Ngày thứ năm trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh.

Đăng lúc: Thứ năm - 29/12/2016 01:47 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
Ngày thứ năm trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh.

"Ánh sáng đã chiếu soi các lương dân".

 

LỜI CHÚA: Lc 2, 22-35

Khi mãn thời hạn thanh tẩy theo Luật Môsê, ông bà đem Chúa Giêsu lên thành Giêrusalem, để dâng cho Chúa, như đã viết trong lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là của thánh, dâng cho Thiên Chúa", và việc dâng lễ vật như đã nói trong lề luật Chúa là "một cặp chim gáy, hoặc hai bồ câu con". Và lúc đó tại Giêrusalem có một người tên là Simêon, là người công chính và có lòng kính sợ, đang mong đợi niềm an ủi Israel, có Thánh Thần ở trong ông. Ông được Thánh Thần mách bảo là sẽ không thấy giờ chết đến, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ. Khi cha mẹ bồng trẻ Giêsu đến để thi hành cho Người các nghi thức theo luật dạy, thì ông ẵm lấy Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: "Lạy Chúa, bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an, theo như lời Chúa. Vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng đã chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa". Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà, và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ".

 

 

 

Suy Niệm 1: Dâng Chúa vào Đền thờ

Một đêm khuya nọ, tại một vùng quê hẻo lánh bên Anh quốc, một cậu bé đang hấp hối và người mẹ goá phải đi bộ cả chục cây số để tìm bác sĩ. Nhìn dáng vẻ quê mùa nghèo nàn của người đàn bà, ông bác sĩ không tỏ ra mấy sốt sắng: có nên mất giờ cho thằng bé đó không? Lại nữa nếu cứu sống nó thì lớn lên nó cũng tiếp tục kiếp nông dân cùng khổ như cha ông nó mà thôi. Ông bác sĩ định từ chối. Thế nhưng bị lương tâm nghề nghiệp cắn rứt, cuối cùng ông đã đến chữa bệnh cho đứa bé. Sau này đứa bé đó đã trở thành một trong những nhà chính trị lỗi lạc nhất của nước Anh.

Người Mỹ thường nói: “Mỗi đứa trẻ sinh ra đều có thể là một tổng thống tương lai của Hoa Kỳ”. Quả thực mỗi đứa trẻ sinh ra đều mang lại hy vọng cho người lớn. Với cái nhìn đức tin thì niềm hy vọng ấy lại càng lớn lao hơn. Đó là cái nhìn của cụ già Simêon về Hài Nhi Giêsu. Nơi Hài nhi Giêsu, cụ đã nhận ra ánh sáng soi đường cho dân ngoại, vinh quang của Israel Dân Chúa. Thế nhưng ánh sáng và vinh quang ấy được tỏ lộ xuyên qua tăm tối của Thập giá và khổ đau.

Đó cũng là cái nhìn chúng ta phải có khi chiêm ngắm Hài nhi trong máng cỏ. Trong Hài nhi bé nhỏ, chúng ta nhìn thấy Đấng cứu độ trần gian; trong cảnh nghèo hèn tăm tối của máng cỏ, chúng ta nhận ra hào quang sáng chói của Ngôi Hai Thiên Chúa.

Xuyên qua cái bé nhỏ tâm thường nhận ra những giá trị siêu việt, xuyên qua tăm tối của thất bại khổ đau nhận ra ánh sáng hy vọng, đó là cái nhìn đích thực của niềm tin. Chúng ta cũng cần có cái nhìn như thế trong cách giao tiếp với tha nhân: nơi những con người nghèo hèn thấp kém trong xã hội, chúng ta luôn được mời gọi nhận ra hình ảnh Thiên Chúa và phẩm giá cao cả của nhân vị. Chúng ta cũng được mời gọi nhìn vào cuộc sống hằng ngày với cái nhìn ấy: từng phút giây của cuộc sống độc điệu âm thầm mỗi ngày đều là hạt giống của sự sống vĩnh cửu; thất bại mất mát, khổ đau cũng là khởi đầu của những ân phúc dồi dào mà Thiên Chúa luôn có thể ban tặng con người.

Nguyện xin Hài nhi Giêsu củng cố chúng ta trong niềm tin ấy. Nguyện xin Đức Maria, người mà một lưỡi gươm sẽ đâm thấu qua tâm hồn nhưng vẫn luôn tin tưởng cậy trông, phù trợ chúng ta trong cuộc lữ hành đầy gian nan thử thách này.

 

Suy niệm 2

 

  1. Theo Luật Chúa truyền (v. 21-24)

Luật được nói tới nhiều lần trong trình thuật: c. 21 (“đến lúc phải”), c. 22, 23, 24, 27 và 39. Về mặt Lề Luật có ba nghi thức: lễ cắt bì, dâng của lễ thanh tẩy người mẹ (Lv 12, 1-8) và đóng tiền chuộc cho con trai đầu lòng (Xh 13, 2.13.15; 34, 20; Ds 18, 15-16). Về lễ thanh tẩy người mẹ sau khi sinh, luật buộc phải dâng một con chiên 1 tuổi làm lễ toàn thiêu, nếu nhà nghèo thì dâng một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. Như thế, Thánh Gia thuộc diện gia đình nghèo.

Nhưng Luật không buộc dâng tiến con trai cho Đức Chúa, nhưng các ngài vẫn tiến dâng hài nhi Giêsu cho Đức Chúa. Như thế, Đức Maria và Thánh Giuse hoàn tất lề luật bằng cách “vượt qua lề luật”: chu toàn lề luật bằng lòng biết ơn và lòng mến (chứ không phải vì bị ép buộc), và được thúc đẩy bởi lòng biết ơn và lòng mến, làm hơn cả sự đòi hỏi của luật (chẳng hạn như luật ăn chay, luật đi lễ, xưng tội, luật không giết người). Trong cuộc sống, nhất là trong đời sống dâng hiến, chúng ta luôn được mời gọi không chỉ sống theo lề luật những còn chọn sống theo một năng động, năng động qui về Chúa hay năng động qui về mình hoặc “những sự khác”, bởi vì Luật không thể qui định hết mọi việc phải làm hay phải tránh. Vì thế, trong truyền thông đời tu, ngày Lễ Thánh Gia dâng Hài Nhi Giê-su cho Thiên Chúa, thường được chọn để tổ chức lễ khấn; hoặc bài Tin Mừng này thường được chọn cho ngày lễ khấn.

Đức Maria đã nói lên lời xin vâng: « Tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như như lời sứ thần nói ». Lời này của Đức Maria phát xuất từ năng động của lòng yêu mến. Những gì xẩy ra cho mình không còn theo ý mình, chương trình của mình nữa, nhưng là theo ý muốn của Thiên Chúa. Đương nhiên là không dễ đối với Đức Mẹ : vì Mẹ được mời gọi dâng lại cho Thiên Chúa chính người con mình sinh ra, giống như Abraham, người con từ xương thịt máu huyết của mình, để cho con của mình thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa, chứ không phải của mình; và nếu theo kế hoạch của Thiên Chúa, thì Mẹ phải chịu thử thách và đau khổ nhiều. Như thế, Mẹ Maria đã học biết dâng con mình cho Đức Chúa ngay lúc sinh ra. Và phải sống điều này từng ngày (biến cố 12 tuổi là bằng chứng). Thế mà, Đức Giêsu đối với mẹ là yêu quí nhất, thiết thân nhất, gắn bó nhất, và như là chính bản thân mình. Còn chúng ta, dĩ nhiên chúng ta không có « người con duy nhất », nhưng chúng ta luôn có những điều yêu quí, thiết thân, gắn bó như chính bản thân mình.

Luật không buộc chúng ta phải dâng tiến đời mình trong đời tu, dâng tiến những gì mình có và mình là, dâng tiến ý riêng, quyền làm cha làm mẹ, quyền sở hữu. Nhưng chúng ta, giống như Đức Maria, chúng ta dâng tiến tất cả vì lòng biết ơn và yêu mến. Nếu không có lòng biết ơn và lòng yêu mến, chúng ta không thể sống đời tu, còn được gọi là « đời dâng hiến ».

 

  1. Ngôn sứ Si-mê-on và ngôn sứ An-na (c. 25-38)
  2. Ngôn sứ Si-mê-on (c. 25-35)

Ông là ai ? Chính trong hành động dâng tiến điều quí giá nhất, là Hài Nhi Giê-su, mà ơn cứu độ được nhận ra và tuyên xưng bởi ngôn sứ Si-mê-on. Ông là người công chính và sùng đạo, mong chờ niềm an ủi của Israen, và cũng là của chính ông (được diễn tả qua lời chúc tụng). Đặc biệt « Thánh Thần ngự trên ông » (« Thánh Thần » được nói tới 3 lần), ông là con người thiêng liêng. Ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng :

Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ này được an bình ra đi,
vì chính mắt con được nhìn thấy ơn cứu độ.

Chắc chắn ông đã phải chờ đợi biến cố này rất lâu. Chúng ta cũng cần học ở nơi ông sự kiên nhẫn chờ đợi ơn an ủi. Như chúng ta đều biết, lời chúc tụng của ngôn sứ Si-mê-on trở thành lời kinh tối hằng ngày của chúng ta, bởi vì mỗi tối nhắc nhớ chúng ta thời điểm cuối cùng của cuộc đời chúng ta, tất yếu sẽ đến và không biết đến lúc nào ; và chúng ta được mời gọi như ngôn sứ Simeon, cũng nói lên niềm vui được nhìn thấy ơn cứu độ.

Khi chúng ta cầu nguyện với Lời Chúa, lòng ước ao của chúng ta và Thánh Thần làm cho chúng ta nhận ra, gặp gỡ, lắng nghe, học tập để hiểu biết và yêu mến Chúa, ngang qua những gì rất « nhỏ bé và đơn sơ », đó là Lời Kinh Thánh.

« Chính mắt con nhìn thấy ơn cứu độ ». Chúng ta được mời gọi nhận ra sự tương phản : một bên là em bé mới sinh, yếu đuối, nhỏ bé, bất lực ; một bên là niềm tin thật lớn và niềm vui cũng thật lớn : ông nhìn thấy ơn cứu độ nơi Đức Giêsu bé nhỏ. Ơn cứu độ mà ông nhìn tận mắt là gì, là ai: một em bé, trong tay vợ chồng trẻ đơn sơ bình dị (bố là thợ mộc, mẹ là nội trợ; giống như cha mẹ nhiều người trong chúng ta). Nhưng niềm vui đến từ xác tín thật là lớn. Chúng ta chứng kiến và đón nhận nhiều hơn thế, nhưng chúng ta ít vui bằng.

Các mục đồng được các thiên thần loan báo tin trọng đại, nhưng điều mà họ nhìn thấy, chỉ là một hài nhi bọc tả. Sau này, các môn đệ, và cả loài người chúng ta được mời gọi nhìn ra ơn cứu độ nơi Đức Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, cũng yếu đuối, nhỏ bé và bất lực. Nhưng điều chúng ta tin, lại là sức mạnh và khôn ngoan của Thiên Chúa.

Lời ngôn sứ về Mẹ Maria. Lời loan báo khó khăn của Đức Giêsu, nhưng lại là “thương khó” của Đức Maria: nhất là tan nát con tim, khi mất đi người con. Nhưng mẹ đã học để mất từ từ rồi và ngay ở đây, khi dâng con cho Đức Chúa. Nhưng chính khi cho là lãnh nhận, nhất là để phục vụ cho sự sống.

  1. Nữ ngôn sứ An-na (v. 36-38)

Vị nữ ngôn sứ ở tuổi 84, không nói gì cả, chỉ sống hi sinh âm thầm mà thôi. Trong khi đó ông Simon thì nói nhiều! Bà sống như một nữ tu kín thật lâu: cứ cho là bà lấy chồng lúc 20 tuồi, 7 năm sau thì ở góa, và đến nay đã ở góa được 57 năm! Bà là hình ảnh sống động của sứ điệp mà trình thuật Tin Mừng muốn truyền đạt cho chúng ta: đó là dâng lại cho Đức Chúa tất cả. Thật vậy, như bài Tin Mừng diễn tả, “bà không rời bỏ đền thờ, những ăn chay cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa”. Chính vì thế mà bà cũng được ơn nhận ra ơn cứu độ nơi hài nhi Giêsu.

Và sau khi gặp gỡ hài nhi, bà “nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem”.

  1. Hoàn tất Lề Luật (v. 39-40)

Sau khi hoàn tất mọi việc như Luật Chúa truyền, Thánh Gia trở về cư ngụ ở làng Nadarét, miền Galilê. Tiếp theo là đời sống ẩn dật kéo dài suốt 30 năm, và các Tin Mừng hầu như không kể lại gì về thời gian này. Tại sao? Đơn giản là vì, đời sống này rất đỗi bình thường, như cuộc đời của chính chúng ta. Chẳng có gì đặc biệt để có thể viết thành sách hồi kí với những tình tiết và giai đoạn sóng gió, li kì.

Bình thường, nhưng cũng rất lạ lùng, vì sự kì diệu của ngôi vị Đức Giêsu trong lời nói và việc làm sau này được chuẩn bị từ thời gian âm thầm này. Chẳng hạn, cách Ngài nói về Chúa Cha, cách Ngài giảng bằng các dụ ngôn, cách Ngài tiếp xúc với những người bệnh tật, thấp hèn, tội lỗi, nhỏ bé… chắc chắn xuất phát từ kinh nghiệm sống sâu xa và sự học hỏi bền bỉ trong những năm tháng dài của đời sống ẩn dật. Theo gương Đức Giê-su Hài Đồng và Niên Thiếu, chúng ta được mời gọi đón nhận tối đa thời gian chuẩn bị, huấn luyện, học tập, thực tập… thay vì để lãng phí, và nhất là thời gian tĩnh tâm cầu nguyện.

Và trong thời gian này, “Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan” (c. 40). Ngài đầy khôn ngoan, nhưng là sự khôn ngoan nào? Chúng ta được mời gọi cảm nhận nơi Ngài sự khôn ngoan thần linh, được tỏ bày trong lời nói và việc làm của Ngài, và nhất là nơi Thập Giá. Thập Giá dưới mắt của con người là điên rồ và sỉ nhục, nhưng đối với chúng ta, những người được Chúa kêu gọi, lại là Khôn Ngoan thần linh (x. 1Cr 1, 24).

Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

 

Suy nim 3 

Luật lệ thường làm người ta cảm thấy gò bó, mất tự do. 
Người Do Thái phải giữ Luật Chúa đã ban cho Môsê. 
Con trai thì phải được cắt bì và đặt tên tám ngày sau khi sinh (Lc 2,21). 
Con trai đầu lòng thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa (Xh 13,1-2), 
nên cha mẹ phải nộp năm sê-ken bạc cho tư tế 
để chuộc lại con cho mình (Ds 3,47-48). 
Người phụ nữ sau khi sinh con, bị coi là nhơ uế (Lv 12, 2-8), 
phải ở nhà, không được đụng đến vật thánh hay vào Đền thờ. 
Bốn mươi ngày sau khi sinh con trai, bà cần làm lễ thanh tẩy. 
Bà phải dâng cho Đền thờ một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu, 
và một con chim gáy hay bồ câu để làm lễ tạ tội. 
Nếu nghèo, bà chỉ cần dâng một cặp bồ câu non hay chim gáy là đủ.

Giuse và Maria đã vui vẻ giữ những luật này, 
dù ngày nay đối với chúng ta, chúng thật là khó hiểu và khó chấp nhận. 
Hãy nhìn ngắm đôi vợ chồng nghèo lên Giêrusalem. 
Họ đã vượt một quãng đường xa, với đứa con mới hơn tháng tuổi. 
Maria chịu thanh tẩy, dù bà biết mình đã cưu mang Đấng Thánh. 
Bà đã dâng lễ vật đơn sơ của một người nghèo (c. 24). 
Dù Luật không buộc, ông bà cũng đem Con lên Đền thờ để dâng. 
Họ muốn con mình thuộc trọn về Thiên Chúa (x. 1 Sm 1, 22). 
Ông bà đã không đòi hỏi một đặc ân hay miễn trừ nào. 
Giữ Luật là cách họ thể hiện tình yêu đối với Chúa.

Có ai nhận ra đôi vợ chồng với đứa con nhỏ này là ai không? 
Có, một người công chính và sùng đạo tên là Simêon. 
Thánh Thần hằng ngự trên ông (c. 25), 
và nói cho ông biết ông sẽ thấy Đức Kitô trước khi lìa đời (c. 26). 
Chính Thánh Thần thúc đẩy ông lên Đền thờ vào lúc này (c. 27). 
Bỗng nhiên ông thấy mầu nhiệm lớn lao đang tỏa sáng, 
nơi Hài Nhi bé nhỏ, con của đôi vợ chồng nghèo. 
Mọi mong chờ lâu nay của ông được đền đáp. 
Các mục đồng đã nhận ra Đức Kitô nơi bé thơ quấn tã, nằm máng cỏ, 
còn Simêon nhận ra Ngài nơi em bé được bồng ẵm bởi đôi vợ chồng. 
Ông đã bồng Hài Nhi trong vòng tay, ngất ngây vì hạnh phúc. 
Môi ông bật lên lời chúc tụng của người sẵn sàng nhắm mắt ra đi. 
Ơn cứu độ cho muôn dân đã đến đây rồi (cc. 30-31). 
Hài Nhi bé nhỏ này là Ánh sáng cho muôn dân, 
là Vinh quang cho Dân Ítraen của Đức Chúa (c. 32).

Để nhận ra Chúa trong cuộc sống buồn tẻ hay sôi động hàng ngày, 
cần có sự gần gũi thân thiết với Thánh Thần như ông Simêon. 
Thánh Thần như trò chuyện, mách bảo, thôi thúc ông từ bên trong. 
Thánh Thần soi sáng để ông nhận ra điều lớn lao mắt phàm không thấy. 
Nhưng để nghe được sự mách bảo thầm kín của Thánh Thần, 
chúng ta cũng phải có sự thánh thiện và lòng khát khao như ông Simêon. 
Chẳng còn mơ ước gì ngoài việc được gặp mặt Đức Kitô qua cuộc sống.

Cầu nguyn 

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa
ở bên con dưới muôn ngàn dáng vẻ.
Chúa hiện diện lặng lẽ
như tấm bánh nơi nhà Tạm,
nhưng Chúa cũng ở nơi những ai nghèo khổ,
những người sống không ra người.
Chúa hiện diện sống động nơi vị linh mục,
nhưng Chúa cũng có mặt ở nơi hai, ba người
gặp gỡ nhau để chia sẻ Lời Chúa.
Chúa hiện diện nơi Giáo Hội
gồm những con người yếu đuối, bất toàn,
và Chúa cũng ở rất sâu
trong lòng từng Kitô hữu.

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con thấy Chúa
đang tạo dựng cả vu trụ
và đang đưa dòng lịch sử này về với Chúa.
Xin cho con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người
vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa.
Xin cho con khám phá ra
Chúa đang hẹn gặp con
nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường.
Ước gì con thấy Chúa ở khắp nơi,
thấy đâu đâu cũng là nhà của Chúa.
Và ước gì con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa
trên bước đường đời của con. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J

SUY NIỆM:

1. Theo Luật Chúa truyền (c. 21-24)

Luật được nói tới nhiều lần trong trình thuật: c. 21 (“đến lúc phải”), c. 22, 23, 24, 27 và 39. Về mặt Lề Luật có ba nghi thức: lễ cắt bì, dâng của lễ thanh tẩy người mẹ (Lv 12, 1-8) và đóng tiền chuộc cho con trai đầu lòng (Xh 13, 2.13.15; 34, 20; Ds 18, 15-16). Về lễ thanh tẩy người mẹ sau khi sinh, luật buộc phải dâng một con chiên 1 tuổi làm lễ toàn thiêu, nếu nhà nghèo thì dâng một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. Như thế, Thánh Gia thuộc diện gia đình nghèo.

Nhưng Luật không buộc dâng tiến con trai cho Đức Chúa, nhưng các ngài vẫn tiến dâng hài nhi Giêsu cho Đức Chúa. Như thế, Đức Maria và Thánh Giuse hoàn tất lề luật bằng cách “vượt qua lề luật”: chu toàn lề luật bằng lòng biết ơn và lòng mến (chứ không phải vì bị ép buộc), và được thúc đẩy bởi lòng biết ơn và lòng mến, làm hơn cả sự đòi hỏi của luật (chẳng hạn như luật ăn chay, luật đi lễ, xưng tội, luật không giết người). Trong cuộc sống, nhất là trong đời sống dâng hiến, chúng ta luôn được mời gọi không chỉ sống theo lề luật những còn chọn sống theo một năng động, năng động qui về Chúa hay năng động qui về mình hoặc “những sự khác”, bởi vì Luật không thể qui định hết mọi việc phải làm hay phải tránh. Vì thế, trong truyền thông đời tu, ngày Lễ Thánh Gia dâng Hài Nhi Giê-su cho Thiên Chúa, thường được chọn để tổ chức lễ khấn; hoặc bài Tin Mừng này thường được chọn cho ngày lễ khấn.

Đức Maria đã nói lên lời xin vâng: « Tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như như lời sứ thần nói ». Lời này của Đức Maria phát xuất từ năng động của lòng yêu mến. Những gì xẩy ra cho mình không còn theo ý mình, chương trình của mình nữa, nhưng là theo ý muốn của Thiên Chúa. Đương nhiên là không dễ đối với Đức Mẹ : vì Mẹ được mời gọi dâng lại cho Thiên Chúa chính người con mình sinh ra, giống như Abraham, người con từ xương thịt máu huyết của mình, để cho con của mình thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa, chứ không phải của mình; và nếu theo kế hoạch của Thiên Chúa, thì Mẹ phải chịu thử thách và đau khổ nhiều. Như thế, Mẹ Maria đã học biết dâng con mình cho Đức Chúa ngay lúc sinh ra. Và phải sống điều này từng ngày (biến cố 12 tuổi là bằng chứng). Thế mà, Đức Giêsu đối với mẹ là yêu quí nhất, thiết thân nhất, gắn bó nhất, và như là chính bản thân mình. Còn chúng ta, dĩ nhiên chúng ta không có « người con duy nhất », nhưng chúng ta luôn có những điều yêu quí, thiết thân, gắn bó như chính bản thân mình.

Luật không buộc chúng ta phải dâng tiến đời mình trong đời tu, dâng tiến những gì mình có và mình là, dâng tiến ý riêng, quyền làm cha làm mẹ, quyền sở hữu. Nhưng chúng ta, giống như Đức Maria, chúng ta dâng tiến tất cả vì lòng biết ơn và yêu mến. Nếu không có lòng biết ơn và lòng yêu mến, chúng ta không thể sống đời tu, còn được gọi là « đời dâng hiến ».

2. Ngôn sứ Si-mê-on và ngôn sứ An-na (c. 25-38)

a. Ngôn sứ Si-mê-on (c. 25-35)

Ông là ai ? Chính trong hành động dâng tiến điều quí giá nhất, là Hài Nhi Giê-su, mà ơn cứu độ được nhận ra và tuyên xưng bởi ngôn sứ Si-mê-on. Ông là người công chính và sùng đạo, mong chờ niềm an ủi của Israen, và cũng là của chính ông (được diễn tả qua lời chúc tụng). Đặc biệt « Thánh Thần ngự trên ông » (« Thánh Thần » được nói tới 3 lần), ông là con người thiêng liêng. Ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng :

Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ này được an bình ra đi,
vì chính mắt con được nhìn thấy ơn cứu độ.

Chắc chắn ông đã phải chờ đợi biến cố này rất lâu. Chúng ta cũng cần học ở nơi ông sự kiên nhẫn chờ đợi ơn an ủi. Như chúng ta đều biết, lời chúc tụng của ngôn sứ Si-mê-on trở thành lời kinh tối hằng ngày của chúng ta, bởi vì mỗi tối nhắc nhớ chúng ta thời điểm cuối cùng của cuộc đời chúng ta, tất yếu sẽ đến và không biết đến lúc nào ; và chúng ta được mời gọi như ngôn sứ Simeon, cũng nói lên niềm vui được nhìn thấy ơn cứu độ.

Khi chúng ta cầu nguyện với Lời Chúa, lòng ước ao của chúng ta và Thánh Thần làm cho chúng ta nhận ra, gặp gỡ, lắng nghe, học tập để hiểu biết và yêu mến Chúa, ngang qua những gì rất « nhỏ bé và đơn sơ », đó là Lời Kinh Thánh.

« Chính mắt con nhìn thấy ơn cứu độ ». Chúng ta được mời gọi nhận ra sự tương phản : một bên là em bé mới sinh, yếu đuối, nhỏ bé, bất lực ; một bên là niềm tin thật lớn và niềm vui cũng thật lớn : ông nhìn thấy ơn cứu độ nơi Đức Giêsu bé nhỏ. Ơn cứu độ mà ông nhìn tận mắt là gì, là ai: một em bé, trong tay vợ chồng trẻ đơn sơ bình dị (bố là thợ mộc, mẹ là nội trợ; giống như cha mẹ nhiều người trong chúng ta). Nhưng niềm vui đến từ xác tín thật là lớn. Chúng ta chứng kiến và đón nhận nhiều hơn thế, nhưng chúng ta ít vui bằng.

Các mục đồng được các thiên thần loan báo tin trọng đại, nhưng điều mà họ nhìn thấy, chỉ là một hài nhi bọc tả. Sau này, các môn đệ, và cả loài người chúng ta được mời gọi nhìn ra ơn cứu độ nơi Đức Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, cũng yếu đuối, nhỏ bé và bất lực. Nhưng điều chúng ta tin, lại là sức mạnh và khôn ngoan của Thiên Chúa.

Lời ngôn sứ về Mẹ Maria. Lời loan báo khó khăn của Đức Giêsu, nhưng lại là “thương khó” của Đức Maria: nhất là tan nát con tim, khi mất đi người con. Nhưng mẹ đã học để mất từ từ rồi và ngay ở đây, khi dâng con cho Đức Chúa. Nhưng chính khi cho là lãnh nhận, nhất là để phục vụ cho sự sống.

b. Nữ ngôn sứ An-na (c. 36-38)

Vị nữ ngôn sứ ở tuổi 84, không nói gì cả, chỉ sống hi sinh âm thầm mà thôi. Trong khi đó ông Simon thì nói nhiều! Bà sống như một nữ tu kín thật lâu: cứ cho là bà lấy chồng lúc 20 tuồi, 7 năm sau thì ở góa, và đến nay đã ở góa được 57 năm! Bà là hình ảnh sống động của sứ điệp mà trình thuật Tin Mừng muốn truyền đạt cho chúng ta: đó là dâng lại cho Đức Chúa tất cả. Thật vậy, như bài Tin Mừng diễn tả, “bà không rời bỏ đền thờ, những ăn chay cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa”. Chính vì thế mà bà cũng được ơn nhận ra ơn cứu độ nơi hài nhi Giêsu.

Và sau khi gặp gỡ hài nhi, bà “nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem”.

3. Hoàn tất Lề Luật (c. 39-40)

Sau khi hoàn tất mọi việc như Luật Chúa truyền, Thánh Gia trở về cư ngụ ở làng Nadarét, miền Galilê. Tiếp theo là đời sống ẩn dật kéo dài suốt 30 năm, và các Tin Mừng hầu như không kể lại gì về thời gian này. Tại sao? Đơn giản là vì, đời sống này rất đỗi bình thường, như cuộc đời của chính chúng ta. Chẳng có gì đặc biệt để có thể viết thành sách hồi kí với những tình tiết và giai đoạn sóng gió, li kì.

Bình thường, nhưng cũng rất lạ lùng, vì sự kì diệu của ngôi vị Đức Giêsu trong lời nói và việc làm sau này được chuẩn bị từ thời gian âm thầm này. Chẳng hạn, cách Ngài nói về Chúa Cha, cách Ngài giảng bằng các dụ ngôn, cách Ngài tiếp xúc với những người bệnh tật, thấp hèn, tội lỗi, nhỏ bé… chắc chắn xuất phát từ kinh nghiệm sống sâu xa và sự học hỏi bền bỉ trong những năm tháng dài của đời sống ẩn dật. Theo gương Đức Giê-su Hài Đồng và Niên Thiếu, chúng ta được mời gọi đón nhận tối đa thời gian chuẩn bị, huấn luyện, học tập, thực tập… thay vì để lãng phí, và nhất là thời gian tĩnh tâm cầu nguyện.

Và trong thời gian này, “Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan” (c. 40). Ngài đầy khôn ngoan, nhưng là sự khôn ngoan nào? Chúng ta được mời gọi cảm nhận nơi Ngài sự khôn ngoan thần linh, được tỏ bày trong lời nói và việc làm của Ngài, và nhất là nơi Thập Giá. Thập Giá dưới mắt của con người là điên rồ và sỉ nhục, nhưng đối với chúng ta, những người được Chúa kêu gọi, lại là Khôn Ngoan thần linh (x. 1Cr 1, 24).

Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc

Suy niệm Lời Chúa mỗi ngày – song ngữ

big_simeone2

Thursday (December 29): “The favor of God was upon him”

 

Scripture: Luke 2:22-35  

22 And when the time came for their purification according to the law of Moses, they brought him up to Jerusalem to present him to the Lord 23 (as it is written in the law of the Lord, “Every male that opens the womb shall be called holy to the Lord”) 24 and to offer a sacrifice according to what is said in the law of the Lord, “a pair of turtledoves, or two young pigeons.” 25 Now there was a man in Jerusalem, whose name was Simeon, and this man was righteous and devout, looking for the consolation of Israel, and the Holy Spirit was upon him. 26 And it had been revealed to him by the Holy Spirit that he should not see death before he had seen the Lord’s Christ. 27 And inspired by the Spirit he came into the temple; and when the parents brought in the child Jesus, to do for him according to the custom of the law, 28 he took him up in his arms and blessed God and said, 29 “Lord, now let your servant depart in peace, according to your word; 30 for my eyes have seen your salvation 31 which you have prepared in the presence of all peoples, 32 a light for revelation to the Gentiles, and for glory to your people Israel.” 33 And his father and his mother marveled at what was said about him; 34 and Simeon blessed them and said to Mary his mother, “Behold, this child is set for the fall and rising of many in  Israel, and for a sign that is spoken against 35 (and a sword will pierce through your own soul also), that thoughts out of many hearts may be revealed.” 

Thứ Năm      29-12           Ân sủng của Thiên Chúa ở cùng Người

 

Lc 2,22-35

 22 Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa,23 như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”,24 và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.25 Hồi ấy ở Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông.26 Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa.27 Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người,28 thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: 29 “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. 30 Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ31 Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: 32 Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.” 33 Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Si-mê-ôn vừa nói về Người.34 Ông Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng;35 và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.”

Meditation: Do you know the favor of the Lord? After Jesus’ birth, Mary fulfills the Jewish rite of purification after childbirth. Since she could not afford the customary offering of a lamb, she gives instead two pigeons as an offering of the poor. This rite, along with circumcision and the redemption of the first-born point to the fact that children are gifts from God. Jesus was born in an ordinary home where there were no luxuries. Like all godly parents, Mary and Joseph raised their son in the fear and wisdom of God. He, in turn, was obedient to them and grew in wisdom and grace. The Lord’s favor is with those who listen to his word with trust and obedience. Do you know the joy of submission to God? And do you seek to pass on the faith and to help the young grow in wisdom and maturity?

 

The Holy Spirit reveals the presence of the Savior of the world  

What is the significance of Simeon’s encounter with the baby Jesus and his mother in the temple? Simeon was a just and devout man who was very much in tune with the Holy Spirit. He believed that the Lord would return to his temple and renew his chosen people. The Holy Spirit also revealed to him that the Messiah and King of Israel would also bring salvation to the Gentile nations. When Joseph and Mary presented the baby Jesus in the temple, Simeon immediately recognized this humble child of Bethlehem as the fulfillment of all the messianic prophecies, hopes, and prayers. Inspired by the Holy Spirit he prophesied that Jesus was to be “a revealing light to the Gentiles”. The Holy Spirit reveals the presence of the Lord to those who are receptive and eager to receive him.  Do you recognize the indwelling presence of the Lord with you?

The ‘new temple’ of God’s presence in the world

Jesus is the new temple (John 1:14; 2:19-22). In the Old Testament God manifested his presence in the “pillar of cloud” by day and the “pillar of fire” by night as he led them through the wilderness. God’s glory visibly came to dwell over the ark and the tabernacle (Exodus 40:34-38). When the first temple was built in Jerusalem God’s glory came to rest there (1 Kings 8). After the first temple was destroyed, Ezekiel saw God’s glory leave it (Ezekiel 10). But God promised one day to fill it with even greater glory (Haggai 2:1-9; Zechariah 8-9). That promise is fulfilled when the “King of Glory” himself comes to his temple (Psalm 24:7-10; Malachi 3:1).  Through Jesus’ coming in the flesh and through his saving death, resurrection, and ascension we are made living temples of his Holy Spirit (1 Corinthians 3:16-17). Ask the Lord to renew your faith in the indwelling presence of his Spirit within you. And give him thanks and praise for coming to make his home with you.

Mary receives both a crown of joy and a cross of sorrow

Simeon blessed Mary and Joseph and he prophesied to Mary about the destiny of this child and the suffering she would undergo for his sake. There is a certain paradox for those blessed by the Lord.  Mary was given the blessedness of being the mother of the Son of God. That blessedness also would become a sword which pierced her heart as her Son died upon the cross. She received both a crown of joy and a cross of sorrow. But her joy was not diminished by her sorrow because it was fueled by her faith, hope, and trust in God and his promises. Jesus promised his disciples that “no one will take your joy from you” (John 16:22). The Lord gives us a supernatural joy which enables us to bear any sorrow or pain and which neither life nor death can take away.  Do you know the peace and joy of a life surrendered to God with faith and trust?

 

Our hope is anchored in God’s everlasting kingdom of righteousness, peace, and joy

What do you hope for? The hope which God places in our heart is the desire for the kingdom of heaven and everlasting life and happiness with our heavenly Father. The Lord Jesus has won for us a kingdom of righteousness, peace, and joy in the Holy Spirit (Romans 14:17). The Holy Spirit gives hope to all who place their trust in the promises of God. God never fails because his promises are true and he is faithful. The hope which God places within us through the gift of the Spirit enables us to persevere with confident trust in God even in the face of trails, setbacks, and challenges that may come our way. 

Is there anything holding you back from giving God your unqualified trust and submission to his will for your life? Allow the Lord Jesus to flood your heart with his peace, joy, and love. And offer to God everything you have and desire – your life, family, friends, health, honor, wealth, and future. If you seek his kingdom first he will give you everything you need to know, love, and serve him now and enjoy him forever.

 

 

 

“Lord Jesus, you are my hope and my life. May I never cease to place all my trust in you. Fill me with the joy and strength of the Holy Spirit that I may boldly point others to your saving presence and words of everlasting life.”

Suy niệm: Bạn có biết ân sủng của Chúa không? Sau khi sinh Đức Giêsu, Maria chu toàn nghi thức thanh tẩy của Do thái sau khi sinh con. Vì cô không thể mua nổi lễ vật con chiên thông thường, cô đã dâng một cặp chim như lễ vật của người nghèo. Nghi thức này đi cùng với sự cắt bì và chuộc lại người con đầu lòng theo sự kiện con cái là hồng ân của Thiên Chúa. Đức Giêsu được sinh ra trong một gia đình bình thường, không có gì sang trọng. Giống như các cha mẹ đạo đức khác, Maria và Giuse nuôi dưỡng con mình trong sự kính sợ và khôn ngoan của Thiên Chúa. Phần mình, Người vâng phục cha mẹ và lớn lên trong sự khôn ngoan và ân sủng. Ân sủng của Chúa ở cùng những ai lắng nghe lời Người với sự tin cậy và vâng phục. Bạn có biết niềm vui vâng phục Thiên Chúa không? Và bạn có tìm cách thông đạt niềm tin và giúp người trẻ lớn lên trong sự khôn ngoan và trưởng thành không?

 

Chúa Thánh Thần mặc khải sự hiện diện của Đấng Cứu thế

Ý nghĩa của cuộc gặp gỡ giữa cụ già Simêon với hài nhi Giêsu và mẹ Người trong đền thờ là gì? Cụ Simêon là người công chính và đạo đức, rất hòa hợp với Chúa Thánh Thần. Ông tin rằng Chúa sẽ trở lại đền thờ và canh tân dân tuyển chọn của Người. Chúa Thánh Thần cũng mặc khải cho ông rằng Đấng Mêsia và Vua dân Israel cũng sẽ đem ơn cứu độ đến cho mọi dân tộc. Khi Giuse và Maria dâng con trẻ Giêsu trong đền thờ, cụ Simêon ngay lập tức nhận ra trẻ thơ ở Bêlem khiêm tốn này là sự hoàn thành tất cả lời ngôn sứ, hy vọng, và cầu nguyện. Được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, ông đã nói tiên tri rằng Đức Giêsu sẽ là “ánh sáng chiếu soi cho dân ngoại”. Chúa Thánh Thần mặc khải sự hiện diện của Thiên Chúa cho những ai sẵn sàng và tha thiết đón nhận Người. Bạn có nhận ra sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn bạn không?

 

Đền thờ mới của sự hiện diện TC trong thế giới

Đức Giêsu là đền thờ mới (Ga 1,14; 2,19-22). Trong Cựu ước, Thiên Chúa tỏ lộ sự hiện diện của Người trong “cột mây” lúc ban ngày, và “cột lửa” lúc ban đêm khi Người dẫn dắt họ đi qua hoang địa. Vinh quang của Thiên Chúa đến rõ ràng trên hòm bia và nhà lều (Xh 40,34-38). Khi đền thờ thứ nhất được xây dựng ở Giêrusalem, vinh quang của Thiên Chúa đã ngự xuống đền thờ (1V 8). Sau khi đền thờ bị phá hủy, ngôn sứ Ezekiel nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa rời khỏi đền thờ (Ed 10). Nhưng Thiên Chúa đã hứa sẽ có một ngày để lập lại vinh quang của Người, thậm chí còn lớn lao hơn thế nữa (Kg 2,1-9; Dcr 9-8). Lời hứa ấy được thực hiện khi “Vua Vinh quang” đến đền thờ của Người (Tv 24,7-10; Ml 3,1). Ngang qua việc Đức Giêsu đến trong thân xác và qua cái chết, sự sống lại, và lên trời cứu độ của Người, chúng ta được xây dựng làm những ngôi đền thờ sống động của Chúa Thánh Thần (1Cor 3,16-17). Bạn có nhận ra rằng bạn là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí của Người ở trong bạn không?

 

Maria đón nhận cả triều thiên của niềm vui và thánh giá của đau khổ

Simêon chúc phúc cho Maria và Giuse, và ông tiên báo với Maria về số phận của con trẻ này, và sự đau đớn bà phải chịu vì Người. Có một sự nghịch lý nào đó về những chúc lành kia của Thiên Chúa. Đức Maria được “chúc phúc” vì được làm Mẹ của Con Thiên Chúa. Sự diễm phúc đó cũng trở nên lưỡi gươm đâm thâu tâm hồn bà khi Con của bà chết trên thập giá. Đức Maria đón nhận cả hai, triều thiên của vui mừng và thập giá của đau khổ. Niềm vui của bà không bị tan biến bởi sự thống khổ, bởi vì nó được đốt cháy bởi đức tin, đức cậy, và đức mến nơi Thiên Chúa và những lời hứa của Người. Đức Giêsu hứa với các môn đệ rằng “Không ai có thể lấy mất niềm vui của anh em” (Ga 16,22). Thiên Chúa ban cho chúng ta một niềm vui siêu nhiên, giúp chúng ta mang lấy đau khổ và nổi đau đớn, mà cho dù cuộc sống hay cái chết có thể lấy mất được. Bạn có biết sự bình an và niềm vui của cuộc đời dâng hiến cho Chúa trong niềm tin tưởng và trông cậy không?

Hy vọng của chúng ta bám chặt vào vương quốc công chính, bình an, và niềm vui của Thiên Chúa

Bạn hy vọng điều gì? Niềm hy vọng mà Thiên Chúa đặt để trong lòng chúng ta là sự khao khát nước trời và sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc với Cha trên trời của chúng ta. Chúa Giêsu đã đem lại cho chúng ta vương quốc công chính, bình an, và niềm vui trong Chúa Thánh Thần (Rm 14,17). Chúa Thánh Thần ban niềm hy vọng cho tất cả những ai đặt niềm trông cậy vào những lời hứa của Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ quên bởi vì lời hứa của Người là thật và Người hằng trung tín. Niềm hy vọng mà Thiên Chúa đặt trong lòng chúng ta qua hồng ân của Thánh Thần giúp chúng ta kiên vững với sự tin cậy kiên vững nơi Thiên Chúa cho dù đối đầu với những con đường, những nghịch cảnh,và những thách đố xảy ra trên con đường của chúng ta đi.

Có bất cứ điều gì ngăn cản bạn không cho bạn dâng cho Thiên Chúa lòng tin cậy và suy phục hoàn toàn trước ý Người dành cho đời bạn không? Hãy để cho Chúa Giêsu lấp đầy lòng bạn với sự bình an, niềm vui, và tình yêu. Và hãy dâng cho Thiên Chúa mọi sự bạn có và ước muốn – cuộc sống, gia đình, bạn bè, sức khỏe, danh dự, tài sản, và tương lai của bạn. Nếu bạn tìm kiếm nước của Người trước, Người sẽ ban cho bạn mọi thứ bạn cần để biết, để yêu, và để phục vụ Người bây giờ và được ở bên Người mãi mãi.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là hy vọng và là sự sống của con. Xin cho con không bao giờ ngừng đặt tất cả sự tin cậy nơi Chúa. Xin ban cho con niềm vui và sức mạnh của Chúa Thánh Thần để con có thể can đảm chỉ cho người khác biết sự hiện diện cứu độ và lời ban sự sống vĩnh cửu của Chúa.

 

Tác giả: Don Schwager
(http://dailyscripture.servantsoftheword.org/readings/)
Bro. Paul Thanh Vu – chuyển ngữ

Từ khóa:

ông bà, sụp đổ

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận