Thứ bảy tuần 3 mùa chay.

Đăng lúc: Thứ bảy - 14/03/2015 03:03 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
THỨ BẢY TUẦN 3 MÙA CHAY.
"Người thu thuế ra về được khỏi tội".
 
Lời Chúa: Lc 18, 9-14
Khi ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những người hay tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác: "Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt phái, một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi". Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực mà nguyện rằng: "Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội". Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống; và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".
 

SUY NIỆM 1: Chìa Khoá Của Tự Do
Người Hồi giáo nói về sự cầu nguyện bằng câu chuyện sau: cómột người thợ kim hoàn nghèo nhưng thanh liêm bị giam tù vì một tội ông không bao giờ phạm. Vài tháng sau khi người chồng bị giam giữ, người vợ đến gặp ban giám đốc và xin cho chồng một ân huệ. Bà nói chồng bà là một tín hữu trung thành với các buổi cầu nguyện, bà xin được gửi cho chồng một tấm thảm nhỏ để quì cầu nguyện năm lần một ngày theo qui định của Hồi giáo. Lời thỉnh cầu được chấp nhận dễ dàng… Ngày nọ, người thợ kim hoàn đến trình bày với các quản giáo: “Tôi là thợ kim hoàn, nếu các người cho tôi một ít kim loại, tôi có thể vừa qua được thời giờ nhàn rỗi, vừa làm được cho các người những nữ trang có thể dùng được”. Các quản giáo không thấy trở ngại nào về điều đó. Một ngày nọ, các canh tù bỗng phát giác ra cánh cửa nhà tù bị mở toang và người thợ kim hoàn đã tẩu thoát. Cùng lúc đó người ta cũng bắt giữ được thủ phạm đích thực mà họ đã qui lầm cho người thợ kim hoàn. Bấy giờ người thợ kim hoàn mới ra mặt và tiết lộ việc trốn thoát cuả ông. Sau khi ông bị bắt oan, vợ ông liên lạc với kiến trúc sư đã vẽ hoạ đồ nhà tù. Ông này cho phép bà in nguyên hoạ đồ chi tiết cuả nhà tù lên tấm thảm. Mỗi ngày năm lần dù phủ phục trên tấm thảm để cầu nguyện, người thợ đã thuộc lòng đường ra lối vào của nhà tù, thêm vào đó nhờ những mảnh kim loại các quản giáo cung cấp, người thợ đã có thể mài dũa những chìa khoá để mở các cánh cửa nhà tù, đó là bí quyết đã giúp ông trốn được khỏi nhà tù.
Cầu nguyện là chìa khoá của tự do. Một tâm hồn khao khát tự do đích thực là một tâm hồn biết cầu nguyện. Chúa Giêsu như muốn minh hoạ cho chân lý ấy qua dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện: một người Biệt phái lên giữa đền thờ đứng thẳng người để kể về những thành tích của mình, trong khi đó người thu thuế tội lỗi đứng trong góc đền thờ, không dám ngước mặt lên, nhưng cúi mình đấm ngực nói lên nỗi khốn cùng tội lỗi của mình. Chúa Giêsu tuyên bố người thu thuế ra về được tha tội, còn người Biệt phái vẫn tiếp tục ù lì trong sự tự phụ của mình. Phải chăng Chúa Giêsu không muốn nói với chúng ta rằng câu chuyện đích thực chính là nỗi khao khát được thoát khỏi những thứ nô lệ đang trói buộc tâm hồn con người.
Mùa Chay là trường dạy cầu nguyện. Giáo hội mời gọi chúng ta gia tăng cầu nguyện, điều đó có nghĩa là chẳng những dành nhiều thời giờ cho cầu nguyện, mà nhất là thanh luyện thái độ chúng ta trong khi cầu nguyện, lời cầu nguyện đích thực trong mùa chay phải là thái độ sám hối. Khởi đầu của cầu nguyện ấy là mọi nhận thức sâu xa về thân phận, tội lỗi của chúng ta và từ đó nói lên tất cả tín thác của chúng ta vào tình yêu tha thứ của Chúa. Lòng tín thác ấy sẽ xoá tan mọi tội lỗi và mang lại cho chúng ta tự do đích thực của con cái Chúa.
Như người con hoang đàng mong được trở về với cha, như người thu thuế nép mình nơi lòng tha thứ của Chúa, xin cho chúng ta luôn được sống trong tâm tình sám hối thực sự và cảm nhận được tình thương khoan dung vô bờ của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
 
SUY NIỆM 2: Hoán cải và cậy trông
Vào thời Chúa Giêsu, các kinh sư và những người pharisiêu thường bị Chúa quở trách nặng lời về tính tự cao tự đại của họ. Trong dụ ngôn vừa đọc lại trên đây, Chúa Giêsu dùng hình ảnh một người pharisiêu khoe khoang công trạng mình trước mặt Thiên Chúa. Ông đáng trách không phải vì những việc tốt ông đã làm, như việc ăn chay mỗi tuần hai lần và đóng thuế thập phân cho đền thờ. Nhưng ông đáng trách vì đã xem những công việc đạo đức này như là một chiếc vé để mang lại sự công chính cho ông. Qua lời cầu nguyện của ông, chúng ta thấy rõ ông làm những việc này cốt để tự biến mình trở nên người công chính chứ không phải để thờ phượng Thiên Chúa và phục vụ anh chị em. Ông giữ mình khỏi vướng mắc vào các thói hư tật xấu cốt để cho người khác thấy ông đạo đức tốt lành, chứ không như những người hư đốn đồi bại khác. Mỗi khi ra đường, chắc hẳn ông đã kiêu hãnh ngẩng đầu lên với khuôn mặt nghiêm trang, dáng đi chững chạc uy nghi, các hộp kinh thật lớn thắt trên người, các tua áo thật dài thả tung bay, ông nhìn thấy mình thật xứng đáng để cho thiên hạ kính nể. Bước vào đền thờ, ông đứng riêng ra, chọn cho mình một chỗ xứng đáng và ông bắt đầu khoe với Chúa những công trạng của mình. Nhìn thấy người thu thuế đang cúi đầu khẩn nguyện, ông thưa với Chúa cách tự phụ: "Ðấy, Chúa thấy người thu thuế tội lỗi kia không, con đâu như hắn ta, con tốt hơn hắn nhiều, hắn tham lam tiền bạc, gian lận thuế má, chèn ép lận lường. Con cám ơn Chúa vì con đâu giống như hắn". Nhưng ông pharisiêu đâu biết rằng Thiên Chúa chẳng cần đếm xỉa gì đến những lời khoe khoang tự cao tự đại của ông, Người cần tấm lòng chứ không cần hy lễ, Người cần con tim yêu thương chứ không cần trí óc tự phụ. Tâm hồn khiêm cung tự hối của người thu thuế mà ông coi chẳng ra gì kia lại làm đẹp lòng Chúa còn hơn là ông nghĩ đến.
Thử hỏi, chúng ta nhìn thấy mình trong hình ảnh người nào trong dụ ngôn trên đây: người pharisiêu hay là người thu thuế? Nếu đã lỡ là người pharisiêu, chúng ta đừng ngã lòng nhưng hãy thành thật hoán cải và cậy trông vào tình thương của Thiên Chúa, Người có thể biến sự dữ trong chúng ta nên sự lành. Nếu chúng ta thành tâm thiện chí, Thiên Chúa sẽ đập tan tính kiêu hãnh của chúng ta và thay vào đó một tâm tình mới, Người sẽ dạy chúng ta biết sống sao cho đẹp lòng Chúa. Còn nếu chúng ta đã là người thu thuế, thì chúng ta cũng hãy cương quyết làm lại cuộc đời, Thiên Chúa đã yêu thương tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta, Người đã đón nhận tấm lòng tan nát khiêm cung của chúng ta, chúng ta hãy tin tưởng làm lại từ đầu.
Với ân sủng của Thiên Chúa, không có sự gì là không thể thực hiện được, chỉ cần chúng ta vững tin và phó thác vào Người rồi Người sẽ dẫn dắt chúng ta bước đi trên đường ngay nẻo chính. Mùa Chay là mùa thuận tiện để canh tân đời sống. Chúng ta hãy cộng tác với ơn Chúa để đổi mới tâm hồn mình nên công chính như Chúa vẫn mong chờ.
Lạy Chúa, xin gìn giữ con, đừng để con rơi vào thái độ tự phụ kiêu ngạo. Xin cho con biết sống khiêm nhường tự hạ trước tôn nhan Thiên Chúa và trước mặt anh chị em. Và xin giúp con được canh tân đời sống trở về với Chúa, đừng bao giờ thất vọng vì những tội lỗi của con đã phạm, nhưng luôn trông cậy vào tình thương tha thứ của Chúa.
(Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày – R. Veritas)
 
SUY NIỆM 3: Đừng bắn người biệt phái
Đức Giêsu còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, còn người kia là người thu thuế…” (Lc. 18, 9-10)
Người biệt phái này không đến nỗi xấu, ông ăn chay hai ngày một tuần, ông dâng cúng một phần mười hoa lợi kiếm được … Thật là một viên ngọc quý mà chẳng có ai trong giáo xứ có thể làm được như vậy. Đừng khiển trách ông đứng cầu nguyện, đó là thói quen của người Do thái. Ông khoe khoang không ai bằng, đáng nực cười. Ông chẳng có chút gì là nhân đức, ông cảm ơn Chúa đã sống như thế.
Đến lượt người thu thuế, ông không dám bốc thơm mình. Đáng lẽ ra, ông vừa đứng xa xa sấp mình xuống đất run rẩy cầu nguyện, ông vừa lo trả tiền của lại cho những người nghèo đã bị ông bóc lột thì tốt hơn. Nhưng người thu thuế đã mang tiếng là hạng làm giàu bằng cách lạm thu.
Chúng ta cũng hèn nhát chê người biệt phái: “Tôi không giả hình như hạng cuồng tín đó. Tôi có nhiều lỗi, tôi khô khan cứng cỏi với người khác, tôi lười biếng … Nhưng tôi không mắc nợ ai”. Đó cũng là cách nói như hạng biệt phái, chẳng có gì tốt cả. Bài học lịch sử này không phải là so sánh hai hạng người, làm thế là đáng ghét, nhưng chính là để nhắc nhở chúng ta đến lời thánh Phao-lô dạy chúng ta: “Chính nhờ đức tin làm cho chúng ta nên công chính, không có đức tin, chúng ta không đáng gì trước mặt Thiên Chúa”.
Đặc biệt, trường hợp người thu thuế làm sáng lên trong chúng ta một niềm hy vọng tuyệt vời, là những kẻ tội lỗi đừng bao giờ thất vọng và phải luôn hy vọng vào lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Đức Giêsu luôn ban ơn cho những người thấy mình vô tài bất lực, thấy mình chẳng đáng công gì, chẳng có thể đền bù được tội lỗi mình, vì Đức Giêsu đã nói: “Tôi đến không phải cứu chữa những người khỏe mạnh, nhưng cứu chữa những người bệnh tật”. Đừng bao giờ thấy mình hơn người khác, kẻo đi vào vết chân biệt phái.
J.G

SUY NIỆM 4
1. Người Pha-ri-sêu « công chính »
Chúng ta hãy nghe lại một lần nữa lời nguyện của người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, trong dụ ngôn của Đức Giê-su :
Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con. (c. 11-12)
Và theo Đức Giê-su, một lời nguyện như thế sẽ không làm cho một người sống rất công chính trước mặt mọi người, như là ông Pha-ri-sêu, trở nên không công chính trước mặt Thiên Chúa. Trong khi đó, người làm nghề thu thuế đã thưa với Chúa một lời nguyện rất ngắn :
Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.
Nhưng lời nguyện này đã làm cho một người tội lỗi, đáng bị khinh chê trước mặt mọi người, trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa. Vậy điều gì trong lời nguyện của người Pha-ri-sêu, vốn là người sống rất tốt về mọi mặt, làm cho Chúa không vui lòng, làm cho ông không còn đáng yêu trước mặt Chúa ?
Chắc chắn đó không phải là vì ông đã kể ra tất cả những gì mình đã làm trước mặt Chúa. Một em bé, sau khi đi học cả ngày, tối về kể lại một cách đơn sơ tất cả những gì mình đã làm cho bố mẹ nghe, sẽ làm cho bố mẹ rất vui thích. Khi đến với Chúa, chúng ta cũng được mời gọi trở nên đơn sơ như em bé, kể lại tất cả những gì mình đã làm ; và chắc chắn, điều này cũng sẽ làm cho Chúa vui thích. Và đó chính là điều chính các Tông Đồ đã làm : « Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giê-su, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy » (Mc 6, 30).
Và lí do cũng không phải là vì ông nói dối trước mặt Chúa, nghĩa là kể sai sự thật ; bởi vì, với tư cách là một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, chắc chắn ông đã kể lại một cách chính xác những gì ông làm, không thêm thắt điều gì. Nếu thế, ông có một cuộc sống rất đáng cho chúng ta khâm phục, thậm chí đáng bắt chước nữa ; và ngày nay, các mục tử vẫn khuyên bảo như thế :
- Về phương diện luân lí, ông không tham lam, không ăn trộm, không làm điều bất chính, nhất là không ngoại tình. Rất ít người, kể cả chúng ta nữa, có thể sống như ông.
- Về phương diện đạo đức, ông là người rất sốt sắng, bởi vì ông ăn chay mỗi tuần hai lần ! Về chuyện ăn chay, chắc chắn ông sốt sắng hơn chúng ta, bởi vì chúng ta cũng ăn chay hai lần, nhưng là cho cả năm !
- Hơn nữa, ông còn đóng góp vào việc thờ phượng Thiên Chúa trong Đền Thờ. Về điều này, ông lại càng làm cho chúng ta phải khâm phục hơn, bởi vì ông không phải lâu lâu mới đóng góp, lúc có lúc không, nhưng ông đã đóng góp đều đặn, theo kế hoạch chi thu đã định sẵn, như ông thưa với Chúa : « Con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con ». Một phần mười thu nhập là nhiều lắm : chúng ta hãy tính thử : cứ một triệu, thì dâng cho Chúa một trăm ngàn ! Chắc chắn, ít ai trong chúng ta, thậm chí ít người trên đời này, đã quảng đại như vậy.
2. Người Pha-ri-sêu và « Kẻ Tố Cáo »
Một lời nguyện nói lên một cuộc sống rất tốt như thế, nhưng tại sao lại không làm cho người Pha-ri-sêu nên công chính, hay nói cách khác, không làm cho Chúa vui, không làm đẹp lòng Chúa, không hợp với Chúa, làm cho Chúa ngoảnh mặt đi ? Đó là vì, cũng trong lời nguyện này, ông so sánh mình với người khác ; hơn thế nữa, ông còn « chỉ điểm » cho Chúa một người cụ thể, mang tội đầy mình, đó người thu thuế đứng bên cạnh ông : « Con không như bao kẻ khác… hoặc như tên thu thuế kia ».
Thế mà, tố cáo người khác trước mặt Thiên Chúa, lại là hành động mà Satan thích làm nhất, thích đến độ Satan có một tên gọi khác, theo sách Khải Huyền, là « Kẻ Tố Cáo » :
Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ,
giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền,
và Đức Ki-tô của Người
giờ đây cũng biểu dương quyền bính,
vì Kẻ Tố Cáo (Satan, là danh từ trong tiếng Hi-lạp) anh em của ta,
ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa,
nay bị tống ra ngoài. (Kh 12, 10)
Như thế, lý do làm ông Pha-ri-sêu trở nên không công chính trước mặt Chúa, đó là vì, trong lời nguyện của ông, ông hành xử giống như Satan, ông đóng vai trò của Satan, hay nói mạnh hơn, ông tự biến mình thành Satan, khi ngay trong lời nguyện của mình, ông thích nghĩ đến tội của người khác và tố cáo họ trước mặt Thiên Chúa. Trong khi người thu thuế kia chỉ nghĩ đến tội của mình trước mặt Chúa một cách khiêm tốn và xin Ngài thương xót : « Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi ».
3. Trong Đức Ki-tô không còn lên án
Chúng ta thường hình dung sự thiện buộc tội sự dữ, sự dữ buộc tội sự thiện. Chúng ta thường nghĩ một cách tự phát rằng người công chính và người tội lỗi buộc tội lẫn nhau . Hơn thế nữa, chúng ta còn duy trì hình ảnh về một Thiên Chúa, Đấng Công Chính tuyệt đối, buộc tội con người vốn « tội lỗi bẩm sinh ».
Thay vì sự thiện và sự dữ buộc tội lẫn nhau, thì chính hành vi buộc tội là một điều dữ. Miệng khô đi vì buộc tội liên tục, điều đó không phù hợp với sự thiện. Sự thiện thể hiện mình bằng cách đi qua hành vi buộc tội, chắc chắn là điều không thể tránh khỏi; và trong Kinh Thánh, không thiếu những bản luận tội thốt ra từ miệng các ngôn sứ, các tác giả Thánh Vịnh và cả Đức Giê-su nữa. Nhưng đó không phải là chỗ đứng đích thực của sự thiện, không phải là chỗ đứng sau cùng của sự thiện. Ngược lại, chỗ của kẻ buộc tội rốt cuộc được dựng lên là để cho sự dữ đứng vào. Chúng ta nói « rốt cuộc » vì chính trong sách Khải Huyền, sách cuối cùng của bộ Kinh Thánh, mà chúng ta đọc được những lời chúng ta vừa trích dẫn ở trên : « Vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước tòa Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài » (Kh 12, 10).
Khác hẳn với ông Pha-ri-sêu, Đức Ki-tô vốn là Đấng công chính tuyệt đối và hoàn hảo, nhưng Ngài không khinh chê những người tội lỗi là chính chúng ta, như chính Ngài đã nói :
- Thiên Chúa sai con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ » (Ga 3, 17).
- « Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi. » (Mt 9, 13)
- Và nhất là trên Thập Giá, « Đức Ki-tô chịu đóng đinh, Đối Tượng Duy Nhất của lòng trí chúng ta », đã tự nguyện bị đối xử như là một tội nhân, bị lên án như một tội nhân và ở giữa các tội nhân, để bày tỏ cho chúng ta lòng bao dung vô hạn của Thiên Chúa đối với mọi tội nhân thuộc mọi thời, trong đó có chúng ta.
Và chính lòng thương xót là động lực mạnh mẽ và bền vững tái sinh chúng ta và biến đổi con tim chúng ta biết sống cho Chúa và qui hướng mọi sự về việc ca tụng Chúa, chứ không phải là những lời xếp bậc, xếp loại, lên án (tự lên án mình và lên án nhau), đe dọa và ra án phạt (có khi tự mình ra án và thi hành án).
* * *
Thập Giá mời gọi chúng ta không kết tội Đức Ki-tô (dưới hình thức gánh chịu hình phạt vì tội lỗi chúng ta), cho dù Sự Dữ ngang qua những con người cụ thể kết tội Người, vì Chúa vô tội. Và chúng ta cũng không kết tội mình và người khác, và không kết tội cả Chúa nữa (dưới hình thức kêu trách, chất vấn). Bởi vì :
- Kết tội tự nó là điều dữ. Khi kết tội Đức Ki-tô, Sự Dữ bị lộ nguyên hình, trong mức độ nó tự cho thấy kết tội là điều dữ ; tội ở nơi người kết tội, chứ không phải nơi người bị kết tội.
- Và cho dù mình và người khác đáng bị kết tội, thì Chúa đã mang hết tội lỗi của chúng ta vào mình rồi với lòng bao dung, và Người ban sự công chính của Người cho chúng ta, để chúng ta đừng kết tội mình và kết tội nhau, như thánh Phao-lo xác tín :
Trong Đức Ki-tô, không còn lên án nữa. (Rm 8, 1)

Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc


Suy niệm 5 
A- Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc 1: Ngôn sứ Hôsê đã để lại cho hậu thế một câu nói lừng danh “Ta muốn tình yêu chứ không muốn hy lễ”.
2. Bài Phúc Âm: Hai người lên đền thờ cầu nguyện là hai hình ảnh minh họa cho câu nói trên của Hôsê:
‑ Người biệt phái: anh có rất nhiều lễ vật dâng lên Chúa nhưng thiếu tình yêu. Thứ nhất là anh không yêu người khác (“tôi không như các người khác, hay là như tên thu thuế kia”); thứ hai là anh cũng không yêu Chúa: anh giữ luật và làm nhiều việc lành chỉ để chứng tỏ cho Chúa biết anh là người đàng hoàng và do đó Chúa phải yêu thương anh, ban thưởng anh.
- Người thu thuế: anh chẳng có lễ vật gì dâng lên Chúa mà chỉ có tình yêu. Tình yêu của anh không nồng nàn thắm thiết mà chỉ là một tình yêu muộn màng của đứa con tội lỗi quay về với một tấm lòng tan nát, một trái tim đang kêu gọi tình thương xót của Chúa (“Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ có tội”)
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
Lời Chúa hôm nay rất dịu dàng, kêu gọi chúng ta tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, kêu mời chúng ta dâng lên Ngài những tội lỗi và yếu đuối của chúng ta:
1. Một đêm giáng sinh nọ, Thánh Giêrônimô đang quỳ bên máng cỏ để suy niệm về mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người thì bỗng Chúa Hài Đồng hiện ra trong vầng sáng chói loà. Ngài hỏi thánh nhân:
- Giêrônimô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày Ta giáng sinh không?
- Lạy Chúa Hài Đồng, thánh nhân đáp, con xin dâng Chúa trái tim của con.
- Được lắm, nhưng còn gì khác nữa không?
- Lạy Chúa, con xin dâng Chúa tất cả những gì con có và tất cả những gì con có thể.
- Con còn điều gì khác nữa không?
- Con có điều gì khác để dâng Chúa nữa đâu. Thánh nhân khẩn khoản thưa.
Chúa Hài Đồng bảo:
- Này Giêrônimô, hãy dâng cho ta cả những tội lỗi của con nữa.
- Ô lạy Chúa, Thánh nhân hốt hoảng hỏi lại, làm sao con dâng cho Chúa tội lỗi của con được?
- Được chứ! Ta muốn con dâng cho Ta tội lỗi của con để Ta có thể tha thứ cho con. Đó là điều Ta rất mong đợi. 
Nghe thế, thánh nhân bật khóc vì sung sướng. (Trích ”Món quà giáng sinh”)
2. Người Hồi giáo có chuyện sau đây: Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời. Sứ thần đáp xuống ngay một chiến  trường nơi máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy. Ngài bảo: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một  điều quý giá nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian.”
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giàu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc vừa xông hương để tỏ lòng biết ơn đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm nang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng, Ngài nói: “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều hiếm có và tốt đẹp nơi trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn.”
Lại một lần nữa sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp 4 phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường, Ngài bỗng thấy một người đang khóc sướt mướt. Trước những câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ  thần, người ấy giải thích: “Tôi đã chìu theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”. Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: “Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật dưới trần gian  không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu. (Trích “Món quà Giáng sinh”)
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Mùa Chay luôn mời gọi chúng con trở về với Chúa. Trở về để sống trong ân sủng và tình thương của Chúa. Chúa mời gọi chúng con đừng đi vào con đường tội lỗi. Đó là con đường dẫn đến cái chết không chỉ ở đời này mà cả đời sau. Xin giúp chúng con biết thành tâm sám hối tội lỗi của mình, biết dâng lên Chúa quá khứ tội lỗi của chúng con. Xin Chúa hãy mặc cho chúng con chiếc áo ân sủng của Chúa để loại trừ những tính hư nết xấu trong con người cũ chúng con.
Lạy Chúa Giêsu mến, có lẽ Chúa cũng rất đau khổ khi nhìn thấy những gì đang diễn ra trong thế giới quanh con. Một thế giới mà Chúa đã tạo dựng từ ban đầu đều tốt đẹp. Thế mà, ngày nay đang có nguy cơ bị hủy diệt bởi tội lỗi chúng con. Chúa rất buồn vì đời sống thiếu nhân cách, thiếu tình người của nhân loại chúng con. Ngay cả bản thân chúng con, có lẽ Chúa cũng rất buồn vì những lần chúng con đã lạc xa tình Chúa. Chúng con đã buông mình theo những đam mê xác thịt bất chính, chúng con đã để lòng trí mình xuôi theo những tư tưởng, những toan tính tội lỗi. Xin Chúa là Đấng lòng lành vô cùng, xin thương tha thứ cho tội lỗi chúng con.
Lạy Chúa, Chúa là tình yêu, là sự tha thứ và khoan dung. Xin tha thứ cho những yếu đuối của chúng con. Xin thương xót chúng con là kẻ tội lỗi. Amen.
(Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
 
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận