Thứ hai tuần 3 mùa chay.

Đăng lúc: Thứ hai - 09/03/2015 02:45 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
THỨ HAI TUẦN 3 MÙA CHAY.
“Như Elia và Elisêô, Chúa Giêsu không phải chỉ được sai đến người Do-thái mà thôi đâu”.
 
Lời Chúa: Lc 4, 24-30
(Khi Chúa Giêsu đến thành Nadarét, Ngài nói với dân chúng tụ họp trong hội đường rằng): “Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có một tiên tri nào được tiếp đón tử tế ở quê hương mình. Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong thời Elia có nhiều bà goá ở Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành hành khắp nước suốt ba năm sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến với một người nào trong bọn họ, mà chỉ được sai đến với một bà goá ở Sarépta xứ Siđôn thôi. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria”.
Vừa nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, đẩy Người ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi, nơi họ xây thành, để xô Người xuống vực. Nhưng Người tiến qua giữa họ mà đi.

 
SUY NIỆM 1: Đời sống đức tin thật.
Trong cuốn phim Mỹ do tài tử Marcel Marso thủ diễn có kể câu chuyện sau: Một thanh niên đang lim dim đôi mắt tận hưởng ánh nắng tuyệt vời vào một ngày đẹp trời. Nhưng bỗng nhiên niềm vui của anh bị quấy rầy do tiếng ồn ào của đám trẻ, tiếng chó sủa, tiếng chim hót, tiếng người qua lại. Mỗi tiếng động đều có nguyên do và niềm vui riêng của nó, nhưng đối với chàng, tất cả đều trở thành cực hình. Để chống lại sự phiền nhiễu ấy, anh xây quanh mình một bức tường ngăn cách âm thanh. Mỗi tiếng động vọng tới là mỗi lần anh gắng sức xây. Cứ như thế bức tường lớn cao dần, cho đến lúc ngăn cản được hết mọi tiếng động, thì bức tường cũng che mất ánh nắng tuyệt vời, bức tường trở thành chiếc mộ khổng lồ giam hãm anh trong đó.
Dân Do Thái cũng đã được tắm gội ánh sáng. Đó là niềm tin được trao ban từ Tổ phụ Abraham. Tuy nhiên, vì tự mãn, ích kỷ, họ đã hành động chẳng khác gì chàng thanh niên trên. Không chịu mở lòng đón nhận khiến niềm tin của họ trở nên khô cằn mất sức sống. Xây lên bức tường để bảo vệ mình hoá ra lại tự hại chính mình.
Chúa Giêsu đã chỉ trích thái độ đó trong bài Tin mừng hôm nay. Người Do Thái trong Hội đường Nazaret đã tìm cách hãm hại Chúa Giêsu khi Ngài lên tiếng chê trách niềm tin của họ. Có lẽ ai trong chúng ta cũng bất bình về việc làm của nhóm người này, nhưng kỳ thực nhiều khi trong cuộc sống chúng ta đã sao chép nguyên bản việc làm ấy. Tự hào là Kitô hữu, là người nắm giữ niềm tin nhưng niềm tin trong chúng ta chỉ còn là ngọn đèn leo lét, chỉ là thân cây mất nhựa sống chờ ngày gẫy đổ. Đó là thứ niềm tin mà tác giả cuốn sách “Đường Hy Vọng” đã nhắc nhở: “Nhiều người nói tôi có đức tin, tôi còn đức tin, có lẽ đức tin của giấy khai sinh, không phải đức tin của đời sống. Ít người sống theo đức tin. Đừng bao giờ mãn nguyện với một đức tin lý thuyết, hình thức, nhưng phải sống một đức tin chân thực, thiết ái, trung thành”.
Tự mãn với chính mình mà không chịu mở lòng đón nhận khiến người Do Thái đã mất đi Chúa Giêsu –nền tảng của niềm tin. Cũng vậy, nếu Kitô hữu chỉ đóng khung trong một nghi thức, luật lệ, thì sớm muộn gì họ cũng xa cội nguồn sự sống, vì sống là gì nếu không phải là một luân lưu trao đổi. Con người sẽ chết khi hệ tuần hoà không lưu chuyển, hệ thần kinh không vận động. Đời sống đức tin cũng đòi hỏi một sự luân lưu trao đổi với Thiên Chúa và với anh em.
Đối với người Kitô hữu, tin trước hết là chấp nhận được cứu rỗi, được tha thứ, được yêu thương, Chúa không phải là Đấng bắt con người ta phải kính mến, nói đúng hơn Thiên Chúa là Đấng mà con người phải để cho Ngài yêu thương vô hạn. Tin là chấp nhận Đức Kitô và quyết tâm sống chết cho Ngài.
Trong Mùa Chay này, xin cho chúng ta biết trở về, trở về trước hết trên căn bản của một đức tin không co cụm trong lý thuyết, trong nghi lễ, nhưng là biết mở rộng lòng đón nhận để tìm được ý nghĩa đích thực của đời sống đức tin.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
 
SUY NIỆM 2: Không một tiên tri nào
Người nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. (Lc. 4, 24)
Lại thêm một lần đòi dấu lạ. Con người nổi dậy chống Thiên Chúa, họ đòi Ngài phải chứng tỏ sứ vụ tiên tri của Ngài bằng cách làm hài lòng và thỏa mãn họ. Nhưng Thiên Chúa phải cúi phục trước con người sao? Thiên Chúa ban ơn cứu độ, nhưng Ngài chỉ ban cho kẻ tin kính vâng lời Ngài, cho kẻ trông chờ trong kiên nhẫn âm thầm. Ngài đòi có đức tin, vâng lời nhận lãnh biết ơn đối với tất cả tâm tình của họ.
Dân làng Na-gia-rét không nhận biết Đức Giê-su, vì họ phán đoán hoàn toàn theo sở thích loài người. Đức Giê-su là ngôn sứ, Người hành động theo sứ mạng Thiên Chúa.
Không phải những đòi hỏi của người trần ấn định cho hành động của các ngôn sứ, của Đức Ki-tô, các ngài không hành động vì lợi riêng cho mình. Các ngài chỉ hành động theo ý Thiên Chúa. Ngôn sứ không được hành động theo quyết định bản thân mình, nhưng luôn luôn theo quyết định của Thiên Chúa, Đấng đã sai mình.
Thiên Chúa quyết định cho hai ngôn sứ: Ê-li-a và Ê-li-sê đến làm phép lạ cứu giúp những người lương dân, chứ không cứu người đồng hương. Đức Giê-su không hoàn toàn đến thực hiện ơn cứu độ cao cả cho quê hương mình, Người phải đi cứu độ những người dân xa lạ. Thiên Chúa dành cho mình có quyền tự do phân phát ơn cứu độ.
Không ai có thể đòi quyền được ơn cứu độ. Quả thật như vậy, không ai được phép đòi có quyền đó, phải tin ơn cứu độ mình được là nhưng không. Nước Thiên Chúa mà Đức Giê-su rao giảng và thực hiện ơn cứu độ cho những người Thiên Chúa yêu thương. Ơn cứu độ là một ân huệ chứ không do công lao mình làm. Nhưng đó là ân huệ chúng ta được quyền hưởng vì Đức Giê-su đã chết cho chúng ta, và chúng ta phải sống hoàn toàn theo ý Cha của Người, đó là điều kiện căn bản, còn chúng ta vẫn có tự do đón nhận hay từ chối ơn cứu độ.
Nhờ Đức Giê-su, Thiên Chúa đến viếng thăm dân Ngài và ban các ân huệ dồi dào, xưa kia Ngài cũng ban cho dân như vậy qua các ngôn sứ, số phận các ngôn sứ thế nào thì số phận Đức Giê-su cũng vậy.
J.M
 
SUY NIỆM 3
1. Biết và tin 
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe là phần kết của trình thuật kể về biến cố Đức Giê-su trở về Nazareth, là nơi Ngài sinh trưởng. Những người cùng quê với Đức Giê-su, khi nghe Ngài giảng giải Lời Chúa, lúc đầu họ đã tỏ ra rất thán phục, như thánh Luca kể lại : “mọi người đều tán thánh và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người” (c. 22). Nhưng ngay sau đó, họ nêu vấn nạn, khởi đi từ những gì họ biết về Đức Giê-su : “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao ?”. Khi kể lại chuyện này, Tin Mừng theo thánh Mác-cô nói chi tiết hơn : “Ông ta không phải là người thợ mộc, con bà Maria, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xét, Giu-đa và Simon sao ? Chị em của ông phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ?” (Mc 6, 3).
Điều làm cho chúng ta phải kinh ngạc đó là, thay vì qua việc đích thân biết rõ thân thế Đức Giêsu, họ sẽ dễ dàng tin nơi căn tính thần linh của Ngài, thì chính sự hiểu biết này lại ngăn cản họ tin vào Đức Giêsu. Chính vì thế, trong bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay, Đức Giê-su nói :
Không một ngôn sứ nào
được chấp nhận tại quê hương mình.

Và điều này vẫn còn xẩy ra hôm nay, vì có những người nghiên cứu cuộc đời Đức Giê-su ; nhưng nghiên cứu một hồi thì mất đức tin ! Tại sao lại như vậy ? Đó là vì họ giản lược căn tính thần linh của Đức Giê-su vào bình diện của những điều họ đã biết, nghĩa là bình diện kiến thức lịch sử, mà phần lớn chỉ dựa trên suy đoán hay bị chi phối nặng nề bởi thái độ nghi hoặc. Trong khi đó, căn tính thần linh của Ngài chỉ có thể là đối tượng của lòng tin, là hoa trái của gặp gỡ đích thân, của đón nhận, của hành trình đi theo và trở nên một, đến từ lòng khao khát Thiên Chúa, nhận ra, cảm nếm dấu vết Thiên Chúa nơi ngôi vị lạ lùng của Ngài trong tương quan với sáng tạo và lịch sử, với cuộc đời cụ thể của mỗi người chúng ta.
- Thiên Chúa sáng tạo con người để thông truyền sự sống, ơn huệ sự sống được diễn tả và cụ thể hóa bởi ơn lương thực, được ban cho chúng ta mỗi ngày (St 1, 29 ; Tv 136, 25). Và nơi Đức Ki-tô, Thiên Chúa trao ban chính mình làm lương thực, để cho con người được sống và sống dồi dào : “Này là mình Thầy, anh em hãy cầm lấy mà ăn”.
- Tuy nhiên, lịch sử cứu độ, lịch sử của loài người, lịch sử của mỗi người chúng ta đầy những thăng trầm thuộc phận người, đầy tội lỗi vì bị chi phối nặng nề bởi Sự Dữ và sự chết. Vậy Thiên Chúa còn trung tín với ý muốn thông truyền sự sống cho con người không ? Nơi Đức Ki-tô, nhất là trong mầu nhiệm Vượt Qua của Người, Thiên Chúa mang lấy “mọi bệnh hoạn tật nguyền” của loài người chúng ta, của từng người chúng ta, để nói chúng ta rằng, Thiên Chúa yêu thương con người, yêu thương từng người chúng ta đến cùng, và tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa mạnh hơn Sự Dữ và sự chết.
Như thế, căn tính thần linh của Đức Giê-su sẽ rạng ngời nhất nơi mầu nhiệm Vượt Qua, như viên Đại Đội Trường Roma đã tuyên xưng khi chứng kiến cách Đức Giê-su chịu thương khó : “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15, 39).
2. Ghen tị
Còn một lý do khác nữa, khiến cho họ không thể đón nhận Đức Giêsu, đó là lòng ghen tị. Người ghen tị là người không chấp nhận sự khác biệt ; họ ham muốn và muốn sở hữu tất cả những điều tốt mà người khác có. Nhưng điều này là không thể được ; và thay vì bình an đón nhận sự khác biệt, họ tìm cách phá hủy những điều tốt nơi người khác ; hay ít nhất, cảm thấy vui mừng và hả hê khi người khác bị tai họa. Và đó chính là thái độ ghen gị của những người lắng nghe Đức Giê-su trong Tin Mừng.
Trước hết, họ lắng nghe Đức Giê-su với lòng thán phục ; nhưng sau đó, họ muốn Đức Giê-su cũng làm những gì mà Ngài đã làm ở những nơi khác : “Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!” Và dường như Đức Giê-su cố ý làm cho lòng ghen tị này phải lộ ra với tất cả sức mạnh hủy diệt của nó, khi kể lại chuyện của các ngôn sứ Ê-lia va Ê-lisa. Hơn nữa, Đức Giê-su đã so sánh số phận của mình với số phận của các ngôn sứ : “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.”
Quả thực, khi nghe Đức Giê-su nhắc lại chuyện cũ xong, và vì họ không có ngay được điều họ đòi hỏi, họ quay ra phẫn nộ ; sự phẫn nộ này tất yếu dẫn đến bạo lực : “Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực”. Như thế, hành vi phá hủy là điểm tới tất yếu của lòng ghen tị. Và những gì xẩy ra ở Nazareth đã loan báo cuộc Thương Khó của Đức Giê-su rồi.
3. “Cung cách Vượt Qua”
Nhưng thay vì trả đũa bạo lực bằng bạo lực, Đức Giê-su “băng qua giữa họ mà đi.” Trong mầu nhiệm Thương Khó cũng vậy, Đức Giê-su thinh lặng vượt qua giữa cơn lốc phản bội, ghen tị, sỉ nhục, gian dối, bạo lực để đi qua bờ bên kia của sự sống mới. Vì thế, trong Tin Mừng theo thánh Mác-cô, Đức Giêsu dạy, chứ không chỉ báo trước mầu nhiệm Thương Khó ; điều này có nghĩa là, những gì sẽ xẩy ra cho Ngài không phải để làm gương, đền bù hay kiểm chứng, nhưng là một lựa chọn, một kế hoạch hoàn tất, một mặc khải tuyệt đỉnh của Thiên Chúa. Thật vậy, cuộc Thương Khó và Thập Giá Đức Ki-tô :
§  Mặc khải sữ dữ đang hoành hành nơi con người và cách Thiên Chúa chiến thắng sự dữ.
§  Mặc khải lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người tội lỗi và ban ơn chữa lành.
§  Mặc khải sự thương cảm của Thiên Chúa đối với thân phận con người.
§  Mặc khải thân phận con người không phải là hình phạt và cũng không phải là con đường dẫn đến sự chết, nhưng là đến sự sống, ngang qua sự chết.
Đó là “cung cách của Vượt Qua” mà Đức Giê-su đã hoàn tất cách trọn vẹn trong cuộc Thương Khó ; và “cung cách Vượt Qua” cũng chính là cung cách của tình yêu, như Thánh Phao-lô nói : “Tình yêu chịu đựng tất cả, tin tưởng tất cả, hi vọng tất cả, kiên nhẫn tất cả” (1Cor 13, 7). Đó cũng là chính là “dấu vết thần linh” được tỏ hiện nơi ngôi vị của Đức Giê-su Nazareth, dành cho những ai khao khát Thiên Chúa và để dẫn họ đến sự sống, sự sống viên mãn ngay hôm nay.
*  *  *
Tin nơi Đức Ki-tô, chết và phục sinh, cử hành mầu nhiệm Vượt Qua của Người mỗi ngày và nhất là trong Tuần Thánh, đón nhận ơn tái sinh Người ban và sống cung cách Vượt Qua của Người, tất cả làm nên một hành trình, hành trình đức tin của người môn đệ đi theo Đức Ki-tô và thuộc về Đức Ki-tô, ở mọi thời, trong đó có chúng ta hôm nay.

Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

Đức Giêsu không chỉ được sai đến với người Do Thái
 
Israen là dân được tuyển chọn và họ ý thức rất rõ về địa vị ưu việt của mình, thậm chí một cách thái quá. Họ cho rằng chỉ mình dân tộc này mới đáng được Thiên Chúa yêu thương, còn các dân tộc khác thì không. Chúa Giêsu lấy dẫn chứng sự kiện trong Cựu Ước về bà góa thành Xarepta và ông Naaman, người phong cùi xứ Xyri, để chứng minh cho người Do Thái thấy thái độ sai lầm của họ. Bà góa thành Xarepta cũng như ông Naaman người Xyri là những người ngoại mà đã được Thiên Chúa thương cứu người này khỏi nạn đói và người kia khỏi bệnh phong. Ngôn sứ Êlia và Êlisa được sai đến để thực thi kế hoạch đó của Thiên Chúa. Các vị ngôn sứ này là hình ảnh của Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế, được sai đến để cứu muôn dân mà khởi đầu là từ Israen, dân được tuyển lựa.
Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất của trần gian, hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Đó là nội dung Đức Tin của chúng ta. Người tín hữu có sứ mệnh công bố và làm chứng cho niềm tin ấy.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Thông
 
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận