Suy niệm Lễ Các Thánh Nam Nữ

Đăng lúc: Thứ sáu - 31/10/2014 20:23 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
Nên hình bóng Ngài
(Bài giảng Lễ các Thánh nam nữ trên trời – năm 2014)
 
Chỉ có Thiên Chúa là Đấng Thánh. Ngài là nguồn mạch của sự thánh thiện. Bản chất của Thiên Chúa là thánh thiện và yêu thương. Vì yêu thương, Thiên Chúa muốn chia sẻ với chúng ta sự thánh thiện của Ngài, giống như những người cha mẹ muốn tìm kiếm, dạy dỗ và để lại cho con cái những điều tốt đẹp. Nhờ Thiên Chúa chia sẻ với chúng ta sự thánh thiện của Ngài, nên chúng ta mới có thể  hy vọng nên thánh hay nên hoàn thiện. Vì Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn thánh thiện, cho nên những ai nên thánh là trở thành giống Chúa, là đón nhận sự thánh thiện của Chúa. Người thánh thiện là người phản chiếu sự tốt lành của Chúa. Sự thánh thiện được thể hiện trong lời nói, tư tưởng và việc làm. Vì thế, chúng ta thường nói đến hào quang của các thánh. Hào quang là sự phản chiếu huy hoàng của một vị thánh, là kết quả của một cuộc đời mong muốn rập khuôn theo cuộc đời Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người.
 
Nên thánh là bổn phận của người tín hữu. Hãy nghe Thánh Phêrô nói với chúng ta: “Bởi vì Đấng kêu gọi anh em là Đấng Thánh, anh em cũng vậy, anh em hãy nên thánh trong mọi hành động của anh em, như đã được viết: Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh” (1 Pr 1,15). Như vậy, trong cuộc đời của chúng ta, nếu không thiện chí cố gắng để được nên thánh, thì đó là một thiếu sót. Bởi lẽ khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, chúng ta được trao sứ mạng nên thánh, tức là nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu.
 
Nói đến sứ mạng nên thánh, có thể nhiều người suy nghĩ: “nên thánh khó quá, vì tôi chỉ là một người dân bình thường, không được học hỏi đào tạo”. Suy nghĩ như vậy là chưa hiểu lời mời gọi của Chúa. Nên thánh không phải một gánh nặng, phải có sức khỏe mới mang nổi. Nên thánh không phải một bài toán khó, ai đã học cao biết rộng mới có thể giải được. Nên thánh đơn giản chỉ là một cách sống của mình giữa đời thường, như bông hoa tự nhiên tỏa hương thơm. Những cử chỉ hành động của cuộc sống hằng ngày được thực hiện với lòng yêu mến và biết ơn Chúa đều có thể giúp ta nên thánh. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã viết: “Nhặt một cây kim vì yêu mến cũng có thể hoán cải một linh hồn”.
 
Chúng ta hãy suy niệm lời chúc phúc của Chúa để thấy việc nên thánh phù hợp với mọi người. Có rất nhiều phương pháp giúp ta đạt được Chân lý. Tám mối phúc thật là những phương pháp mà Chúa Giêsu đã đề nghị cho những ai muốn nên thánh. Qua những mối phúc này, chúng ta hiểu ra rằng nên thánh nhiều khi chỉ là những việc đơn giản trong cuộc sống thường ngày, được thực hành với trái tim yêu mến và lương tâm ngay thẳng. Sống tinh thần nghèo khó, luôn biết sám hối khóc lóc vì những lầm lỗi của mình, khát khao sự công chính, sống hòa thuận và sắn sàng đón nhận những bất tiện do đời sống chứng tá Tin Mừng gây nên. Những việc làm đó, nếu được thực hiện với tình yêu mến và trong niềm vui, sẽ đem lại cho chúng ta sự bình an và nhờ đó, chúng ta đã bắt đầu nên thánh.
 
Ngày lễ kính các Thánh nam nữ trên trời cũng là dịp chúng ta tưởng nhớ những người thân yêu của chúng ta đã về Nhà Cha. Trong số đó, có những người đã được hiển thánh, vì họ sống một cuộc sống tốt lành theo giáo huấn của Chúa. Họ không được Giáo Hội phong thánh, nhưng chính Thiên Chúa phong thánh cho họ. Họ đang hưởng hạnh phúc vĩnh cửu nơi tôn nhan Chúa và đang cầu bầu cho chúng ta.
 
Ngày lễ kính các Thánh nam nữ trên trời cũng nhắc chúng ta hãy nhận ra những người tốt, việc tốt xung quanh mình. Dù thuộc nền văn hóa hay tín ngưỡng nào, những hành động nhằm cổ võ hòa bình và xây dựng những điều thiện hảo, đều phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa, vì Ngài là nguồn mạch của sự thánh thiện.
 
Thánh Phaolô đã gọi cộng đoàn các tín hữu là cộng đoàn các thánh. Là thành viên trong cộng đoàn Giáo Hội, mỗi chúng ta đã bắt đầu hành trình nên thánh. Chúng ta cũng được chia sẻ sự thánh thiện của Giáo Hội, được thể hiện qua đời sống thánh thiện của Đức Maria, Thánh Giuse, các thánh Tông đồ và các thánh qua mọi thời đại.
Nên thánh là lời mời gọi của Chúa. Nên thánh cũng là một bổn phận của chúng ta. Đó là mục đích căn bản và cốt lõi của đời sống Kitô hữu. Nhờ cuộc sống thánh thiện, chúng ta thuộc về Chúa là Đấng Chí Thánh, trở nên hình bóng của Ngài. Và như thế, chúng ta đã nếm hưởng hạnh phúc đời sau, ngay khi chúng ta còn sống trong cõi đời tạm này.
 
+Gm Giuse Vũ Văn Thiên


Các Thánh là ai vậy? (Lễ Các Thánh Nam Nữ)

Hôm nay cùng với toàn thể Giáo hội mừng kính trọng thể Các Thánh Nam Nữ ở trên trời. Có thể nói, hôm nay là ngày hội lớn, ngày vui mừng hân hoan của tất cả mọi thành phần con cái trong đại gia đình Giáo hội. Mừng kính các thánh, nghĩa là mừng kính những người đang sống sự sống của Thiên Chúa, những vị đang hưởng phúc vinh quan tràn đầy trước tòa cao sang của Chúa Ba Ngôi trên thiên đàng.
Hỏi : Thiên đàng là gì ? Thiên đàng là nơi đầy dẫy những sự vui vẻ vô cùng, mà phúc nhất trên thiên đàng là xem thấy mặt Đức Chúa Trời liên (Sách Bổn Hà Nội tr. 21). Thiên đàng là nơi người ta yêu thương nhau, là nơi chỉ còn tình yêu là đáng kể, nơi có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em với nhau, nơi không còn chết chóc, chiến tranh, hận thù và nước mắt. Trái lại chỉ có hòa thuận và thương yêu, các thánh là những người đã đạt tới hạnh phúc đó.
Hỏi : Các thánh là ai vậy ?
Lànhững người không bằng lòng với sự kém cỏi;với những biện pháp nửa vời. Các thánh là những người đói và khát sự công chính, theo ngôn ngữ Kinh Thánh là khát khao sự thánh thiện. Vì khao khát nên Thiên Chúa đã cho các ngài thỏa chí toại lòng đúng như mối phúc trong Tin Mừng tuyên bố : “Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả” (Mt 5, 6).
Chi tiết trong bài đọc thứ nhất của ngày lễ giúp chúng ta hiểu thêm các thánh là ai. Các thánh là “những người giặt áo và tảy áo trắng trong máu Con Chiên” (Kh 7,14). Như thế, sự thánh thiện mà các ngài có được là từ Chúa Kitô. Trong Cựu Ước, làm thánh có nghĩa là “tách biệt” khỏi tất cả những gì ô uế. Chữ “thánh” có nghĩa chung là “kitô hữu”, hợp thành cộng đoàn qui tụ chung quanh Đức Giêsu làm thành Dân thánh. Sự thánh tác khỏi sự phàm tục. Các thánh tràn đầy sự thánh, còn người phàm mang đầy sự phàm. Các thánh là những người đã được Thiên Chúa làm gia nghiệp.
Hỏi : Các thánh làm gì trên thiên đàng? Câu trả lời cũng được tìm thấy trong Bài đọc I: “Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: “Kính lạy Thiên Chúa chúng tôi, Đấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên”. Ca đoàn các ngài được Đức Mẹ Maria hướng dẫn, Mẹ tiếp tục thánh thi ca ngợi của Mẹ trên trời, “ Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa…” (Lc 1, 46). Chính trong sự ca ngợi này mà các thánh gặp được hạnh phúc và niềm vui của, “Thần trí tôi hơn hở vui mừng trong Chúa Đấng Cứu Độ tôi” (Lc 1, 47). Vinh quang và hạnh phúc của Thiên Chúa ngập tràn các ngài.
Hỏi :Các thánh mặc áo gì? Các thánh mặc áo chùng trắng, giặt áo mình trong máu Con Chiên. Các thánh mạc áo đỏ, mặc áo theo con đường tử đạo của Đức Kitô. Các thánh mạc áo xanh vì đã xây dựng hòa bình, yêu thương và phục vụ công bình đạo lý. Các thánh mạc áo vàng khi tham dự vào chức huy hoàng của Đức Kitô, và hy vọng vào Thiên Chúa.
Hỏi : Các thánh là bao nhiêu?Sách Khải Huyền nói : “số người được đóng ấn là một trăm bốn mươi bốn ngàn người, thuộc mọi chi tộc Israel” (Kh 7, 4). Tôn chỉ của họ là Tám Mối Phúc Thật. Phúc cho những ai hiền lành, nghèo khó; họ là những người khóc lóc nay tìm được sự ủi an ở nơi Thiên Chúa ; họ là những người biết thương xót người nay được Chúa xót thương ; họ là những người trong sạch nay được nhìn thấy Thiên Chúa; họ là những người xây dựng hòa bìh nên được gọi là con Thiên Chúa; họ là những người bị bắt bớ, “họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến” (Kh 7, 14). Họ là các Tổ phụ, các Tiên tri, các Tông đồ, Tử đạo, Đồng trinh, Hiển tu, Ẩn tu.
Tuy nhiên nếu con số chỉ có thế thôi, thì quả là một điều đáng lo sợ, bởi vì người tín hữu như ta đâu có hy vọng được vào sổ những người đó? Vậy con số đó là thế nào? Số một trăm bốn mươi bốn ngàn là con số biểu tượng cao đầy đủ, chỉ những người được cứu rỗi. Theo hệ thống đếm của người Do thái, một người có thể đếm cao tới mười hai ngàn. Mười hai ngàn nhân với mười hai, thành một trăm bốn mươi bốn ngàn, một con số cao trọn vẹn tuyệt đối, chứ không phải chỉ theo nghĩa đen là một trăm bốn mươi bốn ngàn mà thôi.
Thánh Gioan đã nhìn thấy: “Đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng” (Kh 7, 9). Họ thuộc đủ mọi thành phần và mọi tầng lớp trong xã hội. Ðó là lí do tại sao hôm nay Giáo hội thiết lập ngày lễ các thánh, để mừng kính chung các thánh gồm cả các thánh không tên tuổi, trong đó phải có tổ tiên, họ hàng gần xa của mỗi chúng ta.
Hôm nay Giáo hội mừng kính toàn thể các thánh, có những vị rõ ràng là thánh, những vị được tôn phong hiển thánh, những vị có tên trong kinh cầu các thánh với đỉnh cảo sáng rực. Nhưng cũng nhớ và kính mừng những vị thánh chìm sâu trong lòng đất, trong xác thịt mồ hôi nước mắt của kiếp người. Vì mọi người đều được kêu gọi lên thánh trong Đức Kitô. Các thánh đã đạt tới hạnh phúc đó, giờ đây trên thiên quốc vui mừng hân hoan tận hưởng phần thưởng trọng đại Chúa dành cho các ngài. Đó cũng là niềm hy vọng của tất cả chúng ta đang sống phận lữ hành tiến về quê trời vinh phúc.
Mừng kính các thánh, chúng ta cậy nhờ các ngài nguyện giúp cầu thay cho chúng ta bao lâu còn sống ở đời tạm nay, biết noi gương các ngài sống hiến chương Nước Trời, thực hành Tám Mối Phúc như Chúa Giêsu dạy, để mai sau cũng được Chúa ân thưởng thiên đàng.
Với niềm hy vọng, cùng với gương sáng và sự trợ giúp của các thánh, chúng ta cũng có thể làm thánh, và phải nên thánh bằng cách tự thánh hóa bản thân như các thánh đã làm, tức là sống theo tinh thần và mệnh lệnh của Tin Mừng là : hiền lành, bác ái, hòa thuận, trong sạch, với tâm hồn luôn hướng về những thực tại siêu nhiên, chịu đựng những vất vả, đau khổ tự nhiên hay do người khác mang đến, luôn tìm kiếm Chúa và cố gắng sống phù hợp với thánh ý Chúa.
Được như thế, chúng ta có thể “vui mừng hân hoan vì phần thưởng của chúng ta sẽ trọng đại ở trên trời như Các Thánh hiện nay là những anh em chúng ta đang ca tụng Chúa muôn đời” (Mt 5, 12a).
Lạy Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa, xin cầu cho chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
 

Chúng ta có nên thánh được không? (Lễ Các Thánh Nam Nữ 2014)


Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội mừng trọng thể lễ các thánh nam nữ. Qua thánh lễ hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy biểu lộ niềm vui mừng, hãnh diện và hy vọng vào ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho chúng ta là những người cùng chung niềm tin vào Chúa như các thánh.
Tuy nhiên, hẳn mỗi người chúng ta nhiều khi tưởng tượng ra sự xuất sắc của các thánh như là những vĩ nhân, những người siêu quần bạt chúng, hay các ngài như là những người có một cuộc sống đặc biệt, khác thường nên mới trở nên những vị thánh! Còn chúng ta, những người tầm thường, có lẽ niềm hy vọng nên thánh là điều khó có thể xảy ra!
Suy nghĩ như thế có đúng hay sai? Và chúng ta có trở nên thánh trong thời đại hôm nay được hay không?
Giờ đây, chúng ta cùng nhau suy niệm về cuộc đời của các thánh, và từ đó, rút ra một giải đáp cho thắc mắc trên.
Trước tiên, chúng ta cùng nhau tìm hiểu xem: các thánh là ai? Và các ngài đã sống như thế nào?
1. Các thánh là ai?
Khi đặt câu hỏi như thế, chúng ta có thể trả lời ngay rằng: các ngài là những Giáo hoàng, Hồng y, Giám mục, Linh mục, Tu sĩ và Giáo dân. Các ngài là những người tri thức, nhưng cũng không thiếu những đấng bình dân học vụ. Các ngài là những người có địa vị trong Giáo Hội và xã hội, nhưng cũng không thiếu những đấng thường dân. Các ngài là những người được sinh ra nơi thành phố phồn hoa đô hội, nhưng cũng có vị hiện hữu nơi cuộc đời này trong cảnh màn trời chiếu đất, nơi thôn quê hẻo lánh… Các ngài là những bác sĩ, kỹ sư, là những người giàu, nhưng cũng rất nhiều đấng suốt ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, là những người nghèo, cảnh mẹ góa con côi… Các ngài cũng là những người thánh thiện, tốt lành ngay từ nhỏ, nhưng cũng không thiếu đấng trước đó là kẻ rối đạo, chối đạo, sống cuộc đời bê tha và trác táng, nhưng chỉ được ơn sám hối, canh tân, tin tưởng, phó thác nơi Chúa trước khi nhắm mắt rời bỏ thế gian mà thôi…
Như vậy, các thánh thật đông đảo và các ngài từ mọi nơi, mọi miền và đủ mọi thành phần. Chính thánh Gioan khi được thị kiến đã thốt lên: “… kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ” (Kh 7, 9); và:“Một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn, thuộc mọi chi tộc con cái Itraen” (Kh 7, 4); các ngài “… là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,14).
Nói chung, thế giới của các thành gồm đủ mọi thành phần, và số lượng các thánh không ai đếm xuể. Công việc của các ngài là tôn vinh, thờ phượng, cảm tạ Thiên Chúa và cầu thay nguyện giúp cho chúng ta. Các ngài đang được sống một sự sống hạnh phúc nơi quê thật là Nước Trời.
Việc chúng ta ngưỡng mộ tài cao đức rộng, cuộc sống phi thường của các thánh hẳn không sai, nhưng không phải là tuyệt đối đúng, vì thực tế, trong số các thánh, nhiều đấng cũng không hơn gì chúng ta. Có khi các ngài cũng là nhưng người tội lỗi một thời như Maria Mađalêna, Phêrô, người trộm lành, Phaolô, Augustinô…

Điều đáng nói ở đây chính là: các ngài thuộc những người đã trải qua kinh nghiệm về yếu đuối, sa ngã và tội lỗi, nhưng các ngài đã sám hối, ăn năm, canh tân đời sống theo ánh sáng Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô. Các ngài là những người 99 lần ngã, nhưng lần thứ 100 thì đứng dạy và đứng luôn trong ân sủng.

Thật vậy, sau khi sa ngã, các ngài đã nhận được ân sủng và tình thương lớn lao của Thiên Chúa dành cho mình, nên các ngài đã tin tưởng, phó thác và yêu mến Thiên Chúa hết lòng, yêu thương anh chị em tha thiết.Như thế, có thể nói: các thánh đều là những người đã nếm mùi đau khổ thử thách ở trần gian như chúng ta, xong, các ngài vẫn giữ được lòng trung thành với Thiên Chúa và kiên trì tuân giữ Giới Luật của Người cũng như thi hành xuất sắc Tám Mối Phúc Thật.

Cuộc đời hy sinh, đòn vọt, bắt bớ vì Chúa và tâm tình sám hối, canh tân để trở nên ngày càng đồng hình đồng dạng với Đức Kitô nơi các thánh được ví như một cuộc thanh luyện và cố gắng liên lỷ.

2. Các thánh là những người trung thành với Hiến Chương Nước Trời

Tất cả các thánh, không ai là người sống ngoài bản Hiến Chương Nước Trời mà Tin Mừng hôm này thuật lại. Các ngài luôn coi bản Hiến Chương Nước Trời như là khuôn vàng thước ngọc cho cuộc đời mình. Qua bản Hiến Chương này, các ngài đã sống tinh thần nghèo khó, không bị lệ thuộc vào vật chất, sống hiền lành và bao dung, quảng đại, tha thứ. Cuộc đời các ngài luôn khao khát sự sống công chính, mong muốn sống trong sạch, yêu thương, chăm sóc những người đau khổ, luôn kiến tạo hòa bình và khước từ hận thù, xây dựng tình huynh đệ, hiệp nhất, yêu thương. Các thánh còn là những người vì yêu mến Chúa trên hết mọi sự, nên chấp nhận mọi sự hiểu lầm, đòn vọt, bắt bớ, gươm đao và ngay cả cái chết để được mối lợi tuyệt đối là Đức Kitô, vì người, các ngài đành mất hết (x. Pl 3, 8). Các ngài được ví như những người lái buôn, đã đánh đổi tất cả một khi đã tìm được Kho Tàng, Viên Ngọc Quý. Vì thế, đối với các ngài: “…sống là Ðức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1, 21), nên không có gì tách các ngài ra khỏi tình yêu của Đức Kitô.
Mừng lễ các thánh nam nữ hôm nay, chúng ta có niềm an ủi thật lớn lao, đó là: các thánh không phải là người xa lạ với chúng ta. Các ngài là những người có cùng niềm tin, là tổ tiên, là cha ông, là những người thân của chúng ta.
Có những vị thánh nổi tiếng, nhưng cũng không thiếu những vị thánh bình thường, vô danh.
Đường lối nên thánh cũng không phải chỉ có một con đường độc điệu, mà là nhiều con đường khác nhau…
Như thế, các thánh là những người rất gần gũi với cuộc sống thực tế của chúng ta. Bởi vậy, mỗi người đều có quyền hy vọng rằng: “Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi, tại sao không?” (Thánh Augustino).
3. Hãy trở nên thánh vì ta là Đấng Thánh
Lời mời gọi nên thánh vẫn luôn là một điều gì đó mới mẻ và hấp dẫn đối với chúng ta. Tuy nhiên, để sống được lời mời gọi này, chúng ta phải lội ngược dòng, phải lột xác và chấp nhận sự nghịch lý của Tin Mừng, bởi lẽ, chúng ta đang sống trong một xã hội thực dụng, thỏa mãn xác thịt, ham muốn điều bất chính, gây bất hòa, chia rẽ, vô cảm, dửng dưng với đau khổ của anh chị em, gây nên những bạo lực, đau khổ, sống dối trá, giả hình, bóc lột, bất công…! Trong khi đó, Lời Chúa và những giá trị của Chân Lý luôn nhắc nhở và mời gọi chúng ta ý thức rằng: hạnh phúc đích thực của chúng ta ở nơi Thiên Chúa và quê hương chúng ta ở Trên Trời, chứ không phải ở những thứ chóng tàn, mau qua sớm hết nơi trần gian này… Vì thế, muốn đạt được Nước Trời làm gia nghiệp, chúng ta phải chiến đấu liên lỷ để biện phân và lựa chọn giữa tốt và xấu, giữa thiện và ác, giữa cuộc sống tạm bợ và cuộc sống vĩnh cửu. Chấp nhận đi theo con đường hẹp của Tin Mừng. Được hạnh phúc hay bất hạnh là do sự lựa chọn của chúng ta.
Mừng kính lễ các thánh nam nữ hôm nay, chúng ta cùng nhau tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội những gương sáng ngang qua cuộc đời của các thánh, từ đó trở thành động lực cho mỗi chúng ta phấn đấu trên con đường nên thánh. Đồng thời, mỗi khi mừng kính các thánh, chúng ta cũng tạ ơn Chúa đã ban nhiều ơn thánh trợ giúp, để: con cháu, anh chị em, cha mẹ, ông bà, tổ tiên… chúng ta đã thành công trên con đường tiến đức và nay đang diện kiến tôn nhan Chúa.
Mặt khác, qua việc mừng lễ này, sứ điệp Lời Chúa và Giáo huấn của Giáo Hội mời gọi chúng ta tái khám phá và làm mới lại sự quyết tâm trong việc: nghĩ thánh, hành động thánh và sống thánh trong cuộc sống thực tại hôm nay.
Lạy các thánh nam nữ trên trời, xin chuyển cầu cùng Chúa cho chúng con. Amen.
Jos. Vinc. Ngọc Biển


Hãy nên thánh trong tất cả hạnh kiểm (Lễ Các Thánh Nam Nữ)

Phụng vụ lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa hôm nay, với lời kinh, tiếng hát, các bài đọc, thánh ca lôi cuốn tâm hồn chúng ta vượt quá những giới hạn của không gian và thời gian, bay lên cõi trời cao để chiêm ngưỡng Các Thánh, những người được coi là diễm phúc. Thánh Phêrô nói với chúng ta rằng Thiên Chúa muốn tất cả chúng ta sẽ là những vị thánh : “Bởi chưng đã viết rằng: Các ngươi hãy là thánh vì Ta là Thánh” (1Pr 1, 16). Đọc đoạn Tin Mừng thánh Matthêu (Mt 5, 1-12), một loạt các từ “phúc” ở đầu mỗi câu, làm chúng ta có thể suy diễn rằng, Thiên Chúa muốn chúng ta là những người hạnh phúc, những thánh nhân, phúc nhân.
Suy diễn này không quá ảo tưởng, vì vào lúc khởi đầu Kitô giáo, các thành phần của Giáo Hội được gọi là “những người thánh“. Chẳng hạn như nơi thư Corintô, thánh Phaolô ngỏ lời với những kẻ được thánh hoá trong Chúa Giêsu Kitô là “chư thánh đã được (Thiên Chúa) hiệu triệu“(x.1 Cr 1, 2), được mời gọi trở nên thánh thiện, cùng với tất cả những ai khẩn cầu danh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Quả thực, người kitô đã là “thánh” rồi, bởi Bí tích Rửa tội kết hiệp họ với Chúa Giêsu và với mầu nhiệm Vượt Qua của Người; nhưng đồng thời người kitô còn phải trở nên thánh, trở nên giống như Chúa Kitô, mỗi ngày một mật thiết hơn.
Ðôi khi người ta nghĩ rằng sự thánh thiện là một điều ưu tiên dành cho vài người được tuyển chọn. Nhưng thật ra, việc trở nên thánh là trách nhiệm của từng người kitô hữu, hay có thể nói là của mọi người! Theo thánh Tông Ðồ Phaolô thì từ muôn thuở, Thiên Chúa đã chúc lành cho chúng ta và đã tuyển chọn chúng ta trong Chúa Kitô, “để trở nên thánh thiện và không tì ố trước nhan Ngài trong tình bác ái” (Eph 1, 3-4). Như thế, tất cả mọi người đều được mời gọi sống thánh thiện; ai trong chúng ta, dù yếu đuối và tội lỗi, dù nhỏ bé và nghèo hèn, đều có thể trở nên thánh nhân, và được mời gọi trở nên thánh : “Các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Ðấng trọn lành” (Mt 5, 48).
Nên trọn lành là trở nên giống Chúa, và ai trong chúng ta cũng có thể trở nên giống Chúa, vì Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta theo hình ảnh của Người, giống như Người (St 1, 26-27). Tự bản chất, chúng ta giống Chúa, tâm hồn chúng ta đẹp như Chúa. Chính tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta ra nhem nhuốc, xấu xí, không còn giống Chúa nữa. Tội lỗi làm cho chúng ta bị tha hoá, bị khác đi, không còn giữ được bản chất tốt lành của mình nữa, hạnh kiểm của chúng ta trước mặt Chúa là yếu kém.
Nhưng ai trong chúng ta lại không ước mơ trở nên tốt lành? Chúng ta mong lắm, thích lắm, vì trở nên tốt lành là trở về với bản chất của mình, trở nên giống Chúa là Chân Thiện Mỹ. Có điều là chúng ta ngại khó, ngại hy sinh, ngại cố gắng, ngại từ bỏ những điều vui sướng nhất thời trước mắt, chúng ta không có can đảm. Sự thánh thiện hệ tại việc sống như là những con cái Thiên Chúa, trong việc “trở nên giống” Thiên Chúa, như đã được tạo thành.
Điều làm cho chúng ta phấn khởi trong ngày lễ hôm nay, là Các Thánh trên trời rất đông, rất nhiều người trong nhân loại, trong đó có thể có những người thân của chúng ta, khi còn sống, họ đã trải qua biết bao nhiêu đau khổ và thăng trầm, nhưng cuối cùng đã được thanh tẩy mình trong máu Con Chiên là Chúa Giêsu, họ đã trở nên tinh tuyền, sạch đẹp và đang hưởng hạnh phúc với Chúa.
Hôm nay Các Thánh Nam Nữ thúc giục chúng ta cách dặc biệt: hãy cố lên! Ai trong chúng ta cũng có thể cố lên. Có rất nhiều người đã thành công. Sách khải huyền nói đến một đoàn người thật đông đảo không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước và mọi ngôn ngữ (x. Kh 7, 9).
Còn chúng ta đang ở dưới thế, nơi có quá nhiều cám dỗ và cạm bẫy, chúng ta yếu đuối khó vươn lên, hoàn cảnh của chúng ta có khi lại quá phức tạp và khó khăn, nhiều khi chúng ta nản chí buồn lòng, không còn muốn phấn đấu nữa. Nhưng Chúa dạy chúng ta đừng lúc nào cũng nhìn đời với cặp kính màu đen, hãy lạc quan, tin tưởng, yêu đời hơn, dù cuộc đời có đủ thứ rắc rối, có phũ phàng mấy đi nữa. Lời thánh Phêrô khuyên chúng ta “cả anh em nữa, hãy nên thánh trong tất cả hạnh kiểm” (1Pr 1, 15).
Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên mọi sự tốt lành, Đấng nắm giữ vận mệnh của lịch sử. Hãy nghe lời thánh Gioan nói xem “Tình yêu của Thiên Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con Thiên Chúa” (1 Ga 3,1). Chính sự tin tưởng vào Thiên Chúa làm cho chúng ta tự tin hơn và yêu đời hơn. Mỗi lần cố gắng trở nên tốt hơn, là một lần chúng ta trở nên giống Chúa hơn. Chúa Giêsu đã vạch ra con đường Tám Mối Phúc Thật cho tất cả chúng ta đi theo hầu trở nên giống Người. Đó là con đường mà Người đã đi, khi Người còn sống thân phận lữ thứ trần gian như chúng ta: ” Phúc cho những ai…” (x. Mt 5, 1-12).
Mừng lễ Các Thánh Nam Nữ hôm nay, ngự giữa cộng đoàn Các Thánh, có Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria, Ðấng khiêm nhu nhưng cao trọng hơn mọi tạo vật. Chúng ta hãy đạt đôi bàn tay ta vào trong tay của Mẹ để Mẹ hướng dẫn, có Mẹ dẫn lối chỉ đường, chúng ta cảm thấy mình được khích lệ tiến bước với niềm hăng say hơn trên con đường thánh thiện. Hãy phó thác cho Mẹ cố gắng dấn thân hằng ngày và khẩn cầu Mẹ cho những người thân yêu của chúng ta đã qua đời. Trong niềm hy vọng sâu xa một ngày kia tất cả chúng ta sẽ gặp lại nhau, trong sự hiệp thông vinh quang của Các Thánh trước tòa Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
 
Những người được đóng ấn (Lễ Các Thánh)

Bài đọc 1 lễ CÁC THÁNH NAM NỮ hôm nay (Kh 7, 2-4.9-14) trình thuật lời Thánh sử Gio-an viết trong sách Khải Huyền: ”Tôi thấy một thiên thần mang ấn của Thiên Chúa hằng sống. Thiên thần ấy đóng ấn trên trán các tôi tớ của Thiên Chúa. Rồi tôi nghe nói đến con số những người được đóng ấn: một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn, thuộc mọi chi tộc con cái Ít-ra-en. Sau đó, tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô: “Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta.” Các thiên thần cũng hợp hoan chúc tụng: “A-men! Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta lời chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh, đến muôn thuở muôn đời! A-men!”
Đoàn người áo trắng “được đóng ấn” đó chính là những người đã vượt qua được “trăm chiều thử thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin là thứ quý hơn vàng gấp bội, – vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự.” (1Pr 1, 6-7). Lời khen ngợi đã thể hiện rõ nét bằng ấn tích trên trán và chiếc áo trắng tinh tuyền trên thân thể chiếu tỏa hào quang danh dự. Nói cách cụ thể thì đó là những Ki-tô hữu đã vinh dự được gia nhập Giáo Hội Khải Hoàn trên Thiên Quốc, mà Giáo hội mừng kính trọng thể trong ngày Lễ Các Thánh hôm nay.
Lễ Các Thánh đã khởi sự từ thế kỷ IV, nhưng ở thời đó mới chỉ là lễ tưởng niệm các vị tử vì đạo. Bước đầu Lễ này được mừng vào ngày Chúa nhật đầu tiên sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống (ngụ ý: các Tông đồ được sai đi giảng đạo khởi đầu từ Lễ Ngũ Tuần, sau khi hoàn tất sứ vụ thì được vui hưởng thành quả trên Thiên Quốc). Ở Rô-ma, ngày lễ ấy lúc đầu được cử hành vào ngày 13/5 (ngày cung hiến điện Panthéon thành một vương cung thánh đường). Về sau, vì lý do muốn tạo điều kiện thuận tiện cho các khách hành hương ở xa, Giáo Hội đã dời lễ đó vào ngày 01 tháng 11. Và thay vì kính riêng các Thánh Tử Vì Đạo, Giáo Hội mừng chung tất cả các Thánh Nam Nữ (xc “Lịch sử Giáo Hội Công Giáo”).
Mừng lễ Các Thánh vào thời điểm cuối năm Phụng Vụ, Giáo Hội muốn nhắc nhở các Ki-tô hữu đây là thời điểm mừng kết quả hồng ân Cứu Độ (Kế hoạch của Thiên Chúa khởi sự từ Mùa Vọng trải qua một quá trình thực hiện, thì giờ đây là lúc các tín hữu được mời dự Tiệc Cưới Cánh Chung – nơi có sự tham dự của “một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ.” – Kh 7, 9). Đoàn người ấy“Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn. Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ.” (Kh 7, 14-17).
Áo của đoàn người ấy đã được “giặt sạch và tẩy trắng trong máu Con Chiên”, chính là vì các ngài đã đi theo Con Đường của Chiên Thiên Chúa Giê-su Ki-tô. Một cách cụ thể là trong cuộc lữ hành trần thế, các ngài đã thấm nhiễm và triệt để sống và hành động theo Lời Toàn Năng, đã kiên trì vượt thắng mọi thử thách nghiệt ngã, kể cả việc sẵn sàng đổ máu mình ra như Máu Con Chiên đã đổ ra trên thập giá, làm lễ vật hy sinh dâng lên Thiên Chúa Cha, đồng thời thanh tẩy cõi trần nhơ uế. Máu Con Chiên đã hoà trộn với máu các ngài, tẩy sach mọi vết nhơ khiến các ngài trở nên trong trắng tinh tuyền và vì thế áo các ngài (phản ánh trung thực chân dung của các ngài) cũng trắng tinh như tuyết, không gợn chút bụi trần.
Rõ ràng đoàn người áo trắng là những Ki-tô hữu trong thời cánh chung hồn xác được sống lại vinh hiển như Đức Ki-tô Phục Sinh, đúng như lời thánh sử Gio-an: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.” (1Ga 3, 2). Đoàn người áo trắng đã “được biết chính Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết.” (Pl 3, 10-11), nói cách khác, các ngài đã sống trọn hảo Tám Mối Phúc, được Chiên Thiên Chúa Giê-su Ki-tô chúc lành. Thử tìm hiểu xem vì sao mà Tám Mối Phúc đã giúp các thánh được vinh thăng Thiên Quốc:
1- Mối phúc 1 – Sống tinh thần khó nghèo: Chính Đức Giê-su Thiên Chúa Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có.”(2 Cr 8, 9). Ai sống tinh thần nghèo khó tức là người ấy đã chọn Chúa Ki-tô làm gia nghiệp của mình (Tv 16, 5-6). Cái nghèo của Chúa Giê-su làm cho chúng ta được giàu sang chính là sự kiện Người đã “mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2, 7) trong cảnh nghèo khó, gánh lấy những yếu đuối, tội lỗi của con người, thông truyền cho trần thế lượng từ bi nhân hậu vô biên của Thiên Chúa.
Tinh thần nghèo khó ở đây có nghĩa là biết tự giới hạn trong sự chừng mực, giữ mình cho khỏi sự ham muốn của cải vật chất một cách quá đáng, không ham muốn hay chạy theo những điều xa hoa. Đó phải là người ưa chuộng cuộc sống đơn sơ, thanh bạch và biết dùng tiền của một cách chính đáng. Bất cứ trong hoàn cảnh nào, cũng phải coi của cải vật chất chỉ là một phương tiện sinh nhai, không bao giờ là cứu cánh cho cuộc sống trần gian đầy cám dỗ vật chất mê muội (“Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.” – Lc 12, 13). Tinh thần nghèo khó còn là đức tính thương cảm đùm bọc những anh em bất hạnh, khổ cực hơn mình (“Ai có hai áo thì chia cho người không có, ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy” – Lc 3, 11)..
2. Mối phúc 2 – Đức hiền lành, khiêm nhườngNgười sống hiền lành khiêm nhường(Mt 5, 4) phải là sống giống Chúa Giê-su “hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2, 8). Khi bị treo trên thập giá, Người hiền lành đến nỗi đã xin Chúa Cha tha tội cho kẻ đã giết Người (Lc 23, 34). Phó tế Stê-pha-nô đã nên giống Chúa Giê-su, khi bị ném đá, ngài đã cầu nguyện cho kẻ hại mình với nội dung giống hệt lời cầu của Chúa Giê-su trên Thánh giá (“Rồi ông Stê-pha-nô quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này.” Nói thế rồi, ông an nghỉ.” – Cv 7, 60). Bởi thế, ai yêu cả kẻ thù, sẵn sàng làm ơn cho kẻ hại mình, người đó được là em của Trưởng Tử Giê-su, cùng là Con Đấng Tối Cao (Lc 1, 32; 6, 35).
Đức khiêm hạ đứng hàng đầu trong 7 điều cải hối do 7 mối tội đầu. Khiêm nhường là tự coi mình là người dưới, là người phục vụ anh em (“Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em – Ga 13, 12-16; “Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời. – Mt 18, 4). Người khiêm nhường sẽ không phải bận tâm vì sợ kẻ khác đang đánh giá mình ra sao; sẽ được tự do, thong dong, tránh được những xúc cảm bồn chồn, lo lắng khi nghĩ đến những dèm pha, đố kỵ của tha nhân. Họ sẽ dễ cảm hóa được thái độ kiêu căng, thù địch, nóng nảy của người khác bằng chính tấm lòng khiêm nhu, đại lượng của mình.
3. Mối phúc 3 – Đức sầu khổ (khóc than): Người khóc lóc, sầu khổ ở đây là những người sống lương thiện, ngay lành mà gặp những buồn phiền, đau khổ trong những thử thách nghiệt ngã. Nhưng dù trong nghịch cảnh, người ấy vẫn kiên tâm chịu đựng vì vững lòng trông cậy nơi Thiên Chúa từ bi nhân hậu. Đó cũng là những người than khóc, ưu phiền vì tội lỗi đã mắc phạm, chỉ biết trông cậy vào lòng thương xót của Chúa, như tảng đá Phê-rô sau 3 lần chối Chúa, “Ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.” (Mt 26, 75), hay như tên trộm lành cùng chịu treo trên thập giá với Đức Giê-su trên Núi Sọ (Lc 23, 43).
Than khóc vì những điều lầm lỗi của bản thân đã xúc phạm đến Chúa, đến anh em, chính là việc quay trở về của đứa con hoang đàng (dụ ngôn “Người cha nhân hậu” – Lc 15, 11-32); là người thu thuế đứng dưới cuối nhà thờ đấm ngực cầu xin: “Lạy Chúa, xin xót thương con là kẻ tội lỗi” (Lc 18, 11-14). Việc trở về với Thiên Chúa được gọi là việc hoán cải và hòa giải, mà nền tảng của việc hòa giải là niềm hy vọng vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Sự trở về ấy là đích điểm đón nhận lòng thương xót của Chúa, vì Người chính là người cha nhân hậu sẵn lòng dang tay đón người con hoang đàng, sẵn sàng để 99 con chiên mà đi tìm một con chiên bị lạc, sẵn lòng tha thứ cho người thu thuế biết hối cải. Tuy vậy, cũng cần phải ý thức rằng sự khóc than cũng có hai chiều kích: một mặt tích cực là sự hối tiếc ăn năn về những sai phạm lầm lỗi của bản thân; nhưng mặt khác lại là tiêu cực khi khóc than hờn dỗi (than thân trách phận), thậm chí đi đến chỗ oán ghét Thiên Chúa. Chỉ thực sự được Thiên Chúa chúc phúc khi sự khóc than xuất phát tự tấm lòng ăn năn hối cải vì những lỗi lầm xúc phạm đến Chúa, đến anh em, đồng thời với tâm nguyện thiết tha cầu xin lòng thương xòt của Thiên Chúa.
4. Mối phúc 4 – Đức công chính (trọn lành): Người khao khát sống công chính là người “gặp nhiều nỗi gian truân, nhưng CHÚA giúp họ luôn thoát khỏi.” (Tv 34, 20); là “chính nhân được CHÚA thương cứu độ và bảo vệ chở che trong buổi ngặt nghèo, gặp nhiều nỗi gian truân sẽ được Thiên Chúa độ trì” (Tv 37, 39); “Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước của Cha họ.” (Mt 13, 43). Đây là những người ao ước sống đời lành thánh và cố gắng làm tất cả những gì cần thiết để được như vậy.
Con người đầu tiên đã được Thiên Chúa sáng tạo trong tình trạng công chính (trọn lành); nhưng đã nghe lời ma quỷ cám dỗ, lạm dụng tự do của mình, đi ngược lại giới răn, không vâng phục Thiên Chúa. Vì phạm tội, con người đã làm mất sự thánh thiện và công chính từ nguyên thủy do Thiên Chúa ban, không những chỉ cho hai vị nguyên tổ (A-đam và E-và), mà còn cho tất cả nhân loại mãi mãi về sau. Sự mất mát này được gọi là “tội tổ tông”. Do hậu qủa của tội nguyên tổ, sự chết đã xâm nhập thế gian, bản tính con người bị suy nhược, đau khổ, dễ xu hướng về sự tội. Sự “hướng chiều” này vẫn quen gọi là dục vọng (dục: ước muốn; vọng: hướng về). Tuy nhiên, nếu biết kiềm chế những đam mê, dục vọng có chiều hướng đi xuống, hạ thấp phẩm giá, nhân cách con người; từ đó hướng chiều lên đường ngay lẽ phải, kiên cường sống theo Lời Chúa dạy, ắt sẽ vượt thắng mọi thử thách, đạt tới sự công chính như lòng Chúa mong đợi.
Ơn Cứu Chuộc của Chúa Ki-tô hệ tại việc “Người đến để hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc muôn người”(Mt 20, 28). Nhờ sự tuân phục đầy tình thương đối với Thiên Chúa Cha, Đức Giê-su đã chịu chết trên thập giá, hoàn tất sứ mạng đền tội cho nhân loại như lời Tiên tri I-sai-a tiên báo:  Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ.(Is  53, 11). Cuộc khổ nạn và phục sinh vinh hiển của Người không những phục hồi phẩm giá, phục hồi lương tâm cho nhân loại, mà còn dẫn đưa con người trở về với con đường công chính: làm con cái Thiên Chúa. Chính ơn được “làm nghĩa tử” ấy giúp người tín hữu có khả năng “khát khao nên người công chính, và họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.” (Mt 5, 6).           
5. Mối phúc 5 – Đức thương người (bác ái): Người biết thương xót tha nhân là người sống được như người Sa-ma-ri nhân hậu, xót thương kẻ bị cướp đánh nửa sống nửa chết vất bỏ dọc đường, tận tình chăm sóc chu đáo (Lc 10, 29-37). Mẫu người này được Chúa Giê-su nói đến rõ ràng trong Tin Mừng về ngày cánh chung, họ là những người được Thiên Chúa chúc phúc: “Nào những kẻ Cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc dành sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thành trời đất. Vì xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho Ta uống. Ta là khách lạ, các nguơi đã tiếp rước, Ta trần truồng các nguơi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã chăm nom, Ta ngồi tù các ngươi đã thăm viếng” (Mt 25, 34-36).
Bác ái là tình yêu không chỉ giới hạn trong phạm vi giới tính (tình yêu nam nữ), mà rộng mở với mọi người không phân biệt thân sơ hay nội ngoại. Ki-tô giáo chủ ở đức bác ái: mến Chúa yêu người. Trong 10 điều răn Chúa truyền dạy, thì chỉ có 3 điều “mến Chúa”, mà có tới 7 điều “yêu người”, Hội Thánh cũng dậy “Thương người có 14 mối: Thương xác 7 mối và thương linh hồn 7 mối”, trong đó thể hiện thật rõ nét những việc làm cụ thể để biểu hiện lòng thương người. Kinh Thánh xác định rõ ràng: lòng yêu mến Thiên Chúa không thể tách rời khỏi tình yêu thương anh em (“Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta…; nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau… Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo.” – 1Ga 4, 10-12).
Ki-tô giáo được gọi là “Đạo Yêu Thương”, “Đạo Bác Ái” chính bởi vì chỉ có một tôn chỉ duy nhất: “Mến Chúa yêu người”. Với người Ki-tô hữu, thì bác ái là sống Đạo: thực hành Lời Chúa, sống Lời Chúa, sống Đức Tin (“Ai nghe lời Thầy  mà đem ra thực hành thì, Thày chỉ cho anh em hay, người đó giống như kẻ xây nhà, đã đào bới rất sâu, đã đặt nền móng trên đá….” ( Lc 6, 47-48), mà Lời dạy của Đức Ki-tô là: “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12). Bác ái không phải chỉ là lời khuyên, như nhiều người quan niệm có làm hay không cũng được; mà là một bổn phận, là một sứ vụ, là một hành vi phải được thực hiện; vì Lời Chúa dậy rõ ràng: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2, 14-15).
6. Mối phúc 6 – Đức trong sạch (khiết tịnh): Cũng vì “Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.” (Mc 7, 20-23); nên người có lòng trong sạch là người biết từ khước những thú vui bất chính làm thỏa mãn dục vọng và đam mê xác thịt, bởi “một khi dục vọng đã cưu mang thì đẻ ra tội; còn tội khi đã phạm rồi, thì sinh ra cái chết.” (Gc 1, 15).
Một trong 3 lời khuyên của Phúc Âm là đức khiết tịnh – lòng trong sạch. Giữ cho tâm hồn trong sạch, giữ cho đời sống thanh khiết, không vướng vào những hệ luỵ tiền tài, danh vọng, và nhất là sắc dục, đó là sống khiết tịnh. Đã có những giải thích chưa đúng về nhân đức khiết tịnh, cho rằng lời khuyên này của Phúc Âm chỉ dành riêng cho những bậc tu hành, còn những người sống bậc hôn nhân thì làm sao mà khiết tịnh cho nổi! Để tránh những hiểu lầm không đáng có, cần phải minh định ngay: Đức khiết tịnh nơi một bậc tu trì khác với nơi một người sống bậc hôn nhân. Ở bậc tu trì thì phải kiềm chế hoàn toàn vấn đề tình dục, còn ở bậc hôn nhân thì vấn đề tình dục chỉ là sống đúng với thiên chức vợ chồng, không lạm dụng, không mê đắm, sa đà quá độ và tuyệt đối không được thể hiện tình dục với người không phải là bạn đời của mình (ngoại tình, gian dâm, chơi bời trác táng…). 
7. Mối phúc 7 – Đức hoà thuận: Người biết tác tạo hòa bìnhchính là người ngăn cản không để cho sự bất công, gian ác tồn tại. Đây là bổn phận của người tin Chúa, nghĩa là tìm mọi cách và hết sức chân thành giúp người ta xóa bỏ hận thù, ghen ghét, chia rẽ và những cớ gây xích mích bất hòa, bởi vì luật căn bản Chúa đòi hỏi nơi con người là yêu thương nhau. Nói cách cụ thể là những ai biết sống tình huynh đệ với tha nhân thì người đó đem lại hòa bình cho mọi người, cũng bởi vì “Tình huynh đệ, nền tảng và là con đường dẫn đến hòa bình… Tình huynh đệ cần được khám phá, yêu mến, kinh nghiệm công bố và làm chứng. Nhưng chỉ có tình yêu, là một quà tặng từ Thiên Chúa, mới có thể giúp chúng ta đón nhận và kinh nghiệm một cách trọn vẹn tình huynh đệ này. (Sứ điệp “Ngày hòa bình thế giới – 2014”, số 4-10)
Trong gia đình biết sống hoà hiếu với nhau, ngoài xóm làng biết sống tương thân tương ái, rộng ra xã hội biết sống chan hoà yêu thương, cho chí phạm vi thế giới luôn biết cổ võ cho một nền hoà bình chân chính, đó là nhân đức hoà hiếu thuận thảo. Những người như thế sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Con Thiên Chúa là những ai biết hy sinh cho một nền hòa bình chân chính, trong đời sống riêng tư cũng như trong tập thể cộng đồng dân tộc, được thể hiện ngay trong cuộc sống thường ngày, được áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của từng cá nhân trong mỗi cảnh ngộ của riêng mình. Con Thiên Chúa là những ai đã hiến thân cả một đời cho nền hòa bình thực sự, vững bền, xứng đáng được những phần thưởng cao qúi nhất, danh dự nhất,.
Hội Thánh đã nhắn nhủ con cái mình: “Chúa Ki-tô đến để hiệp nhất những gì bị phân rẽ, để hủy diệt tội lỗi và hận thù, và để làm cho con người tái nhận thức được ơn gọi nên một và tình yêu huynh đệ. Thế nên, Ngài là nguồn mạch và là khuôn mẫu cho một nhân loại được đổi mới, thấm nhiễm tình huynh đệ, chân thành, và một tinh thần an bình mà mọi người khát vọng” (Sắc lệnh “Truyền Giáo – Ad Gentes”, số 8), bởi chính Chúa Giê-su đã dạy: “Thầy để sự bình an lại cho anh em, Thầy ban sự bình an của Thầy cho anh em, Thầy ban cho anh em sự an bình hoàn toàn khác với thế gían”(Ga 14, 27). Muốn có hòa bình thì phải biết xây dựng, bồi đắp lòng thương yêu, sự hòa thuận ngay từ trong gia đình đến những cộng đồng, tập thể, và rộng ra là xã hội. Và trên tất cả là phải biết cậy trông, tín thác vào chính Đức Ki-tô vì “Chính Ngài là sự an bình của chúng ta”  (Ep 2, 14), “Chớ gì Thiên Chúa của niềm hy vọng đổ đầy lòng anh chị em niềm vui và sự an bình như anh chị em đã tín thác nơi Ngài.” (Rm 15, 13).             
8. Mối phúc 8 – Đức hy sinh (bị bách hại): Đây chính là phúc tử vì đạo dành cho những ai dám chấp nhận mọi gian khổ và hy sinh để tuyên xưng và bảo vệ đức tin, khi vì đạo Chúa mà bị ngược đãi. (Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, … khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” – Mt 5, 10-12).
Mầu nhiệm về công ơn cứu chuộc của Con Thiên Chúa xuống thế làm người được gắn liền với khổ giá của Chúa Ki-tô. Không qua con đường khổ giá và sự chết đau đớn của Chúa Cứu Thế, không thể mang lại hoa trái là đời sống vĩnh cửu của muôn người. Vì thế, qua các thời đại, người ta vẫn hiểu rằng, đây là trường hợp của những người bị xử tử, bị hành quyết, vì đức tin Công giáo, vì đạo thánh Chúa. Nhìn vào tấm gương 118 vị Thánh Tử vì Đạo Việt Nam để thấy được rằng các ngài đã chấp nhận hy sinh cả mạng sống mình vì Đao Chúa, vì Đức Tin Ki-tô giáo. Các ngài bị bách hại hoàn toàn không phải vì đời sống riêng tư của các ngài về đường chính trị (danh vọng, quyền lực) hay kinh tế (tiền của, vật chất), mà vì lòng dũng cảm tuyên xưng đức tin Ki-tô giáo, sự can đảm làm chứng nhân cho Tin Mừng Cứu độ của Đức Giê-su Ki-tô. Điều đó giúp cho các Ki-tô hữu – cách riêng, các Ki-tô hữu Việt Nam – hiểu sâu hơn về Đạo Chúa, về tinh thần sống Đạo, về cuộc sống chứng nhân Tin Mừng trước những thử thách nghiệt ngã, những bách hại tinh vi và khủng khiếp của ba thù trong thời đại văn minh hiện nay.
Tóm lại, các thánh là những người được thanh tẩy bằng Máu Thánh Đức Ki-tô, họ sống hiền lành, khiêm nhường, nghèo khổ, khao khát đức trọn lành, trong sạch vẹn tuyền, thương xót người như chính bản thân, sẵn sàng chịu đau khổ trước nghịch cảnh và nhất là sẵn sàng hòa trộn máu mình vào Máu Con Chiên khi bị bách hại vì lẽ công chính, để mang bình an đến cho tha nhân, góp phần xây dựng hòa bình. Nói cách khác các thánh nam nữ đã “nghe Lời Thầy Chí Thánh Giê-su Ki-tô dạy mà đem ra thực hành trong đời sống” – thông qua Tám mối Phúc thật – nên các ngài đã trở nên “đồng hình đồng dạng với Người”.
Mừng lễ Các Thánh Nam Nữ hôm nay, người Ki-tô hữu hãy hân hoan cung chiêm và chúc tụng các thánh là những người bạn, cũng là những người anh chị em của mình; đồng thời biết hướng lòng về quê trời là cùng đích cuộc sống chứng nhân cho Thập Giá Chúa Ki-tô. Trong mầu nhiệm Giáo Hội hiệp thông, hãy cầu xin các thánh cầu bầu cho bản thân mỗi người, cũng như anh em còn đang trên hành trình tiến về quê thật, để mọi người nhận ra mình cũng được Chúa mời gọi nên thánh như các ngài, và nỗ lực sống đức tin, đức mến như các ngài đã sống, hầu mai sau cũng được hưởng vinh phúc với các ngài trên Thiên Quốc. Ước được như vậy.
Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, trong ngày đại lễ hôm nay, Chúa cho chúng con được mừng kính toàn thể các thánh trên trời. Nhờ bấy nhiêu vị thánh hằng nguyện giúp cầu thay, chúng con tin tưởng nài xin Chúa cho chúng con được dồi dào ân sủng như lòng vẫn ước mong. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Các Thánh Nam Nữ).
JM. Lam Thy ĐVD


Ngày giỗ chung! (Lễ các thánh Nam Nữ)

Vâng, thánh là sống và làm theo Lời giáo huấn của Đức Kitô. Thưa quý vị, có nhiều cách suy tư về các thánh, thánh có nghĩa là người ấy thuộc trọn về Thiên Chúa, có thể nói là cả hồn lẫn xác.Vâng, vì thế Lễ các thánh là một niềm vui trọn vẹn trong cả một năm phụng vụ, ngoại trừ các Lễ thuộc về ơn cứu chuộc, mừng kính trọng thể về Mầu Nhiệm Cứu Độ của Đức Giêsu-Kitô, Đấng là Đầu, là Trưởng Tử, làm cho con người nên thánh. Vì vậy, nên thánh là đích điểm của đời sống đức tin Kitô hữu, đích đến phải là thánh, dù là được tuyên hay không. Việc tuyên thánh, hay phong thánh chính là sự công bố công khai, cách chinh thức sự nhìn nhận của Giáo Hội, hầu treo gương mưu ích cho nhân loại, mục đích là để vinh danh Thiên Chúa và mưu ích cho các linh hồn. Vì một linh hồn nên thánh, thì cả triều thần thiên quốc, chứ không riên gì trần thế vui mừng.Vì, một người tội lỗi ăn năn trở lại thì hơn chín mươi chín người công chính không cần sám hối ăn năn. Hoặc là, trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi trở lại cùng Chúa.
Theo đó, lễ các thánh Nam Nữ chính là một dịp để mừng kính các thánh, đồng thời nhắc nhở người Kitô hữu phải nên thánh.
Vì vậy, muốn nên thánh thì chúng ta phải đi con đường thánh thiện của Tin Mừng, không còn cách nào khác. Nhưng, tại sao phải nên thánh ? Thưa, từ “Thánh” có nghĩa là Thiên Chúa, Thiên Chúa là Đấng cực Thánh, nên chi Ngài muốn cho phàm nhân trở nên thánh. Vì vậy, Ngài đã thánh hóa con người bằng ơn cứu chuộc, nuôi dưỡng con người bằng Lời giáo huấn và Thánh Thể Đấng cứu thế , và hun đúc họ bằng sự can đảm của tình yêu Thánh Linh. Như vậy, Thiên Chúa là Đấng yêu thương, nguồn mạch của mọi ân sũng, muốn thánh hóa con người từng giây, từng phút một, để con người được nên thánh. Thánh là ân sũng siêu nhiên được ban cho con người hữu hình. Như vậy, thánh là sự mời gọi của Thiên Chúa, để con người được thông phần vào vinh quang của Thiên Chúa. Tóm lại, không có Thiên Chúa thì không có thánh, như vậy, vũ trụ không có sự sống, bởi vì không có tình yêu. Cả vũ trụ sẽ bao trùm sự chết, và như vậy, không có sự sinh tồn, lúc đó mất hết nguồn sống. Nên chi, việc nên thánh cần thiết biết bao !
Như vậy, thêm một định nghĩa nữa là: thánh là sự bảo tồn sự sống từ Thiên Chúa là nguồn sống duy nhất, mà Thiên Chúa làm chủ, nên chi không một thế lưc nào làm tiêu vong. Vì vậy, thánh là làm cho người khác được sống, có sự sống.
Nhưng thánh là sống mật thiết với Thiên Chúa, để múc lấy nguồn sống, nguồn ân sũng siêu nhiên, hầu trao ban cho nhân thế. Vì vậy, các ngài đã hiện diện hữu hình trên dương gian, để minh chứng về điều đó, nay không còn sống bằng thân xác hữu hình, nhưng bằng linh hồn siêu nhiên, đã trở nên hy lễ tinh tuyền trước nhan thánh Thiên Chúa. Vì vậy, các thánh là những thánh phần cầu bàu rất có thế giá trước Thánh Nhan Thiên Chúa.
Vâng, đứng đầu các thánh phải kể là Đức Giêsu-Kitô, Con Một Thiên Chúa, Đấng đã tự hạ mình vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Theo sau đó là Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Người, Đấng Đồng Công Cứu Chuộc. Bên cạnh là thánh Cả Giuse, Đấng công chính. Vì vậy rõ ràng, Thánh Gia là mẫu gương gia đình nên thánh, và là môi trường đào tạo các thánh.
Vâng, mẫu gương Thánh Gia quả là mẫu mực nên thánh cho muôn thế hệ, muôn muôn người.Nhìn lại gương các thánh, chúng ta thấy có mẫu gương nào đứng ngoài “GƯƠNG CHÚA GIÊSU” ? Gương nên thánh đầu tiên chính là “GƯƠNG CHÚA GIÊSU”. Vì nên thánh, có nghĩa là làm gương sáng, làm gương cho kẻ khác noi theo để đến cùng Thiên Chúa là Đấng Thánh, thì đó là nên thánh. Vì vậy, nên thánh trong mọi hoàn cảnh, mọi trường hợp. Không có tiêu chuẩn để nên thánh, nhưng phải có “ĐIỀU KIỆN” nên thánh. Vâng, điều kiện nên thánh, chính là “Tám Mối Phúc Thật”.
Vâng, thưa quý vị, tại sao gọi là “Phúc Thật”? Thưa, “PHÚC THẬT” có nghĩa là: Cái Phúc ấy xuất phát từ chân lý. Điều gì xuất phát từ “Chân Lý” thì đó là sự thật. Vì vậy, cái “PHÚC” mà xuất phát từ chân lý, gọi là “PHÚC THẬT”.
Vì vậy, chính Chúa Giêsu là Đấng làm cho con người được nên thánh đã đọc “Tuyên Ngôn các thánh” đó là: Tám Mối Phúc Thật, chính là điều kiện nên thánh. Vì khời đi từ bài đọc I hôm nay (Kh 7, 2-4 : 9-14). Cho thấy, mọi chi tộc Israel đều được cứu độ, Mười Hai chi tộc Israel, tổng cộng con số là một trăm bốn mươi bốn ngàn người. Nhưng trong Thánh Kinh, con số bốn được chỉ cho nhân loại (thế giới), con số ngàn được chỉ cho thời gian lâu dài. Như vậy, con số một trăm bốn mươi bốn ngàn, (144.000) là con số tượng trưng để tăng dần mãi mãi. Có nghĩa là cả nhân loại đều được cứu độ theo hành trình lịch sử cứu độ được bắt nguồn từ dân tộc Israel, là dân tộc đại diện cho niềm tin Kitô.
Theo đó, các thánh là ai ? Thưa đó, chính là “GIÁO HỘI KHẢI HOÀN”. Họ là những người đã đến, sau khi trải qua từ những cơn thử thách lớn lao. Họ chính là những người đã giặt trắng áo mình trong Máu Con Chiên (Kh 7, 14).
Như vậy, “Con Chiên” là ai ? Thưa, chính là Đức Giêsu-Kitô, Đấng cứu độ trần gian. Vậy, “Máu Con Chiên” chính là sự cứu độ từ Chúa Giêsu.
Bài đọc II, (1 Ga 3, 1-3), cho chúng ta thấy, “…Thiên Chúa Cha đã yêu thương chúng ta thế nào… Nhưng, thế gian đã không nhận biết chúng ta, vì thế gian đã không nhện biết Chúa Cha (c 1). Anh em thân mến , hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa, nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng, khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy. Phàm ai đặt hy vọng như thế vào Đức Kitô, thì làm cho mình nên thanh sạch như Người là Đấng thanh sạch” (c 2- 3).
Rõ ràng, không có Đức Kitô, thì không có thánh. Không có thánh thì không có tình yêu, không có tình yêu thì không có sự sống. Nhưng, Thiên Chúa là nguồn sống, nên chi, Thiên Chúa đã ban Đức Kitô cho nhân loại.
Vì thế, điều kiện nên thánh chính là Lời TUYÊN NGÔN của Đức Kitô. Chính là Tám Mối Phúc Thật. Vì thế, Tám Mối Phúc Thật, không còn khó hiểu nữa, bởi những ngôn từ đi “ngược” thế gian.
- Thứ nhất : Lòng khó khăn, nghèo khó, túng thiếu.
Bởi vì cửa hẹp mới vào được Thiên Quốc. Vì, Chúa Giêsu không hứa ban tiền bạc, của cải thế gian, cho những ai bước theo Người.
- Thứ hai : Hiền lành. Nhu mì. Khoan nhân
Bởi vì, chính Chúa hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Vì Thánh Tâm của Người dầy tràn sự nhân ái. Hung tợn, độc ác, không thể có Nước Trời.
- Thứ ba : Sầu buồn, đau khổ, gánh vác nỗi vất vả, khó nhọc.
Rõ ràng, nếu kẻ hoan lạc, sung sướng, vui vẻ, hạnh phúc, nhà lầu xe hơi, kẻ hầu, người hạ, thì tất nhiên kẻ ấy đã hưởng hạnh phúc rồi.
- Thứ bốn : Khát khao công chính, khát khao sự lành. Khát khao điều thiện.
Bởi vì, Thiên Chúa là Đấng Công Chính. Ai khao khát công chính thì khát khao Thiên Chúa. Ai khát khao Thiên Chúa, thì hữu nhiên họ sẽ được no thỏa Thiên Chúa. Vì không có kẻ nào khao khát thế gian, mà lại được hưởng vinh quang Thiên Quốc.
- Thứ năm : Có Lòng Xót Thương, lòng trắc ẩn, lòng thương người, lòng bác ái.
Bởi vì, nếu mình không thương người khác khi họ gặp hoạn nạn, thì làm sao mình nhận được Lòng Thương Xót bởi Thiên Chúa. Điều nầy hoàn toàn hợp lý. Sự công bằng của Thiên Chúa.
- Thứ sáu : Tâm hồn trong sạch, thanh khiết, vẹn tuyền, không ô uế.
Bởi vì, Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối trong sạch. Nơi Người là hoàn toàn siêu nhiên, vì Thiên Chúa là Thần Khí, là Ánh Sáng. Nơi Thiên Chúa cực sáng láng tinh tuyền. thánh Gioan tông đồ nói : “Người là Đấng thanh sạch” (1 Ga 3, 3).
- Thứ Bảy : Hòa Bình, Thuận Hòa, Xây dựng sự Bình An. Không hiếu chiến. Hiếu hòa, hiếu thuận. Không gây chia rẽ, đoàn kết. Thân ái, thân thiện.
Bởi vì, Nếu không tự kỷ an bình, thì làm sao hưởng hòa bình, không làm cho hòa bình, làm sao sống bình an. Đây chính là điều mình phải làm cho mình trước khi mình được hưởng.
- Thứ tám : Bị bách hại vì Nước Trời. vâng có thể hiểu bảy điều trên, đó là Thiên Quốc.
Bởi vì, Thiên Quốc là Nước Trời, Đấng sáng lập điều kiện để được vào Nước Trời, thì Đấng ấy chính là Nước Trời. Nếu, chúng ta can đảm, hy sinh vì Nước Trời, dù bị bách hại, thì đó là : Điều kiện được vào Nước Trời.
Vậy, công dân Nước Trời được gọi là gì ? Nếu như, không phải là thánh.
Từ đó, chúng ta có một định nghĩa nữa.Đó là : Thánh : Công dân Nước Trời.
Vâng, một định nghĩa đơn giản theo Tám Mối Phúc Thật.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng chính là Cực Thánh, vì chính là Nguồn Thiện Hảo, và là ơn cứu độ, ngoài Chúa ra không có nguồn thiện hảo nào khác. Vì nơi Chúa, chính là hiện thân của Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Đấng Tác Sinh và Thánh Hóa nhân trần. Như vậy, Tạo Thành Cứu Chuộc và Thánh Hóa là công việc của Thiên Chúa, là Đấng Thánh. Xin thương ban cho chúng con là những phàm nhân bất xứng, hầu biết nhận ra và tôn thờ sự Thánh Thiện của Ba Ngôi Thiên Chúa, thì chúng con đáng được hưởng nhờ ơn thánh của Chúa để trở nên thánh như Người. Chúng con cầu xin Cha, nhờ Đức Giêsu-Kitô, Chúa chúng con, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần. Amen./.
Lễ các thánh Nam Nữ 2014
P. Trần Đình Phan Tiến

BÍ QUYẾT NÊN THÁNH

LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ 2014

Năm phụng vụ diễn tả lịch sử cứu độ và tuyệt đỉnh của lịch sử này là cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô.
Năm phụng vụ có năm mùa nhưng tựu trung chỉ mừng một mầu nhiệm duy nhất- mầu nhiệm cứu độ : Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta.
Năm mùa phụng vụ đều quy về chính Chúa Kitô là Đấng Cứu Độ.Ngài là Con Thiên Chúa nhập thể,đã sinh ra,đã chết,đã sống lại,lên trời ngự bên hữu Chúa Cha,và gởi Thánh Thần đến với Giáo hội.
Các ngày lễ về các Thánh nói lên thành quả của ơn cứu độ.Mỗi vị Thánh được tôn phong hàng ngày là một bằng chứng sống động về sự thành công của ơn cứu độ.Các ngày lễ này có hai cao điểm :
- Lễ Đức Maria hồn xác lên trời là chiều cao và chiều sâu của ơn cứu độ.Thiên Chúa cứu độ là cứu cả hồn xác,toàn diện con người: “Người đã đoái thương nhìn đến phận hèn tớ nữ…Người đã làm những điều cao cả”.
- Lễ các Thánh Nam Nữ là chiều rộng của ơn cứu độ: “Lòng thương xót của Chúa trải rộng từ đời nọ đến đời kia”.
Theo lời Sách Khải Huyền, Các Thánh trên trời là “một đoàn người đông đảo, không sao đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước, mọi ngôn ngữ”. Họ đang chúc tụng Thiên Chúa, Đấng ngự trên ngai và Con Chiên, là Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ chúng ta.
1.     Các Thánh Nam Nữ là ai?
Các Thánh Nam Nữ là những phúc nhân (chữ của Đức Cha Bùi Văn Đọc), những người đang hưởng hạnh phúc đời đời bên cạnh Thiên Chúa. Các Ngài là tất cả những người đã chết trong ơn nghĩa Chúa, đang thuộc trọn về Chúa. Các Ngài sung sướng, vui mừng vì thấy mình được Thiên Chúa yêu thương, được thấy Thiên Chúa tốt lành.
Các Thánh Nam Nữ là những người đã thực hiện những điều mà Thánh Phanxicô Assidi dệt thành Kinh Hòa Bình:
Đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục. Đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm…
Các Thánh Nam Nữ đông vô kể: “Tôi lại thấy một Thiên Thần khác, mang ấn của Thiên Chúa hằng sống, từ phía mặt trời mọc đi lên… Rồi tôi nghe nói đến con số những người được đóng ấn: một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn” (Kh 7,2-4). Con số “một trăm bốn mươn bốn ngàn” chỉ là một cách nói để bày tỏ sự viên mãn và hoàn hảo của dân Thiên Chúa, dân mới được Thiên Chúa cứu chuộc, thuộc về Thiên Chúa, chứ không thể hiểu theo nghĩa số học, số lượng. “Một trăm bốn mươn bốn ngàn” trong Khải huyền là một con số tượng trưng, một con số tròn đầy (12 x 12 = 144). Số kẻ được niêm ấn là tròn đầy.Và điều tuyệt diệu là trong thị kiến Khải huyền chi tộc nào cũng có số người được niêm ấn như nhau: 12 ngàn thuộc chi tộc Giuđa,12 ngàn thuộc chi tộc Ruben,12 ngàn thuộc chi tộc Gad…không tên họ nào lấn lướt, không tên họ bị loại trừ. Các chi tộc đều được Thiên Chúa kêu mời đầy đủ. Bởi ngay sau đó, thánh Gioan viết tiếp: “tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nỗi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành thiên tuế” (Kh 7,4).
 
Một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi. Đó là cộng đoàn các Thánh Nam Nữ. Quả là đang trở thành hiện thực nơi Lời Chúa Giêsu đã thốt lên khi gặp được lòng tin của viên bách quản: “Ta bảo thật các ngươi,nhiều kẻ tự phương đông,phương đoài mà đến và được dự tiệc cùng Abraham,Isaac và Giacop trong nước trời”.
Chính vì thế, ngoài những vị thánh mà Giáo Hội đã xác định được và đã kính nhớ các Ngài vào các ngày lễ trong năm, Giáo Hội còn dành ra một ngày lễ đặc biệt để long trọng kính nhớ hằng hà sa số các vị thánh mà Giáo Hội chưa hoặc không thể xác định được, gọi chung là Các Thánh Nam Nữ. Chúng ta mững lễ các Thánh Nam Nữ là mừng Nhà Cha rộng lớn như lòng Thiên Chúa, đủ chổ cho mọi dân tộc.
 
2.     Bí quyết nên thánh
Thánh Gioan viết: “Một trong các kỳ mục lên tiếng hỏi tôi: những người mặc áo trắng kia là ai vậy? Họ từ đâu tới? Tôi trả lời: thưa Ngài, Ngài biết đó. Vị ấy bảo tôi: Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao” (Kh7,13).Thánh Tông đồ đã nhìn thấy họ trên Thiên đàng, tràn đầy hân hoan, ca hát chúc tụng Thiên Chúa : “Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,14). Quả thực, việc thanh tẩy tội lỗi chỉ thành tựu nhờ máu Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, các Thánh đã phải trải qua cuộc gian truân lớn. Vì tình yêu Đức Kitô, tất cả đã phải giao chiến với quyền lực của sự dữ, với muôn nghìn đau khổ và khó nhọc. Nhưng thánh Gioan cũng giới thiệu phần thưởng lớn lao của các Ngài : “Họ đêm ngày thờ phượng trong đền thờ của Thiên Chúa… Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh” (Kh 7,15-17).
 
Các Thánh “đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên”. Như thế, họ không phải là những con người hoàn hảo, thánh thiện,tinh tuyền,không vướng mắc lỗi lầm thiếu sót hay tật xấu nào. Không ai bẩm sinh đã là Thánh. Các Thánh cũng không phải là những siêu nhân, không là những con người phi thường vượt trên đám đông nhân loại.Các Thánh càng không phải là những người bất thường kỳ dị. Các Thánh là những con người bình thường như mọi người,nhưng các Ngài đã sống những điều tầm thường một cách phi thường. Nhờ Ơn Chúa trợ lực, các Ngài đã cố gắng tiến tới mẫu mực của mình là Chúa Kitô. Bí quyết nên thánh của các Ngài là sống Tám Mối Phúc Thật,là đón nhận ân sủng của Chúa vô điều kiện,hợp tác với ân sủng đó,vâng theo ý Chúa,chọn điều thiện,luyện tập nhân đức.
Có rất nhiều vị thánh bởi vì có rất nhiều cách để nên thánh, nhiều con đường nên thánh. Trong bài Tám Mối Phúc Thật, Chúa Giêsu đã trình bày tám con đường nên thánh, tám con đường để được hạnh phúc đích thực.
Có người nên thánh, vì sống khó nghèo, không ham mê của cải trần gian, chỉ ham mê một điều là thích được Chúa yêu và đáp trả lại tình yêu của Chúa. Có người nên thánh, vì sống hiền lành, tử tế với mọi người, nhịn nhục, yêu thương mọi người không trừ một ai. Có người nên thánh, vì đã phải chịu đau khổ nhiều mà không ngã lòng thất vọng, còn biết dùng những đau khổ của mình, kết hợp với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, dâng lên cho Thiên Chúa làm của lễ. Có người nên thánh, vì có lòng nhân từ quảng đại và hay tha thứ, có lòng xót thương xót đối với những người đau khổ tinh thần hay thể xác. Có người nên thánh, vì khao khát Chúa, muốn sống công chính đẹp lòng Chúa. Có người nên thánh vì tâm hồn trong sạch, không vương vấn tội lỗi trần gian, không bị các thứ đam mê xác thịt làm chủ. Có người nên thánh vì hiếu hòa, không gây hấn với ai, mà còn dấn thân hoà giải những người khác, đem lại bình an cho mọi người. Có người nên thánh, vì sống tốt, sống ngay thẳng, trung thành với Chúa và giáo huấn của Người, dù phải bách hại khổ sở, có khi còn bị giết chết nữa. Mọi cuộc đời, mọi con người đều có thể nên thánh. Có những vị thánh không có tên trong lịch, nhưng vẫn được gần Chúa. Có những vị thánh nông dân chân lấm tay bùn, vất vả nuôi con. Có những vị thánh nội trợ âm thầm, quét nhà nấu bếp mà lòng lúc nào cũng vui. Có những vị thánh là những người con ngoan trong gia đình, hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương quảng đại đối với anh chị em. Có những vị thánh là nữ tu, là chủng sinh, là linh mục, là giám mục. Có những vị thánh là những con người đam mê chân lý, như những nhà khoa học, những triết gia. Có những vị thánh là những nghệ sĩ làm đẹp cuộc đời bằng nhiều cách khác nhau, mang lại niềm vui cho mọi người. (ĐGM Bùi Văn Đọc).
Tuy có nhiều cách thức nên thánh, có vị nên thánh trong bậc tu trì, có vị lại nên thánh trong đời sống gia đình, có vị nên thánh bằng các hoạt động tông đồ năng nổ, có vị nên thánh trong một đời sống âm thầm, lặng lẽ, có vị nên thánh nơi pháp trường đẫm máu, có vị nên thánh chốn sa mạc cô liêu… Nhưng tựu trung, tất cả các thánh đã gặp nhau trên một con đường. Đó là con đường hẹp, con đường thập giá, Chúa Giêsu đã đi “qua đau khổ đến vinh quang”.
“Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống
Mùa gặt mai sau khấp khởi mừng”.
 
Chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng Thánh, còn con người được mời gọi trở nên thánh khi tham dự vào sự thánh thiện duy nhất của Thiên Chúa. Các Thánh được tuyên phong lên bậc hiển thánh bởi vì cuộc đời các ngài là một tấm gương phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Ai giống Đức Kitô, người ấy trở nên thánh thiện. Ai thực hiện những giá trị Tin mừng, người ấy trở nên thánh thiện. Một sự thánh thiện như thế rất có thể được thực hiện trong một đời sống rất bình thường. Giáo hội hướng tới một sự thánh thiện tỏa rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa gần gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một hình thức thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. Đó là thành quả Ơn Cứu Độ của Chúa Kitô. Giáo Hội phong thánh để tôn vinh Thiên Chúa và khuyến khích chúng ta noi theo gương sống của Các Thánh.
 
3.     Ơn gọi lớn nhất của con người là nên thánh
 
Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh. Đó là một ơn gọi rất cao cả như lời Chúa Giêsu: "Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Ðấng hoàn thiện" (Mt 5,48). Công Ðồng Vatican II cũng lập lại ý tưởng đó: "Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của mỗi người" (GH 11.3). Trong các thư của Thánh Phaolô, ngài gọi các tín hữu là những vị thánh. Qua Bí Tích Rửa Tội, mọi tín hữu được tham dự vào sự thánh thiện của Thiên Chúa. Đức Chân Phước Gioan Phaolô II nói rằng: thành công đẹp nhất của một cuộc đời là sự thánh thiện. Tin Chúa, yêu Chúa và sống theo lời Chúa dạy qua Tám Mối Phúc Thật, mọi tín hữu sẽ nên thánh.
 
Trong Năm Phụng Vụ, Giáo hội tôn kính nhiều vị Thánh có tên tuổi. Ngày lễ các Thánh Nam Nữ, Giáo hội tôn kính tất cả các vị Thánh, trong đó có ông bà cha mẹ, những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta và đã trở nên thánh nhân, mặc dù chưa được Giáo hội tuyên phong.
 
Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, trở nên thánh, đó là ơn gọi của mọi người Kitô hữu chúng ta và đó cũng là sứ điệp Chúa Giêsu và Giáo Hội muốn nhắn gửi qua ngày lễ kính Các Thánh Nam Nữ.
 
Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 
 
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận