Thứ hai tuần 1 mùa chay.

Đăng lúc: Thứ hai - 23/02/2015 02:55 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
THỨ HAI TUẦN 1 MÙA CHAY.

“Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta”.

Bài đọc I: Lv 19, 1-2.11-18
1 Đức Chúa phán với ông Mô-sê rằng : 2 “Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và bảo chúng : Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh.
 
11 Các ngươi không được trộm cắp, không được nói dối, không được lừa gạt đồng bào mình. 12 Các ngươi không được lấy danh Ta mà thề gian : làm thế là (các) ngươi xúc phạm đến danh Thiên Chúa của (các) ngươi. Ta là Đức Chúa. 13 Ngươi không được bóc lột người đồng loại, không được cướp của ; tiền công người làm thuê, ngươi không được giữ lại qua đêm cho đến sáng. 14 Ngươi không được rủa người điếc, đặt chướng ngại cho người mù vấp chân, nhưng phải kính sợ Thiên Chúa của ngươi, Ta là Đức Chúa. 15 Các ngươi không được làm điều bất công khi xét xử : không được thiên vị người yếu thế, cũng không được nể mặt người quyền quý, nhưng hãy xét xử công minh cho người đồng bào. 16 Ngươi không được vu khống những người trong dòng họ, không được ra toà đòi người đồng loại phải chết. Ta là Đức Chúa. 17 Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó. 18 Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Ta là Đức Chúa.

 
 
Lời Chúa: Mt 25, 31-46
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta”. Khi ấy người lành đáp lại rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?” Vua đáp lại: “Quả thật, Ta bảo các ngươi: Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta”.
“Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: “Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!” Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?” Khi ấy Người đáp lại: “Quả thật, Ta bảo cho các ngươi biết, những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta”. Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu”.
 

SUY NIỆM 1: Thiên đàng của bác ái.
Một đêm trăng nọ, nhìn qua cửa sổ, một tu sĩ già bỗng nhìn thấy một thiên thần đang ngồi viết trên một cuốn sách vàng. Lòng tràn ngập hân hoan, vị tu sĩ rón rén đến gần và lên tiếng hỏi:
- Ngài đang viết gì trong quyển sách này thế?
 Thiên thần trả lời:
- Ta đang ghi danh những ai yêu mến Thiên Chúa.
Vừa lo lắng, vừa hồi hộp, vị tu sĩ mới hỏi xem tên của mình có trong sách không.
Thiên thần giở từng trang, chăm chú đọc từng hàng, nhưng không thấy tên ông.
Thế nhưng điều đó không làm vị tu sĩ thất vọng, ông nói với thiên thần:
- Xin Ngài vui lòng ghi tên tôi như một thầy dòng lúc nào cũng yêu mến tha nhân.
Thiên thần chiều ý ông, thế là tên ông được ghi vào sổ vàng.
Tối hôm sau, thiên thần lại hiện ra và mở quyển sổ vàng cho vị tu sĩ xem, lần này ông thấy tên mình dẫn đầu danh sách những người yêu Chúa.
Sau khi vị tu sĩ gia qua đời, xem lại nhật ký của ông, người ta thấy dòng chữ đầu tiên trong nhật ký chính là câu trích dẫn thư 1 Ga 4,20: “Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối, vì kẻ không yêu mến người anh em nó thấy đó, tất không thể yêu mến Thiên Chúa mà nó không thấy”. Tiếp theo lời trích dẫn vị tu sĩ ghi chú: “Tôi đi tìm kiếm linh hồn tôi, nhưng tôi không thấy; tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt thoát khỏi tôi; tôi đi tìm người anh em, tôi đã gặp được Thiên Chúa và linh hồn tôi”.
Từ khởi đầu, dường như Thiên Chúa đã muốn tạo dựng cho con người một thiên đàng vĩnh cửu trên trần gian này. Trong cơn gió nhẹ của mỗi buổi chiều tà, Thiên Chúa đến truyện vãn với con người, đó là hình ảnh một hạnh phúc vô biên mà con người có thể hưởng nếu ngay từ trần gian này. Thế nhưng khi con người chối từ mối liên lạc với Thiên Chúa và chối bỏ chính mình, con người cũng đánh mât hạnh phúc ấy. Ngôi Hai Thiên Chúa đã đến để tái lập thiên đàng tại thế ấy cho con người, Ngài nói với con người rằng con người sẽ có được thiên đàng ấy khi nó biết xây dựng sự hài hoà với Thiên Chúa và với con người. Và vì Thiên Chúa tự đồng hoá với con người, nên chính trong sự hài hoà với tha nhân, con người gặp gỡ Thiên Chúa và tìm lại được thiên đàng đã mất.
Có biết bao ý thức hệ và triết thuyết hứa hẹn cho con người một thiên đàng tại thế, nhưng thứ thiên đàng ấy đã khong bao giờ đền, mà thay vào đó chỉ là hoả ngục của hận thù và chết chóc mà thôi. Làm sao có thể xây dựng được thiên đàng khi người ta chối bỏ hay chà đạp tha nhân, làm sao có thiên đàng khi người ta lấy hận thù làm men cho xã hội. Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó là thiên đàng, nhưng ở đâu có tha nhân thì ở đó cũng có Thiên Chúa, bởi vì con người là hình ảnh của Thiên Chúa. Mỗi gặp gỡ với tha nhân, mỗi nghĩa cử làm cho tha nhân là một bước tiến vào thiên đàng ngay từ cuộc sống này.
Xin cho chúng ta cảm nếm được hạnh phúc đích thực khi phục vụ tha nhân, và xin cho chúng ta luôn ý thức tha nhân chính là nơi chúng ta có thể gặp gỡ Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
 
SUY NIỆM 2: Người bên phải, kẻ bên trái
Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trườc mặt Người và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Đức Vua mới phán với người đứng bên phải rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm.” Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? có bao giờ chúng con thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu?” Để đáp lại Đức Vua sẽ bảo rằng: “Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, thì các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. (Mt. 25, 31-40)
Thánh Mát-thêu trình bày cho chúng ta cảnh phán xét ngày tận thế không mấy ngoạn mục: không động đất, không có mặt trời tối tăm, không có những vì sao tắt sáng. Chỉ mình Đức Giê-su trong vinh quang đến ngự trên ngai, dấu chỉ uy quyền phán xét của Người. Uy quyền của Người bao trùm khắp muôn phương: các thiên thần hầu cận, các dân thiên hạ tập hợp trước dung nhan Người. Người ta nghĩ đến có việc gì xảy ra quyết liệt lắm, sau đó không còn xảy ra như thế nữa. Hành động đầu tiên của Con Người là phân tách khối người đó ra: bên phải là kẻ lành, bên trái là kẻ dữ, ở giữa là khoảng trống. Hành động phân chia này thiết lập nên sự phán xét. Sau đó là những lời giải thích về việc phán xét. Việc phán xét không theo chủng tộc như quan niệm Do thái, nhưng theo đời sống luân lý của mỗi người.
Để thưởng cho các người lành bên phải, Đức Giê-su đã phán rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc hãy đến hưởng nước trời …”. Để phạt kẻ dữ bên trái, Người phán: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời. Nước trời trước hết là ở gần Thiên Chúa. Còn lửa đời đời là xa lìa Thiên Chúa. Hai nơi đối nghịch nhau đều là đích cuối cùng sau một cuộc sống lâu dài mà Thiên Chúa hằng kiên nhẫn chờ đợi. Con Người chỉ đến phán xét và chấm dứt lịch sử thế giới sau một thời gian Thiên Chúa kiên trì tìm kiếm cứu chuộc loài người.
Những lý do xét xử là những nhu cầu trước mắt: đói, khát, trần truồng, tù đầy, đau yếu. Người lành và người dữ đều ngạc nhiên hỏi: “Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, trần truồng, đau yếu, ngồi tù đâu? Để đáp lại, Chúa đáp: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những kẻ bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Vậy được hưởng nước trời hay bị vào lửa đời đời chính là tiếp đón hay từ chối giúp đỡ Đức Giê-su Ki-tô hiện diện trong một kẻ khốn cực, chính là làm hay không làm giúp người lân cận của mình.
Mùa chay thúc bách chúng ta sống Tin mừng hẳn hoi, nghiêm túc. Sống lời Chúa nghiêm túc giúp chúng ta liên đới với mọi người tốt đẹp ở đời này, đó là cửa vào nước trời đời đời.
G.M
Suy niệm 3
Nên Thánh là tiêu chí mà mọi người, đặc biệt là các kitô hữu hướng đến vì đó là lời mời gọi của Thiên Chúa "Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh.” ( Lv 19, 2). Nhưng làm thế nào để nên thánh?
Bài đọc I cho chúng ta biết cần phải trung thành tuân giữ các giới răn của Chúa. Các điều răn của Chúa gồm tóm vào hai điều chính yếu:
 
Mến Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Để cụ thể hóa điều này, sách Lê-vi chỉ dạy chúng ta "không được lấy danh Chúa mà thề gian: làm như thế là ta xúc phạm đến danh Thiên Chúa". ( Lv 19, 12).
 
Yêu đồng loại như chính mình. Để thực hiện cụ thể điều luật này, sách Lê-vi khuyên dạy chúng ta phải giữ đức công bằng (Lv 9, 11-16); đồng thời cần phải  loại trừ lòng ghen ghét, hận thù, oán hận ra khỏi lòng mình.
 
Còn bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta thực thi luật tình yêu cách tích cực hơn qua những việc làm bác ái cụ thể như: cho kẻ đói ăn, khát uống, tiếp đón khách trọ, chia sẻ quần áo mặc, giúp đỡ người đau yếu…Chúa Giêsu cũng cho biết khi giúp đỡ tha nhân nhất là những người nghèo khổ là ta làm cho chính Chúa.
 
Bác ái đối với tha nhân chính là điều kiện cần thiết để được Chúa chúc phúc và xứng đáng đón nhận phần thưởng nước trời.
 
Xin Chúa cho chúng ta mùa chay biết gia tăng làm việc bác ái, nhất là biết lưu tâm giúp đỡ những người nghèo về vật chất và khổ về tinh thần, cũng như siêng năng việc thờ phượng Chúa hơn.
 
Suy niệm 4
Ước muốn của người kitô hữu chúng ta là gi? Nếu không phải là được hạnh phúc nước trời làm gia nghiệp. Nhưng làm thế nào để đạt được điều mà chúng ta hằng mong ước đó? Lời Chúa hôm nay sẽ chỉ dạy chúng ta.
 
Thánh Gioan đã định nghĩa Thiên Chúa là “Tình Yêu”.  Chúa Giêsu đi vào trần gian không chỉ thể hiện tình yêu qua việc giúp đỡ mọi người, đặc biệt là những người nghèo khổ bệnh tật,…mà còn vạch ra cho chúng ta con đường tình yêu qua cái “chết cho người mình yêu”, để rồi mời gọi tất cả những ai muốn vào nước trời phải đi vào con đường tình đó: “yêu như Chúa yêu”.
 
Sở dĩ chúng ta phải yêu thương mọi người vì: (1) tất cả đều do Chúa dựng nên giống hình ảnh Chúa. (2) Mọi người đều được Chúa Giêsu đổ máu để cứu chuộc. (3) Chính Chúa Giêsu cũng đồng hoá Người với tất cả những ai bé nhỏ nghèo hèn nữa. Do vậy ai giúp người, nhất là người nghèo khổ chính là giúp Chúa.
 
Chúng ta thường hay phân biệt hai loại nghèo: (1) nghèo mà dễ thương là những người chí thú lo làm ăn lương thiện, nhưng vì hoàn cảnh họ không khá lên được. (2) Loại nghèo khó thương, là những ai suốt ngày chỉ lo cờ bạc, rượu chè, gian tham, lười biếng không lo làm, nên sinh nghèo. Loại nghèo này đáng phải trừng phạt và loại trừ mới đáng. Tuy nhiên với cái nhìn của Chúa thì hoàn toàn khác. Loại nghèo xem ra khó thương, thì đó lại là loại nghèo đáng thương trước mặt Chúa, vì họ không chỉ nghèo vật chất mà nghèo cả tinh thần và kiến thức. Do đó họ đáng cần được yêu thương và giúp đỡ.
 
Mỗi người đều được Chúa kêu mời hưởng hạnh phúc muôn đời. Do đó dù con người có xấu xa, tội lỗi như thế nào đi nữa thì họ cũng là đối tượng được Chúa yêu thương và tôn trọng, nên chúng ta không có quyền loại trừ.
 
Nhưng ta phải làm gì để nói lên tình yêu dành cho tha nhân?
Bài tin mừng hôm nay gợi cho chúng ta ý thức nổ lực thực hành sống mười bốn mối yêu người.
 
- Thương xác bảy mối: Cho kẻ đói ăn, kẻ khác uống, rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệc cùng kẻ tù đày, cho khách đổ nhờ, chuộc kẻ làm tôi, chôn xác kẻ chết…
 
- Thương linh hồn bảy mối: Lấy lời lành khuyên người, mở dạy kẻ mê muội, an ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội, tha kẻ khinh dễ ta, nhịn kẻ mất lòng ta, cầu cho kẻ sống và kẻ chết.
 
Sống được như thế là chúng ta đã chuẩn bị hành trang sẵn sàng cho ngày Con Người đến trong vinh quang. Chắc chắn ngày ấy chúng ta sẽ đứng bên phải, thuộc hạng chiên ngoan xứng đáng được Chúa chúc phúc và thưởng vương quốc mà Người đã dọn sẵn cho.
 
Xin cho mùa chay này chúng ta ý thức sống tình bác ái với tha nhân tích cực hơn: Bằng cái nhìn ngay thẳng và trong sáng, bằng những cử chỉ thân tình, bằng những nụ cười quý mến, bằng đôi chân ra đi đến với anh em, bằng đôi tay sẵn sàng mở rộng để chia sẻ với anh chị em, nhất là những ai nghèo khổ.
 
Nhờ thế chúng ta sẽ nên giống Chúa và được Chúa chúc phúc lành cho chúng ta hôm nay và mai sau.
 
 
SUY NIỆM 5:
1. Chiên và dê
Trong cuộc phán xét, lúc đầu mọi người tụ tập không phân biệt, nhưng ngay sau đó Con Người đến trong vinh quang và tách cả loài người ra làm hai nhóm. Ở đây, Đức Giêsu dùng hình ảnh để diễn tả như trong các dụ ngôn : Con Người hành động giống như người mục tử tách chiên ra khỏi dê, sau đó đặt chiên ở bên phải và dê ở bên trái của mình. 
Hình ảnh này thật an ủi chúng ta, bởi vì chắc chắn chúng ta không phải là « dê », chẳng phải là dê con hay dê cụ gì cả. Loài người chúng tự bản chất là « chiên », và con chiên là biểu tượng của sự hiền lành, vì chúng ta được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, được tái sinh trong máu của Con Chiên tinh tuyền, được kêu gọi trở thành môn đệ của Ngài. 
Vậy cái lũ dê kia ở đâu mà ra vậy ? Thế nào là chiên, thế nào là dê ? Đâu là đặc điểm của chiên và đâu là đặc điểm của dê ?
2. Phán quyết
Đức Vua gọi những người ở bên phải là những người được chúc phúc của Chúa Cha ; họ được mời đến đón nhận Nước Trời, đã được chuẩn bị cho họ từ thủa tạo thiên lập địa. Những lời này làm chúng ta nhớ lại lời của thánh Phaolô : « Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện nhờ tình thương của Người » (Eph 1, 4). Họ được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, và sống theo ơn gọi thần linh của mình, đó là thông truyền, là chia sẻ, là động lòng, là cảm thông.
Đức Vua gọi những người ở bên trái là « những kẻ bị nguyền rủa » ; họ bị đuổi xa khỏi Đức Vua, để vào nơi lửa cháy muôn đời vốn đã được chuẩn bị cho ma quỉ và các thần loại của nó. Điều lạ lùng là, Đức Vua đã không kể ra những hành vi phạm tội ghê gớm mà luật cấm : ghét anh em, trộm cắp, nói dối, lừa gạt, thề gian, bóc lột, cướp của, gian dâm, giết người. Nhưng lại kể ra những việc những người này đã không làm!
Như thế, vấn đề không phải là những hành vi ghê gớm đã phạm, bởi vì Đức Vua không lấy sổ ra đọc to lên mọi tội lỗi của chúng ta: phạm tội gì, phạm bao nhiều lần! Ngài cũng không xét xử từng người một ; Ngài chỉ nêu ra thái độ thờ ơ, dửng dưng đối với anh chị em đồng loại của cả một nhóm người đứng bên trái; nghĩa là những gì chúng ta đáng lẽ phải làm, không phải vì luật buộc, nhưng vì lòng mến, nhưng chúng ta đã không làm. Đức Vua không quan tâm đến những hành vi sai trái mà lề luật đạo đời nghiêm cấm, nhưng Ngài xét xử năng động sống với người khác ở nơi sâu thẳm của mỗi người. Có thể nói, những người đứng bên trái là những người đã sống theo năng động của ma quỉ và các thần của nó, đó là qui về mình, là không san sẻ, là cứng lòng, là vô cảm. Họ sẽ về sống với ma quỉ, xét cho cùng họ không cần phải bị xét xử và bị dẫn đi đến đó, bởi vì họ lựa chọn đi đến đó. Họ sinh ra là « chiên », nhưng họ tự biến mình thành « dê ».
3. Những người anh em bé nhỏ nhất
Khi công bố lí do của lời phán quyết, Đức Vua nói chính mình đã đói, đã khát, đã là khách lạ, là người không có cái khố che thân, là tù nhân. Và Ngài không nói theo nghĩa bóng hay nghĩa liên đới, vì Ngài đã thực sự là con người đáng thương này ; hay đúng hơn, tất cả những con người đáng thương trong nhân loại mọi thời, mà Ngài gọi là những người bé nhỏ nhất và là “anh em của Ngài”, đều hội tụ nơi ngôi vị của Ngài, nhất là trong cuộc Thương Khó.
*  *  *
Như thế, vẫn còn một nhóm người nữa, đó là « những anh chị em bé nhỏ nhất » của Chúa. Họ đâu rồi ? Họ là anh chị em của Đức Kitô, họ thuộc về Đức Kitô, vì thế họ không bị xét xử. Đơn giản là vì Đức Kitô, không thể xét xử người thân của mình được. 
Vì thế, lời mời gọi tận cùng của Lời Chúa hôm nay, là chúng ta hãy trở nên người thân của Đức Kitô, trở nên anh chị em của Đức Kitô ; điều này có nghĩa là trở nên nhỏ bé như chính Đức Kitô đã trở nên nhỏ bé trong thế giới loài người. Như thế, chúng ta sẽ không bị đưa ra xét xử, như thánh Phaolô nói :
Vậy giờ đây, những ai ở trong Đức Kitô, 
thì không còn bị lên án nữa »
(Rm 8, 1)
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
 
Từ khóa:

lại quả, làm cho, anh em

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận