Các bài suy niệm Chúa Nhật XX Năm A

Đăng lúc: Thứ năm - 17/08/2017 11:47 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

 

CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN – A

Lời Chúa: Is 56, 1.6-7;  Rm 11, 13-15.29-32;  Mt 15, 21-28

——–

Mục lục

2. Tin yêu sống bí tích Thánh Thể theo gương Đức Mẹ (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Tình mẹ đã cứu con (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Tình mẹ thương con (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

5. Đối thoại và niềm tin (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

6. Kiên trì và kiên trì (Anna Cỏ May, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

7. Sức mạnh của tình yêu (Bông Hồng Nhỏ, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

8. Lòng tin  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

9. Đức tin vững mạnh  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

10. Chúa Nhật XX Thường niên_A (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

11. Kiên tâm vững chí  (Trầm Thiên Thu)

12. Đức tin cần được tôi luyện qua thử thách  (Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)

13. Bà muốn sao thì sẽ được vậy  (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)

14. Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi (Fx. Đỗ Công Minh)

15. Tất cả vì yêu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

16. Một đức tin tuyệt vời (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

17. Ân sủng (Lm. Trần Việt Hùng)

 

.

TIN YÊU SỐNG BÍ TÍCH THÁNH THỂ THEO GƯƠNG ĐỨC MẸ

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Đoạn Tin Mừng hôm nay thật lôi cuốn. Lôi cuốn trước hết ở diễn tiến bất ngờ của phép lạ. Bất ngờ đầu tiên: người phụ nữ ngoại đạo dám đến xin phép lạ cho con mình. Người ngoại với người Do Thái không bao giờ liên hệ với nhau. Với người phụ nữ ngoại giáo, khoảng cách càng xa diệu vợi. Thế mà người phụ nữ này dám vượt qua hết những rào cản để đến với Chúa. Bất ngờ thứ hai: Chúa đã có thái độ từ chối quyết liệt. Từ chối bằng im lặng không trả lời. Từ chối thẳng thừng bằng lời nói quyết liệt: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel thôi”. Và căng thẳng đến tàn nhẫn: “Không được lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con”. Bất ngờ thứ ba: người phụ nữ chấp nhận tất cả những thử thách, và đã có câu trả lời thông minh: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Thật là khiêm tốn, nhưng cũng đầy tin tưởng. Thật bất ngờ mà cũng thật đẹp đẽ.

Lôi cuốn ở nét đẹp tâm hồn người phụ nữ. Ẩn sâu trong vẻ đẹp của thái độ người phụ nữ ngoại đạo, ta thấy nổi bật hai phẩm chất cao quí đó là: Tin và Yêu. Yêu con tha thiết nên bà không thể nhẫn tâm ngồi nhìn ma quỷ hành hạ đứa con yêu quí. Yêu con tha thiết nên bà không ngần ngại đi tìm thầy tìm thuốc ở khắp mọi nơi, kể cả những nơi bị coi là cấm kỵ. Yêu con tha thiết nên bà chấp nhận tất cả, không chỉ sự mệt nhọc tìm kiếm mà cả sự dửng dưng lạnh nhạt và nhất là sự khinh khi nhục mạ. Yêu con nên bà tin Chúa. Tin Chúa có quyền năng thống trị ma quỷ. Tin Chúa có lòng thương xót sẽ ra tay cứu chữa. Tin Chúa có trái tim rộng mở sẽ không phân biệt người ngoại kẻ đạo. Tin và Yêu giống như đôi cánh đã giúp người phụ nữ bay lên rất cao và bay đi rất xa. Cao lên tới Thiên Chúa. Xa khỏi những ngăn cách trắc trở. Tin và Yêu giống như giòng thác nước. Càng gặp đập ngăn cản càng dâng lên cao. Càng dâng lên cao sức mạnh càng tăng. Và khi đổ ào xuống sẽ phát sinh công hiệu quả lớn. Tin và Yêu giống như chiếc chìa khoá vạn năng có thể mở được mọi cánh cửa. Mở được cánh cửa Nước Trời. Mở được cả tâm hồn Thiên Chúa.

Trong bối cảnh của Năm Thánh Thể, thái độ người phụ nữ ngoại đạo khiến ta liên tưởng đến Đức Mẹ, người phụ nữ Thánh Thể. Người phụ nữ ngoại đạo này là một bà mẹ hiền. Vì thương con đói khổ nên bà đã lặn lội đi tìm tấm bánh về nuôi con. Vì thương con nên bà chấp nhận tất cả mọi vất vả, khổ cực, nhục nhã. Và Chúa đã thưởng công bà. Bà chỉ mong tìm được những mẩu bánh vụn dư thừa từ bàn chủ rơi xuống. Nhưng Chúa đã ban cho bà trọn vẹn tấm bánh thơm ngon của những đứa con. Bà chỉ mong được như lũ chó con chực chờ thức ăn dư thừa từ bàn chủ rơi xuống. Nhưng Chúa đã cho bà và con gái bà được đồng bàn với con cái Chúa. Chúa đã ban cho bà tấm bánh hạnh phúc. Đó là tấm bánh cứu độ. Cho bà được gia nhập gia đình Chúa, trở nên con cái Chúa. Bà đã mở được đường lên Nước Trời, đã làm cho Chúa thay đổi chương trình, thu nhận dân ngoại vào Nước Chúa.

Cũng thế, Đức Mẹ là người mẹ rất hiền từ. Vì thương yêu chúng ta nên Mẹ cũng lặn lội đi tìm cho ta tấm bánh hạnh phúc. Mẹ đã trao ban cho ta tấm bánh cứu độ.Đó chính là Chúa Giêsu Kitô. Nếu hiểu rằng Thịt Máu Chúa Giêsu Thánh Thể cũng chính là thịt máu Mẹ đã cưu mang trong lòng, ta mới rõ Đức Mẹ là người Mẹ hiền đã tìm cho con cái tấm bánh cứu độ thơm ngon hạnh phúc. Và để có được tấm bánh đó, Đức Mẹ đã phải chịu rất nhiều vất vả, đau đớn, khổ nhục như lời tiên tri Simêon tiên báo: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà”. Chính nhờ Mẹ, ta được ăn bánh các thiên thần, được đồng bàn với thần thánh, được nên con Thiên Chúa.

Không những ban cho ta tấm bánh cứu độ, Đức Mẹ còn dạy ta sống bí tích Thánh Thể trong đức tin và tình yêu.

Đức Mẹ dạy ta hãy tin thật Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, noi gương Mẹ khi xưa nghe lời thiên thần truyền tin đã hoàn toàn tin rằng bào thai trong lòng Mẹ là Con Thiên Chúa.

Đức Mẹ dạy ta hãy tin vào quyền năng của Chúa. Như xưa tại tiệc cưới Cana, Mẹ đã bảo các gia nhân: “Người bảo gì thì hãy cứ làm theo”. Hôm nay, trong Năm Thánh Thể, Đức Mẹ cũng muốn nói với ta: Nếu Chúa đã dạy: “ Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, thì hãy sốt sắng tin tưởng cử hành bí tích Thánh Thể. Hãy vững tin vì Đấng đã có thể biến nước lã hoá thành rượu ngon cũng có thể làm cho bánh và rượu trở nên Thịt Máu Người.

Đức Mẹ dạy ta hãy luôn hướng về bí tích Thánh Thể như xưa Mẹ đã theo Chúa Giêsu trên mọi bước đường, dù gian nan khổ cực.

Đức Mẹ dạy ta dâng mình làm hy lễ. Như xưa Mẹ đã đứng dưới chân Thánh giá, cùng Chúa Giêsu dâng hiến những đau khổ làm hy lễ dâng Thiên Chúa Cha.

Và cũng như xưa Đức Mẹ đã đem Chúa Giêsu đến với bà Elisabet, đem lại niềm vui lớn lao cho bà, vì đã cho Thánh Gioan Baotixita được khỏi tổ tông truyền khi còn trong lòng mẹ, Đức Mẹ cũng dạy ta khi sống bí tích Thánh Thể, hãy trở nên những nhà tạm sống động đem Chúa Giêsu Thánh Thể đến khắp mọi nơi, đem ơn cứu độ đến cho mọi người.

Hôm nay khi cho người phụ nữ ngoại đạo được tấm bánh của con cái, được đồng bàn với con cái Chúa, Chúa cho bà được gia nhập dân riêng Chúa. Điều đó nhắc nhở ta khi sống bí tích Thánh Thể cũng hãy chăm lo việc truyền giáo, đi quy tụ nhiều người về bàn tiệc Thánh Thể, vào dự tiệc Nước Trời. Đức Mẹ La Vang luôn quan tâm đến việc truyền giáo, nên Mẹ không ngừng yêu thương và ban ơn lành cho những lương dân chạy đến với Mẹ. Trong những buổi cử hành sắp tới, ta sẽ được nghe những chứng từ rất sống động về tình thương của Mẹ.

Đức Mẹ là thầy dạy về bí tích Thánh Thể một cách tuyệt hảo. Chính vì thế, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị khuyên mời ta hãy đến nơi trường của Đức Mẹ. Hôm nay, họp nhau đông đảo về đây, ta hãy tạ ơn Mẹ La Vang đã ban cho ta Chúa Giêsu là tấm bánh cứu độ hạnh phúc. Ta hãy xin Mẹ dạy ta biết sống bí tích Thánh Thể trong cuộc đời. Hãy noi gương Mẹ đem Thánh Thể đến khắp các nẻo đường, quy tụ một dân đông đảo về dự tiệc Thánh Thể, dự tiệc Nước Chúa.

Lạy Mẹ La Vang xin nhận lời chúng con. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bí quyết nào khiến bà mẹ ngoại đạo đạt được ước nguyện?

2) Người phụ nữ ngoại đạo nêu gương cầu nguyện cho ta thế nào?

3) Đức Mẹ đã sống đức tin vào tình yêu thế nào trong cuộc đời?

Về mục lục

.

TÌNH MẸ ĐÃ CỨU CON

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Trong cuộc đời này, có ai lại không được lớn lên trong vòng tay của mẹ, không được nghe tiếng ru hời ầu ơ ngọt ngào, có ai lại không được chìm vào giấc mơ trong gió mát tay mẹ quạt mỗi trưa hè oi ả. Và trong cuộc đời này, có ai yêu con bằng mẹ, có ai suốt đời vì con giống như mẹ, có ai sẵn sàng sẻ chia ngọt bùi cùng con như mẹ?
Thế nên, có ai đó nói rằng: “đi khắp thế gian cũng không ai tốt bằng mẹ”. Tình mẹ mãi ôm ấp che chở đầy tình bao dung cho từng đứa con.
Có một Cô gái mới có 18 tuổi, cô cũng giống như hầu hết các thiếu nữ ngày nay. Muốn tự lập. Sống tự do theo ý mình. Cô đã nói với mẹ: 
– Con không muốn sống theo sự áp đặt của ba mẹ. Con sẽ ra riêng để sống tự do!
Thế là cô quyết tâm bỏ nhà đi, quyết định lấy thế giới bao la làm nhà mình. Tuy nhiên, chẳng bao lâu, cô bị ruồng bỏ vì không tìm ra việc làm, cô phải làm gái đứng đường, đem thân xác, hình hài mình ra làm thứ để mua bán, đổi chác. Năm tháng cứ thế trôi qua, cha cô qua đời, mẹ cô già đi và cô con gái đó ngày càng sa đọa trong lối sống của mình.
Không còn chút liên lạc nào giữa hai mẹ con trong những năm tháng ấy. Bà mẹ nghe đồn về lối sống của con gái mình, bà đã đi tìm con trong khắp thành phố. Bà đến từng nhóm cứu trợ với lời thỉnh cầu đơn giản:
– Làm ơn cho tôi chưng tấm hình ở đây! 
Đó là tấm hình một bà mẹ tóc muối tiêu, mỉm cười với hàng chữ: “Mẹ vẫn yêu con… Hãy về nhà đi con!”.
Rồi một ngày, cô gái đến toán cứu trợ nọ để nhận một bữa ăn cứu đói. Tình cờ mắt lơ đễnh nhìn những tấm hình và tự hỏi: “Có phải mẹ mình không nhỉ?”. Đứng trước tấm hình, cô bật khóc.
Lúc đó trời đã tối nhưng cô vẫn quyết định phải đi bộ về nhà. Về đến nhà trời đã sáng tỏ. Khẽ gõ cửa, cô thấy cửa không khoá. Cô nghĩ chắc có trộm vào nhà. Lo lắng cho sự an toàn của mẹ mình, cô gái trẻ chạy vội lên buồng ngủ của bà và thấy bà vẫn đang ngủ yên. Cô đánh thức mẹ mình dậy: 
– Mẹ ơi, con đây! Con đây! Con đã về nhà rồi! 
Không tin vào đôi mắt mình, bà mẹ lau nước mắt rồi hai mẹ con ôm chầm lấy nhau. Cô gái nói với mẹ:
– Mẹ à, con lo quá. Thấy cửa không khoá, con cứ nghĩ nhà có trộm! 
Bà mẹ nhìn con âu yếm:
– Không phải đâu con à! Từ khi con đi, cửa nhà mình chưa bao giờ khoá. Mẹ sợ lúc nào đó con trở về mà mẹ không có ở đây để mở cửa cho con!
Và cô gái lại gục đầu vào lòng mẹ, bật khóc!
Quả là tình mẹ thật bao la, và to lớn như cha ông ta bảo rằng:
Đố ai đếm được lá rừng,
Đố ai đếm được mấy từng trời cao,
Đố ai đếm được những vì sao,
Đố ai đếm được, công lao mẫu từ.
 Tình mẫu tử của bà mẹ Canaan hôm nay thật xúc động. Bà quá yêu thương cô con gái yếu đuối bị quỷ ám, nên can đảm vượt qua cái hố ngăn cách chủng tộc, thậm chí thù hận giữa dân Israel và dân ngoại. Bà hớt hải nhanh chân tìm đến với Chúa. Bà hoàn toàn tín thác, trông cậy, khẩn cầu, năn nỉ  Chúa đoái thương cứu giúp.
 Bà vượt qua thử thách, khinh dể, rẻ rúng, giả điếc làm ngơ, bà mẹ Canaan vẫn kiên trì, vững tin vào lòng từ bi nhân ái của Đức Giêsu. Chẳng hề ngại ngùng quấy rầy Thầy Giê-su, bà cứ mãi lẽo đẽo bám theo, năn nỉ, van nài. Mặc dù bị từ chối phũ phàng và dứt khoát: “Không nên lấy bánh cho con cái mà ném cho lũ chó con!”. Bà vẫn nhẫn nhục, bà chẳng tự ái, chẳng giận hờn, hoặc thất vọng bỏ cuộc. Bà không ao ước được nguyên tấm bánh, mà chỉ dám mong chút vụn bánh rơi rớt dưới nền nhà. Sự khiêm tốn thắm tình mẫu tử ấy đã được toại nguyện. Đức Giêsu cảm động nhận lời chữa lành cho  con gái bà và còn khen ngợi đức tin bền vững và mạnh mẽ của bà. “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy.” (Mt 15, 28)   
 Ước gì mỗi người chúng ta có một tình yêu với gia đình như người mẹ hôm nay, để nhờ lòng tin của chúng ta mà ơn Chúa được ban xuống cho gia đình. Ân sủng của Chúa sẽ tuôn đổ dạt dào trên gia đình và giải thoát gia đình khỏi hiểm nguy.
Xin cho chúng ta có một đức tin kiên nhẫn như người phụ nữ hôm nay để chạy đến trao vào tay Chúa những khó khăn của chính mình cũng như gia đình. Amen.

Về mục lục

.

TÌNH MẸ THƯƠNG CON

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 Tình mẹ thương con, bao la như trời như biển. Không có thứ tình cảm nào đậm đà và cao quý như tình mẹ thương con. Đã có biết bao thi ca nhạc phẩm, đã có vô vàn câu hò điệu hát ca tụng tình mẹ thiêng liêng.

 “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào.
Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào.”

Với giai điệu mượt mà sâu lắng, với ca từ thấm đẫm chất thơ gợi lên những hình ảnh bình dị, gần gũi, nhạc sĩ Y Vân đã viết ca khúc tuyệt vời ca ngợi tình mẹ.

Thương con mẹ nào có quản nắng mưa, có ngại gì sớm khuya vất vả… Tình mẹ mãi mãi là như thế. Dẫu ở thời nào, dẫu thuộc nền văn minh văn hóa nào và dẫu ở đâu, tình mẹ muôn đời vẫn thế.

Đố ai đếm được lá rừng,
Đố ai đếm được mấy từng trời cao,
Đố ai đếm được những vì sao,
Đố ai đếm được, công lao mẫu từ.

Vào tháng 12 năm 1987 một cơn động đất lớn xảy ra ở xứ Armênia thuộc Liên Xô cũ, đã chôn vùi hằng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có hai mẹ con bà Suzanna. Hai mẹ con may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hủ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi kêu lên: “Mẹ ơi con khát quá”. Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình mẫu tử đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo: bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nữa nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến cuối cùng người ta cứu hai mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng: “Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống”.

Bà mẹ Armênia trong câu chuyện và bà mẹ Canaan trong bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay là một hình ảnh sống động minh họa cho tình mẫu tử thiêng liêng cao cả.

Thương đứa con gái bị quỷ ám, bà đã lặn lội đi tìm Chúa Giêsu, nài nỉ van xin, bị xua đuổi bà vẫn kiên trì, bị nói nặng là “đồ chó”, bà vẫn không nản. Kiên trì và khiêm tốn chứng tỏ nơi bà có một tình yêu mãnh liệt và một lòng tin mạnh mẽ.

Thật cảm động trước tình thương dạt dào của người mẹ Canaan. Thật cảm phục một lòng tin kiên vững của người phụ nữ ngoại giáo. Tình yêu và lòng tin ấy cứ xoắn quyện với nhau. Tình yêu dẫn đến lòng tin. Tình yêu kiện cường lòng tin. Biểu lộ của lòng tin cũng chính là biểu lộ của tình yêu. Lòng tin và tình yêu đi đôi với nhau giúp cho con người một sức mạnh để can đảm, kiên trì và khiêm tốn.Lòng tin và tình yêu cho bà mẹ Canaan có được một sức mạnh thật kỳ diệu, vượt thắng mọi thử thách và đi đến cùng trong việc cứu chữa con gái.

Thương con,bà đã chạy thầy chạy thuốc khắp nơi. Không rõ nhờ đâu mà bà biết được Chúa Giêsu, nhưng khi thấy Người bà tin rằng cơ may đã đến. Bà gọi Người là Con Vua Đavít, bà đặt trọn niềm tin vào Người, vị cứu tinh duy nhất của bà.

Dẫu biết rằng bà thuộc dân ngoại, còn Chúa Giêsu là người Do Thái, hai dân tộc có mối thù truyền kiếp không giao du tiếp xúc với nhau, nhưng lòng thương con đã khiến bà bất chấp ranh giới cấm kỵ hận thù để đến với Chúa trong tư thế một người xin ơn.

Thương con nên khổ vì con. Người mẹ Canaan xin với Chúa Giêsu: “Xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỉ nhập khổ sở lắm.” Đứa con bị quỉ nhập khổ sở là đúng rồi. Thế nhưng thực tế ai khổ hơn ai, đứa con hay bà mẹ? Con đau khổ một, còn mẹ khổ mười. Mỗi lần con rên, con quằn quại là lòng mẹ quặn đau như muối xát, mẹ ước gì được lãnh lấy mọi cơn đau của con. Chắc hẳn, các bà mẹ đều đã trải qua những kinh nghiệm như thế. Chính vì thế thay vì nói “Xin dủ lòng thương con tôi” bà lại nói: “Xin dủ lòng thương tôi!”

Bà xin Chúa nhìn đến nỗi đau của một bà mẹ, đau vì nỗi đau của đứa con. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại một lời. Tại sao Chúa lại lãnh đạm với nổi đau của con người như vậy? Chúa thinh lặng để bà thấm thía được sự bất lực của mình, và nhờ đó mà thấy được rõ hơn rằng, Thiên Chúa là nơi nương tựa duy nhất của con người.

Bà chẳng ngã lòng trước thái độ lạnh lùng của Chúa Giêsu. Bà cứ lẽo đẽo theo sau mà nài nẵng xin mãi xin hoài đến nổi các môn đệ không chịu được những lời lẽo nhẽo ấy nên trình với Chúa để đuổi bà về.

Mặc kệ thái độ khó chịu của các môn đệ, bà trực tiếp giáp mặt Chúa Giêsu và nài xin cứu giúp. Lần này thì bà lãnh đủ một gáo nước lạnh: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”. Sao lạ vậy? Chúa Giêsu mới làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi năm ngàn người, vậy mà Người lại nhẫn tâm khước từ mẩu bánh nhỏ cho người đàn bà khốn khổ này ư? Những lời khó nghe Chúa dùng cũng là lời nói với mọi người, để cho ai cũng thấy được ơn cứu độ là một hồng ân Chúa ban bởi lòng thương xót, chứ không phải bởi sự xứng đáng của bất cứ ai.

Câu chuyện đã đi đến cao điểm, thử thách đã đến cùng tột. Chính trong cơn thử thách như thế ta mới thấy hết vẻ đẹp của tình mẫu tử và lòng tin của bà.

Bà chấp nhận lối so sánh của Chúa. Bà không dám mong được những ân huệ như dân Do Thái, bà chỉ xin chút vụn vặt thừa thãi cho con bà, bởi vì “lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.

Đến đây thì Chúa Giêsu chẳng còn lý do gì để chối từ, Người nói: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn sao thì được như vậy.” Nhận biết mình hèn mọn nên hoàn toàn cậy dựa vào lòng trắc ẩn của Chúa. Đó là sức mạnh của người mẹ Canaan. Thiên Chúa đầy lòng thương xót không thể từ chối lời nài van của một người không sao tìm ra một nơi nương tựa nào khác ngoài lòng trắc ẩn của Ngài, và Chúa Giêsu nói: “Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy”.    

Làm sao mà Chúa có thể chối từ được trước tình yêu bao la và niềm tin mạnh mẽ đến vậy. Không phải Người đã từng bảo: “Hãy xin thì sẽ cho, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở” đó sao? Hơn nữa, Người cũng có một bà mẹ là Đức Maria. Rồi sẽ có ngày Mẹ Người sẽ khổ đau đi theo con trên chặng đường thương khó, trái tim Mẹ như bị lưỡi gươm đâm thâu khi đứng dưới chân thập giá. Có lẽ nổi đau khổ của bà mẹ Canaan này khiến Chúa Giêsu chạnh nghĩ đến mẹ của mình. Người hiểu tấm lòng của các bà mẹ, nên chẳng nỡ chối từ những gì các bà mẹ trong cơn đau khổ cầu xin.

Lòng tin và tình yêu giống như đôi cánh đã giúp người mẹ Canaan bay lên rất cao và bay đi rất xa. Cao lên tới Thiên Chúa. Xa khỏi những ngăn cách trắc trở. Đến với Chúa Giêsu bằng lòng tin và tình yêu, người mẹ Canaan nhận được một tình yêu quyền năng. Thánh Phaolô chia sẽ kinh nghiệm này: “Tôi có thể làm được mọi sự nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi”(Pl 4,13).

Bà mẹ Canaan là tấm gương cho các bậc làm cha làm mẹ. Cha mẹ nào mà chẳng thương con. Vì thương con nên mới khổ vì con. Chắc hẳn, con đau bệnh không làm khổ lòng cha mẹ cho bằng con hư hỏng. Bao cha mẹ đã bạc mái đầu vì những đứa con ngỗ nghịch hư hỏng, bao bà mẹ đã khóc hết nước mắt vì có đứa con lỡ vướng vào các tệ nạn vào ma tuý… Trong trường hợp đó, lòng thương con của các bậc cha mẹ có xoắn quyện chặt chẽ với lòng tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa hay không? Các bậc cha mẹ đã làm hết cách, đã tha thiết cầu xin, đã kiên tâm cầu khẩn, đã tin tưởng cầu nguyện như người mẹ Canaan này chưa?.

Chúa Giêsu đã khen ngợi đức tin của người đàn bà ngoại giáo. Chúa đã đánh giá lòng kiên nhẫn của bà là một bằng chứng đức tin. Chúa đề cao một mẫu gương về đức khiêm tốn, kiên trì và phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa.

Giáo Hội chuẩn bị mừng lễ thánh Monica và thánh Augustinô. Xuyên suốt 18 năm dài, mẹ Mônica luôn cầu xin cho con trai Augustinô. Hằng ngày bà hy sinh, ăn chay và hãm mình cầu nguyện cho người chồng khô khan và con trai lầm lạc. Đã có lần đức tin của bà cũng bị lung lay.Thánh Ambrôsiô khuyên nhủ: “Bà hãy yên trí, đứa con của biết bao giọt nước mắt sẽ không thể nào hư mất”. Nhờ niềm tin kiên cường của người mẹ nên Thiên Chúa đã thay đổi cuộc đời người con. Augustinô từ bỏ con đường tội lỗi và sống đời thánh thiện, trở nên vị thánh lớn của Giáo Hội.

Nhiều gia đình ngày nay có những người mẹ khổ đau vì con cái hư hỏng hay lâm bệnh hiểm nghèo. Hãy noi gương bà mẹ Canaan, mẹ thánh Mônica, tin tưởng và cầu xin. Chúa sẽ ban ơn cho những người mẹ có đức tin chân thành, kiên nhẫn.

Tình mẹ thương con là tình cảm thiêng liêng cao quý nhất. Chính Con Một Thiên Chúa Nhập Thể làm người cũng đã nhận lấy con đường bình thường mà trân quý ấy. Maria, người nữ Sion đã vâng phục ngay từ ngày đầu khi thiên sứ truyền tin. Từ đó, Mẹ đã nhận lấy những nhọc nhằn vất vả của vai trò làm mẹ. Mẹ đã đảm nhận trọn vẹn thiên chức cao quý nhưng không thiếu gian truân khổ đau như bất cứ người mẹ nào trong nhân loại. Trong lòng tin, người Mẹ ấy đã âm thầm vâng phục, đón nhận, lắng nghe và bước theo Con của mình trong hành trình cứu độ. Cuối cùng, người nữ ấy được Thiên Chúa đoái thương cất nhắc về Trời cả hồn lẫn xác, một trong bốn đặc ân cao cả Thiên Chúa đã ban cho Mẹ.

Mẹ Maria đang được hưởng niềm vui thiên quốc. Mẹ hằng yêu thương con cái trên đường hành hương về quê trời.Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin rằng có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở.Trong niềm hy vọng sẽ được về trời với Mẹ, chúng ta nhìn lên Mẹ như mẫu gương của lòng cậy trông, kiên nhẫn với tin yêu và hy vọng.

Về mục lục

.

ĐỐI THOẠI VÀ NIỀM TIN

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Để có một niềm tin, không phải là cứ cúi đầu chấp nhận, không cần tìm hiểu và đặt lại những câu hỏi phản kháng. Trong mẫu đối thoại giữa Chúa Giê su và người đàn bà xứ Canaan cho thấy, Chúa chấp nhận sự phản kháng của bà để bà được điều bà xin. Như vậy, có thể thấy: Chúa Giê su tôn trọng tự do cá nhân – Sẵn sàng lắng nghe để mở ra một tương quan mới – và củng cố niềm tin sau những đối thoại.

Tôn trọng cá nhân.

Theo chú giải của bản dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ, Mat thêu ngụ ý: người đàn bà xứ Canaan này đã ra khỏi vùng đất dân ngoại và chỉ trong đất Israel Chúa mới thi ân. Đó là cách suy nghĩ của con người đến gặp Chúa. Thực ra, Chúa Giêsu cũng thuộc những người hay phản kháng, khi Chúa đặt giá trị yêu thương trên lề luật đã quy định: Chúa giao tiếp với người Samari, Chúa đụng chạm đến những người phong hủi, bệnh tật, bênh vực môn đệ bứt lúa trong ngày Sabath… 

Chúa thích những người đặt câu hỏi và phản kháng: Đối thoại với ông Ni cô đê mô, với người thanh niên giàu có, với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Gia cóp, và ngay với các môn đệ… Đặt câu hỏi và phản kháng để chứng minh rằng, con người là một chủ thể rõ ràng, hiện diện trước mặt, như Descartes phát biểu: “Cogito ergo sum” – “Tôi suy tư, tôi hiện hữu”. Người đàn bà xứ Canan này cần được tôn trọng, không cần biết từ đâu đến, là dân ngoại hay là dân Israel, Chúa tôn trọng bà như một con người cần được lắng nghe.

Qua mẫu đối thoại này của người phụ nữ Canaan với Chúa, sao ta không thử bắt chuyện với Chúa về những ý kiến riêng tư của mình với Chúa, Chúa đang muốn nghe những đối thoại và sự phản kháng của ta với Chúa. Kể cả việc ta muốn từ bỏ Chúa ngay khi quá chán nản với sứ vụ đang theo đuổi điều công chính mà cứ gặp phải gian truân, như tiên tri Giêrêmia: “Có lần con tự nhủ: “Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa.” Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (Gr 20, 9). Hãy thưa truyện với Chúa, Chúa đang muốn nghe ta!

Sẵn sàng lắng nghe.

Chúa không đáp lại lời nào, có phải Chúa không muốn nghe lời đàn bà xứ Canaan nói. Không phải như thế, Chúa im lặng để xem phản ứng của các môn đệ đang đi theo Người. Trong câu truyện, các môn đệ cũng đã chuyển lời thỉnh cầu của bà đến Chúa. Chúa muốn mở một đối thoại thông qua cộng đoàn. Đức tin vừa là một hành vi cá nhân vừa là một hành vi cộng đoàn. Bà ngoại xứ Canaan được hỗ trợ bởi niềm tin của các môn đệ, đó là điều cần thiết. 

Thế nên, một mình ta không thể nói với Chúa mà từ chối một cộng đoàn đang sống đức tin. Không thể nói đạo tại tâm mà không cần đến hiệp thông cộng đoàn phụng vụ… Chúa Giêsu muốn bà được công nhận vào một cộng đoàn mới, không chỉ là người Do Thái, không chỉ là những người coi mình là công chính… Chúa mời tất cả mọi người hiệp thông vào cộng đoàn đức tin mà các Thánh Tông Đồ tuyên xưng (Giáo hội tông truyền).

Trong khi cầu nguyện, Chúa còn dạy: “Ở đâu hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở giữa họ” (Mt 18, 20). Hiệp nhất nhân Danh Chúa trong yêu thương, lời thỉnh cầu của người phụ nữ cũng là lời thỉnh cầu của các môn đệ. Yêu thương nhau là tiêu chuẩn để sống hiệp nhất. Chúa mời gọi ta, hãy mở lòng yêu thương, đón nhận, hy sinh, tha thứ và cầu nguyện cho nhau.

Muốn sao được vậy.

Niềm tin được củng cố sau những nỗ lực cá nhân đi tìm Chúa, đối thoại cá nhân, cầu nguyện với Chúa cùng với cộng đoàn hiệp thông. Đó là một tiến trình của việc Chúa muốn quy tụ một dân hiến thánh cho Thiên Chúa.

Sở dĩ khi diễn tả “chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn chủ rới xuống” (Mt 15, 27). Sự sánh vi này cũng giống như người Việt xưa trong lời kêu cứu thảm thiết: “Lạy ông! Con cắn cỏ xin ông..” Hạ mình thật thấp, đó là lời cầu nguyện cho kẻ khiêm cung, để nhận ra mình chỉ là “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.” (Lc 1, 48).

Bái lạy, quỳ gối. Trong nhiều trường hợp ngưới ta quỳ gối: Quỳ một chân của người đàn ông tỏ bày lời cầu hôn đến một cô gái, minh chứng sẽ giữ lời hứa chung thủy. Quỳ gối trước Đấng Toàn Năng. Quỳ gối khi đầu hàng để xin giữ mạng sống… Hành động của người phụ nữ Canaaan tỏ bày niềm tin yêu, tín thác vào tình thương của Chúa.

Lạy Chúa, như người đàn bà xứ Canaan, xin cho chúng con biết đối thoại và tỏ bày cả những lúc phản kháng với Chúa, để thấy Chúa quyến rũ và chinh phục được chúng con. Cho chúng con luôn gắn kết với cộng đoàn trong yêu thương và thờ phượng Chúa. Xin luôn giúp chúng con học với Chúa lòng khiêm hạ để thi hành ý Chúa.

Về mục lục

.

KIÊN TRÌ VÀ KIÊN TRÌ

Anna Cỏ may

Hai mẹ con cùng đi chợ, cô bé réo lên:

– Mẹ ơi, mẹ mua cho con cái đầm kia đi! Nó đẹp quá à!

– Ùm đẹp thật, nhưng con có nhiều rồi, mặc chẳng tới mà.

– Không mẹ mua cho con đi mà! Nhiều bạn có đầm loại đó lắm.

– Được rồi, để lần sau mẹ mua cho. Bây giờ về thôi.

– Không, con không về đâu!

Cô bé mặt xị lên, nước mắt ngắn dài chảy ra. Hai chân thì dậm bành bạch khiến mọi người phải hướng về cô. Thấy thế, bà mẹ đành phải mua cho cô bé. Là người mẹ, ai cũng thương con và hằng cầu mong những điều tốt nhất đến với con. Đôi khi người mẹ biết làm như thế là không tốt cho con nhưng cũng không nỡ lòng nào để cho con phải khóc và đau. Mặt khác, sự nài nỉ cầu xin và sự kiên trì của người con khiến bà mẹ phải làm theo điều con muốn và cần. Tương tự như thế, chúng ta sẽ bắt gặp hình ảnh ấy qua người phụ nữ Canaan trong bài Tin Mừng hôm nay.

Bà Canaan có con gái bị quỷ ám. Bà biết mình là dân ngoại, dân thấp hèn so với người Do thái, nên bà kêu xin Chúa Giêsu rằng: “Lạy Ngài là Con vua Đavít , xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sợ lắm!”(Mt 15, 22). Nhưng đáp lại lời xin này là một sự im lặng của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không đáp một lời, có thể vì sứ vụ của Ngài không phải dành cho dân ngoại như lời Ngài nói với các môn đệ: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ítraen mà thôi”(Mt 15, 24). Hay có thể là một cách Ngài thử lòng tin của bà mức độ nào. Bởi vì bà đã can đảm đến xin Ngài chữa bệnh. Đứng trước im lặng ấy, bà mặc kể, bà cứ nài nỉ, cứ kêu xin mãi và cứ sụp lạy dưới chân Chúa. Còn Ngài, Ngài không trả lời mà còn “dặm” thêm một câu thật khó nghe: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”(Mt 15, 26). Phải như nhiều người khác, nếu nghe như vậy chắc dám sửng sộ lắm, cho dù họ đang cần giúp đỡ. Bởi vì câu nói của Ngài có sự xúc phạm. Nhưng đó là thử thách cho những ai can đảm đón nhận, đón nhận để có được điều mình muốn. Bà đón nhận và bình tĩnh thưa lại rằng: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt 15, 27). Lời đáp trả của bà thật là hay, vừa hợp lý, vừa khiếm tốn, vừa vững lòng tin và đầy hy vọng. Nhờ đó, bà được Chúa đáp lời: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy” (Mt 15, 28). Quả thực, sự kiên trì kêu xin như thế chẳng những làm cho bà không ở yên mà khiến cả Chúa cũng không thể không động lòng. Giống như quan tòa, dù bất chính cũng không thể không hành động trước lời lải nhải của bà góa (Lc 18, 2). Giống như người bạn đến xin bạn mình giữa đêm hôm khuya khoắt (Lc 11, 5-8). Và tất cả những thái độ này được xem như là một cách cầu nguyện.

Ngày hôm nay, chúng ta muốn ăn những món ăn nhẹ, nhanh gọn và nó cũng được áp dụng trong việc xin ơn hay trong giờ cầu nguyện với Chúa. Và khi xin ơn mà không được liền, chúng ta dễ bỏ cầu nguyện, đi tìm hướng giải quyết khác. Chúng ta bắt đầu xa rời Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhớ lại lời Thiên Chúa hứa: “Trước khi chúng kêu Ta, chính Ta đã đáp lời, chúng còn đang nói thì Ta đã nghe lời rồi” (Is 65, 24). Bên cạnh đó, chúng ta cần xem lại ơn xin của mình là gì? Mục đích gì? Nếu là về ơn cứu độ của người xin và ơn cứu độ này là phải ước muốn sâu xa của người xin, thì Thiên Chúa luôn nhận lời. Chúng ta có nghĩ rằng sự trì hoãn của Chúa là một sự giúp đỡ, Ngài muốn làm cho đức tin của chúng ta mạnh lên. Ngài còn muốn chúng ta biết suy nghĩ và xin ơn điều gì là tốt hơn. Với bà Canaan, nếu Chúa Giêsu nhận lời cầu xin đầu tiên của bà thì cũng được thôi, nhưng nếu được liền như vậy thì liệu đức tin của bà có vững mạnh không hay cũng như bao người khác, đâu hoàn đó. Ngược lại, khi Ngài thử thách bà, Ngài làm cho lòng tin khiêm hạ của bà lớn thêm. Con gái của bà được khỏi bệnh và ân sủng cao cả nhất là bà trở thành một trong những tín hữu đầu tiên thuộc dân ngoại.

Ngày nay, tại sao có nhiều người ngoại giáo lại đi tìm Chúa hay những vị thánh của chúng ta để xin ơn. Và khi trở về, họ được như ý muốn. Ngược lại, có những người trong chúng ta xin ơn thì lại không được. Đó là một câu hỏi để cho chúng ta suy nghĩ lại đức tin và thái độ của chúng ta với Thiên Chúa.

Lạy Chúa, Chúa luôn nghe và ban ơn cần thiết cho chúng con nhưng chúng con dường như không còn kiên trì trong lời xin. Chúng con dường như đang đi vào cuộc sống “mì ăn liền”, cái gì cũng muốn nhanh gọn. Bởi vậy, xin Chúa hãy đánh thức chúng con và giúp chúng con biết kiên trì, chậm lại và chờ đợi. Nhờ đó, chúng con được hưởng những diễm phúc như bà Cannaan. Amen.

Về mục lục

.

SỨC MẠNH CỦA TÌNH YÊU

Bông hồng nhỏ

– Bố ơi! Hôm nay, mình có đi học không bố?

– Có chứ con. Con ăn nhanh lên rồi bố chở đi.

– Dạ! Thích quá!

Suốt hơn một tuần nay, ông bố chở con gái đi học nhưng chỉ ngồi ở ngoài. Vì là dân nhập cư nên việc xin cho con vào học lớp một gặp khó khăn. Nhà trường không nhận học sinh từ huyện khác đến. Người bố cứ kiên trì chở con đi học, kiên nhẫn ngồi ở ngoài lớp học ngay cạnh cửa sổ đến khi nào được nhập học mới thôi. Bố nhìn bảng thấy cô giáo dạy chữ gì thì đọc chữ ấy cho con viết. Sau ba tuần kiên trì như thế, cuối cùng cô giáo thấy cảm động quá bèn xin ban Giám hiệu nhận cô bé vào học. Quả thật tình thương con của người bố thật đẹp. Sự kiên trì và nhẫn nhục của người bố cũng thật đáng khen.

Hôm nay, Tin Mừng theo thánh sử Mátthêu cũng cho ta nhìn ngắm một tình mẫu tử rất đẹp. Người mẹ xứ Canaan có đứa con gái bị quỷ ám khổ sở lắm. Có người mẹ nào không đau lòng khi thấy tình trạng của con như thế. Bà nghe danh Đức Giêsu đã lâu nhưng hôm nay mới có dịp để được gặp Ngài. Bà là dân ngoại nhưng cũng đánh liều đến xin Thầy chữa cho con gái mình.

  1. Tuyên xưng đức tin

Bà tuyên xưng đức tin: “Lạy Thầy là con vua Đavit…”. Bà theo sau Thầy mà Thầy cũng chẳng để ý tới. Phải rồi, bà chỉ là dân ngoại nhưng tình thương con mãnh liệt hơn cả cái gia thế của bà. Bà biết rõ Thầy đã từng chữa bệnh cho bao nhiêu người mà không chịu cho người ta đền ơn. Một Rapbi như thế thì luôn có một trái tim nhân ái, chắc chắn sẽ động lòng thương mẹ con bà mà cứu chữa. Thế nhưng, dù bà van lơn hết lời mà Thầy Giêsu vẫn đi thẳng mà không hề ngoái lại để nhìn đến cái thân tội nghiệp của bà. Thân làm mẹ mà không chăm sóc tốt cho con, không lo cho nó khỏe mạnh được thì bà đau xót lắm. “Lạy Ngài là con vua Đavit, xin rủ lòng thương tôi. Đứa con gái của tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” (Mt 15, 22). Cứ thế, bà theo sau chân Thầy mà “lải nhải” hầu mong được Thầy nhìn đến.

  1. Đức tin bị thử thách

            Bà kêu xin mãi đến độ làm các môn đệ bực mình. Các ông la rầy bà, khó chịu quá đành phải đến xin Thầy: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!” (Mt, 15, 23b). Thầy nói với các môn đệ cũng là để trả lời bà: “Thầy chỉ được sai đến với con chiên lạc nhà Israel mà thôi.” (Mt 15, 24). Bà vẫn kiên nhẫn, tiến lại gần hơn mà thưa rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” (Mt 15, 25).

Đức Giêsu nhìn thẳng vào bà, điềm nhiên trả lời: “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con.” (Mt 15, 26). Đứng trước nỗi khổ đau của người khác nếu ta không có một trái tim nhạy cảm, ta dễ khó chịu, bực bội vì họ cứ kêu xin mãi, cứ làm phiền đến ta. Bị các môn đệ la rầy, bị Thầy Giêsu từ chối thẳng thừng nhưng bà vẫn kiên nhẫn, cúi xuống mà thưa rằng: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Thật ngạc nhiên và khâm phục thay tấm lòng của người mẹ. Tình thương con trong bà lớn hơn tất cả mọi cảm xúc khi đứng trước lời chỉ trích, khinh khi, miệt thị. Bà dẹp bỏ cái tôi của mình, hạ mình xuống, nhận mình chỉ là hàng “lũ chó con” để mong được “chút bánh vụn từ bàn chủ rơi xuống.” Bà vẫn tin vào quyền năng và tình thương của Thầy, chỉ cần  một chút tình thương của Thầy thôi, con bà sẽ được khỏi. Quả thật, nếu không có một tình yêu con mạnh mẽ, bà sẽ chẳng thể xóa mình đi như thế. Ta tự hỏi mình rằng: liệu ta có một tình yêu thật sự hay không? Tình yêu trong ta có mạnh mẽ đến độ tự nó có một sức mạnh thúc đẩy ta vượt lên trên cả hận thù, ghen ghét và dám đương đầu với thử thách không? Một người biết yêu nghĩa là phải biết hy sinh, xóa mình đi vì người khác, cũng không có nghĩa là đánh mất chính mình nhưng là biết mình, hiểu rằng tại sao ta lại làm như thế.

  1. Đức tin sinh hoa trái

Lòng tin của bà đã chinh phục Thầy, khiến Thầy phải thốt lên: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” ( Mt 15, 28). Tình yêu con của bà đã được đền đáp. Ngay lúc này, không có một người mẹ nào hạnh phúc hơn bà. Thầy Giêsu thương bà từ lúc nghe tiếng bà kêu xin từ đằng xa. Có lẽ, Thầy đã trông thấy điệu bộ tất tả, đầy lo lắng và phiền muộn của bà ngay từ lúc bà vừa bước ra đầu ngõ. Thầy chạnh lòng thương bà, thương cả con gái bà nhưng Thầy cũng muốn dùng dịp này để dạy dỗ các môn đệ thái độ kiên trì trong thử thách, vững tin và yêu đến cùng, dám hy sinh bản thân vì người mình yêu. Thầy cũng muốn cho các môn đệ biết thương cảm và cảm thông trước nỗi đau khổ của người khác.

Lạy Thầy Giêsu nhân lành! Tình yêu có một sức mạnh phi thường giúp con có thể đương đầu với thử thách. Một đức tin vững mạnh sẽ giúp con luôn thấy sự hiện diện của Chúa, nhận ra tình thương và quyền năng của Chúa. Xin cho con luôn biết bám theo Chúa trong tin yêu và phó thác. Có khi nào con nản chỉ muốn bỏ cuộc, xin Thầy gửi đến con hình ảnh của người mẹ xứ Canaan này để nhắc nhớ con. Amen.

Về mục lục

.

LÒNG TIN

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Sau cuộc tranh luận về chuyện “sạch” và “giơ” với những người Biệt phái, Đức Giêsu lui về Tyrô và Sidon, ngày nay thuộc miền nam Liban, đó là miền giáp ranh với đất của dân ngoại. Một phụ nữ Canaan đến gặp Chúa Giêsu. Người Do Thái và người Canaan có một mối thù truyền kiếp, hố sâu ngăn cách không thể vượt qua. Người Do Tháu coi thường, khinh khi những người dân ngoại như những người nhơ uế, như những con chó. Còn tệ hơn nữa bà thuộc dân tộc mà người Do Thái chính thống tránh xa hơn các dân tộc khác.

Tình mẫu tử, tình thương đối với người con bị quỷ ám, đau khổ. Khiến bà Canaan vượt qua mọi ngăn cách để đến với Đức Giêsu, để xin Ngài cứu chữa con mình: “Lạy Ngài là con vua Đavit, xin dủ lòng thương con, đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm” (Mt 15, 22).

Đức Giêsu làm thinh trước lời van xin của bà. Bà xứ Canaan cứ theo sau nài nỉ van xin làm cho các tông đồ bực bội. Đức Giêsu nhắc lại sứ mạng của Người được sai đến với “Chiên lạc nhà Israel mà thôi”. Đức Giêsu muốn nói với các tông đồ: Ơn cứu độ của Thiên Chúa phải đi theo con đường lịch sử và địa lý trước, sau đó mới tới toàn thể dân nước và lan rộng tới tận cùng thế giới. Nói cách khác, Ơn cứu độ bắt đầu là dân Israel.

Khiêm tốn, kiên trì, tin tưởng, người đàn bà Canaan một lần nữa sấp mình trước mặt Đức Giêsu và van xin: “Lạy Ngài, xin hãy cứu giúp”. Bà chỉ muốn một điều là con mình được chữa lành.

Đức Giêsu bấy giờ nói rằng: Người không thể lấy bánh của con cái, là của dân Do Thái, dân của lời hứa – để ném cho con chó nhỏ. Người đàn bà Canaan không buồn trước câu nói có vẻ khinh miệt, nhục mạ, bà còn dùng chính lời nói đáp lại Chúa Giêsu một cách tinh tế và khôn ngoan:

“Đúng vậy. Thưa Ngài, nhưng con chó con cũng được ăn những miếng bánh vụn rơi xuống từ bàn ăn của chủ”.

Bà ấy nhìn nhận rằng dân Israel theo lịch sử Thánh được ưu tiên, họ là chủ, còn bà là dân ngoại, là con chó con, bà chỉ cần được những “miếng bánh vụn” từ bàn ăn rơi xuống.

Đức tinmãnh liệt của bà đã làm cho Đức Giêsu phải ngỡ ngàng, khâm phục, chấp nhận lời van xin của bà, chữa lành con bà. Chúa Giêsu kết luận: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy”. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi bệnh. Đức Giêsu đã phá bỏ mọi loại trừ, mọi phân biệt đối xử, những hố sâu ngăn cách mọi người. Theo ý muốn cứu độ của Thiên Chúa, mọi người đều được kêu gọi đến với Chúa Giêsu để được cứu độ, được chữa lành, được hưởng hạnh phúc nước Trời, miễn là chúng ta tin vào Đức Giêsu như người đàn bà Canaan trong Tin mừng.

Đức tin kiên trung của người đàn bà Canaan đáng cho chúng ta khâm phục và bắt chước. Đức tin giúp ta vượt qua mọi hàng rào cản, thử thách, khó khăn để đến với Chúa. Đức tin có thể giúp ta làm được mọi sự, như lời Đức Giêsu đã nói: “Đức tin có thể chuyển núi rời non”. Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Do Thái đã nói: “Không có đức tin, thì không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa, vì ai đến gần Thiên Chúa, thì phải tin là có Thiên Chúa, và tin Người là Đấng ban phần thưởng cho những ai tìm kiếm Người” (Dt 11, 6).

Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta noi theo gương người đàn bà Canaan ngoại giáo này để có một đức tin chân thành, khiêm tốn và kiên trì trong cuộc sống đời thường khi gặp gian nan thử thách. Phải chọn lựa giữa giá trị của Tin mừng và lợi lộc trần gian. Tôi có dám đặt chân lý Tin mừng lên trên tất cả không? Thực vậy, kiên trung sống theo chân lý, bền đỗ bước đi trong niềm tin, người ta sẽ gặt hái được hoa trái tốt đẹp cho cuộc đời!

Về mục lục

.

ĐỨC TIN VỮNG MẠNH

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi 

Người Do Thái luôn tự hào, tự cao, tự mãn vì mình là dân của Thiên Chúa, được Ngài tuyển chọn, xứng đáng được Ngài cứu độ và đổ xuống muôn vàn ơn phúc, còn dân ngoại, dân Canaan thì không được bất cứ hồng ân nào của Thiên Chúa. Tuy nhiên, trong khung cảnh của Tin Mừng, của Lòng Thương Xót của Chúa, ơn huệ của Thiên Chúa được biểu lộ ra cách lạ lùng và phi thường.

Chúa Giêsu được sinh ra và lớn lên trong văn hóa Do Thái, Ngài hiểu rất rõ điều này, hiểu tường tận quan niệm của dân Do Thái. Thế nhưng, trong hoàn cảnh bi đát của hai mẹ con người Canaan,Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa không dừng lại nơi quan niệm ích kỷ của Người Do Thái. Thiên Chúa sai Con Một của Người là Đức Giêsu đến trân gian để cứu độ con người, cứu rỗi mọi người, chứ ơn cứu rỗi không dành riêng cho một dân tộc nào, một người nào vv…Bởi vì, “ Ơn cứu chuộc chứa chan nơi Đức Kitô “, ơn cứu độ trải rộng đến mọi người, miễn là con người biết mở rộng lòng để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa. Thánh Augustinô đã để lại một câu nói rất thời danh :” Thiên Chúa dựng nên con người không cần đến con người, nhưng cứu độ con người cần sự cộng tác của con người “. Chúa Giêsu đến trần gian để cứu chuộc con người, cứu độ loài người. Nên, trong cuộc sống, Ngài đã đến với mọi lớp người, Ngài đã đến với những người bệnh hoạn tật nguyền, đã đến với mọi những người nghèo khó, neo đơn, mồ côi, góa bụa.Ngài đã đến với những người tội lỗi, những kẻ thấp cổ bé họng vv…Chúa nhân từ với hết mọi người. Nhìn thấy lũ người đói khát, bơ vơ vất vưởng, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương xót, đã truyền lệnh cho các tông đồ : “ Hãy cho họ ăn “. Hôm nay, trước cảnh khốn khổ của hai mẹ con người Canaan, Chúa động lòng xót thương họ, Ngài hiểu họ, thương và quan tâm cứu vớt họ. Do đó, Chúa chạnh lòng xót thương hoàn cảnh bất hạnh, khổ sở của hai mẹ con, Ngài cứu vớt cô con gái của bà quê Canaan bằng một phép lạ, chỉ bằng lời nói quyền uy của Ngài :” Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy “. Vâng , lời nói của Chúa Giêsu vừa diễn tả quyền năng tuyệt đối của Chúa, vừa khen ngợi niềm tin mạnh mẽ và sự khiêm nhường thâm sâu của người phụ nữ ngoại giáo. 

Thật vậy, vì có niềm tin mạnh mẽ, đức tin thâm sâu, người phụ nữ Canaan mới vượt qua được sự soi mói, quan niệm ích kỷ của người Do Thái và câu nói của Đức Giêsu :” Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con “. Người Do Thái quan niệm người ngoại đều là chó má vv…Nhờ có đức tin tiềm ẩn sâu xa, nhờ có niềm tin son sắt, và lòng khiêm nhượng thẳm sâu, người phụ nữ Canaan mới vượt được tất cả để đến với Chúa Giêsu và kêu van Ngài giúp đỡ. Người phụ nữ ngoại giáo này tự nhận mình chỉ là “ chó con “ bơ vơ, yếu hèn, cần sự giúp đỡ, cứu chữa của Chúa Giêsu. Người phụ nữ Canaan đã rất khiêm nhường vì tin rằng Chúa Giêsu đầy uy quyền sẽ giải thoát và cứu vớt con của mình khỏi sự dữ, ma quỷ và bệnh hoạn.

Trước Thiên Chúa tối cao, đầy quyền phép uy nghi, con người phải hết sức khiêm tốn, hạ mình để xin ngài cứu vớt. Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót luôn chạnh lòng trắc ẩn, yêu thương, cứu vớt mọi người. Con người luôn phải có đức tin và lòng khiêm nhượng.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con và ban cho chúng con lòng khiêm nhường thâm sâu để chúng con luôn tín thác vào Ngài và tin tưởng tuyệt đối, phó thác vào sự quan phòng vô biên của Chúa. Amen. 

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Tại sao người phụ nữ Canaan không tự ái trước lời nói của Chúa Giêsu ?
2.Người Do Thái coi dân ngoại là người thế nào ?
3.Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến với ai ?
4.Ơn cứu độ là ơn nào ? và thuộc về ai ?
5.Đức tin có cần cho con người nhận ơn cứu độ không ?

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN_A

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

  “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” (Mt 15,28) 

Đọc câu chuyện hôm nay, tự nhiên tôi cảm thấy bị “cám dỗ” nhớ lại câu chuyện trong Bài Tin Mừng Chúa nhật tuần vừa qua. Anh chị em còn nhớ: Trong câu chuyện bài Tin Mừng tuần vừa qua, Phêrô bị Chúa quở là “Kẻ yếu lòng tin”. Thật là lạ. Một người theo Chúa suốt mấy năm trời và sau này lại được Chúa đặt làm rường cột Giáo Hội vậy mà bị Chúa chê là yếu lòng tin, còn người đàn bà xứ Canaan, là một người ngoại, một người không có đạo, Chúa lại khen là có một đức tin mạnh. Vậy thì qua câu chuyện chúng ta vừa nghe, chúng ta thử xem xem đâu là những yếu tố làm cho Đức tin mạnh. 

A. Khi nói tới Đức tin thì thường người ta không thể bỏ qua được khía cạnh phiêu lưu hay liều lĩnh của nó. Trong Đức tin thường bao giờ cũng có một chút phiêu lưu liều lĩnh nào đó.

  Đức Thánh Cha Gioan Phaolo I trong lá thư viết cho thi sĩ Trilussa có trích lại một câu chuyện của chính tác giả để cắt nghĩa cho ông này biết thế nào là Đức tin của người công giáo. Như chính ông  kể  thì một hôm ông bị lạc giữa một khu rừng ban đêm. Giữa lúc ông đang cố tìm đường để đi ra thì ông gặp một bà cụ già. Bà bị mù từ lâu. Bà sinh sống gần khu rừng này. Sau khi nghe người đàn ông kể về truyện đi lạc của ông, thì bà cụ già nói với ông: 

  – Nếu ông không biết đường, tôi sẽ đưa ông đi vì tôi thuộc đường. 

Ông ngạc nhiên đáp: 

– Tôi lấy làm lạ, bà không thấy gì cả thì làm sao bà có thể dẫn đường cho tôi? 

Bà lão ngắt lời, nắm lấy tay ông và ra lệnh: 

– Tiến bước!. 

  Và Ngài kết luận: “Đó là đức tin”. Ngài cắt nghĩa thêm: “Cuộc hành trình Đức tin là một cuộc hành trình đôi khi rất gian nan, nếu không nói là bi đát và bao giờ cũng mầu nhiệm”

  Trong câu chuyện mà Tin Mừng kể cho chúng ta, ta thấy người đàn bà xứ Canaan quả thật là một người đàn bà liều lĩnh. 

  * Trước hết, bà không phải là người Do thái mà lại dám đến với những người Do thái. Chúng ta biết là người Do thái rất khinh bỉ những người ngoại giáo. Họ coi những người ngoại giáo như những con chó. Chính Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay lúc đầu cũng muốn đứng trên cương vị của một người Do Thái để nói truyện với Bà. “Không nên lấy bánh của con cái mà cho con chó”(Mt 15,26) 

  * Tiếp theo là bà không phải chỉ gặp một mình Chúa Giêsu mà bên cạnh Chúa Giêsu còn cả một đoàn các tông đồ mà các tông đồ này thì bà dư biết là không có một chút cảm tình gì với bà. 

  * Thứ ba là bà dám đặt một hy vọng thật lớn vào Chúa Giêsu. Vấn đề bà xin với Chúa không phải là vấn đề nằm trong phạm vi của con người. Nó đã chuyển sang một lãnh vực khác: lãnh vực của ma quỉ. Qua cung cách bà đối thoại với Chúa ta thấy bà không có một chút nghi ngờ gì về quyền năng của Chúa và quả thực Chúa đã không để cho bà phải thất vọng. 

B. Thêm vào đó theo câu chuyện, chúng ta cũng còn thấy được một khía cạnh khác của một niềm tin mạnh. Đó là một đức tin có kinh qua thử thách. Châm ngôn Việt nam của chúng ta có một câu rất hay: “Lửa thử vàng, gian nan thử đức”.

  * Người đàn bà trong bài Tin Mừng hôm nay quả thực đã bị thử thách thật nặng nề. Nếu bà đã không kiên trì trong thử thách và can đảm chấp nhận cả những điều xem ra có vẻ xúc phạm tới phẩm giá cá nhân cũng như danh dự của cả dân tộc mình thì chắc là đã không có phép lạ. 

  * Bình thường mà nói thì thái độ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay thật là khó hiểu. Một Chúa Giêsu rất hiền lành và nhân từ mà lại quá lạnh nhạt với một người đàn bà đang ở trong một tình trạng thật đau thương như thế, xét theo cách cư xử thông thường của một con người thì quả là một việc thiếu tế nhị nếu không phải là một việc làm bất nhân. 

  * Ở đây chúng ta phải đặt vào địa vị của Chúa. Chúa muốn dùng biến cố này để dạy cho các tông đồ của Chúa một bài học để sau này khi Chúa về trời  lúc các Ngài phải tiếp tục công việc Phúc âm hóa các dân tộc thì các Ngài cũng phải có một cái nhìn giống như Chúa đối với anh em lương dân. Bài học đó là: Cả những người mà người Do thái coi là lương dân và khinh thường họ như những loài “chó má” cũng được Chúa thi ân giáng phúc miễn là họ có lòng tin vào Chúa. Chính vì lý do đó mà Chúa đã thử thách người đàn bà này thật nặng để qua đó các ông thấy được Đức tin của Bà. 

  – Lúc dầu khi mới đến với Chúa bà đã hết sức khiêm nhường. Phải nói là bà còn hết sức tế nhị nữa. Bằng chứng là bà đã phải học cách cư xử của người Do thái để khi đến gặp Chúa thì biết cách ăn nói với Chúa như một người Do thái. Vừa giáp mặt với Chúa, bà đã cúi đầu xin thưa: “Lạy Ngài là con Vua Đavit, xin thương xót tôi”(Mt 15,22) 

  – Và rồi sau đó thì chúng ta thấy. . . bà càng tha thiết bao nhiêu thì xem ra Chúa lại càng lạnh nhạt hững hờ bấy nhiêu. Thậm chí Chúa đã sử dụng cả đến những từ ngữ dường như muốn chọc tức lòng tự ái của Bà. Thế nhưng xem ra Chúa càng như cố ý chọc giận bà bao nhiêu thì bà lại càng khiêm nhường hơn bấy nhiêu. Và chính ở điểm này mà bà đã “thắng” Chúa. Chúa đã khen bà có một đức tin mạnh. 

C. Chúa khen bà cũng phải bởi chính chúng ta khi đọc lại câu chuyện này chúng ta cũng cảm thấy bà xứng đáng được khen như thế. Ngoài ra chúng ta còn cảm thấy phải vui với bà vì bà đã thành công trên con đường đi tìm sự giải phóng cho người con gái của bà. Chính đức tin của Bà đã cứu chữa người con đó. Chúa đã xác nhận thật rõ điều đó, để rồi đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải làm một điều gì đó cho anh em của chúng ta. 

Vâng! Chúng ta cũng có thể làm nên những phép lạ bằng đời sống Đức tin của chúng ta. 

Xin được kết thúc bằng lời cầu nguyện của Mẹ Têrêsa 

Lạy Chúa, 

xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin 

để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày, 

nơi khuôn mặt khốn khổ 

của tất cả những người bị thử thách: 

những kẻ đói không chỉ vì thiếu của ăn, 

nhưng vì thiếu Lời Chúa; 

những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước, 

nhưng còn vì thiếu sự bình an, sự thật, 

công bằng và tình thương; 

những kẻ vô gia cư, 

không chỉ tìm kiếm một mái nhà, 

nhưng còn tìm trái tim hiểu biết, yêu thương; những kẻ bệnh hoạn và hấp hối, 

không chỉ trong thân xác, 

nhưng cả trong tinh thần, 

bằng cách thực thi lời hy vọng này: 

“ Điều các con làm cho 

người bé mọn nhất trong anh em 

là các con làm cho chính Ta”.

Amen.

Về mục lục

.

KIÊN TÂM VỮNG CHÍ

Trầm Thiên Thu

Chúa Giêsu đã căn dặn: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:41; Mc 14:38). Với lời khuyên ngắn gọn nhưng Ngài đề cập hai vấn đề: Cầu Nguyện và Kiên Nhẫn. Cầu nguyện giúp chúng ta kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa, và làm cho chúng ta trở nên vĩ đại.

Kiên nhẫn là “loại cỏ” luôn phải đặt vào hành lý cuộc đời để đem theo mình, nó như “bùa hộ mệnh” cần thiết cho mọi người. Kiên tâm vững chí là tình trạng không dao động trước mọi hoàn cảnh hoặc bất cứ lời nói của ai. Cứ là chính mình, và cố gắng giữ vững như kiềng ba chân, chắc chắn điều tất yếu sẽ xảy ra: “Có chí thì nên”. Thật vậy, Saint Exupéry có lời khuyên hữu ích: “Đừng đánh mất kiên nhẫn, vì đó là chiếc chìa khóa cuối cùng mở được cửa”.

Sự kiên định và sự thận trọng có liên quan với nhau. Edward Bulwer Lytton (1803-1873, tiểu thuyết gia, thi sĩ, kịch tác gia và chính trị gia người Anh) cho biết: “Ai thận trọng quan sát và kiên quyết vững vàng sẽ tự nhiên dần dần trở thành bậc anh tài”. Người kiên định và thận trọng cũng là người có đủ can đảm để đương đầu với nghịch cảnh. Herbert Kaufman (1878-1947, văn sĩ và ký giả người Mỹ) nhận định: “Thất bại chỉ là thành công tạm thời bị trì hoãn, chừng nào lòng can đảm còn tôi luyện cho khát vọng. Thói quen kiên định chính là thói quen chiến thắng”.

Bất kỳ ai cũng cần kiên trì, và trong mọi tình huống hoặc công việc. Đối với cuộc sống đời thường đã vậy, đối với đời sống tâm linh càng cần lòng kiên nhẫn hơn bao giờ hết – đặc biệt là khi cầu nguyện, chứ không thể tùy hứng – vui thì cầu, chán thì thôi. Kiên tâm cầu nguyện không chỉ có giá trị đối với chính mình mà còn có hiệu quả đối với người khác. Gương Thánh Monica là tấm gương to lớn và sáng tỏ về việc cầu nguyện kiên định. Cách cầu nguyện của bà Rút thật tuyệt vời: “Xin Thiên Chúa giáng phúc cho người đã quan tâm đến con!” (Rút 2:19). Lời cầu đó như đóa hoa tươi nở, chắc chắn Thiên Chúa rất vui lòng. Cầu nguyện cũng không chỉ là xin (cho mình hoặc cho người khác) mà còn phải có tâm tình tạ ơn: “Tất cả những gì Thiên Chúa tạo dựng đều tốt, và không có gì phải loại bỏ, nếu biết dùng trong tâm tình tri ân cảm tạ (1 Tm 4:4).

Từ xa xưa, tiền nhân đã xác định: “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Kinh nghiệm sống đã chứng tỏ cho chúng ta thấy thật đúng như thế. Ngạn ngữ Phi châu có câu: “Biển lặng chẳng tạo nên thủy thủ tài ba”. Thật vậy, thử thách càng cao thì cơ hội càng lớn. Thời thế tạo anh hùng nhiều hơn là anh hùng tạo thời thế, như cụ Phan Bội Châu (1867-1940) đã đặt vấn đề:“Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?”. Nếu anh cũng như tôi, tôi cũng như chị, chẳng có gì hơn nhau thì cũng chẳng có gì đáng nói. Không có bột mà gột nên hồ, thế mới là người đáng cho thiên hạ phải ngưỡng mộ và tâm phục khẩu phục.

Cách so sánh của Garrison Keillor thật thú vị: “Cuộc sống cũng giống như cuộc chiến, nếu mọi thứ bỗng trở nên yên lặng thì có nghĩa là bạn đang thua trận”. Thế đấy, cuộc sống luôn đầy những thử thách, kinh nghiệm này ai cũng có thể tích lũy theo thời gian. Nếu không có thử thách, làm sao chúng ta có thể biết và nhận ra sức mạnh tuyệt vời vẫn đang tiềm ẩn trong chúng ta? Vả lại, cuộc sống bình lặng sẽ nhàm chán vì đơn điệu, rồi lại hóa điên rồ: “Nhàn cư vi bất thiện”. Chắc hẳn đã kinh nghiệm đường đời nên Toni Malliet mới nói: “Thử thách không là gì cả, nhưng cơ hội ẩn chứa đằng sau thử thách đó mới là điều đáng nói”.

Người ta thích chứng tỏ “bản lĩnh” của mình, nhưng loại “bản lĩnh” đó lại thường là rởm, dạng ngày nay gọi là “chảnh”. Không ai sợ người nói nhiều, người ta chỉ sợ người im lặng. Đó mới là bản lĩnh đích thực. Họ biết mà không nói, vì chưa đến lúc cần nói. Nếu bạn tỏ ra yếu mềm trước thử thách thì bạn thật là “bé nhỏ”, và sức lực của bạn thật là yếu đuối. Vì thế, chẳng lạ gì khi Chúa Giêsu luôn động viên chúng ta nên cố gắng “đi qua cửa hẹp” (Mt 7:13-14; Lc 13:24), tự tôi luyện trong gian khổ chứ không ung dung tự tại. Chắc chắn Ngài không “xúi dại”, và hẳn là mọi thử thách đều có giá trị cao, bởi vì chính những nỗi gian nan mới khiến người ta trưởng thành đúng nghĩa – gọi là “thành nhân”.

Thuở xưa, Thiên Chúa đã truyền dạy: “Hãy tuân giữ điều chính trực, thực hành điều công minh, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và đức công chính của Ta sắp được biểu lộ” (Is 56:1). Thời gian là của Chúa, chúng ta chỉ là những người quản lý, không thể biết thời gian còn dài hay ngắn. Do đó, sự tỉnh thức luôn cần thiết và cấp bách. Tỉnh thức là một dạng thử thách. Chính sự thử thách khiến chúng ta phải coi chừng để mà khéo léo (khôn ngoan) “canh me” hoặc “liệu cơm gắp mắm”.

Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Thiên Chúa chí nhân nhưng cũng tuyệt đối công bình và chính trực, không thiên vị bất kỳ ai: “Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cùng trở nên tôi tớ của Người, hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm, cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta, đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta. Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng, vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân” (Is 56:6-7). Đừng ảo tưởng! Dù là ai, từ giáo hoàng tới giáo dân, từ bề trên tới người giúp việc, từ tổng thống tới người ăn xin,… không ai có thể viện cớ gì mà tự biện hộ: NẾU, TẠI, VÌ, BỞI, GIẢ SỬ, GIÁ MÀ, PHẢI CHI,… Không bao giờ có “chuyện ví dụ” chi ráo trọi!

Nếu cảm thấy mình thiếu thốn gì thì cứ xin – xin nghiêm túc chứ không “xin xỏ”. Khi thấy người khác xin thì chúng ta phải cho, nếu có thể (vì phải có mới cho được). Vả lại, đó là sự công bằng. Ở đây là “xin–cho” trong tương quan yêu thương và bác ái, chứ không “xin–cho” theo kiểu “chế độ ban phát”. Tất cả chúng ta đều là những “người làm công” trong Vườn Nho của Chúa, chẳng ai có quyền gì mà “chảnh” với nhau. Ý thức được như vậy, chúng ta mới khả dĩ ước vọng như Thánh Vịnh gia: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 67:2-3). Ở đây sử dụng đại danh từ số nhiều chứ không số ít.

Chúng ta là phàm nhân, mà phàm nhân thì bất trác và bất túc, thế nên luôn có rất nhiều mong ước về nhiều thứ – cả tinh thần lẫn vật chất. Nhưng ước mong về tâm linh mới là ước mong quan trọng nhất: “Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh, Người cai trị muôn nước theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này. Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài” (Tv 67:5-6). Công lý và công bình phải được tôn trọng thì con người mới được tôn trọng đúng mức: Nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền.

Mỗi khi cầu chúc nhau điều gì thì phải thật lòng, không thể chỉ “xã giao”. Trong Thánh Lễ có nghi thức “chúc bình an”. Nghi thức là để tránh lộn xộn chứ đừng chỉ theo nghĩa đen của nghi thức. Tuy nhiên, một số người tỏ ra thụ động trong khi cúi chào để thể hiện việc chúc bình an cho nhau, có người chỉ “co cái cần cổ” chút xíu, nhìn vẻ rất miễn cưỡng, có người lại cứ đứng “ngay cu đơ”. Ngay cả chủ tế cũng có người thụ động, gật đầu theo nghi thức, hai cậu lễ sinh chả sơ múi gì! Trong tình hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta rất cần chân thành cầu chúc nhau: “Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta! Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người!” (Tv 67:8).

Với lòng chân thành, “lão gia” Phaolô bộc bạch: “Tôi xin ngỏ lời với anh em là những người gốc dân ngoại. Với tư cách là Tông Đồ các dân ngoại, tôi coi trọng chức vụ của tôi, mong sao nhờ vậy mà tôi làm cho anh em đồng bào tôi phải ganh tị, và tôi cứu được một số anh em đó. Thật vậy, nếu vì họ bị gạt ra một bên mà thế giới được hoà giải với Thiên Chúa thì việc họ được thâu nhận lại là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi sống?” (Rm 11:13-15). Ông cựu Biệt Phái Saolê muốn người ta “ganh tị” chứ không “ghen tị” hoặc “ghen ghét”, nhưng phải là ganh tị về điều thánh đức, muốn cứu các linh hồn, chứ không ganh tị về những thứ trần tục.

Đúng như thế, Thánh Phaolô đã xác quyết: “Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi thì Người không hề đổi ý” (Rm 11:29). Ông cho biết thêm rằng “trước kia chúng ta đã không vâng phục Thiên Chúa, nhưng nay chúng ta đã được thương xót, vì họ không vâng phục; họ cũng thế: nay họ không vâng phục Thiên Chúa, vì Người thương xót chúng ta, nhưng đó là để chính họ cũng được thương xót. Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục để thương xót mọi người” (Rm 11:30-32). Một triết lý đầy “chất” thần học và rất đậm “chất” của thức giả Phaolô.

Chúa Giêsu đã từng bị người ta ghen ghét vì cách nói của Ngài “chẳng giống ai” và luôn “gây sốc”. Một hôm, Đức Giêsu đang trên đường lui về miền Tia và Xi-đôn, có một người đàn bà Ca-na-an kêu lớn tiếng: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” (Mt 15:22). Thế nhưng Ngài làm ngơ, không đáp lại chi cả. Thế nhưng rồi Ngài lại xác định: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi” (Mt 15:24). Nghe nói mà “nóng gáy” ghê đi chứ!

Mặc dù bị từ chối thẳng thừng như vậy, người phụ nữ đáng thương ấy vẫn cố lấn đến để bái lạy Ngài và thưa: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” (Mt 15:25). Người gì mà lắm mồm, léo nhéo dai còn hơn đỉa đói! Thấy phụ nữ này coi bộ “ngon lành” dữ nghen, thế nên Ngài còn nói “sốc” hơn: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15:26). Mèn ơi, chịu gì nổi chứ! Ấy vậy mà bà ấy vẫn thản nhiên phân bua: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Bấy giờ Đức Giêsu nhìn bà ấy, vừa cười vừa âu yếm nói:“Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (Mt 15:28). Từ giờ đó, con gái bà được khỏi. [Cũng nên biết rằng chó là vật cưng, chứ chó không bị coi thường như ở Việt Nam. Văn hóa của họ không như văn hóa Việt Nam].

Và đó chỉ là cách Chúa Giêsu “thử thách” để phụ nữ kia chứng tỏ niềm tin của mình. Tuy nhiên, Ngài thử thách không phải là để “dò tìm” như chúng ta, vì Ngài đã biết rõ cõi lòng ai sâu hay rộng thế nào, trái tim người nào cứng hay mềm, nghĩa là Ngài không cần thử thách vì Ngài là Thiên Chúa, Ngài thấu suốt mọi sự (x. Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6). Ngài muốn làm như vậy để cho mọi người biết chân giá trị của nỗi gian truân, của đức tin, và của lòng kiên nhẫn, đồng thời Ngài cũng tạo “công trạng” cho chính người chịu đựng sự thử thách.

Và như thế thì thử thách và đau khổ cũng là hồng ân, chứ không chỉ những gì “xuôi chèo mát mái” như chúng ta tưởng. Tất nhiên chúng ta cũng phải biết tạ ơn về loại hồng ân “khác người” như vậy. Vâng, “khác người” chứ không “chết người” đâu!

Lạy Thiên Chúa nhân lành và giàu lòng thương xót, con chỉ là một con chó nhỏ bé nhất, yếu đuối nhất và nhơ nhớp nhất, xin thương xót dù con hoàn toàn bất xứng. Dẫu con là kẻ vô duyên và bất tài, nhưng con luôn khao khát nên giống Ngài, ngày đêm tín thác vào Ngài qua từng nhịp thở của đời con, xin cho con được hưởng những vụn-bánh-yêu-thương thừa rơi xuống từ Bàn Tiệc Thương Xót của Ngài. Con chân thành tha thiết cầu xin Cha, nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng nhân. Amen.

Về mục lục

.

ĐỨC TIN CẦN ĐƯỢC TÔI LUYỆN QUA THỬ THÁCH

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Lời tiên báo của tiên tri Giêrêmia thời Cựu Ước: “Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân” (Gr 1,5) và niềm hy vọng mà muôn dân đặt nơi danh Người (x. Mt 12, 21), hôm nay đã được ứng nghiệm qua sự hiện diện của Đức Giêsu.    

Bài Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến ý định cứu độ phổ quát của Đức Giêsu, tức là ơn cứu độ của Ngài không chỉ dành riêng cho dân Israel, mà là cho cả dân ngoại qua hình ảnh người đàn bà góa thành Canaan. Mặt khác, qua sự xuất hiện của bà và niềm tin mà bà đặt nơi Đức Giêsu, Ngài đã khen ngợi đức tin của bà, đồng thời mời gọi chúng ta noi gương bà, vượt qua mọi thử thách để tiến bước trên hành trình theo Chúa.

Trước tiên, chúng ta cùng tìm hiểu về ơn cứu độ phổ quát và đức tin qua hình ảnh người phụ nữ thành Canaan.

  1. Ơn cứu độ phổ quát của Đức Giêsu và niềm tin nơi người đàn bà dân ngoại

Khi nói về sứ mạng truyền giáo, chúng ta sẽ khởi đi từ lệnh truyền của Đức Giêsu trước khi về trời: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28, 18-19); và khi đề cập đến tính phổ quát của ơn cứu độ, chúng ta thấy Đức Giêsu nói: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15). Rồi trong hành trình loan báo Tin Mừng của chính Đức Giêsu, Ngài đã nhiều lần đích thân đến với dân ngoại như: câu chuyện người đàn bà Samaria bên bờ giếng Giacóp; hay như hôm nay, Ngài tiếp xúc với người đàn bà thành Canaan.

Như vậy, chúng ta hiểu: Thiên Chúa không muốn dành riêng ơn cứu độ cho một dân tộc, một thế hệ, hay một thành phần nào, mà là dành cho hết mọi người. Vì thế, ơn cứu độ được lan tỏa khắp nơi không phân biệt màu da, ngôn ngữ, hay chức vị…

Trình thuật Tin Mừng hôm nay cho thấy, Đức Giêsu rời khỏi nơi mà các Pharisêu và mấy kinh sư chất vấn Ngài về việc các môn đệ không giữ truyền thống của tiền nhân khi ăn uống. Nhưng họ đã bị Đức Giêsu khiểm trách vì sự giả hình của họ. Sau đó, Ngài và các môn đệ đi sang thành Tia và Xiđôn.

Dân ở hai vùng này bị coi là dân ngoại. Vào thời điểm đó, dân ngoại bị coi là một lớp người bị Thiên Chúa nguyền rủa và không được cứu độ. Họ bị khinh miệt đến nỗi trong lối suy nghĩ của người Dothái, họ là “lũ chó”. Đây là ngôn ngữ mang tính miệt thị.

Tại sao vậy? Thưa, vì từ xa xưa, người ta vẫn hiểu dân Dothái là dân riêng, được Thiên Chúa ưu tuyển. Các vùng phụ cận khác không thuộc về lãnh thổ Dothái thì đều bị khinh miệt, coi thường và nguyền rủa.

Khi Đức Giêsu dùng từ “chó con” để ám chỉ về người đàn bà, Ngài không có ý miệt thị, nhưng mục đích của Ngài là xem lòng tin của bà như thế nào! Ngài đã thử thách bà tận căn khi nói: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15, 26). Đây là thử thách mang tính quyết định về lòng khiêm nhường.

Nhưng người đàn bà đã không xấu hổ và tủi nhục, ngược lại, bà đã can đảm, mạnh dạn để tuyên xưng niềm tin của mình vào Thiên Chúa qua trung gian Đức Giêsu. Vì thế, bà đã thưa: “Lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt 15, 27)

Dù là bị khước từ, miệt thị, nhưng với tình yêu và lòng tin vào quyền năng của Thiên Chúa qua Đức Giêsu, bà đã hoàn toàn khiêm tốn chấp nhận tất cả, kể cả sự ưu tiên cho dân Do Thái và sự miệt thị của dân Do Thái với bà. Chính vì vậy, bà đã được Đức Giêsu khen ngợi và ra tay cứu giúp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật” và hẳn nhiên là Chúa phán: “Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (x. Mt 15, 28).

Qua biến cố này, chúng ta thấy: trật tự cứu rỗi được tôn trọng, nhưng  khi Đức Giêsu đến, Ngài cũng sẽ gây dựng một Israel mới từ những kẻ có lòng tin như vậy. Vì ơn cứu rỗi phải đến với mọi dân trên toàn cõi trái đất.

  1. Khám phá sứ điệp Lời Chúa

Sứ Điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học về sự kiên trì khi gặp thử thách, đồng thời trung thành trong đức tin thì sẽ được Thiên Chúa ân thưởng.

Thật vậy, trong cuộc sống, rất nhiều khi ta bị thất bại. Sự thất bại này có thể đến từ sự thiếu hiểu biết của chúng ta, khiến công việc trở nên thất bại. Nhưng nhiều khi lại đến từ chính Thiên Chúa. Tức là Thiên Chúa để cho chúng ta thất bại và rơi vào tình trạng cùng khốn. Đôi khi những thử thách đó lên đến mức khủng khiếp. Câu chuyện của ông Gióp, tiên tri Hôsê hay của người đàn bà Canaan là một thí dụ.

Tuy nhiên, như người đàn bà trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, dù bị thử thách, bà vẫn nhận ra tình thương của Thiên Chúa với mình, mặc dù bà không xứng.

Thật vậy, Thiên Chúa như người cha, Ngài không bao giờ nỡ để con cái của mình phải đi vào ngõ cụt. Nhưng Ngài muốn chúng ta được sống và sống dồi dào. Tuy nhiên, để được hưởng trọn niềm sung mãn, hạnh phúc… thì đôi khi cần phải có thử thách từ phía người ban ơn và sự cảm nghiệm của người lãnh nhận. Có thế thì món quà của người trao ban mới trở nên cao trọng và người nhận mới trân quý.

Trong đời sống đức tin cũng vậy. Nếu không có thử thách, thì đức tin ấy vẫn chỉ là đức tin trong “giấy khai sinh”, hay nơi “sổ Rửa tội” mà thôi! Nếu quả như vậy, thử hỏi, chúng ta đang sống trong một xã hội với những tiến bộ vượt trội và rất nhiều cạm bẫy, thì liệu đức tin non nớt kia có đủ vững để đối diện với những thực tại của cuộc sống không? Thưa, hẳn là không.

Vì thế, trong đời sống siêu nhiên, đôi khi Chúa phải thử thách để đức tin của chúng ta được lớn lên ngay trong đau khổ, hầu chúng ta mới can đảm, trung thành với niềm tin của mình ngay trong một thế giới đang tìm mọi cách lôi kéo chúng ta xa dần Thiên Chúa và niềm hy vọng của chúng ta đặt để nơi Ngài.

  1. Sống sứ điệp Lời Chúa

Sống sứ điệp Lời Chúa là chúng ta sống định luật: vĩnh biệt, chia ly:

Vĩnh biệt – chia ly sự nghi ngờ, kiêu ngạo, tự phụ để kết duyên với lòng mến, cậy trông, trung thành, kiên trì, tín thác nơi Chúa.

Vĩnh biệt – chia ly sự hiếu tri thuần túy, tức là chỉ dùng lý trí để suy luận những chân lý đức tin, thay cho lòng khiêm tốn trong tâm tình của người biết lắng nghe và mau mắn thi hành.

Vĩnh biệt – chia ly sự tự tin quá đáng vào bản thân, đến nỗi ân sủng của Thiên Chúa đến với ta không thể thẩm thấu vào trong tâm hồn được vì chúng ta đã dùng cái “tôi” ích kỷ đậy lại.

Vĩnh biệt – chia ly lối sống đạo hình thức bên ngoài, vụ luật, cứng ngắc để thay vào đó là sống đạo của niềm tin, yêu thương và cảm thông.

Vĩnh biệt – chia ly cung cách coi thường, miệt thị những người kém may mắn, không cùng niềm tin, để thay vào đó là lời cám ơn Thiên Chúa, vì Ngài yêu thương chúng ta vô bờ, đến lượt mình cũng phải sống sự yêu thương như Chúa.

Vĩnh biệt – chia ly thái độ “đèn nhà ai nấy rạng”, chỉ biết sống cho riêng mình, để thay vào đó là tinh thần liên đới và khao khát cho mọi người cũng được hạnh phúc như mình.

Cuối cùng, vĩnh biệt – chia ly sự hờ hững, nông nổi, thiếu sự kiên trì, và thất trung, thành một con người kiên tâm, vượt lên trên những thử thách để đạt được mục đích cuối cùng là Nước Trời.

Như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta luôn đặt niềm tin tưởng vào Chúa, vì: trong mọi gian nan thử thách, chúng ta luôn tin tưởng rằng Chúa luôn ở bên chúng ta để nâng đỡ, khích lệ mặc dầu chúng ta không trông thấy.  Đồng thời, khi đã được Thiên Chúa yêu thương, hẳn chúng ta cũng phải yêu thương mọi người như Chúa đã yêu thương mình.

Mong sao, trong mọi cảnh huống của cuộc đời, chúng ta luôn hướng về Chúa như người mẹ hiền ấp ủ con thơ. Nếu thử thách có đến thì cũng như là người mẹ hiền đang tập cho con bước đi để vững bước tiến vào đời trong tương lai.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con có thể kiên trung trong mọi thử thách. Amen.

Về mục lục

.

BÀ MUỐN SAO THÌ SẼ ĐƯỢC VẬY

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I. LẮNG NGHE LỜI CHỨA TRONG TIN MỪNG MÁT-THÊU (Mt 15, 21-28):

21 Ra khỏi đó, Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đôn, 22 thì này có một người đàn bà Ca-na-an, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” 23 Nhưng Người không đáp lại một lời.

24 Người đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.” 25 Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” 26 Người đáp: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” 27 Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” 28 Bấy giờ Đức Giê-su đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.

II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA

2.1 Có một đề tài khá thú vị cho những người muốn nghiên cứu Phúc Âm. Đó là đề tài những người phụ nữ trong cuộc đời trần thế của Đức Giê-su. Ngoài Đức Ma-ri-a là thân mẫu của Người, còn có một số phụ nữ khác đã có mặt trên các nẻo đường của Đức Giê-su: Có những người đi theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê đến Giê-ru-sa-lem, thậm chí đến tận đồi Sọ và giúp đỡ Người và các môn đệ về tài chánh. Có những người đã được Đức Giê-su chữa bệnh và trừ quỷ (như Ma-ri-a Mag-da-la và người bị bệnh băng huyết). Có những người Đức Giê-su gặp trên đường như người phụ nữ Sa-ma-ri (Ga 4,1-42) và người phụ nữ Ca-na-an (Mt 15,21-28).

2.2 Khi đọc câu chuyện người phụ nữ Ca-na-an đến xin Đức Giê-su chữa lành cho đứa con gái bị quỷ ám của bà, nhiểu người đã bị sốc với những lời mà Đức Giê-su đã nói với bà: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”  Nhưng khi nghe người phụ nữ Ca-na-an đáp lại Đức Giê-su thì độc giả vừa hài lòng, vừa ngưỡng mộ: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Những lời đó và thái độ của người phụ nữ Ca-na-an đã chinh phục được trái tìm của Đức Giê-su khiến Người phải thốt lên: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.”

2.3 “Lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Con gái bà ấy đã được khỏi, nhờ lòng tin mạnh mẽ của người mẹ và quyền năng của Đức Giê-su. Quyền năng của Đức Giê-su (hay của Thiên Chúa) thì lúc nào cũng có sẳn đó, nhưng lòng tin của người đối tác thì không phải lúc nào cũng có đó. Mà không có lòng tin thì không có phép lạ, vì lòng tin là điều kiện cần thiết để phép lạ được thực hiện. Chính Phúc âm đã quả quyết như thế: “Người không làm nhiều phép lạ tại đò (Na-da-rét), vì họ không tin” (Mt 13,58).  

III. THỰC THI LỜI CHÚA

3.1 Trong cuộc sống hơn 70 năm tôi cũng đã từng chứng kiến phép lạ do Thiên Chúa thực hiện cho tôi và cho những người sống chung quanh tôi. Tôi đã chết hụt vài ba lần nhờ sự che chở của Thiên Chúa. Tôi đã không bị tù tội nhờ lòng thương của Thiên Chúa. Tôi không bị đói khổ và có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, việc phục vụ nhờ sự quan phòng của Thiên Chúa,

3.2 Nhưng cũng có nhiều phép lạ đã không xẩy ra do tôi còn thiếu lòng tin và cầu xin chưa đủ. Có nhiều điều tôi xin cho gia đình, bạn bè, các học viên, giáo xứ, Giáo hội Việt Nam mà Chúa chưa ban, chỉ vì tôi chưa tin cho đủ, chưa tin cho mạnh.

IV CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA

Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, con hết sức ngưỡng mộ người phụ nữ Ca-na-an. Bà ấy tin mạnh thật. Con cũng muốn có lòng tin mạnh mẽ như thế nhưng con chưa được như bà ấy. Dù lòng tin của con còn yếu kém, con cũng đã được Chúa ban nhiều ơn phần hồn phấn xác. Con xin tạ ơn Chúa. Con tha thiết xin Chúa ban cho con một đức tin mạnh mẽ, một đức cậy vững vàng và một đức mến sắt son. Con cầu xin Chúa là Thiên Chúa, Đấng hằng sống hằng trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn muôn đời. Amen. 

Về mục lục

.

LẠY NGÀI, XIN CỨU GIÚP TÔI

Fx Đỗ Công Minh 

        Trên các trang mạng Công Giáo những ngày vừa qua tràn ngập các bài viết, bản tin, Clip video trên Facebook, các website tường thuật liên tiếp 3 ngày liền đại hội Thánh Mẫu La Vang lần thứ 31. Các bản tin cho biết có hàng chục ngàn người khắp nơi trên cả nước về dự với chủ đề :”Sống tinh thần Sứ điệp FATIMA”, nhân năm kỷ niệm lần thứ 100 Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. Các bản tin tường thuật cho thấy những người giáo dân ở  miền Đông Nam bộ, miền Cửu Long vượt hàng trăm cây số ra dự. Đông đảo giáo dân ở miền Trung, ở miền Bắc xa xôi như Lạng Sơn, Phú Thọ, Nam Định, Bắc Ninh, Thái Bình, Hà Nội. . . cũng vào. Nhiều người trong số đó là những người ngọai, chưa tin nhận Thiên Chúa, chưa hề biết về Giáo hội Công Giáo. Họ nghe biết về Đại hội La Vang, đã bỏ mọi công việc riêng để cùng hành hương với những người tín hữu, cầu nguyện với Mẹ Maria, xin những ơn cần thiết. Không ít người trong số họ đã được Mẹ chuyển cầu lên Chúa, họ đựoc Chúa nhận lời và được những ơn lạ. Phải chăng như lời Đức Kitô trong Tin Mừng hôm nay nói với người phụ nữ Canaan:” Này bà, lòng tin của bà mạnh thật ! Bà muốn thế nào sẽ được như vậy “.

Bài Tin Mừng hôm nay Thánh Matthêu tường thuật về việc Chúa Giêsu trên bước đường rao giảng, Ngài lui về miền Tia và Xiđôn.  Đây là miền mà những người cư ngụ hầu hết không theo đạo Do Thái, quen gọi là người ngọai. Người phụ nữ xứ Canaan, dù là người ngọai, nhưng hẳn bà đã nghe nói về Đức Giêsu và ít nhiều bà tôn nhận Chúa là một vị ngôn sứ, nên đã lớn tiếng kêu cầu: “ Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỉ ám khổ sở lắm! “. Tiếng kêu thảm thiết của bà chắc lớn lắm, khiến các môn đệ cũng cảm thấy phiền hà. Các ông cho rằng Chúa không nên đến với người ngọai, nên các ông đã can ngăn Người:”Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi ! “. Thái độ đó của các ông xem ra cũng bình thường, các ông không muốn Thầy mình bị quấy rầy về điều mà các ông cho rằng cũng hợp với ý Thầy. Nhưng để trả lời các ông, những người học trò “bảo thủ “,” cục bộ”; đồng thời còn là để thử thách niềm tin của người phụ nữ dân ngọai. Đức Giêsu đã lên tiếng: “Thầy chỉ được sai đến với những chiên lạc của nhà Israel mà thôi”. Những tưởng nghe điều đó người phụ nữ sẽ im tiếng và bỏ đi , nhưng bà đã chạy đến trước mặt Người bái lạy và lớn tiếng :”Lạy Ngài xin cứu giúp tôi “. Thử thách bước vào cao trào khi Đức Giêsu  tỏ ra vô tình: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con “. Một sự xúc phạm chăng? Thực ra là Người muốn đối thọai với bà, thử xem bà kiên trì đến mức nào. Không ngờ lòng tin của bà mạnh tới mức nhận ra thân phận hèn kém của mình, nhưng vẫn tin rằng Chúa sẽ lắng nghe và chấp nhận cho lời van xin :” Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống “. Một lời đối đáp chân thành, một lời tuyên xưng gây rúng động. Đức Giêsu   đã phải thốt lên :” Này bà ! Lòng tin của bà mạnh thật. . .  ”.

Trong cuộc sống hôm nay, biết bao lần con chứng kiến việc Chúa làm những việc lạ lùng, cho những người chưa nhận biết Chúa. Lẽ ra trong những tình huống ấy con phải nhìn lại đời sống đạo của mình, nhìn lại đức tin của mình. Thế nhưng nhiều khi con lại ngã lòng, thậm chí phiền trách Chúa là không ưu ái con, là con cái Chúa từ thuở lọt lòng mẹ. Mỗi khi cầu nguyện, con có tỏ ra khiêm tốn nhìn nhận mình là người tội lỗi, không xứng đáng trước mặt Chúa? hay tự hào kể công đã giữ đạo nhiều chục năm, hơn bao người khác. Làm biết bao việc đạo đức, góp công góp của vào giáo họ, giáo xứ, tham gia vào nhiều đoàn thể. . .hy sinh thời gian, công sức cho Chúa.  Con có kiên trì như người phụ nữ Canaan xưa? Chúa thử thách lòng tin của con, liệu con có vững vàng biểu thị niềm tin ấy mãnh liệt nơi Chúa?

       Lạy Chúa,

Xin cho con luôn biết nhìn lại mình, nhìn lại đời sống đạo của con. Với biết bao lầm lỗi, thiếu sót, lòng tin  của con thật sự còn non yếu. Nếu trong khi kêu cầu lên Chúa, con  biết khiêm tốn, kiên trì như người phụ nữ xứ Canaan, lắng nghe Lời Chúa, đạt niềm tín thác, cậy trông nơi Người. Con tin rằng, con sẽ được Chúa nhận lời, như Người đã nhận lời của biết bao người tin vào Chúa. AMEN.

Về mục lục

.

TẤT CẢ VÌ YÊU

Lm. Jos. DĐH.

Xã hội thời nào cũng có những người đáng nể phục: khởi đi từ khả năng hiểu biết, thành công trong lãnh vực kinh tế xã hội, vẻ vang trong ơn gọi gia đình hạnh phúc. Chẳng cần thống kê, đong đo mức độ hoạt động nhiều hay ít, mọi người dù không công khai thì cũng âm thầm đang mưu ích cho gia đình, người thân, đang góp công sức cho đất nước phồn vinh. Tốt danh hơn lành áo ; trẻ vui nhà, già vui chùa, dân gian từ xa xưa vẫn đề cao danh phận, không ai vô duyên vô dụng dù là trẻ thơ hay già lão. Thực ra, thời gian chính là cơ hội để từng người sống và chia sẻ “số vốn” mà ta đang có, với tấm lòng quảng đại phục vụ công ích, sẵn sàng bác ái vì tình yêu tha nhân.

Tất cả vì yêu là tiếng chuông thức tỉnh những ai chưa đủ kiên nhẫn trong tư cách là nhà giáo dục, tất cả vì yêu cũng là lời an ủi vỗ về các bậc làm cha mẹ, hãy thật bình tĩnh. Đừng quên mình được sinh ra và lớn khôn trong tình yêu, đừng khi nào vì sĩ diện mà làm khổ mẹ cha, đừng vì giầu sang mà vô tâm vô tình với người anh chị em mình. Đừng quên rằng: đời này chỉ là cõi tạm mà thôi, giầu sang nghèo khó, chết rồi cũng như nhau. Nếu không phải vì yêu, chẳng ai phải cầu cạnh ai làm gì, không lẽ lại lì lợm đến độ bị xúc phạm, bị xua đuổi mà người phụ nữ Canaan không hay biết ? Tất cả vì yêu nên người mẹ dù có bị khinh thường, bị coi là “mặt dầy”, bị xếp ngang hàng với “chó ki”, người mẹ ấy không hề mất kiên nhẫn !

Tình mẹ thương con, sửa dạy khi con sai sót, khích lệ khen thưởng khi thấy con ốm đau, cần chữa trị ; vì đó là yêu, là trách nhiệm, không phải hoàn toàn do “cố đấm ăn xôi”. Thiên Chúa yêu tất cả, Người lắng nghe kẻ thánh thiện, Người cũng không ngoảnh mặt làm ngơ trước kẻ tội lỗi sám hối, vì yêu thật và muốn con người được hạnh phúc thật, nên Thiên Chúa cần ta bày tỏ một tình yêu chân thật. Nếu chỉ hiểu theo nghĩa đen, đúng là Đức Giêsu đã làm thinh, đã cho thấy có sự phân biệt Do-thái giáo và ngoại giáo, đã hất hủi tới mức: “không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó”. Nếu không phải vì yêu, Đức Giêsu sẽ không quan tâm đến lời kêu xin của người Canaan, không phải giằng co với chị ta làm chi. Nếu không vì yêu, người phụ nữ ngoại giáo kia đúng là chỉ kêu xin Thầy Giêsu trên môi miệng: “lạy Ngài là Con Vua Đavít xin thương xót tôi”.

Xã hội luôn kêu cầu mọi người hãy tin: “lương y như từ mẫu”, Hải Thưởng Lãn Ông Lê Hữu Trác, ông tổ ngành y đã từng nói: “không có nghề nào nhân đạo bằng nghề cứu người, …”. Đức Giêsu vì yêu, Ngài đến trần gian với chủ trương chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền. Tất cả vì yêu, vì phần rỗi các linh hồn, vì ơn cứu độ, vị trí của Ngài không chỉ dừng lại là “lương y”, người ngoại giáo còn biết gọi Ngài: “lạy Thầy Giêsu Con Vua Đavít, xin thương xót tôi”. Vì là Con Vua Đavít Ngài đến kêu gọi người tội lỗi sám hối, chữa lành mọi thứ bệnh, Ngài không thể chọn lựa đối tượng để cứu chữa, Ngài cần mỗi người thể hiện niềm tin Ngài là Con Thiên Chúa bằng việc làm.

Nếu chỉ lập lại một cách máy móc: lạy Thầy là Con Vua Đavít, lạy Thầy Giêsu xin thương xót con, xin thương xót gia đình Con, hẳn không khó tí nào, già trẻ, giầu nghèo, chúng ta đều kêu xin dễ dàng. Ở đời khi bị từ chối cho vay mượn đã là một xúc phạm, bị phủi tay làm ngơ, không được giúp đỡ chia sẻ sự mất mát, thất bại, với hoàn cảnh đáng thương của mình đã là khổ lắm rồi. Trong Đức Giêsu, tất cả vì yêu chính là câu hỏi và là câu trả lời: “Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel”. “Này bà, bà có lòng mạnh tin, bà muốn sao thì được vậy”. Khi công bố niềm tin mạnh mẽ của người phụ nữ Canan, hẳn cũng là lời nhắc nhớ biết bao người mắc bệnh nan y, họ từng gặp Thầy thuốc Giêsu, họ đang ở sát gần Đức Giêsu, họ đúng là con cháu Abraham, vì sao họ chưa kêu xin Thầy Gisêsu chữa trị ?

Kinh nghiệm người xưa cho rằng: đừng bao giờ níu kéo một ai cả, đơn giản khi người ta muốn ở lại thì có đuổi thế nào cũng không đi ; nếu người ta muốn đi, có giữ thế nào họ cũng không ở lại. Người phụ nữ Canaan hôm xưa, phải chăng vì các lương y tài giỏi bó tay, hết thuốc chữa, hay vì phản ứng tự nhiên, có bệnh vái tứ phương ? Vâng, tất cả vì yêu, vì tin vào đức ái cao dầy của Thầy Giêsu, người phụ nữ đó không kêu xin Thầy thương xót cách máy móc, không lý sự để ăn thua đạo lý làm người với Đức Giêsu. Đúng, chị ta đã được thuyết phục bởi Thầy Giêsu khai mở niềm tin và chị biết hành động bằng đức khiêm tốn yêu thương.

Vì yêu, Thầy Giêsu đã minh chứng cho các môn đệ, cho chúng ta hôm nay, cảm nghiệm rõ hơn thế nào là công bằng tình yêu thương, vì yêu, vì tin, tất cả đều trở nên Con Thiên Chúa. Đức Giêsu là Thầy thuốc quảng đại vô song, Ngài thương thật và không hề có ý thương hại, Ngài dẫn dắt người phụ nữ ngoại giáo từ “cái biết” lý thuyết đến với hành động của đức tin. Ngài biến đổi kiểu cách lý sự của người phụ nữ Canaan trở nên tâm phục khẩu phục, biết rõ và xác tín hơn Thiên Chúa không thiên vị ai, Ngài luôn rộng rãi thi ân với những ai biết sống niềm tin yêu. Phép lạ chữa trị thể xác tâm hồn sẽ không xảy ra, nếu mỗi người chúng ta không phải vì yêu, vì tin Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ. Amen.

Về mục lục

.

MỘT ĐỨC TIN TUYỆT VỜI

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Thiên Chúa muốn chúng ta hạnh phúc, Người mang hạnh phúc đến cho chúng ta, người đàn bà xứ Canaan hiểu điều đó đã tìm đến Chúa ! Bà muốn Chúa Giêsu nhìn đến nhu cầu bà xin cho con gái bà. Bà muốn Thiên Chúa thể hiện lòng nhân lành đối với con bà, lời van xin của bà mới đẹp làm sao : “Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi !” (Mt 15, 22) Bà coi Chúa Giêsu  là Đấng Messia.

Sự thinh lặng của Chúa Giêsu

Bà xin, Chúa không trả lời, có phải bà bị miệt thị không? Chắc chắn là thế, nhưng bà cứ xin, Chúa phải trả lời : “Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel” (Mt 15, 24). Câu này thể hiện sự vâng phục của Chúa Giêsu được Cha sai đến cùng dân Israël, và mạc khải cho dân biết về lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với họ. Lời cầu xin của bà xứ Canaan khó có thế chấp nhận, nhưng bản chất và tình thương của một người mẹ bảo bà cứ xin.

Chúng ta biết, giữa người Do thái và dân ngoại có một bức tường ngăn cách, thánh Phaolô gọi đó là “bức tường hận thù” (x. Eph 2, 14). Chính sự ngăn cách này mà Chúa Giêsu cũng bảo môn đệ đừng đi theo đường của dân ngoại, cầu nguyện “đừng có lải nhải như dân ngoại” (Mt 6, 7). Và nếu ai đó muốn nhục mạ người nào trong dân Israel, thì hãy “đối xứ với họ như dân ngoại ” (x. Mt 18, 17), nên không có lạ gì khi môn đệ ngạc nhiên thấy Thầy tiếp chuyện với người phụ nữ xứ Samaria dân ngoại. Thế mới biết người đàn bà xứ Canaan can đảm biết chừng nào, bà đã vượt qua tất cả rào cản về tôn giáo, địa lý, niềm tin, nhất là về thân phận phụ nữ của chính bà. Vì ngay người nữ Do thái còn không được nhắc đến trong lời cầu nguyện, lời chứng của họ không có giá trị pháp lý, không giải quyết được gì ở nơi công cộng, huống hồ là đàn bà dân ngoại.

Chúa Giêsu không đề cập đến những vấn đề trên. Tuy nhiên, bà này vượt qua ranh giới dân ngoại, kêu xin một người Do thái với lòng kính trọng : “Lạy Ngài là con Vua Đavít” (Mt 15, 22). Có lẽ bà đã nghe nói nhiều về Chúa Giêsu, trong lòng bà có điều không biết rõ, phải chăng là hồng ân của Thiên Chúa.

Nhưng bà biết, theo ý kiến của dân chúng, bà có thể xin được điều bà cần nơi Đấng được Thiên Chúa sai đến. Bà liều đến, Chúa Giêsu không chấp nhận, bà nhờ vả các môn đệ, khiến các ông phải thưa với Chúa Giêsu : “Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi” (Mt 15, 23). Các ông muốn Chúa nhận lời ngay, Chúa từ chối, bà khăng khăng sấp mình xuống. Chúa bảo bà, “không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó” (Mt 15, 26) để giải thích lý do tại sao Người không thể nhận lời bà xin.  Bà đáp rằng,  “vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống” (Mt 15, 27). Lời này đã thuyết phục được Chúa Giêsu, ma quỉ bị trục xuất, con gái bà được giải thoát.

Lời bà van xin không được xét đến, xin mãi bị từ chối, lại còn bị miệt thị như chó. Chúng ta tự hỏi : điều gì đã khiến cho bà dám làm tất cả? Thưa vì yêu. Với tình mẫu tử, bà không đành lòng ngồi nhìn đứa con mình bị ma quỉ hành hạ, bà đi khắp đó đây tìm thầy chạy thuốc, vượt qua cả những nơi bị xem là cấm kỵ. Yêu con, bà chấp nhận tất cả, không những đến với Chúa Giêsu là người Do thái, lại còn tin Chúa có quyền năng thống trị được ma quỉ, tin Chúa có lòng thương xót sẽ ra tay cứu chữa, tin Chúa có trái tim rộng mở để không phân biệt người ngoại, kẻ đạo. Đáng ngưỡng mộ cho một người mẹ.

Giao ước và đức tin

Dù bà đã công nhận kế hoạch của Thiên Chúa, cũng như vai trò cứu thế của Chúa Giêsu được sai đến với nhà Israel, nhưng bà hy vọng rằng sự quan phòng của Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế không chỉ liên kết chặt chẽ với Israel, mà còn trải dài đến mọi dân tộc, kể cả dân ngoại, “vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc” (Is 56, 7 ) ; để hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài” (Tv 66). Bà cũng tin rằng, những rào cản ngăn cách giữa con người một ngày kia sẽ được rỡ bỏ, không còn trở ngại cho việc thi ân giáng phúc của Thiên Chúa. Bà tin, Chúa Giêsu đã được Thiên Chúa sai đến như vị Cứu tinh dân ngoại, bởi bà tin Thiên Chúa đã hành động. Lời thánh Phaolô chứng tỏ điểu đó : “Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương xót” (Rm 11, 32). Tại Nagiaret, Đức Giêsu đã không thể làm một phép lạ nào vì họ không tin vào Người, bởi vì họ cứng lòng tin. Người đàn bà này bằng đức tin đã đến gần Chúa Giêsu. Bà quả là một người mẹ có lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, bà đã được Thiên Chúa xót thương (x. Rm 11, 13-15. 29-32)

Bài học cho chúng ta

Chúng ta học được nhiều điều ở nơi bà xứ Canaan. Thứ nhất, nhờ đức tin, Chúa cho chúng ta được đồng bàn tình thương của Chúa, được trở nên con cái Cha trên trời : “Không còn Do Thái hay Hi lạp; không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ; vì hết thảy anh em là một trong Ðức Kitô Yêsu(Gal 3, 28). Thánh Gioan nói với chúng ta rằng chúng ta có quyền là con. Tất cả những ai đón nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa (x. Ga 1, 12).

Thứ hai, Thiên Chúa là Đấng luôn có lý. Vì thế, trước nhan thánh Chúa, chúng ta đừng bao giờ cho rằng ý chúng ta là chính đáng và bắt Chúa phải đáp ứng nhu cầu. Vậy, khi ta cầu xin bất cứ sự gì thì hãy kết thúc bằng lời sau đây : “Lạy Chúa, xin cho ý Cha được thể hiện“. Amen.

Về mục lục

.

ÂN SỦNG

Lm. Trần Việt Hùng

Chúa ban ân sủng ngập tràn,

Cho người tứ xứ, yên hàn an vui.

Đàn bà xứ lạ tới lui,

Con yêu lâm bệnh, chôn vùi nỗi đau.

Xin trừ quỉ ám qua mau,

Dủ lòng thương xót, trước sau tin Thầy.

Không rằng, chẳng nói, chẳng rầy,

Đức tin thử thách, đong đầy khiêm nhu.

Chúa rằng những bánh dự trù,

Dành nuôi con cái, trong khu chốn này.

Không nên lấy bánh trong tay,

Vứt cho con chó, không hay gọi mời.

Bà ta đáp lại đôi lời,

Chó con xứng được, bánh rơi từ bàn.

Động lòng thương xót trao ban,

Đức tin kiên vững, phá tan bóng mờ.

Chữa lành con gái mong chờ,

Quỷ ma trục xuất, nương nhờ xác thân.

Mạnh tin Chúa chữa ân cần,

Một lòng tin tưởng, tinh thần lạc an.

Khi Chúa Giêsu trên đường ra khỏi thành Tyrô và Siđon, một người phụ nữ ngọai giáo đến gặp Chúa và xin chữa bệnh cho con gái bị quỷ ám. Có lẽ bà này cũng đã chạy đi tứ phương cầu khẩn cho con gái mình, nhưng đều vô hiệu. Nghe về danh của Chúa Giêsu, bà không ngại ngùng chạy đến nài van Chúa chữa con gái mình. Bà xin và bà đã nhận được ơn của Chúa.

Con người có biết bao thứ bệnh tật khác nhau. Có bệnh về thể xác, có bệnh về tinh thần, có bệnh từ trong và có bệnh đến từ bên ngòai. Bệnh là một sự khiếm khuyết trong cơ thể con người. Với khả năng được phú ban, con người có thể giúp nhau trị liệu nhiều thứ bệnh, nhưng con người vẫn không đủ khả năng để chữa lành mọi bệnh tật.   

Bệnh của người con gái là thứ bệnh rất hiểm nghèo. Bệnh bị qủy ám. Bệnh thuộc loại tinh thần, nhưng lại dày vò thể xác. Một quyền lực sự dữ ám quấy con người. Em gái không còn làm chủ được mình, hoàn toàn sống lệ thuộc vào quyền kẻ dữ bên ngoài ám.  

Người đàn bà ngoại giáo đã nghe về Chúa Giêsu. Bà tin vào quyền năng của Chúa. Bà nài xin lòng thương xót của Chúa. Chúa thách thức niềm tin của bà. Bà chấp nhận thân phận ngoại lai và hèn yếu. Bà nghĩ dù sao bà cũng đáng được hưởng những phần dư còn lại của ân sủng. Chúa đã khen lòng tin của bà và bà được toại nguyện.

Cũng như người đàn bà Canaan này, chúng ta là chi mà đáng hưởng ân huệ của Chúa. Nếu chỉ cậy dựa vào công sức, việc lành và việc sống đạo của chúng ta, chúng ta không đáng được thừa hưởng ơn lành của Chúa đâu. Chúng ta hãy đặt lòng tin nơi Chúa và nài xin: Lạy Chúa, xin thương xót chúng con.

Về mục lục

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận