Thứ hai tuần 33 thường niên.

Đăng lúc: Thứ hai - 14/11/2016 10:41 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
Thứ hai tuần 33 thường niên.

"Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi? - Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy".

 

LỜI CHÚA: Lc 18, 35-43

Khi Chúa đến gần thành Giêricô, thì có một người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Khi nghe tiếng đám đông đi qua, anh liền hỏi có chuyện gì đó. Người ta nói cho anh biết có Ðức Giêsu Nazareth đang đi qua. Bấy giờ anh liền kêu lên rằng: "Lạy ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Những người đi trước mắng bảo anh nín đi, nhưng anh lại càng kêu lớn tiếng hơn: "Lạy con vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Vậy Chúa Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh đến cùng Người. Khi anh đến gần bên Người, Người hỏi anh: "Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi?" Anh thưa: "Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy". Chúa Giêsu bảo anh: "Hãy nhìn xem, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi". Tức khắc anh thấy được và anh đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa.

 

 

SUY NIỆM 1: Sự mù lòa thiêng liêng

Con người đã được Thiên Chúa sáng tạo đặt vào trong hiện hữu và cuối cùng sẽ trở về cùng Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Trong thời gian chờ đợi ngày trở về này, mỗi người chúng ta phải sống như thế nào? Chúng ta hãy đối chiếu cuộc sống chúng ta với Lời Chúa, nhưng không phải chỉ đối chiếu, mà còn cần phải sửa chữa, vứt bỏ những gì không phù hợp với lời dạy của Chúa.

Tin Mừng mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, kể lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người mù thành Giêricô. Ðây không phải là dụ ngôn, mà là biến cố có thật. Chúng ta có thể quan sát hai thái độ thực hành. Trước hết là thái độ của những người cản trở không cho anh mù gặp gỡ Chúa, những người này cho rằng chỉ có họ mới được quyền đi bên cạnh Chúa. Thật ra, trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa, trên bình diện thông ban ân sủng, cứu rỗi, con người không thể cậy dựa vào quyền lợi của mình mà đòi hỏi Thiên Chúa. Tất cả đều là ân sủng nhưng không của Thiên Chúa, không ai có quyền dành lại ân sủng đó cho riêng mình.

Thái độ thứ hai chúng ta có thể nhận thấy nơi anh mù. Ý thức thân phận của mình, anh không có gì để khoe khoang hay đòi hỏi, nhất là đòi hỏi Thiên Chúa, mà anh chỉ khiêm tốn cầu xin: "Lạy ông Giêsu, con vua Ðavít, xin dủ lòng thương tôi". Sự mù lòa thể xác và nghèo nàn vật chất không phải là một ngăn trở con người gặp gỡ Thiên Chúa và lãnh nhận ơn lành của Ngài. Từ ơn lành cho thể xác mù lòa: "Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được", anh mù đã tiến thêm một bước quan trọng, như tác giả Luca ghi lại: "Tức khắc anh thấy được và theo Chúa, vừa đi vừa ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy, toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa". Anh mù đã sống trọn ơn gọi Kitô của mình; anh đã thực hiện lời Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ Ngài: "Ánh sáng của các con phải chiếu soi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc lành các con làm, mà tôn vinh Cha các con Ðấng ngự trên trời".

Ước gì Lời Chúa hôm nay thức tỉnh và giải thoát chúng ta khỏi sự mù lòa thiêng liêng, để chúng ta luôn bước đi trong ánh sáng của Chúa và chiếu tỏa ánh sáng ấy trước mặt mọi người.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 2: Người mù thành Giêrikhô

Giáo Hội sắp kết thúc năm phụng vụ với lễ Chúa Giêsu Kitô Vua để nhắc nhở mỗi người chúng ta về sự thật căn bản là Thiên Chúa là khởi đầu và cùng đích của mọi sự, là Alpha và Ômêga. Con người và vũ trụ đã được Thiên Chúa sáng tạo, đặt vào trong hiện hữu và cuối cùng sẽ trở về cùng Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Trong thời gian chờ đợi ngày trở về cuối cùng này, mỗi người chúng ta phải sống như thế nào? Trong tuần lễ này, chúng ta hãy đối chiếu cuộc sống cụ thể của mình với lời dạy của Chúa trong Phúc Âm, và không phải chỉ đối chiếu suông mà thôi, mỗi người chúng ta cần sửa chữa, cần dứt bỏ đi những gì không phù hợp với lời dạy của Chúa.

Bài Phúc Âm hôm nay kể lại cuộc gặp gỡ hồng phúc giữa Chúa Giêsu và người mù thành Giêrikhô. Thái độ của anh mù này có thể nêu gương cho mỗi người chúng ta. Ðây không phải là dụ ngôn mà là một biến cố thật sự đã xảy ra, trong đó ta có thể quan sát hai thái độ thực hành.

Thái độ của những người cản trở không cho anh mù đến với Chúa Giêsu, dường như thể chỉ có họ mới có quyền hay đặc quyền theo bên Chúa. Còn người mù ăn xin kia không có phẩm giá, không được kính trọng và không có quyền làm phiền Chúa, không có quyền đi theo Chúa. Ðây là những người độc quyền và muốn giới hạn hành động của Thiên Chúa theo những tiêu chuẩn phàm trần do chính con người đặt ra. Trong mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa trên bình diện của sự thông ban ân sủng cứu rỗi, con người không thể cậy dựa vào quyền lợi của mình mà đòi buộc Thiên Chúa phải làm như thế này hay như thế nọ. Tất cả là ân sủng nhưng không của Thiên Chúa, không ai có quyền giới hạn ân sủng đó cho riêng mình hay trong phạm vi mà mình muốn mà thôi.

Và thái độ thứ hai là thái độ chúng ta quan sát thấy nơi anh mù ngồi ăn xin bên vệ đường gần thành Giêrikhô. Ý thức thân phận của mình, không có gì để khoe khoang hay đòi hỏi, nhất là đòi hỏi Thiên Chúa, anh mù chỉ khiêm tốn kêu xin: "Lạy con vua Ðavít, xin thương xót tôi". Người ta càng ngăn cản thì anh càng la to hơn: "Lạy con vua Ðavít, xin thương xót tôi". Sự mù lòa thể xác và nghèo hèn vật chất không phải là một ngăn trở không cho con người gặp gỡ Thiên Chúa và lãnh nhận ơn lành của Ngài, và từ ơn lành cho thể xác mù lòa: "Lạy Ngài, xin cho con được nhìn thấy". Anh mù đã tiến thêm một bước quan trọng thứ hai là theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa, đến độ những kẻ chung quanh cũng được khuyến khích làm theo như vậy. Tác giả Phúc Âm theo thánh Luca đã chú ý ghi lại chi tiết: "Tức khắc anh thấy được và anh đi theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy, toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa". Ðược Thiên Chúa chữa lành, anh mù được sáng mắt kia đi theo Chúa. Trong Phúc Âm cũng có trường hợp con người được Thiên Chúa làm phép lạ, ban cho ơn lành nhưng rất ít người có phản ứng như anh mù này: "Anh đi theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa". Anh làm cho nhiều người bị lôi cuốn ca tụng Thiên Chúa như anh vậy. Anh đã sống trọn vẹn điều mà chúng ta có thể diễn tả qua từ ngữ "Sống trọn vẹn ơn gọi Kitô". Theo Chúa, ca tụng Chúa và làm cho anh chị em chung quanh ca tụng Thiên Chúa. Chúng ta nhớ lại lời căn dặn của Chúa Giêsu với các đồ đệ của Ngài như được ghi lại nơi Phúc Âm thánh Mátthêu chương 5,16 như sau: "Ánh sáng của anh em phải chiếu dọi cho mọi người để họ xem thấy việc lành của anh em mà ngợi khen Cha của anh em ở trên trời".

Lạy Chúa,

Người mù thành Giêrikhô thức tỉnh chúng con, những kẻ đã lãnh nhận nhiều ơn lành của Chúa mà lại không biết theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa, đó là sự mù lòa thiêng liêng có thể làm cho con người càng ngày càng sống bội bạc với Chúa.

Lạy Chúa, xin thương giải thoát chúng con khỏi sự mù lòa nguy hiểm này.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 3: Người mù được thấy

Đức Giêsu nói: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh ta đáp: “Lạy Ngài xin cho tôi được thấy.”Đức Giêsu nói: “Anh hãy đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” (Lc. 18, 41-42)

Cuối chặng đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu còn loan báo cho các môn đệ về số phận đang chờ đợi Người, nhưng các ông không hiểu gì, mắt các ông còn bị che phủ. Trong số những kẻ ăn xin ở cửa thành Giê-ri-cô, có một người mù, chờ xin đoàn hành hương về dự lễ Vượt qua. Nghe thấy tiếng ồn ào, càng lúc càng gần, người mù biết có gì lạ: “Cái gì vậy?”.

Đôi mắt đức tin

Người ta trả lời cho anh biết đó là Đức Giêsu Na-gia-rét. Đám đông thấy Đức Giêsu làm nhiều việc của Thiên Chúa, nhưng họ vẫn mù về lý lịch của Người. Còn anh mù lại thấy xa hơn họ, Thánh Thần Thiên Chúa đã đem chân lý vào con tim anh và anh tin. “Đức Giêsu, con vua Đa-vít”. Anh biết đó là Giêsu, Đấng Thiên sai Cứu thế, Người phải đến và anh la lớn kêu Người: “Xin thương xót tôi”. Người ta bảo anh câm đi: Anh càng la lớn. Không phải bao giờ cũng gặp được dịp may như thế này: Người được Thiên Chúa sai đến đã viếng thăm dân Ngài!

Đức Giêsu luôn luôn ý thức được hành động của Thánh Thần, Người đã nghe thấy tiếng van xin át cả tiếng ồn ào của đám đông. Người không từ chối biểu lộ là Đấng Thiên sai Cứu thế nữa. Trái lại, Người hành xử vai trò Cứu thế: Người truyền lệnh cho người ta dắt anh mù đến với Người.

Họ thấy quyền phép của Thiên Chúa

Đức Giêsu hỏi anh như thường lệ để trắc nghiệm lòng tin của anh. Người không áp đặt ý muốn của Người bao giờ, nhưng để kẻ khác khởi xướng hỏi xin: “Anh muốn Tôi làm gì cho anh?”, anh đáp: “Lạy Ngài, xin cho tôi được thấy”. Anh mù kêu Người là Đức Kitô, như các Kitô hữu thời sơ khai đã hát: “Mọi miệng lưỡi tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa trong vinh quang Thiên Chúa Cha”.

Câu trả lời của Đức Giêsu tất nhiên cũng như mọi khi: “Anh hãy thấy đi, lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Người đến cho những mù thấy được, người què đi được, người câm nói được, người điếc nghe được và người chết sống lại.

Lập tức anh thấy được và đi theo Người để cảm tạ Thiên Chúa đã tỏ bày quyền năng của Ngài, và đám đông cùng hòa đồng với anh hát Thánh vịnh ca ngợi Thiên Chúa. Đó là một dấu chỉ về Giáo hội tiến bước theo Đức Kitô để tôn vinh Thiên Chúa Cha.

RC.

 

SUY NIỆM:

Lời Chúa trong sách Tin Mừng theo thánh Luca nói cho chúng ta về đôi mắt. Chúng ta cùng tạ ơn Chúa, vì đã ban cho chúng ta đôi mắt sáng, và cùng cầu xin Chúa cho đôi mắt của chúng ta, nhờ lòng tin, không chỉ nhìn mọi sự như những sự vật « tự nhiên », chẳng hạn thế giới sáng tạo, hay chỉ nhìn mọi sự có trong cuộc sống như những sự vật để hưởng thụ tùy thích, nhưng còn như những dấu chỉ nói cho chúng ta về những kì công của Thiên Chúa, về sự hiện diện của Thiên Chúa, về tình yêu và lòng thương xót của Chúa, như lời Thánh Vịnh diễn tả :

Chỉ có Người làm nên những kỳ công vĩ đại,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. (Tv 136, 4)

* * *

Một người mù, ngồi ăn xin ở vệ đường, theo Tin Mừng Mác-cô, anh tên là Ba-ti-mê, đã trở nên sáng mắt, nhờ lời sau đây của Đức Giê-su: « Anh nhìn thấy đi, lòng tin của anh đã cứu anh ». Về phương diện thể lí, đây là một biến cố lạ lùng, gây ấn tượng. Nhưng lời của Đức Giê-su mời gọi chúng ta vượt qua sự lạ lùng thể lí ở bên ngoài, để hiểu và cảm nếm ơn chữa lành của Chúa ở mức độ đức tin và ơn cứu độ. 

Sáng mắt là điều quan trọng, nhưng để sống bình an và hạnh phúc với người khác, và nhất là với những người thân yêu và với Chúa, anh còn phải sáng lòng nữa, để nhìn ra nhận ra ân huệ, tình bạn và tình yêu của người khác và của Chúa, nhận ra sự hiện diện của người khác và của Chúa. Bởi vì, chúng ta sống không chỉ bằng những vẻ đẹp bên ngoài, nhưng còn bằng sự hiện diện của nhau, bằng vẻ đẹp của tâm hồn, bằng vẻ đẹp và những điều cao quí đến từ Thiên Chúa nữa và của chính Chúa nữa. Sáng mắt rồi, nhưng đôi mắt sáng của anh Ba-ti-mê có đi tìm Chân, Thiện, Mỹ là chính Chúa hay không, hay lại đi tìm những điều gì khác chóng qua, gian dối, sự dữ, sự xấu, làm cho mình trở nên mù quáng. Hơn nữa, con người đâu có nhìn thấy mãi, vì anh mù được sáng mắt trở lại, một ngày kia, mắt anh sẽ khép lại mãi mãi. Và đôi mắt của chúng ta cũng sẽ như thế. Bằng chứng là, từ tuổi trung niên trở đi, mắt chúng ta không còn sáng như xưa !

Ngoài ra, anh mù Ba-ti-mê được Chúa chữa cho sáng mắt, nhưng đâu phải để đứng đó mà nhìn, nhưng còn phải bước đi nữa, còn phải lựa chọn đường đi nữa. Và anh sẽ phải lựa chọn và bước đi trên con đường nào : con đường của Chúa dẫn đến sự sống hay những con đường khác, dẫn đến đau khổ cho mình và cho người khác, và cuối cùng là sự chết đời đời ?

Đức Giê-su nói với anh : « Anh nhìn thấy đi. Lòng tin của anh đã cứu anh ». Như thế, lòng tin làm cho anh thấy được, không phải chi thấy được mọi sự như những sự vật để thụ hưởng hay loại bỏ, nhưng như là quà tặng, là kỉ niệm nói lên sự hiện diện của ai đó, là ơn huệ của Thiên Chúa, là dấu chỉ nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa. Lòng tin làm cho anh thấy được, không phải chỉ thấy được những con người ở vẻ bề ngoài và như đối tượng để thỏa mãn nhu cầu của lòng ham muốn, nhưng như là những ngôi vị tự do, như là hình ảnh của Thiên Chúa, là con Thiên Chúa, là anh chị em của mình, có lòng ước ao, có ơn gọi riêng, có quá khứ và những vấn đề riêng, có hành trình riêng cần tôn trọng. Và lòng tin làm cho anh thấy được, không phải chỉ thấy sự thật trần trụi ở bình diện hành vi, nhưng còn nhìn ra sự thật về ngôi vị, sự thật về một con người bất hạnh đang đau khổ. Bởi vì, đôi mắt của chúng ta được dựng nên, có ơn gọi không phải là nhìn thấy những điều hữu hình, nhưng là nhận ra những thực tại vô hình.

Chính vì thế mà, ngay sau khi được chữa lành, nhìn thấy được, anh Ba-ti-mê liền đi theo Đức Giê-su (c. 43). Điều này cho thấy, đức tin không chỉ làm cho anh nhận được chữa lành đôi mắt, để thấy sự vật, nhưng còn làm cho anh « thấy được » những điều vô hình ; vì nhờ đức tin, anh nhận ra Đức Ki-tô là ánh sáng, là đường, là sự thật và là sự sống, là ơn cứu độ.

Và ở bình diện này, mọi người chúng ta được mời gọi đón nhận ngay hôm nay hiệu quả chữa lành và cứu độ của đức tin : nhờ tin vào tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, được thể hiện nơi Đức Ki-tô, và nhất là nơi Đức Ki-tô chịu đóng đinh, chúng ta được giải thoát khỏi sự nghi ngờ tình thương và lòng bao dung của Thiên Chúa, mặc cảm tội lỗi, gây chết chóc và hay bị ma quỉ lợi dụng để nhận chìm chúng ta trong bóng tối của tuyệt vọng.

* * *

Xin Chúa củng cố đức tin của chúng ta, để lòng chúng ta cũng được chữa lành bởi Lời Chúa, khỏi những sự nghi ngờ, ray rứt, và khỏi bệnh mù quáng, không nhận ra Chúa là ánh sáng, và là đường dẫn đến sự sống, không nhận ra anh em, chị em của mình là hình ảnh của Thiên Chúa, là người thân của Đức Ki-tô, là người anh chị em của mình trong Gia Đình Mới, nơi đó chúng ta đã được ơn sinh ra, lớn lên và được ban ơn kêu gọi dâng hiến cuộc đời để xây dựng.

Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận