhi Giêsu và Mẹ Ngài, để Thánh Thần đưa được Đức Giêsu lên tới chóp đỉnh cứu chuộc là cuộc tử nạn thập giá và phục sinh cứu chuộc nhân loại. Làm được công việc lớn lao ấy không phải do tài năng đạo đức của thánh Giuse, nhưng nhờ bác thợ mộc Giuse đã đặt trọn đời mình vào bàn tay Thiên Chúa. Giuse chỉ tin vào Thiên Chúa, nên một với Đức Giêsu trong mọi tâm tình và hành động, như Đức Giêsu đã nên một với Cha Ngài. Đức Giêsu nói: “Tôi tự trời xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi.” (Ga 6,38).
         
Thánh Giuse biết mình chỉ là một đầy tớ vô dụng, tất cả đều cậy nhờ vào Thiên Chúa (Lc 17,10). Ngài đặt mình trước Thiên Chúa như bông huệ ngoài đồng để Thiên Chúa nuôi dưỡng mặc đẹp cho Ngài (Lc 12,27), và để Thánh Thần Thiên Chúa qua Ngài dẫn dắt hài nhi Giêsu và Đức Trinh Nữ Maria theo ý của Thiên Chúa.
 
          Bác thợ mộc Giuse, người đầy tớ vô dụng của Thiên Chúa, đã được Thiên Chúa yêu mến và gọi: “Giuse là người công chính” (Mt 1,19). Thánh Giuse là người bình thường như bao gia trưởng khác, nhưng luôn vâng phục ý Chúa, chấp nhận cộng tác vào công trình cứu độ của Thiên Chúa. Như Đức Mẹ đã thưa XIN VÂNG với Thiên Chúa, lời thưa XIN VÂNG của thánh Giuse được thể hiện qua những biến cố chúng ta đọc thấy trong Tin Mừng thời thơ ấu Chúa Giêsu. Ngài luôn sẵn sàng bỏ ý riêng mình để làm theo ý muốn của Thiên Chúa qua những lần thiên sứ báo mộng. Qua đó, thánh nhân đã chu toàn vai trò của mình như một người làm cha làm chồng gương mẫu trong gia đình Nazareth.
         
Trong tháng thánh Giuse này, chúng ta cầu xin cho tất cả những gia trưởng, luôn nhìn vào mẫu gương thánh Giuse, mà biết đặt tất cả những lo âu cơ cực của đời mình và gia đình mình vào bàn tay nuôi dưỡng, chăm sóc và quan phòng của Thiên Chúa. Vì Đức Giêsu đã tha thiết nói với chúng ta rằng: “Các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy... Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được.”(Ga 14,1; 15,5b).
 
Xin cho các gia trưởng biết để Chúa Giêsu làm chủ làm Chúa trong gia đình của mình, để không còn những gia trưởng độc tài độc đoán, nắm toàn quyền sinh sát trong nhà, để không còn cảnh “chồng chúa, vợ tôi, con cái là nô lệ” nữa. Xin cho các người làm cha làm chồng đang đắm chìm trong rượu chè bài bạc sắc dục biết thức tỉnh trong Mùa Chay này quay về với Chúa để làm tròn nhiệm vụ người gia trưởng như Thánh Giuse xưa.
         
Lạy Thánh Giuse, trong cuộc sống đầy khó khăn đang vây quanh chúng con hôm nay, xin cho chúng con bắt chước ngài, mà phó thác tất cả cho quyền năng và lòng thương xót của Đấng yêu thương chúng con là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen
 
Linh Mục Giuse Trần Đình Long. sss


TIẾNG XIN VÂNG CỦA THÁNH GIUSE
 
Thời gian cứ tuần hoàn luân chuyển theo quy luật của đất trời. Xuân-hạ-thu- đông cứ nối tiếp trôi không lỗi nhịp. Cái ấm áp của mùa xuân qua đi nhường chỗ cho một mùa hè rực lửa sắp về. Tháng 3 với cái nắng chói chang và gay gắt làm cho con người khó chịu hơn, máy điều hòa được vặn đến maximum và người ta ngại ra đường để tránh cái nắng rát da rát thịt. Tuy nhiên đối với Giáo Hội, tháng 3 là một tháng rất đặc biệt dành để tôn kính Thánh Cả Giuse- Đấng "có thần thế trước mặt Đức Chúa Trời". Đặc biệt Thánh Giuse còn là bổn mạng của Giáo Hội Việt Nam. Lòng kính mến và trông cậy Thánh Giuse đã có từ lâu đời trong Giáo Hội. Rất nhiều vị thánh đã sùng kính Thánh Giuse cách đặc biệt như: Thánh Augustinô, Thánh Gioan Kim Khẩu, Thánh Hiêrônimô, Thánh Bênađô, Thánh Têrêsa…Ngoài ra, các Đức Giáo Hoàng xưa nay cũng năng thúc giục các giáo hữu cậy trông kính mến Thánh Giuse. Năm 1870, Đức Giáo Hoàng Piô thứ IX ra sắc chỉ phong Thánh Giuse làm quan thầy Hội Thánh. Ngày 15.8.1889, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII ra Thông điệp kính ông Thánh Giuse làm quan thầy cầu bầu cho Hội Thánh…
 
Lần giở những trang Kinh Thánh, chúng ta không hề gặp thấy một lời nào của Thánh Giuse. Trước mỗi biến cố xảy ra, ta đều thấy Thánh Giuse im lặng. Thế nhưng, cái im lặng này không phải là kiểu im lặng của chống đối, bất mãn hay bất lực, nhưng là cái im lặng của sự tự do vâng phục.
 
Chúng ta thấy,trong Giáo Hội có rất nhiều tước hiệu dành để ca tụng Thánh Giuse, chỉ riêng trong kinh cầu thôi thì đã có tới 24 tước hiệu rồi. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi xin được trình bày một khía cạnh khác trong cuộc đời Thánh Giuse, đó là "tiếng xin vâng của Thánh Giuse trong các biến cố". Có lẽ khi đọc tới đây, nhiều người sẽ thắc mắc: làm gì có lời xin vâng nào của Thánh Giuse? Xin thưa rằng: dù Thánh Giuse không trực tiếp nói xin vâng như Đức Mẹ, nhưng lời xin vâng của Thánh Giuse được cụ thể hoá qua các hành động mà chúng ta sẽ bàn sau đây.
 
1. Tiếng xin vâng thứ nhất: ĐÓN MARIA VỀ NHÀ.
 
Sau khi Đức Maria nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa đã hạ sinh trong cung lòng của Mẹ. Và khi biết tin Isave có thai, Mẹ đã mau mắn lên đường để viếng thăm và giúp đỡ chị mình trong 3 tháng.
 
Trong thời gian này, Giuse ở nhà để lo lắng chuẩn bị cho ngày thành hôn cùng những dự định, toan tính cho tương lai sắp tới. Dù sao, phần chuẩn bị cho hình thức bên ngoài vẫn là cần thiết để có một lễ thành hôn trọn vẹn.
 
Nhưng ngờ đâu, giữa lúc trời quang mây tạnh thì phong ba bão táp lại ập đến, mây đen kéo về che kín cả bầu trời. Niềm vui chưa kịp tới thì đau khổ đã chực chờ. Tâm hồn Giuse hoang mang cực độ khi bà con lối xóm xì xầm vào tai Giuse rằng: Maria có thai. Làm sao tin được đó là sự thật vì Maria vốn là con nhà nết na, đức hạnh? Dù cố biện minh cho Maria, nhưng Giuse không khỏi nghi ngờ khi mà sau 3 tháng trở về Maria có dấu hiệu mang thai. Làm sao đây, khi mà Maria cũng không thể tự biện hộ cho mình rằng: bào thai này là do quyền phép của Thiên Chúa chứ không phải người phàm. Giuse có thể tin được không? Maria đành chọn cách im lặng.
 
Về phần Giuse, chiếu theo luật có thể sử dụng một trong hai biện pháp: hoặc truy tố Maria trước pháp luật hoặc tìm hai nhân chứng để viết tờ ly dị ( vì theo luật Do Thái, đính hôn là được kể như vợ chồng). Thế nhưng, vì là người công chính thánh thiện nên ông không thể làm như vậy. Ông cũng không thể đối xử như thế với Maria, người ông yêu thương và là một cô gái đạo đức. Vì thế, giải pháp cuối cùng mà Giuse có thể thực hiện đó là: âm thầm ra đi, xem như một sự giải thoát cho cả hai.
 
Kinh thánh nói rằng: "Trong lúc định tâm như thế, thì Thiên Thần hiện đến với ông trong giấc mơ" và nói rõ về ý định của Thiên Chúa chọn Maria làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Thiên thần đã trấn an Giuse: " Chớ ngại nhận Maria làm bạn, vì Con bà đang cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông sẽ gọi tên người là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội" ( Mt 1,20-21). Lời Thiên Thần khai mở đã trút được gánh đang đè nặng tâm hồn Giuse bấy lâu. Cuộc giao tranh khủng khiếp đã kết thúc và phần thắng đã thuộc về mình. Giuse đã vui mừng đáp tiếng "xin vâng" để đón Maria về ( Mt 1,24) và thực hiện nhiệm vụ quan trọng mà Thiên Chúa đã trao: nuôi dưỡng và chăm sóc Con Thiên Chúa.
 
Vậy đó, giả như Thánh Giuse không tin lời sứ thần như ông Dacaria, giả như Thánh Giuse chỉ xem đó là một giấc mộng như bao giấc mộng bình thường để rồi âm thầm ra đi thì Con Thiên Chúa không có một gia đình trọn vẹn, kế hoạch cứu độ cũng không viên mãn.
 
Như thế, nhờ tiếng "xin vâng" âm thầm của Thánh Giuse mà chúng ta được hưởng nhờ ơn cứu độ.
 
2. Tiếng xin vâng thứ hai: TRỐN SANG AI CẬP.
 
Biến cố Con Thiên Chúa giáng trần là niềm vui cho toàn thể nhân loại. Uy quyền của Đấng Tối Cao được chiếu giãi trên muôn dân không phân biệt ngoại bang hay dân biệt tuyển. Thế nhưng, trong khi dân ngoại, những nhà chiêm tinh Phương Đông đã thấy được dấu lạ về Đấng Cứu Thế và đến để thờ lạy Người, thì có kẻ lại vì lòng tham quyền lực, muốn bảo vệ chỗ ngồi, đã tìm cách triệt hạ Đấng mà ông ta  nghĩ sẽ chiếm ngôi của mình. Trong cơn sợ hãi và cuồng loạn vì bị các nhà chiêm tinh đánh lừa, Hêrôđê đã ra tay tàn sát tất cả các con trẻ từ 2 tuổi trở xuống với hy vọng rằng vị Vua mới sinh cũng không thoát khỏi âm mưu độc ác của mình.
 
Thế nhưng làm sao kế hoạch của Thiên Chúa lại thất bại chỉ vì một kẻ tham quyền, hám lợi? Ngài đã cho sứ thần đến báo tin cho Giuse: " Hãy dậy đi, đưa Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai Cập và cứ ở lại đó cho đến lúc tôi báo lại, vì Hêrôđê đang tìm giết Hài Nhi đấy". ( Mt 2,13)
 
Lời báo tin đó làm lòng Giuse tan nát, thương cho thân con trẻ phải vất vả gian nan, khi sinh chẳng có mái nhà che chắn, không nệm ấm chăn êm, giờ phải chạy trốn nơi đất khách quê người. Thế nhưng, vì sự an toàn của Con Thiên Chúa, một lần nữa Thánh Giuse mau mắn" xin vâng" để lên đường. Kinh Thánh nói rõ: " Giuse liền trỗi dậy và ngay trong đêm ấy, đem Hài Nhi và Mẹ Người cùng sang Ai Cập". (Mt 2,14). Tiếng "xin vâng" rất rõ ràng, cụ thể ở hành động mau mắn, không chần chừ để ra đi "ngay trong đêm" mặc cho đường đi hiểm trở, gió rít từng cơn trong cái lạnh cắt da cắt thịt. Giuse hối thúc con lừa đi nhanh hơn để tránh xa vùng đất đầy nguy hiểm và chết chóc.
 
Vậy đó, nếu không có tiếng “xin vâng” ấy, Con Thiên Chúa đã không thoát khỏi bàn tay tàn bạo của đế vương Hêrôđê, và kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa bị "phá sản" hoàn toàn.
 
3. Tiếng xin vâng thứ 3: TRỞ VỀ NAZARET.
 
Trong vòng hai,ba năm sống nơi đất khách quê người, Giuse và Maria cứ mong ngóng ngày đựơc Thiên Thần báo tin trở lại quê nhà. Tâm hồn kẻ tha hương nào mà chẳng thế, cứ đao đáo nhớ về quê cha đất tổ, nơi "chôn nhau cắt rốn" với biết bao kỷ niệm dấu yêu. Hơn nữa, mang tâm trạng lẩn trốn thì làm sao có thể bình an, thanh thản được? Chắc rằng, Giuse và Maria không phải nghĩ đến bản thân mình nhưng thương cho con trẻ phải chịu cảnh lưu lạc, lòng cha mẹ nào mà chẳng đau, chẳng xót? Hai ông bà mong cho lời tiên tri mau được thực hiện: "Ta sẽ gọi con ta ra khỏi Ai Cập" ( Mt 2,15); (Hs 11,1)
 
Rồi sự chờ đợi cũng đến, Thiên Thần lại báo tin: "Hỡi Giuse, bây giờ hãy trỗi dậy và đi về Israel với Hài nhi và Mẹ Người, vì những kẻ âm mưu hại Người đã chết" ( Mt 2,20). Lại một lời baó tin vào đêm khuya. Giấc ngủ bị đánh thức, sứ mạng bảo vệ gia đình phải thực hiện không được chậm trễ. Giuse một lần nữa đáp lời “xin vâng”, vội vã lên đường. Màn đêm bao trùm vạn vật, con người đang chìm sâu trong giấc ngủ. Ai biết đâu có một gia đình đang âm thầm rời khỏi căn nhà yêu dấu để ra đi, tạm biệt những tháng ngày lưu lạc mà trở về quê hương. Lúc đầu, Giuse định trở về Bêlem, nhưng vì biết tin Akêlao lên thay thế Hêrôđê và cũng là một tay bạo chúa, nên Thiên Thần đã báo tin là phải về định cư ở Nazaret xứ Galilêa miền Bắc Do Thái. Giuse thoát khỏi hoang mang và làm theo ý Thiên Chúa, nhắm hướng Nazaret mà đi.
 
Vậy đó, chưa bao giờ Thánh Giuse chần chừ trước mệnh lệnh của Chúa. Chính nhờ sự “xin vâng” mau mắn của Ngài mà công trình cứu chuộc của Thiên Chúa được hoàn tất.
 
4. LỜI KẾT.
 
Từ khi đáp tiếng “xin vâng” lần thứ nhất thì cuộc đời của Thánh Giuse không còn sống cho bản thân nữa, mà gắn liền với sứ mạng bảo vệ Đấng Cứu Thế. Rồi còn biết bao tiếng “xin vâng” âm thầm khác trong cuộc sống bình dị ở làng quê Nazaret. Chưa bao giờ chúng ta nghe một lời nói nào của Thánh Giuse, nhưng chính những tiếng “xin vâng” mau mắn trong cuộc đời của Ngài lại có giá trị gấp nhiều lần. Có thể thấy, dường như Thánh Giuse chỉ là cái “bóng mờ” bên cạnh cuộc đời của Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Khi hoàn tất nhiệm vụ được giao, Ngài âm thầm lùi về phía sau, lặng lẽ làm chỗ dựa vững chắc cho gia đình. Ngài cũng lặng lẽ rời xa Đức Mẹ và Chúa Giêsu khi kế hoạch của Thiên Chúa dành cho Ngài đã hoàn tất trên trần gian. Cuộc sống của Ngài không ồn ào mà dung dị, an nhiên như nghề thợ mộc nghèo khó . Thế nhưng, Ngài lại có thần thế “đến nỗi người ta có thể nói rằng: trên trời Thánh Giuse truyền lệnh hơn là van xin.
 
Vì vậy, chúng ta hãy cầu xin Thánh Giuse dạy chúng ta biết mau mắn vâng theo ý  Chúa trong mọi biến cố của cuộc đời mình.
 
Lạy Thánh Giuse, xin cầu cho chúng con. Amen
 
Sr.Ter. Trúc Băng
 
THÁNH GIUSE - QUAN THẦY GIÁO HỘI VIÊT NAM
 
§ Lm. Hồng Phúc, C.Ss.R.
 
Giáo hội Việt Nam rất tôn kính Thánh Cả Giuse. Rất nhiều người thuộc nam giới mang tên Thánh Giuse. Các nhà thờ đều lập toà kính Ngài đối ngang với toà Ðức Mẹ.
 
Thánh Giuse được chọn làm quan thầy của Giáo hội Việt Nam dựa trên một biến cố lịch sử.
 
Cha Ðắc Lộ Alexandre de Rhodes (1593-1660) trong cuốn Lịch Sử Vương Quốc Ðàng Ngoài ("Histoire du Royaume de Tonquin") có ghi nguyên văn như sau: "Ngày 12/3/1627, ngày Lễ Thánh Grêgôriô Cả, chúng tôi [Cha Pierre Marquez người Bồ và Cha Ðắc Lộ] khởi hành từ Macao, và căng buồm theo chiều gió đưa chúng tôi đi qua kính chào mộ xưa kia chôn cất Thánh Phanxicô Xaviê ở đảo Tam Châu, rồi từ đó vào biển Hải Nam nổi tiếng về những trận bão thường xuyên hành hạ dữ dội các tàu biển, thế nhưng đối với chúng tôi thì lặng và lành nhờ các thiên thần hộ mệnh xứ Ðàng Ngoài che chở trong 3 ngày chúng tôi đi theo bờ biển rộng lớn. Nhưng sau 6 hay 7 ngày thuận buồm xuôi gió và khi gần tới bến thì trời nổi mây đe doạ trên đầu chúng tôi. Ðêm tới, tàu chúng tôi bị một trận bão rất lớn, làm tàu lay chuyển rất hiểm nghèo và đồng thời trên không có sấm sét vạch thành những hình thù quái dị do ma quỉ gây nên làm cho thủy thủ sợ hãi. Mãi tới sáng, ngày lễ Thánh Giuse hiển vinh, trời trở nên quang đãng, hình quái dị tan và sóng hạ, chúng tôi khám phá ra một cửa biển người Ðàng Ngoài gọi là Cửa Bạng. Chúng tôi muốn gọi là Cửa Thánh Giuse, vì chúng tôi may mắn được vào bến đúng ngày lễ kính Người và chúng tôi hy vọng Thiên Chúa để Ngài làm vị quan thầy bảo trợ và làm cha nuôi giáo đoàn Ðàng Ngoài mới khai sinh này. Viên hoa tiêu liền xuống một chiếc xuồng để thăm dò bến, khi thấy là tốt và có thể cập bến được thì chúng tôi dễ dàng đi xuống và cảm tạ Thiên Chúa đã dẫn chúng tôi may mắn tới nơi...
 
Trong những ngày này, chúng tôi không ra khỏi Cửa Thánh Giuse... Chúng tôi đi đàm đạo với rất nhiều người ở Xóm Thánh Giuse... Thiên Chúa đã chiếu giọi những ánh sáng đầu tiên của ơn Người để kích động các tâm hồn. Cuộc chinh phục quan trọng đầu tiên để gầy dựng đức tin đó là một thầy đồ dạy chữ Hán cho thanh thiếu niên trong xóm và dạy cả những giáo thuyết sai lầm tà giáo. Nhưng... thầy đã trở lại... chúng tôi đã rửa tội và trao cho ông những bản kinh đạo Kitô viết trên giấy để ông dạy trẻ em... vào những ngày Chúa Nhật... Chúng tôi ân cần dạy dỗ và chinh phục những thôn xã lân cận và chúng tôi đã rửa tội được 32 người là những hoa quả đầu mùa ở Ðàng Ngoài..." (Lịch Sử Vương Quốc Ðàng Ngoài của Cha Ðắc Lộ - bản dịch của Hồng Nhuệ).
 
Năm 1678, Ðức Thánh Cha Inôxentê XI tôn phong Thánh Giuse làm Thánh Bảo trợ nước Việt Nam và các nước lân cận. Do đó, giáo dân Việt Nam rất sùng kính Thánh Cả Giuse. Ngôi Thánh đường Sàigòn là "Nhà thờ Ðức Bà" thì ngôi Thánh đường Hà Nội là "Nhà thờ lớn kính Thánh Giuse".
 
(Trích trong sách Thánh Cả Giuse)


NỖI NIỀM GIUSE

 

Hành trình đức tin của mỗi người đến với Đấng Tối Cao không phải là một hành trình đơn giản cho dù đó là Đại Thánh, Thánh Cả hay Nữ Vương Các Thánh.
 
  
Mời bạn cùng tôi quay ngược bánh xe thời gian trở về thăm viếng một đất nước Dothái xa xăm, nghèo nàn và lạc hậu với bao phong tục tập quán khắc nghiệt của cha ông cách đây hơn 2.000 năm về trước. Dân chúng đang sống trong cảnh lầm than, quằn quại rên siết dưới ách thống trị tàn bạo của Đế quốc La Mã, đời sống tinh thần được xiết chặt dưới gọng kìm của bao lề luật tôn giáo khắt khe từ thời Môsê để lại ngày qua ngày đã hun đúc họ lòng trông mong vào lời hứa của Đấng Tối Cao với cha ông họ! Họ nóng lòng trông chờ một Vị Cứu Tinh đến để lật đổ chế độ, giải thoát họ khỏi cảnh lầm than của kiếp người và xây dựng lại một Vương quốc Israel hùng cường ngày nào. Họ háo hức trông mong một Vị Thiên Sai, một Đấng Cứu Thế đã được Đức Chúa hứa ban và được loan báo nhiều lần trong Kinh Thánh mang đến cho họ một ánh sáng mới trong đức tin. Càng khổ họ càng ngóng trông, càng bị đàn áp họ càng khao khát chờ đợi, họ sống trong niềm hy vọng từ trời cao, họ mòn mỏi trông chờ như đất cằn mong mưa rào, như nai đang khát mơ thấy suối trong.
 

Cùng sống trong hơi thở chờ đợi của dân tộc mình, Giuse, một chàng thanh niên trai tráng sinh sống bằng nghề mộc với cha mẹ là ông bà Giacóp tại một ngôi làng nhỏ hẻo lánh ít ai biết đến, làng Nazareth, miền Galilê. Anh đến tuổi cập kê nhưng không muốn lập gia đình, anh muốn dâng trọn đời mình cho Thiên Chúa, Đấng mà anh và cả dân tộc anh tôn thờ. Anh vui mừng khi được gia đình sắp xếp cho thành hôn với Maria, người thiếu nữ đức hạnh hiền dịu mà ai gặp qua một lần cũng đều quý mến, là người mà cả hai đã cùng nhau thề ước trọn đời đồng trinh dù phải sống bậc vợ chồng trước mắt họ hàng và cha mẹ hai bên.
 

Ngày đính hôn đã đến và qua đi trong niềm vui của gia đình hai họ và sự hân hoan của cả thôn xóm, một mái nhà mới sẽ mọc lên trong xóm nhỏ Nazareth thưa người này. Quả là đẹp đôi! Họ cầu xin Thiên Chúa chúc phúc cho cặp vợ chồng son trẻ thánh thiện. Riêng Giuse, anh hoan hỉ chờ đợi ngày đón Maria về chung sống với gia đình.  
 

Nhưng dòng đời không xuôi chảy êm đềm như mong ước! Giuse bồn chồn bứt rứt với bao nỗi hoài nghi thắc mắc khi nhìn thấy bụng nàng nhấp nhô dưới ánh mặt trời sau lớp áo của cô thiếu nữ Sion đội nước. Điều gì đã xảy ra? Hạnh phúc lứa đôi chưa nắm bắt trong tay mà đã bị đe doạ rồi sao? Sao nàng không nói? Sao nàng không kể? Maria thánh thiện của anh lại có thể như thế được sao? Đâu rồi người thiếu nữ Sion đức hạnh mà anh trông chờ? Bao câu hỏi, bao thắc mắc như thác lũ ào tới trong đầu anh. Vẫn chỉ là những câu hỏi mà không có câu trả lời.


Ngược với Giuse đang sống trong cảnh giày vò đau khổ, Maria vui tươi, hồn nhiên, khuôn mặt rạng rỡ phản chiếu trong cặp mắt sáng to lóng lánh chan chứa niềm vui. Đôi môi hồng chúm chím với nụ cười mãn nguyện, sung sướng, đôi môi đó vẫn khép kín không một tiết lộ nào với Giuse. Có những lúc tình cờ hai người đối mặt, bốn mắt giao nhau, Giuse hơi bối rối trước cái nhìn thẳng thắn, không trốn tránh e dè, không mắc cỡ của Maria, ánh mắt tuy có thấp thoáng vẻ âu lo nhưng không phải là ánh mắt ăn năn của kẻ có tội. Nhìn Maria, ai cũng dễ dàng đoán được nàng là một người thiếu nữ hạnh phúc đang sống trong tình yêu sung mãn, là người con gái đang yêu và được yêu. Nhưng là tình yêu của ai? Làm sao Giuse biết được! Vẫn không có câu trả lời!


Giuse đau khổ cầu nguyện để tìm thánh ý Chúa, Chúa muốn nói gì với anh qua biến cố này? Chúa muốn anh làm gì trong tình trạng này? Anh muốn sống theo thánh ý Chúa nhưng đâu là ý Chúa? Anh chỉ thấy ý của anh, thật lớn và mạnh mẽ, phải khó khăn lắm anh mới giữ cho lòng khỏi sôi lên uất hận. Không, anh không muốn trả thù, không muốn nàng bị ném đá như luật Môsê đòi hỏi, anh không muốn a dua theo cá tính tự ái của một thanh niên mới lớn trong anh. Nhưng anh cũng không muốn nhận một đứa con không phải của mình, anh không thể bao dung nhận đại được, làm thế anh sẽ có lỗi với cha mẹ tổ tiên, với dòng dõi quân vương Đavít của anh, đứa cháu đích tôn lại mang dòng máu ngoại tộc. Anh tự hỏi, nếu anh nhắm mắt nhận đại thì… đứa bé kia sẽ giống ai nhỉ? Anh hình dung cảnh hàng xóm đang xúm lại cười ngạo gièm pha trong khi anh ôm ấp đứa bé giống một người thanh niên nào đó trong làng. Lòng anh rối rắm trăm đường, anh thấy tội mình thật lớn với dòng tộc Đavít lẫy lừng một thời! Một dòng họ danh giá của Israel mà giờ đây anh lại muốn chấp nhận một đứa con hoang không cha vô dòng họ mình.


Không, không thể chấp nhận được, nhưng… nhưng nếu nàng thú tội, nếu nàng khóc lóc van xin tha thứ, nếu nàng xuống nước năn nỉ? Lòng anh chùng xuống, bản tính nhân từ cố hữu trong anh lại át đi những lo âu suy nghĩ khi nãy, tâm trí anh bị giằng co đôi đường, trái tim anh bị chia đôi giữa hình ảnh Maria đang bị ném đá và dòng tộc Đavít oai hùng bị bôi nhọ. Anh thở dài ai oán, chắc anh đành mang tội với tổ tiên mà tha thứ cho nàng để cứu hai mạng người khỏi bị chết oan. Ai mà chẳng một lần vấp ngã! Lòng nhủ lòng như thế và anh chờ đợi,… chờ đợi một sự lên tiếng… Nhưng ngày vẫn lặng lẽ trôi, mặt trời mọc rồi lại lặn, bình thản như không có gì xảy ra, vẫn không một lời giải thích! Im lặng vẫn bao phủ Nazareth hiền hoà!


Thôi được, nàng đã không muốn nói thì anh cũng không muốn ép. Sau những đêm trằn trọc mất ngủ, những ngày mò mẫm trong tăm tối của tâm hồn, sau những giờ cầu nguyện khổ sở để tìm thánh ý Chúa, anh đã quyết định. Một quyết định dứt khoát! Nàng đã thờ ơ trước sự bao dung của anh thì anh đành chịu thôi! Anh tình nguyện trả nàng về với niềm bí mật của nàng. Anh không muốn tố cáo nàng! Như một tên lính bại trận, anh chỉ muốn lặng lẽ rút lui khỏi chiến trường một cách kín đáo. Anh chấp nhận mình thua và xin rút quân. Nàng đã dám làm thì nàng đã có cách giải quyết của nàng. Anh tôn trọng!


Hành trang đã sẵn ở góc nhà, màm đêm dần buông, anh mệt mỏi thiếp đi để lấy sức cho cuộc bỏ đi vào nửa đêm đã được định đoạt trước. Trong giấc ngủ chập chờn, anh mơ thấy một thiên thần mặc phẩm phục trắng toát, hào quang rực rỡ chiếu sáng một góc nhà, khuôn mặt hiền hậu, ánh mắt âu yếm nhìn anh đầy yêu thương và thoang thoảng bên tai anh một giọng trầm ấm vang lên: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,20a-21). Giuse choàng tỉnh bật dậy, anh hoàng hồn, hơi thở dồn dập, nhịp tim đập liên hồi, người anh toát mồ hôi lạnh, anh dụi mắt nhiều lần để tỉnh trí lại xem mình đang ở đâu. Anh cắn vào tay một cái thật mạnh và thấy nhói đau, bây giờ anh biết mình đã tỉnh, thực sự đã tỉnh và ban nãy là một giấc mơ. Ngoài kia, bóng tối dày đặc phủ lên thôn làng, xa xa một vài tiếng côn trùng rỉ rả trong bóng đêm như xác nhận với anh không gian và thời gian nơi anh đang ở. Là mơ hay là thực vậy? Là tiếng nói của thần lành hay thần dữ? Có thực đó là tiếng nói của Thiên Chúa không hay chỉ là một giấc mộng mị bình thường như bao giấc mộng khác. Anh ôm đầu suy nghĩ và ôn lại giấc mơ, “đừng ngại đón bà Maria vợ ông về!”, anh rùng mình ớn lạnh, câu nói ấy đánh trúng vào yếu huyệt của anh, đó không phải là mối ưu tư hàng đầu của anh trong mấy ngày qua sao? Anh thẫn thờ lặng lẽ gục đầu quỳ xuống trong bóng đêm.




Bọc hành lý nho nhỏ được xếp gọn lại để dưới gầm giường, vài bộ quần áo vẫn để nguyên trong chiếc bọc chứ chưa được xếp lại vào ngăn tủ, chiếc bọc nằm gọn ghẽ trong một xó nhỏ như tiếp tục chờ đợi một cơ hội khác. Mấy ngày qua, Giuse âm thầm sống trong trăn trở bối rối. Anh hoang mang không biết phải làm gì, nên quyết định ra sao, không biết đâu là hư, đâu là thực. Nếu đó là thánh ý Chúa, sao Ngài không hiện ra nói với anh rõ ràng như hai với hai là bốn, anh sẽ làm ngay không một thắc mắc chần chừ. Sao Ngài không nói lúc anh đang tỉnh, đang ý thức hoặc ngay lúc anh đang cầu nguyện mà lại là một tiếng nói trong chiêm bao? Giấc mộng, bao nhiêu phần trăm là thực, bao nhiêu phần trăm là ảo ảnh? Ai dám đảm bảo giấc mơ nào cũng đúng sự thực? Chẳng phải đó là những chuyện làm anh suy nghĩ từ lúc mặt trời mọc cho đến lúc mặt trời lặn, tối đến những việc đó phản ánh lại trong giấc ngủ thì cũng là chuyện thường tình thôi mà! Anh tự nhủ mình như thế! Nhưng anh lại áy náy khi nhìn về quá khứ của dân tộc, quả là có những giấc mộng xảy ra đúng với thực tế mà người giải mộng cũng là một người mang tên Giuse như anh. Giuse trong Cựu Ước đã từng giải mộng cho Pharaon ở Ai Cập với bảy con bò mập ăn bảy con bò ốm tượng trưng cho bảy năm được mùa và bảy năm mất mùa, nhờ đó Giuse đã cứu được cả dân tộc Aicập lẫn gia đình mình thoát khỏi nạn đói. Tiếng gà gáy xa xa đầu làng báo hiệu một ngày mới bắt đầu kéo anh về với thực tại. Nhưng cũng không phải là không có mấy bà hàng xóm nhiều chuyện vừa đi múc nước ở cái giếng đầu xóm vừa kháo cho nhau nghe những giấc mộng nhảm nhí của họ. Nào là Thiên Chúa hiện ra với mình nói thế này thế kia, nào là mơ thấy Tiên tri Êlia sống lại, có kẻ mạnh miệng hơn bảo là mơ thấy vị cứu tinh sắp đến giúp dân Do Thái thoát khỏi ách thống trị người La Mã,… và bao nhiêu chuyện linh tinh khác nữa đã làm trò cười cho thiên hạ. Anh không muốn mình là nạn nhân của những câu chuyện ngồi lê đôi mách đó!


Lòng anh rối rắm, anh không ngừng cầu nguyện, suy nghĩ và nhận định… nhưng ý Chúa vẫn mịt mùng trong bóng đêm, giấc mơ không trở lại lần thứ hai! Càng cầu nguyện anh càng thấy chỉ có một con đường duy nhất để tìm ra thánh ý Chúa, đó chính là bền bỉ cầu nguyện và cầu nguyện không ngừng. Anh tiếp tục cầu nguyện xin Chúa soi sáng cho anh biết phải làm gì, anh ao ước được làm theo ý Chúa, xin Chúa cho anh nhìn ra thánh ý Ngài thì anh sẽ không còn chần chờ gì nữa.  


“Vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần”, tác giả bào thai lại là Chúa Thánh Thần? Anh chưa nghe ai nói đến bao giờ, lịch sử dân tộc anh với bao điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm nhưng chưa có ai mang thai rồi dám đổ thừa cho Chúa Thánh Thần. Anh chợt chau mày suy nghĩ, nhưng đây đâu phải là những lời biện hộ từ miệng của Maria. Cô đã không hề mở miệng nói một lời về bào thai mình đang mang. “Vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần”, đó là những lời từ miệng một vị Thiên sứ mặc áo trắng trong giấc mộng kia mà! Một người phụ nữ không cần đến đàn ông mà vẫn có thể mang thai, bào thai đó là do quyền năng Chúa Thánh Thần thì người mang thai vẫn là một cô gái đồng trinh, như vậy nàng vẫn là một trinh nữ. Anh giật mình, thoang thoáng nhớ lại lời trong sách Tiên tri Isaia mà anh đã được nghe lặp đi lặp lại nhiều lần trong hội đường những ngày Sabát: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23).


Anh choàng tỉnh, anh đang thức chứ không ngủ nhưng anh lại thấy mình vừa thoát ra một cơn mơ dài, anh đã từ từ nhìn ra những mảng hình được ghép lại như một bức tranh. Đúng rồi, Maria của anh không thể nào là một cô gái lăng loàn mất nết được, anh nhớ lại khuôn mặt của cô những ngày gần đây: vui tươi, trong sáng, thánh thiện, khuôn mặt của một người đầy ân sủng Thiên Chúa ở cùng. Nàng là một người phụ nữ đạo hạnh tốt lành, “người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần”, “một trinh nữ sẽ thụ thai”, còn anh là dòng dõi Đavít, “Đấng Kitô được hứa ban xuất thân từ dòng dõi vua Đavít”… Anh xụp xuống quỳ phủ phục trước trời đất bao la như đang qùy trước tôn nhan Thiên Chúa Chí Thánh và mắt nhắm lại không dám nghĩ tới những ân huệ lớn lao mà Thiên Chúa đã dành cho anh. Anh không ngờ mình là người được chọn, không bao giờ anh dám nghĩ đến Đấng Cứu Tinh mà cả dân tộc anh đang mòn mỏi mong chờ lại được hạ sinh ngay trong gia đình anh và anh sẽ là người nuôi nấng ẵm bồng đứa bé. “Vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”, lời nói trong giấc mơ ngày nào lại vang lên rõ mồn một bên tai anh. Anh thở hổn hển, không ngăn được nhịp đập dồn giã của con tim, anh vui sướng nhảy lên như một chú bé vừa bắt được quà. Anh đã biết rồi, thánh ý Chúa là đây! Anh nghe rồi, tiếng Chúa gọi anh trong đêm trường. “Lạy Chúa, xin thứ lỗi cho con vì đến bây giờ con mới nhận ra thánh ý Ngài”, anh lẩm nhẩm nói với Chúa và chạy ù sang nhà Maria.  


Gặp nàng, anh nắm chặt lấy đôi bàn tay thon nhỏ đưa lên ngực mình, mắt ngước nhìn lên trời cao, anh ấp úng không nói được một tiếng, bây giờ anh đã hiểu tại sao lúc trước nàng im lặng không một lời giải thích. Maria nhìn anh, nàng đã hiểu mọi sự dù không nghe một lời từ miệng anh, nàng vui sướng nắm chặt lấy tay anh như muốn cùng anh chia sẻ niềm hân hoan tận đáy lòng. Nàng hiểu chứ, những ân huệ mà Thiên Chúa tuôn đổ xuống cho con người thì ngôn ngữ nào nói cho hết, bút mực nào tả cho xiết, sợi dây liên hệ mật thiết giữa Thiên Chúa với một con người là những gì riêng tư thầm kín nhất khó mà chia sẻ cho người ngoại cuộc hiểu hết được. Bốn mắt nhìn nhau chan chứa niềm vui, hai con tim hoà chung một nhịp đập, họ đã nhìn ra thánh ý Chúa muốn họ làm gì, họ nhận ra tình yêu và ân sủng quá bao la của Thiên Chúa tuôn đổ xuống trên gia đình bé nhỏ của họ, họ cùng nhau chúc tụng Thiên Chúa đã làm cho họ bao điều kỳ diệu.  


Và anh vui sướng đón nàng về nhà mình. Hai người vẫn giữ trọn lời nguyện ước ban đầu, mặc dù sống bên nhau nhưng họ gìn giữ cho nhau. Sau đó không bao lâu, anh đưa nàng lên Bêlem, miền Giuđê là nguyên quán cuả dòng tộc Đavít anh để kê khai tên tuổi theo chiếu chỉ của hoàng đế Augustô thời ấy. Đêm đó, trên con đường tìm đến nhà trọ anh hân hoan đón nhận người con trai do quyền năng Chúa Thánh Thần trao ban cho dân tộc anh và cho cả nhân loại, “Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” mà anh là người diễm phúc được chọn để trở thành cha nuôi của đứa trẻ, để nuôi nấng bồng ẵm từ lúc còn sơ sinh, còn hạnh phúc nào hơn thế nữa! Và anh đặt tên cho con trẻ là Giêsu như lời sứ thần áo trắng đã nói với anh trong giấc mơ đêm nào.


Lang Thang Chiều Tím
 
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận