Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng CN 30 A

Đăng lúc: Thứ năm - 23/10/2014 15:54 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng

Chúa Nhật XXX thường niên – năm A

Lời Chúa: Xh. 22, 20-26; 1Tx. 1, 5c-10; Mt. 22, 34-40

***********

MỤC LỤC
1. Chú giải và gợi ý suy niệm Lời Chúa (Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
2. Chú giải và gợi ý suy niệm Lời Chúa: Điều răn trọng nhất (Lm PX. Vũ Phan Long)
3. Mến Chúa và yêu người (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
4. Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
5. Luật của sự sống (P. Trần Đình Phan Tiến)
6. Điều răn quan trọng nhất (JM. Lam Thy ĐVD.)
7. Luật yêu mến
8. Yêu thương là truyền giáo (Lm JB. Nguyễn Minh Hùng)
9. Điều răn nào trọng nhất? (Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
10. Tình yêu là lẽ sống (Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
11. Giới Răn Yêu Thương
12. Hai điều răn
13. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
14. Lý do của tình yêu
15. Giới răn mến Chúa và yêu người (Lm. Giuse Nguyễn Trung Điểm)
16. Mến Chúa và yêu người
17. Giới luật thứ nhất và trên hết (Lm. An Phong)
18. Mến Chúa yêu người
19. Yêu thương
20. Lạy Chúa, xin giúp con yêu mến Chúa
21. Hai giới răn thành một (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)

22. Cốt lõi của lề luật (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

 

CN30TN-A

A. BẢN VĂN

Bài đọc I (Xh 22, 21-27 hoặc Hr 20-26)

Đây Chúa phán: “Ngươi chớ làm phiền lòng và ức hiếp khách ngoại kiều: vì các ngươi cũng là khách ngoại kiều ngụ trong đất Ai-cập. Các ngươi đừng làm hại cô nhi quả phụ. Nếu các ngươi hà hiếp những kẻ ấy, họ sẽ kêu thấu đến Ta, và chính Ta đã nghe tiếng họ kêu van. Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ, sẽ dùng gươm giết các ngươi, vợ các ngươi sẽ phải goá bụa, và con cái các ngươi sẽ phải mồ côi.

“Nếu ngươi cho người nghèo khó nào trong dân cùng định cư với ngươi mượn tiền, thì ngươi chớ hối thúc nó như kẻ đặt nợ ăn lãi quen làm, và chớ bắt nó chịu lãi nặng. Nếu ngươi nhận áo sống của người láng giềng cầm cố, ngươi hãy trả lại cho kẻ ấy trước khi mặt trời lặn: vì nó chỉ có một áo ấy che thân, và không còn chiếc nào khác mặc để ngủ; nếu kẻ ấy kêu van đến Ta, Ta sẽ nhậm lời nó, vì Ta là Đấng thương xót”.

Bài đọc II (1 Tx 1, 5c-10)

Anh em thân mến, khi chúng tôi còn ở giữa anh em, anh em biết chúng tôi sống thế nào vì anh em. Và anh em đã noi gương chúng tôi và noi gương Chúa, đã nhận lấy lời rao giảng giữa bao gian truân, với lòng hân hoan trong Thánh Thần, đến nỗi anh em đã nên mẫu mực cho mọi kẻ tin đạo trong xứ Macêđônia và Akaia.

Vì từ nơi anh em, lời Chúa vang dội không những trong xứ Macêđônia và Akaia, mà còn trong mọi nơi; lòng tin của anh em vào Thiên Chúa đã quá rõ rồi, đến nỗi chúng tôi không còn nói thêm làm gì nữa. Vì người ta thuật lại việc chúng tôi đã đến với anh em thế nào, và anh em đã bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa làm sao để phụng thờ Thiên Chúa hằng sống và chân thật, để trông đợi Con của Người từ trời mà đến, “Đấng mà Người đã làm cho từ cõi chết sống lại”, là Đức Giêsu, Đấng đã giải thoát chúng ta khỏi cơn thịnh nộ sắp đến.

Tin Mừng (Mt 22, 34-40)

Khi ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại, đoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: “Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?”

Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó”.

[Mục Lục]

 

khoangcah

B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI VÀ SUY NIỆM

Bài 1. Chú giải và gợi ý suy niệm Lời Chúa

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Thánh Phao-lô khích lệ các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca và ca ngợi đức tin kiên vững của họ: dù chỉ đón nhận Tin Mừng trong một thời gian ngắn, họ đã phải chịu trăm chiều gian nan thử thách.

CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay nhấn mạnh “Mến Chúa và Yêu Người là một”.

Xh 22: 20-26

Bài Đọc I, trích từ “Bộ Luật Giao Ước” của sách Xuất Hành. Thiên Chúa đòi hỏi dân Ngài phải thực hành đức ái đối với những người khốn khổ nhất: ngoại kiều, mẹ góa con côi, người túng thiếu. Ngài tự đồng hóa minh với họ: “Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ”.

Tv 18 (17): 2-4, 47, 51

Vua Đa-vít bày tỏ tấm lòng cảm mến tri ân của mình đối với Đức Chúa vì Ngài không ngừng bảo vệ che chở vua trong suốt cuộc đời đầy gian nan thử thách của vua.

1Th 1: 5-10

Thánh Phao-lô khích lệ các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca và ca ngợi đức tin kiên vững của họ: dù chỉ đón nhận Tin Mừng trong một thời gian ngắn, họ đã phải chịu trăm chiều gian nan thử thách.

Mt 22: 34-40

Trong Tin Mừng, Đức Giê-su hiệp nhất hai giới luật mến Chúa và yêu người làm một.

BÀI ĐỌC I (Xh 22: 21-27)

Bản văn nầy được trích dẫn từ “Bộ Luật Giao Ước” của sách Xuất Hành. Bộ luật nầy phản ảnh thời kỳ dân Do thái không còn sống cuộc đời du mục nữa, nhưng định cư lập nghiệp ở đất Ca-na-an. Vì thế, Người ta có thể ấn định niên biểu của bộ luật này vào thời hậu Mô-sê, chính xác hơn vào những giai đoạn đầu tiên của thời kỳ định cư, trước khi tổ chức thành một quốc gia, tức vào thời Thủ Lãnh, khoảng năm 1200 và 1030 trước Công Nguyên. Đây là luật của một xã hội chăn nuôi và nông nghiệp. Bộ luật được đặt vào trong bối cảnh “Trên núi Si-nai, Chúa phán với dân Ít-ra-en”. Đây là hư cấu văn chương được dùng để nhấn mạnh rằng bộ luật nầy vẫn ở trong tinh thần Luật Mô-sê và chỉ là khai triển Luật Mô-sê.

Trên bình diện hình thức, “Bộ Luật Giao Ước” nầy có nhiều mối quan hệ thân thuộc với các luật của miền Cận Đông xưa như Bộ Luật Hammourabi, vua Ba-by-lon, vào năm 1700 trước Công Nguyên, trong đó luật cũng được diễn tả theo biểu thức điều kiện: “Nếu ngươi làm điều nầy, nếu người làm điều nọ”. Một biểu thức khác, hiếm hơn trong những bản văn luật thời xưa, nhưng thường gặp trong Cựu Ước, đó là biểu thức mệnh lệnh thường nhất được diễn tả theo hình thức lệnh cấm: “Ngươi không được…”, như trong Thập Giới (Xh 20: 3-17), trong đó chỉ có hai giới luật được diễn tả theo hình thức lệnh truyền: “Ngươi hãy…”. Trong bản văn của chúng ta, hình thức lệnh cấm cũng chiếm ưu thế.

Trên bình diện nội dung, Bộ Luật Giao Ước phân biệt rõ nét với các bộ luật ngoại quốc có cùng xuất xứ. Sự độc đáo của Bộ Luật Giao Ước ở nơi chỗ chính Thiên Chúa đứng ra đảm bảo luật luân lý, vì thế vi phạm luật đồng nghĩa xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Đức Ái được đề cao như luật cốt yếu của cuộc sống xã hội, vì thế, hai giới luật: mến Chúa và yêu người, vốn đã được liên kết cùng nhau rồi.

1. “Người ngoại kiều”.

Ở Ít-ra-en, có nhiều quy chế liên quan đến ngoại kiều. Trước hết, “ngoại kiều cư trú” được hưởng một quy chế khá thuận lợi (nhất là người làm thuê ngụ ở nhà chủ mình). Đoạn,“ngoại kiều vãng lai” được hưởng truyền thống hiếu khách. Cuối cùng, “ngoại kiều nhập cư” phải chịu một quy chế khắc khe. Chính hoàn cảnh của “ngoại kiều nhập cư” nầy mà Bộ Luật Giao Ước lưu ý. Nguyên do được nêu lên là tính lịch sử: “vì chính các người đã là ngoại kiều ở Ai-cập”. Phải nhấn mạnh rằng các luật pháp của miền Cận Đông xưa không bao giờ nêu lên nguyên do của các luật lệ được ban hành. Vì thế, đây là nét đặc thù của Kinh Thánh.

2. “Mẹ góa con côi”.

Thân phận của người phụ nữ ở Ít-ra-en là “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Vì thế, người phụ nữ góa chồng khó có thể tìm được nơi nương tựa. Nếu không có của cải, người phụ nữ nầy có thể lâm vào một cuộc sống khốn khổ, nhất là phải gánh vác trách nhiệm nuôi nấng con cái. Những cảnh ngộ thương tâm như thế rất thường trong những xã hội thời xưa. Thế nên, luật pháp quan tâm đến cảnh ngộ mẹ góa con côi nầy như phần kết của Bộ Luật Hammourabi: “Ta đã viết những lời nầy trên bia đá ngỏ hầu kẻ mạnh không ức hiếp người yếu và trả lại sự công bình cho mẹ góa con côi”.

Như chúng ta đã nói trên, nét độc đáo của luật Kinh Thánh chính là viện dẫn Thiên Chúa như Đấng bênh vực bảo vệ tình cảnh mẹ góa con côi. Thiên Chúa sẽ đích thân can thiệp và“sẽ cho gươm giết các ngươi”, nghĩa là các ngươi sẽ bị giết chết trong chiến tranh. Một cách nào đó, đây là luật “ân oán phân minh” (luật “răng đền răng mắt đền mắt”), nghĩa là vợ con của họ cũng sẽ trở thành góa bụa đơn côi.

3. Cho vay nợ.

Mối quan hệ của mọi thành viên dân Thiên Chúa là cốt nhục tình thâm, vì thế không được để cho bất cứ một ai trong anh chị em mình phải sống trong cảnh nghèo khổ túng thiếu. Phải cho anh chị em vay mượn nhưng không đòi trả lãi.

Tại các dân tộc lân cận, người ta cho vay để lấy lãi. Bộ Luật Giao Ước cấm cho vay lấy lãi như thế. Việc vay lấy lãi được trình bày như đối lập với luật yêu thương anh chị em chủng tộc mình. Quả thật, sách Đệ Nhị Luật xác định: “Người nước ngoài, anh em được cho vay lấy lãi, còn người anh em của anh thì không được cho vay lấy lãi; như vậy, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh sẽ chúc phúc cho anh trong mọi công việc tay anh làm, trên đất anh sắp vào chiếm hữu” (Đnl 23: 20-21).

Đức Giê-su sẽ hủy bỏ quan niệm yêu thương bị giới hạn chỉ trong vòng anh em chủng tộc nầy. Phải nhận ra luật “Cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả” được mở rộng đến hết mọi người, bởi vì mọi người trong bốn bể đều là anh em.

Để tránh người vay lạm dụng, người cho vay có thể lấy áo choàng làm vật thế chấp. Bản văn đưa ra một ví dụ ý nhị. Người chăn chiên nằm ngủ ngoài trời cần chiếc áo choàng làm chăn đắp. “Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ”. Lại một lần nữa, bản văn khẳng định rằng Thiên Chúa bao hàm trong tình yêu tha nhân. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su khẳng định mến Chúa và yêu người chỉ là một.

THÁNH VỊNH 18 (17): 2-4, 47, 51

Thánh vịnh này được trình bày như một lời cảm tạ tri ân của vua Đa-vít vì Đức Chúa không ngừng bảo vệ che chở vua trong suốt cuộc đời đầy gian truân thử thách của vua. Một dị bản được bảo lưu trong 2Sm 22: 2-51. Đoạn trích Thánh Vịnh hôm nay được cấu trúc như sau:

A. Vua Đa-vít thổ lộ tấm lòng cảm mến tri ân của mình đối với Đức Chúa (cc. 2-3):

Vua Đa-vít thân thưa với Đức Chúa của mình (“con”) và thổ lộ tấm lòng yêu mến của mình đối với Đức Chúa từ chính kinh nghiệm của cuộc đời mình; từ chính kinh nghiệm sống đó, đức vua mô tả tấm lòng ưu ái mà Đức Chúa dành cho mình bằng những hình ảnh rất sinh động và gợi mở: Chúa là núi đá, là thành lũy, là khiên mộc của con trong cuộc đời gian truân thử thách của con.

B. Vua Đa-vít giãi bày tấm lòng ưu ái của Đức Chúa dành cho mình (cc. 4 và 47)

Vua Đa-vít giãi bày tấm lòng ưu ái của Đức Chúa dành cho mình (“tôi”) và tôn vinh Đức Chúa, Ngài là Đấng giải thoát mình (c. 4) và là Đấng nơi Ngài mình gặp thấy sự nương tựa vững chắc trong những ngày đầy gian truân thử thách của cuộc đời (c. 47).

C. Lời khẳng định về tấm lòng ưu ái của Đức Chúa dành cho vua Đa-vít (c. 51)

Cuối cùng, những ai đã biết rõ cuộc đời của vua Đa-vít đều khẳng định tấm lòng ưu ái Đức Chúa dành cho đức vua, người mà Ngài đã xức dầu tấn phong.

BÀI ĐỌC II (1Th 1: 5-10)

Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.

1. Tấm gương của những người loan báo Tin Mừng.

Thánh nhân nói đến cách sống của mình và của những người bạn đồng hành của mình là ông Xin-va-nô và ông Ti-mô-thê: “Anh em biết khi ở với anh em chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em”, mà không nêu ra bất kỳ một chi tiết cụ thể nào. Sau nầy, thánh nhân sẽ đề cập vấn đề nầy một cách cụ thể và rõ ràng hơn như tấm lòng ưu ái mà ngài dành cho họ. Trong đoạn trích dẫn hôm nay, thánh nhân ca ngợi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca vì“noi gương các vị mục tử của họ và bắt chước Chúa”.

Chúng ta đừng quên rằng lúc nầy thánh Phao-lô đang ở Cô-rin-tô, một cộng đoàn Ki-tô hữu mà ngài vừa mới thành lập. Sau nầy ngài viết cho các tín hữu Cô-rin-tô cùng một lời khuyên như vậy: “Anh em hãy bắt chước chúng tôi như tôi bắt chước Chúa Kitô” (1Cr 11: 1) và cả cho các tín hữu Phi-líp nữa: “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em.” (Pl 3: 17).

2. Tấm gương của các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.

Những người loan báo Tin Mừng, dù đã phải kinh qua biết bao gian truân, họ vẫn cảm thấy niềm vui vì thấy thành quả của Tin Mừng ở nơi các tín hữu nhờ tác động của “Thánh Thần”. Quả thật, các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, dù đón nhận Tin Mừng trong một thời gian ngắn và phải chịu trăm chiều thử thách, trở nên tấm gương sáng chói cho mọi người:“Từ nơi anh em, Lời Chúa được vang ra; không những ở Ma-kê-đô-ni-a và A-khai-a, mà đâu đâu người ta cũng nghe biết lòng tin anh em đặt vào Thiên Chúa…”

3. Dân ngoại đón nhận đức tin.

Thánh Phao-lô diễn tả niềm vui của ngài vì dân ngoại mở rộng lòng đón nhận đức tin: “Anh em đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa như thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống và chân thật”. Như các ngôn sứ thời xưa, thánh Phao-lô đối lập các ngẫu tượng có mắt có tai mà không nghe không thấy với Thiên Chúa hằng sống và chân thật. Thánh nhân ca ngợi họ đã hiểu ý nghĩa cuộc sống Kitô hữu: phụng sự Thiên Chúa hằng sống và chân thật và chờ đợi ngày quang lâm của Con Thiên Chúa, Đấng phục sinh từ cõi chết, cứu độ chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi cơn thịnh nộ đang đến.

Ở đây, thánh nhân tóm gọn điều cốt yếu lời rao giảng của ngài. Lời rao giảng nầy theo cùng cung giọng với lời rao giảng của Giáo Hội tiên khởi, như chúng ta gặp thấy trong sách Công vụ.

TIN MỪNG (Mt 22: 34-40)

Câu chuyện nầy được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm tường thuật. Tuy nhiên, chỉ một mình thánh Mát-thêu đặt câu chuyện nầy vào trong bối cảnh của một trong những cuộc xung đột của nhóm Biệt Phái với Chúa Giê-su ngỏ hầu họ có thể bắt bí Ngài.

1. Vấn đề mà nhóm Biệt Phái nêu lên:

Theo thánh Mát-thêu, sau khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng về vấn đề kẻ chết sống lại, nhóm Biệt Phái lại xuất hiện và bày mưu tính kế hãm hại Đức Giê-su. Trước đây họ đã giăng bẫy Ngài về vấn đề chính trị: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?” (Mt 22: 15-22), bây giờ, vấn đề tôn giáo: “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, giới luật nào là giới luật quan trọng nhất?” Quả thật, sách Luật Mô-sê, tức bộ Ngũ Thư, chứa đựng vô số những lệnh truyền và lệnh cấm, tổng cộng đến 613 điều phải tuân giữ. Làm thế nào nhận ra trong muôn vàn giới luật nầy giới luật nào quan trọng nhất? Trong một thời gian dài từ thế hệ nầy đến thế hệ khác, các nhà thông luật tranh luận với nhau nhưng không đưa ra một giải pháp nào thỏa đáng cả. Vì thế, đây là một vấn đề có tính thời sự vào lúc đó, nhưng trong hoàn cảnh nầy, vấn đề được nêu ra là nhằm gài bẫy Đức Giê-su, điều đó cho thấy ác tâm của nhóm Biệt phái nầy.

2. Câu trả lời của Đức Giê-su.

Đức Giê-su không xuất thân từ trường lớp nào của các kinh sư. Ngài có thái độ khá tự do đối với huấn lệnh ngày sa-bát (huấn lệnh quan trọng, thậm chí rất quan trọng nữa), Ngài và các môn đệ Ngài không thực hành việc rửa tay trước bữa ăn, cũng như Ngài giao du với những người mà người Biệt phái tránh tiếp xúc để giữ mình khỏi ô uế. Tuy nhiên, Đức Giê-su khẳng định rằng Ngài không đến để hủy bỏ Lề luật và lời dạy của các ngôn sứ, nhưng đề xuất những quan niệm của riêng mình. Trước vấn đề nầy, Ngài sẽ trả lời như thế nào? Rốt cuộc, câu trả lời của Ngài sẽ cung cấp cho những con người ác tâm nầy lý do để buộc tội Ngài chứ?

Trước hết, Chúa Giê-su trả lời khi trích dẫn giới luật “mến Chúa” trong sách Đệ Nhị Luật 6: 5. Giới luật nầy trở thành kinh nguyện của người Do thái (kinh Shema), luôn luôn đứng hàng đầu trong các kinh nguyện Do thái, và được đọc hai lần một ngày. Kinh nguyện nầy nói lên niềm hãnh diện của dân Ít-ra-en, qua đó họ khẳng định dân tộc của họ khác với các dân tộc khác: không chỉ thờ phượng Thiên Chúa duy nhất và hữu vị, nhưng còn yêu mến Ngài trọn cả tấm lòng của mình. Tiếp đó, Đức Giê-su trích dẫn giới luật “yêu thương người thân cận như chính mình” trong sách Lê-vi 19: 18. Câu trả lời của Chúa Giê-su thật sự hoàn toàn mới mẽ:

Trước hết, giới luật yêu thương người thân cận được trích dẫn trong sách Lê-vi chỉ giới hạn ở nơi dân tộc Do thái, trong khi Đức Giê-su mở rộng ra với hết mọi người. Trong cùng một câu chuyện song đối (Lc 10: 25-28), thánh Lu-ca đã khai triển điểm mới mẽ nầy khi để cho thầy thông luật nêu lên vấn đề: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” và Chúa Giê-su trả lời bằng dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành (Lc 10: 29-37) khi mà chúng ta biết rằng đối với dân Do thái, người Sa-ma-ri là kẻ thù không đội trời chung.

Thứ nữa, hai giới luật nầy được trích dẫn từ hai sách khác nhau: giới luật mến Chúa trong sách Đệ Nhị Luật 6: 5, còn luật yêu người thân cận trong sách Lê-vi 19: 18. Người Do thái cũng đã nhận biết giới luật yêu người thân cận là quan trọng vì đây là luật của Thiên Chúa, vì thế vi phạm đến giới luật nầy là xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Nhưng trong cuộc sống thường ngày, người ta thường đặt giới luật mến Chúa lên hàng đầu, vì thế rất dể bỏ qua hay thậm chí hy sinh yêu thương người thân cận mình vì mến Chúa, như cách hành xử của thầy tư tế và thầy Lê-vi trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu hay những lời phê phán của Đức Giê-su trong những cuộc tranh luận của Ngài với những giai cấp lãnh đạo Do thái về ngày sa-bát. Nét độc đáo của câu trả lời của Chúa Giê-su không chỉ vì Ngài trích dẫn hai giới luật nầy như là hai giới luật quan trọng bậc nhất, nhưng vì Ngài liên kết hai giới luật thành một.

3. Sự duy nhất của luật “mến Chúa và yêu người”.

Việc hiệp nhất hai giới luật mến Chúa và yêu người là nét đặc trưng của Kitô giáo: vì mỗi người đều được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa (St 1: 26-27) mà Công Đồng Va-ti-can II gọi là “thiên chức toàn vẹn của con người” (G S, 11). Hơn nữa, Đức Giê-su, Con Thiên Chúa làm người, tự đồng hóa mình với mỗi một con người, đặc biệt là những người nghèo khổ, những người thấp cổ bé miệng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25: 40, 45). Như vậy, hai giới luật cùng nhau hình thành nên một nền tảng của cuộc sống Kitô hữu. Giới luật yêu người chỉ gặp thấy điểm quy chiếu và ý nghĩa trọn vẹn của nó chỉ trong giới luật mến Chúa. Trong toàn bộ Tân Ước, thánh Gioan Tông Đồ cho chúng ta lời giải thích ngắn gọn nhất và cũng hay nhất về sự duy nhất của lòng mến Chúa và yêu thương người: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4: 20).

[Mục Lục]

Bài 2. Chú giải và gợi ý suy niệm Lời Chúa: Điều răn trọng nhất

Lm PX. Vũ Phan Long

Sự liên kết giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận, đồng thời sự khác biệt giữa hai tình yêu đó, giúp ngăn cản một sự tách biệt giữa tôn giáo và xã hội, giữa bản tính bên trong và đời sống bên ngoài.

1. Ngữ cảnh

Trong cấu trúc văn chương của TM Mt, đoạn văn 22,34-40 phải được coi như một bài tường thuật về một cuộc tranh luận nữa của Đức Giêsu với các đối thủ, là các đại diện Do Thái giáo chính thức. Họ tìm cách gài bẫy Đức Giêsu bằng chính những lời nói của Người (cc. 15 và 35) về những vấn đề ngày càng thêm quan trọng: nộp thuế cho Xêda, là vấn đề đặt đối lập các nhóm Hêrôđê, Pharisêu và Nhiệt Thành (Quá Khích) với nhau; sự sống lại của kẻ chết, là vấn đề được phái Xađốc đặt ra; điều răn lớn nhất, là mối bận tâm của người Do Thái tuân thủ luật Môsê nghiêm nhặt, tức phái Pharisêu. Các vấn đề ấy được đặt ra cho một vị Rabbi: “Thưa Thầy” (didaskale; x. cc. 15.24.36); đây là danh hiệu cho thấy là họ hiểu Đức Giêsu đứng vào vị trí nào. Vấn đề cuối cùng được chính Đức Giêsu nêu ra sẽ là vấn đề “con vua Đavít” (22,41-46). Đây là bốn vấn đề thường được người Do Thái thời Đức Giêsu tranh luận nhiều nhất.

Có lẽ bản văn hôm nay cũng phác lại một cuộc gặp gỡ nào đó giữa Đức Giêsu và một vị tôn sư của Do Thái giáo; vị này hẳn là muốn làm sáng tỏ hoặc đào sâu các điều răn. Ở Mc 12,28-34 và Lc 10,25-28, ta không thấy có giọng điệu bút chiến như ở bản văn Mt (x. c. 34). Riêng trong bản văn Mt, vị thông luật hỏi là để “thử” Đức Giêsu.

2. Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Câu chuyển tiếp: Người Pharisêu quy tụ lại (22,34);

2) Câu hỏi về điều răn trọng nhất: mục tiêu và nội dung (22,35-36);

3) Câu trả lời của Đức Giêsu (22,37-40).

3. Vài điểm chú giải

- Điều răn nào là điều răn trọng nhất (36): Do Thái giáo vẫn đang đi tìm một nguyên tắc thống nhất. Các kinh sư cũng tìm cách xác lập một hệ thống tổng hợp với các đường hướng chủ đạo: Đavít xác định mười một điều (Tv 15,2-5), Isaia sáu (Is 33,15), Mikha ba (Mk 6,8), Amốt hai (Am 5,4), và Khabacúc một (Kb 2,4). Đây là bản tóm lược của Rabbi Simbai (tk iii).

- yêu mến (37): Động từ Híp-ri ’âhav có một loạt ý nghĩa, từ tình yêu tính dục đến tình yêu đới với người trong gia đình, đối với bạn bè, sự trung thành trong đời sống chính trị đến tình yêu đối với Thiên Chúa. Theo cách giải thích của người Do Thái về Đnl 6,5, “tình yêu đối với Thiên Chúa” được diễn tả trước tiên bằng những hành vi vâng phục, trung thành với Torah. Yêu mến Thiên Chúa là hy sinh mạng sống vì các điều răn của Người.

- hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn (37): Theo nhân học Híp-ri, “trái tim” (lòng) là cơ sở của tình cảm; còn “linh hồn” là phương diện sinh lực của con người. “Trí khôn” (dianoia) là từ Hy Lạp cũng có ý nghĩa như “trái tim” theo ngôn ngữ Híp-ri. Tác giả Mt đã lấy từ Mc 12,30 (“lòng, linh hồn, trí khôn và sức lực”), nhưng bỏ “sức lực” và chọn giữ lại “trí khôn” để có bộ ba. Cả ba danh từ này được dùng theo nghĩa tổng hợp: tình yêu đối với Thiên Chúa phải trọn vẹn, huy động tất cả con người, thậm chí phải chết.

- yêu người thân cận (39): Ngữ cảnh của Lv 19,11-18 là như sau: Đây là những điều khoản luân lý căn bản của Thiên Chúa liên hệ đến người thân cận, kể cả người yếu thế về mặt xã hội hoặc một đối thủ tại tòa án. Song song với “yêu” là: không trộm cắp, cư xử sai lệch, nói dối, thề gian, lừa gạt, cướp đoạt, nguyền rủa, xét xử bất công, vu khống, thù ghét. Lv 19,34 thêm: không vi phạm quyền lợi của tha nhân.

- thân cận (39): Theo bản văn căn bản Lv 19,18 và theo hầu như cách giải thích Lv 19,18 của toàn thể Do Thái Paléttina, “thân cận” (đồng loại) đây là người Israel mà thôi, những người đã được Thiên Chúa ban Lề Luật cho. Chỉ những người ngoại quốc đang sống tại đất Israel, cũng đước áp dụng một nền công lý này, mới được kể vào số “người thân cận” (Lv 19,34); sau này, chỉ những người dự tòng mới được coi như thế. Đức Giêsu theo truyền thống Mt đã mở rộng nghĩa của từ ngữ này mà áp dụng cho tất cả mọi người (x. Mt 5,43-48; 7,12; 19,19).

- Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ (40): Đức Giêsu không chỉ đặt hai điều răn này đứng đầu 613 quy định của Luật Môsê, như thể ở bên cạnh các quy định ấy; Người còn làm thành một tổng hợp. “Luật và các Ngôn sứ” là cách gọi tên bộ Kinh Thánh Do Thái (tức Cựu Ước thu hẹp), cũng có thể hiểu là ý muốn của Thiên Chúa đã được ghi giữ trong Kinh Thánh.

4. Ý nghĩa của bản văn

* Câu chuyển tiếp: Người Pharisêu quy tụ lại (34)

Bản văn hôm nay vẫn nằm trong chiều hướng các cuộc tranh luận các nhóm đại diện Do Thái giáo chính thức gây ra với Đức Giêsu. Tuy vậy, các hoàn cảnh tiêu cực này vẫn không ngăn cản Đức Giêsu cống hiến những mạc khải hoặc giáo huấn quan trọng.

Để đáp lại tin tức về sự thất bại của phái Xađốc, người Pharisêu đã họp nhau lại.

* Câu hỏi về điều răn trọng nhất (35-36)

Một người thông luật trong nhóm đã hỏi để “thử” (peirazôn) Người (c. 35), như họ đã từng làm (x. Mt 22,15.18). Tuy nhiên, câu hỏi này cũng có lý do của nó: các trường phái và các vị thầy Israel vẫn đang cống hiến những lối phân phối và giải thích Lề Luật (Torah) khác nhau. Họ đã phân tích Luật ra thành 613 điều khoản khác nhau. Các kinh sư đã chọn chủ trương giữ luật thật chi li (“vị luật”). Xu hướng vị luật tỉ mỉ này làm phát sinh khi thì niềm vui do tuân giữ được trọn vẹn các điều khoản, khi thì sự tự mãn kiểu Pharisêu (x. Lc 15,29), khi thì sự lo lắng vì không tuân giữ được tất cả (x. Mt 19,18). Dù sao, cần phải tìm ra một nguyên tắc thống nhất giúp người ta biết định hướng trong cuộc đời và nhất là biết cách quyết định trong các chọn lựa thực tiễn. Vì thế, câu hỏi của vị thông luật để “thử” Đức Giêsu có lý do: không chỉ là một tranh luận lý thuyết nhà trường, nhưng cũng có một nhu cầu thực tế. Bởi vì có khi họ đã phải chỉ cho biết những điều răn nào không được vi phạm, cho dù người ta có bị giết, hoặc phải dạy điều gì là quan trọng nhất đối với Lề Luật và các điều răn này dẫn xuất từ các điều răn khác thế nào. Vì vậy, họ có nói tới một kơlal (tiếng Híp-ri có nghĩa là phổ quát tính, nguyên tắc căn bản, tóm tắt, danh hiệu) và một guph (tiếng Híp-ri có nghĩa là phần thân, phần cốt yếu) trong Lề Luật.

* Câu trả lời của Đức Giêsu (37-40)

Câu trả lời của Đức Giêsu cũng chẳng độc đáo, dù là trong lời nhắc lại giới răn tình yêu đối với Thiên Chúa, hay trong lời nhắc nhớ về tình yêu đối với người thân cận. Cả hai điều răn này đều được nói đến trong Lề Luật, và bất cứ người Israel tốt lành nào cũng đều ghi nhớ mà tuân giữ. Đức Giêsu đã chỉ làm một việc là trích sách Đệ nhị luật (6,4-5) và Lêvi (19,18). Nếu có lạ là ở chỗ Người đã đặt hai điều răn này ngang hàng với nhau: “cũng giống” (homoia) có nghĩa là điều răn thứ hai cũng đáng được quan tâm tuân giữ như đối với điều răn thứ nhất, tức là Người nối kết hai điều răn với nhau và dành cho chúng vị trí cao nhất. Hơn nữa, Đức Giêsu còn tuyên bố rằng “tất cả Luật (Môsê) và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”, có nghĩa là hai điều răn này diễn tả trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa trong Kinh Thánh, do đó hàm chứa tất cả mọi điều răn khác, hay là tất cả các điều răn khác quy về hai điều răn này. Như thế yêu mến người thân cận có nghĩa là phải dành cho người thân cận một sự chăm sóc, một tình yêu y như dành cho Thiên Chúa. Nói cách khác, người thân cận cũng phải được yêu mến “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”. Không cần phải phân biệt giữa ba từ ngữ này, bởi vì hy-ngữ thường dùng hai từ “trái tim” và “trí khôn” để dịch từ lev Híp-ri (= trái tim). Câu văn có nghĩa là phải vận dụng tất cả bản thân mà yêu mến Thiên Chúa.

Như vậy, câu trả lời của Đức Giêsu đã rõ. Phải yêu mến người khác với trọn vẹn bản thân mình, tức là trong thực tế không chỉ bằng lời nói, còn về phương diện con người, bằng cách giúp đỡ tận tình, nồng nhiệt. Cách đặt ngang hàng hai điều răn như thế, chúng ta đã thấy trong Bài Giảng trên núi, trong đó Đức Giêsu mời gọi người ta làm hành vi phượng tự sau khi đã giao hòa với người anh em (5,23-24) và yêu mến cả kẻ thù như Thiên Chúa yêu họ (5,44-48).

Có thể nói ở c. 40, tác giả Mt tóm tắt cái nhìn của ngài về hai điều răn trọng nhất. Công thức “ Luật (Môsê) và các sách ngôn sứ” đưa chúng ta trở lại với hai đoạn trung tâm ở 5,17 và 7,12. Ở đó, bản văn nói rằng Đức Giêsu làm trọn Lề Luật và các ngôn sứ, và cả hai khối này tập trung vào hoàng kim quy tắc. Như vậy, c. 40 hàm ý là Lề Luật và các sách ngôn sứ được hoàn tất qua Đức Giêsu. Đồng từ “tùy thuộc vào” (kremannymi en) cho chúng ta biết quan niệm của tác giả Mt về Lề Luật. Hai điều răn này, cũng như hoàng kim quy tắc, chính là nguyên tắc căn bản hướng dẫn việc giải thích bài Giảng trên núi, cũng như Lề Luật và các sách ngôn sứ.

+ Kết luận

Câu trả lời của Đức Giêsu không phải là câu trả lời của một kinh sư, dù Người được các người Pharisêu coi như thế. Đây là câu trả lời của vị Chúa Tể Lề Luật. Chính Người công bố Luật và chính Người hoàn tất Luật (x. 5,17). Chính do sự kiện Đức Giêsu hoàn tất Luật mà Người mang lại cho Luật tính chất mới mẻ đích thật. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân không phải chỉ là những thái độ con người bị buộc phải có; hai tình yêu này nhập thể nơi bản thân Đức Giêsu. Chính vì Người đã đến dùng cuộc đời, cái chết và sự sống lại của Người mà hoàn tất “Luật và các Ngôn sứ”, mà Người có thể công bố với giọng uy quyền rằng toàn thể Giao ước cũ đều “tùy thuộc” vào việc yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Chính nơi Người mà không những Lề Luật, dưới dạng điều răn, mà cả lời hứa ân phúc, được các Ngôn sứ loan báo, đã được thực hiện trọn vẹn.

5. Gợi ý suy niệm

1. Khi tuyên bố về điều răn trọng nhất (“hai trong một”), Đức Giêsu đã công bố sự giải phóng tuyệt vời cho con người. Bây giờ, ta chỉ còn phải tuân giữ hai điều mà thôi. Người nào chu toàn thật sự những gì được yêu cầu trong hai điều răn này thì có thể chắc chắn là đã hoàn tất Lề Luật và thực hiện ý muốn của Thiên Chúa (x. Mt 7,12; Gl 5,14; Rm 13,8-10). Đây chính là điều Thiên Chúa nhắm khi tạo thành con người. Họ được tạo nên để vâng phục Thiên Chúa như chủ và chúa của mình, và cũng để yêu thương Người như cha của mình. Thế mà sự vâng phục chỉ nên trọn vẹn trong tình yêu mà thôi.

2. Người thân cận không phải chỉ là người thuộc về cùng một dân tộc, ở trong cùng một quốc gia, nói cùng một ngôn ngữ. Bất cứ ai cũng có thể là người thân cận của tôi, nhưng không phải lúc nào cũng thế. Tránh né luật yêu thương bằng cách nói đến những người thân cận ở xa, để lơ đi những người ở bên mình đang cần được mình quan tâm, là một cám dỗ dễ rơi vào. Chính tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta phải là mẫu mực cho tình yêu của con người đối với nhau.

3. Yêu thương anh em không phải chỉ bởi vì Thiên Chúa yêu cầu, để vâng lời Thiên Chúa. Liên hệ giữa hai tình yêu này không phải là một liên hệ pháp lý, võ đoán, mà là liên hệ nội tại: ta không thể yêu mến Thiên Chúa nếu không yêu thương anh em. Trong khi yêu thương người khác vì chính họ, ta yêu mến Thiên Chúa vì chính Người. Chỉ có một tình yêu duy nhất, vì con người chỉ có một con tim. Ta có thể suy ngẫm lại bài thánh ca đức mến của thánh Phaolô để thêm xác tín về điểm này (1 Cr 13,4-6).

4. Sự liên kết giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận, đồng thời sự khác biệt giữa hai tình yêu đó, giúp ngăn cản một sự tách biệt giữa tôn giáo và xã hội, giữa bản tính bên trong và đời sống bên ngoài. Yêu mến bản thân mình có thể được nhờ tình yêu đối với Thiên Chúa; chính tình yêu đối với Thiên Chúa đưa tới chỗ không tuyệt đối hóa bản thân, mà lại có một sự nội tâm hóa mới, đồng thời có một tình yêu nồng nàn hơn đối với người thân cận.

[Mục Lục]

Bài 3. MẾN CHÚA và YÊU NGƯỜI

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Thánh Gioan tuy già rồi nhưng lúc nào lên tòa giảng cũng mời gọi mọi người : “Hãy thương yêu nhau, rồi làm gì thì hãy làm”. Đây đúng là cái diệu kỳ của Đạo Công Giáo. Quả thật, Chúa Giêsu đã đến nhân loại này để thiết lập Đạo Tình Thương. Đây là điều đi trái nghịch với cái nhìn hẹp hòi của những người Biệt phái, những người Pharisêu, những Kinh sư v.v… Chúa Giêsu đưa ra giới răn mới là Kính Chúa, Yêu Người.Giữa trăm ngàn thứ luật rắc rối, lộn xộn, Chúa Giêsu cho nhân loại chúng ta biết chỉ có luật quan trọng nhất là luật Yêu Thương. Ngài cho biết tất cả các lề luật và các ngôn sứ đều qui về luật đó.

Cốt lõi Tin Mừng của Chúa Giêsu vẫn là yêu thương. Không hiểu được cái chính yếu, cái cốt lõi của Tin Mừng Chúa, của Đạo do Người thiết lập, người mơn đệ của Chúa vẫn chưa hiểu gì về Chúa cũng như những lời dạy của Người. Lề luật hay nĩi nơm na giới răn lớn nhất của Kitơ giáo là “Mến Chúa, yêu Người”. Tin Mừng của thánh Matthêu hơm nay muốn nĩi lên sứ điệp rõ ràng nhất và chính yếu nhất của đạo cơng giáo. Chúa Giêsu đã trả lời cho những người thơng luật Do thái : “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khơn ngươi”. Đĩ là điều răn trọng nhất, và là điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là : “ngươi phải yêu thương người thân cận như chính mình” (Mt 22,37-39). Người mơn đệ của Chúa luơn phải hiểu rõ điều răn thứ nhất trong thập giới của Thiên Chúa:” thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự”. Đó là giới răn thực quan trọng vì Thiên Chúa là Đấng dựng nên trời đất, muơn lồi và tác tạo nên con người. Bởi thế, con người phải biết ơn Người và thờ phượng, kính mến Người. Tuy nhiên, Đạo của Chúa Kitô đòi hỏi con người phải vươn xa hơn nữa, vươn tới mọi người để yêu thương mọi người như Chúa đã yêu, không loại trừ ai ngay cả kẻ thù. Đó là cái kỳ diệu của đạo công giáo. Nếu nói yêu mến Chúa mà không yêu thương người thì chưa phải là người có đạo, chưa phải là người của nước Thiên Chúa.

Nếu đã nói mến Chúa mà khơng yêu người thì vẫn chưa phải là Kitơ hữu. Và như thánh Gioan nói : “Nếu người nào nói yêu mến Chúa mà không yêu thương anh em là những người gần gũi mình. Đó là người nói láo”. Người mơn đệ Chúa thường đeo thánh giá hay vì dấu thánh giá hàng ngày là dấu hiệu được mời vươn lên tới Thiên Chúa để kính mến Người hết lịng, hết linh hồn, hết trí khôn. Và người mơn đệ Chúa cũng được mời gọi vươn tới mọi người để yêu thương họ kể cả kẻ thù nữa. Như thế, mến Chúa yêu Người chỉ là một giới răn mà thơi. Hai giới gồm tĩm thành một giới răn. Đó là cái mầu nhiệm của Đạo công giáo. Mến Chúa đã khĩ mà yêu người lại càng khĩ hơn. Tuy nhiên, thực hành được hai giới răn mến Chúa yêu Người mới là điều Chúa muốn người môn đệ Chúa thực hiện và sống. Chúa nhắc nhờ chúng ta rằng giữa một thế giới với biết bao luật lệ, biết bao rắc rối, chồng chất do con người bầy ra những thứ luật tỉ mỉ, gây nên ách nặng nề cho con người, Ngài muốn con người nhớ lại con người được Thiên Chúa tạo dựng giống hình ảnh của Chúa, do đó, con người phải làm theo ý Chúa, làm theo lời Chúa dạy. Thiên Chúa là Tình Thương (1 Ga 4, 16) Chính vì thế, làm môn đệ của Chúa con người phải thực hiện điều Chúa truyền, một lệnh truyền xem ra dễ nhưng không dễ chút náo : “Kính Mến Thiên Chúa và Yêu Thương Tha Nhân”.

Xin mượn lời Bertrand Re1villion để kết luận bài chia sẻ này : “…Đối với Đức Kitô, tình yêu dành cho Thiên Chúa không cao trọng hơn tình thương đối với người thân cận. Không ! Kể từ đây, hai điều răn ấy “như nhau”, Đức Giêsu khẳng định vậy… Hôm nay, trong cầu nguyện, lấy thì giờ xem lại thái độ của mình : trong việc làm, trong tương quan vợ chồng, trong gia đình, trong cộng đoàn; tôi có tạo thuận lợi đủ cho phép người kia để lộ ra cho tôi thấy một thoáng gì của Thiên Chúa đang ngự trong người ấy không? Thay vì làm khổ người thân cận,tôi sẵn sàng chúc lành họ, nghĩa sát chữ là nói tốt về họ không ? Bởi vì chính nơi họ, có hơi thở của Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết lắng nghe và tuân theo lời Chúa chỉ dạy. Xin cho chúng con được yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1. Tại sao Chúa lại nói : “Hãy yêu như Chúa yêu” ?
2. Cốt lõi của Tin Mừng là gì ?
3. Đạo Công Giáo dạy con người thế nào ?
4. Chúa dạy yêu thương cả kẻ thù có nghịch lý không ?
5. Tại sao gọi Đạo Công Giáo là Đạo Tình Yêu
 ?

[Mục Lục]

Bài 4. Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Lại một bẫy khác do con người đặt ra để thử lòng Thiên Chúa. Thay vì một nhóm người như trước, họ chọn ra một đại diện cho cả nhóm. Vì muốn thử thách Chúa, họ chọn một vị thông luật, đã là thông luật nên chắc ông này phải thuộc nằm lòng 613 điều luật ghi trong sách Luật Do thái, trong đó 365 điều luật cấm và 248 điều luật truyền làm, chưa kẻ các điều luật phụ nữa. Ông cũng biết các điều trên được chia thành hai vế trọng luật và khinh luật. Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội, nhưng phạm trọng luật như giết người, thờ tà thần, gian dâm… thì bị tử hình. Vì là viên thông luật, hiển nhiên ông biết rõ mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho rằng điều ấy đối với họ là quan trọng hơn cả, có thể Chúa Giêsu đưa ra điều này trọng đối với nhóm này nhưng lại thường đối với nhóm kia, đó là lý do ông đặt ra câu hỏi với Chúa Giêsu hòng nắm chắc phần thắng về mình : “Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất” ?

Hai Điều răn

Thật không dễ để trả lời. Nếu Chúa trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng thì thế nào Người cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia, và như vậy Người sẽ mắc bãy của họ.

Chúa Giêsu là Thiên Chúa thấu hiểu lòng người, nhưng Chúa vẫn trả lời. Chúng ta cũng cám ơn vị thông luật này đã hỏi thử Chúa để chúng ta co được chỉ dẫn rõ ràng, xác thực về thứ tự các giới răn.

Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22, 37). Câu luật này trích trong sách Đệ nhị luật 6,5 có đổi một chút, thay vì “hết sức” thì Chúa nói là “hết trí khôn”. Song cốt yếu không có gì đổi.

Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: “Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi“(Mt 22, 39)Luật này trích ở sách Lêvi 19,18 có khác ở chỗ thay vì yêu kẻ khác thì yêu đồng loại : “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình”.

Ba đối tượng yêu thương

Chúa Giêsu kết luận : “Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó” (Mt 22, 38)Điều răn thì có : thứ nhất mến Chúa, thứ hai yêu người, nhưng gồm ba đối tượng yêu thương : Thiên Chúa, kẻ khác và bản thân.

Đối tượng thứ nhất là Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu ” Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất“(Mt 22, 37-38).

Thiên Chúa không đòi hỏi chúng ta nhiều điều, bởi “yêu mến là chu toàn cả Lề luật“(Rm 13, 10). Nhưng tình yêu có hai vế : Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương kẻ khác… Khi dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa, Chúa đòi hỏi chúng ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Còn yêu thương kẻ khác, Chúa Giêsu không bảo ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ; nhưng”yêu kẻ khác như chính mình. Tại sao vậy ? Vì Thiên Chúa “là dũng lực, là Đá Tảng, chiến luỹ, cứu tinh, là sơn động, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù chúng ta “(x. Tv 17, 2-3), nên chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa không những hết… mà còn trên hết mọi sự, hơn cả chính mình, vì theo lời Chúa Giêsu thì : ” Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất” (Mt 22, 38).

Đối tượng thứ hai là ” kẻ khác” Chúa phán : “Giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi ” (Mt 22, 39).

Theo quan niệm của Người Do thái lúc bấy giờ thì “tha nhân” là những người đồng chủng, đồng hương, đồng xứ (x. Lv 19, 18). Còn “kẻ khác” được hiểu là hết mọi người, (x. Mt 25, 40). Khi Chúa Giêsu bảo người thông luật “hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi“, Người có ý dạy phải thương yêu mọi người chứ không giới hạn trong những người đồng hương với nhau (Mt 25, 40), không những thế mà lại còn phải yêu thương cả địch thù nữa (Mt 5, 43), và yêu như thế nào ? “Yêu như chính mình ngươi“.

Chúa có truyền dạy chúng ta yêu chính mình không ? Thưa : Thiên Chúa xét thấy không cần buộc con người phải yêu chính mình, vì không ai ghét mình bao giờ. Nhưng cũng có nhiều người tự đánh mất mình khi yêu mến sự ác.. Chúa dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng, Người truyền cho chúng ta giới luật phải yêu chính mình. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng muốn yêu mình. Thiên Chúa là Tình Yêu, chúng ta là kẻ có tình yêu. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một tình yêu khác với chúng ta nghĩ. Tình yêu ấy nuôi dưỡng và củng cố các mối quan hệ của tình yêu chúng ta dành cho bản thân và kẻ khác. Trong thực tế, chúng ta phải yêu bản thân mình trong tình yêu Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, và chúng ta có thể bước vào trong tình yêu. Vậy, hãy yêu mến Thiên Chúa hết mình, thì trong Thiên Chúa chúng ta sẽ tìm được chính mình, và tránh được nguy cơ tự đánh mất mình…Nên, theo nguyên tắc, ta yêu kẻ khác như chính mình, yêu Thiên Chúa hết mình và yêu chính mình.

Yêu kẻ khác như chính mình

Khi truyền dạy “Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình“, Chúa Giêsu như đặt một tấm gương để tự chúng ta soi xem mình có yêu “kẻ khác” hay không? Chúa Giêsu xem tình yêu ” kẻ khác ” như “mệnh lệnh của Người,” mệnh lệnh tóm tắt toàn thể lề luật. “Đây là mệnh lệnh của Thầy, là anh em hãy yêu nhau như Thầy đã yêu anh em” (Ga 15, 12). Nhiều người có khi đồng hóa toàn thể Kitô giáo với luật yêu người.

Chúng ta cố gắng đi xa hơn một chút bề mặt của nsự việc. Khi nói về tình yêu kẻ khác, người ta nghĩ ngay tới những “việc làm” như bác ái, hay “phải làm” cho kẻ khác như : cho họ ăn, uống, thăm viếng họ, nói tóm tắt là giúp đỡ kẻ khác. Nhưng đó là hậu quả của tình yêu, chứ chưa phải là tình yêu. Lòng từ tâm tới trước sự làm phúc. Trước khi làm phúc, người ta phải muốn làm phúc.

Thánh Phaolô nói rõ : Đức bác ái phải là “không giả vờ,” tức là, phải chân thật, nghĩa đen, “không giả hình,” (Rm 12, 9); người ta phải yêu “với một con tim trong sạch” ( 1 Pr 1, 22). Trên thực tế, người ta có thể làm việc bác ái và bố thí vì nhiều lý do không dính dáp gì với tình yêu: tô điểm chính mình, để ra vẻ là một người làm điều thiện, được lên thiên đàng, và có khi để trấn an một lương tâm xấu.

Như chính mình” Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hóa với người yêu, vì vậy, phải yêu thương kẻ khác bằng chính tình yêu đối với bản thân, nhưng tiên vàn phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen.

[Mục Lục]

Bài 5. LUẬT CỦA SỰ SỐNG

P. Trần Đình Phan Tiến

Kính thưa quý vị ! Thiên Chúa là nguồn sống, nguồn sống vĩnh cửu, đích thực và duy nhất. Vì sự sống từ nơi Thiên Chúa phát xuất ra, chứ sự sống không do bởi con người. Vì thế, nguồn sống vĩnh hằng nơi Thiên Chúa là điều quan trọng nhất. Chủ đề Lời Chúa hôm nay, Chúa Nhật XXX TN (A), tuy không dài, nhưng thật quan trọng, thật cao siêu. Vì đây là tận cùng là mấu chốt của vấn đề Đức Tin Kitô giáo.

Vâng , tại sao vậy, thưa quý vị ? Thưa, bởi vì, tất cả, chung quy, mọi sự rồi phải đến cùng đích đó là : “SỰ SỐNG VIÊN MÃN”. Từ đó, việc giữ đạo mới thật sự có giá trị.

Tại sao chúng ta nói : Thiên Chúa là tình yêu, vâng, quả thật là như thế. Bởi vì, Thiên Chúa là sự sống, là nguồn sống. Nếu như, Thiên Chúa không là tình yêu, thì tất không có sự sống. Chúng ta thấy, tại sao có ma quỷ? Bởi vì, nơi nó không có sự sống. Nó ghen ghét, nó có hận thù, nó là cho chết, tìm cách hãm hại. Thì chúng ta gọi đó là ma quỷ. Tại sao gọi là ma quỷ? Thưa, quỷ là kẻ đầu nêu , là kẻ gieo mầm sự chết. Tức satan, có nghĩa là kẻ phản nghịch, kẻ chống lại Thiên Chúa. Còn, ma là linh hồn người ta bị quỷ cám dỗ theo nó. Cho dù, linh hồn con người phạm tội chống lại Thiên Chúa, hay là quỷ đi nữa, thì Thiên Chúa cũng không tiêu diệt quỷ hay linh hồn đó. Bởi vì Nguồn sống bắt đầu từ Thiên Chúa, Đấng Tạo dựng. Thiên Chúa chỉ tạo dựng một lần và mãi mãi, không tạo dựng hai lần. Đó là nguyên lý nguồn sống từ Thiên Chúa, hay nói cách khác, ngoài Thiên Chúa thì không có nguồn sống. Từ chân lý nầy, chúng ta suy ra, sự sống của linh hồn và sự sống của thân xác. Sự sống của linh hồn tuy siêu nhiên, nhưng bất tử, vĩnh cửu, đời đời. Chúng ta không nhìn thấy sự sống của linh hồn bằng con mắt thể xác. Nhưng chúng ta có thể nhìn thấy sự sống của linh hồn qua con mắt đức tin. Bởi vì, điều gì nhìn thấy qua con mắt thể xác, thì điều ấy sẽ giới hạn. Vì vậy, qua sự sống hữu hạn, chúng ta được nhìn thấy sự sống vô hạn, đó là sự sống của linh hồn. Dù tin hay không, thì đây là chân lý.

Từ sự sống thể xác, chúng ta suy về sự sống của linh hồn, từ đó, chúng ta cần tìm kiếm và tôn thờ Thiên Chúa, Đấng là nguồn của sự sống vĩnh cửu và hữu hạn.

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy luật của sự sống. Vâng, luật của sự sống đó là “YÊU THƯƠNG”. Vì tình yêu gắn liền với sự sống, cả nghĩa đen lẫn nghĩa siêu nhiên. Chúng ta tôn thờ Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta, hơn là quyền năng của Thiên Chúa. Vì quyền năng của Thiên Chúa làm cho chúng ta xúc phạm, còn tình yêu thương của Thiên Chúa, thì làm cho chúng ta được sống. Vâng, Thiên Chúa đã tỏ hiện tình yêu của Ngài qua Con Một- là Đức Giêsu Kitô. Vì nếu chúng ta không đặt tình yêu Thiên Chúa lên trên tất cả, thì chúng ta không thể có sự sống vĩnh cửu được. Vì sự sống vĩnh cửu chỉ có ở một nơi duy nhất đó là Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta không thể vừa tôn thờ Thiên Chúa là tình yêu, mà chúng ta lại không trao ban tình yêu cho tha nhân. Trong đoạn Tin Mừng (Mt 22, 39 b) hôm nay, gọi là “người thân cận”: Người thân cận có nghĩa là: Cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em, hàng xóm, tất cả những người chúng ta gặp hằng ngày, nơi công xưởng, đồng nghiệp, học đường, ngoài chợ, bạn hàng. Tóm lại là tất cả mọi người chúng ta gặp từ người thường xuyên gặp đến những người ít găp, mới gặp. Trong cộng đoàn dòng tu, anh em cùng dòng, bề trên, bạn hữu, tất cả những anh chị em khác dòng, những người giúp việc, tất cả mọi người chúng ta gặp trên đường đi. Cụ thể như trường hợp các thánh. Các thánh tu trì không sống trong môi trường gia đình theo huyết thống, nhưng trong một môi trường gia đình thiêng liêng. Các thánh sống trong bậc gia đình, thì chu toàn bổn phận vì yêu thương gia đình đúng cách. Yêu như chính bản thân mình, là biết “hy sinh” cho người thân cận.

Chúa Giêsu day cho chúng ta biết yêu thương tha nhân như chính mình, là dạy cho chúng ta biết yêu thương đúng cách. Để chu toàn luật yêu mến Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Hai điều nầy không mâu thuẫn với nhau, nên, gọi là một điều răn. Vì ai yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, thì tất không có lòng thù ghét người thân cận. Người thân cận, rất nhiều khi làm mất lòng chúng ta, làm cho chúng ta thiệt thòi về những điều cố tình hoặc vô ý. Chúng ta rất khó chịu, đó là sự sống thân xác. Nhưng, chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, thì đó là sự sống linh hồn, sự sống siêu nhiên. Theo đó, yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương người thận cận như chính mình, chính là một con người có thân xác và có linh hồn, như thế mới gọi là một con người sống có sự sống. Như vậy, gọi là “LUẬT CỦA SỰ SỐNG” . Vì nếu, chúng ta chỉ yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa không thôi, thì chưa đúng như Lời Chúa dạy. Còn ngược lại, nếu chúng ta chỉ yêu người thân cận không thôi, thì làm sao chúng ta có sự sống đích thực là Thiên Chúa. Khi thân xác hữu hạn qua đi, chúng ta làm sao có sự sống vĩnh cửu là Thiên Chúa được. Vậy, chúng ta phải tìm lấy sự sống vĩnh cửu, để chu toàn sự sống hữu hạn nơi thân xác là yêu người thân cận như chính mình. Vì như thánh Phao-lô nói: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13, 8). Như vậy, cũng có thể gọi là “LUẬT CỦA SỰ SỐNG”. Khi chúng ta giết người, thì chắn chắc luật xã hội sẽ trừng trị chúng ta. Nhưng khi, chúng ta hận người trong lòng, thì luật tình yêu thương của Thiên Chúa sẽ lên án chúng ta (vì luật xã hội không làm gì được chúng ta).

Tình yêu chính là sức mạnh, là động lực sống cho con người. Muốn làm được tất cả, trước tiên phải có tình yêu. Không phải chỉ có tình yêu đôi lứa, nam nữ giữa con người mà thôi. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa, bởi vì : THIÊN CHÚA Là TìNH YÊU. Tình yêu gắn kết đôi nam nữ và làm cho họ trở nên vợ chồng, như vậy hôn nhân cần có tình yêu. Nhưng, tình yêu của hôn nhân cần có tình dục để chu toàn trọn vẹn tình yêu. Hôn nhân gia đình, nếu thiếu hoặc mất đi hương vị của tình yêu, thì không còn hôn nhân nữa.

Nhưng tình yêu nơi Thiên Chúa là tình bạn hữu muôn đời không thay đổi, vì đó là sự sống thần linh. Chúa Giêsu nói : “Thầy không gọi anh em là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì điều gì Thầy nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15, 15); ( Lc 12, 4).

Theo đó, Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một sự khôn ngoan đích thực hầu bảo đảm cho chúng ta một sự sống đời đời. Như thế, không phải là “luật của sự sống” hay sao ? Lời Chúa cho chúng ta biết sống, sống đúng cách, và sống đời đời.

Thánh Vịnh 17 hôm nay khái dài, cho chúng ta biết : Bài ca cảm tạ Thiên Chúa: Chúa là dũng lực, là thành lũy chở che con. Muôn đời con cảm tạ ơn Ngài.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy cho chúng con một điều răn quan trọng nhất, đó là luật mến Chúa trên hết mọi sự, và yêu thường người thân cân như chính mình con. Xin thương ban cho chúng con biết thực thi Lời dạy của Chúa để chúng con nhận được sự sống đích thực từ nơi Chúa là nguồn sống, vì đó chính là đích điểm của chúng con. Amen./.

[Mục Lục]

Bài 6. ĐIỀU RĂN TRỌNG NHẤT

JM. Lam Thy ĐVD.

Sau khi đám biệt phái Pha-ri-sêu gài bẫy Đức Giê-su về vụ “nộp thuế cho Xê-da” (CN.XXIX/TN-A) bị thất bại thê thảm, thì lại đến lượt đám Xa-đốc gài bẫy Người về vụ “Kẻ chết sông lại”. Đám Xa-đốc vốn không tin có sự sống lại, nên mới đưa ra trường hợp một người đàn bà liên tiếp sống với 7 đời chồng (là anh em ruột, cứ người anh chết đi thì lại lấy người em kế, cho đến khi cả 7 anh em đều chết hết). Sau đó người đàn bà cũng chết. Họ hỏi Đức Giê-su: “Vậy khi sống lại, thì bà ấy sẽ là vợ ai trong số 7 người chồng đó?” Thực tế, không thể và không hề có chuyện như vậy. Nhóm Xa-dốc phịa ra một câu chuyện không tưởng, mục đích chỉ để dồn Đức Giê-su vào thế bí, nhằm hạ nhục Người. Đức Giê-su đã giáng một đòn rất mạnh, khiến họ phải câm miệng: “Các ông lầm, vì không biết Kinh Thánh, cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa. Quả thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời.” (Mt 22, 29-30).

Vì liên tiếp thất bại, nên “Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại.” (Mt 22, 34) tìm phương kế tiếp tục hành động ám muội của họ. Đó là đám người chuyên vỗ ngực tự cho mình là người thông luật và tự hào mình lúc nào cũng tuân thủ Lề Luật cách nghiêm chỉnh. Đáng tiếc là họ “nói mà không làm, bó những gánh nặng mà đặt lên vai người ta, còn chính họ lại không buồn động ngón tay vào”, và nhất là “họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy” (Mt 23, 3-5). Hơn thế nữa, họ vẫn cho rằng Đức Giê-su chống lại Lề Luật (cụ thể là luật Mô-sê), và họ đã liên tục đem Lề Luật ra gài bẫy Người (“các kinh sư và các người Pha-ri-sêu bắt đầu căm giận Người ra mặt, và vặn hỏi Người về nhiều chuyện, gài bẫy để xem có bắt được Người nói điều gì sai chăng.” – Lc 11, 53-54). Họ luôn tìm những chứng gian để có cớ xử án Người (“Còn các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giê-su để lên án tử hình” – Mt 26, 59).

Bài Tin Mừng hôm nay CN.XXX/TN-A – Mt 22, 34-40) trình thuật về vụ những “nhà thông luật” Pha-ri-sêu họp nhau lại bàn mưu tính kế, rồi đặt câu hỏi để thử xem Đức Giê-su có “thông luật” không? Họ hỏi: “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Với bộ luật Mô-sê có tới 613 khoản (gồm 248 lệnh truyền và 365 điều cấm), nếu gặp phải tay mơ, thì “bí rị” là cái chắc; nhưng thật không ngờ Đức Giê-su trả lời một cách trơn tru: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.” (Mt 22, 36-40).

Mới thoạt nghe câu trả lời của Đức Giê-su (yêu Chúa và yêu người thân cận), ai cũng cho là hữu lý, vì nghĩ rằng Thiên Chúa là Cha thì yêu Người “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn” là điều tất nhiên; còn người thân cận thì hẳn phải là những người máu mủ ruột thit (cha mẹ, anh chị em), yêu mến họ là phải đạo làm người. Nhưng chẳng lẽ Thiên Chúa yêu tất cả loài người, mà Người chỉ dạy yêu những người ruột thịt thôi sao? Thắc mắc này không được thánh Mat-thêu trình thuật, nhưng theo thánh Lu-ca thì đó cũng là thắc mắc của chính người đã hỏi Đức Giê-su về “Điều răn trọng nhất” (Lc 10, 29-37): Nhà thông luật “muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” Chỉ đến khi nghe hết “Dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành” (Lc 10, 30-37), nhà thông luật mới vỡ lẽ để hiểu ra rằng “người thân cận” không chỉ bó hẹp trong phạm vi gia đình ruột thịt, mà là tất cả “những người ta gặp trên đường” hay nói rõ hơn, đó là “người trong bốn bể đều là anh em” (“tứ hải giai huynh đệ”), vì tất cả đều là con cái của Người Cha duy nhất trên trời: “Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng ta”.

Tới đây thì mọi sự đã rõ ràng: “Thiên Chúa dựng nên loài người giống hình ảnh Người” (St 1, 27) thì tất cả những tha nhân bên cạnh và chung quanh chúng ta chính là hiện thân cụ thể và gần gũi chúng ta nhất, bởi tất cả đều giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng vô hình, mà lại dựng nên con người giống hình ảnh Người, vậy phải hiểu vấn đề như thế nào cho ổn? Vấn nạn này cũng đã gây nhiều tranh cãi, mãi đến Công Đồng Va-ti-ca-nô II, vấn đề mới sáng tỏ: “Mầu nhiệm về con người chỉ thật sự được sáng tỏ trong Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Thật vậy, A-đam, con người đầu tiên, chính là hình ảnh của Đấng sẽ đến, là Chúa Ki-tô. Chúa Ki-tô, A-đam Mới, trong khi mạc khải về Chúa Cha và tình yêu của Người, cũng giúp con người hiểu biết đầy đủ về chính mình và nhận ra ơn gọi vô cùng cao quý của mình. Là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” (Cl 1, 15), chính Người là con người hoàn hảo đã trả lại cho con cháu của A-đam hình ảnh Thiên Chúa đã bị tội nguyên tổ làm sai lệch.” (Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội “Gaudium et Spes”, số 22).

Vì thế, yêu những người ấy là yêu chính Thiên Chúa, và không yêu họ chính là không yêu Người. Do đó, thánh sử Gio-an mới nói: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 4, 20-21). Đó cũng chính là nguyên cớ khiến thánh Phao-lô và Gia-cô-bê đã tóm lại toàn bộ lề luật vào một giới răn duy nhất: “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật; Các điều răn đều tóm lại trong lời này: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Yêu thương là chu toàn Lề Luật.” (Rm 13, 8-10); “Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (Gl 5, 14); “Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gc 2, 8).

Chính Con Người không những đã dạy bảo mà còn thực hành điều đó trên Thánh giá. Khi chiêm ngắm Thánh giá thì cũng chính là lúc người tín hữu được trực diện với hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu Giê-su Ki-tô đang dang rộng hai tay mời gọi mọi người hãy trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Một cách cụ thể, Người đang muốn nói với tất cả chúng ta: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” – Mt 22, 37-39). Cây Thánh giá hình chữ thập chính là biểu tượng cho hai điều răn quan trọng nhất ấy: Cây gỗ dọc là thân mình của mỗi Ki-tô hữu đang đứng thẳng vươn tới Thiên Chúa, thanh gỗ ngang là hai cánh tay dang rộng ôm lấy anh em trong yêu thương đùm bọc nhau. Nói khác đi, Đạo (con đường) Ki-tô chỉ có 2 chiều: chiều thẳng đứng chỉ sự công minh chính trực của Thiên Chúa là điều phải vươn tới và chiều nằm ngang chỉ tình cảm thương yêu đối với tha nhân là điều phải thực hiện trong cuộc sống.

Rõ ràng 2 điều răn đã liên kết chặt chẽ với nhau trở nên một điều răn quan trọng nhất: “Mến Chúa yêu người”, cũng như 2 thanh gỗ đóng hình chữ thập nhuộm đỏ máu Chúa Ki-tô đã trở nên một Biểu-Tượng-Tinh-Yêu được cả thế giới công nhận và tín phục: HỒNG THẬP TỰ. Vâng, quả thực là Đạo Công Giáo chỉ sống và thực hành duy nhất một điều răn bao trùm lên tất cả: MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI. Muốn “mến Chúa” thì tiên vàn phải biết “yêu người” (“đói cho ăn, khát cho uống, rách cho mặc, tiếp rước khi là khách lạ, viếng thăm khi bị cầm tù…”), vì chỉ có “yêu người” mới thực là “mến Chúa”, bởi “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40).

Không cần phải nói ở đâu xa, cứ xem ngay từ hồi những hạt giống Tin Mừng đầu tiên được gieo trên mảnh đất chữ S này, những anh em không cùng tín ngưỡng, kể cả những người không tín ngưỡng (vô thần) đều gọi Ki-tô Giáo là Đạo Yêu Thương, Đạo Bác Ái. Ngày nay, chúng ta hãnh dịên vì điều đó, thì lại càng phải làm sao cho điều đó trường tồn và phát triển đến thiên thu vạn đại. Muốn được như vậy, hẳn nhiên là phải thực sự trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, cũng tức là phải làm thế nào cho mình trở nên một THẬP-TỰ-GIÊSU giữa đời. Viết tới đây, kẻ viết bài này bỗng liên tưởng tới một sự kiện cũng xảy ra tại Việt Nam vào cuối thập kỷ 80 thế kỷ XX: Đó là câu chuyện bộ phim “Chuyện Tử Tế” của nhà đạo diễn Trần Văn Thủy đã gây chấn động dư luận trong nước và cả thế giới.

Bộ phim được sản xuất và hoàn tất năm 1985, nhưng bị cấm phát hành, mãi đến năm 1987 mới được công chiếu. Bộ phim đã khắc họa hình ảnh của những người dân nghèo khổ dưới chế độ bao cấp của xã hội VN, để từ đó tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi: “Thế nào là sự tử tế?” Tác phẩm sau đó đã giành giải Bồ Câu bạc tại Liên hoan phim Quốc tế Leipzig, được nhiều đài truyền hình mua bản quyền để phát lại. Khi phim “Chuyện Tử Tế” được trình chiếu trong liên hoan phim Đại Dương (Pháp), một phóng viên đã hỏi: “Người Ki-tô hữu Việt Nam có thể làm gì cho dân tộc mình?” Đạo diễn Trần Văn Thủy đã trả lời: “Với tôi, điều người ta mong đợi ở các Ki-tô hữu là niềm tin của họ và cách họ sống điều họ tin”. Chính điều này cho thấy tin Đạo là một chuyện, nhưng còn phải biến niềm tin ấy thành hành động sống Đạo giữa đời, đem đến cho đời những điều tốt lành của Đạo, hay nói cách khác là sống tốt Đạo đẹp đời. Chỉ có như thế mới xứng đáng với “Hình ảnh và danh hiệu của Thiên Chúa” ở ngay chính con người của mình: Ki-tô hữu.

Là Ki-tô hữu, tức là một Thập-tự-Kitô, phải chăng là đang thi hành sứ mệnh “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28, 19-20)? Câu trả lời thật hiển nhiên: “Vì sứ mệnh này tiếp diễn, và qua dòng lịch sử làm sáng tỏ sứ mệnh của chính Chúa Ki-tô, Ðấng đã được sai đến rao giảng Phúc Âm cho người nghèo khó, nên Giáo Hội được Thánh Thần Chúa Ki-tô thúc đẩy, cũng phải tiến bước trên chính con đường mà Chúa Ki-tô đã đi, là nghèo khó, vâng lời, phục vụ và tự hiến thân cho đến chết, để rồi toàn thắng nhờ sự sống lại của Người. Chính các Tông Ðồ trong niềm hy vọng cũng đã bước đi trên đường lối đó, đã chịu nhiều nghịch cảnh và đau khổ để hoàn tất những gì còn thiếu sót trong cuộc khổ nạn Chúa Ki-tô đã chịu vì thân thể Người là Giáo Hội. Nhiều khi máu các Ki-tô hữu còn là hạt giống nữa.” (SL Truyền Giáo “Ad Gentes”, số 5).

“Máu các Ki-tô hữu còn là hạt giống nữa” ư? Vậy thì máu Ki-tô hữu đổ ra nhuộm đỏ thân mình trở thành một Hồng-Thập-Tự-Kitô, há chẳng phải là ”hat giống Tin Mừng” đó sao? Chính những hạt giống Tin Mừng ấy sẽ trưởng thành và đơm bông kết trái trên cánh đồng TRUYỀN GIÁO vậy. Ôi! Lạy Chúa, xin soi sáng và thêm sức cho con nên một cành nho trổ sinh nhiều hoa trái, để con thực sự trở thành một HỒNG-THẬP-TỰ-KITÔ-HỮU giữa đời thường. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.

[Mục Lục]

Bài 7. Luật yêu mến

Người Do Thái có quá nhiều luật lệ. Họ lại có thái độ duy Lề Luật. Nên tỉ mỉ tuân giữ tất cả mọi điều. Không còn biết điều nào là chính điều nào là phụ nữa. Hôm nay, nhân một câu hỏi. Chúa Giêsu đã cho ta biết chỉ có một điều luật quan trọng: LUẬT YÊU MẾN. Luật này có 2 khía cạnh.

1) Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Nghĩa là yêu mến hết khả năng, hết sức lực. Ta phải yêu mến Chúa như thế thật hợp tình hợp lý.

Vì Chúa đáng yêu đáng mến vô cùng. Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Ngài là toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ. Nơi Ngài không có một tì vết, khuyết điểm nào. Trong đời sống ai cũng yêu thích những gì tốt đẹp. Chúa là Đấng vô cùng tốt đẹp. Yêu mến Ngài là điều tự nhiên. Ai hiểu biết cũng đều yêu mến Chúa.

Hơn nữa Chúa còn là Đấng sinh thành ra ta. Chính Chúa ban cho ta tất cả. Ta có mặt ở đời này là do ý định của Chúa. Tất cả nhừng gì chúng ta có và chúng ta là đều bởi Chúa. Chúa là vị ân nhân lớn nhất của ta. Yêu mến Chúa là việc làm không những tự nhiên mà còn là bổn phận nữa.

2) Yêu người thân cận như chính mình. Đó là điều răn thứ hai mà Chúa Giêsu nói cũng giống như điều răn thứ nhất. Thực ra đó chỉ là một điều răn vì những lý do sau:

Yêu Chúa và yêu người là hai khía cạnh của một tình yêu. Tình yêu chân thật là tình yêu không có giới hạn, không có loại trừ. Vì thế đã yêu Chúa thì phải yêu người. Nếu tình yêu bị giới hạn, có loại trừ thì sẽ trở thành giả tạo.

Tình yêu đối với tha nhân kiểm chứng tình yêu đối với Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta nhận được từ nơi Người: Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 4,20-21).

Còn hơn thế nữa. Ai yêu anh em là yêu chính Chúa. Vì Chúa ở trong anh em. Hơn thế nữa, Chúa ẩn thân trong những anh em bé mọn nhất. Vì thế trong ngày phán xét Chúa nói với ta rằng: “Ta bảo thật cho các người: mỗi lần các người làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25-40).

Tất cả mọi điều răn khác đều quy về hai điều răn này. Nếu ta giữ trọn vẹn giới răn này, không những ta chu toàn Lề Luật mà còn góp phần xây dựng một thế giới mới, thế giới chan hòa yêu thương, chan hòa tình người. Và đó chính là khởi điểm của thiên đàng mai sau.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Yêu mến Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn. Bạn thấy điều này có hợp tình hợp lý không?
2) Tại sao ta phải yêu tha nhân?
3) Bạn có cảm nghiệm được niềm vui khi ta yêu thương không?
4) Bạn nghĩ thế nào về một thế giới trong đó chỉ có những người yêu thương nhau
.

[Mục Lục]

Bài 8. Yêu thương là truyền giáo

Lm JB. Nguyễn Minh Hùng

“Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi. Và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”. Có bao giờ bạn tự hỏi xem, vì sao Chúa lại dạy phải yêu Chúa và yêu người? Lấy ví dụ: bạn có con đi học. Khi thấy nó lười học, thì nói với nó: “Con học bài đi, con phãi siêng học”. Sở dĩ bạn bảo con mình chịu khó học là vì nó chưa chăm học. Chúa dạy loài người phải yêu Chúa yêu người vì loài người chưa yêu Chúa và cũng chưa yêu người. Hoặc chưa yêu một cách trọn vẹn như Chúa muốn. Yêu như Chúa muốn đó là: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khốn. Và yêu kẻ khác như yêu chính mình”.

Yêu Chúa là phải yêu bằng cả tấm lòng, cả linh hồn, cả trí khôn. Tấm lòng, linh hồn, trí khôn là thành phần trọng yếu nhất của con người. Nếu thiếu tấm lòng, nghĩa là thiếu trái tim, con người chỉ là một cái xác. Nếu không có linh hồn, không phải là người nữa. Nếu thiếu trí khôn, dù mang hình dáng con người, người đó cũng trở nên ngu đần. Yêu Chúa bằng tất cả tấm lòng, cả linh hồn và trí khôn, yêu bằng tất cả thành phần chủ yếu của một con người là yêu vô cùng, yêu không tính toán, yêu Chúa một cách mạnh mẽ. Nhưng chỉ có lòng mến Chúa thôi, chưa đủ. Lòng yêu mến Chúa đòi phải có một giới răn khác bổ túc. Đó là yêu người. Yêu người cũng quan trọng không kém giới răn yêu Chúa. Chính Chúa Giêsu nói: “Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất là: ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”. Yêu Chúa và yêu người luôn đi đôi với nhau. Nếu nói rằng yêu Chúa mà trong thực tế không yêu tha nhân, không giúp đỡ người khác, là nói dối.

Ngược lại, chính khi yêu thương và giúp đỡ người khác là bằng chứng chứng tỏ mình yêu mến Thiên Chúa.

Tuần trước chúng ta cử hành ngày thế giới truyền giáo. Nhưng tôi nghĩ, sẽ không có truyền giáo đúng nghĩa nếu không biết yêu thương. Lòng yêu thương anh em là phương thế truyền giáo hữu hiệu, vì nhân loại luôn luôn cần đến tình yêu. Chính vì đặt tình yêu lên trên mọi chuẩn mực của một hành vi đạo đức nào đó, nên đạo Công giáo cũng là đạo của tình yêu. Không thể nói với ai, rao giảng cho ai về tình yêu mà bản thân ta không hề biết yêu thương. Đó là sự mâu thuẫn lớn mà ta phải trút bỏ đi. Nếu ta không biết yêu thương thì cũng không thể truyền giáo. Ngược lại, ta có một đời sống yêu thương thật sự, tử tế, vui vẻ với mọi người, sẵn sàng giúp đỡ người khác, những việc làm tốt đó, tự bản thân nó đã chứng minh ta là người có đạo, đã là truyền giáo rồi.

Nhưng không thể lúc nào cũng có thể nói về Chúa được. Lấy ví dụ: một thầy cô giáo có đạo, đi dạy ở một trường học nào đó, chắc chắn thầy cô đó không thể vào lớp học để nói về đạo, về Chúa được. Nhưng điều mà người thầy hay cô đó có thể làm được là chứng minh đời sống đạo của mình như: vui vẻ với đồng nghiệp, yêu thương, độ lượng với học trò… Trong đời sống hằng ngày, mọi người có thể làm được những chuyện rất bình thường như: lượm một cục đá trên đường bỏ vào một nơi nào đó để các em nhỏ đi không bị vấp, các cụ già không bị té. Hoặc là ta biết giữ vệ sinh chung, đừng ném mọi thứ rác rưởi ra đường, ở nơi công cộng… tất cả những việc làm đó đều là những việc làm cụ thể, ai cũng làm được.

Với tất cả những phương thế thực hành vừa đề nghị bên trên, không phải là thể hiện lòng yêu Chúa, yêu tha nhân hay sao? Đó cũng không là phương thế truyền giáo hay sao? tin rằng bạn và tôi đều luôn là những người cố gắng sống tốt, để người ngoài nhìn vào có thể nói rằng: anh hay chị ấy sống tốt vì họ là người Công giáo.

[Mục Lục]

Bài 9. Điều răn nào trọng nhất?

Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật

Điên rồ hay là đơn giản

Sau nhóm Xađốc, đến nhóm Pharisêu đặt câu hỏi với Đức Giêsu cũng với ý định bắt bẻ Người. Trước câu hỏi được nêu lên như một cái bẫy, Đức Giêsu đã trả lời ngay, không cần suy nghĩ. Chỉ trong một câu ngắn, Đức Giêsu đã rút gọn toàn bộ lề luật, đổng thời cho thấy tinh thần cũng như nét phong phú của luật pháp.

Xưa kia, bộ luật Do-thái gồm những quy định phức tạp, chặt chẽ với 613 điều -368 điều cấm và 245 điều phải làm, nay được Đức Giêsu đơn giản hoá thành 2 điều, hay đúng hơn chỉ là một: “yêu mến Thiên Chúa và người thân cận.” Qua việc nối kết lòng yêu mến Thiên Chúa với tình yêu thương đồng loại, Đức Giêsu đã tóm tắt toàn bộ Kinh Thánh, coi đó như giá trị luân lý nền tảng hay quy tắc của đời sống. Khi tuyên bố điều răn thứ hai cũng quan trọng như điều răn thứ nhất, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng tình yêu thương đồng loại có giá trị ngang hàng với lòng yêu mến Thiên Chúa.

Thế là từ nay, những khoản luật phức tạp, những chi tiết khắt khe đã được đơn giản hoá và trở nên thật dễ dàng. Tất cả bộ luật được thu tóm lại trong hai điều răn có liên hệ với nhau cách chặt chẽ. Nói cách khác, toàn bộ các điều răn khác được đặt nền trên hai điều răn này như là những điều cơ bản không thể thiếu, đồng thời cũng hướng tới hai điều răn này như là mục đích sau cùng, như tiêu chuẩn phán đoán. Tất cả những khoản luật đi ngược với tinh thần của hai điều răn này đều trở thành vô giá trị.

Như vậy, Đức Giêsu mở rộng cánh cửa hướng đến sự công chính. Luật pháp chỉ là phương tiện và chỉ có được ý nghĩa khi nó diễn tả được điều cốt yếu là sự thánh thiện nội tâm, là đức tin sống động, là tình yêu nổng nàn thúc đẩy mọi hoạt động.

Thế nhưng, chính tóm tắt có vẻ đơn giản và dễ dàng này lại buộc những người theo Đức Kitô phải sống tích cực hơn và mỗi ngày một hơn. Người ta sẽ không chỉ tuân thủ những chi tiết luật pháp, nhưng là tình yêu mến. Mà lòng yêu mến không thể bị giới hạn ở một mức độ nào đó. Đức Giêsu không nói: “Hãy yêu mến Thiên Chúa và người thân cận bao nhiêu có thể”, nhưng Người đã trích dẫn luật Mô-sê: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi.”Tại sao Thiên Chúa lại đòi buộc con người phải yêu mến “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”? Bản tính con người vốn yếu đuối, giới hạn và hay thay đỗi: điều này Người quá biết. Tại sao Người lại yêu cầu con người phải vượt quá khả năng của mình?

Thật ra, nếu đứng trên quan điểm sự khôn ngoan loài người, thì Tin Mừng toàn là những đòi hỏi vô lý, điên rổ. Những ai mong muốn tìm thấy trong Tin Mừng những câu châm ngôn hợp lý và dễ dàng, người ấy sẽ thất vọng. Quan niệm loài người sao có thể chấp nhận nỗi “Bài giảng trên núi”, trong đó người nghèo được đề cao, người hèn kém được vào Nước Thiên Chúa, còn những người được coi là đạo đức lại bị loại trừ? Lý luận của con người làm sao có thể hiểu nỗi câu nói: “Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ giữ lấy được”. (Mt 10,39)? Và sau cùng, còn gì gây chướng kỳ hơn khi chứng kiến con người tự nhận là Đấng Cứu độ, Đấng ban sự sống, lại chịu treo trên thập giá? Toàn là những chuyện điên rồ!

Nên nhớ rằng, Kitô giáo không phải là một tôn giáo có thể lý luận được cách có hệ thống. Tinh thần Kitô giáo luôn hàm chứa một khả năng gây bất ngờ, và cả khó khăn nữa. Kitô giáo không phải là một thứ tôn giáo trong đó mọi sự được sắp xếp cách trật tự và hoàn hảo như một tài sản được quản lý tốt. Trái lại, Kitô giáo luôn là một sự hướng tới: hướng tới vô biên, tới Đấng mà “tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta.”(Is 55,8). Đó là một sự điên rồ, điên rồ của tình yêu và đó cũng là tình yêu, tình yêu đối với Thiên Chúa và với đồng loại.

Từ “và” đến “trong”

Vào thời Đức Kitô và cả ngày nay nữa, vẫn có những trường phái tự cho rằng mình có quyền ưu tiên đưa ra giải thích đúng đắn về chân lý. Họ cho rằng quan niệm của mình là có lý còn của người khác thì sai lầm. Có lẽ con người ngày nay không cần quan tâm đến việc tìm hiểu những chi tiết trong các cuộc tranh luận của người Do-thái. Thế nhưng, khi suy niệm lời giải thích của Đức Giêsu, người ta sẽ thấy đòi hỏi luân lý được sáng tỏ và tìm ra được nét thống nhất cho mọi hoạt động và suy nghĩ của mình. Phải yêu mến Thiên Chúa “hay là” yêu mến người thân cận? Nên theo chủ trương chiều dọc “hay là” chiều ngang? Đó là những câu hỏi con người thời nay thường nêu lên. Với một số người, sự quan tâm đến những vấn đề cụ thể của con người có thể gây nguy hại cho lòng tin vào Thiên Chúa. Với những người khác, thời giờ dành cho Thiên Chúa có nguy cơ làm quên lãng người thân cận. Thật ra, ngày nay cũng như ngày xưa, Đức Giêsu luôn mời gọi và bó buộc phải vượt ra khỏi những song quan luận theo kiểu này. Chúng chỉ là những thứ mặt nạ che dấu thái độ từ khước cũng như những nỗi sợ hãi của con người. Trả lời cho nhà thông luật về điều răn trọng nhất, Đức Giêsu đã khẳng định đó là lòng yêu mến Thiên Chúa. Tuy vậy, Người còn đưa ra, hay đúng hơn, còn nối kết tình yêu thương đồng loại với lòng yêu mến Thiên Chúa, “cũng giống điều răn ấy”.

Điều răn thứ hai này “cũng giống” điều răn thứ nhất, tức là cả hai đều quan trọng. Nói cách khác, điều răn thứ hai có bản chất và tầm quan trọng cũng “lớn” như điều răn thứ nhất. Dầu vậy, giống nhau chứ không phải là đồng nhất: hai việc đó vẫn khác nhau và có thứ tự trước sau, không thể đổi qua đổi lại với nhau như thể yêu đồng loại cũng là yêu mến Thiên Chúa, và yêu mến Thiên Chúa tức là yêu mến đồng loại: Thiên Chúa luôn ở phía chân trời và luôn mời gọi con người tiến xa hơn; đồng loại là thực tại gần gũi với những giới hạn cụ thể. Giáo huấn của Đức Giêsu có ý nhấn mạnh rằng yêu mến đồng loại cũng có tính cách khẩn thiết như là yêu mến Thiên Chúa, và không được xao lãng nhiệm vụ nào.

Do đó, không có vấn đề bên này hay bên kia. Không được quyền nói “hay là”, nhưng phải nói “và”. Một cách chính xác hơn: chỉ có thái độ mở ra với Thiên Chúa mới dẫn đến tình yêu thương đồng loại cách đích thực; và chỉ có thái độ sẵn sàng với người khác mới cho phép con người nói rằng mình yêu mến Thiên Chúa mà không dối trá. Sau đó, “và” sẽ biến thành “trong”: con người yêu mến Thiên Chúa “trong” người thân cận, và yêu mến người thân cận “trong” Thiên Chúa. Huyền nhiệm và con người hành động không phải là kẻ thù của nhau, nhưng là anh em của nhau.

Bài học phải thuộc lòng

Bài Tin Mừng này con đã thuộc lòng con biết rất rõ điều răn phải yêu mến Thiên Chúa và người thân cận bắt nguồn từ một tâm tình duy nhất. Thế nhưng, hình như bản Tin Mừng chỉ là một thứ kỷ niệm, tựa những câu chuyện cổ tích thời thơ ấu, như một điều không có thực. Làm sao con có thể yêu nỗi mình và cả người khác đang vắng mặt?

Không, con chỉ mới thuộc mặt chữ, con quên rằng chính Thầy đang thì thầm trong hồn con, và đang thúc đẩy con ra khỏi mình. Con đã quên rằng lề luật không phải là nhà tù, cũng không phải là một sự sắp xếp. Trái lại, đó là một lời mời gọi hướng tới tình yêu, đó là lời kêu mời hãy nhận ra rằng: bàn tay con được dựng nên để nắm lấy, và trái tim con được dựng nên để thứ tha. Lắng nghe lời Thầy, con sẽ không cảm thấy gì khác hơn là con đang mang trong mình một khát vọng vô biên. Con nghĩ rằng mình thuộc lòng bài Tin Mừng, nhưng con đã không hiểu thấu Thầy là ai, cũng chẳng hiểu rõ các điều răn. Thầy là tình yêu, và con đã quên mất – Thầy đã đến gặp con để con được sinh ra, và cũng trở thành tình yêu. Thầy biết rõ con không hiểu về chính con, cũng không hiểu về người khác, về Thiên Chúa. Chính vì vậy, Thầy đã đến trần gian. Hãy đến và sống theo Thầy bấy giờ con sẽ thuộc và hiểu rõ về Tin Mừng.

[Mục Lục]

Bài 10. Tình yêu là lẽ sống

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Đã có lần Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận từng nói với Bill Gate rằng: “Sự văn minh đích thực là không để ai ở lại phía sau”. Và Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolo II cũng nói: “Sự văn minh đích thực là phục vụ sự sống”. Thế nhưng, “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Một thế giới quá chênh lệch giầu nghèo. Một thế giới quá đề cao đồng tiền mà quên cả lương tri con người. Một thế giới lấy kinh tế làm đầu nên đã làm đảo lộn biết bao thuần phong mỹ tục, và những giá trị đạo đức truyền thống của các tiền nhân. Khoa học tiến bộ, nhưng đạo đức và phong hoá xuống cấp trầm trọng. Sự tiến bộ của khoa học dường như đang giúp sức cho sự dữ gia tăng. Khoa học tiến bộ đang phục vụ cho văn hoá sự chết hơn là phục vụ cho văn hoá sự sống. Người ta tìm muôn nghìn cách thức để lừa đảo, gian manh và truỵ lạc. Đứng trước viễn cảnh đen tối của xã hội hôm nay, Sĩ Phu Bắc Hà đã đúc kết thành bốn câu thơ:

Nhân phẩm từ đây giảm giá rồi

Chỉ còn lương thực tăng giá thôi

Lương tâm bán rẻ hơn lương thực

Chân lý chân giò một giá thôi!

Một thế giới thượng vàng hạ cám đã làm lệch đi rất nhiều những giá trị của cuộc sống. Một thế giới xem ra những nghĩa cử yêu thương thật hiếm hoi. Đó chính là một thách đố cho người ky-tô hữu chúng ta. Liệu rằng chúng ta có dám sống triệt để giới răn mến Chúa yêu người giữa một xã hội loại trừ Thiên Chúa và thiếu thốn tình người hay không? Liệu rằng chúng ta có dám chịu thiệt thòi để người khác hưởng thụ trên lòng quảng đại của chúng ta hay không? Liệu rằng chúng ta có dám yêu người khi mà người ta đang chơi xấu, đang lợi dụng, đang làm hại chúng ta? Đây là một thách đố và cũng là đòi hỏi triệt để, vì căn tính của người môn đệ Chúa là “yêu mến tha nhân như chính mình”. Vì tình yêu là lẽ sống, là hơi thở của người ky-tô hữu. Không có tình yêu thì sức sống của người tín hữu đã không còn. Không có lòng quảng đại thì không còn là nhân chứng cho Tin mừng Nước Trời của Chúa. Chúng ta không thể nói yêu Chúa mà trong lòng vẫn còn thù ghét anh em của mình. Chúng ta phải vượt lên trên lòng ích kỷ, sự hẹp hòi của nhân thế để làm chứng cho một tình yêu nhân ái, bao dung và vị tha.

Đây chính là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Đồng thời Ngài cũng đòi buộc chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính mình. Chính Thầy Chí Thánh Giêsu đã làm gương cho chúng ta. Chính Ngài khi bị treo trên thập tự giá đã giới thiệu cho nhân thế một tinh yêu tinh ròng đến nỗi “dám chết cho người mình yêu”. Ngài đã chọn thập tự giá làm biểu tượng cho tình yêu tự hiến của mình. Với thanh dọc, Chúa chấp nhận cực hình để tôn vinh Chúa Cha. Với thanh ngang, Ngài muốn ôm trọn nhân loại trong tình thương của Chúa. Người ky-tô cũng được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy Giêsu khi chúng ta sống tôn vinh Chúa Cha, và yêu mến anh em như chính mình.

Chính tình yêu đó sẽ giúp chúng ta vượt thắng những tham lam bất chính, những thói hại người hại đời để tìm tư lợi riêng cho bản thân mà người đời vẫn đang sống. Có thể là người, chúng ta cần địa vị, cần danh vọng nhưng vì lòng yêu mến Chúa chúng ta không thể bán rẻ lương tậm, không làm hại đồng loại. Có thể chúng ta cũng cần của cải để sinh sống, nhưng vì Chúa, chúng ta biết sống quảng đại để mua lấy hạnh phúc Nước Trời. Có thể đồng loại, vẫn mưu toan làm hại chúng ta, nhưng vì Chúa chúng ta nhịn nhục và nhẫn nại với nhau trong yêu thương và tha thứ.

Như vậy, chỉ có ở trong tình yêu Chúa, chúng ta mới dám sống yêu thương đồng loại như chính mình. Chính nhờ tình yêu Chúa, sẽ giúp chúng ta trao ban sự sống sung mãn cho nhân thế qua những nghĩa cử yêu thương, bác ái và vị tha. Chính tình yêu đối với Chúa, sẽ giúp chúng ta sống nhân ái và bao dung với tha nhân là hình ảnh của Ngài.

Ước gì giữa một thế giới đang băng hoại về tình người, chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa của yêu thương, để sưởi ấm cho những ai đang cô đơn, thất vọng vì thiếu vắng tình thương, sự cảm thông và nâng đỡ của anh em. Ước gì giữa một thế giới đang bán rẻ lương tri, người ky-tô hữu hãy biết sống tôn trọng lẫn nhau, biết sống cho tình người cao quý, hơn là những của cải vật chất tầm thường. Ước gì người ky-tô hữu chúng ta, đừng vì danh lợi thú mà đánh mất nhân phẩm con người là hình ảnh Thiên Chúa. Ước gì giữa một xã hội mà chân lý bị vùi giập, chúng ta dám sống cho sự thật, cho dẫu rằng, có bị nghi kỵ, hiểu lầm, kết án và tẩy chay. Giữa một thế giới mà người ta có thể nhân danh quyền lợi của mình để giết hại người khác một cách phi nhân, ác đức, đặc biệt là các thai nhi vô tội, chúng ta hãy sống theo gương Thầy Giêsu dám chết cho người minh yêu, dám sống mình vì mọi người, và dám trở nên mọi sự cho mọi người như Thầy Giêsu.

Nguyện xin Chúa là tình yêu, xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim yêu thương của Chúa. Amen.

[Mục Lục]

Bài 11. Giới Răn Yêu Thương

Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/8/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ tại Nhật, đó là “Sư máy”. Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi đưa lên, một tay thì gõ mõ. Mỗi vị sư máy có thể cầu kinh không biết mỏi mệt, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật. Sáng kiến này được đưa ra nhằm đáp ứng cho nhu cầu ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương.

Yêu thương là đặc điểm của con người. Thú vật có thể có cảm giác, nhưng đó không hẳn là yêu thương. Chỉ có con người được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu mới thực sự được mời gọi yêu thương mà thôi.

Tin Mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta ơn gọi cao cả của con người. Trả lời cho thắc mắc của luật sĩ, Chúa Giêsu đã thu tóm tất cả lề luật thành một giới răn duy nhất là mến Chúa và yêu người. Hai mệnh lệnh này là một giới răn duy nhất, bởi vì không thể kính mến Chúa mà lại ghét bỏ hình ảnh của Ngài là con người, cũng như không thể yêu thương con người mà lại không nhận ra và yêu mến Thiên Chúa là nguồn mạch tình yêu chân thật. Tách biệt hai mệnh lệnh ấy là chối bỏ tình yêu. Các luật sĩ và các biệt phái thời Chúa Giêsu quả là những người đạo đức: họ ăn chay, cầu nguyện và tỏ ra yêu mến Thiên Chúa hơn ai hết; thế nhưng Chúa Giêsu đã điểm mặt họ là những kẻ giả hình, bởi vì lòng yêu mến Chúa nơi họ không được thể hiện bằng tình yêu đối với tha nhân. Chúa Giêsu còn gọi họ là những mồ mả tô vôi, bên ngoài thì bóng loáng, nhưng bên trong thì thối rữa. Có thể so sánh thái độ giả hình ấy với một người máy: người máy có thể làm được nhiều cử chỉ ngoạn mục, nhưng không có một tâm hồn để yêu thương thực sự.

Yêu thương là kiện toàn lề luật; yêu thương là cốt lõi, là linh hồn của Đạo. Đi Đạo, sống Đạo, giữ Đạo, xét cho cùng chính là yêu thương; không yêu thương thì con người chỉ còn là một thứ người máy vô hồn. Thánh Gioan Tông đồ, người đã suốt đời sống và suy tư về tình yêu, vào cuối đời, ngài đã tóm gọn tất cả thành một công thức: “Thiên Chúa là Tình Yêu”, và ngài dẫn giải: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Đấng nó không thấy”.

Nguyện xin cho cuộc sống của chúng ta ngày càng được thanh luyện và gần gũi hơn với cốt lõi của Đạo là Yêu Thương.

[Mục Lục]

Bài 12. Hai điều răn

Suy Niệm

Chúng ta thường ngại xét mình trước khi xưng tội. Nếu xét mình sơ sài dựa trên Mười Điều Răn, có khi ta thấy mình chẳng có tội gì nghiêm trọng: không trộm cắp, không tham lam, không giết người… Thật ra xét mình không phải là làm bản tự kiểm trước một danh sách những luật cấm và luật buộc, cho bằng là đặt mình trước Thiên Chúa và tha nhân.

Tôi phải thành thật tự hỏi: Tôi có thực sự yêu mến Thiên Chúa không? Tôi có thực sự yêu mến anh chị em tôi không? Tất cả điều răn được tóm trong một động từ: yêu.

Tình yêu là cốt lõi của đời sống Kitô hữu, vì Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,8). Yêu là bước vào một đại dương mênh mông, là dấn thân trên một con đường dài hun hút. Chúng ta chẳng bao giờ thấy mình yêu đủ. Tình yêu cứ vẫy gọi ở phía trước, và mở ra những cánh cửa không ngờ. Giới hạn tình yêu là bóp chết tình yêu.

Chẳng có động từ nào bị hiểu sai cho bằng động từ yêu. Báo chí phim ảnh làm cho ta nghĩ rằng yêu chỉ là chuyện quan hệ giữa hai cô cậu. Hành vi chiếm đoạt theo bản năng lại được gọi là yêu. Chúng ta cần trả lại ý nghĩa cao đẹp cho động từ này. Yêu mến Thiên Chúa là điều răn số một. Không phải chỉ dành cho Ngài phần lớn trái tim, Ngài đòi tất cả trái tim của tôi, tất cả con người của tôi. Hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Ai trong chúng ta dám tự hào mình đã sống trọn vẹn điều răn thứ nhất?

Càng lúc tôi càng thấy Chúa bị mất chỗ trong tim tôi. Tôi không có giờ cầu nguyện và tĩnh tâm. Chúa Nhật là ngày tranh thủ làm thêm. Mối lo toan quá mức về cuộc sống vật chất làm đời sống thiêng liêng bị sa sút. Điều răn thứ hai cũng quan trọng không kém: yêu người thân cận như chính mình. Chúng ta yêu bản thân mình biết chừng nào! Chúng ta chỉ muốn điều tốt cho mình đến nỗi lắm khi làm điều xấu cho người khác. Cần coi tha nhân như một cái tôi khác của mình. Họ cũng cần được tôn trọng, cảm thông và yêu mến. Có biết bao thiệt hại tôi đã gây cho anh em tôi. Thái độ sống của tôi đã làm khổ bao người khác.

Hai điều răn trên không thể tách rời nhau. Yêu Thiên Chúa chắc chắn dẫn đến yêu tha nhân. Tình yêu tha nhân cần đặt nền trên Thiên Chúa. Người Kitô đi từ nhà thờ ra chợ rồi lại từ chợ vào nhà thờ. Ngoài chợ, họ gặp Chúa nơi anh em. Trong nhà thờ, họ gặp anh em nơi Chúa.

Gợi ý chia sẻ

* Hai từ “Tình Yêu” đã bị lạm dụng. Theo ý bạn, một tình yêu thực sự phải có những nét gì?

* Trong kinh nghiệm sống đức tin của bạn, có khi nào bạn thấy mình bị giằng co giữa tình yêu đối với Chúa và tình yêu đối với tha nhân không? Bạn đã giải quyết ra sao?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa,

Lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau để làm thành một vòng tròn khép kín. Sau đó chúng con hiểu rằng cần phải buông tay nhau để nhận những người bạn mới, để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng và trái tim được lớn lên mãi.

Lạy Chúa, chúng con biết rằng cần phải nối vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và lục địa. vòng tay người nối với người, vòng tay con người nối với Tạo Hoá.

Chúng con thích Chúa đứng chung một vòng tròn với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay chúng con và đưa chúng con lên cao.

Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá giúp chúng con biết nắm lấy tay nhau và nhận nhau là anh em.

[Mục Lục]

Bài 13. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu

Theo truyền thống hội đường Do thái, Luật gồm 613 điều răn. 365 điều cấm làm và 248 điều phải làm. Giữa một rừng điều răn như thế, người thông luật đã hỏi Đức Giêsu: “Điều răn nào trọng nhất trong Luật Môsê?” (c. 36). Đức Giêsu đã trả lời bằng một câu trong kinh Shema, kinh mà người Do thái phải đọc mỗi ngày. “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, với tất cả trái tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Tl 6, 5). Và Ngài còn thêm một điều răn thứ hai nữa (c. 39). “Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình” (Lv 19, 18). Tất cả Luật Môsê nằm trong hai điều răn đó. Hai điều răn được gói trong một động từ yêu. Mọi điều cấm làm và mọi điều buộc làm, đều bắt nguồn từ và qui về tình yêu.

Các bạn trẻ thường nghĩ yêu là chuyện dễ. Nhưng yêu với tất cả trái tim, tất cả linh hồn, tất cả trí khôn, tất cả sức lực, nghĩa là yêu với trọn cả con người mình, thì điều đó không dễ. Đối với người Do thái, trái tim là nơi phát sinh toàn bộ đời sống tinh thần. Yêu mến Thiên Chúa bằng tất cả trái tim của mình là để cho Ngài chi phối mọi tư tưởng, mọi ý muốn, mọi tình cảm. Tất cả đều nhằm làm cho Ngài được mọi người nhận biết và tôn vinh.

Yêu người thân cận như chính mình cũng là điều rất khó. Có bao người làm chúng ta đau khổ và bị xúc phạm. Yêu thương và tôn trọng họ đòi một sự từ bỏ mình không nhỏ. Nhưng chúng ta cũng dễ coi mình là trung tâm và qui tất cả về mình. Chúng ta lạnh lùng trước nỗi đau, thiếu sẻ chia và độc đoán, đôi khi dùng tha nhân như phương tiện lót đường để ta tiến thân. Nói chung, dù yêu Chúa hay yêu người, chúng ta cũng phải ra khỏi mình, trao đi chính mình và chấp nhận mọi hy sinh mà tình yêu đòi hỏi.

Đức Giêsu đã tóm Luật Môsê trong động từ yêu mến. Và Ngài đã hoàn thiện Luật này bằng cách đẩy yêu mến đến cùng. Kitô hữu chẳng những yêu mến Thiên Chúa với trọn con người mình, mà còn được mời yêu mến Đức Giêsu trên mọi thụ tạo khác, trên mọi của cải, trên những người ruột thịt, và trên cả mạng sống. Kitô hữu là người mang mối tình sâu đậm với Đức Giêsu, “Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20), đến nỗi họ có thể tuyên xưng như Phêrô: “Thầy biết con mến Thầy.” Đức Giêsu cũng không chỉ đòi yêu tha nhân như chính mình. Ngài còn đòi ta phải yêu như Ngài đã yêu (Ga 13, 34-35). Một tình yêu tha thứ đến vô cùng, một tình yêu đối với cả kẻ thù, một tình yêu phục vụ như người tôi tớ, một tình yêu dám hiến mạng. Kitô hữu tự bản chất là người biết yêu và cuộc đời chỉ là tình yêu. Tình yêu đích thực với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em. Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa. Chỉ mong đời tôi đong đưa giữa hai tình yêu đó, để chúng nên một tình yêu.

Cầu nguyện:

Con đã yêu Chúa quá muộn màng! Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính, vừa luôn mới mẻ, con đã yêu Chúa quá muộn màng! Bấy giờ Chúa ở trong con mà con thì ở ngoài, con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài. Con thật hư hỏng, khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp. Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con mà con lại không ở với Chúa. Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa, trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa. Chúa đã gọi con, đã gọi to và phá tan sự điếc lác của con. Chúa đã soi sáng và xua đi sự mù lòa của con. Chúa đã tỏa hương thơm ngát để con được thưởng thức, và giờ đây hối hả quay về với Chúa. Con đã nếm thử Chúa và giờ đây con đói khát Người. Chúa đã chạm đến con, nên giờ đây con nóng lòng chạy đi tìm an bình nơi Chúa. (Thánh Âu-Tinh)

[Mục Lục]

Bài 14. Lý do của tình yêu

“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, và yêu người thân cận như chính mình”.

Tác giả Lovasik trong quyển “Dụ ngôn đời thường” của Rev. Frank Mihalie – SVD có kể câu chuyện về đại văn hào người Nga Tolstoy như sau:

Nạn đói lan tràn lãnh thổ. Một người ăn xin nơi góc phố tiến tới gần Tolstoy. Tolstoy dừng lại, sờ khắp mọi túi nhưng không tìm được đồng nào. Thật lòng thương cảm, ông nói: “xin đừng giận tôi, người anh em ạ, tôi không có đồng nào ở đây”. Người ăn xin ngước mặt đáp: “ông gọi tôi là người anh em thì cũng là món quà lớn lắm rồi”.

Vâng, yêu thương không nhất thiết phải được đánh giá bằng những tài sản vật chất lớn lao mà hơn thế đó là lòng thương cảm của chúng ta dành cho nhau. Nhưng đôi lúc bạn sẽ hỏi – sao phải yêu thương người khác trong khi họ không có quan hệ thân thuộc nào với mình? Hay tại sao phải yêu? Chẳng phải đó là một trong những thất tình sao? Giữa một xã hội kim tiền này mà còn yêu hết lòng thì dễ bị thua thiệt lắm. Nghĩ như vậy quả là thiển cận. Tôi sẽ cho bạn thấy có hai lý do để chúng ta phải yêu thương nhau như bài học của đoạn Kinh Thánh hôm nay.

Thứ nhất, vì chúng ta là con người. Tình yêu chỉ có duy nhất nơi con người. Ở các loài động vật tất cả hoạt động của chúng là do bản năng. Hơn nữa, hành động gọi là yêu thương của chúng chỉ xảy ra ở những thời điểm nào đó. Khi nhìn thấy cảnh tượng gà mẹ ủ con mình dưới cánh rất mẫu tử ấy, nhưng chỉ một thời gian ngắn. khi gà con đã đủ lông đủ cánh thì đường mẹ, mẹ đi, đường con, con đi. Các loài khác thì cũng không có gì lạ hơn. Còn ở con người, tình yêu bao hàm nhiều góc độ và ngữ cảnh. Tình yêu gia đình, dân tộc, quê hương, vợ chồng, anh em, bạn hữu…, bao trùm lên tất cả các quan hệ tình cảm trên là tình yêu của con người dành cho nhau. Yêu tới cùng, yêu mãnh liệt, yêu đến hy sinh bản thân cho đối tượng yêu thương của mình. Đó là một tình yêu thật phát xuất từ khối óc có lý trí, biết suy tư, chọn lựa, từ trái tim biết rung cảm. Khi con người không còn biết yêu thương thì không còn là con người nữa. Chẳng vậy mà khi có ai đó làm chuyện bất nhân người ta kết luận “nó mất hết tính người”. Chỉ nơi con người tình yêu mới được thực hiện phong phú nhất, đẹp nhất và trọn vẹn nhất. Cho nên, không sống yêu thương tức là phủ nhận nhân tính của mình.

Thứ hai, chúng ta phải yêu thương nhau vì “tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa” (1 Ga 4,7). Thiên Chúa đã yêu thương ta trước và tự trở nên gương mẫu của tình yêu cho chúng ta. Ngài đã để máu và nước từ cạnh sườn mình đổ ra để nuôi dưỡng tình yêu nơi trái tim con người, cũng như gội rửa hận thù nơi lương tâm nhân thế. “Thật vậy, chính Đức Giêsu là bình an của chúng ta. Người đã hy sinh thân mình để phá vỡ bức tường ngăn cách là sự thù ghét (Eph 2,14). Mong ước và hy vọng duy nhất của Đức Giêsu không gì khác hơn là “các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương”(Ga15,12). Khi sống yêu thương tức là chúng ta thực hiện chúc thư và nguyện ước ấy, là đáp trả lời mời gọi yêu thương của Ngài, là hoạ lại hình ảnh của Thiên Chúa nơi trần gian, “với dấu này mà người ta sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau”( Ga 13,35), là bày tỏ lòng tin tưởng vào Thiên Chúa – là đường, là sự thật, và là sự sống.

Tóm lại, yêu thương là một hoạt động tự nhiên mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người, và nơi tình yêu ấy ta còn thấy đó là một huyền nhiệm. Bởi không ai có thể sống mà không yêu. Do vậy, khi sống yêu thương chính là lúc ta bày tỏ rực rỡ nhất nhân tính và phẩm giá của một người con Chúa – Đấng yêu thương.

[Mục Lục]

Bài 15. Giới răn mến Chúa và yêu người

Lm. Giuse Nguyễn Trung Điểm

Được một luật sĩ hỏi đâu là giới răn trọng nhất trong lề luật, Đức Giêsu trả lời: “Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”. Những lời nầy chúng ta đã biết đến từ nhỏ và được trích ra ở đầu bản luật Thiên Chúa đã ban cho toàn thể dân Do Thái (xem Đnl 6,5).

Đức Giêsu nói đến “lòng” theo nghĩa của Sách Thánh, như từ ngữ diễn tả thực tại sâu xa nhất của con người. “Yêu mến Chúa hết lòng” nghĩa là hướng toàn thể con người mình và hành động của mình về Thiên Chúa trong thái độ mến yêu.. Để giải thích rõ ràng hơn, Tin Mừng nhắc đến “hết linh hồn”, nghĩa là với tất cả sự sống; “hết trí khôn” bao gồm tư tưởng và trí tuệ. Với những lời nầy, Tin Mừng không để ý đến những khả năng khác nhau của con người, cho bằng nhấn mạnh điều quan trọng duy nhất là yêu mến Chúa với toàn thể con người mình. Trong Sách Thánh, yêu mến Thiên Chúa không bao giờ được coi chỉ là một tình cảm hay một thực tại trừu tượng, mà có nghĩa là lắng nghe Chúa và đem thực hành lời Người dạy.

Khi trả lời cho vị kinh sư, Đức Giêsu tiếp tục nói là điều răn thứ hai là: “yêu mến người thân cận như chính mình”. Điều răn ấy tóm tắt tất cả mọi điều răn khác. Như vậy, lòng yêu mến Chúa không kéo ta ra khỏi thế gian nầy, không cô lập ta trong sự sùng bái riêng tư. Hơn thế, lòng mến yêu ấy là nguồn liên tục và sức thúc đẩy ta yêu mến tất cả mọi người không trừ ai.

Chúng ta có khả năng yêu thương người khác như thế, chính vì chúng ta được Thiên Chúa yêu thương trước: “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Do đó, lòng mến Chúa và yêu người ấy là bảo đảm duy nhất để tạo nên một xã hội trong đó con người được tôn trọng thực sự. Thực thế, Thiên Chúa là Cha của tất cả chúng ta, và chúng ta là anh em với nhau. Người là nền tảng cho sự bình đẳng và phẩm giá của mỗi con người. Lấy đi nền tảng đó, nhân loại sẽ trở thành kỳ thị chủng tộc, con người sẽ bị chà đạp, cách nầy hay cách khác, nơi bản tính của mình; sẽ nẩy sinh sự oán ghét và chia rẽ thành người trên kẻ dưới, kẻ giàu kẻ nghèo, da trắng da đen, đàn ông đàn bà, người tự do người nô lệ, v.v… Trái lại, khi yêu mến Thiên Chúa, chúng ta cũng sẽ yêu mến cha mẹ mình, vì Chúa muốn như vậy. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến bè bạn hay những người cộng sự, bởi vì họ là những anh chị em Chúa đã đặt bên cạnh chúng ta.

Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến nghề nghiệp, công ăn việc làm của mình, bởi vì chúng là con đường mà Thiên Chúa vì yêu thương đã chuẩn bị cho chúng ta. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta cũng sẽ yêu mến việc học hành của mình, bởi vì chúng ta muốn chuẩn bị chu toàn dự định Chúa dành cho đời ta. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến thể thao hoặc những lúc nghỉ ngơi giải trí, bởi vì biết rằng Chúa muốn chúng ta chăm lo cho sức khỏe của mình… Chỉ khi nào yêu mến như vậy, tâm hồn chúng ta mới không bị chia sẻ và lòng yêu mến của chúng ta sẽ không nửa vời.

Qua bí tích Rửa Tội chúng ta được đón nhận vào tình yêu Thiên Chúa. Mỗi lần tham dự Thánh lễ, chúng ta lại được tham dự vào Mình Máu Thánh Đức Giêsu, tham dự vào tình yêu dâng hiến của Người. Được Thánh Thể nuôi dưỡng, chúng ta có khả năng sống yêu thương như Chúa Giêsu dạy.

[Mục Lục]

Bài 16. Mến Chúa và yêu người

Nhóm Sađốc chất vấn Chúa về sự sống lại đã bị Chúa bẻ gẫy không dám hỏi nữa. Nghe vậy bọn biệt phái muốn tấn công lại, cho nên một nhà thông luật đã đưa ra vấn đề để thử Chúa: Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất. Luật Do Thái gồm cả thảy 613 điều được chia thành 248 điều phải làm và 365 điều phải tránh. Đồng thời có những điều nặng và những điều nhẹ. Phạm những điều nhẹ thì chịu phạt đền tội, còn phạm những điều nặng, có thể bị án tử hình. Các nhà thông luật thường tranh luận với nhau xem điều luật nào quan trọng nhất.

Trước vấn nạn được đưa ra, Chúa Giêsu đã trả lời một cách rõ ràng và xác đáng: Ngươi hãy kính mến Chúa hết lòng. Đó là giới răn quan trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là yãy yêu thương anh em như chính mình. Chúa đem điều luật yêu người đặt ngang hàng với luật mến Chúa, đó là điểm đặc sắc trong những lời giảng của Người.

Lời xác quyết của Chúa thật minh bạch. Đi theo chiều hướng ấy, các tông đồ cũng nhấn mạnh, chẳng hạn thánh Gioan đã viết: Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa. Rồi thánh Phaolô cũng căn dặn: Anh em hãy mặc lấy đức ái, đó là giềng mối của sự trọn lành. Như vậy mến Chúa hết lòng và yêu anh em như chính mình, đó là đỉnh cao của sự thánh thiện và đó cũng là việc chúng ta cần thực hiện trong cuộc sống trần gian.

Nên thánh không phải là làm phép lạ, vì có vị thánh suốt đời chẳng làm một phép lạ nào cả. Nên thánh cũng không phải là không phạm tội bao giờ, vì có nhiều vị thánh đã sa ngã nặng nề như thánh Phaolô, thánh Augustinô. Nên thánh cũng không phải chỉ là ăn chay đánh tội, thức khuya dậy sớm, làm mòn mỏi thân xác. Thực hiện được những hy sinh to lớn ấy là điều đáng khen, đáng ca ngợi, nhưng không phải là điều cốt yếu của sự thánh thiện. Nên thánh cũng không hệ tại việc đọc kinh dài, xem lễ rước lễ hằng ngày và cầu nguyện lâu giờ. Những việc đạo đức này thật tốt, song chỉ là những phương tiện giúp chúng ta nên thánh chứ không phải là bản chất của sự thánh thiện.

Vì thế, sự thánh thiện cốt tại lòng mến Chúa và yêu người. Bất kỳ những gì, dù nhỏ bé, kín đáo, tầm thường đến đâu, song được làm vì lòng mến Chúa và yêu người, thì nó sẽ trở nên thánh thiện cho chúng ta. Bởi vậy, thánh Augustinô đã nói: Ama et fac quod vis, hãy yêu mến rồi làm gì cũng được.

Rất tiếc có những người đã uổng công xây căn nhà đạo đức thánh thiện của mình không đúng cách vì không có được lòng mến Chúa yêu người làm nền tảng, cho nên không bao lâu chiếc mặt nạ đạo đức bị rớt xuống, và họ chỉ là những kẻ giả hình, gian dối mà thôi. Chúa không kể thời gian lâu mau. Chúa không xét việc làm to nhỏ. Chúa không coi việc làm vất vả hay nhẹ nhàng, nhưng Chúa đo mọi hành vi chúng ta làm bằng tình yêu, Người dùng mức độ tình yêu để đánh giá và ấn định công trạng đời sống chúng ta. Bởi đó, yêu nhiều là làm nhiều, và làm nên công nghiệp của mình trước mặt Thiên Chúa.

[Mục Lục]

Bài 17. Giới luật thứ nhất và trên hết

Lm. An Phong

Nếu tình cờ có ai hỏi: “Đối với bạn, điều gì quan trọng nhất?”; chắc hẳn sẽ có rất nhiều câu trả lời. Có người sẽ cho rằng đó là chu toàn trách nhiệm; vì ai sinh ra đời cũng đều lãnh nhận trách nhiệm, trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội.

Có người sẽ không ngần ngại trả lời: đó là sống trong sạch; vì quả thật, theo nhà phân tâm học Freud, chúng ta chào đời với đầy những ám ảnh về những cấm kỵ, những cám dỗ về điều răn thứ 6, tội dâm dục…

Người khác lại sẽ cho rằng đó là sự công bằng. Bởi lẽ phải có công bằng trước đã, rồi mới có thể nói đến bác ái, tình yêu. Một xã hội công bằng, đó đã là một điều tuyệt vời lắm rồi.

Và còn có thể có nhiều câu trả lời khác nữa cho câu hỏi này; cũng như người Do Thái khi xưa đã tranh luận mãi về một giới răn trọng nhất.

Đức Giêsu, Ngài tóm tắt điều quan trọng nhất trong một giới luật: “Mến Chúa, yêu người”. Tất cả những câu trả lời khác đều tốt, nếu chúng thể hiện được lòng “mến Chúa yêu người”; và sẽ chẳng là gì nếu chúng không xuất phát từ lòng “mến Chúa yêu người”. Có thể chúng ta đã coi trọng chuyện “nhà thờ nhà thánh” hơn là quan tâm đến một người hàng xóm đang gặp túng quẫn; có thể chúng ta giữ kỹ mọi lề luật, nhưng lại so đo tính toán với Chúa từng ly từng tí… như thế thì còn đâu là “mến Chúa yêu người” được.

Thái độ căn bản của tình yêu là cởi mở, đón nhận. Mở lòng ra với Thiên Chúa và quảng đại đón nhận anh chị em. Mở lòng ra với Chúa để chu toàn những luật lệ đòi buộc ta không làm như người nô lệ; quảng đại đón nhận anh chị em để mối tuơng quan con người với nhau không bị đổ vỡ, méo mó vì những chấp nhất, tỵ hiềm, ganh ghét.

Thánh Phaolô đã diễn tả tình yêu đó như sau: “Đức Mến thì nhẫn nhục, hiền hậu; không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng vui khi thấy sự ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13,4-7).

Chỉ có một điều quan trọng nhất là lòng Mến; nhưng lòng Mến lại được thể hiện trong muôn vàn cách thức khác nhau.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã yêu thương;

và vì tình yêu đó,

Chúa đã dám làm tất cả cho người Chúa yêu.

Xin cho chúng con

cũng được tràn đầy tình yêu như Chúa.

Xin cho chúng con cũng dám vì yêu thương

mà tận tâm phục vụ anh chị em của con.

[Mục Lục]

Bài 18. Mến Chúa yêu người

Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy giới răn thứ nhất đó là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng. Còn giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương anh em như chính mình vậy.

Tuy nhiên đọc lại Phúc âm, chúng ta có cảm tưởng dường như Chúa Giêsu đặc biệt nhấn mạnh tới giới răn thứ hai. Ngài đã coi việc yêu người là cách thức để biểu lộ tình mến Chúa. Thực vậy có lần Ngài đã phán: Mỗi khi lên đền thờ dâng của lễ mà sực nhớ người anh em có điều chi bất bình với ngươi thì hãy để của lễ đó, trở về làm hoà với người anh em mình trước đã rồi mới tới mà dâng của lễ sau. Hơn nữa mỗi hành động bác ái yêu thương chúng ta thực hiện cho người anh em là chúng ta thực hiện cho chính Chúa. Thế nhưng đặc điểm của lòng yêu người là gì? Tôi xin thưa: đó là tinh thần phục vụ. Phục vụ một cách nhưng không, một cách vô vị lợi, không cần đền ơn báo đáp, không mưu cầu danh vọng địa vị hay được bù lỗ cách này cách khác. Chính Chúa Giêsu đã từng làm gương cho chúng ta: Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Tình yêu Ngài dành cho chúng ta thật cao cả, bởi vì Ngài đã hiến mạng sống Ngài cho chúng ta. Hơn thế nữa, Ngài còn đòi hỏi các môn đệ, những kẻ bước theo Ngài cũng phải sống tinh thần phục vụ như thế. Trong bữa Tiệc Ly, sau khi đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, thì Ngài đã nói với các ông: Nếu Thầy đã rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi vào một vấn đề thời sự nóng bỏng trong giáo xứ, đó là vấn đề bầu ban hành giáo. Khi thi hành chức vụ của ban hành giáo, thì một trật chúng ta thể hiện tinh thần phục vụ đối với Chúa cũng như đối với người khác tại cộng đồng giáo xứ. Trong những ngày qua, tôi rất xúc động vì có những bà mẹ, những bà vợ, biết mình không thể ra ban hành giáo được, cho nên đã tích cực động viên chồng con của mình. Một bà vợ thì nói: Tôi rất mừng khi thấy ông ra ứng cử, bởi vì khi đã vào ban hành giáo, ông sẽ đạo đức hơn và chừa bỏ được những thói hư tật xấu của mình. Một bà mẹ thì bảo: Mẹ cho con ăn học và mong con sẽ làm được một cái gì lợi ích cho đời. Thế nhưng dưới một góc độ khác, chúng ta không khỏi lo âu và băn khoăn, vì suốt hơn hai tháng cổ động mà hiện giờ, khu vực Thánh đường Vô Nhiễm vẫn còn khiếm khuyết một ứng cử viên. Trong giáo xứ rất nhiều người hội đủ điều kiện, có dư thiện chí và tinh thần phục vụ, nhưng vì hoàn cảnh, vì lý do này lý do khác, đã không thể ra được. Chúng ta hoàn toàn thông cảm với những anh em có lý do chính đáng. Thế nhưng cũng có những người mạnh miệng tuyên bố, nhưng rồi khi đến việc lại chẳng thấy đâu, cho nên sự thể có những tên gọi vừa khôi hài lại vừa chua chát, chẳng hạn như: chánh lặn, chánh chuồn, chánh né… Như thế xem ra phục vụ bằng mồm thì dễ hơn phục vụ bằng hành động, bằng việc làm. Một trong những lý do thường được đưa ra để chuồn, để lặn, để né đó là bà xã. Thực sự thì hiện nay, gia đình nào mà chẳng có những khó khăn, đã ra gánh vác việc chung thì thế nào cũng phải chấp nhận hy sinh một phần công việc nhà. Mà các bà thì vốn tham lam, muốn độc quyền, không muốn ông xã của mình bị chia sẻ, bị hy sinh, cho nên đã ngáng chân, đã làm kỳ đà cản mũi, để ông xã đừng ra. Bởi vì nếu ông xã mà ra, sợ ông ấy quá siêng năng việc chung mà bê trễ việc riêng, nhất là những khi mùa màng dồn dập, cho nên khi có người đến vận động thì tay chân dãy lên đành đạch và miệng thì chối bai bải. Hành động như thế, chứng tỏ chúng ta thiếu tinh thần phục vụ, thiếu trách nhiệm chung, cũng như thiếu tin tưởng vào Chúa, bởi vì Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi những kẻ phục vụ Ngài. Bằng chứng cụ thể là rất nhiều vị chánh, vị phó, vị trùm, vị quản trong những năm phục vụ giáo xứ, kinh tế gia đình vẫn không bị suy giảm, mà hơn nữa lại còn tậu đất, sắm tivi cassette, mua máy bơm, máy suốt cũng như máy cày, như vậy cũng vẫn ăn nên làm ra, cả về tiền bạc cũng như về con cháu.

Để kết luận tôi xin mượn lời kinh hoà bình của thánh Phanxicô Assie: Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.

[Mục Lục]

Bài 19. Yêu thương

Ngày xưa có một hoàng tử trẻ sống trong lâu đài tráng lệ. Vào một đêm mùa đông, một bà lão ăn xin lỡ đường, muốn trọ qua đêm, đã bị hoàng tử từ chối. Chẳng may, bà lão lại là một bà phù thủy. Để phạt tội hoàng tử không có lòng thương người, bà đã biến chàng thành một con mãnh thú, hình tượng xấu xí và hung dữ. Trước khi ra đi, bà cho con mãnh thú một lời hứa sẽ biến trở lại thành hoàng tử nếu có ai thực sự yêu thương mãnh thú.

Trong ngôi làng gần chỗ con mãnh thú ở, có một thiếu nữ xinh đẹp tên là Belle. Cô mồ côi mẹ, sống với cha già. Cha già con mọn bị đám thợ săn thường xuyên quấy phá. Một ngày nọ, cha cô vào rừng săn thú, đi lạc vào lâu đài, bị mãnh thú bắt giữ. Nhờ con ngựa khôn ngoan đã dẫn cô tìm được cha. Vì thương cha, cô chấp nhận đổi mạng, ở lại sống với con mãnh thú để người cha được tự do ra về.

Về đến nhà, người cha đã kết hợp với bọn thợ săn tìm cách giết con mãnh thú để cứu con gái. Trong khi đó cô gái bắt đầu quen thân, trò chuyện và đem lòng yêu mến mãnh thú, tuy rất đau khổ phải xa cách người cha. Còn mãnh thú vì yêu thương cô gái, không nỡ để cô sống trong đau khổ, nên đã đồng ý thả cô về nhà với cha. Chiến trận ác liệt đã xảy ra giữa bọn thợ săn và con mãnh thú. Đang khi giao chiến với bọn thợ săn, mãnh thú bị thương nặng. Sau khi về thăm cha già, cô gái thương nhớ con mãnh thú và quyết định trở lại tiếp cứu. Cô đến đúng khi mãnh thú bị thương, đang quằn quại trong đau đớn. Cô năn nỉ: “Không! Xin đừng chết! Mãnh thú ơi ta yêu mi!” Rồi cô ôm hôn lên mặt mãnh thú. Nhờ nụ hôn yêu thương đó, mãnh thú biến trở lại thành một hoàng tử khôi ngô tuấn tú như trước. Đó là câu chuyện tình đẹp đẽ được tóm lược trong cuốn phim hoạt hình “The Beauty and the Beast”, “Mãnh Thú và Giai Nhân”.

Câu chuyện trên nói lên sức mạnh cứu độ của tình yêu. Tình yêu có khả năng giải thoát và biến đổi con người. Thật vậy! Hầu hết những vấn đề rắc rối và thảm kịch xẩy ra trên thế giới đều do thiếu tình thương. Rất nhiều phạm nhân đã gây nên tội ác chỉ vì không thể ban tặng hay đón nhận tình yêu thương.

Điều mỗi con người đều khao khát, ước ao và cần đến là tình yêu. Thánh Kinh dạy rằng,:Thiên Chúa là Tình Yêu”. Tình yêu là bản chất của Thiên Chúa. Và bởi con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, nên cũng luôn khát khao và tìm kiếm tình yêu. Dựa trên nhu cầu căn bản này của con người, trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy cho những người Biệt phái biết điều răn duy nhất của đức ái, sự viên mãn của lề luật: “Yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn…” Điều răn thứ hai là:”Yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”.

Câu chuyện được kể về một đôi vợ chồng tới gặp cha sở và nói: “Thưa cha, chúng con sắp ly dị, nhưng chúng con muốn xin cha cho chúng con biết ý kiến?” Cha sở suy nghĩ giây lát rồi quay sang hỏi người chồng: “Thánh Kinh dạy rằng con phải yêu thương vợ con như Chúa Giêsu Kitô đã yêu thương Hội Thánh. Con có thể thực hành được điều đó không?” Người chồng thưa: “Thưa không. Con không nghĩ con giữ được điều đó”. Cha sở nói: “Vậy thì con hãy bắt đầu ở mức độ thấp hơn vậy. Thánh Kinh dạy rằng con phải yêu thương người lân cận như yêu chính mình. Con có thể yêu thương vợ con một cách tối thiểu như vậy được không?” Người chồng nói, “Thưa cha không. Điều này cũng còn quá cao!” Một cách tuyệt vọng, sau cùng cha sở đành nói: “Thánh Kinh cũng dạy rằng, con hãy yêu thương kẻ thù của con, thôi con hãy về nhà và bắt đầu từ đó đi!”

Nhóm Biệt phái, đa số gồm các luật sĩ, chủ trương phải tuân giữ các luật lệ của Cựu Ước và cộng thêm khoảng 613 luật lệ do truyền thống của các thầy Rabbi. Còn nhóm Sađđucêô chỉ tin vào các luật lệ và các tiên tri mà thôi, không tin vào truyền thống của các thầy Rabbi. Câu hỏi được đặt ra cho Chúa Giêsu: “Trong luật lệ, giới răn nào quan trọng nhất?” đã được tranh cãi giữa những người Biệt phái và Sađđucêô. Âm mưu của nhóm người Biệt phái nhằm gài bẫy Chúa Giêsu vào những trường hợp xung khắc khó giải quyết giữa các phe nhóm tôn giáo và chính trị để tiêu diệt Ngài. Tâm hồn họ mang nặng thù hận và ích kỷ đang khi bề ngoài giả vờ bàn hỏi về những giới luật yêu thương!

Chàng ca sĩ nhạc pop, Cliff Richard sau một chuyến viếng thăm trại tị nạn Bihari ở Bangladesh trở về nhà đã kể lại một biến cố cảm động như sau: “Buổi sáng đầu tiên ở trại tị nạn, tôi phải rửa tay hàng chục lần. Tôi đã không dám đụng vào bất cứ cái gì, nhất là dân chúng. Mọi người ở trong những trại tị nạn đó đều bị ghẻ lở. Toàn thân đầy mụn nhọt. Tôi đang cúi xuống với một em bé gái, mục đích chính chỉ là chụp vài tấm hình để phô trương với bè bạn. Tôi đã cố gắng hết sức đừng cúi xuống quá gần kẻo đụng chạm vào người em. Ngay lúc ấy, một người nào đó tình cờ đạp lên những ngón chân của em. Bé gái hét lên, và như một phản xạ, tôi nắm lấy em, quên đi sự bẩn thỉu dơ dáy và đầy mụn nhọn trên người em. Tôi nhớ mãi một thân hình nhỏ bé và ấm áp bám chặt vào tôi, ngay lập tức tiếng khóc ngưng bặt. Từ đấy, tôi biết rằng tôi còn phải học hỏi rất nhiều điều thực tế về tình yêu Kitô giáo, nhưng tối thiểu gì tôi cũng đã bắt đầu.

Một nhà tâm lý học nổi tiếng đã đưa ra nhận xét rằng việc yêu thương một người khác là điều thử thách lớn nhất trong mọi sinh hoạt của con người, vì nó đòi hỏi phải hy sinh và từ bỏ bản thân mình. Chính vì những đòi hỏi này nên có nhiều người đã chưa bao giờ yêu người khác một cách thực sự. Hoặc có thể đã yêu, nhưng sau đó gặp đau khổ, họ đã tháo lui. Để thực sự yêu thương một người khác ở mức độ sâu xa, cần phải có sức mạnh để tiến tới việc chia sẻ chính cuộc sống của mình. Đó chính là tình yêu hướng về Thiên Chúa và tha nhân được Chúa Giêsu đề cập đến.

[Mục Lục]

Bài 20. Lạy Chúa, xin giúp con yêu mến Chúa

Có lẽ các bạn đã nghe bài thơ “Cây cối” kết thúc với những lời “Những bài thơ được làm do những người ngốc như tôi, nhưng chỉ Thiên Chúa có thể tạo dựng được một cây”. Tác giả của bài thơ đó theo đạo công giáo lúc 27 tuổi. Ông là một văn sĩ nhạy cảm, cởi mở và đơn sơ, lấy những vật thông thường như thảo mộc và nói lên vẻ đẹp của chúng. Ong tòng quân vào thời thế chiến thứ nhất và đã bị giết đi khi thi hành nghĩa vụ vào tuổi 32, để lại người vợ và gia đình. Tinh thần tôn giáo sâu sắc của Klmer đạt tới sung mãn trong đức tin công giáo. Ông yêu mến và sống đức tin ấy. Những bức thư ông gửi cho vợ, cũng là một thi sĩ, cho các con và bạn hữu đầy tràn những hiểu biết thiêng liêng. Trong một bức thư ông viết có một cái gì rất gần với Tin Mừng hôm nay: “Hãy cầu nguyện cho tôi được yêu mến Chúa hơn. Đối với tôi, nếu tôi có thể yêu mến Chúa mãnh liệt hơn, kiên trì hơn mà không sao nhãng thì thật không có gì khác đáng kể… Tôi đạt được niềm tin do cầu xin ơn ấy. Tôi hy vọng đạt được lòng yêu mến cũng bằng cách đó”.

Bao nhiêu người trong chúng ta đã xin Chúa giúp chúng ta yêu mến Ngài? Yêu mến là một hồng ân do chính Thiên Chúa. Có nhiều người nghĩ lầm rằng chúng ta có thể tiến triển trong lòng yêu mến Chúa do những nỗ lực của chính mình, rằng hoàn toàn tùy thuộc ở cách chúng ta học biết yêu mến Thiên Chúa. Chắc chắn là chúng ta cần làm mọi sự có thể để thực thi lệnh truyền Chúa Kitô: “Hãy kính mến Thiên Chúa là Chúa con”. Nhưng trên hết và vượt mọi nỗ lực của chúng ta, hồng ân này sẽ được ban cho chúng ta khi chúng ta cầu xin cùng cha chúng ta trên trời.

Chúng ta muốn ám chỉ điều gì khi nói “Yêu mến Chúa?” Đây là định nghĩa có giá trị giúp ta hiểu. Yêu mến Chúa nghĩa là ao ước làm vui lòng Chúa. Lệnh truyền của Chúa Kitô có thể đọc là: “Con hãy ao ước làm vui lòng Chúa”. Yêu mến tha nhân có nghĩa là ao ước làm điều thiện hảo cho họ. Chúng ta không thể “làm điều thiện hảo” cho Chúa, nhưng chúng ta có thể ao ước làm vui lòng Ngài. Chúng ta có thể và phải làm điều thiện hảo cho tha nhân. Một trong những cách tốt nhất để làm vui lòng Chúa là làm điều thiện hảo cho tha nhân. Đã có những lần Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: ai yêu mến Chúa thì tuân giữ giới răn của Ngài. Cách đây vài Chúa nhật, chúng ta đã thấy rằng giới răn của Chúa là bằng chứng tình yêu của chúng ta đối với Ngài.

Bạn đến tham dự Thánh lễ bởi vì Thiên Chúa được vui lòng khi bạn tôn thờ Ngài. Bạn năng rước lễ bởi vì Thiên Chúa muốn ở với bạn. Bạn cầu nguyện bởi vì Thiên Chúa được vui lòng khi bạn thưa chuyện với Ngài. Bạn tôn kính danh thánh Chúa bởi vì điều đó làm viu lòng Ngài. Bạn thảo kính cha mẹ bởi điều đó là vui lòng Chúa. Bạn tôn trọng sức khỏe và đời sống của tha nhân bởi vì điều đó làm vui lòng Chúa. Bạn tôn trọng năng lực của phái tính vì điều đó làm vui lòng Chúa. Bạn tôn trọng quyền lợi của tha nhân đối với của cải của họ, danh thơm tiếng tốt, vợ con họ, bởi vì điều đó làm vui lòng Chúa.

Thưc hiện những điều này là yêu mến Thiên Chúa. Và để thực hành những điều này, chúng ta cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa, chúng ta phải xin Ngài giúp đỡ như Kilmer đã làm, như các thánh đã làm. Bạn hãy cầu xin như trong lời nguyện nhập lễ: “Xin cho chúng con được thêm lòng tin cậy mến, và biết yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy”.

Lạy Chúa, con muốn làm vui lòng Chúa. Xin Chúa giúp con làm vui lòng Chúa

Xin Chúa chúc lành cho các bạn.

[Mục Lục]

Bài 21. HAI GIỚI RĂN THÀNH MỘT

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

Từ Cựu Ước cho tới Tân Ước, Thiên Chúa chỉ muốn mạc khải cho con người biết Người là Tình Yêu. Vì là Tình Yêu nên Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ vạn vật và con người. Vì là Tình Yêu nên đã sai Con Một đến trần gian để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Thiên Chúa chỉ mong đợi một điều là loài người nhận ra:

* Người là Vị Thần Linh đáng được yêu mến trên hết mọi sự.

* Con người, vì đã được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, giống như Thiên Chúa, và đã được Con Thiên Chúa chết trên thập giá để cứu chuộc, nên đáng được đồng loại yêu thương như chính bản thân mình.

Cốt yếu của Đạo Mạc Khải là ở đó! Hai giới răn quan trọng nhất của Ki-tô giáo là mến Chúa và yêu người đã thành một.

II. NGHE/ĐỌC LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH

2.1 Bài đọc 1: Xh 22,20-26: Nếu các ngươi ức hiếp mẹ góa con côi, thì cơn giận của Ta sẽ bốc lên chống lại các ngươi.

2.2 Bài đọc 2: 1 Tx 1,5c-10: Anh em đã từ bỏ ngẫu tượng, để phụng sự Thiên Chúa và chờ đợi Con của Người.

2.3 Bài Tin Mừng: Mt 22,34-40: Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi và yêu ngưởi thân cận như chính mình.

III. KHÁM PHÁ DUNG MẠO VÀ GIÁO HUẤN CỦA THIÊN CHÚA

3.1 Dung Mạo của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?):

Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:

* Là Đấng đã đặc biệt quan tâm đến những người ngoại kiều và những thành phần bé nhỏ, bất hạnh (mẹ góa con côi) trong xã hội Ít-ra-en. Có thể nói Thiên Chúa muốn cho dân Ít-ra-en hiểu rằng Người luôn bảo vệ “quyền” của những người sa cơ lỡ vận trong xã hội và đứng ra bênh vực họ mỗi khi họ bị khinh khi áp bức. Lời kêu cứu của những người này như có sức mạnh làm Thiên Chúa động lòng và khiến Thiên Chúa phải hành động (bài đọc 1).

* Là Chúa Giê-su, Đấng đã hòa nhập và tóm kết hai giới răn [mến Chúa yêu Người] thành một giới răn duy nhất, một cách hết sức tài tình và đầy quyền uy (bài Phúc âm), khiến từ nay, ai không yêu người thân cận thì khó mà nói được là mình yêu Chúa! Điều Chúa Giê-su còn muốn chúng ta quan tâm là CÁCH chúng ta được mời gọi mến Chúa và yêu người thân cận. Mến Chúa thì mến “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn.” Còn yêu người thân cận thì yêu “như chính mình.”

* Là Chúa Thánh Thần, Đấng hiện diện và hành động cùng Chúa Cha và Chúa Giê-su trong cách hành xử và giáo huấn của Thiên Chúa. Người cũng là Đấng tác động và giúp đỡ các Ki-tô hữu hiểu và thực hành giới răn kép (mến Chúa và yêu người) là tổng hợp cả luật Môsê và các sách ngôn sứ.

3.2 Giáo Huấn của Thiên Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?):

Giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa là thực hành giới răn: Mến Chúa yêu người:

“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi.” và

“Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (Mt 22,37.39).

IV. ĐÁP LẠI THIÊN CHÚA

Để thực hiện giáo huấn của Lời Chúa hôm nay,

* Trước hết mỗi người chúng ta phải hiểu

- thế nào là “yêu mến Thiên Chúa, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”

- thế nào là “yêu người thân cận như chính mình.”

“Yêu mến Thiên Chúa hết lòng” là yêu mến Thiên Chúa với tất cả tình cảm chân thật và sâu đậm;

“Yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn” là chỉ có một mình Thiên Chúa làm chủ và ngự trị linh hồn mình mà thôi;

“Yêu mến Thiên Chúa hết trí khôn” là vận dụng mọi khả năng trí tuệ, mọi hiểu biết, kiến thức mà phụng thờ Thiên Chúa;

Còn “yêu người thân cận như chính mình” là yêu mình thế nào thì yêu người thân cận thế ấy! Người thân cận không hẳn chỉ là những người sống bên cạnh chúng ta mà chính yếu là những người cần đến chúng ta giúp đỡ, mong được chúng ta phục vụ.

* Kế đến mỗi người phải thường xuyên “tự kiểm” xem mình đã yêu Chúa và yêu người như Chúa dậy chưa? Cụ thể là nhìn xem mình đã dành bao nhiêu thời gian, sức lực và khả năng cho việc phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ những người cần đến mình?

V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH

5.1 «Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi.» Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện cho mọi dân mọi nước biết kính sợ và thờ phượng Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng và Cứu Độ.

X. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Đ. Xin Chúa nhận lời chúng con.

5.2 «Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.» Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện cho mọi thành phần Dân Chúa, nhất là cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho Thượng Hội Đồng Giám mục thế giới đang nhóm họp tại Va-ti-can, cho các Giám mục, Linh mục và Tu sĩ nam nữ, để mọi người thực hành giới răn kính Chúa yêu người một cách nghiêm chỉnh và quyết liệt.

5.3 «Người ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-cập» Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người di dân nội địa hay từ nước mình đến nước khác, để họ được các chính quyền và mọi người tôn trọng và giúp đỡ và có cuộc sống an vui hạnh phúc nơi đất khách quê người.

5.4 «Mẹ góa con côi, các ngươi không được ức hiếp» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các thành phần bất hạnh, neo đơn, nghèo nàn, bị áp bức, khinh khi trong xã hội để họ gặp được những người Sa-ma-ri nhân hậu ra tay trợ giúp cho đời sống vật chất và tinh thần của họ được no đủ và thoải mái.

[Mục Lục]

Bài 22. CỐT LÕI CỦA LỀ LUẬT

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Nhóm Pharisiêu liên minh với nhóm Hêrôđê gài bẫy Chúa Giêsu về vấn đề nộp thuế cho Cêsarê. Họ đã thất bại.

Nhóm Pharisiêu lại tiếp tục liên kết với nhóm Xađốc gài bẫy lần nữa: Có bảy anh em trai cùng lấy một người vợ, ngày tận thế khi sống lại, người đàn bà đó là vợ của ai trong bảy anh em?. Họ cũng thất bại.

Chưa chịu thua. Lần này, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại, họ chọn ra một người thông luật để tranh luận với Chúa Giêsu: Thưa Thầy, trong lề luật giới răn nào trọng nhất?. Đây là một câu hỏi hóc búa, bởi vì đạo Do thái có rất nhiều khoản luật mà luật nào cũng đều quan trọng cả.Luật Do thái có tất cả 613 điều luật khác nhau, trong đó có 365 điều luật cấm và 248 luật phải giữ. Điều răn nào quan trọng nhất? Sở dĩ họ đặt câu hỏi này với Chúa Giêsu là vì một phần vì họ không nhất trí đựơc với nhau, phần vì muốn thử Chúa Giêsu để mong đặt Người vào thế bí không thể giải quyết được.

Chúa Giêsu đã trả lời thật tuyệt vời: Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi hết lòng hết linh hồn hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và là điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn này là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.

Như thế trong 613 điều luật, Chúa Giêsu đã chọn lọc ra hai điều luật quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người từ sách Đệ Nhị Luật (Đnl 6,5) và sách Lêvi (Lv 19,18). Người liên kết hai điều đó lại: mến Chúa thì phải yêu người, yêu người thì phải mến Chúa. Cả hai điều ấy có thể tóm lại thành một điều duy nhất là yêu thương. Yêu thương là cốt lõi của tất cả mọi khoản luật khác.

Suốt cuộc đời, Chúa Giêsu đã làm chứng về sự quan trọng của hai luật đó. Người không chỉ làm chứng bằng lời giảng dạy mà còn bằng chính cuộc sống và cái chết của mình.

Yêu Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn. Lòng mến Chúa phải toàn diện, liên quan đến trái tim, linh hồn và cả khối óc của con người.Tình yêu ấy phải là động lực thúc đẩy tất cả mọi hoạt động tinh thần cũng như thể xác. Chúa Giêsu đã yêu mến Chúa Cha, luôn sống đẹp lòng Cha, luôn dành thời giờ cầu nguyện tâm sự với Cha. Chấp nhận cuộc khổ nạn và cái chết thập giá bởi lòng yêu mến Cha và yêu thương nhân loại.

Yêu người thân cận như chính mình. Điều răn này cũng quan trọng ngang với điều răn thứ nhất về lòng mến Chúa, vì lòng yêu người phát xuất từ lòng mến Chúa và cũng cần thiết như lòng mến Chúa vậy. Đọc Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu thể hiện lòng yêu mến đối với hết mọi người.

- Với người ngoại giáo Samaria, trước đây người Do thái xa lánh khinh khi, nay Chúa gần gũi trân trọng.

- Với người tội lỗi, trước đây người Do thái kết án loại trừ, nay Chúa liên kết tìm về.

- Với người thù địch, trước đây người Do thái báo oán tiêu diệt, nay Chúa cầu nguyện làm ơn.

- Với người nghèo, trước đây người Do thái dửng dưng coi thường, nay Chúa chăm sóc tôn trọng.

- Với người anh em, trước đây người Do thái vị kỷ nhỏ nhen, nay Chúa vị tha quảng đại.

Chúa Giêsu đã sống tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người thật tuyệt hảo. Người còn ban thêm điều răn mới: Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Yêu thương nhau như Thầy đã yêu. Yêu Chúa và yêu người có một động từ chung là yêu. Đối tượng của động từ yêu này có vẻ khác biệt nhưng lại không phân biệt. Hai điều răn ấy tuy hai mà một, giống như hai trang của cùng một tờ giấy, tuy hai mặt khác nhau nhưng cũng chỉ là một tờ giấy duy nhất. Yêu người là yêu Chúa và yêu Chúa là yêu người. Người Kitô hữu có đức tin sẽ nhìn thấy Thiên Chúa nơi anh chị em mà mình gặp gỡ hàng ngày, yêu Chúa nơi họ.

Hai điều răn mến Chúa, yêu người không thể tách rời nhau.Yêu Thiên Chúa chắc chắn dẫn đến yêu tha nhân.Tình yêu tha nhân cần đặt nền trên lòng yêu mến Thiên Chúa.Người Kitô hữu đi từ nhà thờ ra nơi cuộc sống rồi từ cuộc sống đi vào nhà thờ.Ngoài cuộc đời, họ gặp Chúa nơi anh em.Trong nhà thờ, họ gặp anh em nơi Chúa.Thánh Gioan đã nói: Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy (1Ga 4,20). Do đó, “ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình” (Ga 4,21).

Chủ đề Sứ điệp Truyền Giáo năm 2011 của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI là: “Hãy yêu người lân cận như chính mình” (Mt 23,39). Khi yêu thương người lân cận là chúng ta yêu thương Chúa. Yêu thương người lân cận là thước đo tình yêu của người tín hữu đối với Chúa. Sứ điệp viết: “Một trong các mục tiêu của Ngày Thế Giới Truyền Giáo là …giúp cải thiện cuộc sống cho những người đang sống trong các quốc gia nghèo khổ, đói kém, nhất là các trẻ em suy dinh dưỡng, bệnh tật, thiếu chăm sóc y tế và giáo dục là những công tác quan trọng nhất. Tất cả các công việc này đều đi kèm với sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội. Khi loan báo Tin Mừng, Giáo Hội sống gắn bó với cuộc sống con người theo nghĩa rộng nhất”.

Sứ điệp Truyền Giáo năm 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi: “Niềm vui của Tin Mừng phát sinh từ việc gặp gỡ Đức Kitô và việc chia sẻ với người nghèo. Vì lý do này, tôi khuyến khích các cộng đoàn giáo xứ, các hội đoàn và các nhóm hãy sống một đời sống huynh đệ đậm đà, đặt nền trên tình yêu đối với Đức Kitô và quan tâm tới các nhu cầu của những người yếu thế nhất. Ở đâu có niềm vui, sự phấn khởi và ước muốn đem Đức Kitô đến với người khác, ở đấy sẽ phát sinh nhiều ơn gọi đích thực…loan báo Tin Mừng cho nhân loại cần dựa trên tình thương.” (Số 4 và 5).

Mẹ Têrêxa Calcutta đã sống lời Chúa Giêsu dạy: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,34). Mẹ Têrêxa đã thực thi lời Thánh Phaolô: ”Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái, vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy”(Rm 13,8-10).

Mẹ Têrêxa đã sống điều răn yêu thương cách trọn vẹn. Mẹ nhìn thấy Chúa trong những người phong cùi. Mẹ gặp Chúa nơi những người bần cùng khốn khổ. Mẹ yêu Chúa trong những con người bất hạnh. Mẹ tận tình chăm sóc họ. Mẹ dạy các nữ tu: “Con thấy linh mục nâng niu trân trọng Mình Thánh Chúa trong thánh lễ ra sao thì con hãy làm như thế đối với người cùng khổ.”

Mẹ Têrêxa yêu mến Chúa hịên diện trong những người nghèo khổ. Mẹ đã yêu Thiên Chúa trong con người. Tông huấn Giáo hội tại Á châu dạy: “ Việc công bình, bác ái và thương xót phải gắn bó mật thiết với đời sống cầu nguyện và chiêm niệm đích thực, và thật vậy, chính cũng một tu đức này là nguồn suối của mọi công trình rao giảng Tin mừng của chúng ta”. Mẹ Têrêxa là nhà truyền giáo “chiêm niệm trong hành động”.

Linh đạo truyền giáo của Mẹ Têrêxa chính là cầu nguyện vàyêu thương. Nét đặc sắc của cuộc đời truyền giáo Mẹ Têrêxa là niềm vui nội tâm phát xuất từ đức tin thể hiện qua đời sống yêu thương phục vụ. Mẹ được Giáo hội phong Chân Phước. Mẹ là một vị thánh của thời đại. Mẹ được người đời xem là vĩ nhân. Mẹ được mọi người trên thế giới này yêu mến, cả những người Hồi giáo, Ấn giáo, Cộng sản…

Truyền giáo là nói về Chúa Giêsu cho người khác nghe; sống như Chúa Giêsu cho người khác thấy. Truyền giáo là giới thiệu Chúa Giêsu Kitô cho mọi người bằng chính cuộc sống phục vụ và yêu thương của chúng ta.

Truyền giáo là nói về Chúa Giêsu cho mọi người biết bằng chính cuộc sống yêu thương của mình. Truyền giáo khởi sự bằng cuộc sống và con tim. Cuộc sống và con tim đòi hỏi các môn đệ Chúa Kitô sống có tấm lòng “yêu người lân cận như chính mình”.

Sống linh đạo truyền giáo của Mẹ Têrêxa là yêu mến Thiên Chúa trong con người, chúng ta sẽ giới thiệu cho tha nhân Đạo Chúa là “Đạo những người yêu nhau”, một Đạo rất đẹp, rất bác ái.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho nhân loại hai giới răn quan trọng nhất là yêu Chúa và yêu người.

Xin dạy chúng con biết sống tâm tình biết ơn về những hồng ân Chúa ban, xin cho chúng con biết yêu mến và phụng sự Chúa trong mọi người. Xin dạy chúng con nhận ra hình ảnh Chúa nơi anh em để chúng con yêu Chúa và yêu người với tâm hồn bác ái rộng mở. Amen.

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 1 trong 1 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận