Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng CN II Mùa Vọng B

Đăng lúc: Thứ năm - 04/12/2014 23:02 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng

Chúa Nhật II Mùa Vọng – năm B

Lời Chúa:
 Is 40, 1-5. 9-11; Tv 84, 9ab-10. 11-12. 13-14; 2 Pr 3, 8-14; Mc 1, 1-8

***************

MỤC LỤC
1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: Sứ vụ của Gioan – Khởi đầu Tin Mừng
2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Inhaxio Hồ Thông
3. Chú giải và suy niệm của Quesson
4. Người phu quét lá (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
5. Hãy chuẩn bị tâm hồn cho xứng để đón Chúa đến (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
6. Chân dung Gioan Tẩy giả (P. Trần Đình Phan Tiến)
7. Đoàn dân đang trông đợi (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
8. Dọn đường (Trầm Thiên Thu)
9. Dọn đường đón Chúa (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
10. Đón Chúa đến trong hoang mạc đời (JM. Lam Thy ĐVD.)
11. Dọn đường cho Chúa (ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt)
12. Kẻ dọn đường (Lm G. Nguyễn Cao Luật)
13. Hãy dọn đường cho Chúa đến (Linh mục Inhaxiô Trần Ngà)
14. Gioan, con người thật lạ lùng (Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
15. Chuẩn bị đón Chúa đến (Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
16. Hãy dọn đường đón Chúa (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
17. Lắng nghe tiếng Chúa (Lm. Phêrô Trần Văn Trợ)
18. Mở đường để làm gì? Đường dẫn tới đâu? (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

 

CN2MVB

A. BẢN VĂN

Bài đọc I (Is 40, 1-5. 9-11)

Chúa ngươi phán: Hỡi dân Ta, hãy an tâm, hãy an tâm! Hãy nói với Giêrusalem, và kêu gọi rằng: Thời nô lệ đã chấm dứt, tội lỗi đã được ân xá, Chúa đã ban ơn nhiều gấp hai lần tội lỗi. Và có tiếng kêu trong hoang địa rằng: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa chúng ta trong hoang địa cho ngay thẳng. Hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và vinh hiển Chúa sẽ xuất hiện, mọi người sẽ được thấy vinh quang Thiên Chúa, vì Ngài đã phán. Hỡi ngươi là kẻ đưa tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao. Hỡi ngươi là kẻ đưa tin mừng cho Giêrusalem, hãy mạnh dạn cất tiếng. Hãy cất tiếng cao, đừng sợ! Hãy nói cho các dân thành thuộc chi họ Giuđa rằng: Ðây Thiên Chúa các ngươi, đây Chúa là Thiên Chúa các ngươi sẽ đến trong quyền lực; cánh tay Người sẽ thống trị. Người mang theo những phần thưởng chiến thắng và đưa đi trước những chiến lợi phẩm. Người chăn dắt đoàn chiên Người như mục tử. Người ẵm chiên con trên cánh tay, ôm ấp chúng vào lòng, và nhẹ tay dẫn dắt những chiên mẹ.

Bài đọc II (2 Pr 3, 8-14)

Anh em thân mến, có một điều anh em không thể không biết là một ngày đối với Chúa như ngàn năm, và ngàn năm như một ngày. Không phải Chúa chậm trễ thi hành lời hứa của Người, như có vài người lầm tưởng, nhưng vì anh em, Người hành động nhẫn nại, Người không muốn ai phải hư mất, nhưng muốn mọi người ăn năn sám hối. Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Trong ngày đó, các tầng trời qua đi trong những tiếng rung chuyển mạnh, ngũ hành đều cháy tiêu tan, trái đất cùng mọi công trình kiến tạo đều bị thiêu huỷ. Vì mọi vật ấy tiêu tan đi, nên anh em càng phải sống thánh thiện và đạo đức biết bao, khi anh em mong chờ và thôi thúc ngày Chúa đến, ngày mà các tầng trời bốc cháy tiêu tan, và ngũ hành bị thiêu rụi. Nhưng theo lời Người hứa, chúng ta mong đợi trời mới đất mới, trong đó công lý sẽ ngự trị.

Tin Mừng (Mc 1, 1-8)

Khởi đầu Phúc Âm của Ðức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa. Như có lời Tiên tri Isaia chép rằng: Ðây Ta sai Thiên Thần của Ta đến trước mặt ngươi để dọn đường cho ngươi. Có tiếng kêu trong hoang địa rằng: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”. Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong hoang địa, rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội. Dân cả miền Giuđêa và Giêrusalem tuôn đến với người, thú tội và chịu phép rửa trong sông Giođan. Lúc đó Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng. Người rao giảng rằng: “Ðấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi dây giày Người. Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa các ngươi, còn Ngài, Ngài sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần”.

[Mục Lục]

 

khoangcah2

B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI VÀ SUY NIỆM

Bài 1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: SỨ VỤ CỦA GIOAN – KHỞI ĐẦU TIN MỪNG

  1. Ngữ cảnh

Có thể theo G. Gnilka mà coi Mc 1,1-15 là lời tựa hoặc mở đầu của Tin Mừng Máccô: phần này đăt trọng tâm vào “Tin Mừng” (x. cấu trúc đóng khung với từ “Tin Mừng” ở đầu và cuối đoạn). Như thế, đoạn văn 1,1-8 là đoạn mở đầu của Lời tựa này liên hệ đến hoạt động của Gioan Tẩy Giả trong hoang địa.

  1. Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Danh hiệu của Tin Mừng (1,1);

2) Hoạt động của Gioan (1,2-6):

  1. a) Câu trích Isaia xác định vai trò của Gioan (cc. 2-3),
  2. b) Giới thiệu tóm tắt bản thân và hoạt động của Gioan (cc. 4-6);

3) Lời loan báo của Gioan (1,7-8).

  1. Vài điểm chú giải

Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa (1): Câu này là tiêu đề của cc. 1-8 nói về công việc rao giảng của Gioan Tẩy Giả, hay là tiêu đề của phần Mở (cc. 1-15), hoặc của toàn tác phẩm? Phải chăng sứ vụ, cuộc Khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu chỉ là khởi đầu của Tin Mừng, và Tin Mừng sẽ được tiếp tục loan truyền nhờ sứ vụ của Giáo Hội? Thật ra, không có gì cho thấy rằng Mc coi hoạt động của Giáo Hội như một phần của Tin Mừng cả, y như thể Giáo Hội phải tự rao giảng về chính mình. Cứ theo nội dung của tác phẩm, ta thấy Tin Mừng mà Giáo Hội phải công bố chính là biến cố cứu độ đã xảy ra trước khi có Giáo Hội và đã khai sinh ra Giáo Hội, đó là sứ vụ của Đức Giêsu và cuộc Vượt Qua của Người.

Có thể nói c. 1 này là tiêu đề của phần Mở của TM Mc: hoạt động của Gioan, vị Tiền Hô loan báo và ban phép rửa cho Đức Kitô, trong hoang địa, là phần mở cho biến cố cánh chung (sứ vụ, cuộc đời đau khổ và cuộc tôn vinh của Đức Giêsu).

Từ ngữ “Tin Mừng”, được vay mượn từ Cựu Ước (x. Is 40,9; 52,7; 61,1…), được hiểu tương đương với lời loan báo tiên khởi (kêrygma) được triển khai rộng ra (x. Công vụ). Thế mà kêrygma của các Tông đồ (x. Cv 1,21t; 10,37; 13,24) cũng như TM Mc bắt đầu với sứ vụ của Gioan Tẩy Giả. Vậy chính mầu nhiệm này là “khởi đầu Tin Mừng” (x. cùng một kiểu diễn tả: Hôsê 1,2 ).

Tin Mừng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa: Phần Mở từ c. 1 đến c. 15: hai từ ngữ “Tin Mừng” đóng khung bản văn này. Kiểu nói “Tin Mừng Đức Giêsu Kitô” có thể hiểu là “Tin Mừng về [= có đối tượng là] Đức Giêsu Kitô” (thuộc-cách chỉ đối tượng, objective genitive), hoặc “Tin Mừng của [= đến từ] Đức Giêsu Kitô” (thuộc-cách chỉ chủ từ, subjective genitive), hoặc “Tin Mừng là chính Đức Giêsu Kitô” (thuộc-cách giải thích, epexegetic genitive; xem sự song đối giữa “vì Đức Kitô” và “vì Tin Mừng”: 8,35; 10,29; 13,9).

Dưới ánh sáng của biến cố Phục Sinh, các Kitô hữu đã hiểu Đức Giêsu là Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa, theo nghĩa là Người không còn phải là Đấng Mêsia trần thế và dân tộc mà người Do Thái từng mong đợi, nhưng là Đấng huyền nhiệm, đã tỏ mình ra là “Đức Chúa” (x. Cv 2,36) và “Đấng Kitô” (4,26t; 10,38), qua biến cố Phục Sinh, nay ở vào tư thế có thể giải thoát mọi người khỏi Satan, tội lỗi, đau khổ và cái chết. Bây giờ khi đọc lại câu truyện trước Phục Sinh Mc viết ra, họ hiểu rằng tại hoang địa và qua cuộc sống công khai (với những cuộc trừ quỷ), Đức Giêsu đã khai mào chiến thắng bằng sức giải phóng ấy. Họ cũng hiểu rằng Đức Giêsu truyền lệnh giữ thinh lặng (“bí mật thiên sai”) là vì không muốn người ta hiểu lầm về tư cách và sứ vụ của Người: Phêrô đã hiểu sai nội dung danh hiệu Mêsia (x. 8,29-33); Người chỉ nhận là Con Thiên Chúa (14,61t) và kẻ đại diện cho thế giới ngoại giáo chỉ tuyên xưng Người như thế (15,39) vào lúc Người bị kết án và xử tử. Người ta chỉ có thể hiểu tất cả các danh hiệu của Đức Giêsu xuyên qua mầu nhiệm đau khổ của Người. Và các Kitô hữu cũng phải hiểu rằng họ chỉ có thể tuyên xưng Đức Giêsu thật là Đấng Kitô và là Con Thiên Chúa, bằng cách bước theo Người trên con đường đau khổ (x. 8,34; 10,35-45).

- Câu 2-6:

Phân đoạn này có lược đồ A-B-B’-A’:

A = cc. 2-3 : mở đầu, trích các ngôn sứ,

B = c. 4 : Gioan rao giảng phép rửa tỏ lòng sám hối.

(B)

Câu này song đối với câu sau,

B’= c. 5 : đám đông đến với Gioan để thú tội và nhận phép rửa,

A’= c. 6 : kết, nói đến kiểu sống của Gioan như là một ngôn sứ.

So sánh cc. 2-3 trích Ml 3,1 và Is 40,3 với Mt (3,3; 11,10), Lc (3,4-6; 7,27) và Ga (1,23), ta hiểu các tác giả Tin Mừng có chung một nguồn, nhưng Mc đã vừa thêm vừa tổng hợp câu truyện Gioan rao giảng với bài tường thuật của ngài về nhóm sứ giả, để làm nên một mở đầu long trọng và để có thể nêu bật ý tưởng này là khởi đầu Tin Mừng Cứu Độ đã được chính các ngôn sứ xác định nơi cuộc xuất hiện của Gioan Tẩy Giả.

Mc đã trích Ml 3,1a (… “mặt Ta”) dưới ảnh hưởng của Xh 23,20 LXX (“mặt Con”) để biến vị sứ giả thành tiền hô không phải của Thiên Chúa mà là của “Đức Chúa” (x. Ml 3,1b), là Đức Giêsu. Ngoài ra, hẳn là Mc cũng nghĩ đến đoạn cuối của sách Ml (3,23t): ngôn sứ Êlia có vai trò tiền hô.

Tác giả cũng sử dụng bản văn Is 40,3 (LXX) cùng với các tác giả Tin Mừng khác: “Đức Chúa” đây là Đức Giêsu Kitô, và “vạch lối cho thẳng để Thiên Chúa đi” được sửa thành “để Người đi”.

- đi trước mặt Con = đi trước Con.

Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện (4): Câu này với các câu trích ở trên chỉ là một câu duy nhất, được ngắt bằng dấu phết: “Chiếu theo lời đã chép …, ông Gioan Tẩy Giả…”. Những gì bây giờ được nói về Gioan thì làm ứng nghiệm các sấm ngôn, đặc biệt sấm ngôn Is 40,3: ông ở “trong hoang địa”, và tại đó ông “hô” để kêu gọi người ta hoán cải, mà “dọn sẵn con đường của Đức Chúa” (Đức Giêsu).

Gioan “rao giảng thanh tẩy hối cải, để được tha thứ tội khiên” (NTT). Đấy là hai hành vi tách biệt nhưng liên hệ với nhau, vì thế đã được diễn tả trong một công thức duy nhất.

- sám hối, metanoia: sự hoán cải, do động từ metanoeô, “suy tưởng sau”, “suy nghĩ tiếp đó”; “thay đổi ý kiến”; “hối tiếc”, “hối hận”, “hoán cải”. Đây là việc chuyển đi từ tình trạng này sang một tình trạng khác, tức là thay đổi trọn vẹn lối sống. Sự thay đổi này có một phương diện tiêu cực (bỏ [apo, from] con đường tội lỗi: x. Cv 8,22; Dt 6,1) và một phương diện tích cực (quay về [eis, epi, to] với Thiên Chúa: Cv 20,21; 26,20).

Trong TM Mc, danh từ metanoia được dùng 1 lần (1,4) và động từ metanoeô được dùng 2 lần (1,15; 6,12), như thế là ít hơn các TMNL khác (metanoiaMt 2 lần, Lc 5x, Ga 0x, Cv 6x,Phaolô 4x, Dt 3x, 2 Pr 1x; metanoeôMt 5x, Lc 9x, Ga 0x, Cv 5x, Phaolô 1x, Kh 12x), nhưng lại có một cách áp dụng độc đáo. Tác giả áp dụng hai từ này cho hoạt động của Gioan Tẩy Giả (1,4), Đức Giêsu (1,15) và Nhóm Mười Hai (6,12), như vậy liên kết vị Tiền Hô, Đức Giêsu và các sứ giả của Người với nhau (xem một cách dùng tương tự cho hai động từ kêryssein [loan báo]: 1,4.7; 1,14.38t; 3,14 và 6,12; paradidonai [giao nộp]: 1,14; 9,31; 10,33; 13,9.11). Các từ đó lại luôn lệ thuộc động từ kêryssein, nghĩa là các từ đó chính là nội dung của sứ điệp các ông phải mang đi truyền bá.

- phép rửa tỏ lòng sám hối: Cụm từ Hy Lạp baptisma metanoias (thanh tẩy hối cải, x. Lc3,3; Cv 13,24; 19,4): metanoias ở thuộc-cách (genitive) xác định đặc tính của phép rửa Gioan loan báo. Đây là một kiểu nói Sêmít, có nghĩa là “một phép rửa tượng trưng hoặc diễn tả sự hoán cải”. Cho dù Gioan có thuộc về phong trào Êxêni ở Qumrân hay không, phép rửa của ông tương tự phép rửa của người Êxêni, nhất là ở điểm cả hai phép rửa đều diễn tả một sự hoán cải nội tâm, sự hoán cải này vừa là hành vi của con người vừa là ân huệ của Thiên Chúa, cũng như chuẩn bị các tâm hồn đón tiếp Thiên Chúa sắp đến can thiệp vào thời cánh chung. Tuy nhiên, Gioan khác người Êxêni ở hai điểm: không nghĩ rằng tội lỗi gây nên một sự ô nhơ nơi thân xác; không buộc các hối nhân phải sống một năm thử thách; chỉ ban phép rửa một lần, vì đây là hành vi chuẩn bị cuối cùng để đón Đấng Mêsia ngự đến.

Mọi người từ khắp miền Galilê và thành Giêrusalem (5): Mc nhắm cho thấy mục tiêu của sứ vụ Gioan Tẩy Giả là khai mạc giai đoạn cuối cùng của Chương trình Thiên Chúa cứu độ loài người. Như thế, kiểu nói phóng đại (“toàn thể”, “khắp”) về miền Giuđê và Giêrusalem, kinh đô tôn giáo của Do Thái giáo, không phải là không có chủ ý, nhất là lại có quy chiếu về việc thanh tẩy Giuđa và Giêrusalem thể theo Ml 3,4 hoặc quy chiếu về sứ điệp vui tươi được ngỏ với Giêrusalem và các thành Giuđa thể theo Is 40,9t. Nay đã khởi sự biến cố cánh chung: câu hỏi phải đặt ra là không biết Dân Thiên Chúa có nhận biết chăng “Đức Kitô, Con Thiên Chúa” (c. 1) chính là “Đấng quyền thế hơn” (c. 7), Đấng mà Gioan đang dọn đường đón tiếp.

kéo đến: Thì vị hoàn (imperfect) exeporeueto diễn tả chuỗi người liên tục kéo đến để nghe Gioan giảng và nhận phép rửa. Giới từ ek (out, of) muốn nói là ra khỏi miền Giuđê và thành Giêrusalem.

- Gioan mặc áo lông lạc đà… (6): ên .. endedymenos: trợ động từ eimi ở thì vị hoàn cộng với phân từ quá khứ của động từ chính endyô nói lên cách thức ăn mặc quen thuộc của Gioan. Ông được giới thiệu có cách sống như một con người của hoang địa, một nhà khổ hạnh, một na-dia (x. Lc 1,15), tương tự ngôn sứ Êlia (x. 2 V 1,8; Dcr 13,4).

Trichas kamêlou, “lông lạc đà”, không có nghĩa là “da” lạc đà. Đây là cái áo dài và rộng dệt bằng lông lạc đà. Zônê, “girdle, waitsband; ceinture”, không phải là dây thắt lưng của người Tây phương, nhưng là một thứ như cái “ruột tượng” của ta (x. Mc 6,8).

- Ăn châu chấu: Châu chấu luộc trong nước muối rồi nướng trên than và mật ong rừng là hai thứ lương thực của dân cư sa mạc. Vì bản văn không kể ra thứ lương thực nào khác, ta hiểu ở đây tác giả muốn nêu bật nếp sống khắc khổ của vị Tẩy Giả.

Ông rao giảng (7): ekêryssen, do động từ Hy Lạp kêryssein, “công bố; loan báo”, ở thì vị hoàn, để diễn tả đây là một hoạt động thường xuyên của Gioan. Chúng ta đến đỉnh cao của đoạn văn này, bởi vì chỉ đến đây, Gioan mới lên tiếng mà chỉ cho thấy Đấng ông làm Tiền Hô cho.

Đấng quyền thế hơn tôi: Có lẽ danh xưng này ám chỉ đến Is 40,10 (“Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng [= đến với sức mạnh], tay nắm trọn chủ quyền”). Sự tương phản giữa hai bên lớn đến nỗi Gioan “không đáng cởi quai dép cho Người”, mà đây là công việc thấp hèn đến nỗi một nô lệ Do Thái cũng không buộc phải làm cho chủ (sách Mishna) (x. Mt 3,11; Lc3,16; Ga 1,15.27.30; 3,30; Cv 13,25).

- trong Thánh Thần (8): Các bản văn Nhất Lãm song song (Mt 3,11; Lc 3,16) đọc là “trong Thánh Thần và lửa”. Có lẽ lúc đầu, câu này có hình thức là “gió và lửa” để mô tả biến cố Triều Đại cánh chung của Thiên Chúa ngự đến. Mc chỉ quan tâm đối lập nghi thức chuẩn bị của Gioan với việc thiết lập Nước Thiên Chúa nhờ hoạt động của Đức Kitô, mà không nói đến phán xét. Nhờ đó, Người đưa lại cho “phép rửa trong Thánh Thần” ý nghĩa tích cực là một cuộc tái sinh bên trong.

  1. Ý nghĩa của bản văn

* Danh hiệu của Tin Mừng (1)

Cả bốn quyển mở đầu bộ Tân Ước chỉ bắt đầu được gọi là “Tin Mừng” nhiều năm sau khi được viết ra. Vào thời tác giả Máccô, “Tin Mừng” không có nghĩa là một quyển sách, mà là “những tin vui” do một sứ giả mang đến. “Các tin mừng” là những tin về các chiến thắng, các biến cố may lành, các hiệp ước hòa bình và nhất là tin về các cuộc chào đời. “Các tin mừng” làm bừng lên những niềm hy vọng về một cuộc sống tiện nghi, sức khỏe, bình an, nên dân chúng vui sướng khi nghe được.

Mc 1,1 dùng từ ngữ “tin mừng” để giới thiệu “lời rao giảng của Kitô giáo”, cho chúng ta biết việc cứu độ và hạnh phúc không còn là kết quả của những tin vui về hoàng đế hoặc về một ai đó giống như hoàng đế, nhưng là kết quả đến từ lời rao giảng của Đức Giêsu, cũng là lời giảng về Đức Giêsu, cho thấy đã đến lúc Thiên Chúa can thiệp chung kết vào lịch sử loài người.

* Hoạt động của Gioan (2-6)

Câu trích tổng hợp IsMl và Xh (cc. 2-3) có mục đích xác định vai trò của Gioan trong quan hệ với Đấng Mêsia mà ta biết là chính Đức Giêsu. Nhưng một nét được nêu bật là Gioan không phải là vị Tiền Hô của Con Người sẽ đến, mà là của Đức Giêsu trần thế.

Còn cc. 4-6 giới thiệu tóm tắt bản thân và hoạt động của Gioan: ông loan báo phép rửa bày tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Tác giả đặt đối lập phép rửa bằng nước của Gioan và phép rửa bằng Thánh Thần của Đấng Mêsia. Phép rửa bằng Thánh Thần liên hệ rõ ràng đến phép rửa tội Kitô giáo. Nói đến “để được ơn tha tội” là nêu một khẳng định liên hệ đến Thiên Chúa: Ngài sẵn sàng tha thứ các tội lỗi; nói đến “sám hối” là nêu một khẳng định về loài người: họ có tội và được dạy rằng Thiên Chúa tha tội cho họ. Sứ điệp của Gioan đưa đến cả nỗi sợ hãi lẫn niềm vui.

Dân chúng đã từ khắp nơi kéo đến (khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem); tác giả không nói đến Galilê, vì theo ngài, hoạt động của vị Tiền Hô tập trung vào miền nam. Họ thú nhận tội lỗi: ta có thể nghĩ đến một hành vi tương tự mà các thành viên ở Qumrân làm vào lễ tái lập giao ước (1 QS 1,22–2,1) hoặc người Do Thái làm vào ngày Lễ Xá Tội.

* Lời loan báo của Gioan (7-8)

Tương hợp với câu trích Is nói về tiếng nói của người loan báo, hoạt động của Gioan được mô tả như là một việc “hô to [như anh mõ làng]”; “công bố”; “phổ biến” (kçryssein). Hành vi này đưa ông đến gần Đức Giêsu (1,14.38t), các môn đệ (3,14; 6,12), Tin Mừng (13,10; 14,9), các sứ giả đức tin (1,45; 5,20; 7,36). Cùng với sự đối lập giữa phép rửa của ông với phép rửa của Đấng Mêsia, ông loan báo “Đấng quyền thế hơn (= Đấng mạnh hơn [ông])” đang đến.

+ Kết luận

Đến đây, chúng ta đã có thể hiểu vì sao sứ vụ của Gioan lại là “khởi đầu Tin Mừng”. Bởi vì Tin Mừng là biến cố trước khi là sứ điệp. Qua vị Tẩy Giả, Thiên Chúa thực hiện các Lời Ngài hứa (cc. 2-3); Thiên Chúa thực hiện nơi Đức Giêsu, Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần (cc. 6-8). Như thế, sứ vụ của Gioan đã thuộc về biến cố cánh chung, biến cố này xảy ra khi Đức Giêsu bắt đầu rao giảng tại Galilê và các môn đệ rao giảng khắp tứ phương thiên hạ.

Gioan chỉ là một sứ giả “đi trước mặt” Đức Chúa (c. 2). Nhưng cũng chính ông có nhiệm vụ viết trang dẫn nhập vào Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Chính vì thế, “trong số phàm nhân lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt 11,11).

  1. Gợi ý suy niệm
  2. Chúng ta được mời gọi tin vào sự trung tín của Thiên Chúa: Ngài đã lên kế hoạch cứu độ, thì khi đến thời Ngài đã định, Ngài sẽ ban gửi các vị loan báo Tin Mừng Cứu Độ đến. Sứ điệp Gioan loan báo mang lại cả nỗi sợ hãi lẫn niềm vui, bởi vì ông nói cho họ biết rằng họ bị thất sủng, tương quan của họ với Thiên Chúa đã bị rối loạn, nhưng đồng thời ông khẳng định rằng Thiên Chúa đầy lòng thương xót đối với họ và Ngài muốn thắng vượt tình trạng thất sủng của họ. Đoạn văn này cũng cho thấy Ba Ngôi (Đấng xưng là “Ta”, “Đấng quyền thế hơn” và “Thánh Thần”) cùng làm việc để thực hiện công trình cứu độ.
  3. Gioan không xác định tội ông nói đến là tội gì. Dĩ nhiên ông có thể hiểu ngầm rằng những người đang nghe ông biết các tội của họ. Từ sự hiểu biết này phát sinh ước muốn thú nhận các tội lỗi của mình (1,5). Tuy nhiên, tội căn bản là loài người không nhận biết Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên mình và là Chúa tể của mình, không tự hỏi về ý muốn của Thiên Chúa, nhưng muốn làm chúa tể của chính mình, đi theo những ý muốn của mình. Đặc biệt tội hệ tại việc không tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa vì các điều răn cho biết ý muốn của Thiên Chúa.
  4. Người Kitô hữu cũng có một vai trò tiền hô đối với anh chị em mình. Muốn thế, cần xác định rõ ràng quan hệ của mình với “Đấng đang đến”, để khiêm tốn và trung thực giới thiệu về Người như là Đấng đã đang có mặt trong lịch sử loài người.
  5. Vị Tẩy Giả nhìn người ta lên khỏi nước. Ông gạt đi các lời cám ơn và ca ngợi. Ông nói với họ về “Đấng quyền thế hơn”, Đấng sẽ ban cho họ Thần Khí của đời sống mới. Đời sống này sẽ khởi sự khi người ta nhận ra và đón tiếp Đức Kitô cùng với sự khôn ngoan của Người vào lòng. Họ đang ở tại bờ của một khởi đầu; họ cần sẵn sàng, khao khát, mở lòng ra.
  6. [Mục Lục]

Bài 2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Inhaxio Hồ Thông

Gioan Tẩy Giả, vị sứ giả được Thiên Chúa sai đi để dọn đường cho Đức Giê-su, Ngài là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa.

CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG

Cả ba bài đọc của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Mùa Vọng đều được định vị trong viễn cảnh của việc Thiên Chúa can thiệp vào trong Lịch Sử loài người.

Is 40: 1-5, 9-11

Thiên Chúa truyền cho ngôn sứ I-sai-a đệ nhị hãy an ủi dân Ngài trong cảnh cùng khốn và loan báo cuộc giải thoát gần kề.

2Pr 3: 8-14

Thánh Phê-rô nhắc nhở rằng không phải Thiên Chúa lỗi hẹn, nhưng vì lòng thương xót mà Ngài trì hoản để chúng ta có đủ thời giờ lập công tích đức trong khi chờ đợi trời mới và đất mới mà Chúa đã hứa cho chúng ta.

Mc 1: 1-8

Gioan Tẩy Giả, vị sứ giả được Thiên Chúa sai đi để dọn đường cho Đức Giê-su, Ngài là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa.

BÀI ĐỌC I (Is 40: 1-5, 9-11)

Chúa Nhật vừa qua, chúng ta đã đọc bản văn của ngôn sứ I-sai-a thời hậu lưu đày, được gọi là I-sai-a đệ tam: dân Do thái đã được cứu thoát khỏi cảnh lưu đày, đã trở về quê cha đất tổ và đang nổ lực tái thiết đất nước. Trong Chúa Nhật nầy, Bài Đọc I được trích từ tác phẩm của ngôn sứ thời lưu đày. Bản văn này đưa chúng ta đi ngược về quá khứ: thời kỳ dân Do thái vẫn còn bị lưu đày ở Ba-by-lon vào những năm 550-539, cuộc giải thoát chưa xảy đến.

Vị ngôn sứ thời lưu đày nầy không ngừng đem đến những lời an ủi lớn lao cho đồng bào của mình. Thế nên, tác phẩm của ông được gọi “sách An Ủi” (Is 40-55). Chúng ta không biết gì về vị ngôn sứ thời lưu đày nầy. Ông thường hằng ẩn mình sau sứ điệp của mình, như bản văn hôm nay cho thấy. Ngay từ đầu, vị ngôn sứ ẩn mình trong “lời Thiên Chúa phán”; đoạn, trong “một tiếng kêu” mà không xác định; và sau cùng, trong “một sứ giả báo tin mừng”. Vị ngôn sứ nầy thường được gọi I-sai-a đệ nhị, vì ông thuộc vào hàng những môn đệ đầu tiên của ngôn sứ I-sai-a đệ nhất, và tác phẩm của ông đã được tập hợp chung với tác phẩm của thầy mình.

  1. “Hãy an ủi dân Ta”:

“Hãy an ủi, an ủi dân Ta!”, đó là lệnh truyền mà Thiên Chúa gởi đến cho vị ngôn sứ của Ngài trong khi dân Do thái đang sống kiếp lưu đày vô vọng.

“Dân Ta”, lời khẳng định nầy chắc chắn đã làm ấm lòng những người lưu đày, họ nghĩ rằng Thiên Chúa đã quên họ, không còn đoái hoài đến số phận bi thương của họ. Không, họ luôn luôn là “dân của Ngài”, dân Chúa chọn mà xưa kia được Thiên Chúa nâng niu chiều chuộng. Cung giọng đầy trìu mến được cất lên ở cuối bài thơ trong hình ảnh người mục tử tận tình săn sóc đàn chiên của mình, nhất là những con chiên bé bỏng.

“Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giê-ru-sa-lem”. Dân thành đã bị trừng phạt vì tội bất trung lâu dài của mình, đây là lần đầu tiên được Thiên Chúa loan báo là Ngài thứ tha tội vạ của dân và cho họ được hồi hương trở về quê cha đất tổ. Sứ điệp tràn đầy hy vọng.

  1. Thời kỳ Thiên Chúa tha thứ:

“Thời phục dịch của thành đã mãn”. Chúng ta gặp lại hình ảnh nầy trong các đoạn văn Cựu Ước khác như G 7: 1: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao?” . Hình ảnh này được dùng ở đây để diễn tả thời kỳ gian khổ cùng cực.

“Thành đã bị tay Chúa giáng phạt gấp hai so với tội phạm”. Chúng ta có thể hiểu diễn ngữ“gấp hai” nếu chúng ta khảo sát hai thử thách lớn lao mà dân phải gánh chịu: một mặt, cuộc lưu đày ở Ba-by-lon và mặt khác, cuộc tàn phá Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Nhưng diễn ngữ nầy đơn giản muốn nói đến muôn vàn khổ đau mà dân phải chịu.

Ghi nhận quan trọng nầy sẽ xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị và gợi lên nguồn cảm hứng cho các bài thơ về “Người Tôi Tớ đau khổ”. Dân Chúa chọn, người tôi tớ Thiên Chúa, đã kinh qua một sự thử thách thanh tẩy. Quả thật, sự tha thứ của Thiên Chúa thì nhưng không. Tuy nhiên, qua những đau khổ dài lâu mà dân phải chịu, cũng như qua việc Thiên Chúa biểu lộ vinh quang của Ngài bằng việc cứu thoát dân, những người lưu đày sẽ bày tỏ cho muôn dân thấy “Thiên Chúa phán như thế nào, Ngài sẽ thực hiện đúng như vậy”.

Đó là ơn gọi của dân Ít-ra-en, với tư cách là người tôi tớ Đức Chúa: chuẩn bị những nẻo đường cứu độ cho muôn dân. Chúng ta thoáng thấy ươm mầm ý tưởng về giá trị của những đau khổ mà những người công chính, nhóm kiên trung còn sót lại, phải chịu để công chính hóa mọi người. Nhóm còn sót lại này, một ngày kia sẽ là “Người Tôi Tớ hoàn hảo”, chính là Đức Ki tô.

  1. “Hãy mở một con đường cho Chúa”:

Để trở về quê cha đất tổ, đoàn người lưu đày sẽ phải băng qua hoang địa. Họ phải đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng sẽ ở bên cạnh dân Ngài và đích thân dẫn dắt dân Ngài. Sứ giả hô lớn: “Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Chúa; giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Chúa chúng ta”.

Cuộc hành trình băng qua hoang địa dưới sự che chỡ và hướng dẫn của Thiên Chúa, viễn cảnh nầy gợi lên rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện những điềm thiêng dấu lạ cho những tù nhân Ba-by-lon, như xưa kia Ngài đã thực hiện cho cha ông họ: giải thoát họ ra khỏi cảnh đời nô dịch ở bên Ai-cập và dẫn đưa họ về miền Đất Hứa. Cuộc Tân Xuất Hành này sẽ bày tỏ vinh quang Thiên Chúa, qua đó muôn dân sẽ hiểu rằng “chính miệng Thiên Chúa đã phán như vậy”, nghĩa là Thiên Chúa trung thành với những gì Ngài đã hứa, Ngài sẽ thực hiện những dự định của Ngài. Dân Ít-ra-en sẽ là chứng nhân về ơn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa:“Mọi người phàm sẽ cùng được thấy”.

  1. “Loan tin mừng”:

“Hỡi kẻ loan tin mừng cho Xi-on, hãy trèo lên núi cao…”. Chính ở nơi bản văn nầy mà những Ki-tô hữu tiên khởi đã mượn thuật ngữ “Tin Mừng” để chỉ Mặc Khải Đức Giê-su Ki-tô mang đến. Vì thế, chúng ta ở tận nguồn của thần học về “Tin Mừng” .

Ấy vậy, “Tin Mừng” nầy phải được lớn tiếng công bố từ trên đỉnh non cao để khắp các thành xứ Giu-đa có thể nghe được là gì? Đó là Thiên Chúa đích thân đến cứu dân Ngài, giải thoát những kẻ bị giam cầm, dẫn đưa họ về quê hương đích thật của mình. Ngài không còn dung thứ những điều gian ác mà dân Ngài phải chịu.

Vị ngôn sứ tưởng tượng cuộc hồi hương về Giê-ru-sa-lem như một đám rước khải hoàn. Nhưng ông tô đậm chân dung vị lãnh đạo toàn thắng qua hình ảnh người mục tử ân cần trìu mến đối với đàn chiên của mình. Thiên Chúa tha thứ và dẫn đưa dân Ngài trở về miền Đất Hứa trước hết là vị Thiên Chúa Tình Yêu.

Đó là hình thức đầu tiên của Tin Mừng, tiên báo một cuộc giải thoát khác, một sự tha thứ có tính quyết định hơn và phổ quát hơn, và cũng tiên báo một đám rước khải hoàn khác: đám rước của những người được tuyển chọn về thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc.

BÀI ĐỌC II (2Pr 3: 8-14)

Ngay đầu thư, thánh Phê-rô tự giới thiệu mình: “Tôi là Si-mê-ôn Phê-rô, tôi tớ và Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô…”. Bức thư chắc chắn chứa đựng những lời căn dặn sau cùng của thánh nhân (ngài gợi lên cái chết gần kề của mình). Tuy nhiên, xem ra đây là một di cảo, được một trong số các môn đệ của thánh nhân biên soạn lại và bổ sung để đương đầu với những hoàn cảnh mới.

Quả thật, những đề tài được đề cập đến trong đoạn trích hôm nay sẽ được hiểu tốt hơn, nếu như chúng được đặt vào trong bối cảnh muộn thời hơn. Thế hệ của các Tông Đồ và của những môn đệ truyền chân đã qua. Ấy vậy, Đức Ki tô đã hứa là Ngài sẽ trở lại, nhưng thế hệ Ki-tô hữu hậu Tông Đồ chờ mãi vẫn không thấy ngày Chúa trở lại. Vì thế, họ ngạc nhiên, phản kháng và ngờ vực.

Để trả lời cho vấn nạn nầy, một cộng tác viên của thánh Phê-rô đưa ra ba luận chứng:

  1. Khái niệm thời gian:

Thời gian là của Chúa chứ không của chúng ta. Tác giả trích dẫn thích đáng Tv 90: “Đối với Chúa, một ngày như thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày”.

  1. Thiên Chúa trì hoãn vì lòng xót thương:

Đức Ki-tô đến chậm vì để cho mọi người có thời gian ăn năn hối cải. Chúng ta cũng gặp lại suy tư nầy của thánh Phao-lô trong thư gởi các tín hữu Rô-ma (11: 25)

  1. Thiên Chúa trung tín với những gì Ngài đã hứa:

Việc Ngài trở lại là điều chắc chắn. Nhưng lúc đó là ngày tận cùng của thế giới (tại sao phải hối thúc chứ?). Tác giả bức thư gợi lên ngày ấy bằng những hình ảnh quen thuộc của truyền thống khải huyền.

Đoạn ông khéo léo kết luận: bởi vì Thiên Chúa sẽ canh tân mọi sự cho những ai được Ngài tuyển chọn, thế nên, “trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải nên tinh tuyền, không gì đáng trách, để được bình an trước mặt Chúa”.

TIN MỪNG (Mc 1: 1-8)

Đoạn Tin Mừng hôm nay là phần mở đầu của sách Tin Mừng theo thánh Mác-cô được cấu trúc như sau:

1.Nhan đề (1: 1)

2.Sứ mạng Gioan Tẩy Giả (1: 2-8)

  1. Chứng từ của các ngôn sứ (1: 2-3)
  2. Hoạt động và lối sống của Gioan Tẩy giả (1: 4-6)
  3. Chứng từ của Gioan Tẩy giả (1: 7-8).
  4. Nhan đề (1: 1).

Sách Tin Mừng Mác-cô không mở đầu với Tựa Ngôn như sách Tin Mừng Gioan, cũng không cuộc đời Thơ Ấu của Đức Giê-su như sách Tin Mừng Mát-thêu và sách Tin Mừng Lu-ca, nhưng với một nhan đề: “Khởi đầu Tin Mừng về Đức Giê-su, Đấng Ki tô, Con Thiên Chúa”. Với nhan đề nầy, ngay từ đầu, thánh Mác-cô loan báo sách được chia thành hai phần:

- Phần thứ nhất (1: 2-8: 30): Đức Giê-su dần dần vén mở sứ mạng của mình: Ngài là “Đấng Ki-tô”“Đấng Ki-tô” được phiên âm từ từ Hy lạp “Christos”, xuất xứ từ nguyên ngữ Do thái “Đấng Mê-si-a”, nghĩa là Đấng được Thiên Chúa xức dầu và đặc phái đến để thiết lập Vương Quốc của Ngài vào thời cánh chung. Như vậy, trong phần thứ nhất, thánh Mác-cô muốn dẫn đưa độc giả của mình cùng với thánh Phê-rô và các môn đệ đến chỗ nhận biết và tuyên xưng Đức Giê-su là “Đấng Ki-tô” (8: 29). Nhưng vào thời Đức Giê-su, tước hiệu“Đấng Ki-tô” rất dể ngộ nhận. Dân Do thái sau một thời gian dài bị đế quốc nầy đến đế quốc khác thống trị và áp bức, nên mong chờ một vị vua trần thế được Thiên Chúa ban quyền năng để đánh đông dẹp tây, mở rộng vương quyền và đem lại cảnh thái bình thịnh trị cho dân tộc mình.

- Phần hai (8: 31-16: 20): Đấng Ki-tô bày tỏ cho các môn đệ chân tính của Ngài là “Con Thiên Chúa”. Danh xưng nầy cũng là một trong những tước hiệu của Đấng Mê-si-a. Các vua Phương Đông thời xưa cũng thường tự xưng mình là “thiên tử”. Nhưng Đức Giê-su dần dần bộc lộ cho thấy mối tương quan thân tình đặc biệt và độc nhất vô nhị với Thiên Chúa, mà Ngài gọi là Cha của mình. Chính Ngài công bố long trọng tước hiệu này trước vị thượng tế (14: 61-62). Các môn đệ phải qua một thời gian dài mới khám phá ra nơi bản thân Chúa Giê-su chính là Thiên Chúa đến sống giữa con người, và nhờ cuộc Tử Nạn và Phục sinh của mình, Ngài giải thoát loài người khỏi quyền lực Sự Dữ và Cái Chết. Trong phần thứ hai nầy, Mác-cô muốn dẫn đưa độc giả của mình tới lời tuyên xưng đức tin sâu sắc hơn, được thốt ra từ miệng viên sĩ quan Rô-ma, dưới chân thập giá: “Quả thật, người nầy là Con Thiên Chúa” (15: 39).

Như vậy, với nhan đề nầy cho toàn bộ sách Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô xác định rất rõ rằng sách không kể cho chúng ta “tiểu sử cuộc đời” của Đức Giê-su, nhưng là một “Tin Mừng” về ơn cứu độ loài người được thể hiện cách độc đáo nơi bản thân Đức Giê-su quê Na-da-rét, Ngài là “Đấng Ki-tô” và là “Con Thiên Chúa” qua cái mâu thuẫn của thập giá. Chính Đức Giê-su là “Chúa” đến viếng thăm dân Ngài, không phải trong quyền uy xét xử, nhưng trong cái yếu hèn của một tình yêu được trao tặng.

  1. Sứ vụ của Gioan Tẩy giả (1: 2-8):

Câu 1 không chỉ là nhan đề của toàn bộ Tin Mừng Mác-cô nhưng cũng là nhan đề của của phần dẫn nhập (1: 1-15), phần dẫn nhập này được phân định bởi kiểu hành văn đóng khung rất quen thuộc của người Do thái, bắt đầu với chữ “Tin Mừng” ở câu 1 và kết thúc với chữ“Tin Mừng” ở câu 15. Thuật ngữ “Tin Mừng” xuất xứ từ sách I-sai-a (Is 40: 9; 52: 7; 61: 1..) được dùng ở đây để loan báo một biến cố vui mừng có một tầm mức quan trọng bậc nhất, đó là Đức Giê-su, Ngài là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa.

Phần dẫn nhập nầy bắt đầu với sứ vụ của Gioan Tẩy giả, người đi trước dọn đường cho Đức Giê-su. Theo cách thức nầy, Tin Mừng Mác-cô trung thành với sơ đồ của lời rao giảng tông đồ như được gặp thấy trong sách Công Vụ (1: 21t; 10: 37; 13: 24). Trong bộ Kinh Thánh, sách Sáng Thế cũng mở đầu với diễn ngữ: “Khởi đầu”. Gioan Tẩy Giả loan báo Tin Mừng về Đức Giê-su, là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa, Ngài đến để đánh dấu một khởi đầu tận căn, một khởi nguyên mới, kỷ nguyên cứu độ.

  1. Chứng từ của các ngôn sứ (1: 2):

Ngay từ những hàng đầu tiên, thánh Mác-cô nêu bật hai điểm khác biệt với các thánh ký khác. Trước tiên, các thánh ký nầy cũng đều trích dẫn sấm ngôn của I-sai-a: “Có một tiếng kêu trong hoang địa…” nhưng sau khi đã nêu lên sứ vụ của Gioan Tẩy giả (x. Mt 3: 3; Lc 3: 4; Ga 1: 23). Thứ đến, trước khi trích dẫn sấm ngôn của I-sai-a, thánh Mác-cô trích dẫn một sấm ngôn khác: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước Con, để dọn đường cho Con đến”, sấm ngôn này được đúc kết bởi hai bản văn Cựu Ước khác nhau: Xh 23: 20 và Ml 3: 1.

Trong Xh 23: 20, Thiên Chúa nói với ông Mô-sê: “Nầy Ta sai sứ thần đi trước con, để gìn giữ con khi đi đường…”. Ngôn sứ Ma-la-khi lập lại lời nầy nhưng với một ‎ý nghĩa mới:“Nầy Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. Trong sấm ngôn của Ml 3: 1, Thiên Chúa sai “sứ giả” của Ngài đến trước dọn đường để “Ngài đích thân đến với dân Ngài”. Thật ra, thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca cũng trích dẫn sấm ngôn nầy, nhưng trong một bối cảnh khác và được đặt trên môi miệng của Đức Giê-su (Mt 11: 10; Lc 7: 27).

Vị sứ giả trong sấm ngôn nầy là ai? Chúng ta gặp thấy căn tính của vị sứ giả nầy ở Ml 3: 23 sau đó: “Nầy Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi, trước khi Ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và huy hoàng”. Trong 2V 2: 11, ngôn sứ Ê-li-a không chết nhưng được rước về trời trong một cỗ xe đỏ như lửa với những con ngựa kéo cũng đỏ như lửa. Vì thế, theo truyền thống Do thái mãi cho đến thời Chúa Giê-su, vị sứ giả Ê-li-a sẽ trở lại để dọn đường cho Chúa đến..

Sấm ngôn thứ hai được trích dẫn từ Is 40: 3 (bài đọc I): “Có một tiếng hô: Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta”. Vị ngôn sứ loan báo cho những những người lưu đày ở Ba-by-lon biết rằng Thiên Chúa sắp can thiệp để giải thoát họ khỏi kiếp sống tù đày. Các tác giả Tin Mừng cũng đã thấy ở nơi “tiếng hô nầy” tiên báo Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đức Giê-su, ông có sứ mạng đến trước để dọn đường cho Đức Giê-su đến. Ở nơi lệnh truyền nầy: thung lũng sẽ được lấp đầy, núi đồi sẽ phải bạt xuống, chúng ta gặp thấy cũng một lời dạy như Gioan Tẩy Giả: phải thay lòng đổi dạ, biến đổi sa mạc tâm hồn thành miền đất thấm đẩm thiên ân, hủy bỏ những quanh co uốn khúc của sự gian tà.

Theo phương cách trích dẫn phổ biến vào thời đó, thánh Mác-cô gán toàn bộ lời trích dẫn nầy cho ngôn sứ I-sai-a, bởi vì chúng có chung một đề tài: “dọn đường để đón tiếp Thiên Chúa”. Như vậy, khi khai mạc sứ vụ của Gioan Tẩy giả bằng lời trích dẫn nầy, thánh Mác-cô muốn cho thấy rằng việc Đức Giê-su đến đã được Cha Ngài chuẩn bị trước đó rồi và ơn gọi của Gioan Tẩy giả, vị Tiền Hô của Con Ngài, được dự kiến lâu lắm rồi trong kế hoạch của Thiên Chúa. Chính Gioan Tẩy giả là ngôn sứ Ê-li-a, mà truyền thống Do thái mong đợi, trở lại để dọn đường cho Chúa và việc ông xuất hiện cho thấy Thiên Chúa vẫn trung thành với những gì Ngài đã hứa. Thời gian đã đến hồi viên mãn.

  1. Hoạt động và lối sống của Gioan Tẩy giả (1: 3-6).

Chúng ta lưu ý rằng khi trích dẫn sấm ngôn I-sai-a, thánh Mác-cô đã tự ý ngắt câu cho phù hợp với hoàn cảnh hiện nay của Gioan Tẩy Giả. Thay vì “Có tiếng hô: Trong sa mạc…”, thánh ký đổi thành “Có tiếng người hô trong hoang địa…”. Quả thật, Gioan Tẩy giả đã ẩn cư trong hoang địa ngay từ thuở thanh xuân để chuẩn bị sứ mạng của mình trong thinh lặng và chiêm niệm cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en (Lc 1: 80), như Đức Giê-su sẽ rút vào trong sa mạc trước khi khởi đầu sứ mạng của mình.

Đây là sa mạc Giu-đa có dòng sông Gio-đan chảy băng qua và đổ vào Biển Chết. Phải chăng thánh Gioan thuộc vào cộng đoàn Kum-ran, có mặt ở trong miền nầy và sống trong sự chờ đợi Đấng Mê-si-a? Hay đơn giản ông có giao tiếp với cộng đoàn nầy? Phải nói rằng có rất nhiều điểm giống nhau giữa linh đạo của các nhà khổ hạnh Kum-ran và linh đạo của thánh nhân, nhưng cũng có rất nhiều điểm dị biệt.

Dù thế nào, sa mạc là nơi ẩn cư quen thuộc của những nhà thần bí vĩ đại thời Cựu Ước và là nơi ưu tiên cho những cuộc gặp gở với Thiên Chúa, như Mô-sê, Ê-li-a vân vân. Cũng như chính trong sa mạc mà dân Ít-ra-en đã trải qua những kinh nghiệm tôn giáo hình thành nên những mốc điểm lịch sử của dân tộc mình.

Lời kêu gọi sám hối là đề tài thường hằng của truyền thống ngôn sứ. Gioan Tẩy giả là vị ngôn sứ cuối cùng tiếp tục truyền thống nầy, nhưng ông thêm vào đây phép rửa. Không phải trong sa mạc mà nước mặc lấy tất cả giá trị và ý nghĩa tròn đầy của nó sao? Nước đem lại sự sống và biểu tượng ơn cứu độ.

Gioan Tẩy giả sống theo lối sống khổ hạnh: “Ông mặc áo lông lạc đà, thắt đai lưng bằng da, ăn châu chấu và mật ong rừng”. Qua việc mô tả cách ăn mặc của Gioan giống như ngôn sứ Ê-li-a (1V 1: 8), thánh Mác-cô muốn thông báo rằng Gioan Tẩy giả chính là ngôn sứ Ê-li-a tái xuất hiện mà mọi người đang mong đợi. Ngoài ra, qua việc mô tả tỉ mĩ cách sống khổ hạnh của Gioan tẩy giả trong hoang địa cô tịch, thánh Mác-cô ngầm trình bày hình ảnh tương phản với Đức Giê-su: Ngài giao tiếp gần gũi với đủ hạng người ở ngoài xã hội, cùng ăn cùng uống, cùng chia sẻ cuộc sống vui, buồn, sướng khổ với họ. Quả thật, Tin Mừng Mác-cô cống hiến cho chúng ta hình ảnh rất là người của Đức Giê-su: Ngài ngủ say giữa cơn giông tố (4: 38), Ngài ngạc nhiên về việc các người đồng hương của Ngài thiếu niềm tin (6: 6), Ngài không có thì giờ ăn uống (6: 31), Ngài không biết khi nào ngày Thế Mạc sẽ đến (13: 32), nhất là Ngài chết như một kẻ tuyệt vọng (15: 34). Nhưng chính ở nơi tính chất rất là người nầy, thánh Mác-cô có ý định dẫn đưa người đọc vào mầu nhiệm của Đức Giê-su, Đấng Ki-tô và Con Thiên Chúa.

  1. Chứng từ của Gioan Tẩy giả (1: 7-8).

Chứng từ của Gioan Tẩy giả về Đức Giê-su là cao điểm của đoạn Tin Mừng hôm nay. Sứ điệp của ông làm xáo động lòng người. Uy tín của ông quá lớn đến độ dân chúng khắp nơi tuôn đến với ông. Tuy nhiên, ông ý thức sâu xa về sự cao vời khôn ví của Thiên Chúa. Ông công bố quyền năng vượt bậc của Đấng mà ông có sứ mạng chuẩn bị cho việc Ngài đến khi sử dụng hình ảnh rất tương phản để diễn tả sự bất xứng của mình như tên nô lệ trước mặt chủ, cả đến việc cúi xuống cởi dép cho Ngài ông cũng chẳng xứng đáng nữa: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cỏi dép cho Người”.

Nhất là ông nhận biết sự khác biệt căn bản giữa phép rửa của ông và phép rửa của Đức Giê-su: ông chỉ rửa trong nước, còn Đức Giê-su thì rửa trong Thánh Thần. Điều làm cho Đức Giê-su trổi vượt hẳn vị Tiền Hô của Ngài, đó là Ngài là Đấng sở hữu Thánh Thần (x. 1: 10).

Danh tiếng của Gioan Tẩy giả vào thời đó không thể nào chối cải. Sách Công Vụ nói với chúng ta rằng ngay cả sau khi ông đã qua đời rất lâu sau đó, các cộng đoàn môn đệ của ông vẫn tồn tại (Cv 18: 24-25; 19: 1-7). Họ đề cao ông là “Đấng Mê-si-a” (Ga 1: 19-34). Như thế ngay từ trang đầu tiên Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô đã đặt Gioan Tẩy giả vào đúng vị thế của ông: sứ mạng của ông chỉ là loan báo và chuẩn bị cho việc Đức Giê-su, Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa. Chính Đức Giê-su mới là Tin Mừng mà Gioan có sứ mạng loan báo cho hết mọi người.

[Mục Lục]

Bài 3. Chú giải và suy niệm của Quesson

Hôm nay, chúng ta sẽ đọc trang đầu tiên của Tin Mừng theo thánh Maccô. Trong suốt năm phục vụ này, năm B, chúng ta sẽ đọc cách đặc biệt Tin Mừng Maccô.

Truyền thống thường giới thiệu Maccô như môn đệ của Phêrô. Vì thế trong trình thuật của ông, ta được nghe lại những kỷ niệm và giáo lý của vị tông đồ, đã từng mục kích Đức Giêsu. Người ta cho rằng: Tin Mừng này đã được soạn thảo tại Rôma, khoảng năm 70, và gửi cho một cộng đồng Latô gồm những người gốc ngoại giáo, chưa từng sống tại Palestine.

So sánh với ba Tin Mừng khác, Tin Mừng của thánh Maccô rất thực tế: đó là câu truyện của một người bình dân, có những nét gây thích thú. Nhưng ta đừng vội lầm, Maccô cũng là một nhà thần học, sẽ tỏ lộ cho ta cuộc khám phá dần dần của Phêrô. Suốt trong phần đầu, mọi người đều tự hỏi: “Đức Giêsu là ai!” Đức Giêsu thể hiện những hành động, nói những lời luôn đặt thành vấn đề. Nhưng thật lạ lùng. Người vẫn đặt “bí mật” trên con người mình. Mãi tới phần thứ hai của đời sống công khai, người mới từ từ thông tỏ về bản thân Người.

Khung cảnh địa lý Máccô sử dụng cũng mang tính thần học. Theo đó ông đề cao xứ Galilê, miền đất mở ngở và để đón nhận sứ điệp của Đức Giêsu, nghịch lại với Giêrusalem, thành phố luôn chối từ Đức Giêsu.. Hơn nữa đối với Maccô, biển hồ Galilê mang một ý nghĩa biểu tượng (Phêrô người thuyền chài, biết rõ từng vũng nhỏ trong hồ ông sinh sống!). Bờ hồ phía tây, là người Do Thái. Bờ hồ phía đông, là anh em dân ngoại Máccô có ý nhấn mạnh cho ta thấy, Đức Giêsu đang đi vào “miền đất ngoại giáo “… như thế khai mở “vùng truyền giáo” của Giáo Hội mà Tin Mừng ông muốn gửi tới.

Cuối cùng Tin Mừng của Maccô đượm vẻ “bi thảm”. Ba nhóm người được miêu tả trong đó. Trước hết đó là Đức Giêsu và các môn đệ của Người, luôn chung sống với nhau. Rồi tới đám dân chúng theo Đức Giêsu, nhưng không hiểu biết gì về Người. Sau hết, đó là các kẻ thù nghịch, ngay từ đầu chỉ xoi mói rình rập nhằm kết án Đức Giêsu.

Khởi đầu Tin Mừng.

Có lẽ không phải là ngẫu nhiên mà lời đầu tiên của Tin Mừng theo thánh Maccô cũng là lời đầu tiên trong Bộ Kinh thánh: ‘Khởi đầu trời và đất” (St 1,1). Thánh Gioan cũng sử dụng cùng một từ đó, cũng bắt đầu Lời tựa trong Tin Mừng của ông: “Khởi đầu vẫn có Ngôi Lời” (Ga 1,1). Còn Mát-thêu và Luca, cũng gợi lên thực tại của một khởi đầu này: “Đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô ” (Mt 1, 18; Lc 1 3). Như thế, cả bốn thánh sử đều gợi lên cho ta thấy, nhờ Đức Giêsu, chương trình của Thiên Chúa đã có một bước khởi đầu mới: Có thể nói, một cuộc tạo thành mới đang khởi sự. Và mỗi năm, Mùa Vọng bắt đầu, cũng là một dịp khởi đầu lại. Lạy Chúa, thế mà chúng con vẫn thích dừng chân tại chỗ để thốt lên: Đủ rồi, xin Chúa không ngừng ban lại cho chúng con tinh thần biết “khởi sự”. Xin làm sống lại trong chúng con niềm hy vọng.

“Tin Mừng”: Chúng ta quá quen thuộc với từ này. Nó dịch từ tiếng Hy Lạp “Evangélion”. Nhưng từ này không có ý diễn tả “một cuốn sách” hay một sự việc. Đó là Tin Mừng nước Thiên Chúa đã khơi sự trong con người của Đức Giêsu. “Tin Mừng”, đó là sự sống lại, là Phục sinh, là sự chiến thắng vĩnh viễn của sự sống? Tin Mừng phát xuất từ sấm ngôn của I-sai-a, khi ông loan báo cho những người bị lưu đày biết tình trạng khổ ái của họ sắp chấm dứt: “Hãy an ui, hãy an ủi dân Ta… Dịch vụ của nó mãn rồi. Hãy nhủ lòng cùng Giêrusalem, hãy công bố tội của nó được tha. Hãy lên núi cao, hỡi Sion, người loan Tin Mùng. Hãy gióng tiếng lên cho mạnh và loan báo: Kìa Thiên Chúa của ngươi đang đến… (Is 40,1-11). Tôi có tin tưởng như thế không? Đức tin của tôi có là một thứ gánh nặng, tôi phải vất vả đeo mang, hay là một Tin Mừng “Vui tươi”, “Tốt đẹp”, “Tuyệt diệu”.

Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, con Thiên Chúa.

Ngay từ dòng đầu của Tin Mừng, Máccô đã nói ngay nếu ông muốn bàn. Những “tước hiệu” trên đây của Đức Giêsu là chìa khóa khai mở toàn bộ trình thuật của ông. Những tước hiệu đó sẽ được lặp lại vào giây phút cuối đời; khi một người “dân ngoại” nhận biết Đức Giêsu chết trên thập giá: “Quả thật người này là con Thiên Chúa” (Mc 15,39). Đó là điều ta thường gọi là một thứ “hệ luận” theo kiểu nói “Xê-mít”. Đó là kiểu cách văn chương nhằm biểu thị ý nghĩa sâu xa của một câu chuyện, mà toàn bộ “bao gồm” trong hai từ được lặp đi lặp lại từ đầu đến cuối.

Giêsu… trong ngôn ngữ Do Thái muốn nói lên “Thiên Chúa cứu độ ” – “Yéshouah”. Đó là một từ quen thuộc, diễn tả tính cách nhân bản, lịch sử trần thế của con người Na-za-rét. Kitô…. trong ngôn ngữ Do Thái có ý nghĩa Đấng được “Đức Chúa xức dàu”: “Meshiah” Tước hiệu này biểu lộ, Đức Giêsu chính là Đấng mà toàn dân ít-ra-en mong đợi, là con cháu nhà Đa-vít, là “Vua nước Thiên Chúa”.

Con Thiên Chúa… tước hiệu cuối cùng này, chỉ mang ý nghĩa trọn vẹn, lúc Chúa sống lại: Vào thời Maccô viết Tin Mừng, các Kitô hữu đã dùng kiểu nói mạnh này để tuyên xưng đức tin vào thần tính của Đức Giêsu.

Trong sách Ngôn sứ I-sai-a có chép rằng: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi tnrớc Con, để dọn đường cho con đến”. Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”.

Một lần nữa không phải ngẫu nhiên, mà Tin Mừng Máccô bắt đầu bằng một câu trích dẫn trong Cựu ước. Đức Giêsu không phải là một “sao băng” từ một hành tinh khác mà đến. Ngài được ghi tên trong tịch sử của một dân tộc Ngài được người ta “mong chờ’, “loan báo”, “chuẩn bị”… Từ sau Công đồng Vatican, bài đọc Cựu ước mà ta đọc mỗi Chúa nhật, không phải là một việc làm mới lạ của Giáo Hội hiện nay. Các Kitô hữu tiên khởi, các tín hữu của Máccô, cũng như của Mátthêu, Luca và Gioan, đã từng đọc Kinh thánh Cựu ước… và ứng dụng cho Đức Giêsu. Còn chúng ta thìn sao? Chúng ta thường phàn nàn vì không gặp gỡ Thiên Chúa. Nhưng ta có coi Kinh thánh như phương thế tiếp gặp Chúa chưa?”

Ta làm gì để gặp gỡ Chúa? Ta có chuẩn bị con đường cho Chúa đến không? Mùa Vọng này có thể là một thời gian để ta suy niệm lại Kinh thánh.

Ông Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi dân chúng chịu phép rửa, tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giêrusalem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ tại sông Gio-đan.

Chúng ta đừng có mơ tưởng rằng, ta sẽ “gặp” được Thiên Chúa, chẳng- hạn như dịp Noen này, mà không cần phải “chuẩn bị” cho Người đến, không cần phải thanh tẩy, không cần phải làm việc để hoán cải thay đổi đời sống.

Chính Gioan Tẩy Giả không chút nể nang thính giả của ông. ông bảo họ: “Các ngươi phải thay đổi hoàn toàn nếp sống… Hãy trở lại!. Đó là ý nghĩa của từ “Metanoia” bản dịch là “hoán cải”. Các người đã làm điều này sao? Giờ đây, hãy làm ngược lại. Điều xấu, điều ác mà các ngươi đã thực hiện, hãy chấm dứt ngay? Điều tốt lành như vậy mà sao các ngươi không làm, hãy bắt tay thi hành ngay đi! Phải thay đổi, cần thay đổi gấp!

Sắp tới lễ Noen rồi, mọi Kitô hữu lại được mời gọi lãnh nhận “bí tích giao hòa” để được ơn tha tội. Ngay từ bây giờ, tôi muốn chuẩn bị lãnh nhận, để nhờ bí tích đó tôi có một bước tiến đáng kể, trưởng thành và có trách nhiệm hơn. Và cũng như dân chúng xưa kia tuôn đến sông Giođan, tôi cần phải bắt đầu “nhận biết” tội lỗi mình, cách sáng suốt. Lạy Chúa xin mở rộng đôi mắt con.

Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng”.

Đó là y phục tiêu biểu của những “người vùng hoang địa”, những con người du mục.

“Hoang địa”! Để tới đó theo sự lôi cuốn của Gioan Tẩy Giả, dân chúng phải rời bỏ một thế giới nào đó họ đang sống, để bước vào một thế giới khác. Lui vào “hoang địa” nghĩa là từ chối dễ dãi, tiện nghi. “Hoang địa” đó là vùng đất mở tới rất xa, là nơi không thể nhận rõ dấu vết lộ trình, là tiếng mời gọi ta dấn thân mạo hiểm? “Hoang địa” đó cũng là nơi cô tịch và yên lặng: Mời gọi ta hướng đến cuộc gặp gỡ nội tâm? ở đây ta không thể vui chơi giải trí hay lánh ẩn để kiếm tìm những việc bề ngoài, những điều xem ra giả tạo mà là nơi con người gặp lại bản thân, đối mặt với chính mình, trong tình trạng bị bóc lột trần trụi. Trong tư thế lột xác và thinh lặng này, Thiên Chúa mới có thể làm cho ta nhận ra tiếng Người: Đó là lời mời gọi ta nhận ra thực tại của bản thân, khi các mặt nạ đã được trút bỏ, trong tiếng Nga, từ “hoang địa” được dịch là “poustinia”. Và luôn luôn có những người nam cũng như nữ lui vào trong “poustinia” của họ: Cuộc gặp gỡ giữa họ với Thiên Chúa sẽ mang tính chất nào, đều phụ thuộc vào giá trị này cả. Tôi có lợi dụng Mùa Vọng này, để tạo cho mình một thời gian chính thức sống cô tịch không?

Ông loan báo: “Có một Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi. Tôi không đáng cúi xuống cởi dép cho người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần”.

Gioan Tẩy Giả chỉ hiện diện tại đó để tiến dẫn một kẻ khác, một người nào đó chưa được gọi tên: “Đấng đang đến”… Đấng quyền năng nhất”… “Đấng xứng đáng nhất!… Đấng dìm trong Thánh Thần”… Nếu ta quyết định hoán cãi Thiên Chúa sẽ không là người phong kiến ngoại cuộc: Người sẽ dìm chúng ta trong Thần Khí của Người.

THÁI ĐỘ CẦN CÓ ĐỂ ĐÓN NHẬN CHÚA

Charles Lamb là một văn sĩ nổi tiếng của nước Anh vào thế kỷ thứ 18. Buổi tối nọ, năm sáu văn sĩ khác tụ họp ở nhà ông để thảo luận về các đề tài văn chương. Bỗng nhiên, có người đặt vấn đề: Chúng ta sẽ làm gì nếu được gặp gỡ các danh nhân thế giới trong các thời đại đã qua. Có người gợi ý:

- Nếu giờ đây Dante bước vào phòng này?

- Giả như đêm nay có Shakespeare cùng tham gia thảo luận với chúng ta?

Charles Lamb hô to: – Tôi sẽ hân hoan giơ tay đón tiếp các vị như các hoàng đế của tư tưởng.

Cuối cùng một người nói:

- Còn nếu bây giờ Đức Kitô bước vào phòng này?

Charles Lamb nghiêm nét mặt nói:

- Dĩ nhiên tất cả chúng ta đều quỳ xuống.

Đó là thái độ đúng đắn để tiếp đón Chúa Kitô. Người khác với mọi danh nhân trong lịch sử, vì Người là Thiên Chúa.

Chúng ta vừa nghe thánh sử Maccô mở đầu sách Tin Mừng Đức Giêsu Kitô. Đây là một câu chuyện, nhưng là một câu chuyện đem lại ơn cứu độ. Tuy nhiên để đạt hiệu quả mong muốn chúng ta phải chuẩn bị cho mình một thái độ đặc biệt để tiếp nhận câu chuyện về Đức Kitô cùng với những lời truyền dạy của Ngài.

Đầu tiên, Đức Kitô là Thiên Chúa. Người tới trần gian như một biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại. Câu chuyện bắt đầu bằng những từ ngữ trang trọng giống như những lời khởi đầu toàn bộ Kinh Thánh: “Khởi đầu của Tin Mừng…”

Câu chuyện về cuộc đời Đức Kitô bắt đầu bằng lời ngôn sứ Isaia: “Có tiếng kêu nơi hoang mạc: Hãy dọn đường cho Chúa”. Đức Kitô xuất hiện muộn màng trong lịch sử, nhưng Người chính là trung tâm của lịch sử, toàn bộ Cựu Ước cốt chuẩn bị cho nhân loại đón tiếp Người. Trước khi tới trần gian, Người đã hiện diện với tư cách Thiên Chúa, nhưng chỉ khi nhân loại được dọn dẹp, được dạy dỗ, được huấn luyện bằng các biến cố lâu dài, bằng những lời mặc khải cặn kẽ, lúc ấy con người mới có đủ khả năng và tư cách tương đối xứng đáng đón nhận Chúa.

Sau khi được chuẩn bị bằng cả chiều dài lịch sử, Gioan Tiền Hô dạy chúng ta dọn dẹp chính tâm hồn mình bằng thái độ thống hối ăn năn. Nếu không cải thiện, không đổi mới hoàn toàn, ta sẽ chẳng bao giờ gặp được Đức Kitô. Để đón mừng Chúa trong lễ Giáng Sinh, chúng ta phải đổi mới ngay từ bây giờ. Những việc xấu đã từng làm phải ngưng lại. Những việc thiện còn chần chừ ngần ngại phải sẵn sàng bắt tay làm ngay.

Dọn lòng trí đón tiếp Chúa với thái độ của một người hành trình qua sa mạc. Bỏ hết xa hoa hào nhoáng, từ chối cao lương mỹ vị, sẵn sàng chay tịnh và ăn mặc đơn sơ nghèo khó.

Khi đó chúng ta mới có thể gặp được Chúa và con đường theo Chúa mới thực sự là một Tin Mừng chứ không phải một gánh nặng. Vì một khi chúng ta đã cố gắng hết sức, Chúa sẽ ban phép rửa bằng Thánh Linh, chúng ta sẽ được tràn đầy sức mạnh và hân hoan.

Xin Chúa ban Thánh Thần cho chúng con. Nhờ Người, tâm tư tình cảm chúng con được đổi mới, cũng nhờ Người, chúng con tích cực chuẩn bị đón Chúa bằng cách nghe, suy niệm và thực thi lời Chúa dạy bảo.

[Mục Lục]

Bài 4. NGƯỜI PHU QUÉT LÁ
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Trong Tác phẩm “ Người phu quét lá”, ĐGM Nguyễn Khảm đã ví von, đời Linh mục như người phu quét lá: “Người phu quét lá bên đường. Quét cả nắng chiều quét cả mùa thu” (Ns.Trịnh Công Sơn).

Người phu quét lá, hàng ngày dù mưa dầm hay nắng hạn, vẫn luôn có mặt từ sáng sớm tinh sương trên mọi nẻo đường thành phố để dọn đường sạch sẽ cho ngàn ngàn con người sắp đi qua. Linh mục, mỗi ngày cũng dọn đường tâm hồn cho con người đi đến với Thiên Chúa và để Thiên Chúa đến với con người.

Trong ý nghĩa đó, có thể nói Gioan Tiền Hô cũng là “Người phu quét lá” dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến với nhân loại.

Bước vào Mùa Vọng, chúng ta gặp lại Gioan Tiền Hô, vị ngôn sứ đi trước dọn đường và dọn lòng người để đón Đấng Cứu Thế. Thực thi sứ vụ dọn đường, Ngôn Sứ Gioan luôn gắn bó với Thiên Chúa và sống gần gũi với con người. Lời Chúa, Gioan chiêm niệm trong hoang địa qua nhiều năm tháng đã giúp ông tiếp xúc, gặp gỡ với nhiều hạng người qua những vùng ven sông Giođan. Lời Chúa, Gioan nghe đã trở thành Lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi Gioan đã trở thành tiếng ông mời gọi mọi người.Gioan trở nên trung gian làm người dọn con đường tâm hồn cho anh chị em mình đến với Chúa Cứu Thế.

Các chương từ 40-55 trong sách Tiên tri Isaia, được gọi là Sách An Ủi dân Israel. Sau khi Giêrusalem bị thất thủ, dân phải đi đầy sang Babylon, Thiên Chúa dùng Tiên tri Isaia loan báo cho dân ngày giải thoát. Vì vậy tiếng hô: “hãy mở một con đường cho Đức Chúa” (Is 40,3) là câu hoàn tất lệnh truyền của Thiên Chúa trước đó: “Hãy an ủi, an ủi dân Ta. Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giêrusalem, và hô lên cho Thành: thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong” (Is 40,2). Lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả hoàn tất các lời hứa của Thiên Chúa: “Này ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con.” (Mc 1,2). Và mở đường cho ơn cứu độ phổ quát. Trước khi là một sứ điệp loan báo, Tin Mừng là một biến cố, một con người cụ thể, Đức Giêsu Kitô: Con Thiên Chúa hằng sống (Mc 15,39).

Thánh Máccô đã thấy rõ nơi Gioan Tẩy Giả là người thực hiện các điều mà Is 40,3 loan báo, là người giúp chuẩn bị lòng dân đón chờ Đấng Cứu Thế. Sứ điệp mà ông kêu gọi mọi người dọn lòng chuẩn bị đón Chúa đến chính là: sám hối và canh tân cuộc sống.Lòng ăn năn thống hối đích thực không hệ tại nơi những tình cảm chóng qua, hay những nghi thức bên ngoài nhưng phải phát xuất từ chính nội tâm bên trong, từ chính niềm tin mong đợi Chúa đến.

Gioan là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước. Sau 5 thế kỷ vắng bóng ngôn sứ, nay Gioan xuất hiện với sứ mạng Tiền Hô. Ông đáp lại tiếng Chúa gọi, ra đi rao giảng về Nước Trời, dọn đường cho Chúa Giêsu, Đấng Cứu Tinh nhân loại đến trần gian. Ông đã chu toàn ơn gọi cách nhiệt thành và đã chết anh hùng cho sứ vụ. (x. Mt 14,3012; Mc 6,17-19). Cuộc đời Gioan là một thiên anh hùng ca, bất khuất trước cường quyền, bao dung với tội nhân.

Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Gioan chọn con đường tu khổ chế : ăn châu chấu và mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú. Sống trong hoang địa trơ trụi, vắng người, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa.

Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng” (Lc 3,5). Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Như thế, Gioan kêu gọi hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi. Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, những tính toán lệch lạc. Phải san cho phẳng những đồi núi kiêu căng tự mãn. Phải bạt cho thấp những gồ ghề của bất công bất chính.

Phụng vụ Chúa nhật II Mùa Vọng mời gọi chúng ta chuẩn bị con đường cho Chúa Cứu Thế ngự đến. Chúa đến là niềm vui cho toàn thể nhân loại. Nhưng để được hưởng niềm vui này, mỗi người cũng như toàn thể nhân loại phải biết dọn đường cho Người.Dọn đường là nỗ lực hoán cải bản thân, tẩy trừ tội lỗi trong đời sống; đồng thời trong xã hội, cũng cần sự hoán cải tập thể, để tình yêu và chân lý, công lý và hòa bình được ngự trị.

Đạo là con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đạo là ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu không có đường thì không đi đến đâu cả. Một đất nước có văn minh hay không là do hệ thống đường sá.

Đạo từ nguyên thuỷ luôn mang ý nghĩa trong sáng, ngay thẳng, công minh. Đạo dẫn đưa con người đến chân thiện mỹ.

Đạo là đường nên có thể nói sống đạo là sống ngoài đường, sống với người khác, sống với cuộc đời. Abraham khởi đầu sứ mạng mới bằng việc lên đường từ giã thành Ur để sang đất hứa. Và lịch sử Do thái là những chuyến xuất hành di cư, lang thang trong sa mạc, lưu đầy và mất quê hương trong một thời gian dài. Gioan rao giảng và làm phép rửa khắp mọi nẻo đường. Chúa Giêsu sống ở thế gian bằng những cuộc lên đường sang Ai cập, về Nazareth, lên sa mạc, vào đền thánh và trở lại Galilêa. Cuộc sống công khai của Chúa ít là có ba cuộc hành trình lên Giêrusalem. Và sau cùng Ngài lên đường về nhà Cha.

Vì là đường nên nên đạo luôn mở ra nối kết và đón nhận cuộc sống, đón nhận mọi người, không phân biệt ai với tinh thần yêu thương của Thiên Chúa. Tin Mừng chính là đạo, là con đường mà Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta đi theo Ngài.

Đường quan trọng nhất là đường vào cõi lòng. Gioan đã chỉ cho thấy rằng, mỗi con người đều có ít nhiều đồi núi kiêu ngạo, thung lũng ích kỷ, ghồ ghề khúc khuỷu trong các mối quan hệ. Có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vằng ánh sáng tình yêu. Sửa đường theo Gioan là sám hối. Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có. Những gì cong queo hãy san cho thẳng. Những gì cao cao, cần bạt xuống thấp. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa. Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp. Đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.

Con đường mà Gioan nói tới đây chính là đường vào cõi lòng. Con đường nội tâm của mọi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế.

Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý. Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến. Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách. Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất. Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thân dân của Người. Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng. Như con đường cho Chúa đi qua. Như căn nhà cho Chúa ngự tới. Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Ngài đi vào. Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có nổi đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu. Cho nên trong cõi lòng đó phải có im lặng như cõi lòng Mẹ Maria ghi nhớ, suy niệm và không nói gì. Chỉ nói những lời để giúp đỡ người khác. Tâm hồn Mẹ bình an nên nghe rõ tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi. Như thế dọn đường chính là tạo im lặng cho tâm hồn để nghe được tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi.

Dọn đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về. Như năm cô khôn ngoan có sẵn dầu đèn. Như những đầy tớ làm lợi những nén vàng cho chủ. Như tên lính canh thành luôn chú ý những biến chuyển chung quanh. Mỗi cá nhân, ai cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, vị kỷ kiêu căng, tham lam đố kỵ ghen ghét lười biếng hèn nhát… Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ đoan, những điều ấy làm cho con người đau khổ, trì trệ, không phát triển.

Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Những con đường, thường được làm bằng đất đá nhựa bê tông. Những con đường trên mặt đất, trên sông trên biển trên bầu trời là những con đường vật lý. Những con đường tâm lý, con đường tinh thần, con đuờng lòng người mới quan trọng hơn. Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.

Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú. Hiểu đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân. Còn sống đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình, vượt thắng bản thân. Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân, thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy lệ hình thức mà thôi.

Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức. Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Gioan. Sống gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người. Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.

Cả cuộc đời Gioan chỉ một tâm nguyện là làm “Người phu quét lá” dọn lòng người khác cho Chúa đến. Mỗi người chúng ta cũng theo mẫu gương của Gioan trở thành “Người phu quét lá” cho chính tâm hồn mình, cho gia đình mình và rồi cho người khác nữa. Dọn đường cũng chính là lên đường theo Chúa Cứu Thế, cho nên dọn đường cho Chúa vừa là một hồng ân vừa là trách nhiệm đòi hỏi mỗi người thi hành nghiêm túc trong cuộc sống hàng ngày của mình.

[Mục Lục]

Bài 5. Hãy chuẩn bị tâm hồn cho xứng để đón Chúa đến
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Việc chuẩn bị đón chờ Chúa đến đã được ghi khắc trong lịch sử nhân loại. Lịch sử của tình thương và đầy lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với con người. Lịch sử ấy có những đòi hỏi như Gioan Baotixita kêu gọi chúng ta: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng“. Thiên Chúa vĩ đại và quyền năng đã hạ mình xuống với con người, đến với chúng ta dưới hình hài một trẻ thơ nghèo, kêu mời chúng ta khiêm tốn đến gặp Người. Bước vào Chúa nhật II Mùa Vọng với chủ đề : Populus Sion … (Này hỡi Dân Sion…Chúa sắp ngự đến cứu độ muôn dân. Người sẽ lên tiếng thật oai hùng, khiến tâm hồn anh em hoan hủy… ” (Ca nhập lễ). “Lạy Mục Tử nhà Israel, xin hãy đến cứu độ đoàn chiên Ngài… như chăn giữ chiên cừu, xin hãy lắng tai nghe! …” (Tv 79, 2)

Trong bài đọc I, tiên tri Isaia vang lên lời Chúa phán với Dân Ngài như một sự trấn an trước cảnh nô lệ và tội lỗi : “Hỡi dân Ta, hãy an tâm, hãy an tâm! …Thời nô lệ đã chấm dứt, tội lỗi đã được ân xá, Chúa đã ban ơn nhiều gấp hai lần tội lỗi” (Is 40, 2). Và hơn thế nữa, Chúa truyền cho Isaia: “Hãy nói cho các dân thành thuộc chi họ Giuđa rằng: Đây Thiên Chúa các ngươi, đây Chúa là Thiên Chúa các ngươi sẽ đến trong quyền lực; cánh tay Người sẽ thống trị. Người mang theo những phần thưởng chiến thắng và đưa đi trước những chiến lợi phẩm. Người chăn dắt đoàn chiên Người như mục tử. Người ẵm chiên con trên cánh tay, ôm ấp chúng vào lòng, và nhẹ tay dẫn dắt những chiên mẹ” (Is 40, 9-11).

Để được như vậy Dân Chúa phải thực hành không trì hoãn khi nghe thấy tiếng kêu trong hoang địa : “Hãy dọn đường Chúa … Hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi” (Is 40, 3).

Hố sâu và đồi núi gồ ghề sẽ gây cản trở người đi lại, khiến người ta khó đến với nhau. Lấp hố sâu và bạt núi đồi là dẹp bỏ lòng tự mãn kiêu căng của chính mình, là cản trở lớn nhất trên đường Chúa đến với chúng ta. Khi chúng ta thực hành nét đẹp của khiêm nhường và hạ mình xuống, chúng ta sẽ khám phá ra sự kiêu ngạo ẩn sâu trong lòng ta. “Hãy sửa đường Chúa chúng ta trong hoang địa cho ngay thẳng” (Is 40, 3). Như Gioan nói : “Con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng ” (Mc 1).

Gioan Tẩy Giả được Marcô (1, 2-8) trình bầy như vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, ví ông như “Thiên Thần của Ta đến trước mặt ngươi để dọn đường cho ngươi” (Mc 1,2; Ml 3,1) từ trong hoang địa, cất lời rao giảng “phép rửa sám hối cầu ơn tha tội” (Mc 1, 4). Lời giảng tuy nghiêm nghị nhưng thu hút “cả miền Giuđêa và Giêrusalem” (Mc 1, 5). Gioan đã xuất hiện với những người đương thời như là hy vọng cuối cùng của một dân tuyệt vọng. Rất ít người nhận ra sứ vụ đích thực của ông là để “dọn đường cho Chúa đến”.

Gioan xuất hiện như Tiếng kêu trong hoang địa, mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú. Ông không kêu gọi người ta trở nên nhà khổ tu giống như ông. Ông rao giảng rằng : “Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi… Ngài sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần” (Mc 1, 7.8). Lời của Gioan vẫn vang dội qua các thời đại và như một sứ điệp cấp bách gửi đến với chúng ta ngày hôm nay. Kêu mời thay đổi nội tâm, bắt đầu từ việc thừa nhận và xưng thú tội lỗi của mình. Kết quả là: “Cả miền Giuđêa và Giêrusalem tuôn đến với người, thú tội và chịu phép rửa trong sông Giođan” (Mc 1, 5).

Mùa Vọng năm nay, chúng ta đang sống như thế nào, nếu không phải là chuẩn bị tâm hồn, giục lòng tin, cử hành Phụng vụ cho sốt sáng để lãnh nhận ân sủng mà Chúa Kitô đã mang đến trong thế gian cho mọi người hưởng nhờ. Năm nay là năm Tân Phúc Âm hoá đời sống gia đình. Năm 2015 sắp tới là năm Hội Đồng Giám Mục Việt Nam mời gọi chúng ta Phúc Âm hoá đời sống cộng đoàn giáo xứ và cộng đoàn thánh hiến. Vậy giờ đây, có thể nói là bốn tuần của Mùa Vọng là như “tiền đường” để bước tiếp vào những ngày thánh. Chúng ta hãy chuẩn bị tinh thần bằng lời cầu nguyện, sẳn sàng tiếp đón Ðấng Cứu Thế ngự đến!

Hãy thay đổi cung cách suy nghĩ hành xử và sống thanh đạm “Vì nước trời gần đến“. Công Đồng Va-ti-ca-nô II dạy rằng : Chúng ta không biết được thời gian hoàn tất của trái đất và nhân loại, chúng ta cũng chẳng biết cách thức biến đổi vũ trụ. Chắc chắn hình ảnh của một thế gian lệch lạc vì tội lỗi sẽ qua đi, nhưng chúng ta được biết Thiên Chúa đã dọn sẵn một chỗ ở mới và một đất mới, nơi công bằng ngự trị. Hạnh phúc nơi ấy sẽ thỏa mãn và đắp đầy mọi ước vọng hòa bình trào dâng trong lòng con người. Khi ấy, sự chết sẽ bị đánh bại, con cái Thiên Chúa sẽ phục sinh trong Chúa Kitô và những gì được gieo vãi trong yếu hèn, mục nát, sẽ mặc lấy sự không hư nát ; tình yêu và các hoạt động bác ái sẽ tồn tại và toàn thể tạo vật mà Thiên Chúa đã dựng nên cho con người sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ phù vân.

Chúng ta đã được cảnh giác là lời lãi cả thế gian mà chính mình hư mất nào ích lợi gì. Nhưng sự trông đợi đất mới không được làm suy giảm, trái lại phải kích thích nỗ lực phát triển trái đất này, nơi mà Thân Thể gia đình nhân loại mới đang tăng trưởng và tiên báo một vài hình ảnh của thời đại mới. Trích “Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng“, § 39, 1-3.

Đừng sợ sống hy vọng. Trong thế giới đầy bất ổn và bạo lực này, ước gì Mùa Vọng và việc chờ đón “Hoàng Tử Bình An” đến, cho chúng ta dịp suy gẫm Lời Chúa. Hãy tránh ngủ quên, và cương quyết dọn đường cho Chúa, là nguồn mạch bình an, niềm vui, tình yêu và hy vọng, là Ðấng không ngừng đến để an ủi dân Người. Chúng ta hãy đặt tay ta vào tay Mẹ Maria, Trinh Nữ của sự chờ đợi, để Mẹ dẫn chúng ta đến gặp gỡ Chúa Giêsu Con Mẹ. Amen.

[Mục Lục]

Bài 6. CHÂN DUNG GIOAN TẨY GIẢ
Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn. Chân dung là hình ảnh thật của chính người đó. Hình ảnh là sự họa lại rõ nét con người, nhân vật đó. Nhưng, chân dung thật sự có ý nghĩa, có giá trị chính là ở phần khuôn mặt, chi tiết là khuôn mặt thật. Nếu thiếu chi tiết nầy, thì không gọi là chân dung. Vì không ai gọi là chân dung, nếu thiếu đi phần gương mặt. Vậy, khi nói đến chân dung, người ta biết được là hình ảnh của ai đó, có gương mặt (đó là nghệ thuật chụp hình).

Chân dung của Vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế được thánh sử Marco ghi lại thì không có “mặt, mũi ” rõ nét, vì đây không phải nghệ thuật chụp hình, cũng không phải hội họa, mà là cách hành văn, gọi là “tả” văn.

Vâng, cách hành văn của thánh sử Marco hôm nay cho chúng ta một “chân dung”, một “tính cách “ của một con người, được đảm nhận sứ vụ Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế.

Vâng, “Có tiếng người kêu trong hoang địa : Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối ngay thẳng để Ngài đi” (Mc 1, 3).

Vâng, Tin Mừng hôm nay, Chúa Nhật II MV (B) cho chúng ta thấy, Đấng Cứu Thế Giêsu – Kitô, khi từ trời xuống thế, mặc lấy nhân tính để thực thi Thiên Ý được tiền định, để cứu độ nhân loại. Dù từ lúc hạ mình sinh xuống trong máng cỏ Bê-lem, thì Người đã bắt đầu chu toàn Thập Giá. Vì, Thập giá máng cỏ là khởi sự cho Thập giá Golgotha. Như vậy, chân dung thánh Gioan Tiền Hô hôm nay cũng là chân dung Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế kế tiếp. Vì chân dung của một vị Tiền Hô là một chân dung nhiệm nhặt, vì : “Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và mật ong rừng” (c 6). Rõ ràng, chân dung của Vị Tiền Hô thật ngắn gọn, đơn giản. Nhưng, nói lên được sự nhiệm nhặt, sự khắc khổ của một vị ẩn sĩ. Vị ẩn sĩ Tiền Hô không làm lu mờ hình ảnh Đấng Cứu Thế, trái lại, chân dung ấy làm sáng tỏ chân dung Đấng Cứu Thế Giêsu- Kitô, bởi tính cách Gioan Tẩy Gỉa, là vị Tiền Hô đích thực cho Đấng Cứu Thế. Vì, Ông rao giảng rằng: “Có Đấng đến sau tôi, nhưng quyền thế hơn tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người” (c 7). Ông không mạo nhận mình là Đấng Cứu Thế, không lợi dụng vai trò được giao, như vậy sự trung tín , sự chân thật, sự khiêm tốn của Gioan Tiền Hô nói lên tính cách Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế, thật là tuyệt vời. Vâng, Gioan Tiền Hô cũng là Gioan Tẩy Gỉa, Ông đảm nhận Sứ Vụ Tẩy Gỉa cho đoàn dân, và cũng chính Ông đảm nhận sứ vụ Tẩy Gỉa cho Đấng Cứu Thế nữa. Nhưng con người thật của Gioan là trung tín với “ơn gọi” của mình một các xác quyết và đúng vị trí. Vì Ông nói : “Tôi đã làm phép rửa cho anh em nhờ nước ; còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (c 8).

Như vậy, là quá rõ, chân dung của Vị Tiền Hô Gioan, đồng thời là Vị Sứ Gỉa của Đấng Cứu Thế, chính là Vị Tẩy giả đoàn dân bằng nước. Chính là rửa sạch sự bất xứng, để cải tà quy chánh, sám hối ăn năn, nhưng chưa ban được Thánh Thần, Đấng là nguồn sự sống.

Theo đó, chỉ có ba câu trong đoạn Tin Mừng (Mc 1, 1-8), từ câu 6 – 8 nói lên được tính cách, vai trò, sứ vụ của Vị Tiền Hô, cũng là nói lên được chân dung của Gioan Tẩy Gỉa, một Vị ngôn sứ đích thực của Thiên ChúaVì, chiếu theo lời đã chép trong sách ngôn sứ Isaia : “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con” (c 2).

Như vậy, sứ giả của Thiên Chúa chính là Gioan Tiền Hô, một nhân vật, một tính cách. Một sự thể hiện đức tính “tu” của một phàm nhân làm chứng cho Tin Mừng cứu độ.

Khởi đi từ bài đọc I hôm nay (Is 40, 1-5; 9-11), cho chúng ta một chân dung Tiền Hô thật sự từ ngàn xưa, để minh chứng Đấng Cứu Thế sẽ đến và cứu độ nhân loại bởi : “Bàn tay của Thiên Chúa đã ta thứ gấp hai lần tội lỗi thế nhân” (Is 40, 1b)

Bài đọc II, thư thánh Phê-rô (2Pr 3, 8-14) cho chúng thấy một quang cảnh tràn đầy mùa vọng. Một mùa vọng “…mong đợi trời mới , đất mới, nơi mà công lý ngự trự” (c 13). Đoạn nầy thánh Phê-rô cho chúng ta một sự dẫn giải đầy đủ và tròn đầy mùa vọng đích thực. Thánh Phê-rô cho chúng ta biết, Thiên Chúa là Đấng kiên nhẫn, không muốn cho ai diệt vong. Nhưng, khi giờ của Chúa đến như kẻ trộm và sẽ dùng lửa (tức Thánh Thần) mà tiêu hủy hết, kể cả các tầng trời và ngũ hành. Như vậy, rõ ràng tầng trời và các ngũ hành mà con người biết được, cũng chính là những hành tinh, là vật thụ tao bởi tay Thiên Chúa. Muôn vật phải tiêu tan , huống hồ chi là con người. Như vậy, sự còn lại của con người là gì? Há, chẳng phải ân sũng của Thiên Chúa, ơn cứu độ của Đức Giêsu- Kitô sao?

Thánh Vịnh 84 hôm nay, cho chúng ta biết việc cầu xin ơn hoà bình: “Tội dân được Chúa tha rồi. Bao nhiêu tội lỗi tay Ngài thứ tha” (c 3). Rõ ràng ân phúc từ trời cao, từ nơi Thiên Chúa tuôn trào xuống dân.

Rõ ràng, tuần thứ II mùa vọng cho chúng ta một hình ảnh khắc khổ, nhiệm nhặt của một sứ giả Đấng Cứu Thế, một sự kêu gọi sám hối từ chính bản thân ngài, là Gioan Tiền Hô. Theo đó, Giáo Hội mở đầu cho một năm Thánh Hiến, là thời gian dành cho những người tu trì nói riêng và tất cả mọi Kitô hữu nói chung. Như vậy, mẫu gương đẹp theo sau Đức Kitô không gì khác là “GIOAN TIỀN HÔ”, một mẫu gương cho đời sống Thánh Hiến của Giáo Hội.

Lạy Chúa Giêsu, con người mà Chúa khen trong phàm nhân chính là Gioan Tiền Hô, một chân dung mà có một cuộc sống chân thật và để làm chứng cho sự thật. Xin cho mỗi người chúng con biết sống theo gương của Vị Tiền Hô, hầu xứng đáng là những vị tiền hô của Chúa cho nhân thế. Amen./.

[Mục Lục]

Bài 7. ĐOÀN DÂN ĐANG TRÔNG ĐỢI
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Để chuẩn bị cho Con của Thiên Chúa đến trần gian, Thiên Chúa đã dùng nhiều sứ giả đi trước dọn đường cho Chúa Giêsu. Nổi bật nhất trong các sứ giả Tin Mừng là Ông Gioan Tẩy Giả. Thánh Gioan là cầu nối để Chúa Giêsu đến gặp dân Ngài và dân Ngài gặp được Ngài qua lời giới thiệu của Gioan.

Đọc lại Tin Mừng, chúng ta nhận ra con người của Gioan Tẩy Giả. Ông là vị tiền hô của Chúa Cứu Thế. Cuộc đời của Gioan Tẩy Giả là một cuộc đời rất kham khổ, đầy hy sinh. Quần áo của Người chỉ là áo lông lạc đà khoác trên mình để che thân. Người mặc loại áo mà các ngôn sứ xưa vì hãm mình, khổ hạnh đã khoác lên mình để tránh gió, tránh nắng, tránh lạnh, ngang lưng Người thắt một giây da thú cho gọn ghẽ. Thức ăn chỉ là châu chấu và mật ong rừng. Người ta có cảm tưởng thánh Gioan như một người rừng. Thánh nhân ăn mặc như thế và đi khắp các vùng Giuđê, Galilê và quanh sông Gio-đan để giảng đạo. Và bởi vì mùa màng của dân chúng các vùng đó vừa mới thu hoạch xong, vụ mùa mới chưa bắt đầu. Chính vì thế, dân chúng kéo đến để nghe Gioan rao giảng rất đông ngoài sức tưởng tượng của con người. Người ta cho biết, khi nghe tin Gioan giảng đạo, nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo cũng như đời đã sai đệ tử, thuộc hạ của họ đến hỏi xem Gioan là ai? Thánh Gioan không trả lời trực tiếp những câu hỏi của họ nhưng Người chỉ mượn lời ngôn sứ Isaia để đáp lại những vấn nạn của họ: “Tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa, có sứ mạng dọn đường cho Đấng Cứu Thế”. Thánh Gioan làm phép rửa và kêu gọi người ta ăn năn sám hối, thay đổi đời sống để đón chờ Đấng Cứu Thế : “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”.Thánh Gioan Tẩy Giả có một uy tín rất lớn khiến mọi người sẵn sàng nghe theo lời của thánh nhân giảng dạy và hết mọi hạng người đến gặp Ngài để xin Ngài chỉ dạy cách sống. Tiếp theo lời giảng của thánh Gioan Tẩy Giả, ngôn sứ Isaia trong bài đọc I hôm nay cũng loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa sẽ giải thoát dân Ngài khỏi ách nô lệ tội lỗi, đồng thời Ngài ban ơn bình an và đối xử với dân như người mục tử tốt lành đến cho chiên được sống và sống dồi dào (Ga 10, 10). Còn thánh Phêrô khuyên nhủ con người hãy tỉnh thức vì ngày Chúa đến bất thình lình như kẻ trộm, nên để đón ngáy Chúa đến kẻ có tội phải ăn năn sám hối, thay đổi đời sống, kẻ lành phải tiếp tục ăn ở thánh thiện và đạo đức.

Lời mời gọi của Gioan Tẩy Giả : “Hãy ăn năn sám hối” phải chăng đã lỗi thời, đã trở nên nhàm chán? Phải chăng lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả : “Hãy dọn đường cho ngay thẳng” không còn hợp thời nữa? Con người, loài người vì là loài thụ tạo vốn yếu đuối, con người vẫn còn ham mê danh vọng, ham mê xác thịt, ham của ham tiền, con người vẫn còn tính kiêu căng, ngạo mạn, vẫn còn tính ích kỷ, lười biếng, cầu toàn, bất công, tham lam. Cho nên, bao lâu con người còn mang trong người tham, sân, si thì vẫn cần những lời rao giảng, những lời khuyên để sửa đổi, để tu thân tích đức. Bao lâu con người còn tội lỗi, còn yếu đuối, bấy lâu con người cần được đổi mới, cần được thay đổi và như thế lời kêu mời của Gioan Tẩy Giả vẫn mãi mãi cần thiết, không bao giờ nhàm chán, không bao giờ lỗi thời v.v…

Mùa vọng là thời gian giúp chúng ta xét mình, giúp chúng ta suy nghĩ lại lối sống, cách ăn nết ở của chúng ta. Mùa vọng đặt chúng ta trước lời mời gọi khẩn thiết của Gioan Tẩy Giả : “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả giúp chúng ta cải thiện đời sống, giúp chúng ta suy nghĩ, sống theo ý Chúa và tránh những gì trái lương tâm và con đường đạo đức của chúng ta. Vâng, đời sống con người chỉ là tạm bợ. Thế gian rồi cũng mau qua. Con người một lúc nào đó rồi cũng ra đi nhưng các Kitô hữu, đời sống chỉ thay đổi chứ không mất đi (Kinh tiền tụng I lễ cầu cho các linh hồn). Chính vì thế, để chờ Chúa đến, người môn đệ của Chúa luôn phải sẵn sàng tỉnh thức, sám hối và quay trở về với Chúa, với anh em và một khi người môn đệ Chúa sống trong tình thương, hiệp nhất, hòa hợp, sống trong ân sủng là họ đã gặp được Chúa. Do đó, lời mời gọi của Gioan Tẩy Giả : “Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa lối cho thẳng để Người đi” luôn vẫn còn khẩn thiết và mãi mãi quan trọng cho mỗi người.

Xin mượn lời của Đức Cha Raymond Bouchex để kết luận bài chia sẻ này : “…Trong Mùa Vọng, thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi chúng ta trở nên đoàn “dân đang trông đợi”. Nơi chúng ta, có rất nhiều nỡi trông chờ: trông được hạnh phúc, được viếng thăm, được khỏe mạnh, có việc làm, những điều kiện sống khá hơn, hòa hợp và yêu thương trong gia đình, được an toàn, bình an, trọng vọng, và những gì nữa tôi không biết. Xã hội đốc thúc chúng ta cứ phải đi nhanh hơn mãi, phải có liền những gì mình muốn.Đồng thời, chúng lại buộc phải đợi chờ luôn: chờ đến phiên mình ở những quầy tính tiền trong các siêu thị lớn, nơi bưu điện, ở trạm xe buýt, trong phòng chờ bác sĩ khám bệnh hay phòng cấp cứu, trên đường giao thông… Chúng ta không còn biết chờ nữa.Chờ đợi đã mất ý nghĩa của nó.Bởi vì, chờ đợi tức là trông cậy, ước mong cái làm cho mình được thỏa lòng và cái chúng ta cần có. Là vươn tới một điều gì đó hay là một ai đó”.

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến. Maranatha, lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến. Amen./.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

  1. Thánh Gioan Tẩy Giả là ai?
  2. Gioan Tẩy Giả có phải là Đấng Mêsia không?
  3. Ai là Đấng Mêsia duy nhất đích thực?
  4. Nhỏ bé trước mặt Chúa là gì?
  5. Tại sao nhiều người lại đến với Gioan Tẩy Giả?
  6. [Mục Lục]

Bài 8. Dọn đường
Trầm Thiên Thu

Dọn dẹp là công việc có vẻ rất ư bình thường, đôi khi người ta vẫn gọi là “những việc không tên”, thế nhưng công-việc-nhỏ-mọn đó lại không hề đơn giản, khó thực hiện lắm. Việc NHỎ thì KHÓ, việc LỚN thì ỚN. Chỉ thích “an thân”!

Dọn nhà cửa đã khó rồi, dọn đường càng khó hơn. Khi sắp có “ông lớn” nào đến “kinh lý” một nơi nào đó, người ta chuẩn bị đủ thứ tươm tất, giăng cờ xí rợp trời, biểu ngữ “kêu” lắm, chi phí tốn kém lắm. Xe hơi bóng lộn đậu tại chỗ “ưu tiên”. Sau đó, “ông lớn” đi quan sát khu vực chính, phát biểu “đôi lời”, rồi tiệc tùng “hoành tráng” (đời hoặc đạo cũng thế thôi). Chỉ tội đám dân đen! Còn có “lối nhỏ” nào dành cho Thiên Chúa ngự đến nữa không? Nói cho cùng, quan trọng nhất vẫn là Con Đường Tâm Linh, Con Đường Chân Lý và Công Lý.

Để dọn đường cho Chúa đến, Thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy; mọi núi đồi, phải bạt cho thấp; khúc quanh co, phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3:4-6). Thánh Luca ghi lại rất chi tiết. Vâng, đó chính là con-đường-tâm-hồn của chúng ta. Con đường này dơ bẩn nhất mà cũng khó dọn nhất! Con đường ngắn nhất mà dài nhất là Con Đường Yêu Thương, vì nói dễ mà làm khó. Chỉ có từ miệng tới tay mà mãi không tới đích!

Ngày xưa, Thiên Chúa dạy: “Hãy an ủi dân Ta: Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giêrusalem, và hô lên cho Thành: thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong, vì Thành đã bị tay Đức Chúa giáng phạt gấp hai lần tội phạm” (Is 40:1-2). Cha mẹ thấy con cái sai thì sửa dạy, thậm chí là phạt, nhưng đau lòng lắm, nghiêm khắc ngoài mặt nhưng quay đi mà khóc, hoặc nuốt nước mắt vào trong. Thiên Chúa là Đấng nhân lành, Ngài phạt “gấp hai lần tội phạm” là để chúng ta tỉnh ngộ. Sau đó Ngài lại vỗ về, ủi an. Đó là lòng thương xót sâu thẳm khôn dò của Ngài.

Để chúng ta có thời gian kịp ăn năn, Thiên Chúa đã sai người tiên phong Gioan Tẩy Giả để “mở đường máu” cho chúng ta. Trước đó, ngôn sứ Isaia đã cảnh báo: “Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa; giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu. Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng Đức Chúa đã tuyên phán” (Is 40:3-5). Đường làng có một số cỏ dại nhưng ít quanh co, có những con đường làng vẫn thẳng tắp và phẳng phiu. Nhưng “đường lòng” của chúng ta có đủ thứ cỏ dại, khúc khuỷu và gồ ghề lắm: Kiêu ngạo, ích kỷ, gian dối, lọc lừa, tự ái,…

Bổn phận của chúng ta là dọn sạch và làm đẹp “đường lòng” của chính mình, nhưng chúng ta cũng có trách nhiệm “thông báo” cho người khác biết để họ cũng dọn “đường lòng” của họ: “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Sion, hãy TRÈO lên núi cao. Hỡi kẻ loan tin mừng cho Giêrusalem, hãy cất tiếng lên cho thật MẠNH. Cất tiếng lên, ĐỪNG SỢ, hãy bảo các thành miền Giuđa rằng: ‘Kìa Thiên Chúa các ngươi!’. Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền. Bên cạnh Người, này công lao lập được, trước mặt Người, đây sự nghiệp làm nên. Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40:9-11). Thiên Chúa xử tội bất cứ ai, không thiên tư tây vị, nhưng Ngài cũng yêu thương mọi người. Để có thể mạnh mẽ lên tiếng bênh vực công lý nhưng bất bạo động, người ta phải thực sự can đảm.

Trên hành trình tâm linh cũng vậy, khi đi theo Con Đường Chân Lý và Công Lý, phải can đảm mới “không sợ” mà dám “ăn nói”, thành thật và thẳng thắn. Rất nhiều lần Kinh Thánh đã động viên: “Đừng sợ!” (Xh 14:13; Đnl 31:6; Is 43:1; Gr 46:27-28; Gr 51:46; Is 41:13; Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5; Mt 28:10; Mc 5:36; Mc 6:50; Ga 14:27; Lc 1:13; Lc 1:30; Lc 2:10; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc 12:32; Lc 21:9; Ga 6:20; Ga 14:27; Kh 1:17-18).

Dám nói thẳng nói thật thì sẽ bị người ta ghét, thậm chí có thể bị hại. Ông Gioan Tẩy Giả bị cắt thủ cấp chỉ vì “tội” thẳng thắn và thành thật. Chúa Giêsu bị giết chết thê thảm cũng chỉ vì “tội” dạy người ta sống thành thật và thẳng thắn, bị nhà nước La Mã cho là “xúi giục và xách động dân chúng nổi loạn”. Nhưng Ngài vẫn thẳng thắn xác nhận với Tổng trấn Philatô:“Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37).

Khi can đảm sống chân thật và thẳng thắn bảo vệ chân lý và công lý, có thể chúng ta bị người khác xa lánh, và chúng ta cảm thấy buồn, nhưng tâm hồn sẽ an bình, tức là được hưởng “niềm vui ơn cứu độ” của Thiên Chúa. Dĩ nhiên niềm vui này không giống như niềm vui trần tục.

Tác giả Thánh Vịnh chia sẻ: “Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán, điều Chúa phán là lờichúc bình an cho dân Người, cho kẻ trung hiếu và những ai hướng lòng trí về Người. Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Chúa, để vinh quang của Người hằng chiếu toả trên đất nước chúng ta” (Tv 85:9-10). Thiên Chúa chỉ yêu quý những ai chân thật, có “đường lòng” không quanh co, và Ngài cũng chỉ đi trên Con Đường Công Lý để bảo vệ Chân Lý tới cùng: “Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hoà bình công lý đã giao duyên. Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao. Vâng, chính Chúa sẽ tặng ban phúc lộc và đất chúng ta trổ sinh hoa trái. Công lý đi tiền phong trước mặt Người, mở lối cho Người đặt bước chân” (Tv 85:11-14).

Ai cũng muốn sống trong Hòa Bình, muốn vậy thì phải thực hiện Công Lý. Hòa Bình và Công Lý luôn nối kết chặt chẽ với nhau. Thật là thương đám dân đen, họ khổ vô cùng, bị chèn ép đủ kiểu, đủ dạng, ngóc đầu không nổi, đôi khi họ cảm thấy thất vọng lắm, vì thế họ luôn sống trong “mùa vọng” triền miên. Khoảng mong chờ của người đau khổ luôn dài lê thê. Họ như đất hạn chờ mưa, họ khao khát Mưa Giêsu gội mát cuộc đời họ trong Biển Cứu Độ, và được sống trong Vương Quốc Bình An.

Cảm giác lâu hay mau là do ý tưởng phàm nhân, chứ Thiên Chúa không như vậy. Thánh Phêrô nhắc nhở: “Xin anh em đừng quên: đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải” (2 Pr 3:8-9). Ôi, lòng thương xót của Thiên Chúa quá đỗi diệu kỳ! Chúng ta nghe nói về ngày tận thế quá nhiều lần, chúng ta cảm thấy lâu, thậm chí có thể cho là “chuyện đùa dai” hoặc “chuyện hù dọa”, nhưng thực ra đó là sự kiên trì của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Mùa Vọng “nhắc nhở” chúng ta về Ngày Ấy, chắc chắn nhất và “gần” nhất là chính Ngày Chết của mỗi chúng ta. Vâng, phải dọn “đường lòng” hằng ngày, kẻo mà… không kịp!

Vì thế, đừng quên điều này: “Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó, các tầng trời sẽầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu huỷ” (2 Pr 3:10). Tại sao? Thánh Phêrô giải thích: “Muôn vật phải tiêu tan như thế thì anh em phải là những người tốt dường nào, phải sống đạo đức và thánh thiện biết bao, trong khi mong đợi ngày của Thiên Chúa và làm cho ngày đó mau đến, ngày mà các tầng trời sẽ bị thiêu huỷ và ngũ hành sẽ chảy tan ra trong lửa hồng” (2 Pr 3:11-12). Cuối cùng, theo lời Thiên Chúa hứa, “chúng ta mong đợi trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị”, và trong khi mong đợi ngày đó, chúng ta phải cố gắng sao cho Ngài thấy chúng ta “tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an” (2 Pr 3:14).

Lời Chúa hôm nay là đoạn khởi đầu Tin Mừng theo Thánh sử Mác-cô (Mc 1:1-8), đề cập lời nói tới “chiến sĩ mở đường” Gioan Tẩy Giả trong sách ngôn sứ Isaia: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Và đúng theo lời đó, ông Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội.

Ngày đó, mọi người từ khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan. Kinh Thánh cho biết phong cách rất “bụi” của ngôn sứ Gioan: Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. Ông Gioan sống “bụi đời” nhưng nghiêm túc trong cách sống với Thiên Chúa và tha nhân. Điều này nhắc nhở chúng ta đừng xét người theo dáng vẻ bề ngoài, vì “chiếc áo KHÔNG làm nên giáo sĩ và tu sĩ”. Tương tự, “bằng cấp KHÔNG là thẻ căn cước của người giỏi”.

Ông Gioan có bề ngoài bình thường nhưng lại là người vô thường, ông như “siêu nhân” nhưng lại khiêm nhường. Ông xác định: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần”. Vâng, chỉ có Thiên Chúa mới là Number One, là số Dzách. Chúng ta đều là số Zero!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết khiêm nhường với mọi người, biết bảo vệ Chân Lý và Công Lý, biết mau mắn dọn “đường lòng” để Đức Giêsu Kitô ngự đến. Người là Đấng hằng sinh và hiển trị với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen./.

[Mục Lục]

Bài 9. DỌN ĐƯỜNG ĐÓN CHÚA
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

  1. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về việc chuẩn bị đón tiếp một ai đó hay một sự kiện quan trọng nào đó. Thường thì việc chuẩn bị chiếm nhiều công sức và thời gian của chúng ta hơn chính việc đón tiếp. Việc chuẩn bị quan trọng chẳng những đối với người hay những người được đón tiếp mà còn quan trọng đối với cả người hay những người đón tiếp nữa.

Chúng ta có đem áp dụng điều nói trên vào lãnh vực tôn giáo và đời sống tâm linh như Mùa Vọng vừa bắt đầu. Việc chuẩn bị đón mừng Thiên Chúa đến trần gian là một hành động thánh thiêng và có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi Kitô hữu. Chúng ta hãy lắng nghe Gio-an Tẩy Giả lớn tiếng hô hào “hãy đọn đường cho Thiên Chúa”. Dọn đường cho Thiên Chúa bằng cách thay đổi đời sống cho phù hợp với kế hoạch và thánh ý của Thiên Chúa. Đời sống của dân Ít-ra-en thời Gio-an Bao-ti-xi-ta và đời sống giáo hội và xã hội Việt Nam hiện nay đầy dẫy những “núi đồi, thung lũng, hố sâu, lồi lõm, quanh co” cần được san phẳng và sửa sang cho thẳng để Thiên Chúa đến.

  1. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

2.1 Trong bài đọc 1 (Is 40,1-5.9-11): Hãy mở một con đường cho Đức Chúa

2.2 Trong bài đọc 2 (2 Pr 3, 8-14): Chúng ta mong đợi trời mới đất mới

2.3 Trong bài Tin Mừng (Mc 1,1-8): Hãy sửa lối cho thẳng để Chúa đi

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH

3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong 3 Bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá ra Thiên Chúa qua/nhờ ngôn sứ I-sai-a, Thánh Phê-rô Tông Đồ Trưởng và Thánh Gio-an Tiền Hô:

3.1.1 Thiên Chúa mà ngôn sứ I-sai-a loan báo là Đấng Thiên Chúa sẽ đến trong vinh quang. Người đến bởi vì Người luôn trung tín với Giao Ước: Chúa là Chúa của dân và dân là dân của Chúa! Người đến để đem hạnh phúc, bình an và thịnh vượng cho dân, vì thế, Người xứng đáng được dân ngóng chờ và chuẩn bị tiếp đón.

3.1.2 Thiên Chúa mà Tông đồ Trưởng Phêrô cảm nghiệm là Thiên Chúa trung tín với lời hứa là sẽ thực hiện cho những ai tin vào Người và cho cả nhân loại một công trình vĩ đại là TRỜI MỚI ĐẤT MỚI. Người không muốn ai phải chết, nhưng muốn mọi người sống đạo đức tinh tuyền và lớn lên trong ân sủng và sự hiểu biết về Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một của Người.

3.1.3 Thiên Chúa mà Gio-an Tiền Hô loan báo và dọn đường là Thiên Chúa sẽ (thực sự là Người đã) đến nơi Con Một là Đức Giê-su Na-da-rét. Gio-an có sứ mạng loan báo và dọn đường cho Người là Đấng vô cùng cao trọng đến ngay cả một ngôn sứ lớn và quan trọng như Gio-an cũng không đáng cởi quai dép cho Người! Đấng ấy sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần trong khi Gio-an chỉ làm phép rửa bằng nước.

3.2 Giáo Huấn của Thiên Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?)

Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là “hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”

Cũng có nghĩa là hãy “trở nên tinh tuyền và không có gì đáng trách”

và “lớn lên trong ân sủng và sự hiểu biết về Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.”

  1. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI

4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn sống với Đấng ban ơn, như tạo vật sống với Đấng Tạo Hóa, như những người công chính trong dân Do-thái ngóng đợi Chúa Cứu Thế, như môn đệ sống với Thầy.

4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa

4.2.1 Tại sao phải dọn đường đón Chúa?

Có hai lý do: con người cần Chúa và Thiên Chúa muốn đến & ở với con người:

(1o) Nhìn vào thế giới loài người nói chung và xã hội Việt Nam nói riêng, chúng ta thấy con người và xã hội đang rất cần đến Thiên Chúa. Bên cạnh những mảng “sáng” là các điều tốt lành phù hợp với Ý Chúa, còn hiện rõ nhiều mảng “tối” đáng báo động. Nào là chiến tranh, khủng bố, hận thù, tranh giành quyền lực, nghèo đói, bệnh tật (nhất là hiv-aids và cúm gia cầm), áp bức bóc lột, buôn bán (ma túy, phụ nữ trẻ em và vũ khí). Nào là các tệ nạn tham nhũng, hối lộ, biển thủ công quĩ, chuyên quyền, bao che, dối trá, đồng lõa với tội ác, thiên tai đủ loại (động và lở đất, sóng thần, mưa bão, lụt lội).

Con người đang khát khao cuộc sống an bình, hài hòa, trong lành, yêu thương và hạnh phúc mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban cho. Nhưng điều mâu thuẫn là Thiên Chúa lại đang bị con người loại trừ một cách quyết liệt bằng ý thức hệ chính trị, chủ nghĩa duy vật vô thần, trào lưu văn hóa sự chết đề cao tiền bạc, khoa học, kỹ thuật và thân xác con người. Tất cả những thứ ấy tựu trung đều phản lại các giá trị đích thực của con người cũng là các giá trị cơ bản của Ki-tô giáo: công bình, bác ái, sự sống, giá trị tâm linh và siêu nhiên.

Riêng với các Ki-tô hữu thì chúng ta càng cần đến Chúa Giê-su Ki-tô vì: “Không có Thầy anh em không thể làm được gì” và “Chính Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).

(2o) Cả mạc khải Ki-tô giáo là một biểu lộ ý định và ước muốn của Thiên Chúa là đến và ở với loài người. Danh xưng cao quí và được Thiên Chúa mến chuộng nhất là “Em-ma-nu-en: Thiên Chúa ở cùng chúng ta! Thiên Chúa ở với con người!”

4.2.2 Chúng ta dọn đường đón Chúa bằng cách nào?

Ít nhiều chúng ta hiểu nghĩa bóng của các từ thung lũng, núi đồi, khúc quanh co, đường lồi lõm. Những từ này ám chỉ những tình trạng, những cách sống không phù hợp hoặc đối nghịch với Phúc Âm:

Thung lũng là những đam mê của cải, danh vọng, chức quyền và lạc thú,

Núi đồi là những lối sống kiêu căng, ngạo mạn, tự mãn,

Khúc quanh co là những tâm địa không trung thực, giả hình, gian manh, xảo quyệt…,

Đường lồi lõm là cuộc sống đầy thiếu sót, yếu hèn, lỗi phạm, thiếu tin-cậy-mến đối với Thiên Chúa, thiếu bác-ái-yêu-thương đối với tha nhân.

Vậy để dọn đường đón Chúa, thì chúng ta

- trước hết phải nài xin Thiên Chúa ban cho chúng ta một tâm hồn khó nghèo, siêu thoát, trong sạch, khiêm hạ, chân thật và sốt mến,

- kế đến là không ngừng rèn luyện bản thân để có được một tâm hồn như thế,

- và sau cùng là luôn lấy Phúc Am làm chuẩn mực để kiểm điểm và điều chỉnh đời sống của mình mỗi ngày.

  1. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH

5.1 «Trong sa mạc hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta.» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu: cho các quốc gia và các dân tộc đang phải sống thờ ơ với Thiên Chúa để các quốc gia và các dân tộc ấy sớm nhận thức được việc Thiên Chúa muốn đến với mọi người để họ được hưởng hạnh phúc thật.

  1. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

Đ. Xin Chúa nhận lời chúng con.

5.2 «Anh em phải cố gắng sao cho Người thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an.» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu: cho mọi thành phần Dân Chúa, nhất là cho các vị lãnh đạo trong hàng giáo phẩm và giáo sĩ, để mọi Ki-tô hữu cố gắng thể hiện một đời sống tinh tuyền, trọn hảo trước mặt Chúa cũng như trước mặt mọi người.

5.3 «Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu: cho các tín hữu và gia đình thuộc giáo xứ chúng ta để mọi người, mọi nhà trở thành những người dọn đường cho Chúa đi.

5.4 «Kỳ thực Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải.» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu: cho những người sống thờ ơ với Thiên Chúa và say mê của cải, danh vọng, chức quyền và lạc thú trần gian để những người ấy sớm ăn năn hối cải mà khỏi bị diệt vong.

[Mục Lục]

Bài 10. ĐÓN CHÚA ĐẾN TRONG HOANG MẠC ĐỜI
Lam Thy ĐVD.

Phần mở đầu bài Tin Mừng hôm nay (CN II/MV-B), thánh sử Mac-cô viết: “Trong sách ngôn sứ I-sai-a có chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Đúng theo lời đó, ông Gio-an Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội.” – Mc 1, 2-4). Căn cứ theo lời trình thuật trên, sẽ cho rằng thánh Gio-an Tiền Hô rao giảng trong hoang địa, mà hoang địa là nơi hoang vắng, vậy thì thánh nhân nói với ai và để ai nghe?

Cứ kể suy nghĩ như vậy cũng không có gì sai. Tuy nhiên, để vấn đề sáng tỏ, cần phải đọc phối hợp thêm Tin Mừng theo thánh Lu-ca. Thánh sử Lu-ca trinh thuật rất tỉ mỉ từ khi bà Ê-li-da-bet thụ thai tới ngày hạ sinh thánh Gio-an Tẩy Giả (xc Lc 1, 5-25.57-70), kể cả thời thơ ấu thánh nhân còn sống ẩn dật trong hoang địa (“Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en.” – Lc 1, 80). Mãi tới tuổi 30, mới “có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Da-ca-ri-a là ông Gio-an trong hoang địa. Ông liền đi khắp vùng ven sông Gio-đan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (Lc 3, 2-4). Như vậy là đã rõ, thánh Gio-an Tẩy Giả chỉ “mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn.” (Mt 3, 4), “sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en.” (Lc 1, 80).

Nhưng tại sao thánh nhân lại được gọi là “Tiếng hô trong hoang địa”? Đó là lời ngôn sứ I-sai-a – vì được Thiên Chúa mặc khải – tiên báo từ Cựu Ước (Is 40, 1-5.9-11): “Có tiếng hô: “Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho ĐỨC CHÚA, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu.” (Is 40, 3-4). Thiên Chúa dựng nên cả vũ trụ và con người thì sá gì sa mạc hay đồng hoang cản bước Người, khiến Người không thể đi đến với nhân loại. Điều đó là tất yếu, tuy nhiên “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài.” (Thánh Au-gus-ti-nô), và vì thế nên Người rất cần những cộng tác viên “vạch một con lộ giữa đồng hoang tâm địa, mở một con đường trong sa mạc cuộc đời” cho Người đi.

Khi thấy trong lòng trống vắng, buồn tênh, chẳng biết nghĩ gì và làm gì, cũng chẳng biết tâm sự cùng ai, chúng ta vẫn thường nói: Mình đang lúc sống trong ‘hoang mạc cuộc đời’, có nói cũng chẳng ai nghe bởi tiếng nói của mình chỉ là ‘tiếng hò trong sa mạc’ mà thôi. Như vậy, tiếng “hoang địa” mà ngôn sứ I-sai-a dùng là muốn nói đến vùng đất hoang vắng của tâm hồn con người, nó khô khan, lạnh lẽo như sa mạc, xơ cứng, nứt nẻ như cánh đồng hoang vu vậy. Có như thế mới cần “Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho ĐỨC CHÚA, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta”. Vâng, hoang địa ở đây chắc chắn là hoang địa tâm linh (tâm địa) rồi, và để mở một con đường, vạch một con lộ, thì phải biết “Mọi thung lũng tị hiềm phải lấp cho đầy, mọi núi đồi kiêu căng phải bạt cho thấp, mọi khúc quanh co gian hiểm phải uốn cho ngay, mọi đường lồi lõm ghét ghen phải san cho phẳng”. Chỉ có như thế mới thực lòng dọn đường cho Chúa đi.

Rõ ràng là hãy sám hối để thanh tẩy tâm hồn, dọn đường cho Chúa đi, đón chờ ngày quang lâm của Đấng Cứu Độ, mà sám hối tức thị là ăn năn hối cải với quyết tâm “sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối” (Lc 3, 8). Cụ thể hơn nữa, hãy theo đám đông mà chất vấn chính Tiếng-hô-trong-hoang-địa Gio-an như trình thuật Tin Mừng theo thánh Lu-ca: “Đám đông hỏi ông rằng: “Chúng tôi phải làm gì đây?” Ông trả lời: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.” Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?” Ông bảo họ: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh.” Binh lính cũng hỏi ông: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?” Ông bảo họ: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình” (Lc 3, 10-14).

Quả thật cái hoang mạc đời nó chỉ là một cánh đồng hoang lơ thơ vài cây lúa èo uột, nhưng lại đầy rẫy cỏ lùng. Nói cách khác, cánh đồng tâm linh thiếu vắng niềm tin, nhưng lại chứa đầy hận thù ghen ghét, tội lỗi ngập tràn. Những câu trả lời của Thánh Gio-an Tẩy Giả tưởng chừng như rất dễ thực hiện; nhưng vì “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.” (Rm 7, 19-20), nên lại trở thành thiên nan vạn nan. Để giải quyết vấn đề, chỉ còn cách cậy nhờ Thần Khí Chúa soi sáng cho biết đâu là điều đáng làm, đâu là điều nên tránh; đồng thời liên lỉ cầu nguyện xin Người ban thêm dũng khí sẵn sàng đối diện với thử thách, quyết tâm thanh tẩy tâm hồn “nhằm tinh luyện đức tin là thứ quý hơn vàng gấp bội, – vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự.” (1Pr 1, 6-7).

Người Ki-tô hữu vì Tin – Cậy – Mến mà TRÔNG ĐỢI, đã hết lòng trông đợi thì hãy DỌN ĐƯỜNG cho sạch sẽ chông gai, và khi giờ đã điểm thì hãy vui mừng đứng thẳng, ngẩng cao đầu mà ĐÓN TIẾP ĐẤNG CỨU TINH, chính Người sẽ ban Thần Khí thanh tẩy hoang mạc cuộc đời người Ki-tô hữu, “Người sẽ cứu độ là tha cho hết mọi tội khiên. Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an.” (Bài ca Chúc tụng – “Benedictus” – Lc 1, 77-79). Có như thế mới hy vọng được vào “trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị. Vì thế, anh em thân mến, trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải cố gắng sao cho Người thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an. Và anh em hãy biết rằng Chúa chúng ta tỏ lòng kiên nhẫn chính là để anh em được cứu độ.” (2Pr 3, 13-15). Ước được như vậy. Amen./.

[Mục Lục]

Bài 11. Dọn đường cho Chúa
ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt

Trong một trận lũ lụt kia, nhiều du khách trên tuyến đường Bắc – Nam bị kẹt ở miền Trung. Lý do là đèo Hải Vân bị sạt lở, xe cộ không đi lại được. Nhiều đoạn đường sắt bị nước lũ cuốn đi, nên tàu Bắc – Nam cũng đành ủ rũ nằm chờ. Nhiều làng bị nước ngập, dân làng muốn thoát ra nhưng không đi được vì đường sá không còn. Nhiều đoàn cứu trợ muốn đến những làng xa xôi, nhưng không có đường đi, nên đành chịu bó tay.

Những con đường thật là quan trọng. Đường đi giúp cho người bị nạn có thể thoát ra. Đường đi giúp cho người bị nạn đón nhận được sự cứu trợ. Đường đi nối liên lạc giữa người với người. Đường sá hư hỏng làm giao thông ngừng trệ, chậm trễ việc cứu trợ, ngăn cách người với người. Muốn cho giao thông mau lẹ, muốn việc cứu trợ có kết quả, muốn cho con người gần gũi nhau, phải sửa chữa đường đi cho thật tốt.

Con đường vật lý đã cần. Nhưng con đường tâm lý còn cần hơn. Nếu con đường tâm lý bị hư hỏng thì dù có ở sát cạnh nhau, người ta cũng vẫn cứ xa nhau.

Tương tự như thế, ta cần có con đường thiêng liêng thật tốt để đón Chúa đến. Thật ra Chúa đã đến từ lâu, nhưng ta chưa đón nhận được vì con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta đã bị hư hỏng.

Tâm hồn ta có những đỉnh đồi kiêu ngạo luôn muốn nâng mình lên, luôn khoe khoang, không bao giờ chịu thua kém người khác. Tâm hồn ta có những ngọn núi tự ái cao ngất trời xanh, không bao giờ chịu nhận lỗi, không bao giờ chịu tha thứ.

Tâm hồn ta có những hố sâu tham lam muốn chiếm đoạt tất cả, muốn thu vén tất cả vào túi riêng. Tâm hồn ta có những hố sâu chia rẽ, luôn gây ra bất hoà, luôn giận hờn, luôn ganh ghét, luôn nghi kỵ. Tâm hồn ta có những hố sâu đam mê, miệt mài đuổi theo danh, lợi, thú. Tâm hồn ta có những hố sâu dục vọng nặng nề thú tính.

Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự dối trá, không thành thật với Chúa, không thành thật với người khác và không thành thật với chính mình. Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự trốn tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu duyệt xét lương tâm.

Tâm hồn ta có những lượn sóng gồ ghề của những lời nói độc ác, tàn nhẫn. Tâm hồn ta gồ ghề vì thói lười biếng không chịu cố gắng thăng tiến bản thân. Tâm hồn ta gồ ghề vì những phê bình chỉ trích thiếu tính cách xây dựng.

Tất cả những ngọn đồi, những vực sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ ghề ấy ngăn chặn Chúa đến với ta. Nên hôm nay, Thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi ta hãy sửa chữa con đường thiêng liêng cho tốt đẹp để đón Chúa Giêsu đến.

Hãy bạt đi thói kiêu căng tự mãn. Hãy bạt đi tính tự ái ngang ngạnh. Hãy lấp đi những hố sâu tham lam, chia rẽ, bất hoà. Hãy lấp đi những hố sâu đam mê, dục vọng. Hãy uốn thẳng lại những quanh co dối trá. Hãy uốn thẳng lại những khúc quanh giả hình. Hãy san phẳng những lượn sóng gồ ghề độc ác. Hãy san phẳng những lượn sóng gồ ghề nói hành nói xấu.

Đổi mới một con đường thì dễ, nhưng đổi mới tâm hồn không dễ chút nào. Ngoài những cố gắng bản thân, còn cần đến những phương thế. Đời sống của Thánh Gioan Baotixita đề nghị cho ta 3 phương thế rất tốt.

Phương thế thứ nhất là vào sa mạc. Sa mạc là nơi hoang vu vắng vẻ giúp ta sống cô tịch. Trong cô tịch, ta dễ chìm sâu xuống đáy lòng mình để gặp gỡ Chúa. Một mình ta diện đối diện với Chúa. Trong thân mật, Chúa sẽ dạy ta biết Thánh Ý để ta thi hành. Đức Giêsu, trước khi đi rao giảng cũng đã vào sa mạc 40 ngày để tìm Thánh Ý Chúa Cha. Sa mạc đây được hiểu là những giờ cầu nguyện riêng tư thân mật một mình ta với Chúa.

Phương thế thứ hai là mặc áo da thú. Mặc áo da thú có nghĩa là ăn mặc đơn sơ, không chải chuốt. Một tâm hồn mặc áo da thú là một tâm hồn biết sống thực với chính mình, biết nhìn nhận những yếu đuối lỗi lầm và xin Chúa tha thứ. Thái độ đơn sơ khiêm nhường như thế chính là khởi điểm để tiến lên trên con đường thánh đức.

Phương thế thứ ba là ăn châu chấu và mật ong rừng. Đây có ý nói về một đời sống khổ chế. Hãm dẹp những tính mê tật xấu, hạn chế những đòi hỏi của thân xác để bắt nó quy phục linh hồn. Giảm bớt những nhu cầu không cần thiết để bồi dưỡng đời sống tâm linh.

Thánh Gioan Baotixita đã sống theo chương trình 3 điểm này, nên Ngài đã trở thành người mở đường cho Đấng Cứu Thế. Nếu chúng ta biết áp dụng 3 phương thế ấy trong Mùa Vọng này, ta sẽ biến tâm hồn ta thành một con đường thẳng tắp cho Chúa Giáng Sinh ngự đến.

Lạy Chúa, xin cứu con khỏi mọi tội lỗi để con xứng đáng đón rước Chúa. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ
1- Con đường tâm hồn tôi có những đồi núi, vực sâu, khúc quanh nào cần sửa chữa?
2- Tôi có cần đến những phương thế của Thánh Gioan Baotixita không?
3- Tôi sẽ làm gì trong tuần này để thực hành Lời Chúa?
4- Trong bài Tin Mừng Chủ nhật thứ II Mùa Vọng này, tôi tâm đắc nhất câu nào
?

[Mục Lục]

Bài 12. Kẻ dọn đường
Lm G. Nguyễn Cao Luật

Vẫn là một con đường

Toàn bộ cuộc sống của dân Do-thái đều có dấu ấn về một quan niệm: đời sống là một cuộc Vượt qua. Quan niệm này được bày tỏ rõ ràng qua những biến cố lớn: Thiên Chúa gọi tổ phụ Áp-ra-ham, dân Do-thái được giải thoát khỏi Ai-cập và lưu lạc 40 năm trong sa mạc, cuộc lên đường rời bỏ đất lưu đày để trở về quê hương … Trong những biến cố đó, họ luôn phải lên đường và luôn phải vượt qua những chướng ngại làm cản trở bước chân: đó là sa mạc, là dòng sông … Họ lên đường để đi tới miền đất Thiên Chúa đã hứa ban cho họ, nơi họ vẫn hằng mơ ước.

Sa mạc, dòng sông: những yếu tố này lại xuất hiện trong câu chuyện về ông Gioan Tẩy Giả và trở thành dấu chỉ cho những ý nghĩa mới: Phép rửa ông Gioan đề ra cho người Do-thái không phải chỉ là một nghi thức; trái lại, đó là dấu chỉ bề ngoài cho một hoạt động sâu xa là sự thanh tẩy nội tâm. Qua phép rửa này, ông Gioan muốn nhắc nhở dân chúng về ý nghĩa sâu xa trong ơn gọi của họ: họ là những người được Thiên Chúa tuyển chọn và họ phải trở nên xứng đáng với ơn gọi đó.

Theo cách hiểu của các Kitô hữu thời đầu, từ việc Thiên Chúa kêu gọi dân Ít-ra-en trở thành dân của Người đến sự xuất hiện của ông Gioan Tẩy Giả và của Đức Giêsu là một sự liên tục hoàn toàn. Những yếu tố này liên hệ với nhau cách chặt chẽ và bổ sung cho nhau. Đây cũng chính là điều thánh Mác-cô muốn nhấn mạnh. Trong bài tường thuật của Tin Mừng thứ hai, người ta thấy cả ba khía cạnh quá khứ, hiện tại và tương lai.

Quá khứ: vào cuối thời lưu đày, ngôn sứ I-sai-a đã kêu gọi dân Do-thái lên đường, thực hiện một chuyến du hành mới băng qua sa mạc. Một lần nữa, Thiên Chúa lại đến, mở ra con đường cho dân Người, thúc đẩy họ lên đường đang khi họ là những người đã chịu kết án phải chết.

Hiện tại: ông Gioan kêu gọi dân trở lại, từ bỏ lối sống cũ và bước vào đời sống mới.

Tương lai: ông Gioan thoáng thấy được sự xuất hiện của Đức Giêsu, Vị Cứu Thế. Chính Người sẽ làm sáng tỏ toàn bộ ý nghĩa của cuộc hành trình luôn được lặp lại này. Người là Đấng sẽ thực hiện cuộc Vượt Qua đích thực, và tận điểm của cuộc hành trình này là ân huệ Thánh Thần.

Qua những suy niệm như thế về ý nghĩa lời rao giảng của ông Gioan Tẩy Giả, thánh Mác-cô đã hiểu được tất cả mọi điều hàm chứa trong phép rửa. Với Đức Giêsu, phép rửa chính là cuộc vượt qua đúng nghĩa, nhờ cái chết trên thập giá. Cuộc vượt qua này đòi phải từ bỏ mọi sự, kể cả mạng sống, nhưng cuối cùng, chính cuộc vượt qua này sẽ mở ra con đường dẫn tới cuộc sống viên mãn.

Công việc của kẻ dọn đường

Người ta vẫn gọi ông Gioan Tẩy Giả là vị Tiền Hô, nhưng có người lại muốn gọi ông là cái máy ủi.

Cách nói như thế không phải chỉ do ý thích muốn chơi chữ. Lý do chính là tính cộc cằn của ông cũng như những ngôn từ mạnh bạo, quyết liệt của ông. Thánh Lu-ca thuật lại ông đã lăng mạ những người đến gặp ông: ông gọi họ là nòi rắn độc.

Một lý do khác nữa là nếp sống kỳ lạ của ông. Con người ông ít có những nét hấp dẫn, như lời tường thuật của các tác giả sách Tin Mừng và hình ảnh do các nhà điêu khắc để lại: một con người mặc áo bằng da thú, ăn châu chấu và mật ong rừng …

Vị ngôn sứ này quả là một nhân vật lạ lùng. Đức Giêsu gọi ông là vị ngôn sứ lớn nhất, không phải chỉ vì dáng dấp đặc biệt của một người sống trong sa mạc: là nếp sống khỗ hạnh và đưa ra nhiều yêu cầu, nhưng vì ông đã nhận mình là tiếng nói của Thiên Chúa: ông đến để loan báo và chuẩn bị cho cuộc xuất hiện của chính Thiên Chúa.

Thiên Chúa vẫn luôn là Đấng Em-ma-nu-en – Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, một Thiên Chúa đang chuẩn bị cho cuộc xuất hành mới, cuộc xuất hành cuối cùng để đưa nhân loại về quê hương vĩnh cửu. Con người cần phải tạo điều kiện để Thiên Chúa có thể đến và hoạt động nơi họ. Ông Gioan là người nhắc nhở cho họ về bỗn phận này.

Công việc của ông Gioan là “đi trước Chúa, mở lối cho Người” (Lc 1,76b) và ông đã dọn lối bằng cách thức tỉnh lương tâm con người, kêu gọi họ thay đỗi lối sống, thúc đẩy họ dẹp bỏ những gò nỗng, lấp những hố sâu, uốn ngay đường cong mà quay về đường công chính.

Thật ra lời kêu gọi của ông Gioan không phải là mới mẻ: hình thức có thay đỗi, nhưng nội dung vẫn là một từ thời các ngôn sứ. Thiên Chúa vẫn luôn mong muốn con người vươn lên cao hơn, hạnh phúc hơn và xứng đáng hơn với tình yêu thương của Người. Con người luôn phải vượt qua quá khứ để đạt tới tương lai mới. Họ luôn phải khắc khoải trở mình để đón lấy những điều lớn lao Thiên Chúa tặng ban cho họ. Lời kêu gọi của ông Gioan Tẩy Giả nhắc lại cả một lịch sử dài của lòng yêu thương. Lịch sử này đang đi tới hổi quyết định với sự xuất hiện của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa.

Do đó, lời kêu gọi của ông Gioan có tính cách độc đáo vì chuẩn bị cho thời cuối cùng. Ông đã thoáng thấy một tương lai xán lạn đang được mở ra: nhân loại được giải thoát hoàn toàn khỏi ách nô lệ, và Thiên Chúa sắp đến để thực hiện những sáng kiến cuối cùng. Chính vì vậy ông nói rõ: “sẽ có một Đấng đến sau tôi, quyền thế hơn tôi” và “tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần” (Mc 1,7-8).

Kẻ dọn đường hiên ngang

Ngày nay, Đức Kitô đã đến và một giao ước mới giữa Thiên Chúa và loài người đã được ký kết, thì nhân vật Gioan này còn có thể nói gì với con người ? Ông là vị ngôn sứ cuối cùng, một vị ngôn sứ lớn của Cựu Ước, nhưng lại là vị ngôn sứ đầu tiên trong Kitô giáo; ông đã hoàn thành công trình xây dựng cây cầu nối giữa dân Ít-ra-en và dân mới của Thiên Chúa, giữa đợi chờ và xuất hiện. Vậy phải chăng nên xếp ông vào công hàm, vào bảo tàng lưu trữ ?

Chắc chắn là không. Điểm nghịch lý trong Lịch Sử Cứu Độ là tất cả đã được ban tặng nhưng vẫn còn đang được thực hiện. Có một Tin Mừng đã được viết ra, và có một Tin Mừng khác cũng đang được viết ra. Thiên Chúa đã nói với con người một lần thay cho tất cả, nhưng sự im lặng hiện nay của Người cũng là một cách nói. Do đó, lời kêu gọi của ông Gioan Tẩy Giả vẫn luôn vang lên như một lời mời gọi, như một sứ mạng.

Như một lời mời gọi. Con người sống trong sa mạc xưa kia cũng đang kêu lên giữa sa mạc của cuộc đời: Anh em hãy ăn năn sám hối, tức là: hãy đi vào sa mạc mà gặp gỡ Thiên Chúa, hãy từ bỏ tất cả để nhường chỗ cho Thiên Chúa. Đây cũng là điều Thiên Chúa luôn nói với con người, như lời ngôn sứ Hô-sê: “Ta sẽ dẫn ngươi vào sa mạc để cùng ngươi thổ lộ tâm tình.”

Như một sứ mạng. Gioan đã minh chứng rằng Đức Kitô chỉ có thể xuất hiện trên những con đường đã được chuẩn bị sẵn sàng. Mỗi người phải dẹp đi những trở ngại được dựng nên trên con đường của Đức Kitô. Họ có nhiệm vụ phải đẩy xa khỏi mình cũng như môi trường chung quanh những thành kiến, những thái độ thiếu tình yêu … Họ có sứ mạng phải dọn đường, phải dành chỗ cho Đức Kitô xuất hiện: nhỗ đi những mầm mống của bạo lực và chiến tranh, san bằng những ngọn núi là thái độ dửng dưng, lấp đầy những hố sâu là nghi ngờ và cái nhìn xấu xa.

Ông Gioan đã làm chứng cho niềm tin của ông vào thế giới mới này bằng chính mạng sống của ông. Ông xác tín rằng trong thế giới mới này, những tâm hồn ủ rũ sẽ được nâng dậy và những cõi lòng sôi sục, chia rẽ vì hận thù sẽ được biến đổi trở nên dịu hiền.

Ông Gioan đã là cái máy ủi. Mỗi người chúng ta, theo cách của mình, cũng phải trở thành người ủi đường cho Chúa đến. Và như ông Gioan, mỗi người chúng ta cũng phải xoá mình đi trước một Đấng khác, quyền thế hơn chúng ta. Chính Người là ơn cứu độ, là Tin Mừng cho thời đại chúng ta.

Đức Kitô chẳng còn đôi tay

Người chỉ có đôi tay của chúng ta

để thực hiện công trình của Người ngày hôm nay.

Đức Kitô chẳng còn đôi chân

Người chỉ có đôi chân của chúng ta

để đến với con người.

Đức Kitô chẳng còn tiếng nói

Người chỉ có tiếng nói của chúng ta

để công bố về Người.

Đức Kitô chẳng còn sức lực

Người chỉ có sức lực của chúng ta

để hướng dẫn nhân loại đến với Người.

Đức Kitô chẳng còn những bản Tin Mừng

để con người đọc lên.

Nhưng tất cả những gì chúng ta làm

qua lời nói và hành động

đó chính là Tin Mừng được viết ra (M. Pomilio)

[Mục Lục]

Bài 13. Hãy dọn đường cho Chúa đến
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Có hai thứ cản trở khiến con người không đến được với nhau: cản trở bên ngoài và cản trở bên trong.

Cản trở bên ngoài có nhiều loại như lũng sâu, núi cao, đường sá quanh co hiểm trở… như đã được tiên tri I-sai-a đề cập đến trong bài đọc thứ nhất hôm nay.

Lại có những cản trở khác do chính con người tạo ra để ngăn chận sự thâm nhập của quân thù như người xưa phải xây thành cao, đào luỹ sâu; hay ngày nay người ta dùng hàng rào kẽm gai cài thêm bom mìn để ngăn chặn quân thù.

Ngoài ra còn có những ngăn cách khác như dòng sông Bến Hải trước đây đã chia cắt đất nước Việt Nam thành hai miền thù nghịch suốt 21 năm, hoặc bức tường Bá Linh ở Đức chia cắt đất nước nầy thành hai quốc gia đối đầu suốt 28 năm.

Thành luỹ bên ngoài tuy vậy mà dễ vượt qua, còn thành luỹ trong tâm tư con người còn khó vượt qua hơn nhiều; đó là lòng hận thù, nghi kỵ, giận hờn, ghen tỵ, tranh chấp, kiêu căng, khép kín… Những thứ thành luỹ nầy tuy vô hình, không có bề cao, bề rộng, bề sâu nhưng có khả năng ngăn cách con người rất hiệu quả: Có những gia đình ở kề bên nhau nhưng vì hận hờn ghen ghét nên không hề lui tới với nhau; thậm chí có những anh em ruột thịt mà mấy chục năm trời không nhìn mặt nhau chỉ vì tranh chấp đố kị. Có khi vợ chồng cùng sống chung phòng nhưng tâm hồn hai người cách xa nhau vạn dặm.

Lời Chúa qua miệng Ngôn sứ I-sai-a (trong bài đọc thứ nhất hôm nay) tha thiết mời gọi chúng ta hãy tháo gỡ những thành luỹ vô hình đó để giao hoà với nhau. “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng. Hãy lấp mọi hố sâu và bạt mọi núi đồi: con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng…”

Và trong Tin Mừng hôm nay, Thánh sử Mác-cô nhắc lại: “Có tiếng kêu trong hoang địa: hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng.”

Dọn đường đón Chúa không là gì khác ngoài việc tháo gỡ những rào cản đang được dựng lên trong lòng ta để người anh em có thể đến được với mình.

Tha nhân là hiện thân của Chúa Ki-tô, là chi thể của Chúa Ki-tô.

Nếu chúng ta không tháo gỡ những ngăn cách để cho tha nhân là hiện thân của Chúa Giê-su đến được với ta, thì chúng ta đang ngăn chặn Chúa đến với mình.

Cha mẹ trần gian rất đau lòng khi nhìn thấy con cái trong nhà xích mích, chia rẽ và ly tán.

Thiên Chúa là Cha nhân lành cũng vô cùng đau đớn khi con cái Ngài trên dương thế sống xa lìa chia cắt.

Mỗi người chúng ta là một tế bào, là một chi thể làm nên Thân Thể Chúa Ki-tô. Vì thế, khi để cho hận thù, nghị kị, ganh ghét… chia rẽ chúng ta là chúng ta đang chia cắt Thân Thể Chúa. Thế là vô tình Chúa Ki-tô đang bị phanh thây! Chúa Giê-su rất đau lòng vì Thân Mình Ngài bị chia năm xẻ bảy nên Ngài tha thiết đòi buộc con cái phải mau tháo gỡ những ngăn cách đó để giao hoà với nhau, để cho Thân Mình Ngài được lành lặn. Vì thế Ngài nghiêm khắc đòi buộc những chi thể phân cách hãy mau mau giao hoà: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5, 23-24)

Dòng sông Bến Hải cắt đôi đất nước Việt Nam và biến đồng bào Việt Nam thành thù địch trong suốt 21 năm trời cuối cùng đã trở thành gạch nối liên kết hai miền bắc nam.

Bức tường Bá Linh chia cắt Đức quốc thành hai quốc gia thù nghịch suốt 28 năm cuối cùng cũng bị triệt hạ để cho dân tộc Đức được thống nhất và trở nên hùng cường.

Nhiều ngăn cách lớn lao giữa các dân tộc đã dần dần được tháo gỡ.

Vậy biết đến bao giờ những “bức tường” do chính chúng ta dựng lên ngăn cách chúng ta với người khác được tháo gỡ để Thiên Chúa có thể đến với chúng ta?

Bài 14. Gioan, con người thật lạ lùng
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Hôm nay chúng ta cùng chiêm ngắm một con người thật lạ lùng. Lạ lùng từ khi được cưu mang. Lạ lùng trong cách sống. Lạ lùng đến nỗi cha ông là Zacaria đã không tin rằng mình sẽ làm cha vào tuổi bóng đã ngả về chiều. Lạ lùng vì ngay từ trong dạ mẹ ông đã reo lên khi Chúa đến viếng thăm. Lạ lùng vì ông sống khắc khổ nơi rừng vắng. Ông chỉ ăn châu chấu với mật ong. Lạ lùng vì ông được người đời ca tụng nhưng ông đã từ khước tất cả danh vọng chỉ nhận mình là tiếng kêu nơi hoang địa. Cuộc đời ông luôn khiêm tốn nhỏ bé để Chúa được lớn lên. Ông có tên gọi thật khiêm nhường là Gioan.

Tin mừng thánh Luca trình thuật về việc làm của ông cũng thật lạ lùng. “Có tiếng người hô trong hoang địa”. Tại sao ông lại hô giữa nơi hoang địa? Hoang địa khô cằn lại lắm hiểm nguy? Hoang địa làm sao có kẻ qua người lại mà ông đến nơi hoang địa để hô vang dọn đường cho Chúa? Thế mà tiếng hô của ông lại đánh động lòng người. Hàng ngàn người đã ăn năn sám hối. Hàng ngàn người tìm đến với ông để canh tân, sửa đổi cuộc đời. Như vậy, hoang địa ở đây có thể không mang nghĩa địa lý. Hoang địa ở đây chính là sa mạc của lòng người. Cuộc đời đã khô cạn tình người. Giữa phố xá đông người nhưng con người vẫn cô đơn, thất vọng, chán chường bởi sự ích kỷ, lạnh lùng trong quan hệ giữa người với người. Đây là “một ngõ vắng xôn xao nằm trong thành phố lớn”. Dù rằng thành phố có trăm ngàn ngõ ngách nhưng bởi tính ích kỷ và sự vô cảm nên xã hội vẫn đầy những ngõ vắng cô đơn của cuộc đời. Vâng, cuộc đời trở thành một hoang địa khi tình người đã mất. Khi người ta sống bên nhau nhưng không còn liên đới, chia sẻ với nhau thì con người vẫn cô đơn giữa lòng nhân thế. Cuộc đời trở thành một hoang địa khô cằn nên cuộc đời buồn nhiều hơn vui, nước mắt nhiều hơn nụ cười.

Tiếng hô của ông đi xuyên qua hoang địa lòng người. Ông đề nghị sửa lại lối sống. Đường quanh co hãy uốn cho ngay thẳng. Người quanh co là người sống thiếu chân thật. Người quanh co thường có lối sống gian dối, điêu ngoa, sống lắc lẻo, lừa bịp. Ăn không nói có. Thêm điều đặt chuyện để hại người hại đời. Lối sống như vậy chỉ là một loại phá hoại sự yên ổn của xóm làng và gây chia rẽ khu xóm, chỉ khiến con người xa rời nhau. Làm sao có thể tin tưởng và yêu mến nhau nếu trong giao tiếp thiếu sự chân thành, lại còn thêm điều đặt chuyện? Gioan còn đề nghị phải lấp đầy thung lũng của lòng người. Vì “sông sâu còn có kẻ dò – Lòng người nham hiểm trùng khơi khôn dò”. Do vậy, phải lấp đầy thung lũng của những ngăn cách, của những phân biệt giai cấp và nghi kỵ hiểu lầm. Và cuối cùng là hãy bạt đi núi đồi của kiêu căng, tự mãn để nhờ đó mà con người khắp năm châu sẽ nắm tay nhau hát vang câu hát của thanh bình. Đây cũng là cách thức duy nhất để Nước Thiên Chúa hiển trị và ơn cứu độ của Thiên Chúa trải rộng đến muôn tâm hồn.

Vâng thưa anh chị em, thế giới hôm nay vẫn còn đó tiếng kêu đơn độc giữa phố phường. Có biết bao người sống cô đơn lây lất vì thiếu sự cảm thông nâng đỡ của anh em bạn bè. Có biết bao trái tim đang co thắt trong đau khổ vì sự nghi kỵ, kết án, tẩy chay của anh em. Có biết bao cuộc đời đang thất vọng buông xuôi vì sự bỏ vạ, cáo gian, vì sự lừa gạt và hãm hại của đồng loại. Có biết bao giọt nước mắt vẫn rơi rớt trên giòng đời vì vô ơn bội bạc, vì sự bất trung, bất hiếu của những người thân trong gia đình. Và vẫn còn đó, còn rất nhiều những nỗi đau là hệ quả của một thế giới hoang địa khô cằn tình người.

Mùa vọng giáo hội mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức để nhận ra tiếng kêu cầu cứu của tha nhân. Hãy yêu mến tha nhân trong tình yêu chân thành, đừng lường gạt lẫn nhau, hãy sống thật lòng với nhau. Hãy xóa đi những hố sâu của nghi kỵ, hiểu lầm để sống cảm thông và tha thứ cho nhau, đừng gây chia rẽ và tạo nên những hố sâu của bất đồng, của oán hận hờn căm. Hãy xan bằng những ngăn cách bởi kiêu căng tự mãn bằng một đời sống hoà hợp với nhau trong tình anh em có chung một cha trên trời.

Ước mong mỗi người chúng ta hãy sửa lại lối sống cho phù hợp với tin mừng cứu độ, để thiết lập một màu xanh yêu thương và ngập tràn niềm vui và hạnh phúc thay cho sự khô cằn của sa mạc tình người.

Nguyện xin Đấng Emmanuel, là Đường là sự thật và là sự sống dẫn dắt chúng ta đi trong hồng ân của Ngài, ngõ hầu mỗi người chúng ta sẽ được hưởng một mùa xuân của hoa công lý và tình thương nở rộ khắp nhân trần. Amen.

[Mục Lục]

Bài 15. Chuẩn bị đón Chúa đến
Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện

Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 1,1-8) kể lại công việc của ông Gioan Tẩy Giả. Chúa Giêsu chưa xuất hiện. Nhưng thực ra, từ đầu cho đến cuối bài, mọi chi tiết đều có liên quan đến Người và đều chỉ mang một ý hướng chính yếu là cung cấp những chỉ dẫn về vị thế và nhiệm vụ của Người.

  1. Mở đầu là lời công bố Tin Mừng của Hội Thánh: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (c.1). Hạn từ “khởi đầu” (arkhè) có thể được hiểu theo nghĩa thời gian hoặc theo nghĩa nguyên nhân. Hiểu theo nghĩa thời gian, nó chỉ điểm khởi đầu của một chuỗi các biến cố và thực tại. Hiều theo nghĩa nguyên nhân, nó chỉ tính chất nguồn khởi của thực tại được đề cập. Trong c.1 này, arkhè vừa mang nghĩa thời gian vừa mang nghĩa nguyên nhân. Điều được đề cập sẽ vừa là khởi điểm vừa là nguồn khởi của Tin Mừng mà Hội Thánh loan báo.

Nhưng điều được đề cập ở đây là gì? Nói cách khác, hạn từ arkhè ở c.1 quy chiếu về thực tại nào? Cái gì là arkhè của Tin Mừng mà Hội Thánh đang sống và công bố? Ở đây, hạn từ này có thể quy chiếu về phần dẫn nhập của sách Mc, tức là phần kể về giai đoạn chuẩn bị cho sứ vụ của Đức Giêsu (1,2-13); hoặc quy chiếu về toàn bộ cuốn sách. Có lẽ nên ưu tiên hiểu theo cách thứ hai: công trình của Đức Giêsu (mà đỉnh điểm là cái chết và sự phục sinh) chính là khởi đầu, nguồn mạch và nền tảng của Tin Mừng mà Hội Thánh đang sống và công bố.

Tin Mừng được diễn đạt trong hình thức trọn vẹn: Đức Giêsu Nadarét là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Ở trung tâm của sứ điệp, như vậy, không phải là một giới luật hay một lời hứa hẹn, mà là một sự kiện thực tế, rằng con người lịch sử – cụ thể Giêsu chính là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Lời loan báo này liên quan đến căn tính của Đức Giêsu và cho chúng ta biết Ngài là ai, vừa xét trong vị thế của Ngài đối với nhân loại (“Đấng Kitô”), vừa xét trong tương quan của Ngài với Thiên Chúa (“Con Thiên Chúa”). Đối với nhân loại, Ngài là Đấng Mêsia. Hạn từ này cho thấy một cách rõ ràng công trình cứu độ của Đức Giêsu không bị giới hạn vào cảnh vực cá nhân, mà tác động trực tiếp đến cảnh vực xã hội – cộng đồng, vì Vua Mêsia là vua và là Đấng cứu độ không chỉ của một cá nhân. Đối với Thiên Chúa, Đức Giêsu ở trong tương quan rất đặc biệt: tương quan con thảo. Tất cả những kẻ đến trước đều chỉ là các đầy tớ (x.12,2-5), còn Đức Giêsu là Con yêu dấu của Ngài (x.1,1; 9,7). Mối tương quan này là thực tại riêng biệt của Đức Giêsu, làm cho Người khác hẳn tất cả mọi con người khác trong nhân loại. Mối tương quan này cũng là nền tảng của vị thế và nhiệm vụ của Người đối với thế gian.

Chuẩn bị Lễ Giáng Sinh không phải là chuẩn bị cho một lễ hội vào dịp cuối năm, mà chính yếu và thực chất là chuẩn bị để đón Đấng ấy: Người là Đấng Kitô và là Con Thiên Chúa. Chúng ta phải đọc lời công bố Tin Mừng của Hội Thánh ở câu đề tựa Mc 1,1 trong khung cảnh Mùa Vọng với ý thức đó.

  1. Sau câu đề tựa (c.1) là ba đoạn văn nhằm làm sáng tỏ dung mạo của Đức Giêsu trong giai đoạn lịch sử đầu tiên của Người. Bài Tin Mừng hôm nay chỉ gồm đoạn thứ nhất (cc.2-8), nói về hoạt động của ông Gioan Tẩy Giả.

Trước tiên là một lời ngôn sứ được trích dẫn: “Trong sách ngôn sứ Isaia có chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (cc.2-3). Với lời trích dẫn này, tác giả Mc muốn làm nổi bật mối liên hệ với sứ điệp của Cựu Ước. Có một sự tương ứng trực tiếp giữa tiếng hô trong oang địa (Is 40,3) với sự xuất hiện của ông Gioan Tẩy Giả trong hoang địa (Mc 1,4). Sự xuất hiện và các công việc của ông Gioan đã được ngôn sứ Isaia loan báo trước, và nơi ông Gioan, chương trình của Thiên Chúa bắt đầu đi vào giai đoạn thực hiện.

Thực ra, dưới danh nghĩa ngôn sứ Isaia, tác giả Mc gộp vào hai bản văn khác nhau: bản thứ nhất (c.2) trích từ Xh 23,20 và Ml 3,1; bản thứ hai (c.3) trích từ Is 40,3. Nhưng trong Mc 1,2 Thiên Chúa ngỏ lời trực tiếp với Đấng đang đến, tức là với Đức Giêsu, chứ không phải với dân Israel. Biến cố Đức Giêsu đến là một biến cố có ý nghĩa đặc biệt; tính chất đặc biệt ngoại thường này được thể hiện trong sự kiện nó được chuẩn bị như là biến cố chính Thiên Chúa đến (Ml 3,1), bởi một sứ giả. Đó là điều hoàn toàn khác biệt, vì không bao giờ có ngôn sứ nào được chuẩn bị như thế. Con đường phải được chuẩn bị ở đây là con đường của Đức Chúa.

Rõ ràng tác giả Mc muốn khẳng định ngay từ khởi đầu rằng nơi Đức Giêsu, chính Đức Chúa đến với dân Người. Một lần nữa, chúng ta được nhắc nhở rằng sự chuẩn bị của chúng ta trong Mùa Vọng này chính là sự chuẩn bị để đón Đức Chúa. Đấng đang đến là Đức Chúa, chứ không phải là một lễ hội, cho dù là lễ hội của Đạo Chúa.

  1. Đúng theo lời Kinh Thánh được trích dẫn ở cc.2-3, “Ông Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa” (c.4a). Ông có nhiệm vụ kép: kêu gọi dân chuẩn bị (cc.4-5) và rao giảng về Đấng đang đến (cc.7-8). Những mô tả về cách trang phục và ăn uống của ông Gioan (c.6) giúp cho người ta hiểu rõ hơn về ông và nhiệm vụ của ông.

Trước hết, ông Gioan “rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Mọi người từ khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan” (cc.4b-5). Chuẩn bị đón Đức Chúa, có bốn điều phải làm: sám hối, thú tội, chịu phép rửa và được ơn tha tội. Hai yếu tố đầu nhấn mạnh sự thanh tẩy khỏi tội lỗi; hai yếu tố sau nhấn mạnh sự giao hòa với Thiên Chúa. (Đó cũng phải là hai yếu tố quan trọng trong việc chúng ta chuẩn bị đón Chúa trong Mùa Vọng này và trong suốt cuộc đời). Ông Gioan thành công rực rỡ trong nhiệm vụ: “Mọi người từ khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem kéo đến với ông” (c.5). Thực ra, hoạt động của ông Gioan có phần “lập dị”. Thứ nhất, ông không đến với người ta như các ngôn sứ đã làm và như chính Chúa Giêsu cũng sẽ làm. Ông ở yên trong hoang địa và mọi người kéo đến gặp ông ở đó. Thứ hai, ông Gioan làm phép rửa trong nước sông Giorđan. Bình thường, nước sông không thể được sử dụng để cử hành việc thanh tẩy theo nghi thức. Vì thế, hàng lãnh đạo tôn giáo giữ khoảng cách với công việc của ông Gioan, và dân chúng đến với ông là đang làm một hành động đặc biệt, vượt khỏi khung cảnh của những thực hành tôn giáo bình thường.

“Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng” (c.6). Cách trang phục này chứng tỏ ông Gioan chỉ sống cho một mình Thiên Chúa thôi. Thức ăn của ông hoàn toàn lấy từ hoang địa, và như thế, cắt đứt liên hệ với những sản phẩm của đất Palestina. Về thắt lưng, Gioan và Êlia là các nhân vật duy nhất trong Kinh Thánh mang thắt lưng bằng dây da, và đó là một nét khu biệt của ông Êlia. Ông Gioan được đồng hóa với ông Êlia và vì thế, mang một tầm quan trọng đặc biệt trong việc loan báo về căn tính của Đức Giêsu, Đấng đang đến. Ông Êlia là ngôn sứ chỉ hoàn toàn phục vụ Thiên Chúa, hướng trọn con người và sinh mệnh của mình về Thiên Chúa, và mọi điều ông làm chỉ là để dẫn dắt dân về với Thiên Chúa. Sự hoàn toàn tập trung vào Thiên Chúa đã là yếu tố đặc trưng làm nên dung mạo của Êlia và làm cho ông trở thành mẫu mực của các ngôn sứ. Thế mà ông Gioan lại được đồng hóa với ông! Điều đó có nghĩa là Đấng mà ông Gioan chuẩn bị dân chúng đón Người, phải là Đấng có một căn tính thật sự đặc biệt. Giống như Êlia, ông Gioan chỉ phục vụ một mình Thiên Chúa. Hành động của ông, vì thế, ngầm cho thấy phẩm giá cao cả của Đức Giêsu và chứng tỏ rằng nơi Đức Giêsu – Con Thiên Chúa, chính Thiên Chúa đang đến với dân Người.

Ông Gioan còn có sứ mạng rao giảng minh nhiên về Đấng đang đến. “Ông rao giảng rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (cc.7-8). Rõ ràng là xét cả về quyền năng, cả về vị thế, cả về hành động, Đấng đang đến đều hơn hẳn ông Gioan, cho dù ông được Thiên Chúa sai đến và ông được đồng hóa với ngôn sứ Êlia.

Như vậy, bằng việc kêu gọi dân chuẩn bị, bằng cách trang phục và ăn uống của mình, và bằng lời rao giảng minh nhiên của mình, ông Gioan đã cho ta thấy Đấng đang đến là ai. Đó là chính Đức Chúa.

Trong Mùa Vọng, chúng ta chuẩn bị để đón chính Đức Chúa đến viếng thăm dân Người. Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa; nơi Ngài, chính Thiên Chúa đang đến và đón nhận tất cả nhân loại vào trong sự sống thần linh của Người.

[Mục Lục]

Bài 16. Hãy dọn đường đón Chúa
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Chúa đã tới và đang tới. Lời Chúa mời gọi con người hãy chuẩn bị để đón Chúa. Hãy dọn đường cho Chúa, lấp những chỗ trũng, san bằng những gập ghềnh, để Chúa ngự đến.

  1. Chúa đang tới

Chúa tới thăm dân Ngài đang bị lưu đày nơi đất khách quê người. Chúa tới thăm, nghĩa là, Ngài tới để giải thoát họ khỏi cảnh cùng cực. Họ được trở về quê hương. Chúa luôn là Đấng đem niềm vui, hạnh phúc cho dân Ngài. Tin Chúa tới thăm, là tin mừng cho tất cả con dân Ngài.

Con người với bao nỗi khổ, bận tâm, lo lắng. Lo lắng bận tâm cho gia đình với những nhu cầu vật chất và tinh thần. Bận tâm về tương lai và sự nghiệp của mình và của những người thân. Dường như ngày nào cũng có nỗi khổ riêng của ngày đó. Ai có thể giúp mình thoát khỏi những bận tâm khổ não như vậy?

Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người. Ngài luôn muốn con người sống bình an hạnh phúc. Ngài có cách giúp con người được hạnh phúc. Ngài đang tới. Ngài tới để an ủi dân Ngài, để giải phóng dân Ngài. Ngài tới để giải phóng mỗi người khỏi khổ não mà mỗi người đang mang vác.

  1. Hãy dọn đường cho Chúa tới

Hãy dọn đường cho Chúa tới. Đây là lời mời cho những người sẵn sàng đón nhận Thiên Chúa vào đời mình. Hãy bạt những gập gềnh, sửa những chỗ quanh co. Để Thiên Chúa ngự tới. Khi mỗi người làm điều này, Thiên Chúa đã đang ở với họ rồi. Chính Thiên Chúa giúp họ có đủ can đảm và sức mạnh để vượt trên chính mình, để bỏ tự ái, để đến với người khác.

Hãy cho Chúa một cơ hội, sẽ thấy bên Ngài, người ta tìm được bình an và hạnh phúc. Hãy để Ngài biến đổi mình, để Ngài lo cho những lo lắng của mình, để Ngài săn sóc những người thân và tương lai họ giúp mình. Hãy cho Ngài cơ hội để Ngài giới thiệu về Ngài, để thấy được Ngài thương mình đến độ nào.

Không dọn đường, Chúa vẫn tới, và Ngài vẫn tìm cách để tới với mỗi người. Tuy vậy, nếu mình không đồng ý, thì Chúa vẫn không làm gì được. Ngài luôn là Đấng có sáng kiến để mời gọi mình, để chinh phục mình bằng tình yêu, nhưng con người luôn tự do để từ chối. Mà khi con người từ chối, Thiên Chúa vẫn không chịu thua vì Ngài yêu mình. Ngài tìm cách khác để tiếp cận, làm quen và cảm hóa mình. Ngài luôn có sáng kiến để yêu mình.

  1. Thiên Chúa đến với con người qua Đức Yêsu

Đức Yêsu sẽ được sinh ra. Đây là người rất đặc biệt, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là Đấng Thiên Chúa nói với con người, Ngài là Lời của Thiên Chúa cho con người. Ngài rất khiêm tốn, không ai biết Ngài để đón tiếp long trọng. Thân phận của Ngài là thân phận của mỗi người chúng ta. Ngài rất đặc biệt, nhưng khi Ngài còn tại thế, khó có ai biết sự thật về chính Ngài.

Yoan đã được sai đến để chuẩn bị cho Ngài. Yoan giúp dân trở về với Thiên Chúa, để có thể đón nhận Đấng Thiên Sai. Chính Yoan cũng phải tìm kiếm để biết Đấng đó là ai. “Ngài có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi phải chờ Đấng khác?” Đấng phải tới đó, Yoan không đáng cúi xuống cởi dây giầy cho Ngài, nhưng Ngài quá âm thầm đến độ chính Yoan cũng khó biết.

Chúa đã đến. Ngài cũng đang đến với con người. Hãy tỉnh thức và nhạy bén để nhận ra Ngài. Ngài không chỉ đến vào ngày cánh chung và vào giờ chết của mỗi người, nhưng Ngài còn đến với mỗi người từng ngày một cách dễ thương. Hãy tỉnh thức để nhận ra Ngài. Hãy mời Ngài vào lòng mình, để Ngài an ủi, để Ngài lo lắng, để Ngài giúp mình trong mọi chuyện, để mình có thể an nghỉ. Hãy phó thác tất cả cho Ngài. Ngài sẽ làm tất cả, vì Ngài yêu thương mình.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Tuần qua, Chúa có tới với bạn không? Qua trung gian nào?
  2. Hôm nay, bạn làm gì để đón Ngài?
  3. Xin bạn kể một kinh nghiệm Chúa đến mang niềm vui và bình an cho bạn, nếu được.
  4. [Mục Lục]

Bài 17. Lắng nghe tiếng Chúa
Lm. Phêrô Trần Văn Trợ

“Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng.”

Người chứng của Thiên Chúa thật kỳ dị không giống ai! Tại sao Thiên Chúa lại không dùng những người có thế giá để làm chứng cho Ngài có phải hiệu nghiệm hơn không?

Trong việc chọn ông Gioan ngay từ ban đầu và tách biệt ông khỏi những người chung quanh, để rồi trao cho ông một sứ mệnh rất khó khăn, Thiên Chúa muốn khẳng định với loài người rằng Ngài có đường lối hoạt động hoàn toàn độc lập với cách của người trần, nếu không muốn nói là trái ngược! Chỉ một mình ông Gioan phải đối đầu và thách thức với cả dân tộc cùng hàng ngũ lãnh đạo dân Do-thái. Tuy ông rao giảng với đầy uy quyền, xong ông chẳng cần mang đầy đủ những dấu hiệu hợp thời như xã hội mong đợi! Phải là một người thuộc dòng hoàng tộc ăn bận sang trọng đầy thế lực và giàu nứt đố đổ vách.

Thiên Chúa không muốn dùng cách mà người đời xem là khôn ngoan: “ride with the tide” hay a dua, hùa theo đám đông! Ngài có sức mạnh riêng của Ngài, sức mạnh của Chân Lý, chứ không phải sức mạnh của số đông dễ bị xách động “lấy thịt đè người” vẫn thường đổi trắng thay đen theo thị hiếu, “nay thế này, mai thế nọ!”

Khi nào loài người không còn muốn sống theo khuôn phép luật thánh của Thiên Chúa, nhưng ham mê buông tuồng theo thị hiếu riêng, là họ đang làm những điều sai quấy đáng quở phạt. Với tình thương yêu đại lượng, Ngài gửi ngôn sứ đến nhắc nhở và cảnh cáo, vì Ngài không muốn nhìn thấy con người tự đưa mình vào con đường chết, và Ngài phải có thái độ cứng rắn đề răn dạy họ. Nếu Ngài dùng phương thế của loài người, thời Ngài sẽ bị lệ thuộc vào sự thao túng của họ. Hơn nữa Thiên Chúa chẳng bao giờ có thể dùng cách thế khôn ngoan của loài ngườI chính vì Ngài không ở cùng trình độ với họ nhưng vượt trổi muôn trùng “như trời cao hơn đất!”

Chính vì thế Ngài đã dùng một người không ai ngờ để thực hiện công tác quan trọng của Ngài. Một người khác hơn mọi người để gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh: hãy ăn ăn hối cải, chuẩn bị tâm hồn chào đón Đấng Thánh của Thiên Chúa.

Đời xưa Thiên Chúa đã hành xử như thế, ngày nay Ngài vẫn tiếp tục thực hiện tôn ý của Ngài như vậy. Ngài không dùng bạo lực hay cậy nhờ những kẻ quyền thế công bố chương trình của Ngài, nhưng Ngài muốn nhờ những tâm hồn đơn sơ bé mọn loan truyền sứ điệp yêu thương của Ngài cho mọi dân nước.

Những tâm hồn ấy là mỗi người tín hữu chúng ta, nếu ai biết quảng đại đáp lại tiếng mời gọi của Ngài. Và đừng bao giờ tìm thánh ý Chúa ở giữa đám đông của thời trang nóng bỏng ồn ào, nhưng hãy biết lắng nghe tiếng Ngài trong sa mạc tĩnh lặng của tâm hồn.

[Mục Lục]

Bài 18. Mở đường để làm gì? Đường dẫn tới đâu?
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Trong những năm gần đây, để phát triển kinh tế đất nước nhiều con đường đã được giải tỏa để mở rộng, nhiều ngôi nhà đã phải đập bỏ hoặc cắt bớt cho thông thoáng chẳng hạn như đường quốc lộ ngang qua nhà thờ chúng ta đây. Nhiều con đường mới, cây cầu mới được mở ra nối liền các vùng miền, làm cho việc đi lại thuân lợi, vận chuyển hàng hóa dễ dàng và việc đi đến với nhau cũng thuân lợi hơn. Không những thế, người ta còn muốn mở những con đường cao tốc, siêu tốc ví dụ đường cao tôc Trung lương, và chính phủ còn đang mở đường siêu tốc Sài Gòn- Giầu Dây là con đương vận chuyển hàng hóa như boxit, và giảm thời gian đi lại xuống nhiều lần. Dĩ nhiên để có thể gọi là đường siêu tốc, người ta sẽ phải rào chắn đề tránh tối đa tình trạng buôn bán lấn chiếm lề đường, gỡ bỏ tất cả những công trình không phù hợp hoặc làn giảm tâm nhìn, giảm bớt tối đa các ngã ba ngã tư để cho việc lưu thông dể dàng. Không chỉ có những con đường nhằm phát triển kinh tế xã hội, người ta cũng làm những con đường để đón Thủ tướng hoạc Chủ tịch nước về thăm quê hoăc đến thăm một vùng nào đó như thế.

Thưa quý OBACE, hôm nay Lời Chúa của Chúa nhật II mùa vọng cũng đề cập đến vấn đề giải tỏa và làm đường, đây không phải là những con đường quốc lộ, mà là giải tỏa và làm những con đường đi vào trong tâm hồn, con đường đón Chúa đến và đến với Chúa cũng như con đường đến với anh em.

Hình ảnh và lời kêu gọi của Isaia phát xuất từ một thực tế lúc ấy, dân Israel đang chịu cảnh nô lệ, con đường trở về quê dường như xa thẳm và không còn hy vọng, khoảng cách này bị ngăn cản không chỉ bởi sa mạc Arập, mà khoảng cách này còn là khoảng cách trong lòng của họ, khi mà Israel đã lìa xa Thiên Chúa không còn tuân giữ giao ước của Ngài, họ chạy theo lối sống dân ngoại và thay vì cậy dựa vào quyền năng của Thiên Chúa thì họ lại cây dựa vào những liên minh chính trị. Con đường càng trở nên mịt mù hơn khi Israel đã rơi vào tuyệt vọng và nghĩ rằng chắc Chúa đã quên chúng tôi rồi! Trong bối cảnh như thế, Isaia là người đầu tiên chỉ ra và khai thông cho họ con đường hy vọng, hy vọng vào tình thương của Thiên Chúa, hy vọng vào lời hứa cứu độ của Thiên Chúa, khi nhấn mạnh rằng đã đến lúc Thiên Chúa nhìn đến Israel và phục hồi họ, Đấng Cứu độ sẽ đến với họ và sẽ giải phóng họ khỏi cảnh nô lệ nhục nhã.

Tuy nhiên để đón Ngài đến, cần phải mở một con đường, không chỉ là con đường trong sa mạc Arâp, mà là con đường trong sa mạc tâm hồn để đón Thiên Chúa đến. Nơi cao, hãy bạt xuống, thung lũng hãy lấp cho đầy, con đường quanh co hãy uốn cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng, vì vinh quang của Đức Chúa sẽ tỏ hiện. Đó là một Đức Chúa hùng dũng uy phong song cũng là một Đức Chúa gần gũi yêu thương, Ngài sẽ đem lại hòa bình và hy vọng cho mọi dân mọi nước. Lời của Isaia hôm nay hẳn là một lời tiên báo mang bao niềm vui và hy vọng cho dân Israel, phác họa lên một sự nhộn nhịp, khẩn trương chuẩn bị của hết mọi người chờ đợi Chúa.

Khi Gioan Tẩy giả xuất hiện, một lần nữa lời mời gọi chuẩn bị, dọn đường càng khẩn thiết cấp bách hơn qua lời kêu gọi mạnh mẽ của ông: Có tiếng kêu trong hoang địa hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, mở lối cho thẳng để Người đi. Gioan không chỉ là người mở đường cho Chúa đến với người khác, mà trước tiên ông là ngời đã mở đường để Chúa đến với ông. Thánh Maccô đã muốn nhấn mạnh điều đó khi giới thiệu về Gioan như một tấm gương sống mùa vọng. Trong lúc mọi người đi tìm một cuộc sông xa hoa và giàu sang thì Gioan lại chọn một cuộc sống thanh đạm giũ bỏ mọi ràng buộc của vật chất, lui vào hoang địa, để mình ông sống thân mật gặp gỡ Thiên Chúa trong cầu nguyện, giửa lúc mọi người đang tìm cách hương thụ, thì Gioan lại chọn ăn chấu chấu và uống mật ong rừng. Con đường trong tâm hồn của Gioan không phải là con đường một chiều mà là con đương hai chiều từ Chúa vào trong tâm hồn ông và từ trái tim ông đến với Chúa. Từ đó cho ông một cái nhìn rất chinh xác về thiên Chúa Đấng ông giới thiệu và cái nhìn chính xác về con người ông. Dù nhiều người kéo đến với ông, dù người ta coi ông như là đấng cứu thế, nhưng ông không bị choáng ngợp trong những lời ca tụng, mà ông vẫn nhìn nhận rằng: Tôi không phải là đấng Cứu Thế, có Đấng quyền năng hơn tôi đang đến sau tôi tôi không đang cúi xuống cởi dây dép cho Ngài.

Khi đã đón được chúa đến với mình, Gioan là người đem Chúa đến cho người khác bằng việc kêu gọi mọi người sám hối, lãnh phép rửa để được ơn tha tội, ơn xót thương. Gioan đã cho dân chúng thấy rằng đây là thời gian, là cơ hội Chúa gia hạn cho hết mọi người, bất cứ ai có một lòng thành tâm sám hối, quyết quay trở về với Thiên Chúa, thì sẽ được tha thứ. Sám hối là phài chấp nhận một sự quay đầu trở lại, một quyết tâm thay đổi dứt khoát, một thái độ hối hận sâu xa, và một quyết tâm sửa chữa sai lầm và sống tốt hơn, hay nói cách khác, để có thể đón Chúa đến trong tâm hồn và trong cuộc đời, cần phải thay đổi từ suy nghĩ đến hành động, từ lời nói đến việc làm trong khiêm tốn.

Thánh Phêrô trong bài đọc hai cho thấy Thiên Chúa không muốn ai trong nhân loại phải bị tiêu diệt đời đời, vì thế Ngài luôn kiên nhẫn và cho mỗi người có cơ hội để làm lại cuộc đời trở nên tốt hơn, sống đạo đức hơn, sống thánh thiện hơn. Vì ngày Chúa đến sẽ là ngày bất thình lình như kẻ trộm ban đêm, một khi mọi người đã chuẩn bị sẵn sàng thì dù đất trời có xụp đổ, dù bão tố có trào dâng, thì – Thánh Phêrô nhấn mạnh- anh em hãy cố gắng sống sao cho Người thấy anh em tinh tuyền không gì đáng trách và sống bình an.

Thưa quý OBACE, mở đường băng qua nhà hàng xóm thì dễ còn băng qua nhà mình thì không dễ, người ta rất dể đồng ý khi những nhà phía bên kia đường phải giả tỏa, còn nhà mình không bị giái tòa. Cũng thế, người ta dể dàng nhìn thấy những sai lỗi của anh em và muốn anh em mình phải thay đổi trong khi chính mình lại không chịu thay đổi, mình cứ muốn bảo vệ quan điểm của mình dù biết là nó không đúng, và loại trừ ý kiến quan điềm của người khác, người ta dễ dành chỉ trích anh em hơn là tim hiểu để thông cảm. Con đường khó mở nhất là con đường đi vào trong căn nhà tâm hồn của mình, vì khi mở con đường này phải chấp nhận đập bỏ những thói quen cũ, những lô cốt kiêu căng và cái tôi ích kỷ, phải uốn nắn lại cách làm ăn gian dối hoặc cách sống giả hình, đế con đường có thể đứa chúng ta đến với Chúa và với anh em.

Con đường cụt là con đường bế tắc, chí có con đường đến với Chúa mới đưa chúng ta đi xa và là con đường mở ra một tương lai hạnh phúc, và con đường đến với anh em lại là con đường sẽ đưa chúng ta đến với Chúa. Tức là chúng ta cần mở ngay trong tâm hôn chúng ta một con đường cao tốc, con đường hai chiều để cho Chúa có thể dễ dàng đến với chúng ta và chúng ta có thể dễ dàng đến với Chúa và đến với anh em.

Giữa một cuộc sông ồn ào hôm nay, hãy mở cho mình và cho gia đình một con đường của thinh lặng và cầu nguyện, hãy tạo ra những khoảng tĩnh lặng trong ngày dành cho việc cầu nguyện riêng và cầu nguyện chung với gia đinh vì không thinh lặng và không cầu nguyện sẽ không nghe, không biết biết phải đi đường nào. Giữa một xã hội dư thừa vật chất lại đói về đời sống thiêng liêng, hãy mở một con đường đến với bàn tiệc thiêng liêng là các Bí tích nhất là Bí tích giải tội và Thánh Thể, Thánh lễ, là con đường an toàn cho phần rỗi linh hồn chúng ta. Giửa một xã hội ích kỷ hưởng thụ, hãy mở ra một con đường bác ái, yêu thương và tha thứ. Đừng mờ những con đường ở đâu xa, mà hãy bắt đầu giải tỏa ngay trong lòng mình, mở thông đến vợ chồng con cái trong gia đình và thông qua hàng xóm láng giềng của mình.

Nếu mỗi người quyết tâm bắt đầu như thế, Chúa sẽ đên với chúng ta và qua chúng ta đên với mọi anh em chung quanh không chỉ trong Đại lể Giáng sinh này mà Chúa đến với chúng ta mổi ngày và Chúa sẽ đưa chúng ta đến với Chúa trong hạnh phúc Nước trời. Amen.

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận