Thánh Bônaventura, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh

Đăng lúc: Thứ sáu - 15/07/2016 02:03 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
Thứ sáu tuần 15 thường niên – Thánh Bônaventura, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.

"Con Người cũng là chủ ngày sabbat".

 

Chào đời khoảng năm 1218 ở Ba-nho-rê-gi-ô, tỉnh Vitécbô, Bônaventura theo học triết lý rồi thần học ở Paris, sau đó dạy các tu sĩ dòng Anh Em Hèn Mọn. Khi được chọn làm tổng phục vụ, người đã chu toàn nhiệm vụ một cách khôn ngoan, đã soạn thảo hiến chương nhằm giúp anh em sống luật dòng thánh Phanxicô. Là một nhà thần học sâu sắc, theo trường phái thánh Augustinô, người nghiên cứu và giảng dạy lộ trình đưa linh hồn về với Thiên Chúa. Được đặt làm hồng y giám mục Anbanô. Người qua đời năm 1274 giữa lúc Công Đồng Lyon đang họp.
 

HẠNH THÁNH: Thánh Bônaventura

Sinh năm 1221 tại Bagnorea, gần Viterbo, thánh Bonaventura là con ông Giovanni di Fidanza và bà Ritella. Ngài được đặt tên là Giovanni, lúc lên bốn, Ngài lâm trọng bệnh vô phương cứu chữa. Người mẹ vội ẵm Ngài tới gặp thánh Phanxicô khó khăn. Thánh nhân thương cha mẹ dâng lời cầu nguyện và Giovanni hết bệnh. Sung sướng, người mẹ kêu lên: “Obuona Ventura” (Ôi biến cố phúc hậu). Từ đó Giovanni mang tên Bônaventura. Ngài theo học tại dòng anh em hèn mọn.

Tới tuổi 15, Bonaventura theo học tại Paris, trung tâm ánh sáng thời đó. Ngài sống thanh trong đến nỗi Alexandre de Hales nhận xét:

- Anh giống như Adam chưa hề phạm tội.

Ngài kết thân với sinh viên tài ba khác là Thomas Aquinô. Ngỡ ngàng về sự hiểu biết của bạn mình. Thomas hỏi Bonaventura xem Ngài đã học sách nào ? Bonaventura chỉ cây thánh giá trả lời:

- Đây là nguồn mọi hiểu biết của tôi. Tôi học Chúa Giêsu bị đóng đinh.

Năm 1257, Ngài được chọn làm bề trên cả dòng Phanxicô. Tình thế Ngài phải đối diện rất là phức tạp. Trong dòng đang có sự phân rẽ giữa những người nhiệt tâm muốn tuân giữ nghiêm nhặt luật dòng và những người muốn chước giảm. Nhờ sự thánh thiện và tài khéo léo, Bonaventura đã giải quyết các vấn đề cách ổn thỏa, đến nỗi Ngài đang được gọi là Đấng sáng lập thứ hai của dòng. Trong kỳ đại hội ở Narbonne 1250, Ngài đã ban hành hiến pháp đầu tiên cho dòng. Sau đó Ngài liên tiếp thăm viếng không biết mệt các tỉnh dòng để quan sát việc thực hiện bản quy luật này. Chính Ngài tổ chức việc học hành cho các giáo sĩ trong dòng, làm cho công cuộc tông đồ được phổ biến rộng rãi đến cả những bậc thức giả lẫn giới bình dân. Chính Bonaventura là một nhà dòng giảng thuyết có biệt tài. Ngài đã giảng thuyết từ các tu viện, tới các thành phố ở Âu Châu, trước mặt vua Luy IX, Đức giáo hoàng. Luôn luôn Ngài thu phục được cảm tình của thính giả. Một thầy dòng khiêm tốn tên là Gilles hỏi Ngài: Các cha thông thái, được Chúa ban cho nhiều tài năng. Còn chúng con, chúng con có thể làm gì được?

Bonaventuratrả lời: Nếu Chúa ban cho một người tài năng khác là ơn yêu mến Ngài thế là đủ rồi, và là kho tàng quí báu nhất.

Thầy dòng hỏi tiếp: Một người không biết đọc biết viết có thể yêu mến Thiên Chúa như một nhà thông thái biết mọi sự không?

Thánh nhân trả lời: Chắc chắn rồi, một bà già có thể yêu Chúa hơn cả một nhà tiến sĩ thần học.

Thầy dòng vui vẻ la lớn: Một bà già có thể yêu Chúa hơn cả cha Bonaventura của chúng ta nữa.

Ngài còn tiếp: Biết một chút về Chúa còn hơn là biết mọi sự trong trời đất.

Ngoài những hoạt động bên ngoài ấy. Bonaventura còn lo viết sách để huấn luyện các tu sĩ và những sách về triết học, thần học và thánh kinh. Chúng ta có thể kể đến cuốn “chú giải luật dòng Phanxicô”, “hạnh tích thánh Phanxicô” nhất là cuốn “hành trình của linh hồn hướng về Thiên Chúa”.

Trong nỗ lực xây dựng Hội Thánh, Bonaventura luôn tỏ ra khiêm tốn. Người ta kể rằng: Đức giáo hoàng Grêgoriô X truyền cho thánh Thomas và Bonaventura soạn thảo bộ kinh lễ Thánh Thể. Khi hai vị vào yết kiến đức giáo hoàng trình bày công việc, thánh Bonaventura xé nát bản văn của mình.

Cùng với lời khiêm tốn ấy, Bonaventura đã từ chối chức Tổng giám mục thành York mà Đức giáo hoàng Clêment IV đề nghị, lòng khiêm tốn ấy không ngăn cản sự cương quyết và can đảm của Ngài chống lại thuyết sai lầm của thuyết Aristote và Avéoes... Nhưng Đức giáo hoàng Grêgoriô X đã quyết định đặt Ngài làm hồng y cai quản giáo phận Albanô và truyền Ngài về Roma ngay. Khi hai sứ thần mang mũ hồng y đến, Ngài còn đang rửa chân. Ngày 28 tháng 5 năm 1273 Ngài nhận chức và là cánh tay đắc lực của đức giáo hoàng. Phần đóng góp của Ngài vào sự hợp nhất Giáo hội Hy lạp và Roma tại công đồng Lyon thật lớn lao.

Nhưng khi công đồng Lyon còn đang nhóm họp thì Bonaventura từ trần ngày 14 tháng 7 năm 1274. Đức Sixtô IV tuyên Ngài lên bậc hiển thánh năm 1482 và đức Sixtô V đã đặt Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1858. Người ta gọi Ngài là “Tiến sĩ sốt mến”.

Thánh Bônaventura đầy lòng thánh thiện và khiêm tốn. Với lòng yêu mến Chúa, yêu mến Giáo hội. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mỗi chúng ta cũng biết sống gắn bó với Chúa và Giáo hội bằng tất cả tấm lòng yêu mến chân thành, nhờ lời cầu bầu của thánh nhân.

 

(tổng hợp)

 

Lời Chúa: Mt 12, 1-8

Khi ấy, vào ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi ngang cánh đồng lúa. Các môn đệ của Người đói, liền bứt bông lúa mà ăn. Thấy vậy, các người biệt phái thưa với Người rằng: "Kìa, các môn đệ của Ngài làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat". Người nói với các ông rằng: "Các ông không đọc thấy Đavít và những người đi với ông đã làm gì khi đói lả sao? Các ông cũng không đọc thấy Đavít vào đền thờ Chúa ăn bánh trưng hiến, bánh mà ông và các kẻ theo ông không được phép ăn, chỉ trừ các tư tế được ăn mà thôi sao? Hay các ông không đọc thấy trong luật rằng: Ngày Sabbat, các tư tế trong đền thờ vi phạm ngày Sabbat mà không mắc tội đó sao? Tôi bảo cho các ông biết, đây có Đấng còn trọng hơn đền thờ nữa. Vì nếu các ông biết được điều này là, "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ", chắc các ông không bao giờ lên án những người vô tội, vì chưng Con Người cũng là chủ ngày Sabbat".

 

A- Phân tích (Hạt giống...)

Chúa Giêsu bị các người biệt phái kết án vì chuyện các môn đệ Ngài bứt lúa trong ngày Sabbat.

Thực ra điều mà các người biệt phái trách không phải vì họ đói mà bứt lúa để ăn (x. Đnl 23,26; cho phép ăn lúa nơi đồng của người khác), nhưng vì họ đã làm việc trong ngày hưu lễ (x. Xh 34, 21; cấm gặt lúa trong ngày Sabbat: người biệt phái quá vụ luật đã coi việc bứt vài bông lúa có nghĩa là gặt lúa!). Trong câu chuyện này cũng nên lưu ý câu trả lời của Chúa Giêsu trích Hôsê 6,6 “Ta muốn tình thương chứ không màng hy lễ”.

B- Suy gẫm (...nẩy mầm)

1. Vụ việc này là một mình họa cho thấy Luật (“ách”) của người biệt phái do không có tình thương trong đó nên đã trở thành nặng nề như thế nào. Họ không hề quan tâm đến cơn đói của các môn đệ, mà chỉ rình mò xem các ông có làm gì phạm đến luật không để mà kết án.

Khi không có tình thương, mọi sở hữu nhỏ nhoi của anh chị em tôi đều có thể bị tôi kết án. Ngược lại, khi đã thương thì tôi có thể thông cảm cho những sai lầm đó cách đễ dàng.

2. “Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ”: Chúa Giêsu muốn tôi lấy lòng nhân từ mà đối xử với anh chị em. Đó chính là của lễ quý hơn mọi của lễ khác mà tôi có thể dâng lên cho Chúa.

3. “Con người cũng là chủ của ngày Sabbat”: tôi phải giữ luật vì Chúa chứ không phải vì luật.

4. Qua vụ việc này, Chúa cũng dạy ta đừng xét đoán người khác một cách “lý thuyết”, mà phải để ý đến hoàn cảnh nữa.

5. Ngày nọ Khổng Tử dẫn đệ tử từ nước Lỗ sang nước Tề. Trong đám đệ tử có Nhan Hồi và Lộ Tử là hai môn sinh được Khổng Tử sủng ái nhất.

Thời Đông Chu, loạn lạc khắp nơi khiến dân chúng lầm than đói khổ. Thầy trò Khổng Tử cũng có nhiều ngày nhịn đói cầm hơi. Ngày đầu tiên đến đất Tề, Khổng Tử và các môn sinh được một người nhà giàu biếu một ít gạo. Khổng Tử liền phân công: Lộ Tử và các môn sinh khác vào rừng kiếm củi, còn Nhan Hồi dảm nhận việc nấu cơm.

Đang đọc sách ở nhà trên, Khổng Tử bỗng nghe thấy tiếng động ở nhà bếp. Nhìn xuống, Ngài bắt gặp Nha hồi đang mở vung xới cơm cho tay vào nắm từng nắm nhỏ rồi bỏ vào miệng. Khổng Tử than thở: “Người học trò tín cẩn nhất của Ta lại là kẻ ăn vụng.”

Khi Lộ Tử và các môn sinh khác trở về, Khổng Tử cho tập họp các môn sinh lại và nói: “Bữa cơm đầu tiên trên đất Tề làm cho Thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương, Thầy muốn xới một bát cơm để cúng Cha mẹ. Nhưng liệu nồi cơm này có sạch không?”

Nhạn Hồi chắp tay thưa: “Dạ nồi cơm này không sạch. Khi cơm vừa chín con mở vung ra xem thử. Chẳng may một cơn gió tràn vào. Bồ hóng và bụi rơi xuống làm bẩn nồi cơm. Sau đó con xới cơm bẩn ra định vất đi. Nhưng nghĩ rằng cơm ít mà anh em thì đông. Cho nên con đã ăn phần cơm ấy. Thưa Thầy như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi.”

Nghe Nhạn Hồi nói xong, Khổng Tử lại ngẩng mặt lên trời mà than rằng: “Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật. Suýt nữa Khổng Tử này trở thành kẻ hồ đồ.”

6. “Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ.” (Mt 12,7)

Tôi đứng đó dưới ánh mặt trời. Trước mặt tôi bóng đen đổ dài phía sau trên nền đất. Tôi chợt nghĩ: Mặt trời sao đen thế!

Xoay người 180 độ, cái bóng vẫn đổ dài phía sau trên nền đất. Nhưng truớc mặt tôi Mặt trời bừng sáng rược rỡ.

Lời Chúa hôm nay hé mở cho tôi lối sống mới, lối sống tự do của lòng nhân từ, không sợ hãi, không hình thức nệ luật.

Lạy Chúa, bước vào đời con phải chấp nhận luật chơi của cuộc sống. Xin cho con luôn ý thức luật lệ chỉ là phương thức để con sống hoàn thiện và là cầu nối để con đến với Thiên Chúa và tha nhân. (Hosanna)

(Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

Cầu nguyện: 

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,

Chúng con cảm tạ Chúa đã ngự đến linh hồn chúng con. Dù rằng tâm hồn chúng con còn ngổn ngang trăm bề những lo lắng trần thế, những ham muốn tầm thường. Chúa không chấp nhất tội chúng con. Chúa chỉ còn nghĩ đến một điều là ban phát tình yêu.

Lạy Chúa, ở đời nếu không có tình yêu, người ta sẽ dễ dàng kết án tẩy chay lẫn nhau. Ðôi khi còn kết án bừa bãi, thiếu cân nhắc. Xin tha thứ vì những lần chúng con đối xử bất khoan dung với nhau. Xin giúp chúng con đừng bao giờ nói hành, bỏ vạ cáo gian anh em mình một cách bừa bãi. Nhưng xin ban cho chúng con một tâm hồn luôn yêu thương, nhân từ như Chúa để chúng con biết đối xử với nhau ngày một tốt hơn.

Lạy Chúa Giêsu là Ðấng rất nhân từ, xin ban ơn Thánh Thần để hoán cải tâm hồn vốn dĩ ích kỷ và đầy hẹp hòi của chúng con. Xin giúp chúng con đủ sáng suốt để sống và cư xử tốt với nhau, như Chúa hằng đối xử như vậy với chúng con. Amen.

(Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

Suy niệm 1: Ngày Hưu Lễ

Chương 12 Tin Mừng Mátthêu qui tụ những tranh luận giữa Chúa Giêsu và các vị lãnh đạo Do thái giáo thời Chúa Giêsu về những đặc tính của nếp sống tôn giáo. Cuộc tranh luận hôm nay liên quan đến việc thực hành đạo đức căn bản của người Do thái, đó là việc giữ ngày Hưu lễ. Ðây là một thực hành quan trọng đến độ người Biệt Phái đã dùng việc Chúa Giêsu không tuân giữ luật Hưu lễ để lý luận và nói với dân chúng rằng Chúa Giêsu không phải là Ðấng đến từ Thiên Chúa, không phải là Ðấng Mêsia.

Việc dành riêng một ngày nghỉ cho Thiên Chúa đã bị lạm dụng đến mức việc tuân giữ ngày Hưu lễ không còn là do tình yêu mến tôn thờ đối với Thiên Chúa, nhưng là một hình thức ràng buộc con người. Qua cuộc tranh luận với những người Biệt Phái về việc giữ ngày Hưu lễ, Chúa Giêsu mở rộng cho chúng ta thấy giá trị tôn giáo đích thực của ngày Hưu lễ, và do đó phải sống tinh thần ngày Hưu lễ đó như thế nào?

Cuộc tranh luận của Chúa Giêsu đều được trình thuật đầy đủ trong các Tin Mừng Nhất Lãm, nhưng nơi Tin Mừng Mátthêu, tác giả lưu ý hai điểm: thứ nhất, quyền hành của Chúa Giêsu trên các việc thực hành đạo đức; thứ hai, lòng nhân từ có ưu tiên trên việc thực hành đạo đức. Trả lời cho thắc mắc của những người Biệt Phái tại sao các môn đệ Ngài không giữ luật Hưu lễ, Chúa Giêsu nhắc lại việc xẩy ra trong Cựu Ước liên quan đến Ðavít và những người tùy tùng khi đói, tức khi khẩn thiết, đã làm điều không được phép làm, hoặc việc các tư tế trong Ðền thờ không nghỉ ngày Hưu lễ mà cũng không mắc tội. Rồi Chúa kết luận: "Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu này: "Ta muốn lòng nhân từ, chứ đâu cần lễ tế, ắt các ông sẽ chẳng lên án kẻ vô tội". Lòng nhân từ phải là căn bản cho những phán đoán của chúng ta đối với anh em; cần phải hành xử theo lòng nhân từ này hơn là chỉ xét đoán anh em theo những việc bên ngoài.

Vả lại, những việc đạo đức và việc nghỉ ngày Hưu lễ, là để con người đến gần Thiên Chúa, thế mà Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã hiện diện giữa họ, thì lòng đạo đức không còn là một cái gì tuyệt đối phải thi hành nữa. Các tư tế làm việc trong Ðền thờ ngày Hưu lễ mà không lỗi luật, thì các môn đệ Chúa Giêsu lỗi luật thế nào được, vì đã có Chúa Giêsu bên cạnh họ. Ngài là Con Thiên Chúa cao trọng hơn Ðền thờ. Chúa Giêsu muốn nhân dịp này để mạc khải chính Ngài là Ðấng Mêsia cao trọng hơn Ðền thờ và làm chủ cả ngày Hưu lễ; nhưng các người Biệt Phái không nhìn nhận điều này.

Xin Chúa giúp chúng ta vượt qua tinh thần vụ hình thức trong đời sống đức tin. Xin cho chúng ta tâm hồn nhân từ như Chúa để biết đối xử với người khác mỗi ngày một tốt đẹp hơn.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 2: Tinh Thần Vụ Hình Thức (Mt 12,1-8)

Cuộc tranh luận trên của Chúa Giêsu với những người biệt phái được tường thuật cách đầy đủ trong cả bốn Phúc Âm, nhưng nơi Phúc Âm thánh Mátthêu này thì tác giả xem ra muốn lưu ý độc giả hai điểm: thứ nhất là lòng nhân từ ưu tiên trên việc thực hành những việc đạo đức và thứ hai là quyền hành của Chúa Giêsu vượt lên trên những việc đạo đức.

"Ta ưa thích lòng nhân từ chứ không ưa thích của lễ". Lòng nhân từ phải là căn bản cho những phán đoán của ta đối với anh chị em. Cần hành xử theo lòng nhân từ này hơn là chỉ lo xét đoán anh chị em theo những việc bề ngoài. Hơn nữa, những việc đạo đức trong đó có việc nghỉ ngày sabát là để con người đến gần Thiên Chúa. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đang hiện diện giữa các tông đồ, Người làm cho những việc đạo đức khác trở thành thứ yếu, bởi vì một khi đã đạt đến mục tiêu là sống hiện diện với Chúa rồi, thì những phương tiện, những việc đạo đức phải nhường chỗ. Nếu các biệt phái chấp nhận rằng các thầy tư tế làm việc trong đền thờ vào ngày nghỉ sabát sẽ không lỗi luật nghỉ sabát, thì những đồ đệ của Chúa Giêsu lỗi luật ngày sabát sao được vì đã có Chúa bên cạnh họ rồi.

"Ðây có Ðấng cao trọng hơn đền thờ". Chúa Giêsu dùng việc tranh luận để mạc khải về chính mình là Ðấng cao trọng hơn đền thờ, là Ðấng Thiên Sai, Ðấng dĩ nhiên có quyền trên ngày sabát. Ước chi chúng ta đừng xét xử anh chị em qua những việc đạo đức bên ngoài. Những việc làm này là điều tốt, đáng làm, nhưng không phải là tiêu chuẩn tuyệt đối để ta dựa vào mà xét xử anh chị em. Lòng nhân từ thì quan trọng hơn.

Lạy Chúa,

Xin giúp con vượt qua được tinh thần vụ hình thức trong đời sống đức tin. Xin thương ban cho con tâm hồn nhân từ yêu thương như Chúa, để biết cảm thông và đối xử với anh chị em chung quanh mỗi ngày một tốt đẹp hơn.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 3: Những Luật Phải Vi Phạm.

Khi ấy vào ngày sa bát, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ thấy đói và bắt đầu bứt lúa ăn. Những người Pha-ri-sêu thấy vậy, mới nói với Đức Giêsu: “Ông coi, các môn đệ ông làm điều không được phép làm trong ngày sa bát!” (Mt. 12, 1-2)

Các môn đệ đói.

Các môn đệ Chúa bị cơn đói dày vò. Luật ngày sa bát không cho phép các ông bứt lúa mà ăn trong ngày ấy. Các môn đệ vẫn cứ bứt lúa ăn. Các người Pha-ri-sêu cho đó là xì-căng-đan. Đức Giêsu dùng sự cố này để bày tỏ quan điểm của Người về ngày sa bát.

Quan điểm đó của Chúa, chúng ta biết rõ rồi. Ngày sa bát phải phục vụ con người… ngày sa bát được phép làm điều lành. Nếu những luật chi phối ngày sa bát đã nén cản trở yêu thương, ta không được làm nô lệ cho những luật ấy và ngần ngại vi phạm. Nhưng thực tế không phải là phạm luật, bởi lẽ có môt luật được đặt lên hàng ưu tiên và làm lu mờ mọi luật khác: Luật tình yêu. Để yêu thương để giúp người đang túng đói, ta đừng phải sợ thay đổi nội quy, tập tục và luật lệ.

Có những người đang đói.

Theo thói quen ta vốn nghĩ là mình không còn nô lệ cho những luật lệ bất công vốn ngăn trở ta phục vụ tha nhân. Ta lầm rồi đấy. Những luật ấy tuy không áp dụng cho việc tuân giữa này sa bát hoặc ngày chúa nhật, nhưhg nó vẫn tồn tại.

Trên thế giới có những người đang đói ăn. Có nhiều người đang đói ăn. Cónhững người đang chết đói. Cần phải cho họ ăn. Cần phải có đủ trí tưởng tượng và con tim mới giúp họ sống được. Những điều gì đang xảy ra. Có những luật ngăn cản người ta chừng nào hay chừng ấy trong công việc cứu giúp những con người đói khổ kia.

Những luật này, chính các nước giầu tự ấn định cho mình, không những để cho mình vẫn là những nước giầu có mà muốn khuếch trương thêm sự giầu có của họ. Những luật ấy chính chúng ta tự đặt ra cho mình để tiếp tục sống trong tiện nhgi xa hoa.

Ngày nào chúng ta mới dám vi phạm tất cả những luật lệ này để có được một con tim rộng mở biết yêu thương hơn nữa.

J.Y.G

SUY NIỆM 3: GIỮ LUẬT VÌ LÒNG MẾN

Chúng ta vẫn thường nghe những người khác tôn giáo nhận định về người Công Giáo như sau: “Những người theo đạo Công Giáo sướng thật! Ngày Chủ nhật họ ăn mặc đẹp, nghỉ ngơi để đi lễ nhà thờ”.

Lời nhận định tuy thật đơn sơ nhưng cũng đủ để cho chúng ta thấy rằng: Ngày Chúa Nhật là ngày của Chúa. Ngày tưởng niệm và tạ ơn Chúa vì Ngài đã tạo dựng nên tất cả cho con người hưởng dùng. Đồng thời cũng là ngày tưởng niệm hồng ân cứu chuộc của Đức Giêsu nơi lịch sử nhân loại. Trong ngày này, chúng ta thi hành việc bác ái, nâng đỡ những người túng thiếu, bần cùng. Đồng thời, chúng ta cũng dùng ngày này để làm mới lại tình yêu của mọi thành viên trong gia đình.

Như vậy, vì tình yêu, Thiên Chúa dựng nên tất cả. Cũng vì tình yêu, con người được đón nhận tất cả. Nên cũng chỉ có con đường duy nhất chính là tình yêu để dẫn đưa con người đến gặp Thiên Chúa và đến được với nhau.

Nếu làm mọi chuyện chỉ vì sợ tội, sợ mất chức, sợ tiếng chê, rồi sinh ra nhu nhược hay tàn ác trong khi thi hành bổn phận thì thật là tắc trách. Tự bản chất, con đường này không thể gặp được Thiên Chúa và không thể có mối tương quan thân tình với nhau, bởi vì nó được thi hành bằng mệnh lệnh của cái đầu mà không phải bằng tình thương của trái tim.

Hôm nay, Đức Giêsu khiển trách những người Pharisêu về thái độ nệ luật của họ, nên đã đánh mất đi tương quan với Thiên Chúa và với nhau trong tình yêu. Họ đã thể hiện và củng cố uy quyền của mình bằng sự tàn ác, vô nhân đạo và mất đi tính người. Vì thế, Đức Giêsu cho họ biết là lòng nhân hậu thì quý hơn của lễ được làm nên bởi sự ích kỷ, bất nhân, tàn ác. Thiên Chúa cần sự bao dung, tha thứ và nhân hậu trong của lễ. Vì thế, Đức Giêsu đã nói: “Ta muốn lòng nhân chứ không cần lễ tế” (Mt 12, 7).

Như vậy, Đức Giêsu nhấn mạnh đến ý nghĩa cốt lõi của ngày Sabát và đưa con người đến chỗ nhận ra ý định yêu thương của Chúa, đồng thời mời gọi con người biết cộng tác vào việc thánh hóa ngày ấy theo như ý Thiên Chúa muốn. 

Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa vì nhờ lề luật của Chúa mà chúng con được tự do, hạnh phúc. Xin cho chúng con biết tuân giữ luật vì lòng yêu mến. Amen.

Jos. Vinc. Ngọc Biển
 

SUY NIỆM:

1. Vi phạm lề luật

Đi băng qua cánh đồng lúa, các môn đệ đói bụng và bứt lúa ăn. Thấy vậy, những người Pha-ri-sêu chất vấn Đức Giê-su : « Ông coi, các môn đệ ông làm điều không được phép làm ngày sa-bát ! » Trước hết, chúng ta ta hãy cảm thương Đức Giê-su, vì trò phạm lỗi, nhưng người ta lại đi chất vấn Thầy, như thể Thầy phải chịu trách nhiệm. Sau này, trong cuộc Thương Khó và trên Thập Giá Đức Giê-su sẽ nhận vào mình tất cả mọi tội lỗi, dưới sự phán xét của Lề Luật, không chỉ của các môn đệ, nhưng là của cả loài người chúng ta.

Xét về luật, những người Pha-ri-sêu thật có lý để lên án các môn đệ, vì, để ăn hạt lúa, họ phải « gặt và xay » cây lúa. Như thế, họ đã phạm luật cấm lao động trong ngày Sa-bát ! Tuy nhiên, lỗi này là chuyện nhỏ, không nghiêm trọng gì mấy ; có lẽ Đức Giê-su chỉ cần nhắc nhở các môn đệ là xong chuyện. Nhưng có điều gì đó thật nghiêm trọng và không hề là chuyện nhỏ ; Đức Giê-su sẽ mặc khải cho chúng ta điều này.

2. Dò xét và tố cáo

Thật vậy, chúng ta có thể tự hỏi : làm sao, ở ngoài đồng bao la như thế, những người Pha-ri-sêu lại biết được việc này ? Chắc họ đã phải kín đáo nhiều ngày đi theo, rình mò, theo dõi và quan sát thật kĩ nhóm của Đức Giê-su, giống như khi người ta muốn bắt quả tang người phụ nữ ngoại tình (x. Ga 8, 2-11). Hành động này hàm chứa thái độ không tin tưởng, thậm chí thái độ lên án, và chỉ cần chờ hoặc tìm kiếm dịp mà thôi. Và, như chúng ta thấy, khi không có dịp, chính họ sẽ tạo ra dịp để Đức Giê-su và các môn đệ phạm luật ; các Tin Mừng gọi hành động này là thử hay giăng bẫy.

Thế mà, Kinh Thánh mặc khải cho chúng ta biết rằng, ý muốn lên án cho dù chưa có lý do, vốn thuộc về Satan (x. St 3, 1-7 ; Dcr 3, 1; Gi 1, 11 ; 2, 6; Kh 12, 7-10 » ; xem bài đọc thiêng liêng « Sự Dữ). Là thuộc về Satan, nhưng hành động này lại không hiếm thấy trong cuộc sống của chúng ta. Thật vậy, những người hành động theo Satan, cho dù không nhận ra mình đang hành động theo Satan, là những người có ý muốn lên án và để lên án, thì phải dựa vào lề luật để tìm kiếm, rình mò, thậm chí gài bẫy hay ngụy tạo nhằm có bằng chứng hành vi vi phạm lề luật. Vì thế, một đàng thật hợp lý khi người ta dựa vào lề luật để lên án hành vi vi phạm, như trường hợp các môn đệ bứt lúa ăn vào ngày sa-bát, nhưng đàng khác, ý muốn lên án, vốn là đặc điểm của Satan và tự nó là xấu xa, đã luôn có đó rồi. Biết như thế, nhưng không ai làm gì được, vì có lề luật là chỗ dựa, thậm chí, là chỗ ẩn nấp thật kín đáo, kín đáo nhất của Sự Dữ. Và đó chính là cách người ta lên án chết Đức Giê-su trong cuộc Thương Khó. Trong cuộc Thương Khó, Đức Giê-su là Đấng Vô Tội tuyệt đối (chúng ta thì không, vì bị rình mò một hồi là ra tội), vì thế kẻ kết án chỉ có thể là Satan, hành động nơi những con người cụ thể ; và khi kết án Đấng Vô Tội tuyệt đối, nhân danh Lề Luật : « Chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết » (Ga 19, 7), Sự Dữ bị lộ ra nguyên hình.

Hơn nữa, và điều này còn nghiêm trọng hơn, ngày Sa-bát là ngày được lập ra để tưởng nhớ ơn huệ sự sống được cứu khỏi sự chết của cả một dân tộc trong biến cố Xuất Hành, bởi lòng thương xót của Thiên Chúa (x. Đnl 5, 12.15). Nhưng trong thực tế, ngày Sa-bát đã biến thành một bộ luật phức tạp bao gồm những qui định chi li, dùng để dò xét và lên án. Ngày Sa-bát là ngày được lập ra để tưởng nhớ sự sống, nhưng đã biến thành phương tiện để lên án và giết chết chính Đấng Ban Sự Sống, là Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa. Điều này sẽ được khởi động rất sớm : « Ra khỏi đó, nhóm Pha-ri-sêu lập tức bàn tính với phe Hê-rô-đê, để tìm cách giết Đức Giê-su ». Và mưu đồ này sẽ đi đến cùng trong cuộc Thương Khó, khi người ta nhân danh Lề Luật để giết Đấng Vô Tội tuyệt đối.

3. Sự sống và lề luật

Như các môn đệ, không ai trong chúng ta không vi phạm luật ; và như những người Pha-ri-sêu, không ai trong chúng ta tránh được sức mạnh của Sự Dữ thúc đẩy chúng ta dùng lề luật để dò xét và tố cáo bản thân mình và người khác. Vậy, « tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này?Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta! » (Rm 7, 24-25)

Thật vậy, Đức Giê-su đã đứng về phía các môn đệ, những « bị cáo », và qua các môn đệ, Ngài đứng về phía chúng ta. Ngài biện minh cho họ bằng những lời mạc khải có tầm mức hết sức rộng lớn. Trước hết, Ngài dựa vào Lời Chúa trong Sách Thánh. Trong sách Samuel quyển 1, chương 21, kể lại chuyện vua Đa-vít và những người tùy tùng của ông, lúc đói đã vào nhà Thiên Chúa ăn bánh dùng để dâng tiến, thứ bánh chỉ có tư tế mới được ăn.

Khi nêu ra một biến cố lịch sử, được kể lại trong Sách Thánh, Đức Giê-su muốn nói cho người Pha-ri-sêu, và qua họ, cho chúng ta về chính khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa :

  • Sự sống ưu tiên hơn lề luật. Vì Thiên Chúa thông truyền sự sống trước khi ban lề luật (x. St 2-3). Và xét cho cùng, mọi lề luật được đặt ra để phục vụ cho sự sống. Sự sống chính là cùng đích của lề luật. Dùng lề luật để kết án, cho dù có lý, vẫn là hành động không phù hợp với cùng đích của lề luật, thậm chí thuộc về hành động của Satan.
  • Luật đúng là thánh, như thánh Phaolo nói trong thư Roma (Rm 7). Nhưng ngôi vị cũng là thánh, vì vốn được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Vì thế, trong hành vi phạm luật, phải chú ý đến hoàn cảnh, quá khứ, giáo dục, môi trường, những vấn đề và vết thương của nội tâm… Như Đức Chúa nói với ngôn sứ Samuen : « Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn ĐỨC CHÚA thì thấy tận đáy lòng » (1Sm 16, 1)
  • Con Người, nguồn sự sống, là chủ ngày Sa-bát. Mặc khải này của Đức Giê-su phải làm cho chúng ta tin tưởng và bình an, vì Đấng ban luật cũng là Đấng thương xót, bao dung, không lên án, nhưng cứu vớt. Không phải Chúa bao che chúng ta, những là vì chỉ có lòng thương xót mới có sức mạnh biến đổi và chữa lành tận căn con tim của chúng ta (x. dụ ngôn « Người Cha nhân hậu » trong Lc 15, 11-32).

 

Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J.
 

 

Từ khóa:

tiến sĩ, người ta

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận