Thứ Tư tuần 2 thường niên.

Đăng lúc: Thứ tư - 20/01/2016 02:23 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
Thứ Tư tuần 2 thường niên.

"Trong ngày Sabbat được cứu sống hay là giết chết?"

 

LỜI CHÚA: Mc 3, 1-6

Khi ấy, Chúa Giêsu lại vào hội đường và ở đó có một người khô bại một tay. Người ta để ý quan sát xem Chúa có chữa bệnh trong ngày Sabbat không, để tố cáo Người. Chúa bảo người có tay khô bại rằng: "Ngươi hãy đứng ra giữa đây". Rồi Người bảo họ: "Trong ngày Sabbat được làm sự lành hay sự dữ? Ðược cứu sống hay là giết chết?" Nhưng họ thinh lặng. Bấy giờ Người thịnh nộ đưa mắt nhìn họ và buồn phiền vì lòng họ chai đá, Người bảo bệnh nhân rằng: "Hãy giơ tay ra". Người đó giơ tay ra và tay anh ta được lành. Lập tức, những người biệt phái đi ra bàn tính với những kẻ thuộc phái Hêrôđê chống đối Người và tìm cách hại Người.

 

Suy Niệm 1: Phản ứng của Chúa Giêsu

Trong diễn văn đọc trước ngoại giao đoàn bên cạnh Toà Thánh nhân dịp Năm Mới 1996, Ðức Gioan Phaolô II đã mạnh mẽ tố giác các đàn áp Kitô hữu; Ngài nhận định như sau: "Người ta không thể đàn áp mãi hàng triệu tín hữu, nghi ngờ hoặc chia rẽ họ, mà những hành động đó lại không đưa đến những hậu quả tiêu cực, chẳng những đối với uy tín của các quốc gia trên trường quốc tế, mà cả trong nội bộ các xã hội liên hệ; trái lại, những mối quan hệ tốt giữa các Giáo Hội và nhà nước góp phần vào sự hòa hợp mọi thành phần trong xã hội".

Vừa đàn áp, vừa kêu gọi tin tưởng, chỉ có người mù quáng mới không thấy được sự mâu thuẫn trong hành động của mình. Người mù lòa ít ra còn biết mình không thấy, nhưng kẻ mù quáng vốn có mắt, nhưng lại không nhìn thấy.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu có một phản ứng trước sự mù quáng của những người Biệt phái. Chúng ta cứ tưởng tượng một bệnh nhân đang quằn quại trong đau khổ cần được một bàn tay săn sóc chữa trị, thì người ta lại nại đến luật ngày Hưu lễ để bắt bẻ và cấm chế. Thánh sử Marcô như muốn tô đậm phản ứng của Chúa trước thái độ mù quáng như thế, khi viết: "Chúa Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng chai đá của họ". Chúa Giêsu vốn là Ðấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng thái độ của Ngài đối với những người khốn khổ, các bệnh nhân, các tội nhân, những người bị đẩy ra bên lề xã hội, Ngài đồng bàn với họ, cảm thông với họ, tha thứ cho họ.

Chúa Giêsu tỏ ra cảm thông tha thứ đối với mọi tội lỗi của con người, duy chỉ có một thái độ Ngài không bao giờ chấp nhận và tha thứ, đó là thói giả hình và mù quáng. Do yếu đuối, con người sa ngã là chuyện bình thường, nhưng nhắm mắt khép kín tâm hồn để không nhận ra mình yếu đuối cũng như nhân danh đạo lý và pháp luật để khước từ yêu thương, để loại trừ người khác, Chúa Giêsu gọi đó là tội chống lại Thánh Thần, tội không thể tha thứ được. Thật thế, khi con người không còn nhận ra thân phận tội lỗi yếu đuối của mình, khi con người khước từ yêu thương, thì mọi tương quan với Thiên Chúa cũng hoàn toàn bị cắt đứt. Chúa Giêsu không ngừng lên án thái độ giả hình và mù quáng của những người Biệt phái; Ngài cũng luông kêu gọi các môn đệ đề cao cảnh giác trước men Biệt phái.

Nguyện xin Chúa giúp chúng ta ghi tạc Lời Chúa để tránh khỏi men giả hình và mù quáng ấy. Xin Ngài cho chúng ta một tâm hồn nhạy cảm để nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta và đáp lại tiếng gọi thống hối và hoán cải không ngừng của Chúa. Xin Ngài ban cho chúng ta một trái tim luôn biết rung động trước nỗi đau khổ của đồng loại và đôi tay luôn biết rộng mở để săn sóc chữa trị và san sẻ trao ban cho mọi người.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 2: Làm việc lành khi nào?

Đức Giêsu lại vào hội đường. Ở đó có một người bị bại tay. Họ rình xem Đức Giêsu có chữa người ấy ngày sa bát không, để tố cáo Người. Đức Giêsu bảo người bại tay: “Anh chỗi dậy, ra giữa đây!” Rồi Người nói với họ: “Ngày sa bát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?” Nhưng họ làm thinh. (Mc. 3, 1-4)

Chúa Giêsu và các người Biệt phái đã nhiều lần đối đầu với nhau về vấn đề giải thích Luật. Chúa Giêsu có một cách tiếp cận Luật một cách khá thông thoáng, còn những người Biệt phái chủ trương một sự giải thích chặt chẽ khít khao. Thực ra mỗi bên đều theo đuổi những nguyên tắc và quan điểm riêng, nên không thống nhất được một thang giá trị về công lý. Một bên thì cọi trọng những luật lệ và thực hành cũ kỹ của quá khứ, bên kia lại sẵn sàng thích ứng với hiện tại.

Một vấn đề có tính thời sự

Sự phát triển về cấu trúc lao động trong các xã hội công nghiệp đã dẫn đến một sự quá chuyên biệt và phân cách trong các ngành nghề và hoạt động khác nhau, đồng thời khiến cho những luật về lao động càng rắc rối phức tạp. Kết quả là vì muốn tôn trọng người lao động mà người ta đã phạm phải những sai lầm vô lý, tỉ dụ như trên một công trường xây dựng, người thợ điện không được phép cưa một khúc gỗ cho anh mà phải đem khúc gỗ ấy đến xưởng cưa, ông thầy dạy học không thể cung ứng cho các sinh viên một sinh hoạt ngoài giờ học; những công nhân đã bị người ta rầy la khi làm việc vì đã tỏ ra quá nhiệt tình và đã bày ra thêm một lượng công việc lớn hơn mức trung bình.

Người ta lại phải tự hỏi: khi nào phải làm việc lành? Có phải tôn trọng hay bỏ qua những luật lệ tỉ mỉ này không?

Thí dụ nêu trên về tình hình lao động khiến chúng ta phải nêu lên mấy câu hỏi. Chúa Giêsu liệu có phải giận dữ rảo mắt nhìn ta khi thấy ta đôi khi vì những luật lệ tỉ mỉ này mà làm cho lòng quảng đại khó được thực hiện chăng? Chúng ta xây dựng loại thế giới nào khi chính những con người cần cù lao động lại bị coi như làm hại cho những kẻ lười biếng? Và biết bao người trong chúng ta thường ỷ vào những quy ước, văn bản đã ký, những nỗi lo toan việc chung để thoái thác một đơn thỉnh cầu và xếp lại hồ sơ hay gọi điện thoại đẩy công việc đó cho một người khác?

Phần Chúa Giêsu, Người đã trả lời những câu hỏi này và khi thấy việc lành cần làm thì Người đã làm ngay.

 

Suy niệm 3: CÓ ĐƯỢC PHÉP LÀM ĐIỀU THIỆN TRONG NGÀY SABÁT KHÔNG?

 

Khi nói đến Đức Giêsu, hẳn ai ai trong chúng ta cũng đều nghĩ ngay đến một Đức Giêsu nhân từ, hiền hậu và khiêm nhường. Mà quả thật là như vậy, bởi đã có lần Ngài nói: hãy học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường; hay trong các cử chỉ, hành động của Ngài cũng đều toát lên bản chất đó.

 

Tuy nhiên, chúng ta thấy có những lúc Đức Giêsu rất cương nghị. Chẳng hạn như khi Ngài loan báo cuộc khổ nạn thì Phêrô đứng ra ngăn cản Ngài, Ngài sẵn sàng mắng Phêrô là Satan và đuổi ông xéo lại đằng sau. Hay khi Ngài lên đền thờ Giêrusalem và thấy người ta buôn bán đủ thứ trong đền thờ, Ngài đã nổi nóng và lấy giây bện thành roi đánh đuổi và lật nhào bàn ghế của họ. Tại sao vậy? Thưa vì nếu những gì làm cho con người xa ơn cứu chuộc, hay làm cản trở sứ vụ cứu thế của Ngài thì Ngài không khoan nhượng. Bởi nếu khoan nhượng thì họ bị mất ơn cứu chuộc.

 

Hôm nay cũng vậy, Ngài tỏ ra buồn bực và mạnh mẽ lên án cách nặng nề những người đang đứng đó với Ngài bởi vì lòng họ hóa ra chai đá, cứng cỏi, nên không thể có một cái nhìn tích cực về những việc làm tốt đẹp, và, như một điều tất yếu, họ khó có thể đón nhận được hồng ân cứu độ vì sự kiêu ngạo đã phủ lấp tâm hồn họ.

 

Lời Chúa hôm nay cật vấn lương tâm mỗi chúng ta. Liệu có khi nào vì ích kỷ, ghen tương và vụ luật mà chúng ta không thể có một cái nhìn tích cực hay nhìn đúng sự việc tốt lành của anh chị em mình? Hay là chúng ta chỉ tìm cơ hội để thọc gậy bánh xe, làm cho người anh chị em chúng ta khó lòng thi hành điều tốt đẹp mà họ được thúc đẩy để làm?

 

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con luôn biết nghĩ tốt cho người khác; hay khi muốn sửa lỗi cho ai thì chính mình phải nhìn nhận bản thân cũng có những lỗi đó. Có thế, chúng ta mới trở thành môn đệ thực thụ của Chúa. Amen.
 

SUY NIỆM 4

Trình thuật Tin Mừng theo thánh Mác-cô có cấu trúc song song đối xứng như sau:

(A) Đức Giê-su đi vào hội đường; họ rình Ngài (c. 1-2)

(B) Đức Giê-su nói với người bại tay (c. 3)

(C) Đức Giê-su nói với họ (c. 4a)

(D) Họ im lặng (c. 4b)

(C’) Đức Giê-su nhìn họ chung quanh (c. 5a)

(B’) Đức Giê-su nói với người bại tay (c. 5b)

(A’) Họ ra khỏi hội đường và tìm cách giết Ngài (c. 6)

1. Sự Dữ và Lề Luật:

Bài Tin Mừng theo thánh Mác-cô hôm nay kể lại việc Đức Giê-su chữa người bại tay trong hội đường vào ngày sa-bát; biến cố này chính là điểm tới của một loạt vấn nạn của “họ” đối với lập trường (lời nói và việc làm) của Đức Giê-su về tội lỗi, bệnh tật, lề luật nhất là luật sa-bát (Mc 2, 1 – 3, 6).

  • Lúc đầu họ nhân danh lề luật để chất vấn Đức Giê-su: “Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng! Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?” (2, 7)
  • Sau đó, tiếp tục dựa vào lề luật để dò xét, họ nêu ra nhiều thắc mắc: “Sao! Ông ấy ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi!” (c. 16); “Sao các môn đệ ông Gio-an và các môn đệ người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?” (c. 18); “Ông coi, ngày sa-bát mà họ làm gì kia? Điều ấy đâu được phép” (c. 24).
  • Và sau cùng, như bài Tin Mừng kể lại, “họ làm thinh” (3, 4) . Sự thinh lặng của họ diễn tả lựa chọn sự chết trong nội tâm: “Ra khỏi đó, nhóm Pha-ri-sêu lập tức bàn tính với phe Hê-rô-đê, để tìm cách giết Đức Giê-su” (c. 6).

Như thế, bệnh thể lý nhường chỗ cho một thứ bệnh khác, gây chết chóc nhiều hơn gấp bội, cho mình và cho người khác; và thứ bệnh này làm cho Đức Giê-su “buồn khổ”

Đức Giê-su giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá. (c. 5)

Sự Dữ không thể bị đưa ra ánh sáng khi ẩn nấp nơi lề luật (dựa vào Lề Luật để làm điều dữ; có thể đọc Rm 7, 7-13), nhưng đã phải lộ diện ở đây, khi đối diện với ý muốn và quyền năng phục hồi sự sống và trao ban sự sống một cách thuần túy và nhưng không của Đức Giê-su. Tất cả sẽ trở thành hiện thực và đi tới cùng ở nơi mầu nhiệm Thập Giá, nghĩa là lúc Chàng Rể bị đem đi (x. Mc 2, 20). Khi mà, mọi người chỉ coi người bại liệt là bệnh nhân, thì Đức Giê-su nhìn người này vừa là tội nhân và vừa là bệnh nhân: “Này con, con đã được tha tội rồi” (Mc 2, 5). Bởi vì, trên Thập Giá, Ngài sẽ trở thành “tội nhân và bệnh nhân”, để mặc khải Sự Dữ và Sự Thiện, tha thứ, chữa lành và mở đường cho chúng ta đi vào Sự Sống, dù chúng ta là ai và đang ở trong tình trạng nào. Với người bại tay, Người nói:

“Anh giơ tay ra!” Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường. (Mc 3, 5)

Ngang qua việc chữa lành rất nhỏ bé, là chữa lành cánh tay bị bại liệt, Đức Giê-su vừa bày tỏ cách rõ ràng và mạnh mẽ sứ mạng phục vụ sự sống (vì cánh tay mang ý nghĩa biểu tượng: người ta làm việc với đôi tay để nuôi sống mình và người khác), Đức Giê-su vừa muốn chạm tới và chữa lành một thứ bệnh nguy hiểm nhưng rất khó đưa ra ánh sáng để được chữa lành, đó là dùng lề luật như phương tiện để giết chết. Căn bệnh này có nguồn gốc từ con rắn, tức ma quỉ (x. St 3, 1-7).

Khi cầu nguyện, chúng ta có thể dùng phương pháp chiêm niệm: Nhìn các nhân vật trong không gian hội đường; nghe tiếng nói, đặc biệt chú ý đến câu hỏi của Chúa và hãy thử trả lời. Nhưng nghe cả thinh lặng nữa (đọc ra ngôn ngữ thinh lặng), thinh lặng ở đây muốn diễn tả điều gì? Tại sao Chúa giận giữ? Quan sát cung cách bên ngoài, chuyển động (vào hội đường, bước ra giữa và đi ra khỏi hội đường), nhưng nhất là “chuyển động nội tâm”, vì mọi sự diễn ra trong nội tâm, vì thế trình thuật rất ngắn. So sánh ý đồ rình xem để tố cáo và ý đồ giết Đức Giêsu.

2. “Ngày sa-bát, được phép làm điều tốt hay điều xấu, cứu lấy sự sống hay giết đi ?”

Họ có vẻ giữ luật thật kĩ và còn muốn bảo vệ nữa. Họ chẳng có gì đáng trách xét theo Luật, ngược lại còn đáng khen nữa. Tuy nhiên, trong lòng chất chứa năng động sự dữ và sự chết: họ dựa vào luật để tố cáo, nhưng sẽ đến lúc họ sẽ tố cáo vô cớ (như trường hợp này, vì Đức Giê-su chữa bệnh bằng lời, nên không vi phạm luật sa-bát, nhưng họ vẫn cứ muốn loại trừ Ngài), hay tự tạo ra chứng cớ bất chấp Lề Luật: « Chúng ghét con vô cớ » (Ga 15, 25).

Thánh Gioan đã trích Tv 35, 19 hay Tv 69, 5, vì nhìn ra ở đó lời tiên báo về sự thù ghét của thế gian đối với Đức Giê-su. Không phải vì họ yêu thích lề luật, vốn được lập ra để phục vụ cho sự sống, nhưng là yêu thích tố cáo, và dùng lề luật làm phương tiện tố cáo, lên án và giết chết (x. Rm 7; St 3). Câu hỏi của Đức Giêsu: “Ngày sa-bát, được phép làm điều tốt hay điều xấu, cứu lấy sự sống hay giết đi?”, sẽ làm bật ra điều thầm kín này:

Ngày sa-bát
Khía cạnh tích cực Khía cạnh tiêu cực
Làm điều tốt hay làm điều xấu ?
Cứu lấy sự sống hay giết đi ?

Ngày sa-bát

Khía cạnh tích cực Khía cạnh tiêu cực
Làm điều tốt hay làm điều xấu ?
Cứu lấy sự sống hay giết đi ?

Khía cạnh tiêu cực là đơn giản nhất. Thật vậy, tại sao lại hỏi có được phép làm điều xấu vào ngày sa-bát hay có được phép giết đi vào ngày này? Vì mọi ngày trong tuần đều không được phép! Khía cạnh tích cực thì phức tạp hơn: có được phép làm điều tốt ngày sa-bát không? Không luôn luôn được phép, vì ngày sa-bát cấm làm một số điều tốt: viết thư an ủi một người bạn, di chuyển tương đối xa để làm từ thiện hay thăm một người bệnh, pha chế thuốc men… Lệnh cấm của ngày sa-bát hệ ở chỗ hoãn lại một số hành động tốt đòi hỏi công sức để thực hiện nhưng không khẩn cấp.

a. Giới răn sa-bát và những giới răn khác

Đặc điểm duy nhất của giới răn sa-bát, vốn làm cho giới răn này khác với các giới răn khác, là không thuộc bình diện luân lý. Thực vậy, giới răn sa-bát cấm thực hiện một số hành vi tự nó là tốt, trong khi các giới răn khác có đối tượng là những hành vi xấu tự tại, nghĩa là những hành vi này vẫn xấu dù không bị cấm. Vì thế, việc tuân giữ ngày sa-bát diễn tả sự vâng phục thuần túy, dựa trên sự nhận biết Thiên Chúa, ngang qua tiếng nói công bố Lề Luật.

Tôi không làm một việc, không phải vì đó là việc xấu, nhưng vì “Người Ấy” không muốn, và “Người Ấy” không muốn hôm nay. Chẳng hạn, việc ăn trái cây bị cấm, không phải là hành vi xấu tự tại. Bằng chứng là, hằng ngày chúng ta vẫn ăn trái cây đủ loại! Vì thế, trong tương quan với Thiên Chúa, ngang qua luật sa-bát, đối lập tốt/xấu không phải là tiêu chuẩn duy nhất cho hành động của tôi, cho việc tôi tìm kiếm ơn gọi và sống ơn gọi, để ca tụng Chúa và đi về với Chúa.

b. Hai lựa chọn: tốt/xấu và sống/chết

Ngày sa-bát cấm làm một số điều tốt, nhưng không thể cấm lòng ước ao thực hiện những việc này và cũng chẳng áp đặt được. Ngược lại, ngày sa-bát giả định lòng ước ao, và khi giả định, ngày sa-bát làm cho lòng ước ao trở nên sống động hơn. Như thế, khi không cho phép làm một số điều tốt, ngày sa-bát lại củng cố lòng ước ao hướng đến sự sống, và đồng thời làm bật ra lựa chọn ngược lại, nghĩa là lựa chọn sự chết.

Đức Giê-su chấn vấn họ về vấn đề mà họ rất có chuyên môn và thẩm quyền. Nhưng họ im lặng, điều này chứng tỏ câu hỏi của Đức Giê-su không thuộc bình diện kiến thức, nhưng đụng đến nơi sâu kín trong lòng, đến lựa chọn của con tim. Trong sự im lặng, chất chứa điều gì, nếu không phải là lựa chọn “không có, cũng chẳng không” (x. Mt 5, 37). Ngày sa-bát truyền lệnh không được làm điều tốt này (trong trường hợp của trình thuật Mc 3, 1-6, là không được chữa bệnh) hôm nay, chính là để con người quyết định lựa chọn sự sống hôm nay. Xét theo vẻ bề ngoài, im lặng có nghĩa là không quyết định, nhưng nó lại làm lộ ra lựa chọn của con tim: con tim lựa chọn lề luật và biến lề luật thành nơi ẩn nấp của ý muốn giết chết. Chính lựa chọn này làm Đức Giêsu giận dữ; nhưng Ngài cũng đau khổ, nghĩa là thương cảm, vì con tim chai cứng của họ.

3. “Anh hãy đưa tay ra !”

Ngày sa-bát là trung tâm của Mười Điều Răn, và Mười Điều Răn là trung tâm của Lề Luật. Vì thế, luật sa-bát tượng trưng cho Lề Luật. Đức Giêsu không dời việc chữa lành vào ngày hôm sau và cũng không trình bày lập trường của mình về ngày sa-bát; Ngài đáp lại sự im lặng bằng cái nhìn giận dữ, Ngài đau khổ (thương cảm) vì con tim bệnh tật của họ, và Ngài thực hiện quyền năng chữa lành người bệnh bằng Lời Sự Sống, chứ không phải bằng việc làm, vốn bị cấm trong ngày sa-bát. Lời giảng của Ngài về ngày sa-bát không phải là một giáo huấn lí thuyết, nhưng là hành động, hành động chữa lành. Hành động trong thinh lặng này loan báo sự thinh lặng của cuộc Thương Khó.

Hành động của Đức Giêsu làm rõ ước ao sự sống của Ngài đối với người bệnh. Ước ao trao ban sự sống vô hạn, nhưng lại được biểu lộ trong một hành vi hữu hạn. Khi làm thế, Ngài làm lộ ra ước ao sự chết đang hiện diện trước mặt Ngài, bởi vì Ngài không vi phạm luật sa-bát, khi chữa bệnh bằng lời; do đó, lề luật không còn là chỗ ần nấp của họ. Chính những người rình rập Ngài chứng kiến vực thẳm của lựa chọn sự chết mở ra trong lòng họ. Để đáp lại, chứ không chống lại, ở đây Đức Giêsu còn làm hơn cả lời giảng “đừng chống lại kẻ dữ”, Ngài để mình bị chi phối bởi lựa chọn sự chết của kẻ dữ, vì đó là cách duy nhất để thuyết phục nó.

Nơi Đức Giêsu, quyền năng vốn là một với lời của Ngài, được bày tỏ ngang qua một hành vi chữa lành rất giới hạn, nhưng lại nói cho chúng ta quyền năng sự sống vô hạn, nói cho chúng ta lòng ước ao trao ban sự sống Thiên Chúa cho con người. Lời loan báo này được cảm nhận từ xa như là việc hủy bỏ ngày sa-bát, xét như là một giải pháp dành chỗ cho quyết định, nhưng lại có thể chứa chấp lựa chọn hướng tới sự chết. Nếu con tim của những kẻ đối nghịch hướng tới cực điểm như thế, nghĩa là quyết định giết chết, chính là vì đã cảm nhận được nơi hành vi của Đức Giêsu lời loan báo về một ngày sa-bát được đẩy tới cùng đích, nhằm giải phóng hoàn toàn chân lý của ngày sa-bát, đó là ước ao sự sống nơi con người và trao ban sự sống nơi Thiên Chúa.

Ý nghĩa tận cùng của hành động mà Đức Giêsu thực hiện, đó là giờ đã đến, giờ quyết định để đưa ngày sa-bát và ngang qua ngày sa-bát, toàn bộ lề luật đến cùng đích, nghĩa là đến “sự hoàn tất” (x. Mt 5, 17), đó là ước ao và trao ban sự sống, sự sống dồi dào. Hành động chữa lành người bại tay diễn tả lựa chọn sự sống của Chúa ; hành động này loan báo Thập Giá, loan báo « Lời Thập Giá » (1 Cr 1, 18).

* * *

Đức Giê-su đã hoàn tất ngày sa-bát, nhưng ngày sa-bát của người Do-thái vẫn đem lại một ánh sáng rực rỡ cho cách chúng ta hiểu và sống ba lời khấn của ơn gọi dâng hiến. Thật vậy, luật về ba lời khấn « cấm » thực hiện những điều liên quan đến sự sống (phái tính, của cải, ý riêng), tương tự như ngày sa-bát cấm làm một số điều tốt. Tại sao lại cấm như vậy?

Ba lời khấn có nền tảng vững chắc về phương diện nhân học (sống ba lời khấn cách đích thật, người ta được triển nở, tự do và hạnh phúc, chứ không bị tha hóa, mất tự do và bất hạnh), nhưng nền tảng tận cùng và bền vững vẫn là nền tảng thiêng liêng. Nền tảng của ngày sa-bát là tương quan ơn huệ nhưng không giữa Thiên Chúa và Dân của Ngài, là kinh nghiệm về tình yêu Thiên Chúa và ước ao sống theo ý Chúa vì lòng mến; tương tự như thế, nền tảng của ba lời khấn, là tương quan tình yêu giữa Đức Ki-tô và mỗi người chúng ta. Chúng ta sống ba lời khấn, là vì kinh nghiệm sâu đậm về tình yêu đến cùng Đức Ki-tô dành cho chúng ta và để đáp lại, chúng ta ước ao sống cho Chúa và chỉ một mình Chúa mà thôi, tương tự luật sa-bát có một lý do duy nhất là ý muốn của Đức Chúa, Đấng ban ân huệ; gạt bỏ Tình yêu Chúa và điều Chúa muốn ra ngoài, ba lời khấn của chúng ta sẽ trở thành vô nghĩa và sẽ là gánh nặng không thể chịu nổi. Huấn luyện thiêng liêng trong đời tu phải xây dựng bằng được mối tương quan này. Nếu không có, sẽ không gánh nổi và sẽ phát sinh mọi thứ lệch lạc.

Chúng ta đang ở trong “Năm Đời Sống Thánh Hiến”, hiệp thông với toàn thể Giáo Hội, chúng ta hãy cầu nguyện cho các tu sĩ nam nữ và cho ơn gọi dâng hiến, như lời Đức Thánh Cha mời gọi. Và xin cho tất cả chúng ta, dù đang sống trong ơn gọi nào, gia đình, đời tu hay độc thân, được nhận ra và kinh nghiệm đích thân tình yêu đến cùng của Thiên Chúa, được thể hiện nơi Đức Giê-su Ki-tô Thánh Thể và Chịu Đóng Đinh.

Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

………………………………………………………

 

1.“Họ im lặng” có vị trí trung tâm trong cấu trúc của trình thuật Tin Mừng: (A) Đức Giê-su đi vào hội đường; họ rình Ngài (c. 1-2); (B) Đức Giê-su nói với người bại tay (c. 3); (C) Đức Giê-su nói với họ (c. 4a); (D) Họ im lặng (c. 4b); (C’) Đức Giê-su nhìn họ chung quanh (c. 5a); (B’) Đức Giê-su nói với người bại tay (c. 5b); (A’) Họ ra khỏi hội đường và tìm cách giết Người (c. 6).

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận