Thứ Tư Tuần 28 TN

Đăng lúc: Thứ tư - 15/10/2014 02:10 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
THỨ TƯ TUẦN 28 TN: Th. Tê-rê-xa A-vi-la, trinh nữ, tiến sĩ HT

Bài đọc (Gl 5, 18-25)
Anh em thân mến, nếu anh em được Thánh Thần hướng dẫn, anh em không còn ở dưới chế độ lề luật nữa. Vả chăng người ta thừa hiểu sự nghiệp của xác thịt là: tà dâm, ô uế, phóng đãng, buông tuồng, thờ lạy thần tượng, phù phép, thù hằn, kình địch, ghen tương, giận dữ, cãi lẫy, bất bình, bè phái, giết người, say sưa, mê ăn uống, và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo trước cho anh em hay, như tôi đã từng nói rằng: hễ những ai phạm các điều lỗi đó, sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa. Còn hoa quả của Thánh Thần là: yêu thương, vui mừng, bình an, nhẫn nại, nhân từ, hiền lành, khoan dung, dịu hiền, trung trực, đức hạnh, tiết độ, trinh khiết. Lề luật không chống lại các điều ấy. Vả chăng, những ai thuộc về Ðức Kitô, thì đã đóng đinh xác thịt cùng với các dục vọng và đam mê vào thập giá. Nếu chúng ta sống nhờ Thánh Thần, chúng ta cũng hãy ăn ở theo Thánh Thần.

Tin Mừng (Lc 11, 42-46)
Khi ấy, Chúa phán rằng: “Khốn cho các ngươi, hỡi những người biệt phái! Vì các ngươi nộp thuế thập phân, bạc hà, vân hương, và các thứ rau, mà lại bỏ qua đức công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa: Phải thi hành những điều này, và không được bỏ những điều kia. Khốn cho các ngươi, hỡi những người biệt phái! Vì các ngươi ưa thích ngồi ghế nhất trong các hội đường, và ưa thích được chào hỏi ngoài phố chợ. Khốn cho các ngươi, vì các ngươi giống những mồ mả không rõ rệt, người ta bước đi ở trên mà không hay biết!” Có một tiến sĩ luật trả lời Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy nói như thế là Thầy sỉ nhục cả chúng tôi nữa”. Người đáp lại rằng: “Hỡi những tiến sĩ luật, khốn cho các ngươi nữa! Vì các ngươi chất lên người ta những gánh nặng không thể vác được, mà chính các ngươi dù một ngón tay cũng không động tới”.


Hoặc bài đọc Lễ thánh Têrêxa Avila

Bài đọc (Rm 8, 22-27)

Thưa anh em, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở. (23) Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta cũng rên siết trong lòng: chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu, nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc thân xác chúng ta nữa. (24) Quả thế, chúng ta đã được cứu độ, nhưng vẫn còn phải trông mong. Thấy được điều mình trông mong, thì không còn phải là trông mong nữa: vì ai lại trông mong điều mình đã thấy rồi?(25) Nhưng nếu chúng ta trông mong điều mình chưa thấy, thì đó là chúng ta bền chí đợi chờ.
(26) Hơn nữa, lại có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả. (27) 
Và Thiên Chúa, Ðấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho các thánh theo đúng ý Thiên Chúa.

Tin Mừng (Ga 15, 1-8)
(1) Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. (2) Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn. (3) Anh em được thanh sạch rồi
nhờ lời Thầy đã nói với anh em. (4) Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy. (5) Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. (6) Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi. (7) Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý. 
(8)Ðiều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy.

Thánh TÊRÊXA AVILATrinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh (1515 – 1585)

I. ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ
Thánh nữ Têrêsa sinh ngày 28 tháng 3 năm 1515, tại Avila, nước Tây Ban Nha, trong một gia đình quý tộc đạo đức. Lúc nhỏ, thánh nữ rất thích đọc sách tu đức và hạnh thánh tử đạo, thấy các ngài can đảm hy sinh chịu khổ chịu chết vì Chúa, và được nên thánh trong Hội thánh. Có lần ngài bảo em: “Chúng ta hãy đến chỗ người ta đang bắt đạo, để chị em mình được chết vì đạo, được Chúa thưởng lên thiên đàng hưởng phước với các thánh.”
Thánh nữ chỉ mong được lên thiên đàng, và rất sợ hình khổ hỏa ngục.
Têrêsa có lòng kính mến Đức Mẹ đặc biệt. Ngày ngày, ngài lần chuỗi Mân Côi để tỏ lòng tôn kính Đức Mẹ. Và năm lên 12 tuổi, khi mẹ ngài mất, ngài đến quỳ trước ảnh Đức Mẹ, xin Đức Mẹ nhận ngài làm con, và hứa suốt đời sống xứng đáng làm con Đức Mẹ.
Năm 1530 nhân tuần cấm phòng tại tu viện thánh Augustinô, thánh nữ cảm thấy ước nguyện đi tu mỗi lúc một thôi thúc mạnh mẽ trong tâm hồn, Ngài trở về ngỏ ý xin cha cho phép vào tu trong dòng Carmelô, nhưng cha Ngài nhất định khưóc từ. Dầu vậy, Têrêsa không sờn lòng, ngài vẫn kiên trì hun đúc ý chí cầu nguyện sống tận hiến theo tiếng Chúa gọi. Một hôm thánh nữ phân vân không biết quyết định làm sao, theo tiếng Chúa gọi hay vâng lời cha già, thì một câu nói của thánh Giêrônimô đã giúp ngài định hướng dứt khoát cho cuộc đời của mình: “Cả khi cha mẹ con, nằm lăn trước cửa để ngăn cản con đi tu, thì con cũng cứ can đảm bước đi vì tiếng Chúa trong con hơn…” Thế là chim bằng vỗ cánh vút cao trên nền trời xanh thẳm.
Năm 1533, Têrêsa vừa đúng 18 tuổi, ngài nhất định cất bước lên đường vào tu trong dòng “Nhập thể”. Sống cuộc đời mới, thánh nữ hân hoan như cá gặp nước, ngài tiến bộ rất nhanh trên đường tu đức. Ngày 2.11.1535 ngài được mặc áo dòng. Cuộc đời tưởng sẽ êm suôi nhưng không phải thế. Bao nhiêu cơn cám dỗ nặng nề về đức tin và ý hướng tận hiến nổi lên. Thêm vào đó là tâm trí mệt mỏi, bệnh thần kinh xuất hiện hành hạ đến nỗi bề trên phải cho ngài về nhà uống thuốc nghỉ bệnh. Ơn kêu gọi trải qua một cơn sóng gió nặng nề. Nhiều khi thánh nữ cảm thấy chán nản, muốn nhắm mắt để mặc thế gian lôi cuốn. Thế nhưng ý Chúa nhiệm mầu. Chính lúc Têrêsa cảm thấy mình yếu đuối hơn cả thì lại là lúc Chúa hoạt động nơi ngài mạnh hơn hết. Quả thế, một hôm thánh nữ đang say sưa mơ tưởng những sự thế gian, thì bàn tay quan phòng của Chúa đã đến đúng lúc thức tỉnh thánh nữ. Tiếng nói mầu nhiệm của Chúa đã lọt vào lòng thánh nữ: “Cha không muốn con mê mải sự thế gian và tiếp xúc với người đời mà cha chỉ muốn con tiếp xúc với các thiên thần”.
Năm 1558, vào sau dịp lễ Phục Sinh, thánh nữ được trông thấy hai bàn tay của Chúa Giêsu rồi tiếp sau là khuôn mặt sáng ngời của Ngài. Lần khác Chúa cho thánh nữ trông thấy địa ngục đầy dẫy những hình khổ và lửa đỏ cháy ngùn ngụt thiêu đốt những linh hồn tội lỗi…
Những thị kiến ấy đã gợi lên nơi thánh nữ ý tưởng phải lập một dòng nhiệm nhặt hơn, chuyên lo đền tội. Thiên Chúa đã chúc lành cho ý định của ngài và giúp ngài thực hiện.
Ngày 24.8.1562, tu viện đầu tiên đã mọc lên ở Avila và ngày ngày có nhiều thiếu nữ xin gia nhập. Quy luật dòng rất nghiêm nhặt, như đi chân không, chú trọng đến việc ăn chay, hãm mình đánh tội, thức khuya dậy sớm, đọc kinh cầu nguyện rất nhiều. Và cũng từ đó, các tu viện được xây cất thêm mỗi ngày một đông, chứng tỏ Thiên Chúa rất hài lòng với công việc lớn lao của thánh nữ.
Cầu nguyện và suy ngắm chiếm điạ vị ưu tiên trong tinh thần tu đức của thánh nữ. Phương pháp cầu nguyện tốt nhất là đặt mình trước mặt Chúa và nhận biết sự nhỏ bé, hèn mọn của mình.
Đề tài thánh Têrêsa ưa nguyện ngắm hơn cả là đời sống hy sinh và cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Vì thế trong mọi hoàn cảnh, thánh nữ luôn múc lấy sức mạnh nơi thánh giá Chúa và luôn luôn tâm niệm lời Chúa phán: “hãy vác thánh giá và theo Chúa”. Thánh nữ đã viết: “Tôi không phàn nàn về thân phận của tôi, quả thực tôi không yếu đuối như những phụ nữ khác. Tôi có một trái tim quả cảm. Thiên Chúa nâng đỡ những ai quyết tin tưởng nơi Ngài. Chúa là sức mạnh, là nơi nương tựa và hướng đạo của tôi”.
Thánh Têrêsa đã sống và đã chết với lòng tin tưởng ấy. Thánh nữ hay than thở với Chúa: “Lạy Chúa, dù thành công hay thất bại, dù vui sướng hay đau khổ con vẫn một lòng tin tưởng vào Chúa”. Thánh nữ qua đời ngày tại Alba de Tormes ngày 05.10.1582 hưởng thọ 67 tuổi. Năm 1622 đức Gregoriô XV phong ngài lên bậc hiển thánh. Năm 1970 Đức Thánh Cha Phaolô VI tôn phong ngài lên hàng tiến sĩ của Giáo Hội.

II. NHỮNG HÌNH ẢNH ĐẬM NÉT VỀ CUỘC ĐỜI CỦA THÁNH TÊRÊSA AVILA
1. Bên cạnh những danh xưng mà người ta gán cho ngài như: Vị cải tổ dòng Cát Minh, người con của Giáo Hội, nhà đại chiêm niệm, nhân chứng của Thiên Chúa tình yêu thì hình ảnh đậm đà và đẹp nhất người ta thích nói về ngài là hình ảnh Têrêsa của Chúa Giêsu.
Giai thoại nổi tiếng sau đây cho chúng ta thấy điều đó.
Hồi ngài ở đan viện Toledo, một ngày kia, ngài bỗng thấy một cậu bé khôi ngô, thánh nữ ngạc nhiên dừng bước hỏi:
- Này em, em tên gì?
Cậu bé không trả lời ngay, nhưng hỏi ngược lại:
- Thưa bà, vậy bà tên chi?
- Tôi tên là Têrêsa của Chúa Giêsu.
Thánh Nữ đáp.
Cậu bé mỉm cười rất dễ thương tiếp lời:
- Tôi, tôi tên là … Giêsu của Têrêsa!
Nói xong, cậu bé “Giêsu của Têrêsa” biến mất…
Đức Thánh Cha Gioan XXIII rất thích câu chuyện này. Ngài ghi lại trong quyển nhật ký của Ngài mấy dòng tư tưởng sau đây:
“Tôi phải sống thế nào để Chúa Giêsu cũng nói với tôi, như thuở xưa Ngài đã nói với Thánh Têrêsa thành Avila: “Tôi tên là Giêsu của Têrêsa”. Vậy tiên vàn, tôi phải là Angêlô của Chúa Giêsu trước đã…”
Vâng! Mỗi người chúng ta phải là người của Chúa Giêsu.
2. Khi đã trở nên người của Chúa Giêsu thì thánh Têrêsa sẵn sàng sống tuân theo mọi đòi hỏi của Chúa.
Ngài luôn cầu nguyện: “Lạy Chúa, từ nay con muốn quên đi chính mình, hầu chỉ chú tâm vào việc con có thể làm gì để phụng sự Chúa, và con không còn ý muốn nào khác ngoài Thánh Ý Chúa”.
Trên đường đi lập đan viện Burgos, thánh Têrêsa gặp phải nhiều đau khổ nên đã thốt ra những lời sau đây: “Ôi lạy Chúa, phần thưởng của Chúa dành cho kẻ phục vụ toàn là những thử thách gay go”. Thánh nữ liền được nghe tiếng Chúa nói: “Đó là cách Ta đối xử với các bạn thân của Ta!” Têrêsa đáp lại: “Đúng rồi, có gì lạ đâu, chính vì thế mà Chúa có ít bạn tâm phúc!”

Suy niệm 1: HÃY THI HÀNH TRƯỚC KHI DẠY NGƯỜI KHÁC

Bài Tin Mừng hôm nay đặt trong khung cảnh của một bữa ăn tại nhà một người Biệt Phái.
Đức Giêsu được mời dự tiệc và Ngài đã bị các Biệt Phái để ý đến việc Ngài không rửa tay trước khi ăn. Họ bắt bẻ Đức Giêsu và cho rằng Ngài bỏ qua tập tục của tiền nhân… Tuy nhiên, lại một lần nữa, Ngài đã tố cáo lối sống bề ngoài của họ.
Thật vậy, những người Biệt Phái thì chỉ lo giữ luật theo mặt chữ, còn thực chất tinh thần thì đã chết khi họ nhất nhất bám vào từng dấu chấm, dấu phẩy. Họ sống vì luật, nên chỉ quan tâm đến chuyện đúng sai bề ngoài, mà đâu hề có sự công bằng và yêu thương. Họ luôn coi trọng hình thức trước đám đông ,vì thế, luôn thích được chào hỏi nơi công cộng.
Bên cạnh đó, những Tiến Sĩ Luật cũng bị khiểm trách nặng nề vì họ luôn bắt người khác phải làm chuyện này chuyện kia… nhưng thực ra bản thân họ thì không hề có một chút gì quan tâm đến việc phải làm nơi mình. Họ chất lên vai người ta đủ thứ, còn chính họ thì dù chỉ một chút nhỏ cũng không hề đụng ngón tay vào.
Ngày hôm nay, trong xã hội, người ta ít quan tâm đến việc đạo đức! Nếu có ai thực tâm sống tốt lành thì sẽ bị người ta dè bửu… ngược lại, họ quan tâm đến kiến thức, coi trọng việc đào tạo trí thức để sau này kiếm sao cho được nhiều tiền chứ không mảy may quan tâm đến chuyện kiếm tiền như thế nào cho phù hợp với lương tâm… Như vậy, sự vô cảm, bất nhân xuất hiện nhan nhản trong xã hội. Tại sao vậy? Thưa! Vì xã hội và con người ngày hôm nay quan tâm đến cái đầu chứ đâu có màng chi đến trái tim! Vì thế, lối sống hình thức, giả tạo là điều đương nhiên có mặt trong thời buổi này.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết coi trọng tiếng nói của Lương Tâm. Biết quan tâm đến đời sống nội tâm hơn là hình thức. Biết sống liên đới và lo cho anh chị em của mình được hạnh phúc thực sự. Biết nêu gương sáng trong đời sống hằng ngày trước khi hướng dẫn ai đó về đường đạo đức.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rằng: với Chúa, bề ngoài không nhất thiết quan trọng, nhưng điều cần thiết chính là bề trong, nơi sâu thẳm tâm hồn. Xin cho chúng con được sống theo đường lối của Chúa muốn. Amen.

Suy niệm 2

Tiếp tục những lời quở trách hôm qua, Chúa Giêsu kể ra ba thái độ sai lầm do đọc sai sách Luật của người Pharisêu. Chính những sai lầm này dẫn họ đến chuyện hư mất.
Thái độ thứ nhất là họ nhiệt tình trong việc “nộp thuế thập phân” cho Đền Thờ được đánh trên các loại rau cỏ li ti mà luật cũ không bắt buộc; chỉ tại họ “quá nhiệt tình” nên “truyền khẩu” cho nhau để giữ. Trong khi đó những đòi hỏi chính yếu của tôn giáo thì họ không giữ: “Xao lãng lẽ công bằng và lòng yêu mến Thiên Chúa”.
Thái độ thứ hai là họ khao khát danh dự nơi công cộng: “Thích ngồi ghế đầu trong hội đường, thích được người ta chào hỏi ở nơi công cộng”. Họ nghĩ họ xứng đáng được những điều đó do những thực hành bên ngoài hay những việc làm thêm. Những việc đó chẳng có công nghiệp gì vì họ đã xao lãng những điều cốt yếu. Danh dự của mỗi người là ở nơi Chúa chứ không phải ở nơi bản thân mình.
Thái độ thứ ba nặng nề hơn, đó là chính cái bên ngoài không chê trách được của họ làm họ quên mất rằng cái bên trong hư đốn của họ sẽ làm cho người ta bị lây nhiễm. Chúa Giêsu dùng hình ảnh ngôi mộ bên ngoài đẹp đẽ, nhưng bên trọng là sự ô uế nặng nề để chỉ những người Pharisêu. Điều đó chẳng những làm cho họ nên hư thối, mà còn là nguy cơ cho người ta mắc uế nếu giẫm đạp lên, nghĩa là đi theo con đường của họ.
Lạy Chúa, qua Lời Chúa hôn nay xin cho con biết vượt lên trên những điều chi li, nhỏ mọn không cần thiết trong cuộc sống hằng ngày để nhắm đến điều chính yếu trong đạo Chúa là tình yêu thương.
Xin cho con đừng ham thích những vinh dụ theo kiểu thế gian, mà hãy để cho Thiên Chúa làm cho mình được vinh dự bằng chính tình yêu của con dành cho Chúa trong mọi việc.
Sau cùng, xin đừng để đời sống của con trở thành xấu xa khiến những người xung quanh phải “mắc uế”, nhưng biết trau dồi để tỏa rạng hương thơm nhân đức xuất phát từ chính tình yêu của con.

Suy niệm 3: NHƯ CÂY LIỀN CÀNH

“Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái.” (Ga 15,5)
Suy niệm: Trong Chinh Phụ Ngâm khúc, nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn tả: “Thiếp xin thề kiếp sau này, như chim liền cánh như cây liền cành.” Sự gắn bó khăng khít và chung thuỷ của tình yêu phu phụ không thể đạt được trọn vẹn ở kiếp này cho nên đành phải hẹn lại kiếp sau, bởi vì dù “ta với mình” tuy là một nhưng thực sự vẫn là hai. Thế nhưng, Chúa Giê-su, qua dụ ngôn cây nho, cho biết, sự kết hợp trong mơ đó được thể hiện nơi tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, không đợi đến “kiếp sau” trên Thiên quốc mà ngay ở “kiếp này”. Lối nói “ở trong nhau” không chỉ là một biện pháp tu từ mà là một hiện thực nơi bí tích Thánh Thể: Thịt Máu Chúa, dưới hình bánh rượu, được chan hoà trong máu thịt của chúng ta khi chúng ta rước lễ.
Mời Bạn: Bằng hình ảnh cành nho gắn liền với cây nho, Chúa Giê-su đã cho chúng ta thấy sự cần thiết và tầm quan trọng của việc mỗi người chúng ta phải kết hợp và gắn bó với Thiên Chúa; bởi đó là nguồn sống chính yếu để nuôi dưỡng cuộc sống tâm linh mỗi người. Chúng ta phải tự hỏi: Tôi có đang gắn kết với Chúa Giê-su không? Và bằng những phương cách nào? Đời sống của tôi có trổ sinh hoa trái cho Thiên Chúa không? Hay tôi đang là những cành nho khô héo, èo uột vì không gắn bó, kết hợp với Thiên Chúa của mình?
Sống Lời Chúa: Bạn liên kết trở nên một với Chúa Ki-tô bằng cách siêng năng lãnh nhận bí tích Thánh Thể. Nếu vì lý do nào đó công việc này bị ngăn trở đối với bạn, bạn hãy dành thời gian để tâm sự với Chúa Ki-tô.
Cầu nguyện:Đọc kinh Kính Mến.
***
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Chúng con cảm tạ Chúa đã tạo dựng chúng con giống hình ảnh Chúa. Chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con bánh bởi trời là sự sống thần linh nuôi dưỡng xác hồn chúng con. Xin gìn giữ phẩm giá là hình ảnh của Chúa nơi chúng con. Xin đừng để tội lỗi làm mất vẻ đẹp của tâm hồn chúng con. Xin giúp chúng con đừng dễ dãi chiều theo tính xác thịt mà đánh mất sự hiệp thông với Chúa.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, Chúa hằng tha thiết mời gọi chúng con thanh tẩy mình mỗi ngày nên hoàn hảo hơn. Chúa luôn mời gọi chúng con loại bỏ thói giả hình, đạo đức giả để sống chân thật trước mặt Chúa và tha nhân. Nhưng Chúa ơi! Sao chúng con khó có thể sống thật với lòng mình quá! Chúng con thường đóng kịch trước tha nhân. Chúng con luôn che đậy những ý đồ xấu, những việc làm xấu bằng rất nhiều những hành vi bác ái bên ngoài. Có khi chúng con làm việc lành bác ái nhưng chỉ để che đậy biết bao việc lỗi công bình bác ái với tha nhân. Có khi chúng con tham dự thánh lễ nhưng lòng chúng con thì xa lìa Chúa bởi tội lỗi vẫn nằm sâu trong bản tính loài người chúng con. Xin tha thứ cho những yếu đuối của chúng con. Xin giúp chúng con biết sửa mình mỗi ngày, biết canh tân đời sống cho xứng với tình yêu mà Chúa dành cho chúng con.
Lạy Chúa, Chúa là Đấng chân thật. Xin giúp chúng con luôn yêu mến sự thật, luôn sống theo sự thật để tìm được sự bình an của tâm hồn chân thật. Amen.
 
Suy Niệm 4: Kiện Toàn Lề Luật

Tin Mừng hôm nay có lẽ mời gọi chúng ta suy nghĩ về ý nghĩa đích thực của luật lệ. Chỉ có xã hội loài người mới có luật lệ. Thú vật xem chừng cũng tuân thủ một thứ luật nào đó, nhưng là luật rừng. Khi con người dùng sức mạnh áp đặt luật lệ để nhằm quyền lợi của một thiểu số, chứ không nhằm phục vụ công ích, thì đó cũng chỉ là luật rừng, luật của kẻ mạnh mà thôi.
Chúa Giêsu đã đến để kiện toàn lề luật. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu một lần nữa muốn xác nhận điều đó khi Ngài tuyên bố: "Phải làm các điều này mà không được bỏ qua các điều kia". Chúa Giêsu đã kiện toàn lề luật bằng cách mặc cho nó tinh thần yêu thương: yêu thương là linh hồn của lề luật. Tất cả lề luật trong đạo đều qui về một giới răn nền tảng và duy nhất, đó là yêu thương.
Thánh Phaolô đã nói: "Yêu thương là chu toàn lề luật". Sống yêu thương là dấu ấn Thiên Chúa đã ghi khắc trong tâm hồn con người, bởi vì chỉ có con người mới là tạo vật duy nhất được Thiên Chúa tạo dựng theo và giống hình ảnh Ngài. Mà bởi lẽ Thiên Chúa là Tình Yêu, cho nên mang lấy hình ảnh của Ngài, con người cũng chỉ có một ơn gọi duy nhất, đó là sống yêu thương. Tất cả lề luật Giáo Hội ban hành là chỉ nhằm giúp con người sống yêu thương mà thôi. Chỉ có yêu thương, con người mới trưởng thành; chỉ có yêu thương mới đem lại cho con người một sự giải phóng đích thực, đó là giải phóng khỏi tội lỗi, khỏi ích kỷ, khỏi hận thù.
Xin Chúa cho chúng ta hiểu được lòng Chúa yêu thương chúng ta từng giây phút trong cuộc đời, để chúng ta sống trong tình Ngài nâng đỡ ủi an chúng ta trên con đường tiến về hạnh phúc vĩnh cửu. Xin cho chúng ta luôn quảng đại chu toàn mọi bổn phận với lòng yêu mến, để đáp lại tình Chúa yêu thương chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
 
Suy Niệm 5: Thiên Chúa Là Tình Yêu

Ðối diện với sự gian dối và bất lương của những người pharisiêu và các nhà thông luật, Chúa Giêsu đã không ngần ngại lên tiếng khiển trách họ. Thái độ thích khoe khoang và cái bề ngoài công chính, giả tạo nhưng bên trong lòng thì chứa đầy những gian xảo của những người pharisiêu hay như hành động chèn ép và áp bức của các nhà thông luật đối với người dân bần cùng là cội rễ của các bất công xã hội. Chúa Giêsu không có chủ ý kết án những người pharisiêu và những nhà thông luật, ngược lại, Ngài chỉ muốn khiển trách để cảnh tỉnh lương tâm của họ, để họ lắng nghe lời Ngài là Con Thiên Chúa mà trở về con đường ngay thẳng.
Chúa Giêsu dạy cho họ biết rằng chỉ có một điều luật lớn nhất vượt lên trên mọi Lề Luật khác đó là luật mến Chúa yêu người. Những ai sống theo luật yêu thương này là thực hành ý muốn của Thiên Chúa. Thánh Phaolô tông đồ trong thư gởi các tín hữu Rôma nhắc nhở rằng: "Tất cả chúng ta cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa, vì chúng ta không thể tự mình trở nên công chính trước mặt Người". Thánh Phaolô cũng lên tiếng cảnh giác những người tự cho mình là công chính mà không cần tới lòng thương xót của Thiên Chúa, và từ đó nảy sinh ra thái độ xét đoán người khác. Người nói: "Còn bạn, hỡi người xét đoán những kẻ làm điều đó trong khi chính mình cũng làm như vậy. Bạn tưởng mình khỏi sẽ bị Thiên Chúa xét xử sao?"
Vì thế, ai phán xét và kết án những người khác là lòng bị bất công vì chính mình cũng thuộc vào cùng một lỗi lầm, hay nói cách khác, tất cả chúng ta đều là những người tội lỗi như nhau. Mặt khác, thái độ lên án người khác gây ra sự chia rẽ giữa chúng ta với những người khác. Ngay cả trường hợp chúng ta có làm được những công nghiệp tốt lành đi nữa thì hành động này của chúng ta cũng không làm cho Thiên Chúa hài lòng. Một công nghiệp tốt lành có tác động làm cho mọi người được hiệp nhất với nhau chứ không tạo nên sự chia rẽ.
Thiên Chúa chính là sự hiệp nhất và tình yêu. Những ai sống theo tinh thần này là sống theo thánh ý của Thiên Chúa. Chúng ta cần đặt mình trước sự thương xót và lòng bác ái của Thiên Chúa, đó là con đường duy nhất dẫn đến sự cứu rỗi. Chúng ta cần hướng về Thiên Chúa để xin Người ban cho hồng ân cứu rỗi mà Người đã hứa ban cho toàn thể nhân loại, không kể đó là người Kitô hay dân ngoại, người công chính hay người tội lỗi. Vì tất cả chúng ta đều cần tới tình yêu thương và sự thương xót của Thiên Chúa, là vị Cha chung của tất cả chúng ta ở trên trời.
Lạy Chúa,
Chúa là cội nguồn của sự công chính và bác ái. Xin soi sáng và hướng dẫn lương tâm chúng con để chúng con biết sống một cách lương thiện và công bằng mà không xúc phạm hay làm tổn thương đến những người anh em khác. Qua thái độ sống lương thiện và chân thật đó chúng con làm chứng tá cho tình yêu và sự hiện diện của Chúa trên trần gian này.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
 
Suy Niệm 6: BỆNH MÙ QUÁNG TINH THẦN

Đức Giêsu nói: “Khốn cho các ngươi, hỡi các người Pha-ri-sêu! các người nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, và đủ thứ rau cỏ, mà sao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa, phải làm các điều này mà không được bỏ qua các điều kia.” (Lc. 11, 42)
Ngày nay, người ta sản xuất mọi thứ hàng giả, hàng dổm được sơn phết, sao chép như thiệt để tiếp thị, bán chạy như tôm tươi và thật mát mắt. Không chỉ hàng hóa dổm mà còn cả những nhân vật học giả, học dổm có đầy đủ học vị cao, lừa đảo, khiến người khác tin tưởng họ như thật. Người ta đã muốn thay con tim người bằng tim khỉ đột, chỉ thấy cái hào nhoáng bên ngoài mà không biết được giá trị cốt lõi bên trong.
Đức Giêsu quan tâm đến lòng người, tinh thần bên trong, chứ không để bị lừa bởi dáng vẻ hấp dẫn bên ngoài. Người vạch cho thấy lối sống giả hình mù quáng.
Những con buôn giả phải chịu trách nhiệm về sự thất bại của mình, phải lãnh hậu quả tai hại
Nơi một dân coi những việc cử hành đạo đức đóng một vai trò cứu thế, thì dễ xuất hiện lòng sùng bái đối với lối đạo đức hình thức phô trương bên ngoài. Những người biệt phái như những con buôn hàng giả, tỏ ra vẻ cao cả khi giữ luật rất tỉ mỉ, cầu nguyện giữa phố phường và những nơi công cộng cho người ta thấy.
Rất nhiều kẻ trong số biệt phái đó tỏ ra kiêu ngạo, họ quên lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa, Đấng ban ơn soi sáng cho tất cả mọi việc đạo đức. Đức Giêsu chúc dữ những kẻ giả hình để hy vọng dẫn đưa họ ăn năn sám hối trở về.
Tính kiêu ngạo và phô trương của họ do nội tâm họ không trong sạch được che đậy để người ta kính trọng họ, theo họ và hư đi theo họ mà không biết. Sự che đậy của biệt phái có thể lây lan sang những ai bước xuống mồ của họ, vì họ không thể biết được lòng họ. Lời khiển trách của Đức Giêsu cũng giáng xuống đầu các nhà thông luật vì họ dạy biệt phái cũng như dân chúng. “Họ chất trên vai kẻ khác những gánh nặng gánh không nổi, còn họ thì dù một ngón tay họ cũng không để đụng tới”. Họ phải chịu trách nhiệm về tội hủ hóa người khác.
Chúng ta có là những người hành đạo theo thói quen và để được người ta kính trọng không? Trong khi đó con tim lại đầy ghen ghét, hận thù, bất công chăng? Chớ gì lời chúc dữ của Chúa Giêsu đừng áp dụng vào chúng ta.
RC

SUY NIỆM 7:

1. “Khốn cho các ngươi”
Trong bài Tin Mừng hôm nay và ngày mai, Đức Giê-su nói tới sáu lần “Khốn cho các người”: ba lần đầu nhắm đến những người Pha-ri-sêu, như chúng ta vừa nghe. Lẽ ra Chúa dừng lại đây, nhưng những thầy thông luật cũng nghe thấy, và cảm thấy đụng chạm, vì thế họ lên tiếng: “Thưa thầy, thầy nói như thế là nhục mạ cả chúng tôi nữa”. Thế là, Đức Giê-su nói thêm ba lần nữa: “Khốn cho các người, hỡi những nhà thông luật”. Chúng ta vừa nghe lần thứ nhất, dành cho các nhà thông luật, trong bài Tin Mừng hôm nay, và trong bài Tin Mừng ngày mai, sẽ là hai lần còn lại. Ở mức độ nào đó, chúng ta cũng hãy để cho mình được đánh động bởi những lời này của Đức Giê-su, và nhất là cũng cảm thấy bị đụng chạm !
Khi nói “Khốn cho các người”, Đức Giê-su có vẻ rất nặng lời, nếu chúng ta hiểu đó lời chúc dữ, theo đó họ sẽ chuốc lấy án phạt nặng nề hay sẽ gặp nhiều tai họa. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu lời trách mắng nặng nề của Đức Giê-su theo một nghĩa khác. Đó là, Đức Giê-su muốn mặc khải cho những người Pha-ri-sêu và những nhà thông luật, rằng lối suy nghĩ và hành động của họ, là một thứ bệnh; và vì là bệnh, giống như bệnh thể lý, phải có người khám bệnh và cho biết đó là bệnh gì; ngoài ra, như chúng ta đều biết và đôi khi có kinh nghiệm, bệnh tật, tự nó là một bất hạnh. Hiểu theo nghĩa này, chúng ta có thể diễn đạt lại lời của Đức Giê-su như sau: “Bất hạnh cho các người”.
2. Những căn bệnh cần được chữa lành
Trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su mặc khải cho những người Pha-ri-sêu biết, họ có ba điều bất hạnh, hay nói cách khác ba thứ bệnh :
- Bệnh thứ nhất: làm tròn bổn phận nộp mọi thứ thuế, nhưng lại bỏ qua lẽ công bình, nghĩa là tương quan với tha nhân, và lòng yêu mến Chúa. Nghĩa là họ chỉ làm tròn những bổn phận đem lại cho mình vinh quang, danh dự, tiếng tốt với nhưng người có quyền có thế. Trong khi tâm điểm và ý nghĩa của Lề Luật là lòng mến Chúa và yêu người, thì họ không quan tâm. Sống lệ thuộc vào lời khen tiếng chê, như chúng ta đều biết, quả là một bất hạnh.
- Bệnh thứ hai : thích ngồi ghế đầu trong hội đường, thích được người ta chào hỏi nơi công cộng. Một người có chức có quyền, thì đương nhiên được ngồi ở trên và được chào hỏi. Điều trở nên bệnh hoạn ở đây, theo lời Chúa, là lấy đó làm vui thích, nguồn của tính kiêu căng. Bất hạnh ở đây là tự mình cô lập, tách rời khỏi tương quan đơn sơ, huynh đệ và tình bạn, vốn đem lại niềm vui đích thật.
- Bệnh thứ ba: các người giống như mồ mả không có gì làm dấu, người ta giẫm lên mà không hay. Có lẽ đây là lời nặng nề nhất của Đức Giê-su dành cho người Pha-ri-sêu, để mặc khải cho họ căn bệnh hiểm nghèo chết người. Theo đó, họ chỉ có vẻ bề ngoài, nhưng không ai biết, bên trong toàn là chết chóc, ô uế, thối tha; giống Người nói trong bài Tin Mừng hôm qua: “Bên ngoài chén dĩa, thì các người rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc gian tà”. Lời này sẽ ứng nghiệm, khi họ căm giận Đức Giê-su, gài bẫy, lập mưu để bắt và loại trừ ngài.
Ba căn bệnh của người Pha-ri-sêu, mà Đức Giê-su công bố, có thể qui về một căn băn duy nhất, đó là bệnh sống theo vẻ bề ngoài. Thế mà, sống theo vẻ bề ngoài là một căn bệnh vừa phổ biến và vừa khó chữa lành của loài người, và của mỗi người chúng ta.
3. Chữa lành bằng Thập Giá
Nhưng Đức Giêsu, với tư cách là thầy thuốc, Người không chỉ chuẩn bệnh, nhưng con chữa bệnh nữa. Ngài chữa lành căn bệnh sống theo vẻ bề ngoài của chúng ta không chỉ bằng lời mặc khải, nhưng còn bằng chính cách sống của ngài với con người và Thiên Chúa Cha.
Như con rắn đồng xưa, ai nhìn lên Đấng chịu đóng đinh trên Thánh Giá, thì sẽ được chữa lành, chữa lành khỏi sức mê hoặc của vẻ bề ngoài (x. Ds 21, 4-9 và Ga 3, 13-17). Bởi vì, thập giá là biểu tượng của công lí hay công chính của loài người, nhưng hoàn toàn chỉ có vẻ bề ngoài. Nơi Thập Giá, Đức Kitô muốn giải thoát chúng ta khỏi sự công chính, đến từ chính chúng ta, dựa vào việc giữ Luật; bởi vì sự công chính này, xét cho cùng chỉ có vẻ bề ngoài, không đụng chạm và không thể đụng chạm đến chốn sâu thẳm và thầm kín của đời người và của nội tâm. Và Ngài muốn trao ban cho chúng ta sự công chính của chính Ngài, sự công chính đích thật của con Thiên Chúa. Như thánh Phao-lô đã xác tín trong thư gởi Tín Hữu Ga-lát mà Giáo Hội cho chúng ta nghe lại trong những ngày vừa qua:
Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi.Tôi không làm cho ân huệ của Thiên Chúa ra vô hiệu, vì nếu người ta được nên công chính do Lề Luật, thì hoá ra Đức Ki-tô đã chết vô ích (Gl 2, 20-21).
Như thế, phương thuốc tận cùng của Ngài để chữa lành chúng ta, chính là Thập Giá, nơi đó, vẻ bề ngoài của ngài không còn là gì nữa: thân xác, y phục, danh dự, sự nghiệp, sự sống… Nhưng chính lúc đó đức công chính thần linh và căn tính đích thật của Người lại rạng ngời nhất.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
 
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận