Thứ Hai, sau Chúa Nhật I Mùa Vọng

Đăng lúc: Thứ hai - 01/12/2014 02:45 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

Thứ Hai, sau Chúa Nhật I Mùa Vọng

“Xin Ngài chỉ nói một lời…”

(Mt 8, 5-11)

5 Khi Đức Giê-su vào thành Ca-phác-na-um, có một viên đại đội trưởng đến gặp Người và nài xin:6 “Thưa Ngài, tên đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà, đau đớn lắm.”7 Người nói: “Chính tôi sẽ đến chữa nó.” Viên đại đội trưởng đáp:8 “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh.9 Vì tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này: “Đi! “, là nó đi, bảo người kia: “Đến! “, là nó đến, và bảo người nô lệ của tôi: “Làm cái này! “, là nó làm.”10 Nghe vậy, Đức Giê-su ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: “Tôi bảo thật các ông: tôi không thấy một người Ít-ra-en nào có lòng tin như thế.11 Tôi nói cho các ông hay: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời.12 Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”13 Rồi Đức Giê-su nói với viên đại đội trưởng rằng: “Ông cứ về đi! Ông tin thế nào thì được như vậy! ” Và ngay giờ đó, người đầy tớ được khỏi bệnh.

*****

1. Lời ông đại đội trưởng và phụng vụ Thánh Thể

Khi Đức Giê-su vào thành Ca-phác-na-um, có một viên đại đội trưởng đến gặp Người và nài xin Người chữa bệnh cho người đầy tớ của ông, và Người đáp : “Chính tôi sẽ đến chữa nó”. Nhưng viên đại đội trưởng thưa lại :

Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh.

Như tất cả chúng ta đều nhận ra, lời này được Giáo Hội đưa vào trong phụng vụ Thánh Thể: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh”. So sánh hai lời nói này, chúng ta nhận ra có một vài khác biệt:

- Viên đại đội trưởng nói cho người đầy tớ mà ông yêu quí, còn chúng ta, chúng ta nói cho chính mình.

- Lời của viên đại đội trưởng liên quan đến chữa lành thể xác, còn lời nguyện của chúng ta trong Thánh Lễ liên quan đến chữa lành tâm hồn.

- Đức Giê-su đã không vào nhà viên đại đội trường, nhưng trong Thánh Lễ, Đức Giêsu vào luôn trong “nhà chúng ta”, nghĩa là vào trong nội tâm và vào trong cuộc đời của chúng ta.

2. Lời người và Lời Chúa

Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp, có một điểm chung là lòng tin, lòng tin vào sức mạnh của Lời Chúa, như chính Đức Giê-su xác nhận :

Tôi bảo thật các ông: tôi không thấy một người Ít-ra-en nào có lòng tin như thế.

Lòng tin vào sức mạnh của lời Đức Giê-su nơi viên đại đội trưởng thật đơn sơ, nhưng thật vững chắc và rất hợp lí. Bởi vì, ông khởi đi từ kinh nghiệm của chính mình, đó là lời của ông cũng có sức mạnh:

Tôi bảo người này: “Đi!”, là nó đi, bảo người kia: “Đến!”, là nó đến, và bảo người nô lệ của tôi: “Làm cái này!”, là nó làm.

Chúng ta thường đối lập lời nói với việc làm, và trong tương quan này, lời nói thường bị hạ thấp. Điều này đúng, khi lời nói được hiểu và được sống không đúng với bản chất đích thật của lời nói. Tuy nhiên, ở đây, chúng ta chứng kiến sức mạnh của lời nói : lời nói không những không kém hơn hành động, nhưng còn tạo ra hành động. Để diễn tả tương quan và để tạo ra hiệu quả, lời nói cũng như hành động có những mức độ sức mạnh khác nhau. Trong trường hợp của viên đại đội trưởng, chúng ta thấy lời của ông có sức mạnh làm cho chuyển động, làm cho thực hiện và sinh hoa kết quả.

Trong tương quan với nhau, và nhất là trong cộng đoàn, chúng ta đều có kinh nghiệm này: không chỉ lời của bề trên có sức mạnh, mà lời của mọi người đều có sức mạnh: sức mạnh tạo ra sự sống và làm cho sự sống lớn lên, sức mạnh an ủi và chữa lành tâm hồn khi nói những lời đón nhận, cảm thông và tha thứ, sức mạnh tạo ra sự hiệp nhất; và sức mạnh của lời nói cũng có thể làm thui chột sự sống và có thể giết chết. Sách Huấn ca nói: “Có nhiều người ngã gục vì lưỡi kiếm, nhưng làm sao sánh được với những kẻ gục ngã vì lưỡi người?” (Hc 28, 18). Như thế, lời con người có sức mạnh làm cho sự sống lớn lên, hay giết chết sự sống. Và nếu lời người có sức mạnh ghê gớm như thế, Lời Chúa còn có sức mạnh lớn hơn biết bao : Lời Chúa là Lời hằng sống và ban sự sống ; như chính Đức Chúa nói trong sách Isaia:

Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời,
không trở về với trời nếu chưa thấm xuống đất,
chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc,
cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn.

Thì lời ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng ta,
sẽ không trở về với ta nếu chưa đạt kết quả,
chưa thực hiện ý muốn của ta,
chưa chu toàn sứ mạng ta giao phó 
(Is 55, 10-11)

Xin cho lời của chúng ta được “khai sinh” theo khuôn mẫu của Lời Chúa, nghĩa là đến từ Lời Chúa, cưu mang Lời Chúa và diễn tả Lời Ban Sự Sống của Chúa. Và nơi Đức Giê-su, Đức Chúa không chỉ ban lời, nhưng ban chính Ngôi Lời của Người: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa… Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành” (Ga 1, 1-2). Ngang qua mầu nhiệm Nhập Thể được hoàn tất với mầu nhiệm Vượt Qua, Ngôi Lời đã thực hiện trọn vẹn ý muốn của Chúa Cha, đã chu toàn hoàn hảo sứ mạng Chúa Cha trao phó, vì thế, tất yếu sinh hoa kết quả dư tràn, là sự sống mới cho chúng ta hôm nay và mãi mãi.

3. Lời giao ước

Chúng ta đọc lời tuyên khấn trước mặt Thiên Chúa (và cũng tương tư như vậy, với lời giao ước hôn nhân), với sự hiện diện của Giáo Hội ngang qua cộng đoàn phụng vụ, thế là suốt đời chúng ta sống theo lời đó. Chúa cũng cam kết với chúng ta và cam kết trước chúng ta, ngang qua công trình sáng tạo và nhất là công trình cứu độ bởi Đức Giê-su Ki-tô Ngôi Lời nhập thể. Và Ngài sẽ trung tín đến cùng; đơn giản là vì Lời của Ngài và Ngôi vị của Ngài là một. Xin cho Lời Chúa cư ngụ trong lời của chúng ta. Lời Chúa cũng là chân lí, vì một khi Ngài nói là “đúng” mãi mãi. Xin cho lời của chúng ta nói với nhau và nói với Chúa, cũng là sự sống và là chân lí. Bởi vì chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa.

Xin cho chúng ta cảm nghiệm và xác tín Lời Chúa là lời ban sự sống và tái tạo sự sống: sự sống của từng người chúng ta và sự sống của cộng đoàn. Bởi vì, chúng ta sống không chỉ bằng việc thỏa mãn những nhu cầu vật chất và thể lí, nhưng còn sống bằng tương quan nữa : tương quan tình yêu, hiệp nhất, bao dung, đón nhận, tha thứ, cảm thông… Không có những tương quan này, chúng ta không thể sống được, hay sự sống của chúng ta sẽ trở nên chết chóc, nghĩa là sự chết sẽ hiện diện ngay trong lòng sự sống. Lời Chúa không chỉ tạo ra sự vật, nhưng còn có sức mạnh tạo ra những “tương quan sự sống” giữa chúng ta. Xin cho lời nói chúng ta trao cho nhau mỗi ngày, cũng là lời tạo ra “tương quan sự sống” theo khuôn mẫu của Lời Chúa, thay vì tạo ra “tương quan sự chết”.

Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

 
Suy niệm 2:
 
Tín đồ Do thái giáo có tiếng về sống đức hy vọng.
 
Họ đã hy vọng và vẫn còn hy vọng Đấng Mêsia sẽ đến để đem ơn cứu độ.
 
Họ đã chờ và  vẫn chờ từ bao ngàn năm nay.
 
Còn Kitô hữu chúng ta có tiếng về sống đức ái.
 
Tuy nhiên, tự bản chất Kitô giáo vẫn là tôn giáo của đức hy vọng.
 
Chúng ta tin Đấng Mêsia là Đức Giêsu đã đến rồi.
 
Ngài đến đem ơn cứu độ không phải cho riêng dân Israel,
 
nhưng cho mọi dân mọi nước trên toàn thế giới.
 
Nhưng Kitô hữu vẫn còn sống trong chờ đợi và hy vọng.
 
Chúng ta mong ngày trở  lại trong vinh quang của Chúa Giêsu,
 
cũng là ngày thế  giới này đi đến chỗ tận cùng, để sang một trang mới. 
 
MARANA THA, lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến (1 Cr 6, 22; Kh 22, 20).
 
đó là lời nguyện của các Kitô hữu trong Giáo Hội buổi sơ khai.
 
Đó cũng là lời nguyện khẩn thiết của chúng ta, đặc biệt trong Mùa Vọng.
 
Ngày quang lâm là ngày tận thế đáng sợ,
 
khi Chúa Giêsu trở  lại xét xử kẻ sống và kẻ chết.
 
Nhưng đó cũng là ngày hội vui lớn nhất của nhân loại,
 
ngày mà niềm hy vọng của chúng ta được thành tựu viên mãn.
 
Ngày ấy “từ  phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự  tiệc 
 
cùng các tổ phụ  Ápraham, Ixaác và Giacóp trong Nước Trời”  (c. 11). 
 
Đức Giêsu ngỡ ngàng khi thấy niềm tin lớn lao của viên đại đội trưởng.
 
Ông thuộc dân ngoại mà lại có lòng tin lớn hơn các người Israel khác (c. 10).
 
Ông tin Đức Giêsu có thể chữa lành cho người đầy tớ yêu quý của ông.
 
Không cần Ngài đến nhà, chỉ cần một lời nói của Ngài thôi cũng đủ (c. 8).
 
Lòng tin mạnh mẽ  và khiêm tốn của ông đã chinh phục Đức Giêsu.
 
Lời của viên sĩ  quan dân ngoại đã trở nên lời ta đọc trước khi rước lễ.
 
“Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con,
 
nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh.” 
 
Đầy tớ của viên đại đội trưởng đã được chữa lành,
 
nhưng điều quan trọng hơn là chuyện ông có hy vọng được dự tiệc.
 
Đây là bữa tiệc cánh chung, bữa tiệc trong Nước Trời (x. Is 25, 6-8).
 
Một người dân ngoại được ngồi dự tiệc bên các tổ phụ Do thái.
 
Đây là điều hẳn làm cho nhiều người Do thái phải ngạc nhiên.
 
Mà không phải chỉ có viên đại đội trưởng,
 
có nhiều người từ tứ phương thiên hạ cũng được mời (c. 11).
 
Nước Trời như một bữa tiệc vui và thịnh soạn do Thiên Chúa thết đãi,
 
trong đó mọi dân tộc khác nhau cùng đến để chia sẻ và hiệp thông.
 
Mọi đau buồn, mọi cách ngăn đều bị xóa bỏ. 
 
Màu tím là màu của phụng vụ Mùa Vọng,
 
nhưng đây không phải là màu buồn.
 
Mùa Vọng nhắc chúng ta về niềm hy vọng rất xanh tươi
 
mà Chúa Giêsu đã mang lại cách đây hai ngàn năm
 
và chúng ta có  bổn phận vun đắp cho thành tựu.
 
Làm sao để ơn cứu  độ của Ngài được mọi người trên thế giới nhận biết?
 
Làm sao để dân ngoại được ơn đức tin và ơn chữa lành như viên sĩ quan?
 
Làm sao để chẳng ai vắng mặt trong bữa đại tiệc của Nước Trời?
 
Mùa Vọng đưa ta về thế giới bao la của châu Á, với 3% người công giáo.
 
Nếu ngày mai tận thế, Chúa sẽ hỏi ta 97% kia đâu.
 
Cầu nguyện:
 

Lạy Cha,
 
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
 
và nhận biết chân lý,
 
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.
 
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
 
chưa nhận biết Đức Giêsu,
 
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
 
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
 
khát vọng truyền giáo,
 
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,
 
niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,
 
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.
 
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
 
trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
 
để loan báo Tin Mừng.
 
Chúng con chỉ xin đến
 
với những người bạn gần bên,
 
giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,
 
qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.
 
Chúng con cũng cầu nguyện
 
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.
 
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
 
sinh nhiều hoa trái. Amen.
 
 
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


Suy Niệm 3: Xin Ngài Chỉ Phán Một Lời

 

Trong quân đội Roma, danh từ "bách quan" hay "đại đội trưởng" dùng để chỉ những người có một trăm tên lính trong tay. Nếu ở chốn đế đô, họ chẳng là gì thì tại các vùng thuộc địa họ là những viên chức đầy uy quyền góp phần cai trị hà khắc của đế quốc. Có thể gọi họ là chất xúc tác và là thước đo lòng căm thù đế quốc của người Do Thái. Ðối với đế quốc cai trị, họ là những người trực tiếp áp đặt chính sách lên dân chúng.

Luật Do Thái đã khắt khe trong việc giao tế với dân ngoại thì lại càng khắt khe hơn đối với những người đang giày xéo lên mảnh đất Thánh của Giavê Thiên Chúa. Người Do Thái sẽ không bước vào nhà dân ngoại vì đó là những nơi không thanh sạch. Sách Midna đã viết: "Mọi nơi cư ngụ của dân ngoại đều là chỗ không thanh sạch", thế mà Chúa Giêsu lại không ngần ngại đi đến nhà viên bách quan để chữa bệnh cho gia nhân của ông. Chúa Giêsu có ý gì khi hành động như vậy? Nếu luật lệ Do Thái khắt khe với dân ngoại mà Chúa Giêsu và các tông đồ lại nghiêng về phía họ thì hẳn việc làm của Chúa Giêsu và các tông đồ phải mang một ý nghĩa thiết thực trong cuộc sống.

Riêng về các viên bách quan, Kinh Thánh Tân Ước đã không ít lần lên tiếng khen ngợi hành vi của các viên bách quan như lúc Chúa Giêsu bị chết treo nhục nhã trên Thập Giá, một viên bách quan đã tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa. Một viên bách quan khác đã cứu tông đồ Phaolô thoát khỏi hình phạt đánh đòn, và một viên bách quan khác nữa đã giúp Phaolô thoát khỏi âm mưu giết hại của người Do Thái. Tuy nhiên nổi bật hơn hết là viên bách quan được nói đến trong bài đọc Tin Mừng hôm nay. Nơi ông đã hội tụ hai yếu tố căn bản mà mỗi người trong chúng ta cần phải có để khiêm nhượng trước mặt Chúa và bác ái với anh em. Một gia nhân hay đúng hơn một tên nô lệ chẳng là gì trước mặt viên bách quan, ông có thể sử dụng như một món đồ vật, không dùng thì quăng đi cần gì phải bận tâm. Thế mà ở đây ông lại quan tâm đến tên gia nhân cách đặc biệt. Ngoài ra theo đoạn Tin Mừng song song của Luca, ông còn là người giúp đỡ cho Hội Ðường Do Thái.

Lòng vị tha đã khiến viên bách quan vừa có uy quyền, vừa được mộ mến. Tuy nhiên dù là gì đi nữa, trước mặt Thiên Chúa và trước mặt Chúa Giêsu, ông vẫn phải giữ một thái độ hoàn toàn khiêm nhu: "Lạy Thầy, tôi không xứng đáng để được Thầy đến nhà". Ông không chỉ khiêm nhu nhưng lại đầy tin tưởng: "Xin Thầy hãy phán một lời thì gia nhân của tôi được lành mạnh".

Lời cầu khiêm nhu này đã trở thành lời kinh hằng ngày được tín hữu chuyên đọc, và niềm tin của viên bách quan khai mở một kỷ nguyên mới cho lịch sử ơn cứu độ: "Nhiều người từ Ðông chí Tây sẽ đến dự tiệc với Abraham, Isaac và Jacob, còn con cái trong nhà sẽ bị loại ra ngoài". Chúa Giêsu, Ngài đến để cứu chữa hết mọi người, chưa cần viên bách quan tuyên xưng lòng tin, Ngài đã nói lên ý định của Ngài: "Tôi sẽ đến chữa nó".

Luật Do Thái ngăn cấm bước vào nhà dân ngoại thì Chúa Giêsu vượt ra ngoài các cấm đoán của lề luật, vì Vương Quốc của Ngài không xây dựng trên nền tảng các luật cứng nhắc ấy nhưng trên thực hành niềm tin. Ngài cũng không đến để hủy bỏ lề luật nhưng để kiện toàn. Lề luật bây giờ phải được thể hiện trọn vẹn trong cuộc sống.

Viên bách quan không có các nghi thức để tuân giữ lề luật như: không rửa tay trước khi dùng bữa, không đến Hội Ðường vào ngày Sabat. Nhưng trước sự hiện diện của Chúa, ông tỏ một niềm kính sợ, trước tha nhân ông hết lòng yêu mến. Ông trở thành tiêu biểu cho các công dân Nước Trời. Chúa Giêsu đã khen ngợi và đã đón nhận ông vào nước của Ngài.

Chúa Giêsu nói với những kẻ theo Ngài lúc đó cũng như đối với chúng ta hôm nay: "Còn con cái trong nhà sẽ bị loại ra ngoài". Không phải được mang tước hiệu con cái là bảo đảm được dự phần vào Nước Thiên Chúa, nhưng phải là kẻ biết thực hành niềm tin. Tước hiệu Kitô hữu nếu không được nuôi dưỡng bằng sức sống của niềm tin thì chỉ là những bản án được công bố trước thời điểm mà thôi.

Bước vào Mùa Vọng, cùng với Giáo Hội với ý hướng chờ ngày Chúa đến, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ nhìn vào niềm tin của viên bách quan làm tiêu chuẩn sống cho mình. Mỗi người chúng ta hãy biết khiêm nhu trước Thiên Chúa và biết yêu mến anh em thì hy vong chúng ta sẽ được Thiên Chúa hài lòng đón nhận trong bàn tiệc Nước Ngài.

 

Suy Niệm 4 : Mùa của đức cậy và đức tin
 

Điều gì đã thúc đẩy vị sĩ quan Rô-ma ra khỏi nhà từ sáng sớm? Thưa, ông hy vọng rằng ông ra đi ông sẽ gặp được điều tốt hơn là cứ luẩn quẩn trong nhà. Dù ông là một người đầy quyền thế, biết chỉ đạo mọi việc, nhưng cứ ở nhà, ông sẽ chẳng có thể làm gì để cứu chữa đầy tớ đang đau liệt. Ông phải đến với Đức Giêsu.

Ngày hôm nay, bạn cần phải ra khỏi con người bạn để khởi hành vào mùa vọng; mùa sẽ đưa bạn đầy tràn hy vọng đến với Chúa chúng ta. Bạn đã sẵn sàng chưa?

Niềm hy vọng tăng cao nhờ khát vọng mạnh, nhờ nhu cầu khẩn thiết. Niềm hy vọng của bạn hôm nay là gì? Khát mong của viên sĩ quan là: “Đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà tôi, đau đớn lắm”. Còn bạn, bạn có thể đồng cảm với nỗi đau đớn đó không?

Bạn đồng cảm rất dễ với chồng bạn, với vợ bạn, với con bạn, với ông bà cha mẹ, họ hàng và bạn bè của bạn. Bạn cần đồng cảm xa hơn nữa. Viên sĩ quan đã đồng cảm với những tên đầy tớ: một sự đồng cảm với những kẻ hèn mọn. Còn bạn, bạn có thể đồng cảm với bao nhiêu nỗi xót xa của những kẻ đi làm thuê, làm mướn, những kẻ quét đường, đổ rác đi qua nhà bạn mỗi sáng thứ hai không? … Đó là những tôi tớ của bạn, của cộng đồng, của xã hội.

Hôm nay bắt đầu mùa vọng, bạn cầu nguyện cho ai? Bạn hy vọng vị nào đến làm gì cho họ? Thật quan trọng khi bạn biết liệt kê ra những nhu cầu đó để khêu gợi cho mình có những niềm hy vọng, niềm cậy trông giúp bạn có đức cậy.

Hôm nay, bắt đầu mùa vọng, còn một việc nữa cần phân tích, đó là đức tin của chúng ta. Đức Giêsu nói với chúng ta: “Chính tôi sẽ đến cứu chữa nó”. Vị sĩ quan thưa lại: “Lạy ngài, tôi không đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh …”. Chúng ta có thể tin được như thế không? Bao giờ chúng ta mới có được đức tin như thế?

Chúng ta có tin Đức Giêsu có thể đổi mới tâm hồn chúng ta được không? Biết bao nhiêu tôi tớ trên trái đất này đang đau khổ cực độ. Chúng ta có tin Ngài đến cứu chữa họ không?

Bắt đầu mùa vọng, chính là để giúp chúng ta cậy trông và tin tưởng. Và cử hành Thánh lễ chính là để giúp chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu đến thực hiện công trình cứu độ.

C.G


Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận