Thứ Hai tuần 4 Mùa Vọng

Đăng lúc: Thứ hai - 19/12/2016 01:51 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
Thứ Hai tuần 4 Mùa Vọng, năm A
Lời Chúa: 
 Lc 1,5-25

Vào thời Hêrôđê làm vua xứ Giuđêa, có một tư tế tên là Giacaria, thuộc phiên ban Abia, và vợ ông bởi dòng dõi Aaron, tên là Elisabéth. Cả hai là người công chính trước mặt Thiên Chúa, ăn ở theo mọi giới răn và lề luật của Chúa, không ai trách được điều gì. Nhưng họ lại không con, vì Elisabéth son sẻ, và cả hai đã đến tuổi già. Xảy ra khi Giacaria chu toàn chức vụ tư tế trước mặt Thiên Chúa, theo lượt của phiên mình như tục lệ hàng tư tế, ông bắt thăm và trúng việc vào cung thánh Chúa mà dâng hương. Ðang lúc toàn thể đám đông dân chúng cầu nguyện bên ngoài, trong giờ dâng hương. Bấy giờ Thiên Thần Chúa hiện ra cùng ông, đứng bên phải hương án. Giacaria thấy vậy hoảng hốt, sự kinh hoàng đột nhập vào ông. Nhưng Thiên Thần nói với ông rằng: "Giacaria, đừng sợ, vì lời ngươi cầu nguyện đã được nhậm rồi. Elisabéth  vợ ngươi sẽ hạ sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên trẻ là Gioan. Ngươi sẽ được vui mừng hân hoan, và nhiều người cũng sẽ vui mừng, vì việc trẻ sinh ra. Vì trẻ nầy sẽ nên cao trọng trước mắt Chúa, sẽ không uống rượu và thức có men, sẽ được tràn đầy Thánh Thần ngay từ lòng mẹ, sẽ đem nhiều con cái Israel trở về cùng Chúa là Thiên Chúa. Trẻ nầy sẽ đi trước Người, trong thần trí và quyền lực của Elia, để đổi lòng dạ cha ông về với con cháu, kẻ ngổ nghịch về lại với lương tri của những người công chính, dọn cho Chúa một đoàn dân chuẩn bị. Giacaria thưa với Thiên Thần rằng: "Làm sao tôi biết được, vì tôi đây đã già, và vợ tôi cũng đã cao niên?" Thiên Thần liền đáp: "Ta là Gabriel, ta đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, ta được sai đến nói với ngươi, và báo cho ngươi tin lành nầy. Thì đây, ngươi sẽ nín câm và không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra; bởi vì ngươi đã không tin lời ta, là những lời sẽ nên trọng khi đến thời của chúng". Dân chúng đang trông đợi Giacaria, lấy làm lạ vì ông ở lâu trong cung thánh. Nhưng lúc ra, ông không nói được, và họ biết ông đã thấy điềm lạ trong cung thánh. Còn ông thì chỉ làm hiệu cho họ, và vẫn bị câm. Khi những ngày thánh vụ của ông đã mãn, ông trở về nhà. Sau những ngày ấy, Elisabéth vợ ông thụ thai, và bà ẩn mình trong năm tháng, bà nói rằng: "Chúa đã làm cho tôi thế nầy, trong những ngày Người đoái thương, cất nổi khổ nhục tôi khỏi người đời.

(Nguồn: Ủy Ban Kinh Thánh / HĐGMVN)

"Thiên Thần Gabriel báo trước việc Gioan Tẩy Giả sinh ra".

 
Suy niệm: 

A. Phân tích ( Hạt giống...)

Bài Tin Mừng hôm nay giới thiệu hoàn cảnh sinh ra nhân vật thứ hai sẽ dọn đường cho Chúa Cứu thế : Gioan Tiền hô.

1. Ông Dacaria và bà Êlisabét được trình bày theo hình ảnh của những tổ phụ thời Cựu Ước : công chính, tuân giữ mọi đều răn và mệnh lệnh Thiên Chúa, nhưng son sẻ và cao niên (cũng như Abraham, Sara ; cha mẹ của Samson ; cha mẹ của Samuel v.v.). Do đó có thể nói hai ông bà là đại biểu của Cựu Ước.

2. Đứa con mà họ sẽ sinh ra cũng là đại biểu của Cựu Ước : Gioan được mô tả như các ngôn sứ (được Thiên Chúa gọi ngay từ lòng mẹ, chính Thiên Chúa đặt tên cho, rượu lạt rượu nồng đều không uống, đầy thần khí và uy quyền của ngôn sứ). Gioan sẽ thay mặt Cựu Ước để giới thiệu Đức Giêsu của Tân Ước.

3. Việc sinh con trong hoàn cảnh son sẻ tuổi già của các nhân vật Cựu Ước và của vợ chồng Dacaria chuẩn bị cho cuộc sinh ra đặc biệt của Chúa Giêsu, bởi vì “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37)

B. Suy niệm: ( ... nảy mầm)

1. Theo cái nhìn đức tin, và trong chương trình cứu độ của Chúa, mỗi người sinh ra đều có một ơn gọi, một sứ mệnh. - Xin Chúa cho con nhìn ra và xác tín ơn gọi, sứ mệnh của con hôm nay. Xin Chúa cho con cũng nhìn ra và quý trọng ơn gọi, sứ mệnh của anh chị em đang sống bên con, nhất là sứ mệnh dọn đường cho Chúa đến.

2. Việt Nam ta có một truyện cổ nói lên niềm tin dân gian vào sứ mệnh, vào số mệnh của từng con người trên đời. - Nhà kia có ba cậu con trai. Một cậu nổi tiếng là ‘phá gia chi tử’, tiêu xài phung phí, phá của. Cậu khác quanh năm làm ăn quần quật, không dám tiêu xài một xu nào. Cậu thứ ba tuy không phá của nhưng cũng chẳng chịu làm gì hết. Một ngày nọ ba cậu đều hấp hối. Trước khi chết ba cậu lần lượt nói rõ lý do tại sao mình sắp chết. Cậu ‘phá của’ nói rằng nhà này (ý nói cha mẹ cậu) kiếp trước nợ nần tôi nên kiếp này tôi đầu thai vô để đòi nợ. Nay đòi xong, tôi ra đi. Cậu ‘làm quần quật’ nói rằng kiếp trước tôi mắc nợ nhà này, nay đầu thai để trả nợ, đã trả xong nay tôi ra đi. Còn cậu cuối cùng nói rằng tôi chẳng dính dáng nợ nần gì với nhà này. Tôi đầu thai vô đây để làm nhân chứng. Nay chứng kiến hai đứa kia đã đòi xong nợ, đã trả hết nợ, vậy tôi ra đi. - Chúng ta không tin vào quan niệm đầu thai để đi vào một định mệnh nghiệt ngã, nhưng chúng ta tin vào một sứ mệnh riêng, có tính cách mời gọi và thôi thúc, mà Chúa gửi gắm cho mỗi người chúng ta.

3. Giacaria bị câm nín một thời gian sau đó hát lên bài ca nổi tiếng Benedictus. Đời sống đạo của ta cũng có thể có nét gì tương tự như vậy. Sau những thử thách, sau những gian khổ nghiền ngẫm, sau mùa đông…. Sẽ là niềm hân hoan an bình, sẽ là bài ca chúc tụng, sẽ là những bông hoa tươi đẹp….nếu ta biết vững niềm tin cậy phó thác vào tình thương của Chúa.

4. “Một sứ thần hiện ra với Dacaria và bảo : “Bà Êlisabét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai và ông phải đặt tên cho con là Gioan”. Dacaria thưa rằng : “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy ? Vì tôi đã già mà nhà tôi cũng đã lớn tuổi” (Lc 1,13.18)

Cô Isabelle 19 tuổi, nữ sinh viên người Pháp, đã cảm thấy “Thiên Chúa không còn là Thiên Chúa nữa”, vì sau những đau khổ, mất mát xảy đến với cô, Thiên Chúa đã “ngoảnh mặt làm ngơ”. Cô không còn thiết sống nữa. Nhưng chính trong bước đường cùng ấy, theo lời khuyên của một người bạn, cô đã “đến và ở lại với Chúa”, và cô đã cảm nghiệm được lòng nhân từ của Người, đến nỗi có thể thốt lên như thánh Phaolô : “Không gì có thể tách tôi ra khỏi Tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Kitô”.

Cuộc sống đã hơn một lần khiến tôi cảm thấy không biết phải dựa vào đâu để tin vào Thiên Chúa và chấp nhận những gì xảy đến cho tôi. Cũng như ông Dacaria và cô Isabelle, trước những thách đố của cuộc sống, tôi cũng cảm thấy bối rối, lo âu, không biết nương nhờ ai để có thể đứng vững.

Lạy Chúa, xin cho con biết đến và ở lại với Chúa, tìm và gặp nơi Ngài chỗ nương thân. (Epphata)

Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Cầu nguyện: 

Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,

Chúa đã đến lần thứ nhất, đã nhập thế làm người và qua đó trao ban cho chúng con niềm vui ơn cứu độ. Chúng con thực sự vui mừng vì có Chúa ở cùng chúng con. Chúng con thật hạnh phúc vì có Chúa luôn đồng hành với chúng con trong cuộc sống. Qua bí tích Thánh Thể, Chúa đến và lưu lại trong tâm hồn chúng con. Chúng con xin hết lòng cảm tạ, tri ân tình yêu cao sâu mà Chúa đã dành cho chúng con.

Vâng, lạy Chúa, tình yêu đó hôm nay Chúa đã dành cho gia đình Giacaria. Chúa đã viếng thăm gia đình ông. Chúa đã tỏ lòng thương xót gia đình ông qua món quá vô giá là đứa con được sinh ra trong lòng thương xót của Chúa. Xin cho các gia đình trẻ hôm nay biết yêu mến sự sống là quà tặng của Chúa. Xin cho họ biết quảng đại đón nhận con cái là hồng ân Chúa ban. Xin đừng để tính ích kỷ, thói hưởng thụ khiến họ loại trừ mầm sống nơi các thai nhi vô tội. Xin cho các quốc gia trên toàn thế giới biết tôn trọng sự sống của con người để luôn dùng luật pháp mà bảo vệ sự sống chứ không bóp chết sự sống như một số quốc gia vẫn làm.

Lạy Chúa, Chúa là Ðấng giầu lòng xót thương. Xin thương ban cho chúng con tâm hồn bình an, thân xác khỏe mạnh. Xin bồi bổ tâm hồn chúng con bằng ân sủng và tình thương của Chúa. Amen.

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Xin mời xem thêm:

BÀI ĐỌC I: 

Tl 13, 2-7, 24-25a

"Thiên Thần báo trước việc Samson sinh ra".

Bài trích sách các Thẩm Phán.
Ngày ấy có một người đàn ông, bởi đất Sara và thuộc chi họ Ðan, tên là Manuel, có người vợ son sẻ. Thiên Thần Chúa hiện ra nói với bà ấy rằng: "Ngươi son sẻ không con; nhưng sẽ được thụ thai, và hạ sinh một con trai. Vậy ngươi hãy cẩn thận, đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn món gì không thanh sạch. Vì ngươi sẽ được thụ thai, và hạ sinh một con trai. Lưỡi dao cạo sẽ không chạm đến đầu nó; nó là người được hiến dâng cho Thiên Chúa từ thuở nhỏ và từ lòng mẹ; chính nó sẽ bắt đầu giải phóng Israel khỏi tay người Phi-li-tinh." Bà nầy đi nói với chồng rằng: "Có một người của Thiên Chúa đến cùng tôi, với diện mạo Thiên Thần, rất đáng sợ. Tôi hỏi người ấy là ai, bởi đâu đến, gọi tên gì. Người ấy không muốn nói cho tôi biết. Nhưng lại trả lời rằng: "Rồi đây, ngươi sẽ được thụ thai và hạ sinh một con trai: hãy cẩn thận, đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn món gì không thanh sạch. Vì con trẻ sẽ là người được hiến dâng cho Thiên Chúa từ thuở nhỏ và từ trong lòng mẹ, cho đến ngày nó chết". Bà đã hạ sinh một con trai, và gọi tên là Samson. Hài nhi lớn lên, và Chúa đã chúc phúc cho nó. Và thần tri Chúa bắt đầu ở với nó.
 

(Nguồn: Ủy Ban Kinh Thánh / HĐGMVN)

SUY NIỆM

1. Truyền tin cho ông Dacaria và truyền tin cho Đức Maria

Sự kiện ông Dacaria và bà Elizabet, vừa hiếm muộn và vừa cao niên, nhưng vẫn sinh con như lời sứ thần loan báo trong bài Tin Mừng, có tương quan đặc biệt đối với lịch sử cứu độ và đối với lời “xin vâng” của Đức Maria, vốn làm cho lịch sử cứu độ được hoàn tất nơi Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời nhập thể. Chúng ta sẽ nghe lại lời “xin vâng” của Đức Maria trong biến cố truyền tin trong Thánh Lễ ngày mai. 
Thực vậy, trong trình thuật truyền tin cho Đức Maria, trường hợp bà Elizabet, vừa hiếm muộn và vừa cao niên, nhưng vẫn thụ thai, được nêu ra hai lần một cách long trọng:

– Lần đầu, trường hợp của bà Elizabet làm nên bối cảnh của trình thuật truyền tin : « Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a » (Lc 1, 26-27)

– Và lần thứ hai, trường hợp của bà Elizabet làm nên chứng từ về quyền năng sáng tạo sự sống của Thiên Chúa ; và lời chứng này đủ mạnh để cho Đức Maria can đảm thưa « xin vâng ». Thực vậy, sứ thần Gabrien đã thuyết phục Đức Maria : « Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được »

Như thế, sự kiện bà Elizabeth với cung lòng vừa hiếm muộn và vừa già cỗi nhưng vẫn có thể mang thai, có ý nghĩa đặc biệt trong lời xin vâng của Mẹ và trong mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa, bởi vì sự kiện này nhắc nhớ cách hành động của Đức Chúa trong toàn bộ lịch sử cứu độ. Đó là trường hợp các phu nhân hiếm muộn của các tổ phụ, mà vẫn cứ sinh con được, và tiêu biểu nhất là bà Sara, vợ của tổ phụ Abraham. Và rộng hơn nữa, Đức Chúa có thể mở lối cho Dân Người đi, ở nơi không thể, là biển cả, là đường cùng, là tai họa, là sự dữ, là tội lỗi, như lời Thánh Vịnh diễn tả :

Đường của Chúa băng qua biển rộng,
lối của Người rẽ nước mênh mông, 
mà chẳng ai nhận thấy vết chân Người.
(Tv 77, 22)

Và hơn thế nữa, Đức Chúa là Đấng sáng tạo ra sự sống, làm trào vọt ra sự sống từ lòng dạ « vô sinh » của thiên nhiên, trong công trình tạo dựng. Như thế, Thiên Chúa là Đấng có thể làm phát sinh sự sống ở nơi mà con người không còn hi vọng gì và không thể làm gì được.

2. « Ông không nói với họ được »

Về chuyện ông Dacaria bị câm, như bài Tin Mừng kể lại cho chúng ta, nhưng sau này, ngay sau khi đặt tên cho con là Gioan, thì ông nói được, cũng rất có ý nghĩa. Sự kiện ông không nói được, là một dấu chỉ nhắc nhớ ông rằng, có một lúc ông đã không tin vào quyền năng Thiên Chúa có thể thi ân ở nơi mà con người không còn hi vọng gì, có thể làm phát sinh sự sống nơi cung lòng hiếm hoi và già cỗi của bà Elizabeth. « Không nói được », không chỉ là không nói được ngôn ngữ, nhưng nhất là không thể ca tụng Chúa được. Thật vậy, khi người ta không tin, không nhận ra ơn Chúa ban cho mình và người khác, thì không thể ca tụng Chúa được ; và khi ghen tị nhau và kêu trách Thiên Chúa, người ta càng không thể tạ ơn và ca tụng Thiên Chúa.

Chính khi ông đặt tên cho con là Gioan, « Gioan » có nghĩa là Thiên Chúa Thi Ân, thì ông « lưỡi ông lại mở ra, ông nói được » và lời nói đầu tiên là lời chúc tụng Thiên Chúa :

Chúc tụng Đức Chúa, là Thiên Chúa Israel,
đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người.

Đó là lời tán tụng Benedictus bất hủ, vang lên mỗi ngày trong Giờ Kinh Sáng của chúng ta. Ước gì, khi đọc hay hát lời chúc tụng này, chúng ta mặc lấy tâm tình của ông Dacaria. Hình ảnh giấc ngủ còn dẫn chúng ta đi xa hơn, đó là lúc chúng ta nhắm mắt và câm lặng tuyệt đối trong sự chết, nhưng với niềm hi vọng lại được mở mắt và mở miệng chúc tụng Thiên Chúa trong niềm vui của Sáng Tạo Mới.

Xin cho chúng ta tin tưởng và nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban, để có thể cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa : « Lạy Chúa, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài ». Nếu không, dù chúng ta có nói bi bô suốt ngày, thì cũng như là « người câm » vậy thôi ! Nhưng chúng ta được mời gọi đi xa hơn, bằng cách định hướng đời mình và từng ngày sống theo năng động chúc tụng Thiên Chúa. Và để được như thế, chúng ta cần tín thác và nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban, cần đặt đời sống, ngày sống và hành động trên nền tảng tâm tình biết ơn.

3. Hành trình hướng tới lời ca tụng

Mỗi sáng, khi hát bài ca Benedictus, có lẽ chúng ta ít chú ý đến điều gì hay đúng hơn hành trình nào, đã dẫn ông Dacaria đến lời ca tụng bất hủ này. Thực vậy, theo Tin Mừng Luca, bài ca này là điểm tới của cả một hành trình thật dài : khởi đi từ kinh nghiệm lắng nghe Lời Chúa, ngang qua biến cố gặp gỡ sứ thần Gabriel trong đền thờ, mà bài Tin Mừng hôm nay kể lại cho chúng ta, tiếp theo là thời gian hơn chín tháng thinh lặng, tương ứng với thời gian bé Gioan được cưu mang trong bụng mẹ, và kết thúc bằng biến cố đặt tên ; và từ đó trào vọt lời nói đầu tiên, là bài ca Benedictus, mãi mãi được hiện tại hóa nơi lời kinh hằng ngày và nơi cuộc đời của chúng ta.

Hơn chín tháng câm lặng về mặt thể lí, nhưng chúng ta cũng có thể hiểu đó một cuộc « tĩnh tâm » dài ; vì chắc chắn, đối với ông Dacaria, đó là thời gian suy niệm và chiêm niệm, để khám phá sự hiện diện và cách hành động của Thiên Chúa trong lịch sử thánh của Dân Chúa, trong đời mình và đặc biệt nơi hồng ân lạ lùng « Gioan ». Như thế, rốt cuộc, đối với ông Dacaria, chín tháng mười ngày thinh lặng, chính là thời gian « cưu mang » Lời Chúa. Cũng cùng một thời gian đó, Gioan được cưu mang trong dạ mẹ cách lạ lùng : « Khi thời gian phục vụ ở Đền Thờ đã mãn, ông trở về nhà. Ít lâu sau, bà Ê-li-sa-bét vợ ông có thai, bà ẩn mình năm tháng. Bà tự nhủ: « Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời. » (c. 23-25)

Chín tháng thinh lặng phải là chín tháng cầu nguyện, để có thể hát lên lời ca tụng Thiên Chúa tuyệt vời như vậy, lời mà Giáo Hội đặt vào miệng chúng ta mỗi ngày trong Giờ Kinh Phụng Vụ :

Chúc tụng Đức Chúa, là Thiên Chúa Israel,
đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người.

Hơn nữa, đó là lời được thốt ra bởi người « đầy Thánh Thần » (c. 67). Lời ca tụng như thế đã trở thành chính là Lời Chúa cho chúng ta.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc


Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận