Thánh Cêcilia, đồng trinh tử đạo

Đăng lúc: Thứ ba - 22/11/2016 01:55 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

Thánh Cêcilia, đồng trinh tử đạo

 

Ngày 22-11

THÁNH CÊCILIA
Đồng trinh Tử đạo

Anh chị em thân mến.

Chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng ngày sinh nhật trên trời của một vị thánh đã sống xa cách chúng ta cả gần 18 thế kỷ, nhưng những hình ảnh ít ỏi hiếm hoi về đời sống của vị thánh trẻ này vẫn còn thật sống dộng trong lòng rất nhiều người chúng ta.

I. Nếu phải hỏi: "Cécilia là ai?" thì quả thực chúng ta không có được những tài liệu lịch sử chính xác và đầy đủ về vị thánh nữ trẻ trung đặc biệt này. Hồi qua thăm Roma khi viếng một trong những hang toại đạo nổi tiếng tại đó, tôi đã có dịp tận mắt nhìn chỗ mà trước đây người ta đã an táng chị. Đây là một vị trí đặc biệt, gần sát với chỗ chỗ nhiều vị Giáo hoàng cử hành thánh lễ trong những năm Giáo Hội gặp nhiều thử thách gian nan.

Truy nguyên xa hơn một chút thì người ta còn biết: Cécilia là con của những một gia đình quí phái sống tại Roma dưới thời hoàng đế Alexander Sêvêrô, một trong những vị hoàng đế khét tiếng là độc ác với những người theo đạo của Chúa lúc đó. Trong gia đình chỉ có một mình Cécilia trở lại đạo.

Tới tuổi dựng vợ gả chồng thì, Cécilia được cha mẹ hứa gả cho một chàng thanh niên cũng thuộc dòng tộc quí phái và cũng sống tại Roma tên là Valêriô. Cuộc hôn nhân lạ lùng này đúng là do Chúa xếp đặt để làm vinh danh Ngài. Valeriô và em đã bị Cécilia chinh phục. Họ đã được chính Đức Giáo hoàng Urbanô đã dạy giáo lý và rửa tội cho. Sau khi được Rửa tội, bộ ba Cécilia-Valêriô và Tiburtiô đã trở thành những chiến sĩ kiên cường trong công việc tông đồ. Họ bí mật tiếp tế cho những tín hữu bị giam giữ, cầu nguyện cho những người bị kết án, khuyến khích họ can đảm chịu cực hình. Đêm về họ lo chôn cất xác của những vị tử đạo.

Về sau chẳng may công việc của họ bị bại lộ. Họ bị bắt. Valêriô và Turbitiô chịu tử đạo trước. Còn Cécilia chịu tử đạo sau. Theo đài Chân lý Á châu ngày 22-11-1991 thì năm 1229 người ta thực hiện một cuộc cải táng phần mộ của Cécilia, người ta thấy xác của Cécilia vẫn còn nguyên vẹn. Đây là một hồng ân Chúa dành cho những con cái yêu dấu của Người.

II. Một vài nhận định.

Qua cuộc đời của Cécilia chúng ta có thể rút ra được một vài bài học này.

1. Niềm tin mạnh có thể biến đối một con người bình thường thành những con người cao cả, cũng như biến những con người sang trọng quen hưởng thụ thành những con người dám xả thân vì lý tưởng bác ái yêu thương.

a- Khi bị bắt và bị điệu tới trước mặt quan tổng trấn Amalchiô vì tội lo lắng chôn cất xác của các vị tử đạo, quan tổng trấn hỏi:

- Tại sao các ngươi không chấp hành lệnh của ta mà cứ còn quan tâm đến những tử tội mà ta đã kết án?

Cécilia trả lời:

- Thật là một điều đẹp lòng Chúa khi chúng tôi xứng đáng được làm nô lệ cho những người bị ngài kết án là tử tội.

b- Sau cái chết của Valeriô và Turbitiô, Cécilia bán tất cả những gì còn lại, phân phối cho những người nghèo khó. Khi quan toà điều tra về tài sản của mình, Cécilia trả lời không một chút sợ hãi: "Tất cả đã được phân phối cho những người nghèo khó rồi"

Quan bắt Cécilia phải đốt hương tế thần Cécilia trả lời: "Thần của quí vị chỉ là đá, là đồng, là chì."

Các binh lính đứng đó tỏ lòng tiếc thương cho một người con gái sang trọng sắp phải chết có khuyên nàng: "Cô sang trọng và trẻ đẹp. Hãy dâng hương tế thần đi. Hai mươi tuổi đầu….chết….uổng lắm"

Cécilia trả lời: "Các ông không biết rằng chết vào tuổi tôi không phải là đánh mất tuổi trẻ nhưng là một sự đổi chác sao? Thiên Chúa sẽ trả lại gấp trăm gấp ngàn lần cái mà người ta dâng hiến cho Ngài. Các ông có lưỡng lự khi người ta đem quí khi để đổi lấy một vật tầm thường không?

2. Thiên Chúa yêu thương và luôn bảo vệ những ai biết tin tưởng tuyệt đối vào Người.

a- Cécilia đã can đảm tin theo Chúa. Cécilia cũng đã sống niềm tin ấy một cách anh hùng dường như không có gì có thể thay đổi được. Bên cạnh cái vẻ sang trọng của một cô gái quí phái, dưới lớp áo thêu vàng Cécilia thường mặc thêm một mảnh áo nhặm. Cécilia làm thế để nói lên một quyết tâm muốn từ bỏ những quyến rũ của trần gian và quyết tâm một lòng chỉ theo Chúa. Cécilia cũng say mê với những  việc từ thiện Bác ái.

Để tưởng thưởng cho những hy sinh và lòng yêu mến Chúa nồng nàn đó, Chúa đã cho Cécilia luôn được nhìn thấy thiên thần hộ thủ bên cạnh  mình. Có lẽ đây chính là lý do làm cho Cécilia có thể dễ dàng chấp nhận sự xếp đặt của gia đình trong việc thành hôn với Valeriô.

Sau đám cưới linh đình và sang trọng, chiều về Valêriô như say như mê trước sắc đẹp và vẻ quyến dủ của người yêu. Nhưng Cécilia không để cho chàng phải chờ lâu. Cécilia báo ngay cho chàng một tin vui. Cécilia vui vẻ nói với chàng:

- Thưa anh. Em có điều này muốn nói với anh. Không một bàn tay trần tục nào được động vào con người của em vì em có một thiên thần luôn bảo vệ. Nếu anh biết tôn trọng em, thì Ngài sẽ yêu mến anh và sẽ ban ân phúc cho anh.

Vừa ngạc nhiên, vừa cảm kích. Valêriô ao ước được nhìn thấy Thiên thần. Cécilia đề nghị anh đến gặp Đức Thánh Cha Urbanô đang ở trong  hang toại đạo.

Vào trong hang toại đạo, anh đã gặp Đức Giáo Hoàng và một thời gian sau anh được Rửa tội. Lúc trở về anh thật ngỡ ngàng khi nhìn thấy hai thiên thần cầm hai mũ triều thiên trên tay đang đứng cạnh Cécilia đang lúc chị cầu nguyện. Và từ giây phút đó hai người tự nguyện dâng trọn cuộc đời cho Chúa.

b- Và đây là việc thứ hai: Cécilia ao ước được gặp Đức Thánh Cha trước khi tắt thở và Cécilia đã được toại nguyện.

Almachiô đã ra lệnh chém đầu Cécilia. Nhưng những tên lính hành hình đã không thế nào kết thức cuộc đời của Cécilia. Họ đã chém tới ba lần nhưng đầu của Cécilia vẫn không chịu lìa thân. Phải đợi cho đến  khi Đức Giáo hoàng tới dể ban những bí tích cuối cùng cho chị, chị mới an nghỉ trong Chúa. Đây chính là phần thưởng Chúa dành cho những ai biết tin tưởng nơi Người.

Kính thưa anh chị em đến đây tưởng cũng đã đủ để chúng ta thấy được lý do tại sao mà Cécilia lại được rất nhiều người yêu mến trên đời này. Xin Chúa cho chúng ta cũng biết bắt chước gương Người để lại để làm cho cuộc sống của chúng ta trên đời này thực sự là cuộc đời của những người con cái Chúa và mai sau chúng ta được hân hoan trên cõi vĩnh hằng. Amen.
 

* Cuối thế kỷ V, câu chuyện về cuộc thương khó của các chứng nhân tử đạo Cêcilia, Valêrianô và Tibuốc đã ca ngợi đức đồng trinh của Kitô giáo, khiến cho tên tuổi của một thiếu nữ người Rôma tên là Cêcilia trở thành lừng lẫy. Chị đã chịu tử đạo và được mai táng ở nghĩa trang Calíttô. Một thánh đường đã được xây dựng để kính thánh nữ và một đoản văn trong câu chuyện trên đã khiến cho các nhạc sĩ chọn chị làm bổn mạng.

 

Lời Chúa: Lc 21, 5-11

Khi ấy, có mấy người trầm trồ về đền thờ được trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý, nên Chúa Giêsu phán rằng: "Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá". Bấy giờ các ông hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những sự đó sắp xảy đến?" Người phán: "Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối: vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: "Chính ta đây và thời gian đã gần đến", các con chớ đi theo chúng. Khi các con nghe nói có chiến tranh loạn lạc, các con đừng sợ: vì những sự ấy phải đến trước đã, nhưng chưa phải là hết đời ngay đâu".

Bấy giờ Người phán cùng các ông ấy rằng: "Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước nọ. Sẽ có những cuộc động đất lớn mọi nơi, sẽ có ôn dịch đói khát, những hiện tượng kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể".

 

 

Suy Niệm 1: Thời gian chuyển tiếp

Ðối với người Do thái, Ðền thờ Giêrusalem là biểu tượng cho niềm vui và hãnh diện, và là nơi Thiên Chúa ngự, là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc, là nơi hằng năm muôn dân tuôn về đó để mừng lễ. Ðền thờ được xây bằng đá quí, sừng sững trên ngọn đồi này vẫn được xem là nơi nương tựa vững chắc có thể đương đầu với thời gian. Thế mà Chúa Giêsu lại tuyên bố sẽ có ngày nó bị tàn phá, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.

Về thời điểm các sự việc đó xảy ra, dưới ngòi bút của thánh Luca, câu trả lời của Chúa Giêsu không chỉ riêng cho Giêrusalem mà còn bao gồm cả chiều kích lịch sử cứu độ: cũng như Ðền thờ Giêrusalem, thế giới này dù có vững vàng đến đâu, thì một ngày nào đó cũng sẽ tàn lụi. Trong khoảng thời gian trước ngày Chúa trở lại sẽ có nhiều tai ương khốn khó. Hình ảnh các biến cố thiên nhiên, như động đất, hạn hán, mất mùa, ôn dịch; những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ trên trời, hay hình ảnh chiến tranh, loạn lạc, là những yếu tố trong lối hành văn được các Tiên tri sử dụng để báo trước về ngày chung thẩm của Thiên Chúa. Tuy nhiên, các biến cố đó không phải chỉ là những hình ảnh, mà là sự thật; chúng cũng tác dụng như một nhắc nhở con người ý thức bản chất thụ tạo yếu đuối và mỏng dòn của mình, đồng thời soi sáng cho con người biết chiều kích về ơn gọi siêu việt của mình là sống như con cái Thiên Chúa và trung thành thực hiện ơn gọi đó, trong khi chờ đợi ngày Chúa lại đến.

Xin Chúa cho chúng ta luôn biết tin tưởng vào tình thương bao la của Chúa. Xin cho chúng ta hằng gắn bó với Chúa và sống hết tình con thảo từng giây phút đời sống chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 2: Ngôn ngữ khải huyền

Trong thời điểm tuần lễ cuối cùng của năm Phụng Vụ, Giáo Hội mời gọi con cái mình suy niệm những đoạn Kinh Thánh trình bày chủ đề cánh chung trong một ngôn ngữ riêng biệt, gọi là ngôn ngữ Khải huyền. Ðoạn Phúc Âm hôm nay là đoạn mở đầu cho những lời dạy của Chúa Giêsu về cánh chung và về việc Chúa sẽ trở lại trong vinh quang. Những người nghe Chúa Giêsu giảng dạy về biến cố này thì xem ra như muốn biết rõ về thời gian, lúc biến cố xảy ra. Nhưng trong lời giảng dạy của Chúa Giêsu, Ngài xem ra nhấn mạnh nhiều hơn đến thái độ sống của những đồ đệ của Chúa: phải sống thế nào để có thể đón Chúa ngự đến vào lúc kết thúc lịch sử nhân loại và vũ trụ.

Ngôn ngữ được Chúa Giêsu dùng ở đây là ngôn ngữ Khải huyền, một lối diễn tả đặc biệt thường được dùng trong Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước. Ngôn ngữ Hy Lạp và tiếng Việt dịch ra là Khải huyền, có nghĩa là mạc khải, mạc khải điều huyền nhiệm. Mọi chi tiết, mọi sự cố diễn ra và được mô tả trong ngôn ngữ Khải huyền đều không nên được chúng ta hiểu theo nghĩa đen, nhưng là một biểu tượng, một hình bóng cho một ý tưởng nào đó. Những biến cố, những tai ương được dùng trong ngôn ngữ Khải huyền muốn nói lên cho chúng ta biết vũ trụ, thế giới chúng ta đang sống không tồn tại đời đời mãi mãi, nhưng sẽ đi đến một lúc kết thúc và cuộc đời mỗi người chúng ta cũng như toàn thể nhân loại cũng sẽ đến lúc kết thúc, và giây phút kết thúc cuối cùng đó, là giây phút Thiên Chúa thực hiện ơn cứu rỗi cho con người, nhờ qua Chúa Giêsu Kitô. Mục tiêu của ngôn ngữ Khải huyền không phải là để làm cho người ta lo sợ, lo sợ tận thế, lo sợ cái chết, nhưng như là một lời kêu gọi, một lời thức tỉnh, thôi thúc người ta hãy sống tỉnh thức một cách tích cực để lãnh nhận ơn cứu rỗi của Chúa. Ðó là những lời của niềm hy vọng. Hy vọng một cuộc biến đổi hoàn toàn và đầy vinh quang của con người cũng như của thế giới. Một niềm hy vọng về trời mới và đất mới, nơi công bằng và hòa bình của Thiên Chúa ngự trị. Tuy nhiên, trong khi chờ đợi giây phút Chúa ngự đến trong vinh quang, mỗi người đồ đệ Chúa cần sống giây phút hiện tại một cách can đảm, kiên trì giữa những thử thách xảy đến, và nhất là cần sống gắn bó mạnh mẽ, kết hiệp mật thiết với Chúa để vượt thắng được những cám dỗ chối bỏ Chúa mà chạy theo những vị tiên tri giả, những chúa kitô giả, những kẻ tự phụ muốn thay thế chỗ của Chúa nơi tâm hồn con người, những kẻ mạo danh Chúa để lường gạt và hưởng lợi. Mỗi người chúng ta cần trưởng thành mỗi ngày một hơn trong đức tin, đức cậy và đức mến, để có thể khám phá ra Chúa đang ngự đến hàng ngày trong mọi biến cố lớn nhỏ, để cứu rỗi chúng ta vì Ngày yêu thương chúng ta.

Lạy Chúa, chúng con chúc tụng Chúa là chủ của vũ trụ và lịch sử, vì Chúa hiện diện trong chúng con và trong thế giới, trong những nỗi lo âu cũng như những nỗi vui mừng và hy vọng của chúng con. Xin thương giúp chúng con biết chăm chú, biết lắng nghe lời Chúa dạy và khám phá Chúa hiện vẫn đang ở với chúng con mỗi ngày mỗi lúc nơi người anh chị em đang cần được giúp đỡ, cần được yêu thương.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 3: Đền thờ sụp đổ

Nhân có mấy người nói về đền thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng, Đức Giêsu bảo: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.” (Lc. 21, 5-6)

Đoạn Tin mừng này khá phức tạp: hai phần không liên hệ với nhau. Trong đoạn đầu, Đức Giêsu loan báo sự tàn phá đền thờ Giê-ru-sa-lem. Trong đoạn hai, người ta đặt câu hỏi mong Người trả lời: “Bao giờ xảy ra và có điềm gì báo trước?”. Nhưng Người không trả lời như họ mong muốn, Người lại nói đến những điềm báo về ngày tận thế. Chúng ta nhận xét vài điều liên hệ tới đền thờ sụp đổ.

Hai kiểu giải thích:

Tại sao đền thờ Giê-ru-sa-lem bị tàn phá? Tại sao Đức Giêsu nói tiên tri “sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” của lâu đài tráng lệ này được người Do thái tôn kính?

Đức Giêsu đã giải thích hai lần về vấn đề này. Trong Luca đoạn 19, 44 Người coi biến cố này là một hình phạt đổ xuống dân thành vì họ không nhận ra Đấng Thiên sai Cứu thế của Thiên Chúa. Lần thứ hai, trong Tin mừng theo thánh Gio-an đoạn 2, 19-22 giải thích sâu sắc hơn ẩn chứa một chút mầu nhiệm: “Hãy phá đền thờ này, và trong ba ngày, Tôi sẽ xây dựng lại”. Đức Giêsu muốn cho hiểu rằng: Đã đến thời Thiên Chúa ngự ở khắp mọi nơi và tỏ mình ra không chỉ ở đền thờ. Người quả quyết rằng đền thờ phải biến đi để Ngài hiện rõ ràng trước hết và trên hết trong chính Con Người của Con Thiên Chúa. Nói cách khác, Đức Giêsu phục sinh là đền thờ, đền thờ mới và duy nhất. Ngày phục sinh là ngày đền thờ Giê-ru-sa-lem suy tàn đi, biến đi.

Con người là đền thờ Thiên Chúa.

Thánh tông đồ Phao-lô đã bổ túc tư tưởng của Đức Giêsu khi giải thích: Mỗi Kitô hữu và toàn bộ mọi Kitô hữu hình thành Giáo hội, là đền thờ mới để Thiên Chúa ngự. Chúng ta có thể nói mà không nghịch lại với tư tưởng của thánh Phao-lô rằng: Thực sự chính trong con tim của bất cứ người nào đều là nơi Thiên Chúa ngự.

Nếu quả thật như vậy, chính trong con tim mỗi người phải đi tìm Thiên Chúa trước hết. Ai không gặp được Thiên Chúa ở với mọi người thì họ không gặp được Ngài bao giờ.

R.C
 

SUY NIỆM:

1. Mọi sự sẽ qua đi (c. 5-7)

Khi nghe một số người ca ngợi vẻ đẹp của Đền Thờ Giê-ru-salem một cách tự phát, cũng như chúng ta vẫn thốt lên những lời như thế, khi tham quan những công trình kiến trúc vừa lớn vừa đẹp, Đức Giê-su nói với các môn đệ :

Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào. (c. 6)

Lời nói này của Đức Giê-su không chỉ báo trước biến cố lịch sử Đền Thờ sẽ bị phá hủy bởi người La Mã vào năm 70, nhưng dưới ánh sáng của những gì Người nói sau đó, để trả lời cho câu hỏi của các môn đệ : « Thưa Thầy, vậy bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra, và khi sắp xảy ra, thì có điềm gì báo trước? » (c. 7), chúng ta được mời gọi hiểu lời loan báo này của Đức Giê-su ở mức độ cánh chung : vào thời cánh chung, nghĩa là thời điểm tận cùng của thời gian, tất yếu sẽ đến, vì chúng ta đang ở trong thời gian có thủy có chung, nghĩa là mọi sự sẽ qua đi.

Như thế, lời của Đức Giê-su : « Sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào », vừa đụng chạm đến bản chất của mọi sự và vừa đụng chạm tới thời điểm tận cùng của chúng. Đồng thời, lời nói này của Người mời gọi chúng ta qui hướng về, gắn bó với, cảm nếm và chiêm ngưỡng điều sẽ không bao giờ qua đi. Điều sẽ không bao giờ qua đi, đó chính là Lời Chúa, như chính Người sẽ nói, trong bài Tin Mừng của thứ sáu tới : « Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu » (Lc 21, 33). Lời Chúa không qua đi, vì thế cũng sẽ làm cho chúng ta không qua đi, nhưng qui tụ chúng ta, những người còn sống cũng như những người đã qua đời, bên Chúa và bên nhau mãi mãi trong Nước của Thiên Chúa.

2. Loạn lạc và thiên tai (c. 8-11)

Vào thời cánh chung, mọi sự sẽ qua đi vì chiến tranh loạn lạc : « Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ », và vì thiên tai : « Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện ».

Tuy nhiên, chẳng cần phải đợi đến thời cánh chung, để cho mọi sự chúng ta đang nhìn thấy và chiêm ngưỡng, mọi sự chúng ta có và mọi sự chúng ta là sẽ qua đi. Bởi lẽ mọi sự đang qua đi và qua đi rất nhanh. Mọi sự đang qua đi hôm nay, đó không chỉ là vì do bản chất của chúng, nhưng còn là vì những nguyên nhân bên ngoài nữa, đó là thiên tai do trời đất và chiến tranh do con người.

Thật vậy, trong những năm vừa qua, và cả trong những ngày này ở Việt Nam và ở một số nơi trên thế giới, chúng ta như chứng kiến những dấu chỉ loan báo thời điểm tận cùng: núi lửa hoạt động, những đợt sóng thần, những cơn động đất, nước từ trời trút xuống, nước từ sông biển dâng lên, gió bão hung hãn… Và những gì xẩy ra trong thiên nhiên hoàn toàn khớp với những gì con người đang làm cho con người: đó là khủng bố, đó là bạo động, đó là giết hại mầm sống và chính sự sống nhân linh từ trong giai đoạn hình thành kì diệu nhất, tham lam, gian dối, đó là làm thiệt hại và hãm hại người khác, đó là dò xét và lên án, đó là cấm cản giam hãm, đó là áp đặt bằng quyền bính bất chấp ngôi vị, đó là nghi ngờ, không tin tưởng và thiếu tôn trọng người khác.

Xét cho cùng, như ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm, những thái độ và cách hành xử như thế, cho dù là nhân danh sự sống, nhân danh lợi ích của tập thể, nhưng thực ra là phá hủy sự sống một cách nghiệm trọng nhất, bởi lẽ đó là cách hành xử của chính Sự Dữ. Như thế, lời của Đức Giê-su : « Sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào » không chỉ đụng chạm đến bản chất của mọi sự, nhưng còn mặc khải về hoàn cảnh hiện thực của mọi sự.

Nhưng đó chính là hành trình Vượt Qua của thế giới sáng tạo và của lịch sử loài người : để đi vào sáng tạo mới và đi vào vĩnh cửu, mọi sự phải tan biến đi. Cũng tương tự hành trình Vượt Qua của Đức Giê-su và của mỗi người chúng ta : phải băng qua sự chết để phục sinh, nghĩa là đi vào sự sống viên mãn và vĩnh hằng. Và chúng ta được mời gọi sống hành trình Vượt Qua của chúng ta mỗi ngày, như lời Thánh Vịnh diễn tả :

Con nằm xuống và con thiếp ngủ,
rồi thức dậy vì Chúa đỡ nâng con.
(Tv 3, 6)

3. Bách hại (c. 12-19)

Đức Giê-su còn nói, trong bài Tin Mừng ngày mai (c. 12-19), về sự bách hại mà người môn đệ sẽ phải gánh chịu vì danh của Người, trong bối cảnh của ngày Cánh Chung. Tuy nhiên, lịch sử Giáo Hội cho thấy và kinh nghiệm sống của chúng ta cũng cho thấy như thế, đó là sự bách hại có thể xẩy ra bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu. Chính vì thế, trong Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, Đức Giê-su nói về sự bách hại, với cùng những từ ngữ mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng theo thánh Luca, khi Người sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng (x. Mt 10, 17-22).

Như thế, mặc khải mà Đức Giê-su mang lại cho chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay thật lớn lao: sự bách hại mà người môn đệ phải gánh chịu vì danh Người ở mọi thời, và chúng ta có thể hiểu rộng hơn, những khó khăn bên ngoài cũng như bên trong mà chúng ta phải đối diện hầu như hàng ngày, khi cố gắng sống vì Danh Đức Giê-su, vì tình yêu chúng ta dành cho Người, vì Tin Mừng của Người, tất cả những bách hại và khó khăn đời thường đó, có tầm mức cánh chung. Có tầm mức cánh chung, nghĩa là đó là lúc Nước Thiên Chúa ngự đến, là thời điểm mà mọi sự được hoàn tất để đi vào trong sự sống mới và sáng tạo mới, theo khuôn mẫu của mầu nhiệm Vượt Qua. Thật vậy, chính lúc Đức Giê-su bị bách hại đến chết, là lúc “mọi sự được hoàn tất”, và Ngài đi vào cõi hằng sống của Thiên Chúa Cha, bởi sức mạnh của Thánh Thần.

Sống theo Tin Mừng vì Danh Đức Giê-su, vì tình yêu chúng ta dành cho Người, chúng ta sẽ bị “người ta” bách hại, hay gây khó khăn. Điều này dễ hiểu và chúng ta sẵn sàng đón nhận. Nhưng điều khó hiểu và khó chấp nhận, khi Đức Giê-su nói tới sự bách hại đến từ chính những người thân yêu của chúng ta: “Anh em sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp. Họ sẽ giết một số người trong anh em”.

Khi Đức Giê-su sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, Người nói: “Thầy sai anh em đi đi như chiên vào giữa bầy sói”. Như thế, sự chống đối, thậm chí bách hại, là tất yếu; như hình ảnh “chiên và sói” gợi ra: một bên là hiền lành và một bên là bạo lực, muốn hủy diệt. “Người đời” đã bách hại Thầy và “người đời” tiếp tục bách hại Thầy nơi các môn đệ, bởi vì Thầy là “Chiên lành”, “Sự Thiện”, “Thiên Tính”, “Ánh Sáng”, “Sự Sống, “Sự Thật”. Vì thế, một cách tương ứng, kẻ bách hại không phải là những con người cụ thể, nhưng là “Sói Dữ”, “Sự Dữ”, “Thú Tính”, “Gian Dối”, “Bóng Tối”, “Sự Chết” hành động nơi những con người cụ thể. Thế mà, Sự Dữ và những gì thuộc về Sự Dữ có mặt ở khắp nơi và nơi mọi người, có nơi chính các môn đệ, và có ở nơi chúng ta nữa! Vì thế, sự chống đối của Sự Dữ có thể bùng lên từ những nơi và những người thiết thân nhất: “Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết.” “Sói Dữ” không phải là con người, những là thú tính hiện diện và chi phối con người chống lại “Chiên Lành”.

Nhưng lời loan báo của Đức Giê-su về sự bách hại thậm chí giết hại, lại chứa đựng Sự Sống của Thiên Chúa và hướng đến Sự Sống viên mãn của Người, theo khuôn mẫu của “Hạt Lúa Mì”, nghĩa là của mầu nhiệm Vượt Qua. Thật vậy, bách hại, nhưng lại là cơ hội “để làm chứng cho Thầy”; và bởi vì đây là chứng từ tận cùng, nghĩa là “chứng từ hi sinh sự sống”, như Đức Ki-tô trong cuộc Thương Khó, người môn đệ được dẫn vào kinh nghiệm “thần nhiệm”, như thánh Phaolo đã kinh nghiệm: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, nhưng Đức Ki-tô phục sinh sống trong tôi” (Gl 2, 20).

* * *

Xin cho chúng ta, mỗi khi gặp khó khăn vì Danh Đức Giê-su và vì Tin Mừng của Người, cảm nghiệm được niềm vui sâu xa, vì mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô được tái hiện lại nơi cuộc đời của chúng ta, vì được trở nên giống như Người, vì được trở nên một với Người, vì được Người nâng đỡ và chăm sóc cách đặc biệt, như Người nói trong bài Tin Mừng:

“Chính Thầy sẽ cho anh em nói thật khôn ngoan…”, và

“Một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu”.

 

Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc


Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận