Các suy niệm Tin Mừng CN III TN – B

Đăng lúc: Thứ sáu - 23/01/2015 10:30 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng

Chúa Nhật III TN – năm B

Lời Chúa: Gn 3,1-5.10; 1Cr 7,29-31; Mc 1,14-20

*****

MỤC LỤC

1/ Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: Đức Giêsu hành động nhờ trung gian các môn đệ
2/ Theo Chúa Giêsu, sám hối để hiệp nhất (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
3/ Nhìn về tương lai (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
4/ Hành vi nhân linh (JM. Lam Thy ĐVD.)
5/ Bỏ nghề chài lưới mà theo Chúa Giêsu (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
6/ Lời mời gọi
7/ Đáp trả lời mời gọi
8/ “Biết mình để sống đúng” (Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
9/ Năm mới người mới cả trời đất mới (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
10/ Theo Chúa từ bỏ tất cả (Cố Lm. Hồng Phúc)
11/ Phẩm chất đầu tiên của người môn đệ (Lm. Ignatiô Trần Ngà)
12/ Sám hối và tin vào Tin Mừng (Radio Veritas Asia)
13/ Đổi mới cuộc đời (ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
14/ Sám hối
15/ Các anh hãy đi theo tôi (Fx Đỗ Công Minh)
16/ Thời đại mới (AM Trần Bình An)
17/ Theo Chúa để làm công việc của Chúa (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
18/ Bướng bỉnh và ngoan ngoãn (Trầm Thiên Thu)
19/ “Khốn thân tôi…” (Lm. Vũ Xuân Hạnh)
20/ Từ bỏ – Tương quan – Vác thập giá (Lm JB Nguyễn Minh Hùng)
21/ Chúa đang gọi bạn (Msgr. Edward Peter Browne)
22/ Lời Chúa gọi hôm nay (Cha Mark Link, S.J.)

 

CNThuongNien03

A/ BẢN VĂN

Bài đọc I (Gn 3, 1-5. 10)

Lời Chúa phán cùng Giona rằng: “Hãy chỗi dậy và đi đến Ninivê, một thành phố lớn, và rao giảng cho nó điều Ta sẽ nói cho ngươi”. Giona chỗi dậy và đi đến Ninivê theo lời Chúa dạy. Ninivê là một thành phố lớn, rộng bằng ba ngày đàng, Giona tiến vào thành phố đi một ngày đàng, rồi rao giảng rằng: “Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá huỷ”. Dân thành tin tưởng nơi Chúa: họ công bố việc ăn chay và mặc áo nhặm, từ người lớn đến trẻ nhỏ. Chúa thấy việc họ làm, vì họ bỏ đời sống xấu xa, Chúa bỏ ý định phạt họ, và Người không thực hiện điều đó.

Bài đọc II (1 Cr 7, 29-31)

Anh em thân mến, tôi nói cùng anh em điều này là: Thời giờ vắn vỏi; còn có cách là những ai có vợ, hãy ở như không có; những ai than khóc, hãy ăn ở như không than khóc; những kẻ hân hoan, hãy ăn ở như không hân hoan; những người mua sắm, hãy ăn ở như không có gì; những ai dùng sự đời này, hãy ăn ở như không tận hưởng, vì chưng bộ mặt thế gian này đang qua đi.

Tin Mừng (Mc 1, 14-20)

Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, Người nói: “Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm”. Đang lúc đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy Simon và em là Anrê đang thả lưới xuống biển, vì các ông là những người đánh cá. Chúa Giêsu bảo các ông: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người”. Lập tức các ông bỏ lưới theo Người. Đi xa hơn một chút nữa, Người thấy Giacôbê con ông Giêbêđê và em là Gioan đang xếp lưới trong thuyền, Người liền gọi các ông. Hai ông bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm công, và đi theo Người.

[Mục Lục]

 

khoangcah2

B/ CÁC BÀI CHÚ GIẢI VÀ SUY NIỆM

Bài 1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: ĐỨC GIÊSU HÀNH ĐỘNG NHỜ TRUNG GIAN CÁC MÔN ĐỆ

1/ Ngữ cảnh

Bài Tin Mừng này lấy phần cuối của Lời tựa (Bản tóm tắt hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê, cc.14-15) và phần đầu của hoạt động của Đức Giêsu tại Galilê (cc. 16-20).

Tin Mừng không phải là bản công bố một loạt các chân lý rõ ràng và tách biệt. Ngược lại, đây là một bản tường thuật lôi kéo độc giả vào, đặt câu hỏi cho độc giả, gây ra những nỗi ngờ vực và những câu hỏi. Nhưng chính là nhờ cứ tiếp tục tự hỏi trong công việc giải thích, mà độc giả–thính giả trở thành môn đệ Đức Giêsu, sẵn sàng bước đi đàng sau Thầy. Đọc lần đầu tiên, hoặc đọc những đoạn rời rạc, độc giả thấy ý nghĩa của Tin Mừng không rõ ràng. Do đó độc giả cần có can đảm đọc tiếp, và cứ để cho những thắc mắc mở ra và chờ đợi các câu trả lời đến dần dần.

Cùng với việc Đức Giêsu xuất hiện, hành trình của các môn đệ cũng bắt đầu. Đức Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên tại bờ hồ Galilê. Qua các hành động của Người, Nước Thiên Chúa cũng đến gần.

2/ Bố cục

Bản văn gồm hai đoạn nhỏ có thể văn khác nhau:

1/ Một “bản tóm tắt” công việc rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê (1,14-15):

a- nơi chốn và thời gian (c. 14a),

b- chính “bản tóm tắt” (cc. 14b-15);

2/ Bài tường thuật việc Đức Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên (1,16-20):

a- Đức Giêsu thấy (cc. 16.19),

b- Đức Giêsu gọi: đến, theo (cc. 17.20a),

c- Các ông đáp: từ bỏ và đi theo (cc. 18-20b).

Người ta thường coi “bộ ba” Gioan Tẩy Giả – Phép Rửa – Cám Dỗ như một phần Mở củaTM Mc, còn “bản tóm tắt” là khởi đầu cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Toàn bản văn chúng ta đang khảo sát là phần khai mạc sứ mạng của Đức Giêsu với khởi đầu công việc rao giảng của Ngài và việc kêu gọi các môn đệ. Trong Mc, có nhiều đoạn nhắc lại và nối kết hai điểm này: x. 3,7-12.13; 6,6b.7-12).

Tuy nhiên, người ta cũng có thể coi 1,1-15 là một khối, được đóng khung bởi hai từ “Tin Mừng” (cc.1 và 15) (x. Gnilka). Sang phần kế tiếp, tác giả đưa vào một phần mới với “biển hồ Galilê”. Như thế, có thể nói, nhờ lối cấu trúc đóng khung, ta hiểu lúc đầu Tin Mừng được giới thiệu tổng quát, sau sẽ được giới thiệu chi tiết.

Các câu 14-15 long trọng giới thiệu các lời nói đầu tiên của Đức Giêsu theo Mc, do đó, cần lưu ý đến tầm quan trọng của những lời này. Trong Mt và Lc, Đức Giêsu đã nói trước khi đi vào đời sống công khai: qua ba mẩu đối thoại với quỷ (Mt 4,3-10; Lc 4,3-12); trước đó, Mt3,14-15 kể lại mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu với Gioan Tẩy Giả, còn Lc2,48-49 kể lại mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu với Đức Maria tại Đền Thờ. Những lời đầu tiên của Đức Giêsu có ý nghĩa đối với nền thần học Mt và Lc, thì hẳn cũng có ý nghĩa đối với nền thần học Mc… Nhưng bản văn song song đích thực chính là lời nói công khai đầu tiên của Đức Giêsu được ba Tin Mừng Nhất Lãm ghi lại:

a/ So sánh Mc với Mt

Mt 4,17 Mc 1,14-15
Đức Giêsu rao giảng Đức Giêsu bắt đầu rao giảng
 
Tin Mừng của Thiên Chúa:

 

Thời kỳ đã mãn

Anh em hãy sám hối  
vì Nước Trời đã đến gần
Triều Đại (Nước) Thiên Chúa đã đến gần.

 

Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng

Công thức của Mt thì ngắn và mờ nhạt hơn công thức của Mc. Điểm nòng cốt (Nước Thiên Chúa và hoán cải) được đóng khung bởi hai yếu tố bổ sung: “thời kỳ đã mãn”, và “anh em hãy tin vào Tin Mừng”.

Ngay trong bản văn Mt, câu nói ngắn ngủi của Đức Giêsu đã được Gioan Tẩy Giả nói trước đó: Tác giả Mt dùng cách đó để khẳng định sự tiếp nối của các sứ mạng (việc rao giảng của Gioan chuẩn bị cho việc rao giảng của Đức Giêsu, và việc rao giảng của các môn đệ nối dài sứ điệp của Thầy). Nhưng vì thế, khi so sánh với bản văn Mt, ta thấy bản văn Mc phong phú hơn, độc đáo hơn, đặc biệt với từ “Tin Mừng” đặt trên môi miệng Đức Giêsu.

  1. b) So sánh Mc với Lc (Lc 4,14-15): Tác giả Lcnói rằng Đức Giêsu giảng dạy nhưng không ghi lại một lời nào của Người; ngược lại, ngay sau đó, trong câu truyện hội đường Nadarét (4,16-30), Đức Giêsu đọc đoạn văn Is61, mà theo Lc, là cả môt chương trình. MàLc lại dùng động từ “loan báo Tin Mừng” (euangelizomai) (Lc thích dùng động từ này hơn là danh từ “Tin Mừng”). Đây là điểm song song đáng lưu ý với bản văn Mc. Trong cả hai bản văn, quang cảnh khai mạc cuộc đời công khai của Đức Giêsu là một Tin Mừng.

Mc đã nhấn mạnh tầm quan trọng của “Tin Mừng” (HL. euangelion) khi ngài dùng từ này mà đóng khung bản văn của ngài: “Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa” và “anh em hãy tin vào Tin Mừng”. Từ ngữ “Tin Mừng” được lặp lại ba lần để đóng khung hai đoạn văn trong cùng một phân đoạn, khiến ta hiểu đây là “từ chìa khoá” vừa của phần Mở vừa của “bản tóm tắt”. Đàng khác, nếu từ “Tin Mừng” đóng khung những lời nói đầu tiên của Đức Giêsu, điều này có nghĩa là, muốn hiểu những lời này, ta phải đi từ “Tin Mừng”.

3/ Vài điểm chú giải

- Tin Mừng (14.15): Tác giả dùng từ ngữ “Tin Mừng” ở dạng tuyệt đối (= không có bổ ngữ theo sau) 5 lần, mà ta có thể phân phối thành hai loạt: trong quan hệ với việc rao giảng cho Dân ngoại (13,10; 14,9; 16,15) và khi nói về việc các môn đệ bị bách hại và phải biết hy sinh (8,35; 10,29). Trong hai bản văn cuối cùng, đáng lưu ý là “Tin Mừng” được đặt song song với Đức Giêsu: “vì tôi và vì Tin Mừng”, y như là một sự đồng hoá. Tin Mừng được nói đến y như là một nhân vật. Trong tác phẩm Mt, từ ngữ này chỉ được dùng 3 lần trong thuật ngữ “Tin Mừng về Nước Trời”, còn Lc thì không bao giờ sử dụng. Hẳn đây là sáng kiến của riêng tác giả Mc. Nhưng cũng rất có thể là ngài đã nhận lấy ý niệm này từPhaolô, vì vị tông đồ đã sử dụng từ ngữ “Tin Mừng” khoảng 60 lần, và có tới khoảng 30 lần dùng từ ngữ này ở thể tuyệt đối (Các bản văn chính: 1 Tx 2; 1 Cr 9; Rm 1; 15; Pl 1 và 4). Từ ngữ này có nhiều nghĩa:

+ việc loan báo một sứ điệp hạnh phúc: nội dung của sứ điệp này;

+ hoạt động truyền giáo của tông đồ Phaolô nơi Dân ngoại;

+ giá trị tối cao mà thánh Phaolô phải đón nhận vì vượt quá ngài vô cùng;

+ nhất là, đây luôn luôn là một thực tại sống động, năng động, một biến cố đang diễn tiến: sự xuất hiện của vinh quang (2 Cr 4,4), sự mạc khải đức công chính của Thiên Chúa đang hoạt động để cứu độ loài người (Rm 1,16). Phaolô có thể nói rằng Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa quyền năng do phục sinh từ cõi chết” (Rm 1,4) hoặc Tin Mừng là “quyền năng của Thiên Chúa để cứu thoát mọi kẻ tin” (Rm 1,16). Nhìn theo quan điểm cứu độ, Phaolô cũng nhưMáccô đồng hoá Đức Giêsu và Tin Mừng (so sánh Mc1,14-15 với Rm 1,1-5.16).

Các độc giả của Phaolô, sống trong đế quốc, đã quen với những từ ngữ như “quang lâm”, “giáng lâm”, “tiền hô”, “công bố” (HL. kêrygma)… Nhưng tư tưởng của Phaolôkhông bắt nguồn trực tiếp từ nghi thức đón tiếp hoàng đế, mà là từ một nền tảng Cựu Ước: từ các câu chuyện các vua Saun, Đavít và Salômôn (x. 1 Sm 31; 2 Sm 1,4; 1 V 1) trong đó Tin Mừng có ý nghĩa là chiến thắng, giải phóng, sự hiển ngự của một vị vua. Đặc biệt từ sách Sách Yên Ủi Israel (Is 40–55) trong đó có từ ngữ “Tin Mừng”: hai lần ngài đã quy về Is 52,7 (x. Rm10,15; Ep 6,15). Sách II Isaia đã dùng từ “Tin Mừng” mà áp dụng cho một biến cố cụ thể: biến cố giải phóng những người lưu đày, nhờ chiến thắng của vua Kyrô và sắc lệnh cho phép họ hồi hương và tái thiết Đền Thờ. Khi giải phóng Dân Người, Đức Chúa (Yhwh) tỏ ra cho Dân ngoại thấy Người là Đấng Cứu độ đầy quyền lực, là Đấng công chính, Đấng yêu thương. Thiên Chúa đã thiết lập triều đại của Người khi tích cực can thiệp mà cứu độ Dân Ngài và tỏ mình ra cho họ. Vậy Tin Mừng là việc công bố cho muôn dân biết cuộc đăng quang này của Thiên Chúa.

Đối với Phaolô và cả Mc nữa, Tin Mừng là một cuộc đăng quang hoàng đế, là một triều đại bắt đầu (x. Rm 1,1-4). Nhưng nếu Phaolô đặt biến cố đăng quang vào lúc Đức Giêsu chết và sống lại, Mc lại đưa biến cố ấy ra trước, đặt vào đời sống công khai của Đức Giêsu. Đối vớiMc, quyền lực của Đấng Phục Sinh đã được bày tỏ cách kín ẩn trong những lời nói và việc làm của Đức Giêsu trần thế. Được loan báo trong bản tóm tắt, Tin Mừng sẽ được bung ra trong những bài tường thuật kế tiếp: lời rao giảng với uy quyền, cuộc chiến đấu chống Satan, các phép lạ và, có thể, trước tiên, việc chọn lựa các môn đệ. Từ đó, biến cố cứu độ khởi đầu cho Triều Đại của Thiên Chúa (“Tin Mừng của Thiên Chúa”: Mc 1,14) chính là bản thân Đức Giêsu (“Tin Mừng Đức Giêsu Kitô”: 1,1) đang hành động và rao giảng, Người chính là “Triều-Đại-hiện-thân” (Origiênê). Như Phaolô nói, và như Mc đã hiểu rất đúng: Tin Mừng của Thiên Chúa, chính là Con của Người. Và Đức Giêsu có thể nói: “Triều Đại (Nước Thiên Chúa) đang ở đó” bởi vì chính Người đang ở đó.

Sự song song giữa hai bản văn của Phaolô (Rm 1,1-5 và Rm 1,16-17) và Mc (Mc1,14-15) còn cho thấy một yếu tố khác nữa: lời đáp của con người với biến cố cứu độ hệ tại một thái độ duy nhất, đức tin. Hoán cải, chính là tin vào Tin Mừng, nghĩa là đón nhận Tin Mừng và dấn thân phục vụ Tin Mừng.

- Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ: Trong Mt, có một bản văn hầu như tương tự bản văn Mc, còn trong Lc, hoàn cảnh khác hẳn: đây là một bản văn độc đáo với ba yếu tố: giảng dạy đám đông, mẻ cá lạ lùng và việc kêu gọi Phêrô. Có thể nói bài tường thuật về việc kêu gọi các môn đệ đầu tiên đã có trong truyền thống ở dạng độc lập.

Đọc lướt qua, chúng ta có ấn tượng đây là một sự kiện tầm thường. Đọc kỹ hơn, ta thấy hoàn cảnh không đơn giản mấy. Trong thực tế, có hai bài tường thuật nhỏ, khá giống nhau, ta có thể đọc riêng rẽ, nhưng chúng được nối kết với nhau về thời gian, nơi chốn và hoàn cảnh, làm thành một khối rất thống nhất.

Nói là hai bài tường thuật vì các đoạn văn này được xây dựng theo cùng một mẫu, theo cách lược đồ (làm bảng nhất lãm thì thấy rõ). Ta có thể đọc thêm bài tường thuật về ơn gọi của Lêvi (x. 2,14) để thấy những đặc điểm tương tự.

  Phêrô-Anrê Giacôbê-Gioan Lêvi
1.
Người đang đi dọc

 

theo biển hồ Galilê

Đi xa hơn

 

một chút

Đi ngang qua

 

(trạm thu thuế)

2.
Người thấy

 

Simon

với em là Anrê

Người thấy

 

Giacôbê

với người em là Gioan

Người thấy

 

Lêvi

con Anphê

3.
đang quăng lưới xuống biển

 

vì họ làm nghề đánh cá

đang vá lưới ở trong thuyền
đang ngồi ở đó

 

(trạm thu thuế)

4.
Người bảo

 

Các anh hãy theo tôi

(tôi sẽ làm cho các anh thành

những kẻ lưới người như lưới cá)

Người liền gọi các ông
Người bảo ông

 

Anh hãy theo tôi

5. Lập tức hai ông bỏ chài lưới
Và các ông bỏ cha mình

 

là Dêbêđê (ở lại trên thuyền với những người làm công)

Ông đứng dậy
6. mà đi theo Người mà đi theo Người đi theo Người

Có hai yếu tố không đổi: khi đi ngang qua, Đức Giêsu thấy ai đó với nghề nghiệp; Người kêu gọi, người ấy bỏ nghề, đi theo Người. Đây là cái khung trong đó ta chỉ cần thay đổi tên người được gọi và kiểu sống của kẻ ấy.

Trong thực tế, sự song đối không hoàn toàn sít sao. Nếu đọc các bài tường thuật từ trái qua phải, ta nhận thấy rằng, cứ sang một cột, lại mất đi một yếu tố. Nhưng dù cho hai bài tường thuật đầu vừa theo một lược đồ tương tự vừa có thể tách rời nhau, ta vẫn có thể nói rằng dường như chúng không được viết độc lập với nhau; trái lại, chúng bổ túc cho nhau rất khéo. Cho dù công thức “họ làm nghề đánh cá” được dùng cho Simôn và Anrê, ta vẫn hiểu rằng Giacôbê và Gioan cũng làm nghề ấy. Mỗi bài mô tả một phương diện của nghề đánh cá (quăng lưới; vá lưới) nhưng cả hai mới cung cấp một bức hoạ đầy đủ về nghề này. Muốn biết bốn người đã bỏ gì lại, phải cộng các chi tiết của hai bài: lưới, thuyền, cha; nghĩa là: nghề nghiệp và gia đình. Nhưng đặc biệt hai câu 17 và 20 soi sáng lẫn nhau: Lời hứa “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người” chỉ được ngỏ với Simôn và Anrê, nhưng rõ ràng cũng có liên hệ đến Giacôbê và Gioan. Câu “Người gọi các ông” (bản văn 2) không nhắc lại “Các anh hãy theo tôi” (bản văn 1). Câu 17 xác định đối tượng của việc Đức Giêsu kêu gọi (một sứ mạng), còn c. 20 giải thích lời mời gọi bước theo Đức Giêsu (một ơn gọi). Như thế, những chi tiết hơi khác nhau trong hai bài lúc đầu đã khiến người ta nghĩ đến những bài tường thuật tiểu sử, nhưng vì đặc tính đúc sẵn của chúng, có lẽ phải coi đây là một thể văn riêng. Nhiều nhà chú giải cho rằng bài tường thuật này đã dựa theo một bài mẫu là ơn gọi ngôn sứ Êlisa (x. 1 V 19,19-21). Những điểm giống nhau giữa hai bản văn cho thấy tác giả đã dựa vào sách 1 Vua, những chỗ khác nhau cho thấy rằng ngài cũng có quan điểm riêng của ngài.

Giống nhau: Hai bản văn có cùng một cấu trúc, hầu như có cùng những từ ngữ giống nhau: Êlia (như Đức Giêsu) đi qua, gặp một người đang làm việc, mời người ấy đi theo mình. Người môn đệ mới liền bỏ nghề và cha mà đi theo Thầy. Trong trường hợp Êlisa, điểm thứ năm chi tiết hơn: ông huỷ tất cả những gì liên hệ với cuộc sống trước đây, và ông từ giã cha mẹ (= hoàn toàn đoạn tuyệt với quá khứ). Điều lạ lùng là yếu tố này chỉ được nhắc lại trong một bài tường thuật về một ơn gọi hụt do Lc viết (9,61-62) ở cuối một chuỗi ba câu truyện (Mt chỉ ghi giữ hai truyện đầu: Mt 8,18-22): Ở đây ta gặp lại lời xin được từ giã gia đình và lời nói về “cái cày”. Như vậy, dường như truyền thống liên hệ đến ơn gọi của Êlisa, bằng ảnh hưởng trực tiếp nhưng cũng bằng tương phản, đã đóng một vai trò quan trọng trong việc sáng tác các bài tường thuật về ơn gọi trong Tin Mừng. Các điểm khác nhau còn cho thấy rõ điều này hơn.

+ Khác nhau:

(1) Từ biệt cha mẹ. Câu trả lời của Êlia có thể có vẻ hàm hồ, nhưng Do Thái giáo coi lời ông như một lời cho phép. Còn trong ba bài tường thuật của Lc (9,57-62), Đức Giêsu không chấp nhận bất cứ sự chậm trễ nào. Trong cuộc kêu gọi các ngư phủ, không hề có lời nào cho thấy họ xin từ biệt cha mẹ. Ngược lại, mọi sự đi theo chiều hướng một sự đoạn tuyệt tận căn.

(2) Êlia “gặp thấy” Êlisa gần như do tình cờ và dùng một cử chỉ mà mời ông đi theo. Ngược lại, Đức Giêsu “thấy” những kẻ Người gọi, một cái nhìn diễn tả một sự lựa chọn trước; ngoài ra, Người còn nói một lời (“Hãy theo tôi”) chứng tỏ uy quyền tuyệt đối của Người.

(3) Êlisa đi theo Êlia chỉ như một người tôi tớ; còn bốn người được Đức Giêsu kêu gọi, thì được Người cho biết sẽ giao cho họ một sứ mạng. Các từ ngữ gợi ý một sự chuyển đổi nghề nghiệp, nhưng trong thực tế Đức Giêsu xác định một sự thay đổi hoàn toàn chiều hướng sống.

Lời Đức Giêsu làm cho bốn ông trở thành “ngư phủ lưới người” chính là trọng tâm, xoay quanh đó là bài tường thuật ơn gọi nhằm một sứ mạng. Chúng ta nhận thấy có những điểm nổi bật:

+ Sáng kiến của Đức Giêsu cho thấy uy quyền tối cao và tính hữu hiệu của lời Người. Không phải là người môn đệ đi tìm một vị thầy dạy suy tư, nhưng là Đức Giêsu đi bước trước. Như Yhwh đã thấy Môsê, đã nhận ra Giêrêmia, Đức Giêsu thấy, chọn và gọi những kẻ Người muốn. Ngay từ đầu, Người đã xử sự như thầy và chúa tể.

+ Lời đáp của kẻ được gọi: tuyệt đối vâng lời Đức Giêsu, như trường hợp các ngôn sứ; đoạn tuyệt trọn vẹn với hoàn cảnh trước đó (gia đình và nghề nghiệp); dâng mình hoàn toàn cho Đấng kêu gọi để sống với Người một cuộc sống mới.

+ Đức Giêsu kêu gọi để giao phó một sứ mạng. Đối với Giáo Hội tiên khởi, bài tường thuật này là nền tảng cho quyền bính tông đồ. Sứ mạng của các ông không đến từ các ông, nhưng từ một tiếng gọi và nó bén rễ trong sự kiện các ông đã bước theo Đức Giêsu.

- “Kẻ lưới người như lưới cá” (halieis anthrôpôn) (c. 17): Tại Sumer (thiên niên kỷ iii) và tại Mari (thiên niên kỷ ii), trong một ngữ cảnh nói về chiến tranh, tấm lưới cá là một dụng cụ giúp đạt chiến thắng trên kẻ thù và là biểu tượng diễn tả việc Thượng Đế thực thi công lý. Trong nhiều bản văn ngôn sứ, đặc biệt Gr 16,16; Kb 1,14-15, ta thấy những tư tưởng và hình ảnh này liên hệ đến việc Yhwh phán xét Israel: trong dụ ngôn chiếc lưới (x. Mt 13,47-49), hình ảnh ám chỉ cuộc chọn lọc trong ngày tận thế. Nhiều cách diễn giải: “you will catch men as if you were catching fish” (Barrow Eskimo), “just like you catch fish, I will make catch men (San Blas), “give power to bring men” (Black Bobo), “make you become ones who are men bringers (Moré), “fishers who fish (or catch) men” (Bratcher & Nida).

- “Lập tức hai ông bỏ …”: Tác giả Mc chỉ áp dụng hai lần động từ HL aphiêmi, “leave, abandon”; “rời bỏ, bỏ rơi” cho các tông đồ (ở đây và 14,50). Có lẽ ngài muốn nói: bỏ của cải mình cũng chẳng ích gì nếu lại bỏ rơi Đức Giêsu trước cái chết, hay chỉ “theo Người xa xa” (14,54). Kể từ việc tuyên xưng đức tin tại Xêdarê và lời loan báo Khổ Nạn lần đầu, Mcđưa vào vào đề tài con đường (x. 8,27. “Con đường” đánh dấu các chặng lên Giêrusalem: 9,33; 10,32). Nhưng trên con đường này, mặc dù đi đàng sau, các môn đệ không muốn theo Đức Giêsu tiến về cuộc Khổ Nạn. Ngược lại, người môn đệ chân chính, là anh mù Báctimê, khi đã thấy, thì theo Đức Giêsu trên con đường này (10,52). Kể từ nay, bước theo Đức Giêsu, chính là vác thập giá (x. 8,34). Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan chỉ thực sự đi theo Đức Giêsu khi mang Tin Mừng đến cho mọi người (x. 1,38; 2,15), và hy sinh mạng sống “vì Đức Giêsu và vì Tin Mừng” (8,35).

4/ Ý nghĩa của bản văn

* Tóm tắt hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê (14-15)

Trước khi ghi nhận các chi tiết thuộc về đời sống công khai của Đức Giêsu, Mc tóm tắt hoạt động của Người bằng cc. 14-15. Biến cố Gioan Tẩy Giả bị bắt đã kết thúc hoạt động của ông. Đức Giêsu, trước đây đã được Gioan ban phép rửa cho (1,9-11), nay trở lại Galilê và tại đó, Người bắt đầu công trình của Người. Sứ điệp Người phải truyền đạt được xác định ngay từ đầu là Tin Mừng của Thiên Chúa: Tin Mừng đến từ Thiên Chúa và Tin Mừng nói về Thiên Chúa. Đây là Tin Mừng tuyệt hảo được Thiên Chúa thông ban cho ta và nói với ta về tương quan Người muốn thiết lập với ta. Đức Giêsu cho biết rằng những gì Thiên Chúa đã hứa, nay đang trở thành hiện thực. Thời gian đang khởi đầu với lời loan báo và hoạt động của Đức Giêsu là thời gian của sự hoàn tất, thời gian của hoạt động đặc biệt của Thiên Chúa. Tất cả những điều này khiến chúng ta vui mừng và tin tưởng.

* Gọi bốn môn đệ đầu tiên (16-20)

Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã chứng tỏ Người là vị Tôn sư và Chúa tể. Người không giải thích cho các môn đệ biết chương trình hoạt động của Người, Người không đề nghị hay hứa hẹn, không tìm cách thuyết phục, Người chỉ đơn giản kêu gọi bước theo Người. Ngoài ra, bởi vì ngoại trừ trong cuộc Khổ Nạn, Đức Giêsu không làm gì mà không có các môn đệ. Điều này có hai ý nghĩa: 1) Ngay khi xuất hiện, Đức Giêsu tạo lập một cộng đoàn, một gia đình (x. 3,20-35) gồm các môn đệ, để họ “ở với Người và để Người sai đi” (3,14). 2) Các ông là những người tiếp nối công trình của Người, các ông phải làm chứng về những hoạt động của Người. Người ta trở thành môn đệ khi đón nhận tiếng gọi của Đức Giêsu. Mở lòng ra liên tục với tiếng gọi này chính là đặc điểm thường hằng của người môn đệ.

Ở đây, chúng ta ghi nhận Simôn nổi lên như người thứ nhất trong anh em do chính sáng kiến của Đức Giêsu (sẽ có lúc tên ông không được nêu ra đầu tiên nữa: x. 16,7); chính Người đã tách ông ra khi thiết lập Nhóm Mười Hai, Người đã đổi tên Simôn thành “Phêrô” (x. 3,13-19).

+ Kết luận

Vậy bài tường thuật này có một ý nghĩa thần học. Nhưng còn giá trị lịch sử thì sao? Dường như bài này đã gây nhiều vấn nạn, và các Tin Mừng viết sau (như Lc và Ga) đã trình bày việc kêu gọi đúng thực tế hơn. Dù vậy, bên kia tính chất lược đồ thần học, bài này cũng phản ánh những nét lịch sử:

- Các môn đệ đã thực sống quanh Đức Giêsu (“bước theo, đi đàng sau” là động từ xác định quan hệ của một nhóm môn đệ với một vị thầy (Rabbi).

- Con người Đức Giêsu có sức thu hút người ta đi theo Người vô điều kiện (nhiều đoạn Mccho thấy như vậy).

- “Bước theo” Đức Giêsu có nghĩa là dấn thân trọn vẹn vào một cuộc phiêu lưu.

- Có thể coi câu nói “những kẻ lưới người” là câu nói của chính Đức Giêsu, vì không có bản song song trong truyền thống kinh sư Do Thái hay Hy Lạp.

5/ Gợi ý suy niệm

1/ Tác giả muốn nêu bật sự nối tiếp giữa cuộc đời Đức Giêsu và Giáo Hội. Cuộc đời Đức Giêsu được giới thiệu bởi một vị Tiền Hô “bị nộp”. Cuộc đời các ông cũng sẽ được mạc khải bởi một Đấng “bị nộp” và “sống lại”. Đọc câu truyện hôm nay, thực sự phải nhận ra, đây chính là Đấng Phục Sinh vừa xuất hiện trên bờ biển, liên kết con người vào Tin Mừng bằng lời quyền năng của Ngài. Kể từ nay, Galilê chính là toàn trái đất, và bốn vị tông đồ là cộng đoàn mênh mông gồm những người bước theo Đức Giêsu.

2/ Người Kitô hữu hôm nay cũng là những người đã nhận được lời kêu gọi: “Hãy theo tôi”. Họ không tự ý ra trình diện Đức Giêsu, không thỉnh nguyện được tham gia vào công trình của Người. Đức Giêsu cũng không nhận họ như là những cộng sự viện có tiền lương và có thời gian nghỉ hè. Người kêu gọi họ. Tiếng gọi của Người rất đòi hỏi, nhưng đưa lại trọn vẹn ý nghĩa cho cuộc đời họ.

3/ Đức Giêsu không đề nghị cho họ một chương trình đã được hoạch định sẵn, nhằm thuyết phục họ là dấn thân theo chương trình ấy là chuyện hợp lý. Người gọi họ đến với Người. Thật ra tiếng gọi của Người cũng là một mệnh lệnh: điểm quy chiếu và định hướng duy nhất cho họ là bản thân Đức Giêsu. Người đi trước họ, và họ phải bước theo Người. Nội dung cơ bản của tiếng gọi, tức của cuộc sống mới của các môn đệ, là sự quy hướng về Đức Giêsu, sự hiệp thông đời sống với Người. Người môn đệ ký thác vào sự hướng dẫn của Người.

4/ Tiếng gọi này đặt người môn đệ vào trong một tương quan riêng tư với Đức Giêsu, làm cho người ấy trở nên thành viên của một cộng đoàn và tạo ra tương quan của người ấy với những người được gọi khác. Đi theo Đức Giêsu không phải là từng cá nhân riêng lẻ, nhưng là một cộng đoàn các môn đệ. Nhưng không phải là các môn đệ mà là Đức Giêsu, bằng tiếng gọi của Người, xác định ai thuộc về cộng đoàn này.

5/ Tiếng gọi này là một lời mời để cho Người đào tạo: “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (c. 17). Người trao cho họ một nhiệm vụ mới và Người chuẩn bị họ. Họ sẽ dẫn những người khác đi trên cùng một nẻo đường mà họ đang theo, tức sống hiệp thông với Đức Giêsu.

[Mục Lục]

Bài 2. Theo Chúa Giêsu, sám hối để hiệp nhất

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Bước vào Chúa nhật thứ III thường niên, chúng ta thấy Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giorđan xong, được Gioan giới thiệu cho mọi người biết Người là : “Chiên Thiên Chúa” (Ga 1, 29). Ông bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, một hành động diễn tả sự liên tục giữa Giao ước cũ với Giao ước mới, với sứ điệp : “Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm” (Mc 1, 14).

Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến

Viên cai ngục của Hêrôđê tra tay bắt Gioan Tẩy Giả tống ngục. Sứ mạng, lời rao giảng cũng như phép rửa của Gioan chấm dứt, thời giờ đã mãn, Đức Giêsu xuất hiện. Không như Gioan, Chúa Giêsu không đến để thay đổi phép rửa thống hối, sứ mệnh của Người là loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa. Tin Mừng Người loan báo không phải là “tin mới” hay tin mừng như bao tin mừng. Chúa Giêsu nhân danh Thiên Chúa loan báo Tin Mừng, Người chính là Tin Mừng, là Lời Thiên Chúa, Lời cứu rỗi, là sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa loài người.

Gioan loan báo thời mới sẽ đến, thời viên mãn. ‘Thời khác’ là chính Chúa Giêsu, thời của Gioan và thời của Chúa Giêsu nối liền với nhau không có sự gián đoạn.

Gioan đã lãnh nhận sức thiêng khi Chúa Giêsu bước xuống dòng sông Giorđan. Thánh Thần Thiên Chúa ngự xuống trên Chúa Giêsu khi Gioan đổ nước. Chúa Cha chứng nhận Chúa Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Ngài.

Từ “gần đến” phải được hiểu là : “Ở bên anh em“. Người ở giữa chúng ta. Chúa Giêsu đã nói với một viên ký lục khi hỏi Chúa về hai điều răn trọng nhất: “Ngươi không còn xa Nước Thiên Chúa đâu” (Mc 12, 34).

Hãy theo Ta

Simon và em là Anrê đang thả lưới xuống biển. Chúa gọi hai ông, biến các ông thành những người cộng tác. Chúa không chỉ ủy thác cho họ một học thuyết, nhưng biến họ, những người lưới cá thành những kẻ lưới người, quăng Lời Chúa vào thế gian để đánh bắt người, đưa người ta lên bờ cho Chúa, đúng như lời Chúa Giêsu nói: “Ta sẽ làm cho các người trở thành những kẻ chài lưới người” (Mc 1, 17).

Giacôbê và Gioan đang xếp lưới trong thuyền với cha mình cùng với các người làm công. Một sự tương phản Marcô đã quan sát và làm nổi bật. Simon và Anrê đã bỏ lưới. Giacôbê và Gioan đã bỏ cha. Hai người con bỏ lại cha với những người đang làm việc không phải vì tình nghĩa con cái hay gia đình, nhưng là vì đồng tiền bát gạo. Marcô sử dụng thuật ngữ “người làm thuê” mà chúng ta dịch là “người làm công“. Hai người con “bỏ cha“, thay vì ở bên cha, nay thay bằng “theo sau Chúa Giêsu” (x. Mc 1, 20).

Những ngư phủ đến với Chúa Giêsu, đã trở thành những kẻ đánh bắt người như lời Chúa phán : “Này Ta sai ngư phủ đến… và họ sẽ (vung) lưới bắt chúng” (Gr 16, 16). Nếu Chúa sai những người khôn ngoan tới, họ sẽ thuyết phục dân, hoặc bắt lấy dân. Nếu Chúa gửi những người giầu đến, họ sẽ dùng tiền mua chuộc dân và thống trị dân. Nếu Chúa gửi những người khỏe mạnh đến, họ sẽ dùng sức mạnh dụ dỗ dân và cưỡng bức dân bằng bạo lực.

Không có ai trong số các tông đồ là những người ấy. Simon Phêrô là một bằng chứng. Ông nhút nhát, đến nỗi sợ cả một đầy tớ nữ; ông nghèo không có gì, thậm trí cả tiền thuế cũng không có (Mt 17, 24). Phêrô nói: “Bạc vàng tôi không có ” (Cv 3,6). Và ông là người ít học, nên từ khi chối Chúa, ông cũng chẳng biết rút ra bài học.

Những kẻ đánh cá được Chúa Giêsu chọn và sai đi, họ ra đi và đã mang lại kết quả mĩ mãn hơn cả những kẻ mạnh, người giầu có và khôn ngoan. Với giáo lý Chúa dạy, họ đã thu hút nhiều người mà không cần bạo lực; phận nghèo khó, họ đã dạy dỗ những kẻ giàu có; là người dốt nát, họ huấn giáo những kẻ khôn ngoan.

Bước theo Chúa Giêsu cần phải sám hối để hiệp nhất

Chúa Giêsu gọi các môn đệ của mình “ăn năn sám hối” (Mc 1, 15). Sám hối là đi từ đời sống tội lỗi sang đời sống con cái Chúa, từ tuyệt vọng đến hy vọng, từ chán nản đến vui mừng, từ bóng tối ra ánh sáng. “Sám hối vì nước Thiên Chúa đã gần đến” (Mc 1, 15) vẫn luôn có tính chất thời sự của Tin Mừng. Quyết tâm sám hối trở về cùng Chúa là con đường dẫn đưa Giáo Hội đến sự hiệp thông hữu hình trọn vẹn vào thời kỳ Thiên Chúa thiết định.

Ngày nay Chúa cũng mời gọi chúng ta mang vào thế giới sứ điệp sự thật và tình thương của Chúa. Hãy sẵn sàng tham gia vào sứ mạng này và nhất là cầu xin Chúa đừng để những chia rẽ và tranh chấp giữa các tín hữu Kitô làm lu mờ khả năng chiếu tỏa của Tin Mừng. Các cuộc gặp gỡ đại kết trong thời gian gần đây gia tăng trên thế giới là một dấu chỉ chứng tỏ điều đó.

Trước giờ Kinh Truyền Tin trưa Chúa nhật 23/1/2011, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đưa ra lời kêu gọi sau đây : ” Ngày nay cũng vậy, để trở thành dấu chỉ và phương thế kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa trong thế giới, các tín hữu Kitô chúng ta phải xây dựng cuộc sống trên 4 cột trụ, đó là: cuộc sống trên nền tảng đức tin của các Tông Ðồ được chuyển lại trong Truyền Thống sinh động của Giáo Hội, tình hiệp thông huynh đệThánh Thể vàkinh nguyện. Có thế, Giáo Hội mới được kết hiệp bền vững với Chúa Kitô và chu toàn sứ mạng của mình, dù có những chia rẽ như thánh Phaolô Tông Ðồ nói đến : “Hỡi anh em, tôi khuyên nhủ anh em tất cả hãy đồng tâm hiệp ý trong lời nói, để không có sự chia rẽ nơi anh em, nhưng hãy kết hiệp trọn vẹn trong tư tưởng và cảm thức” (1 Cr 1,10). Thực ra thánh nhân đã biết trong cộng đoàn Kitô ở Côrintô, đã nảy sinh những bất thuận và chia rẽ; vì vậy, ngài nghiêm nghị viết thêm rằng: “Phải chăng Chúa Kitô bị chia rẽ sao?” (1,13). Ngài quả quyết mọi chia rẽ trong Giáo hội là làm xúc phạm đến Chúa Kitô, Thủ Lãnh duy nhất và là Chúa, chúng ta luôn luôn có thể tái hiệp nhất, nhờ sức mạnh vô tận của ơn thánh Chúa.

Theo giáo huấn của thánh Phaolô, chúng ta được mời gọi loại bỏ gương mù chia rẽ nơi chúng ta để mang sứ điệp của Chúa Kitô Phục Sinh cho tất cả mọi người. Chúng ta hãy cầu nguyện xin Chúa cho sớm đến ngày Giáo Hội được hoàn toàn hiệp nhất. Amen.

[Mục Lục]

Bài 3. Nhìn về tương lai

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Có một thầy ẩn tu tên là Xê-bat-chiêng thường đến cầu nguyện tại một nhà nguyện vắng vẻ trên núi. Trong nhà nguyện này dân chúng tôn kính một tượng Thánh Giá với tước hiệu là “Tượng Chúa ban ơn”

Thấy dân chúng có lòng tin thường đến cầu xin ơn lành, thầy Xê-bat-chiêng cũng thêm lòng tin cậy.

Một hôm vắng người, thầy quỳ gối trước Thánh Giá và chân thành khấn nguyện: “Lạy Chúa, con ước ao được chia sẻ đau khổ với Chúa, xin cho con được thế chỗ Chúa trên thánh giá”.

Thầy quỳ yên lặng, mắt đăm đăm nhìn lên Thánh Giá mong đáp lời. Một lúc sau, từ Thánh Giá có tiếng phán bảo: “Được, Ta bằng lòng để con thế chỗ Ta trên Thánh Giá nhưng với một điều kiện duy nhất là bất cứ điều gì xảy ra, tai con nghe gì, mắt con thấy gì, con đều phải giữ im lặng không được nói năng gì hết”. Xê-bat-chiêng hứa và được Chúa Giêsu cho lên thế chỗ Ngài trên Thánh Giá.

Ngày qua ngày, dân chúng vẫn đến trước tượng Thánh Giá để cầu nguyện. Không ai hay biết về việc đổi chỗ này.

Một hôm, có người xứ nọ đến cầu nguyện. Khi ra về, ông để quên dưới ghế quỳ cái túi đầy những đồng tiền vàng. Thấy vậy thầy vẫn yên lặng.

Lúc sau, có một người nghèo khổ vào nhà nguyện, ông ta sung sướng nhìn túi tiền vàng, tưởng là Chúa ban cho liền xách túi, tạ ơn và đi ra.

Rồi có một chàng thanh niên vào quỳ gối khẩn nguyện xin ơn che chở vì sắp đi xa. Vừa ra khỏi nhà nguyện thì gặp người phú hộ trở lại tìm túi tiền. Không thấy đâu, ông nghi chàng thanh niên đã lấy đi, tranh cãi và cả hai mời cảnh sát phân xử.

Không cầm lòng được nữa, từ trên Thánh Giá, thầy Xê-bat-chiêng hét lên: Đứng lại. Mọi người ngạc nhiên. Thầy phân trần sự việc. Người phú hộ tìm người nghèo xin lại túi tiền. Chàng thanh niên cũng vội vã đi cho kịp chuyến tàu.

Khi không còn ai trong nhà nguyện, Chúa Giêsu lên tiếng bảo Xê-bat-chiêng: “Con hãy xuống ngay khỏi Thánh Giá, con không xứng đáng thế chỗ cho Ta, vì con đã không biết giữ yên lặng như lời con đã hứa.”

Thầy vội vã phân trần: Nhưng lạy Chúa, làm sao con có thể chịu đựng được cảnh bất công đó?

Chúa Giêsu đáp: Thật con không hiểu gì hết! Tiền của người phú hộ là tiền bất lương, trong khi người nghèo đói kia vất vả mà không kiếm đủ miếng cơm manh áo cho đàn con nhỏ. Và nếu chàng thanh niên kia có bị cảnh sát giữ lại, anh ta lỡ chuyến tàu, như thế đã cứu được mạng sống mình. Kìa, tàu của anh ta đang lao đao giữa biển cả sắp chìm vì sóng to gió lớn. (Trích tuyển tập truyện hay, Giấc Mộng Vàng, trang 27).

Câu chuyện gợi nhớ Lời Chúa trong sách Isaia: Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi bấy nhiêu.

Trong suy nghĩ của con người,chúng ta không thể hiểu được tại sao Chúa Giêsu lại gọi bốn môn đệ đầu tiên để đặt nền tảng xây dựng Giáo hội như bài phúc âm hôm nay vừa kể.

Đó là những người chài lưới “ăn với sóng, nói với gió“, ít học, quê mùa. Chúa Giêsu lại chọn họ làm môn đệ. Tại sao Chúa Giêsu không chọn những Luật sĩ, những Pharisiêu, những Ký lục thông thái?

Cũng như chúng ta cũng hỏi, tại sao Chúa Giêsu không sinh ra nơi cung điện nguy nga lộng lẫy mà lại chọn hang đá Bêlem hôi hám lạnh lẽo để giáng sinh? Tại sao Chúa Giêsu lại chọn cái chết Thập giá đau đớn tủi nhục để làm phương thế cứu độ? Ngắm nhìn Hài Nhi trong máng cỏ cũng như nhìn lên tử tội Giêsu trên thập giá, chúng ta thường tự hỏi tại sao Chúa lại thích những điều nghịch lý? Làm sao người ta có thể tuyên xưng Người là Đấng Giải Thoát khi Người đến trong dáng vẻ yếu đuối bé bỏng?

Thánh Phaolô đã từng thốt lên: Trong khi người Hy lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, trong khi người Do thái tìm các dấu lạ, thì chúng tôi lại rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh. Một sự điên rồ đối với lý trí nhân loại.

Bởi đó, đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của con người. Thiên Chúa là Thiên Chúa. Con người là thụ tạo.

Chúa Giêsu thường chọn những cái nghịch lý để làm những điều vĩ đại. Tám mối phúc thật là nghịch lý đối với người đời nhưng lại là Hiến Chương Nước Trời. Chúa Giêsu không đến với sức mạnh bạo lực nhưng với những gì yếu ớt mỏng manh kết tụ nơi Hài Nhi bé nhỏ. Chúa Giêsu cũng kêu gọi những người tầm thường, những người khiêm nhường bé nhỏ. Chính bằng cái mỏng manh bé nhỏ ấy mà Người khơi dậy nơi con người cái chân tâm để rồi tình yêu của Người giúp họ biến đổi để trở nên những rường cột của Giáo hội.

Như thế Chúa nhìn con người với cái nhìn yêu thương, tôn trọng, luôn thấy cái tốt, cái đáng yêu nơi mỗi người cho dù họ nhỏ bé, họ tầm thường. Chính sự bé nhỏ đó mà Chúa biến đổi để nên lớn lao.

Mỗi người chúng ta trong cách nhìn về tha nhân cũng cần học theo gương của Chúa. Đó là cái nhìn về phía đàng trước, về phía tương lai.

Nhiều lần ta khóa chặt anh chị em mình trong quá khứ lỗi lầm. Nhiều khi chỉ vì vài xích mích, vài lỗi lầm trong cuộc sống, nhưng ta lại vịn vào đó mà phủ nhận, mà phán đoán và đánh giá chính họ theo thành kiến của mình. Có người giận Cha xứ mà bỏ Nhà thờ không đi lễ, không xưng tội rước lễ. Có người tâm sự: mọi người coi tôi như một người xấu xa, ai cũng lên án, ai cũng xa lánh, cùng lắm chỉ thương hại, không còn cánh cửa mở ra phía trước cho tôi.

Về mặt xã hội, mấy mươi năm qua cũng có thái độ xét đoán con người như thế. “Chủ nghĩa lý lịch” tạo nên sự kỳ thị khủng khiếp. Biết bao nhân tài bị mai một, không phát huy được tài năng chỉ vì lý lịch. Biết bao kẻ bất tài nhờ lý lịch được thăng quan tiến chức. Khóa chặt con người trong quá khứ, một quá khứ do cha mẹ, do hoàn cảnh xã hội tạo nên. Vì quá khứ ấy mà mà mọi cánh cửa mở ra cho tương lai của xã hội đất nước cũng bị thiệt thòi.

Cho nên xem ra con người ta vẫn hay nhìn lại phía đàng sau hơn là nhìn về phía đàng trước. Trong khi đó, niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngỏ cho tương lai lại thúc bách ta nhìn về phía tương lai.

Nhìn về phía tương lai là không chấp nhận thái độ thất vọng: thất vọng về chính mình, về anh em, về cuộc đời. Nhìn về phía tương lai là thay thế thất vọng bằng niềm tin: tin vào chính mình, tin vào con người, tin vào cuộc đời…Niềm tin gắn liền với hy vọng. Thất vọng như Giuđa nên đã thắt cổ tự vẫn. Hy vọng như Phêrô, đã từng sa ngã và tin vào ơn thứ tha nên tìm lại mùa xuân tâm hồn. Vào một buổi sáng mùa xuân, có hai người mất hy vọng đang đi với nhau, buồn phiền sầu não chán chường mệt mỏi. Nhưng Đấng Hy Vọng đã tới với họ. Người chuyện trò với họ. Hai môn đệ trên đường Emmau quyết định quay về Giêrusalem. Niềm hy vọng làm bừng dậy sức sống mới. Từ đó Đấng Hy Vọng là niềm hạnh phúc cho nhân loại.

Nhìn về phía tương lai là tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngỏ và dẫn đưa chúng ta đi về quê trời dấu yêu, niềm hy vọng tuyệt vời trên hành trình đức tin.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự nhẫn nại,

để chúng con có thể chờ đợi những điều sẽ xảy đến trong tương lai,

để có thể thay đổi con người chúng con sao cho phù hợp với những điều mà chúng con không mong ước,

để chúng con có thể chấp nhận những người gây khó chịu cho chúng con,

để chúng con có thể sống giữa những giới hạn của cuộc đời này.

Xin ban cho chúng con sự can đảm cần thiết,

để chúng con trở nên bạn thân của những kẻ thù,

để chúng con có thể chấp nhận và hy vọng vào những điều hầu như đã hết hy vọng,

để chúng con có thể đối mặt với những chỉ trích,

để chúng con có thể tin vào những gì có thể và những gì không thể.

Xin ban cho chúng con ơn khôn ngoan là ơn mà không thể thiếu được trong cuộc sống này,

để chúng con thấy được giá trị ở những điều mà mọi người coi thường nó,

để chúng con có thể chấp nhận những điều không thể giải thích được trong cuộc sống hằng ngày,

để chúng con có được một tinh thần học hỏi và sẵn sàng phó thác vào ân ban của Chúa. Amen.

(Trích từ “Lời kinh dâng Chúa”).

[Mục Lục]

Bài 4. HÀNH VI NHÂN LINH

  1. Lam Thy ĐVD.

Bài Tin Mừng hôm nay (CN.III/TN-B – Mc 1, 14-20) trình thuật Đức Giê-su khai mạc sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Người dạy: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” Thời kỳ đã mãn nghĩa là đã hết một thời kỳ, và đã đến lúc bắt đầu một thời kỳ mới. Thời cũ là thời của Cựu Ước – thời kỳ trông đợi Đấng Cứu Tinh đem ơn cứu độ của Thiên Chúa xuống nhân trần, để giải thoát loài người khỏi tội lỗi và sự chết đời đời – thời kỳ này đã mãn (đã chấm dứt). Thời kỳ mới bắt đầu mở ra một kỷ nguyên mới là “Triều đại Thiên Chúa” (Thánh sử Mat-thêu gọi cách nôm na là “Nước Trời” – Mt 4, 17). Tuy nhiên “Triều đại Thiên Chúa” mới chỉ “đến gần” chớ chưa phải là hiện thực.

“Triều đại Thiên Chúa – Nước Thiên Chúa” đã đến gần, và vì thế “anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Tại sao lại như vậy? Câu trả lời cũng tương đối đơn giản: Lời dạy “tin vào Tin Mừng” tức là hãy tin vào Lời Chúa loan báo: “Nước Trời đã đến gần”. Biết được Nước Trời đã đến gần, thì điều kiện tiên quyết để có thể đạt được Nước Trời là hãy sám hối. Rõ ràng sám hối và tin là 2 chiều kích đan kết vào nhau và là điều kiện của nhau: Nếu anh tin vào Tin Mừng thì hãy sám hối và khi anh sám hối thì niềm tin của anh sẽ được thăng hoa. Nói cách khác, anh cần phải ý thức rõ ràng con người trần thế đầy tội lỗi nhuốc nhơ, chỉ khi nào anh thực lòng ăn năn hối cải (sám hối), quyết tâm sống theo Lời Chúa, anh mới có hy vọng chiếm hữu được Nước Trời.

Có một châm ngôn La ngữ khá phổ biến: “Lầm lỗi là bản tình của con người” (errare humanum est). Đông phương cũng có câu “nhân vô thập toàn” (con người không bao giờ có được thập phần – 10/10 – hoàn hảo). Đã là con người thì ai cũng có những sai lầm thiếu sót không tránh khỏi. Những lỗi lầm sai sót của con người ví như bụi bặm bám trên một làn da, một tấm thân và vì thế mới gọi đời là trần gian (trong đám bụi), trần thế (bụi đời), trần ai (bụi sầu), hồng trần (bụi hồng). Bụi bặm bám vào da người không chỉ làm cho xấu đi nước da, mà còn phát sinh bệnh tật (hôi hám, ngứa ngáy, ghẻ lở, nấm mốc…). Tất nhiên khi thân mình đầy bụi thì cần phải tắm rửa, không những chỉ để giữ cho thân thể sạch đẹp mà còn giúp cho sức khoẻ tăng trưởng tốt. Tắm rửa sạch sẽ rồi thì sau đó cơ thể sẽ dơ bẩn trở lại, và nếu thế thì lại phải tiếp tục tắm rửa. Châm ngôn sống phải là: “Tắm rửa hàng ngày, tắm rửa luôn luôn”. Với bụi bặm hữu hình còn như vậy, huống chi những bụi bặm vô hình bám vào và làm thối rữa tâm hồn.

Chắc chắn không một ai nghĩ rằng “Tắm rửa rồi thì sau đó thân thể lại dơ bẩn trở lại. Vậy thì khỏi cần tắm rửa chi cho mất công”. Đó chỉ là “lý sự cùn”! Tuy vậy, bản thân kẻ viết bài này đã vấp phải lập luận “lý sự cùn” tương tự như trên. Tôi vẫn chưa quên một câu chuyện cứ ám ảnh tôi khôn nguôi: Hồi tôi còn nhỏ, có một lần thân phụ tôi sai tôi quét nhà. Vì đang mải chơi, tôi cãi lại: “Con có quét sạch thì lát nữa nó cũng dơ bẩn trở lại”. Thân phụ tôi nghiêm nét mặt: “Được lắm! Vậy thì trưa và chiều nay con khỏi ăn cơm, vì có ăn thì rồi cũng đói lại mà thôi”. Tôi giật mình xin lỗi và ngay lập tức líu ríu cầm chổi quét nhà. Một câu chuyện tương tự khác xảy ra bên Tây Ban Nha (theo lời kể của một Linh mục Việt Nam nhân chuyến công tác tại Rô-ma, có ghé qua Tậy Ban Nha): Tại nhà thờ một Giáo xứ có một cây Thánh Giá mà trên đó là tượng Chúa Giê-su thay vì hai tay dang thẳng sang 2 bên, thì chỉ có tay trái dang thẳng, còn tay phải thì thõng xuống đưa về phía trước như muốn xoa đầu hay vẫy gọi ai đó. Hỏi sự tích thì được biết:

Trước đó đã lâu lắm, có một người đến xưng tội với cha xứ, chỉ xưng có một tội duy nhất. Thấy đó là một tội trọng, cha xứ ôn tồn khuyên bảo phải kiên quyết chừa cải không mắc phạm nữa. Cách một tháng sau, cũng người đó đến xưng tội và cũng chỉ một tội y như lần trước. Cha xứ nghiêm khắc cảnh cáo: “Phải ăn năn dốc lòng chừa, không được tái phạm nữa, và nếu còn tái phạm tội này thì không tha được đâu”. Vài tháng sau, cha xứ lại thấy người đó xưng chỉ một tội y chang lần trước. Cha xứ bực dọc: “Tôi đã nói rồi mà tại sao ông không nghe. Thôi thí lần này tôi giải tội cho, nhưng không có lần nữa đâu đấy nhé”. Không ngờ mấy tháng sau, người ấy cũng đến xưng tội và cũng chẳng khác 3 lấn trước. Cha xứ không kềm được tức giận, đuổi thẳng. Người đó buồn rầu lủi thủi ra về. Đến giữa nhà thờ, cúi mình bái Thánh Giá, bỗng thấy có một bàn tay đặt trên đầu kèm theo một lời nói rất điềm đạm: “Cha xứ không giải tội cho con, thì lại đây Ta giải cho”. Ngẩng đầu lên, người đó hoảng hốt khi thấy bàn tay phải của Chúa Giê-su đã rời khỏi Thánh Giá, đang đặt trên đầu minh và lời nói vừa rồi từ chính miệng Người phát ra. Kể từ đó, nhà thờ giữ nguyên hiện tượng Đức Giê-su trên thập giá có tay phải thõng xuống và đưa về phía trước.

Thế đấy! Chẳng ai dám tự vỗ ngực xưng mình là xưng tội nào thì chừa hẳn được tội đó. Đó là chưa kể tội lỗi trong cuộc đời trần thế này có vô vàn vô số hình thức và sự cám dỗ khác nhau, không thể lường trước được. Tuy nhiên “Lầm lỗi là bản tình của con người” nên chi cũng đừng lo sợ thái quá. Điều quan trọng là cần phải biết luôn luôn nhìn lại con người mỏng giòn và yếu đuối của mình, mà sám hối và tin vào Tin Mừng Cứu Độ của Thiên Chúa, thì sẽ được tha thứ, như dân thành Ni-ni-vê thủa xưa (Gn 3, 1-5.10). Ấy cũng bởi vì “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. Nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám.” (Dt 11, 1-2).

Con người vốn dĩ rất dễ bị dao động trước những hiện tượng thiên nhiên và vì thế nên thường đặt niềm tin không đúng chỗ, nếu không muốn nói là sai lầm (Vd: Thay vì tin tưởng vào một vị thần duy nhất là Ông Trời, thì lại đi tin vào thần cây đa cây đề, thần sông thần núi, thần gió thần mưa, thần sấm thần chớp…). Cho nên để có được đức tin, chúng ta phải cậy nhờ vào hồng ân của Thiên Chúa. Nểu không có hồng ân, chắc chắn không thể có đức tin sáng suốt (“Đức tin là hồng ân của Thiên Chúa, là nhân đức siêu nhiên do Người phú bẩm. Để có được đức tin nầy, cần có ân sủng Thiên Chúa đi trước giúp đỡ và có sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần, Đấng thúc đẩy và qui hướng con tim về cùng Thiên Chúa, mở mắt tinh thần và ban cho “mọi người cảm thấy dịu ngọt khi đón nhận và tin theo chân lý” (DV 5).” – Giáo lý HTCG, số 153)

Cũng bởi vì “Tin trước hết là gắn bó bản thân con người với Thiên Chúa, đồng thời cũng là tự nguyện chấp nhận tất cả chân lý Thiên Chúa đã mặc khải” (Giáo Lý HTCG, số 150). Khi đã có được hồng ân cao cả là “nhân đức siêu nhiên” (Đức Tin) do Thiên Chúa phú bẩm, con người cần phải sống đúng, sống đủ với đức tin của mình. Một cách cụ thể, cần phải thể hiện đức tin bằng hành động trong cuộc sống chứng tá của mình, bởi “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2, 17). Vâng, “Tin vẫn là một hành vi đích thực của con người. Tin tưởng Thiên Chúa và gắn bó với những chân lý mặc khải không đi ngược với tự do và trí khôn con người.” (GL/HTCG, số 154).

Có thể khẳng định hành trình đức tin gồm 4 bước: 1- Đến với Lời Chúa (gặp gỡ Thiên Chúa); 2- Chiêm niệm (“lắng nghe và suy nghĩ trong lòng” như Đức Maria Mẹ Thiên Chúa); 3- Sám hối và Tin vào Lời Người (Mc 1, 14); 4- Cuối cùng hãy biến đức tin của mình thành “hành vi nhân linh – actus humanus” (GL/HTCG, số 1749) bằng hai tiếng “xin vâng” (như “Mẹ Đức tin” Maria đã dạy “Người bảo gì, các anh cứ làm theo” – Ga 2, 5). Chẳng cần tìm ở đâu xa, mà ngay trong thời đại hiện nay, đã có một tấm gương rất gần gũi, rất thân tình là Thánh GH Gio-an Phao-lô II: Ngài đã đề ra châm ngôn “Canh tân và sám hối” rồi kiên trì thực hiện trong suốt triều đại của ngài, đến nỗi đã bị ám sát hụt. Ngài không những đã kêu gọi con cái sám hối, mà còn đổi mới cả cung cách sám hối khi mạnh dạn xin lỗi về những sai lầm thiếu sót của Giáo Hội cả trong những triều đại tiền nhiệm xa xưa, đồng thời thực hiện đúng Lời Chúa đã truyền dạy “hãy yêu cả kẻ thù” khi ngài vui vẻ tha thứ rồi còn vỗ về an ủi kẻ đã ám sát mình.

Viết về tấm gương sáng chói của Thánh Gio-an Phao-lô II, tôi thật tâm đắc khi nhớ tới hồi nhỏ, mỗi khi xét mình ăn năn tội, cha xứ thường khuyên bảo “hãy ăn năn dốc lòng chừa cải”. Thật là một lời khuyên chân tình đúng mực: Ăn năn tội không chỉ là CHỪA (từ bỏ tội lỗi vì hối hận) mà còn phải CẢI (sửa chữa, đổi mới con người của mình) nữa. Ngay trong từ Hán Việt “sám hối” ( 懺 悔 ) cũng đã hàm nghĩa: ăn năn hối cải về điều đã lỗi phạm (sám: ăn năn thú nhận tội; hối: sửa đổi lỗi lầm). Quả nhiên muốn canh tân thì phải biết sám hối, có dốc lòng sám hối mới canh tân được cuộc sống. Sám hối và canh tân vừa là tiền đề, vừa là kết quả của hành trình đức tin Ki-tô hữu vậy.

Thánh Au-gus-ti-nô đã dạy: “Nếu mạc khải là con đường Thiên Chúa đến với con người thì Đức tin là con đường con người đến với Thiên Chúa, là sự đáp trả của con người trước tiếng nói của Thiên Chúa.” Sự đáp trả đó chính là đòi hỏi cần thiết giúp người tín hữu đạt được ước nguyện là hưởng ơn cứu độ cách viên mãn, như Ðức Giê-su đã truyền dạy các môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ, còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (Mc 16, 15-16). Ơn cứu độ ấy sẽ hoàn thành trong ngày sau hết, nhưng ngay từ bây giờ, đức tin giúp cho người tín hữu nếm hưởng ánh sáng vĩnh cửu, “bảo đảm cho những điều ta hy vọng” (Dt 11, 1). Một cách cụ thể, đức tin chính là khởi điểm của cuộc sống vĩnh hằng. Rõ ràng “Đức tin là hy vọng” mà hành trình đức tin là “tin và chịu Phép Rửa (sám hối)” (Mc 16, 16), là “sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 15), không thể khác hơn.

Ôi! Lạy Chúa! Con rất muốn được dốc lòng ăn năn chừa cải về những sai lầm thiếu sót của con trong quá khứ và hiện tại, nhưng con còn rất yếu đuối, không đủ can đảm để nhận ra hết được những lầm lỗi sai sót đó. Cúi xin Chúa thương ban cho con Đức Tin để con vững tin vào Tin Mừng Cứu Độ, đồng thời cũng xin Chúa thương ban Thần Khí cho con để con đủ sáng suốt nhìn lại con người thật của mình với biết bao sai lầm thiếu sót, đồng thời có đủ dũng khí sẵn sàng từ bỏ tội lỗi, đổi mới cuộc đời con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.

[Mục Lục]

Bài 5. BỎ NGHỀ CHÀI LƯỚI MÀ THEO CHÚA GIÊSU

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Jean-Christopher phó tế đã viết :” …Bốn người trên bờ hồ hôm đó cũng như chúng ta bây giờ, luôn tất bật sửa sang lại chài lưới, đến nỗi hầu như chúng ta biến thành những tên tù sai tình nguyện.Chúa Giêsu đến và giải thoát bốn người khỏi những chài lưới của họ.Tóm lại, chỉ bằng một lời, Người mời họ nhắm vào điều cốt yếu:Nước Trời đang đến gần “.Mở đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã rao giảng :” Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng “. Đây là lời kêu gọi khẩn thiết và quan trọng của Chúa Giêsu đối với mọi người. Bởi vì, sám hối và lòng tin đi đôi với nhau. Người sám hối trở nên bé nhỏ, khiêm tốn, để đặt tất cả niềm tin của mình vào bàn tay nhân từ của Thiên Chúa, vào sự thánh thiện của Ngài, vào hạnh phúc nước trời, vào sự cứu rỗi do Tin Mừng mang đến. Do đó, Chúa Giêsu mời gọi con người sám hối và tin vào Tin mừng Ngài mang đến.Liền sau lời kêu gọi sám hối và tin vào Tin Mừng, Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên : Phêrô và Anrê,Giacôbê và Gioan.

Để mở đầu cho sứ vụ công khai rao giảng nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã xin Gioan Tẩy Giả rửa tội cho mình trong dòng sông Giođan. Ngài làm thế để nêu gương khiêm nhượng cho mọi người. Ngài rao giảng :” Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng “. Bước đầu để có lòng tin thực phải sám hối. Lòng tin khởi đầu bằng sự sám hối.Sám hối và lòng tin như cặp song sinh. Sám hối là điều kiện cần thiết để trở nên tốt hơn. Như thế, sám hối có hai khía cạnh tiêu cực và tích cực. Khía cạnh tiêu cực, sám hối là quay trở về con đường xưa mình đã đi, quay về với chính lòng mình để xem thử những điều gì là đúng, những điều gì là sai, những điều gì là không phù hợp. Khía cạnh tích cực là hướng tới tương lai, quyết tâm đổi mới, sống tốt hơn, đẹp hơn, hoàn thiện hơn, chính vì thế, người sám hối trở nên khiêm tốn :” Người nâng cao những người phận nhỏ và để những người giàu có trở về tay không “ Lc 1, 52-53).Người sám hối khi đó sẽ đặt hết lòng tin tưởng phó thác vào Chúa, vào hạnh phúc nước trời, vào sự công chính, vào ơn cứu độ Tin Mừng Chúa mang đến. Nên, khi tin vào Thiên Chúa, tin vào ơn cứu độ của Ngài, người ta sẵn sàng sám hối và như thế lòng tin càng được nâng cao, niềm tin trở nên vững mạnh hơn. Chúa mời gọi con người, loài người sám hối và tin vào Tin Mừng Ngài mang đến cho nhân loại, mang đến cho mỗi người.

Cái lạ lùng vẫn là Chúa kêu gọi các môn đệ đi theo Ngài. Chúa kêu gọi sám hối và tin vào Tin Mừng. Chương trình cứu chuộc của Chúa không chỉ nguyên Chúa là đủ, nhưng Ngài còn nhờ vào bàn tay nối dài của nhiều người, nhiều môn đệ, nhiều tông đồ.Do đó, nỗi ưu tư hàng đầu của Ngài là tuyển chọn các môn đệ :” Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người “ ( Mc 1, 17 ). Chúa gọi bốn môn đệ trong khi các người này đang bận rộn với công việc thường ngày là đánh bắt cá ở biển. Công việc của các ông lúc đó là kiếm được nhiều cá để bán lấy tiền nuôi sống bản thân, nuôi sống cha mẹ, gia đình của mình. Nhưng từ đây theo Chúa : Phêrô và Anrê, Giacôbê và Gioan và sau này các môn đệ khác sẽ chuyển đổi nghề : từ việc đang làm là đánh bắt cá dưới biển, các ông sẽ trở thành những ngư phủ đánh cá người khắp thế giới. Nghe tiếng Chúa gọi, Tin Mừng nói rõ, các ông bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Cuộc đời của các môn đệ từ đây là vâng nghe lời Chúa dạy, các ông đã hăng say đi khắp mọi nơi rao giảng Tin Mừng, đưa nhiều người về với Chúa và về với Giáo Hội. Sở dĩ các ông đã làm được công việc đó, vì các ông đã sống và chia sẻ niềm tin cho những người khác. Tuy nhiên kết quả thế nào, điều đó, do Chúa quyết định :” Lạy Thầy, chúng con vất vả suốt đêm mà chẳng được con cá nào, nhưng vâng lời Thầy, con xi thả lưới “ ( Lc 5, 5 ). Và rồi kết quả thế nào, mọi người đều biết : cũng chiếc lưới đó, cũng ngư phủ đó, nhưng lại kéo lên một mẻ cá ngoài sức tưởng tượng của các ông.

Cái huyền diệu và hết sức ấn tượng, lạ lùng vẫn là có nhiều tâm hồn quảng đại dấn thân rao giảng nước Thiên Chúa. Ngay từ thời các tông đồ, Chúa gọi họ, nghe tiếng Chúa, họ sẵn sàng bỏ mọi sự, bỏ cả cái nghề hái ra tiền để theo Chúa Giêsu. Phải chẳng Đức Giêsu có một lực hấp dẫn đến nỗi làm cho các môn đệ say mê, bỏ mọi sự mà theo Ngài ? Đúng là Đức Giêsu đã cho các môn đệ thấy Tin Mừng là Ngài đang ở giữa họ. Do đó, họ không bám víu những gì sẵn có, đang có, nên bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Họ đã sống niềm tin :” Ngài phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại “. Họ đã thực hiện như Gioan Tẩy Giả đã làm: họ trở nên chứng nhân hữu hiệu cho nước Thiên Chúa. Ngày nay, người môn đệ Chúa phải sống cái cốt lõi của Tin Mừng là yêu thương, chia sẻ. Do đó, người môn đệ Chúa, tin và sống Tin Mừng hằng ngày và phải chia sẻ, thực hiện Tin Mừng nơi đời sống của mình bởi vì :” Đức tin không việc làm là đức tin chết “. Jean-Christoper viết tiếp :” Đã từ lâu rồi, chúng ta nghe Tin mừng ? Chúng ta đã làm gì với những chài lưới của chúng ta ?Chúng ta đã lấy những cớ nào để trói chân chúng ta vào đó? Bốn người môn đệ đầu tiên đã biết đứng dậy và đi theo Chúa Giêsu, họ đã dám bỏ lại những gì đã xiềng xích họ.Họ đã không sợ.Họ cũng không suy nghĩ gì, họ để Chúa làm.Và nếu chúng ta cũng để Chúa làm nơi chúng ta thì sao ? Và nếu chúng ta đặt lại những gì chúng ta cho là ưu tiên, và để Chúa đúng vào vị trí của Chúa, vĩ trí hàng đầu ! Mà không quên rằng, để phục vụ Chúa, để gặp được Người, chính là phải phục vụ tha nhân…Chúa Giêsu đang ở trên đường chúng ta đi, Người sáp nhập chúng ta vào công việc của Người : Trở nên những kẻ lưới người “.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1/ Ai đã giới thiệu Chúa Giêsu cho hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả ?

2/ Vai trò của Gioan Tẩy Giả ?

3/ Ai đã giới thiệu Simon cho Chúa Giêsu ?

4/ Chúa Giêsu đã kêu gọi mấy môn đệ đầu tiên đi theo Ngài ?

[Mục Lục]

Bài 6. Lời mời gọi

Chủ đề về sự thống hối là một trong những chủ đề chính của các bài đọc hôm nay. Chúng ta nhận thấy cách thế ngôn sứ Giô-Na rao giảng về sự thống hối cho thành phố ngoại đạo của Ninivê, và đã gặp được một sự đáp ứng ngay tức khắc và hết mình. Đức Giêsu cũng bắt đầu sứ vụ công khai của Người bằng lời rao giảng: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Nhưng thật không may, Người đã không hề gặp được một cách đáp ứng tương tự.

Nhiều người nhận thấy rằng ý tưởng thống hối là một ý tưởng gây rắc rối. Thống hối có nghĩa là thay đổi tầm nhìn của người đó về cuộc sống, và điều chỉnh những hành động của mình một cách phù hợp. Điều đó có nghĩa là thay đổi tâm hồn và thay đổi lối sống, có lẽ là hoàn toàn thay đổi cuộc sống của mình, theo chiều ngược lại. Như thế, sự thống hối nối kết với cảm giác đau đớn. Đó là lý do tại sao người ta chậm đi theo sự thống hối, và chỉ muốn được yên thân.

Có một câu chuyện từ những ngày mà đạo Công giáo vừa mới đến Rôma. Câu chuyện này liên quan đến một người lính Rôma, tên là Livinius, đã yêu một thiếu nữ Công giáo. Tuy nhiên, nàng không đồng ý yêu người lính đó, bởi vì anh ta không phải là người Công giáo. Một đêm kia, anh ta đi theo nàng đến một nơi gặp gỡ bí mật của một nhóm Kitô hữu nhỏ, tại đó, không để cho bất cứ ai nhận ra mình, anh ta lắng nghe phụng vụ.

Khi được nghe đến lời rao giảng của thánh Phêrô, có một điều gì đó xảy ra nơi tâm hồn của anh. Một tầm nhìn mới về cuộc sống mở ra trước mặt anh. Nhưng anh biết ngay rằng nếu anh đi theo lời giảng dạy này, thì anh sẽ phải bỏ đi những tư tưởng, thói quen, mục đích và tính cách cũ của mình. Thế rồi anh ta sẽ phải sống theo một lối sống hoàn toàn khác hẳn. Chúng ta không biết rằng anh ta có đủ yêu người thiếu nữ đó, đến nỗi chịu thay đổi lối sống của anh ta đến thế không.

Đó là một ví dụ về sự thống hối – quay lưng lại với những điều rõ ràng là xấu xa, chẳng hạn như nghiện ngập, bất lương, loạn luân. Nhưng đây chỉ là một loại thống hối mà thôi. Cũng có một sự thống hối được chuyển thành lòng tốt. Ở đây, sự thay đổi không nhất thiết phải mạnh mẽ, quyết liệt. Sự thay đổi có thể xuất phát từ một lối sống hoàn toàn ích kỷ, đến một lối sống yêu thương và quan tâm hơn. Loại thay đổi này cũng gây ra sự đau xót. Ai muốn giũ khỏi lối sống theo nhục dục, tìm kiếm tiện nghi, và nuông chiều bản thân?

Sự thống hối là điều gì đó chủ yếu là tích cực. Thật vậy, thống hối là thừa nhận rằng tất cả mọi sự nơi bản thân mình đều chưa tốt đẹp. Nhưng cũng là khám phá rằng con người mình có một điều gì đó tuyệt vời, nghĩa là có những tiềm năng, mà mình chưa biết là mình có. Điều này có nghĩa là người đó đang đạt được một tầm nhìn mới, đang đi theo một đường hướng mới, tự mình theo đuổi những mục đích xứng đáng hơn, sống theo những giá trị tốt đẹp hơn. Nói tóm lại, điều này mở ra một lối sống mới.

Không ai có thể đạt được lối sống mới một cách nhanh chóng và không hề đau xót gì cả, nếu không, tất cả mọi người đều sẽ chọn lựa lối sống đó. Nói đúng hơn, điều này đưa đến một cuộc hành trình và đấu tranh, mà trong đó không ai hoàn toàn đạt được chiến thắng.

Không giống như sự ân hận, thống hối mở ra con đường tái sinh. Khi thấu hiểu được điều này, thì thống hối lại là một công việc đầy phấn khởi, và luôn luôn đưa đến niềm vui. Điều này có nghĩa là chúng ta biết lắng nghe và sống theo Tin Mừng.

[Mục Lục]

Bài 7. Đáp trả lời mời gọi

Đọc lại Phúc Âm chúng ta thấy các môn đệ đã mau mắn và quảng đại đáp trả lời mời gọi của Chúa Giêsu. Thực vậy, ngày kia Chúa Giêsu đi dạo trên bờ hồ, Ngài nhìn thấy Simon và Andrê đang thả lưới dưới biển. Ngài bèn lên tiếng gọi: Hãy theo Ta và Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người. Lập tức các ông đã bỏ ghe thuyền chài lưới mà đi theo Chúa Giêsu.

Đi được một quãng, Ngài thấy Giacôbê và Gioan đang vá lưới dưới thuyền với cha là Giêbêđê. Ngài cũng lên tiếng gọi: Hãy theo ta. Lập tức các ông đứng dậy, bỏ cha già ở lại với những người làm công mà đi theo Chúa Giêsu.

Lần khác, tại Capharnaum, Chúa Giêsu đi ngang qua một bàn thu thuế, nhìn thấy Matthêu, Ngài liền phán: Hãy theo Ta. Lập tức Matthêu đã bỏ mọi sự mà đi theo Chúa Giêsu.

Từ những sự kiện cụ thể ấy, chúng ta thấy, trước hết là Chúa Giêsu. Ngài đã không chọn lựa những con người giàu sang và quyền thế, học rộng và biết nhiều. Trái lại Ngài đã chọn lựa những kẻ nghèo túng và đơn sơ làm môn đệ của Ngài. Ngài biết các ông thiếu khả năng và bị hạn hẹp rất nhiều. Nhưng đồng thời Ngài cũng thấy các ông là những người quảng đại và hết sức nhiệt tình. Chính vì sự quảng đại và nhiệt tình này, Ngài đã bắt tay vào công việc giáo dục các ông. Cắt nghĩa riêng cho các ông thấu hiểu giáo lý Tin mừng. Trao ban quyền hành và sai các ông đi thực tập truyền giáo, để rồi cuối cùng đã ủy thác cho các ông sứ mạng chèo lái con thuyền Giáo Hội. Trong khi chọn lựa các môn đệ, có lẽ Chúa Giêsu đã nghĩ tới Giáo Hội, và nhất là có lẽ Ngài đã nghĩ tới chúng ta, và muốn nói với mỗi người rằng: Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các con trở thành những kẻ chinh phục người khác…

Tiếp đến là các môn đệ. Lúc đầu có lẽ các ông chưa hiểu được sứ mạng của Chúa Giêsu, cũng như con đường mà Ngài sẽ dẫn dắt các ông. Tuy nhiên các ông xác tín rằng Chúa cần đến các ông và các ông đã mau mắn quảng đại đáp trả tiếng Chúa gọi, bằng cách từ bỏ ghe thuyền và chài lưới, cha già và nhà cửa, bàn giấy và nghề nghiệp để đi theo Chúa.

Với chúng ta ngày hôm nay cũng vậy. Điều quan trọng và cần thiết đó là chúng ta phải nhận ra tiếng Chúa gọi, nhất là phải mau mắn và quảng đại đáp trả tiếng gọi ấy. Chúa nói với chúng ta qua những biến cố xảy ra, cũng như qua những người mà chúng ta có dịp tiếp xúc với. Chúng ta có thể đáp trả bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, chúng ta có thể đáp trả bằng những hành động bác ái và yêu thương. Thực vậy, Chúa cũng kêu mời chúng ta phục vụ Ngài nơi những người anh em, thế nhưng chúng ta đã mau mắn và quảng đại đáp trả hay chưa?

[Mục Lục]

Bài 8. “Biết mình để sống đúng”

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Có một lúc nào đó trong cuộc đời, chúng ta vẫn thường tự hỏi: Tôi là ai? Tôi sinh ra trong cuộc đời này làm gì? Chết rồi đi đâu? Đây là những câu hỏi quyết định hướng đi của một đời người, nó quyết định phận số của một con người. Sống có ích cho xã hội hay trở thành gánh nặng cho xã hội cũng tuỳ thuộc vào chọn lựa cơ bản này của từng người chúng ta.

Người ta kể rằng: thuở xưa khi con người chưa biết soi gương trang điểm nên họ cũng chẳng biết mình là ai? Và khuôn mặt mình thế nào? Một lần kia, anh chồng lên tỉnh thành, người vợ dặn chồng nhớ mua cho mình một cái trâm cài đầu. Nhưng anh không biết cái trâm hình thù như thế nào. Chị vợ liền nhìn trời thấy ánh trăng lưỡi liềm liền nói: “Cái trâm nó giống như ánh trăng kia, nếu anh quên anh cứ nhìn lên ánh trăng thì sẽ nhớ.

Người chồng lên đường mải miết xem bao cảnh lạ ở tỉnh thành mãi mười ngày sau mới trở về quê nhà. Anh sực nhớ lời vợ dặn, anh liền nhìn lên trời và thấy ánh trăng tròn trịa của đêm trăng rằm, anh liền vào tiệm và mua một cái gương tròn trịa như ánh trăng theo lời vợ dặn.

Lòng vui rộn ràng khi vừa về tới nhà vội trao cho vợ cái gương mà anh đã mua từ tỉnh thành. Tưởng rằng vợ sẽ vui mừng với món quà anh đưa về, thế nhưng, khi vừa nhìn vào đồ vật, cô vợ đã tức giận và quát tháo rằng: “Tôi dặn anh mua cái trâm cài đầu, tại sao anh lại đem về một đứa con gái nào đây?”. Anh chồng giật mình, dành lại cái gương và nhìn xem chuyện gì xẩy ra. Anh nhìn vào gương lại thấy một người đàn ông trông giống bố mình hồi còn trẻ, nên anh phân bua rằng: Không, đây là bố tôi mà! Cô vợ dành lại và nói: bố ông bao giờ, con nào rõ ràng. Ông còn chối hả? Đính chính chẳng được, nên anh chồng đành bỏ đi. Mẹ chồng thấy vậy đến an ủi con dâu, và người con dâu đưa cho mẹ chồng coi bằng chứng rõ ràng thế mà anh chồng còn chối quanh quẩn. Mẹ chồng xem qua rồi trịnh trọng nói: Thôi đừng ghen nữa! Tao thấy con này không đáng ghen đâu. Tao thấy, nó cũng già lắm rồi!

Đó là câu chuyện vui nhưng cũng nói lên một chân lý: nếu không biết mình thì sẽ làm khổ mình và khổ người khác. Chúa Giê-su cũng từng nói: “Mù dắt mù thì cả hai đều rơi xuống hố”. Đó cũng là quang cảnh của xã hội chúng ta đang sống. Một xã hội đầy những bóng tối của tội lỗi, của sa đoạ, cúa ích kỷ và hưởng thụ đã làm cho nhiều người mù quáng để chạy theo những đam mê lầm lạc, lạc mất hướng đi của đời người, dìm mình trong bóng tối của danh lợi thú. Nhiều người đã không còn ý thức giá trị đạo đức con người nên họ sẵn sàng đánh mất phẩm giá của mình và chà đạp lên phẩm giá của người khác. Họ không còn biết mình là ai? Sống để làm gì? Họ như những người lạc hậu trong câu chuyện đã không biết mình, nên gây ra những mâu thuẫn, hiểu lầm không đáng có. Thực vậy, nhiều người trong xã hội hôm nay, đã không hiểu rõ ý nghĩa cuộc sống nên buông thả trong những đam mê tội lỗi. Họ tưởng rằng, con người sinh ra, lớn lên, chết là hết nên chẳng cần sống theo lẽ phải, hay sống theo luân thường đạo lý, dẫn đến tội lỗi ngập tràn, cuộc sống đầy chiến tranh, loạn lạc.

Vì vậy, sứ điệp đầu tiên mà Chúa gửi đến nhân loại chính là: “Hãy sám hối”. Sám hối để bước ra khỏi bóng đêm của tội lỗi, ganh tương, đố kỵ và chia rẽ để bước vào ánh sáng của yêu thương và hiệp nhất. Chúa Ky-tô chính là ánh sáng cho thế gian. Từ nay tin mừng cứu độ của Chúa sẽ soi sáng cho con người biết đâu là thiện, là ác, vì chính Ngài là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Và ai theo Ngài sẽ không phải đi trong tối tăm, nhưng bước đi trong tự do của con cái sự sáng.

Thế nhưng, nhân loại hôm nay vẫn thích bóng tối hơn ánh sáng. Người ta sợ ánh sáng của tin mừng sẽ phơi bày bộ mặt thật của mình nên che dấu bằng thủ đoạn, lừa đảo và giả hình, và dần dần đánh mất ý thức về tội. Tội lỗi vẫn lan tràn. Con người tự làm khổ mình, làm khổ nhau bởi chính tội lỗi mình gây ra.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết nhìn lại mình để biết mình. Biết những giới hạn và bất toàn để sửa đổi. Biết những khiếm khuyết để bổ túc và canh tân. Biết tội lỗi mình để sám hối. Xin Chúa giúp chúng ta biết sám hối từng ngày để canh tân đổi mới cuộc đời trong chân lý và tình yêu của Chúa. Amen.

[Mục Lục]

Bài 9. Năm mới người mới cả trời đất mới

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Đức Yêsu rao giảng: “Đã đến thời. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” Tết đã đến gần, đây cũng là dịp để mỗi người chúng ta nhìn lại mình trong năm vừa qua, để với năm mới chúng ta trở thành con người mới, bắt đầu một đời sống mới, một con người hạnh phúc với chính mình, dễ thương và quảng đại đối với người khác.

1/ Đức nhân thắng số

“Đức nhân thắng số” là không chỉ là câu nói của đa số bình dân, nhưng cả của những người tin vào “tiền định,” tin vào “số mạng” nữa. Câu này có nghĩa: một người ăn ở có đức có nhân, thì sẽ đổi được số mạng của mình. Với những người tin vào “tiền định” hoặc “số mạng,” câu nói này thực hữu ích.

Trong cuộc đối thoại giữa Abraham và Thiên Chúa, người ta thấy chỉ cần mười người công chính có thể cứu được cả một thành phố gian ác đáng bị tru diệt (St.18, 32). Người tốt không chỉ cứu được mình, mà còn cứu được cả người khác nữa. Trong sách Giô-na hôm nay, dân thành Ninive đã đổi được ý định của Thiên Chúa. Thiên Chúa truyền lệnh cho tiên tri Giô-na báo cho dân thành Ninive biết ý định huỷ diệt thành phố của Thiên Chúa, dân không chỉ tin vào lời tiên tri, nhưng còn tin vào lòng từ bi của Thiên Chúa nữa, nên họ đã sám hối và được cứu. Như vậy, thái độ sống của con người có thể đổi được ý định của Thiên Chúa nữa. Cái “số” bị phạt của dân Sôđôma và dân Ninive, là do hậu quả của những hành vi bất chính của họ. Chính thái độ sống trong quá khứ của họ, mang lại “số phận” cho họ! Và cũng chính thái độ sống “hiện tại” của họ, đổi được “vận số” của họ! Thiên Chúa là Đấng Yêu Thương nên Ngài chỉ muốn điều tốt cho con người; Ngài chỉ muốn con người sống yêu thương và hạnh phúc. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ tự nhiên, và định cho nó có luật của nó, vật chất có luật vật lý; sinh vật sống theo bản năng, đây cũng là một loại luật của sinh vật; với con người, Ngài ban cho lý trí và ý muốn, để tự do và làm chủ tất cả. Yêu thương là hành vi vượt qua mọi định luật, hành vi yêu thương cứu được chính mình và cứu được người khác nữa. Chẳng hạn, hành vi yêu thương nuôi nấng dạy dỗ một em bé bị bỏ rõi, đổi được đời em bé và còn đổi được đời cả người nuôi em bé đó nữa.

2/ Thế giới này đang qua đi

Con người không chỉ bị chi phối bởi luật vật lý tự nhiên, nhưng còn bị chi phối rất nhiều bởi những yếu tố tâm lý. Những hành vi làm vì muốn chứng minh mình trổi trang hơn người khác, những hành vi trả thù, v.v. là những hành vi “nô lệ.” Hận thù không được tha thứ, sẽ nối tiếp và chồng chất hận thù. Những người thực hiện những hành vi này bị nô lệ hoặc bị trói buộc bởi những tiêu chuẩn “hèn hạ” mà thường họ không ý thức.

Thư của thánh Phao-lô hôm nay nhắc nhở con người một chân lý: thế gian này đang qua đi. Con người được sinh ra, lớn lên, già đi, và chết. Hiện tại, người ta biết mình; nhưng mười năm sau, còn ít người biết mình; một trăm năm sau, e rằng chẳng ai biết mình nữa. Nếu tất cả vật chất đang biến đổi, đang qua đi, thì tại sao người ta lại miệt mài, đam mê đi tìm kiếm vật chất hoặc những thú vui mau qua, hoặc thoả mãn chính mình!

Khi nhắc nhở con người về thực trạng “thế giới này đang qua đi,” thánh Phaolô muốn giúp con người nhận ra sự thật về chính mình, và nhắn nhủ con người hãy đi tìm cái gì cao quý và trường tồn. Như vậy điều quý không hệ nơi vật chất đang qua đi, nhưng là chính con người “vĩnh tồn” của mình. Những hành vi từng ngày làm nên chính con người của mình. Những hành vi yêu thương làm mình trở nên tuyệt vời ngay giữa trần thế đang qua đi này, và cũng làm mình tuyệt vời trong vĩnh cửu nữa.

3/ Hãy sám hối và tin vào tình yêu Thiên Chúa.

Đức Yêsu khởi đầu sứ vụ công khai bằng lời rao giảng: “Thời giờ đã đến. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Hành vi sám hối đi liền với hành vi nhận ra sự thật “không đẹp” của chính con người mình. Không thể có hành vi sám hối mà không có sự nhận thức đúng đắn về con người mình. Lời mời gọi sám hối, hàm chứa lời mời gọi xét lại chính con người của mình: tôi có thực sự là người tốt chưa, thành toàn chưa?

Tôi là người như thế nào đối với người ta, đối với tôi, và đối với Thiên Chúa. Có những người đi tìm và cố gắng trở thành “người tốt” theo đánh giá của người khác; những người này đang nô lệ mà không biết. Cũng có người đặt ra cho mình một giá trị, và cố gắng để thành người “thành toàn” theo ý họ; và khi họ không đạt được hoặc không làm chủ được họ hoàn toàn, họ thất vọng và buồn chán. Điều đúng đắn nhất là làm sao để mình đánh giá mình và mọi sự trong nhãn quan của Thiên Chúa Yêu Thương.

“Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2Cor.6, 2). Mỗi người hãy nhìn lên Thiên Chúa là Đấng Yêu Thương, là Đấng chỉ biết yêu thương và làm tất cả vì yêu thương. Mỗi người cũng chỉ bị phán xét về duy một điều là mình có làm mọi sự vì yêu thương không thôi (Mt.25, 31tt). Những lầm lỗi trong quá khứ tuy quan trọng nhưng không quan trọng lắm. Điều rất quan trọng là tin vào Thiên Chúa là Đấng Yêu Thương. Ngài mời gọi mỗi người hãy sống yêu thương như Ngài. Chính hành vi yêu thương làm mình triển nở, hạnh phúc, và cũng làm cho người khác triển nở và hạnh phúc. Những hành vi không làm cho người khác triển nở và hạnh phúc, e rằng đó không phải là hành vi yêu thương thật sự. Nếu tôi sống tốt lúc này, những người quanh tôi sống bình an; nếu tôi không sống tốt, làm hại người khác, thì làm những người đó khổ, và cả tôi cũng khổ, và những người thân yêu của tôi cũng không được thoải mái và hạnh phúc vì tôi. Yêu thương, là hành vi làm con người thành tuyệt vời.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1/ Bạn có tin vào số mạng không? Tin vào số mạng có hợp với đức tin Kitô giáo không? Tại sao?

2/ Bạn có tin tử vi, coi bói, coi chỉ tay, tướng số không? Tại sao bạn tin và tại sao bạn không tin? Tin vào những điều này có hợp với đức tin Kitô giáo không?

3/ Để là một con người mới, điểm chính yếu là gì?

[Mục Lục]

Bài 10. Theo Chúa từ bỏ tất cả

Cố Lm. Hồng Phúc

Tin Mừng hôm nay dạy chúng ta tiếp tục suy tư về mầu nhiệm ơn gọi.

Trong ơn gọi của các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu, chúng ta thấy gì? Chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đi bước trước. Ngài đi qua, nhìn thấy và kêu gọi. Marcô nói: “Ngài đi lên núi và gọi những kẻ người muốn lại gần…” (3,13). Ngài chọn những ai Ngài muốn và không hẳn là những người xứng đáng nhất, vì không ai có thể tự cho là xứng đáng cả. Sau này, Ngài sẽ nhắc lại cho họ: “Không phải chúng con đã chọn Thầy, nhưng là Thầy đã chọn chúng con” (Gio. 15,16). Người kêu gọi họ tại chính nơi họ ở, chỗ họ làm việc: Bốn vị đầu tiên trong khoang thuyền, ngoài bãi biển, một vị khác ngay nơi bàn đổi bạc (2,14), và một vị khác đang đứng suy tư dưới bóng cây vả (Ga. 1,50)… Mỗi ơn gọi là một cử chỉ tình thương, Ngài đến với ta, đi tìm và tuyển chọn ta.

Và Người nói gì?

Một câu rất đơn sơ nhưng đầy ánh sáng: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người.” Tuy nhiên, đây không phải là một cuộc chọn bạn đi chơi, một thời gian rồi tan hàng rã đám. Mà theo Ngài thì Ngài đòi hỏi rất nhiều. Đòi hỏi gì? Ngài đòi hỏi tất cả: phải từ bỏ mọi sự, từ bỏ luôn mãi và từ bỏ cả mạng sống vì Ngài nữa!

Hỏi rằng, ngoài Chúa ra, có ai có thể đòi hỏi khắt khe như vậy? Có tình yêu nào ghen tị đến mức độ như vậy?

Văn hào Montalembert có một cô con gái dâng mình làm nữ tu. Ông viết: “Người tình ấy là ai, chết treo trên cây thập giá mà có thể lôi kéo như vậy? Người tình ấy là ai mà có một sức hấp dẫn không cưỡng lại được, như một con chim mồi sà xuống và cuốn đi? Phải chăng đó là một người? Không. Đó là Thiên Chúa. Đó là bí ẩn, đó là chìa khóa đưa vào cõi thâm sâu. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể thành công và đòi hỏi một cuộc hy sinh như thế.”

Bà Thánh Jeanne-Francoise Chantal (1572-1641) là một bà mẹ đạo đức. Sau khi chồng qua đời, bà lo nuôi dưỡng, giáo dục và tác thành cho bốn con, có nơi có chốn tự lập được. Bà nghe tiếng Chúa gọi sống đời tận hiến, giúp đỡ người nghèo. Nhưng ngày bà quyết định ra đi thì các con ngăn cản và nằm ngang chận cửa. Nước mắt tràn trụa, Bà nói: “Dầu sao tôi cũng là một Bà Mẹ”. Nhưng tình thương Chúa mạnh hơn tình mẫu tử, Bà bước qua con và đi Annecy, lập nên Dòng Thăm Viếng, tháng 6 năm 1610.

Họ ra đi theo tiếng gọi của Chúa, nhưng đối lại, Chúa hứa ban cho họ những gì? Thật lạ lùng! Ngài không hứa ban cho họ một cuộc sống dễ dãi đầy tiện nghi vì chính Ngài cũng “Không có một hòn đá gối đầu!” Ngài không hứa ban chức tước, đường hoạn lộ tiến thân, vì Ngài truyền dạy phải chọn chỗ tốt nhất, không được tự gọi là Thầy, là Cha mà chỉ là tôi tớ. Ngài không hứa ban cho một cuộc sống nhàn hạ, vì “ai đã ra tay cầm cày, thì không được ngó lui.” Vậy, Ngài hứa gì? Thưa: Một đời sống dấn thân phục vụ các linh hồn, một đời sống vất vả đi “chài lưới người”, bắt từng cá nhân, từng tập thể. Có những lúc thức trắng đêm mà không bắt được con cá nào, có những sáng tinh sương, chèo thuyền không về bế! “Thưa Thầy, chúng con mệt nhọc suốt đêm mà chẳng được gì?” Nhưng Chúa phán: “Hãy chèo ra khơi thả lưới”. Phêrô, đại diện các bạn trả lời: “Vì lời Thầy, con sẽ thả lưới” (Lc. 5,5). Nhất là một lời hứa quan trọng nhất mà Ngài để lại cho các môn đệ ngày giã biệt ra đi vào chốn vinh quang: “Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho con thì con muốn rằng con ở đâu chúng cũng ở đấy với con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho con…” (Gio. 17,24). Cũng như lời hứa mà Đức Mẹ khi hiện ra ở Lộ Đức đã nói với Bernadetta, vị thụ khải của Mẹ: “Mẹ không hứa cho con hạnh phúc ở trần gian mà hạnh phúc trên trời.”

“Lạy Chúa, xin chỉ cho tôi đường đi của Chúa,

Xin dạy bảo tôi về lối bước của Ngài.

Xin hướng dẫn tôi trong chân lý và dạy bảo tôi,

Vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ tôi”

(Tv. 24,4 – Đáp ca)

[Mục Lục]

Bài 11. Phẩm chất đầu tiên của người môn đệ

Lm. Ignatiô Trần Ngà

Khi bắt đầu thời kỳ công khai lên đường thi hành sứ vụ, việc đầu tiên Chúa Giêsu làm là tuyển chọn một số môn đệ nòng cốt để tiếp tay và nối gót Người rao giảng Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh.

Đây là một nhiệm vụ vô cùng trọng đại cao cả nhưng đồng thời cũng đầy gian truân và thách thức, thế nên cần phải tuyển cho được những ứng viên phù hợp.

Trong các thành phần dân chúng thời đó, chúng ta thấy nổi bật nhất là các tư tế ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Họ là những người ngày đêm ứng trực trong đền thờ lo việc thờ phượng tế lễ Thiên Chúa. Xem ra họ là những ứng viên sáng giá nhất cho công cuộc loan báo Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh. Thế nhưng Chúa Giêsu đã không chọn bất cứ ai trong số các vị ấy làm tông đồ xây dựng Hội Thánh Người.

Kế đó, thành phần Luật sĩ, những người học rộng và thông thạo thánh kinh. Có ai xứng đáng hơn họ trong việc giải thích và loan truyền Lời Chúa? Có ai giàu kiến thức về đạo lý bằng họ? Thế mà Chúa Giêsu cũng không chọn một ai trong số các vị nầy làm tông đồ của Người.

Thành phần thứ ba cũng rất sáng giá là các người biệt phái. Họ giữ luật rất nhiệm nhặt, có đời sống đạo rất nghiêm túc. Những người như thế cũng đáng làm đầu thiên hạ và lãnh đạo người ta. Thế mà Chúa Giêsu cũng không chọn bất cứ người biệt phái nào làm tông đồ cho Người.

Chúa Giêsu cũng không chọn những người có vai vế trong xã hội, những người giàu sang quyền quý làm môn đệ đầu tiên của Người.

Tin Mừng hôm nay cho thấy sự chọn lựa của Chúa Giêsu khiến chúng ta kinh ngạc:

“Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy ông Si-môn với người anh là ông An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá. Người bảo họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.

Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là ông Gioan. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền. Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người.”

Chúa Giêsu đã chọn bốn ngư phủ là Simon, An-rê, Gioan, Giacobê, làm môn đệ đầu tiên trong lúc họ đang quăng chài kéo lưới hoặc đang vá lưới trong thuyền. Tại sao?

Các ngư phủ là những người dạn dày sương gió. Họ quen chịu giá lạnh giữa biển khơi; từng trải qua những đêm tối giữa sóng gió trùng khơi; không sợ đói, không sợ rét, không sợ bão tố cuồng phong, không sợ cảnh chơi vơi giữa ba đào sóng gió. Nói chung, họ bất chấp mọi khó khăn, gian khổ và nghịch cảnh để đạt cho bằng được nguyện vọng của mình.

Họ là những người đầu tiên được Chúa Giêsu chiếu cố và mời gọi làm môn đệ loan Tin Mừng, làm những trụ cột nòng cốt trong công trình xây dựng Hội Thánh.

Điều nầy cho thấy phẩm chất đầu tiên để làm môn đệ Chúa Giêsu là không ngại gian truân, sẵn sàng hy sinh để thực hiện mục tiêu mong muốn.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã kêu gọi chúng con làm tông đồ cho Chúa trong xã hội hôm nay. Xin ban ơn giúp chúng con sẵn sàng vượt khó, dám đương đầu với mọi thách thức và sóng gió như các môn đệ đầu tiên hầu có thể chu toàn trọng trách mà Chúa và Hội Thánh trao phó cho chúng con.

[Mục Lục]

Bài 12. Sám hối và tin vào Tin Mừng

Radio Veritas Asia

Trong sưu tập về các thánh ẩn tu trong sa mạc, có kể giai thoại như sau: Có hai tội nhân quyết tâm vào sa mạc để ăn chay đền tội. Nguyên một năm ròng rã, mỗi người giam mình trong một túp lều riêng, ngày đêm ăn chay, cầu nguyện và đánh tội. Ngày ngày các tu sĩ của cộng đoàn nọ đem thức ăn đến tận căn lều riêng cho từng người. Sau đúng một năm thử thách, các tu sĩ nhận thấy có sự khác biệt giữa hai người: một người thì vui vẻ, khỏe mạnh; một người thì ốm o buồn phiền. Cả hai đến trình diện trước Bề Trên cộng đoàn để chờ xem họ có xứng đáng được gia nhập cộng đoàn hay không. Khi được hỏi suốt một năm qua, họ đã suy niệm về những gì.

Người ốm o buồn sầu cho biết:

- Trong năm qua, ngày ngày tôi nhớ lại những tội đã phạm, từng giây từng phút tôi nhớ đến những hình phạt sẽ gánh chịu, tôi sợ hãi đến mất ăn mất ngủ.

Đến lượt mình, người vui vẻ khỏe mạnh trả lời:

- Suốt một năm qua, từng giây từng phút, tôi hằng cảm tạ Chúa vì đã tha thứ cho tôi: tôi luôn nghĩ tới tình yêu của Ngài.

Các tu sĩ trong cộng đoàn rất cảm kích trước tâm tình của người vui tươi khỏe mạnh vì lòng sám hối của anh đã biến thành lời ca cảm tạ tri ân tình yêu Chúa.

Sám hối là khởi đầu của sự nên thánh. Dĩ nhiên, không phải tất cả những vị thánh đều bắt buộc phải là những tội nhân, nhưng tất cả đều phải bắt đầu với ý thức về tội lỗi và sự yếu hèn của mình. Càng ý thức về con người tội lỗi, bất toàn của mình, con người càng cảm nhận được tình yêu của Chúa. Đó là cảm nhận của vua Đavít, của thánh Phêrô, của thánh Augustinô và của tất cả các vị đại thánh trong lịch sử Giáo Hội.

Lời đầu tiên Chúa Giêsu dùng để khai mạc sứ mệnh của Ngài chính là: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Chúa Giêsu đã nối kết sám hối với Tin Mừng. Tin Mừng là gì, nếu không phải là tình yêu Thiên Chúa được thể hiện qua con người Chúa Giêsu Kitô. Sám hối không chỉ là ý thức và hồi tưởng về tội lỗi của mình; sám hối đích thực không dừng lại ở buồn phiền, sợ hãi và thất vọng, mà là ngõ tất yếu dẫn đến Tin Mừng, nghĩa là vui mừng, hoan lạc.

Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải qua cuộc sống và nhất là qua cái chết của Ngài, là một người Cha muốn được con cái yêu mến hơn là sợ hãi. Đạo mà Chúa Giêsu thiết lập không phải là đạo của buồn phiền, của khổ đau, nhưng là đạo của Tin Mừng, của tình yêu, của hân hoan và hy vọng. Đành rằng Thập giá là biểu tượng của Kitô giáo, nhưng người Kitô hữu không dừng lại ở chết chóc, khổ đau, buồn phiền; trái lại họ luôn được mời gọi để nhìn thấy ánh sáng, hy vọng, tin yêu và sự sống bên kia Thập giá.

Ước gì Lời Chúa hôm nay ban sức sống để chúng ta không bị đè bẹp dưới sức nặng của tội lỗi, của yếu hèn. Xin cho chúng ta luôn tiến bước trong hân hoan và tin tưởng, vì biết rằng Thiên Chúa là Cha yêu thương, không ngừng nâng đỡ và tha thứ cho chúng ta.

[Mục Lục]

Bài 13. Đổi mới cuộc đời

ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Nhiều lần đài phát thanh, truyền hình, trong mục nói về giáo dục trẻ em, giới thiệu chương trình hoạt động của anh Thảo Đàn ở thành phố Hồ chí Minh. Trước đây, Thảo Đàn là một trẻ của đường phố, bỏ nhà đi lang thang bụi đời, tệ hơn nữa, vướng vào nghiện hút. Nhưng khi hiểu được tác hại của ma tuý, anh quyết tâm cai nghiện. Với ý chí cương quyết, anh đã hoàn toàn dứt bỏ được ma tuý. Chừa được ma tuý rồi, anh không chỉ hài lòng với việc làm lại cuộc đời cho bản thân, nhưng còn muốn dùng kinh nghiệm của mình để giúp đỡ các trẻ em đường phố. Với sự hỗ trợ của Nhà Nước và các tổ chức từ thiện, anh mở ra một trung tâm qui tụ 200 trẻ em đường phố. Tại đây, anh giáo dục cho các em hiểu biết những nguy hiểm đang rình rập các em, giúp các em bảo vệ quyền lợi của mình và nhất là tìm cách đưa các em hội nhập vào đời sống xã hội.

Điều mà Thảo Đàn đã làm cho bản thân mình và đang muốn làm cho các trẻ em đường phố, đó là đổi mới đời sống. Không biết anh có đạo hay không, nhưng anh đang thực hiện Lời Chúa trong các bài sách thánh hôm nay. Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Gio-na kêu gọi dân thành Ninivê đổi mới đời sống để được tha thứ. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu kêu gọi dân Do thái đổi mới đời sống để đón nhận Nước Chúa đang đến. Đáp lại lời Người, các môn đệ bước theo Đức Giêsu trong một đời sống mới. Cuộc đổi mới được tiến hành qua ba bước.

Bước thứ nhất: Nhận biết mình tội lỗi.

Tội lỗi như một cơn mê làm ta đắm đuối không nhận biết tình trạng tâm hồn của mình. Muốn đổi mới, cần phải thức tỉnh, nhìn rõ sự thực về mình, thấy rõ tình trạng tội lỗi, hiểu biết sự nguy hại của tội. Thảo Đàn bừng tỉnh sau những lầm lỡ, nhận thức mình đang đứng bên bờ vực thẳm, nên đã kịp dừng chân. Dân thành Ninivê, sau khi nghe tiên tri Giona rao giảng, ý thức về tình trạng nguy ngập của thành, nên đã chấm dứt tình trạng tội lỗi. Để biết rõ tình trạng tâm hồn, để nhận biết tội lỗi, cần phải siêng năng xét mình. Xét mình giống như ngọn đèn pha soi vào tất cả những ngõ ngách trong tâm hồn, phơi bày ra tất cả những gì còn ẩn giấu. Xét mình giống như cái cuốc đào bới những tầng lớp sâu thẳm của tâm hồn để lộ ra những tội lỗi còn bị thời gian, sự quên lãng và sự vô tình vùi lấp.

Bước thứ hai: Sám hối.

Khi đã nhận biết tội lỗi, tâm hồn phải tiến tới một thái độ tích cực hơn, đó là sám hối. Nhận thức tội lỗi giống như ta nhìn thấy một căn nhà rác rưới bẩn thỉu. Sám hối là bắt tay vào quét dọn sạch sẽ. Sám hối như giòng nước gột rửa linh hồn. Sám hối như chiếc dao mổ của bác sĩ cắt bỏ những ung nhọt gieo mầm mống bệnh tật. Sám hối càng mãnh liệt, tội lỗi càng lùi xa. Sám hối càng sâu xa, linh hồn càng mau chóng hồi sinh. Nhờ sám hối sâu xa, Thảo Đàn đã từ bỏ con đường nghiện ngập. Nhờ sám hối mãnh liệt, dân thành Ninivê đã bảo nhau, từ người già đến em bé đều xức tro, ăn chay cầu nguyện, quyết tâm từ bỏ con đường tội lỗi. Tâm hồn sám hối là tâm hồn được chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận ơn Chúa.

Bước thứ ba: Đổi mới cuộc đời.

Sám hối chân thành bao giờ cũng đi đến đổi mới cuộc đời. Vì sám hối là muốn đoạn tuyệt với con đường xưa cũ để bước vào một con đường mới. Vì tâm hồn sám hối không những muốn sửa chữa lại những lỗi lầm quá khứ mà còn quyết tâm xây dựng một tương lai tươi mới,trong sạch hơn, tốt đẹp hơn, ích lợi hơn. Vì muốn hoàn toàn đổi mới, Thảo Đàn không chỉ tránh xa nhưng còn dấn thân giúp người khác đâú tranh chống tệ nạn xã hội. Vì muốn đổi mới cuộc đời, các tông đồ đã từ bỏ nếp sống cũ, từ giã những người thân, bỏ hết tài sản để lên đường đi theo Chúa. Con đường mới là con đường theo thánh ý Chúa, con đường dẫn ta đi trong tình yêu mến Chúa và yêu mến anh em. Tình yêu mến sẽ làm cho đời sống ta có ý nghĩa và trở nên phong phú vì sẽ đem lại những hoa quả thiêng liêng. Bước đi trên con đường mới, ta sẽ đón nhận được Nước Chúa đang đến. Bước đi trên con đường mới, ta sẽ góp phần đem Nước Chúa đến với anh em.

Đầu năm mới, ai cũng có ước mong mọi sự mới mẻ. Không gì đẹp hơn một tâm hồn đổi mới. Để đổi mới tâm hồn, ta hãy nhận biết tội lỗi và ăn năn sám hối. Với ơn Chúa giúp và với quyết tâm đổi mới, ta sẽ nhìn thấy những việc cần phải làm. Với những việc làm do Chúa Thánh Thần hướng dẫn, ta sẽ thực sự bước vào Năm Mới với cả tâm hồn đã được đổi mới.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đổi mới mọi sự trong ngoài của chúng con.

GỢI Ý CHIA SẺ

1/ Đức Thánh Cha viết cho giới trẻ: “Quả thật, Đức Giê su là người bạn khó tính nhất. Người chỉ cho ta những đỉnh cao và đòi ta phải ra khỏi chính mình để gặp Người.” Hiện nay, Đức Giê su đang mời bạn chinh phục những đỉnh cao nào?

2/ Để đổi mới cuộc đời, bạn phải từ bỏ nhiều điều. Nhưng quan trọng hơn cả là từ bỏ chính mình. Bạn có kinh nghiệm gì về cái tôi của bạn. Cái tôi ấy ra sao (cứng cỏi, bướng bỉnh, khép kín, tự ái, tự mãn…..).

3/ Chừa bỏ tật xấu có dễ không? Ta nên có thái độ nào đối với người nghiện hút, rượu chè?

[Mục Lục]

Bài 14. Sám hối

“Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Tin Mừng là gì? Có gì quan trọng mà người ta phải sám hối và đặt lòng tin vào đó? Sám hối và lòng tin đi đôi với nhau như hai con mắt cùng nhìn vào một đối vật, sám hối sửa soạn cho lòng tin, lòng tin khởi đầu bằng sự sám hối. Sám hối gồm hai khía cạnh: khía cạnh tiêu cực là nhận về quá khứ, nhìn lại dĩ vãng, để thấy đường mình đã đi, cuộc đời mình đã sống như thế nào, đúng hay sai, tốt hay xấu. Khía cạnh tích cực là hướng tới tương lai để sống đúng hơn và tốt hơn. Người sám hối trở nên khiêm tốn, bé nhỏ, từ bỏ mình, để đặt tất cả niềm tin vào sự công chính của Nước Trời, vào ơn cứu độ do Tin Mừng đem đến, còn tin là trao hiến, tin ai và tin điều gì? Chúng ta hãy tìm hiểu nội dung của Tin Mừng gồm những vấn đề gì mà chúng ta phải sám hối và đặt lòng tin vào đó. Chúng ta có thể tóm lược nội dung của Tin Mừng vào hai phạm vi luân lý và giáo lý.

Về phạm vi luân lý: chúng ta thấy Tin Mừng đã đề cập tới những vấn đề quan trọng sau: Thứ nhất, về hôn nhân, Chúa Giêsu đã lập luận hôn nhân bất khả phân ly và nhất phu nhất phụ: mỗi người chỉ được một vợ một chồng và phải trung thành chung thủy với nhau cho đến chết. Thứ hai, Chúa Giêsu đã đề cao tinh thần nghèo khó: người nghèo khó được Chúa chúc phúc, Chúa kêu gọi hãy nghèo của nhưng không nghèo lòng, ngược lại, người giàu của mà không giàu lòng thì khó vào nước trời như con lạc đà trước lỗ kim. Thứ ba, về luật lao động và tinh thần hợp tác, Chúa dạy: mọi người phải siêng năng làm việc để tự lực mưu sinh, lười biếng sẽ bị phạt, rồi phải biết cộng tác với nhau để cùng nhau thăng tiến. Thứ tư, vấn đề tiền của: tiền của nay còn mai mất, Chúa dạy: phải biết dùng tiền của làm phương tiện đi vào nước trời, mỗi người đừng quá đòi hỏi mà chỉ mong sao hằng ngày dùng đủ, rồi tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng, các tài nguyên thiên nhiên, hãy dùng chúng để kiến tạo hòa bình và biến gươm giáo thành cày cuốc. Thứ năm, để đảm bảo luật luân lý, Chúa dạy: mọi người phải coi nhau như anh em, phải yêu thương nhau, yêu thương cả kẻ thù nghịch với mình, cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình, mọi người phải tha thứ cho nhau. Thứ sáu, về vấn đề giáo dục trẻ em, Chúa dạy: phải yêu mến chúng, phải hướng dẫn chúng và không được làm gương mù gương xấu cho chúng, nước trời thuộc về những ai có tâm hồn đơn sơ như trẻ em. Thứ bảy, các nhân đức luân lý được đề cao: khôn ngoan, công bằng, vâng lời, tiết độ, kiên nhẫn, can đảm chịu đựng những đau khổ, khiêm nhường, hiền lành, trong sạch, phục vụ, tránh xa dịp tội và đứng làm gương mù. Tóm lại, mọi người là anh em, là con cái Thiên Chúa, mỗi người là chi thể trong một nhiệm thể, cho nên, phải dùng tình thương mà đối xử với nhau và yêu nhau như Chúa yêu chúng ta.

Về phạm vi giáo lý: Tin Mừng đã mạc khải cho chúng ta biết bốn điều quan trọng: Thứ nhất, một Thiên Chúa có Ba Ngôi, chúng ta chỉ tôn thờ một Thiên Chúa mà thôi, Thiên Chúa có Ba Ngôi: ngôi thứ nhất là Cha, là Đấng tạo dựng vũ trụ trời đất muôn loài, ngôi thứ hai là Con, là Chúa Giêsu Kitô, Đấng xuống thế làm người để cứu chuộc mọi người, ngôi thứ ba là Thánh Thần, Đấng thánh hóa, an ủi và giúp đỡ mọi người. Cả ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa, bằng nhau mọi đàng. Thứ hai, Chúa Giêsu là Thiên Chúa và là Thiên Chúa nhập thể, Ngài là một người như mọi người, có cha có mẹ, có quê hương tổ quốc, có sinh có tử, có sống và chết như mọi người, Ngài giống chúng ta mọi đàng chỉ trừ tội lỗi, nhưng Ngài cũng là Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha, Ngài đến trần gian để dạy dỗ và cứu chuộc loài người, Ngài là đường, là sự thật và là sự sống, ai tin theo Ngài sẽ được sự sống đời đời. Thứ ba, về Nước Thiên Chúa, Nước Trời, đây là nước hằng sống, vĩnh cửu, là thiên đàng, muốn vào Nước Thiên Chúa phải tin và thực hành đức tin chứ không thể chỉ nói “Lạy Chúa” mà vào được, nước Chúa có giá trị vô song, người ta phải hy sinh mọi sự, kể cả mạng sống để chiếm hữu nó. Thứ tư, Tin Mừng cho biết về Giáo Hội qua những dụ ngôn người gieo giống, hạt giống tự mọc, hạt cải, tấm men, kho báu, viên ngọc quý, mẻ cá, bầy chiên… Giáo Hội có phẩm trật: Phêrô là đầu, tức Đức Giáo Hoàng sau này, các tông đồ, là các giám mục sau này, những vị lãnh đạo Giáo Hội được Chúa trao quyền cầm buộc và cởi mở, ai muốn đến với Chúa phải đến với Giáo Hội.

Có cuốn sách nào được người ta ham mộ, kính trọng như sách Tin Mừng không? Có sách nào tồn tại suốt 20 thế kỷ và bán chạy như sách Tin Mừng không? Sách Tin Mừng toàn bộ đã được dịch ra 236 thứ tiếng, và còn cả 100 thứ tiếng nữa đang sửa soạn để dịch Tin Mừng, có sách nào khích lệ, đổi mới con người bằng sách Tin Mừng không? Cho nên, vấn đề đặt ra cho chúng ta là chúng ta có đọc Tin Mừng hay không? Nếu chúng ta không chịu đọc thì sách có hay mấy cũng là không hay, cũng như đã gọi là thuốc hay mà chúng ta không dùng thuốc thì làm sao khỏi bệnh được? Chúng ta hãy nhớ: sách Tin Mừng là lời Thiên Chúa hằng sống, chúng ta có đọc, có sống Tin Mừng thì chúng ta mới thấy được sự sống ấy dồi dào ra sao, nơi đâu có ánh sáng Tin Mừng nơi ấy tràn đầy hy vọng cho hiện tại và tương lai. Ước mong mỗi gia đình đều có sách Tin Mừng, chúng ta có đủ thứ sách mà lại thiếu sách Tin Mừng thì thật đáng tiếc. Nhưng có sách mà không dùng, không đọc cũng như không có. Ước mong chúng ta hãy đọc và sống theo những điều chúng ta đọc, bảo đảm bản thân chúng ta và gia đình chúng ta sẽ tốt đẹp.

[Mục Lục]

Bài 15. Các anh hãy đi theo tôi

Fx Đỗ Công Minh

Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Maccô cho chúng con biết được giai đọan khởi đầu của thời kỳ Đức Giêsu bước vào đời rao giảng. Chúa đã lánh qua miền đất Galilê, vùng đất của những dân ngọai, sau khi Gioan bị nộp. Lời đầu tiên Chúa nói với những người dân trong vùng là “Thời kỳ đã mãn và triều đại Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng“. Đây là một điều kiện đầu tiên để những ai muốn tin và theo Người.

Sám hối là từ bỏ cuộc sống cũ, trong đó con người không nhận biết nhau là anh em, sẵn sàng lên án, chỉ trích, nói xấu lẫn nhau. Đời sống cũ phải từ bỏ còn là những đam mê tội lỗi, những thu vén ích kỉ, ghen tương đố kỵ, khiến người với người sống trong canh chừng, đề phòng lẫn nhau. Một cuộc sống bất an vì sợ sệt, vì tội ác tràn lan… Tin vào Tin Mừng, là biết lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa, tin vào Lời của Con Thiên Chúa ở giữa nhân lọai . Và để có những người theo và cộng tác với Người, Đức Giêsu đã mời gọi “Các anh hãy đi theo tôi “,mời gọi những người thành tâm thiện chí, những con người hết sức bình thường, như những ngư dân trên bờ biển đang lao nhọc vất vả trong cuộc đời.

Lạy Chúa,

Chúa không chỉ mời gọi các Tông đồ theo Người mà là mời gọi hết mọi người chúng con. Tất nhiên không phải tất cả đều ở cùng một vị trí như nhau, nhưng là ở mọi hòan cảnh, môi trường xã hội khác nhau. Có người tận hiến trọn đời mình cho sứ vụ rao giảng như các vị Giáo sĩ, tu sĩ. Có người sống trong bậc đôi bạn. Có người thuộc hàng trí thức, người khác là công nhân các ngành nghề, người buôn bán giữa chợ đời, người là doanh nhân, thầy thuốc, nhà giáo, binh sĩ, công chức. Có người nắm giữ chức quyền cao hay chỉ là cấp dưới bình thường. Cũng có những người tham gia các họat động xã hội, tham gia các đòan thể, tổ chức xã hội từ thiện, tham gia vào các họat động truyền thông… Trong mọi lãnh vực của đời sống vẫn luôn có những con người như Phêrô, Anrê, Giacôbê, Gioan… Vấn đề là con người có nghe tiếng Chúa mời gọi và đáp trả?

Chúa mời gọi chúng con làm những việc gì?

Đó là “ trở thành những kẻ lưới người như lưới cá” không chỉ hiểu theo nghĩa đen, nhưng chính qua hòan cảnh của từng người, Chúa muốn con thực thi điều Chúa dạy: Hãy yêu thương đồng lọai như Thầy đã yêu thương; sống chan hòa với nhau trong môi trường sống; giới thiệu cho nhau khuôn mặt Đức Kitô : Con Một Thiên Chúa làm người, để mỗi người đựoc trở thành Con Chúa. Biết cộng tác với mọi người trong xã hội góp phần xoa dịu những khổ đau về thể xác, tâm hồn cho tha nhân trong khả năng có thể. Đó chính là” Lưới người”, là mời gọi nhiều người đi theo Chúa.

Xin cho anh chị em chúng con, bằng lòng nhiệt thành nhưng khiêm tốn, cùng với con tim, khối óc biết ý thức sứ mạng thiêng liêng mà Chúa mời gọi là biết mở lòng ra, là cho đi, là thâu thập và loan báo, bước theo con đường mà Chúa đã dọn. Bởi Người là Đường, là Sự Thật và là sự Sống. Chính từ việc truyền thông Tin mừng đến mọi người là góp phần mở tai, mở trí, mở lòng cho con người. Truyền tải đạo đức, nhân bản là nâng con người ngày càng trở nên hòan thiện như Chúa đã làm người.

Xin Chúa giúp con, Chúa ơi !

[Mục Lục]

Bài 16. Thời đại mới

AM Trần Bình An

Nhà văn Phaolô Nguyễn Hoàng Đức, một chứng nhân sống động của Chúa, của Tôi Tớ Chúa, ĐHY FX Nguyễn Văn Thuận. Ông từng là trung uý an ninh, công tác tại cục “chống phản động” A16 thuộc Bộ Nội Vụ, phụ trách vấn đề tôn giáo. Năm 1987, ông có dịp gặp ĐHY FX Nguyễn Văn Thuận lúc đang bị giam cầm để học tiếng Pháp. Sau gần hai năm học cùng ngài, ông được khai sáng Đức Tin Thiên Chúa. Một thời gian sau khi ĐHY được trả tự do sau 13 năm giam giữ bất công, ông Đức cũng từ bỏ ngành công an và chính thức trở thành con cái Chúa vào dịp lễ phục sinh 2003.

“Con đường Đức tin vào Nước Chúa qua cây cầu Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận,”của nhà văn Nguyễn Hoàng Đức là một chứng từ trong hồ sơ phong Chân phước cho ĐHY FX. Nhà văn tự thuật: “Cuối năm 1988, sang đầu năm 1989 tôi bắt đầu nộp đơn xin chuyển ngành, lý do chính là, sau một loạt sự kiện hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô tan vỡ, đặc biệt “sự kiện Mùa xuân Bắc Kinh” xảy ra tại quảng trường Thiên An Môn ngày 4/6/1989, rồi quân đoàn 27 tràn vào trộn máu thịt sinh viên bằng xích xe tăng, lúc đó Việt Nam coi “Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp,” nhưng lại chiếu phim thời sự trong nội bộ để học tập cách đàn áp của Trung Quốc. Điều đó làm tôi không muốn ở cục “Chống phản động” nữa, vì qua ngót mười năm làm việc, đọc nhiều hồ sơ, tôi hiểu hầu hết người dân lành đó không phải là phản động. Đôi khi, vài anh em bạn bè trong cục tôi vẫn thường bảo với nhau: Tại sao chúng ta thừa nhận giáo hội là hợp pháp, trong khi đó lại coi việc hành lễ hay rước lễ của họ là bất hợp pháp? Tại sao một linh mục hợp pháp cả về tư cách công dân, cả về tư cách mục vụ đã được nhà nước chấp thuận theo luật, vậy mà ông linh mục đi từ nơi này đến nơi kia lại phải xin phép?

Ngay việc của Đức cha FX Nguyễn Văn Thuận thôi, nếu giáo hội mà ngài theo hợp pháp, thì việc giáo hội đó tổ chức ra một hội đoàn “Tu hội Hy Vọng” tại sao thành bất hợp pháp? Nếu bất hợp pháp sao không đưa người phạm pháp ra xử theo luật mà cứ tự tiện biệt giam?

Hồi đó, một cách tự nhiên, hàng tuần tôi thường đi dự thánh lễ tại nhà thờ Đức Bà, nghe linh mục Khảm giảng lễ, một lần thấy cha giảng hay quá, tôi còn đợi hết lễ và sang tận nhà xứ gặp cha… Lần đầu tiên dự thánh lễ, tôi rất cảm động và khâm phục về trình độ phản tỉnh cũng như mở lòng với tha nhân qua hai hình thức “Lỗi tại tôi! Lỗi tại tôi! Lỗi tại tôi mọi đàng!” Và việc “Anh chị em chúc bình an cho nhau,”cúi phía trước, cúi phía trái, cúi phía phải chào nhau…

Nhưng có một đêm tôi được một giấc mơ kéo vào thế giới của tâm linh, đại loại như có một cánh tay dẫn tôi đến một chân trời có tấm phông thả từ vòm trời xuống, và có giọng nói, nếu tôi vén màn sẽ nhìn thấy thế giới ánh sáng ở phía bên kia. Tôi giơ tay vén màn thì choàng tỉnh. Đêm thứ hai, sau đó vài ngày, thì giấc mơ kéo tôi đến thẳng nhà thờ, và có giọng nói “Hãy đi vào đường của tâm linh thiêng liêng”… Kể từ đó, sáng chủ nhật nào tôi cũng dậy từ 5h sáng đi lễ nhà thờ Phùng Khoang, tôi đã luôn tự nhận mình là con cái Chúa…

Tối 19/4/2003, tôi được rửa tội… Trước bàn thờ Chúa ở nhà thờ và bàn thờ Chúa ở nhà riêng, tôi đã hân hoan cảm tạ Chúa rằng: “Lạy Chúa! Hành trình đi đến đức tin của con có cả ơn soi-ơn gọi-và ơn chọn, khởi đầu từ hạt men đầu tiên nơi cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, giờ đã dậy lên cả đống men, trong tâm hồn con tràn ngập ân sủng đức tin của Chúa, trong Chúa và hướng về Chúa!”

Theo Kinh Thánh, thời gian được chia làm hai thời kỳ Cựu Ước và Tân Ước. Đức Giêsu loan báo thời kỳ Cựu Ước đã đến hồi kết thúc và thời đại Tân Ước, thời cuối cùng, thời cánh chung đã tới. Người kêu gọi hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Trong bối cảnh này, Người đã gọi các ông Anrê, Simon, Giacôbê và Gioan làm những môn đệ đầu tiên. Các ông đã mau mắn vâng lời, dứt khoát bỏ tất cả đi theo Người. Hôm nay, Nhà văn Nguyễn Hoàng Đức cũng đã dứt khoát từ bỏ vinh hoa phú quý, tương lai huy hoàng, xán lạn để tin vào Tin Mừng đầy cam go, gian lao và thách đố.

Nhìn lại và đổi mới

“Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1, 15) Sám là ăn năn lỗi trước, hối là chừa bỏ lỗi sau. Sám hối nghĩa là dứt trừ lỗi trước đã phạm, không cho lỗi lầm sau phát sinh. Nhưng con người hiện đại hình như hiếm hoi thì giờ để hồi tâm xét mình, nhìn lại những gì đã trải qua, đã làm, đã vấp phạm, đã xúc phạm đến Chúa và tha nhân.

Lúc nào cũng bận rộn, vừa dứt công việc thì lao ngay vào giải trí, thú vui, thư giãn. Âm thanh, hình ảnh, sự kiện luôn lấp đầy tâm trí, lòng dạ. Vì thế cuộc sống ồn ào, quay cuồng, xô bồ, ô nhiễm ngộ độc con người từng phút giây, từ sáng tinh mơ đến tận đêm khuya nghỉ ngơi. Do vậy, số người cô đơn, mất phương hướng, lý tưởng, tha hóa, tự tử ngày càng tăng trong những xã hội văn minh, hiện đại như Nhật Bản, Hàn Quốc và Âu Mỹ.

Không xét mình, chẳng nhìn lại đằng sau, thì cũng chẳng thể nào tiến triển, trưởng thành trên đường đạo hạnh, con người chỉ có thể chìm dần, sa vào vũng lầy tội lỗi, đen tối, u ám, bất hạnh. Cái chết là kết cục đương nhiên. Cho nên không sám hối thì sớm muộn chỉ tìm đến cái chết cả xác lẫn hồn.

“Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16, 25-26)

”Nếu con chỉ “giữ đạo”con chưa canh tân. Ma quỷ muốn đuổi Chúa ra khỏi thế gian và lôi thế gian ra khỏi Chúa. Con phải đem Chúa đến thế gian và đưa thế giới về với Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 650)

Sống Tin Mừng

Sám hối mà thôi vẫn chưa đủ khả năng nhập gia tùy tục vào thời đại mới, thời đại Tin Mừng, thời đại Tân Ước, mà còn phải sống Tin Mừng. Cụ thể hóa Tin Mừng ngay trong đời thường hằng ngày qua bổn phận, trách nhiệm, yêu thương và phục vụ tha nhân, cùng vâng theo Thánh Ý Chúa mọi nơi, mọi lúc.

Bốn anh thuyền chài khỏe khoắn, vạm vỡ: Anrê, Simon, Giacôbê và Gioan đã mau mắn nghe tiếng Chúa gọi, quyết định từ bỏ tất cả, thân quyến, nghề nghiệp, của cải, ra đi làm môn đệ, làm anh em của Người. Sau này “Simon Phêrô lên tiếng thưa Ngài: “Này chúng tôi từ bỏ mọi sự mà đi theo Thầy”. Ðức Yêsu nói: “Quả thật Ta bảo các ngươi: không ai bỏ nhà cửa, hay anh em chị em, hay cha mẹ, hay con cái, hay ruộng nương vì Ta và vì Tin Mừng, mà lại không lĩnh lấy gấp trăm bây giờ ở đời này về nhà cửa, anh em và chị em, mẹ và con cái cùng ruộng nương, làm một với cấm cách bắt bớ, và sự sống đời đời trong thời sẽ đến.” (Mc 10, 28-30)

“Hãy đi rao giảng Phúc Âm..” (Mc 16, 15) Chúa cần những người “cảm tử” để đảm nhận một sứ mạng cao cả như thế. Hai ngàn năm lịch sử Hội Thánh cho ta thấy, giai đoạn nào cũng không thiếu cảm tử, từ mọi tầng lớp giáo dân.” (Đường Hy Vọng, số 64)

Lạy Chúa Giêsu, xin chiếu giãi Lòng Chúa xót thương, mở lòng, mở trí chúng con ra, để chúng con biết khiêm tốn, cúi đầu đấm ngực, ăn năn, sám hối, canh tân, cùng thực thi Tin Mừng trong đời sống thường nhật chúng con.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giải thoát chúng con khỏi bùn lầy thế gian, mà sám hối trở về cùng Chúa Giêsu, cội nguồn ơn cứu rỗi, để được thứ tha và an ủi, hầu chúng con có thể noi gương Mẹ, sống kết hợp cùng Chúa luôn. Amen.

[Mục Lục]

Bài 17. THEO CHÚA ĐỂ LÀM CÔNG VIỆC CỦA CHÚA

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I/ DẪN VÀO PHỤNG VỤ

Nếu Phụng vụ Lời Chúa Chúa nhật II Thường niên năm B khẳng định rằng mỗi Kitô hữu đều được Thiên Chúa gọi và chọn để phục vụ Chương trình Cứu độ của Thiên Chúa thì Lời Chúa của Chúa Nhật III hôm nay tiếp tục và đào sâu chủ đề Ơn Gọi, nhưng với một xác định rõ hơn là mỗi Ki-tô hữu được gọi và được chọn để làm công việc của Người. Công việc đó là kêu gọi tội nhân ăn năn trở lại (Gio-na), là giúp người ta hiểu điều quan trọng nhất của cuộc sống là gì (Phao-lô) và là chinh phục người đời như ngư phủ thả lưới bắt cá (An-rê, Si-mon, Gio-an và Gia-cô-bê). Vì sứ mạng này vừa hấp dẫn vừa khó khăn, nên rất cần chúng ta xác tín về sứ mạng và tin tưởng vào sự hỗ trợ của Thiên Chúa.

Chúng ta hãy lắng chăm chú nghe các bài Sách Thánh và mở rộng tâm hồn đón nhận sứ mạng Chúa muốn giao cho chúng ta và hãy học cùng các môn đệ đầu tiên mà đáp lại sự mong đợi của Thiên Chúa.

II/ LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

1/ Trong bài đọc 1 (Gn 3,1-5.10): Dân Ni-ni-vê bỏ đường gian ác mà trở lại.

2/ Trong bài đọc 2 (1 Cr 7,29-31): Bộ mặt thế gian nay đang biến đi.

3/ Trong bài Tin Mừng (Mc 1,14-20): Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.

III/ KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH

1/ Chân dung của Thiên Chúa:

a/ Thiên Chúa mà Sách Gio-na tường thuật là một Đấng Thiên Chúa thánh thiện và yêu thương. Vì thánh thiện nên Chúa không thể chấp nhận được tội lỗi của dân thành Ni-ni-vê. Vì yêu thương nên Chúa muốn cứu dân thành ấy bằng cách giao cho ngôn sứ Gio-na sứ mệnh cảnh cáo và kêu gọi sám hối. Nếu dân Ni-ni-vê không thay đổi cách sống thì hình phạt sẽ giáng xuống. Còn nếu họ biết sám hối bỏ điều gian ác mà quay về nẻo chính đường ngay thì Thiên Chúa sẵn sàng thứ tha cho tội lỗi của họ và không giáng hình phạt xuống nữa.

Ngôn sứ Gio-na đã thuyết phục được dân thành Ninivê bỏ đàng tội lỗi quả là một kỳ công đáng chúng ta cảm phục!

b/ Thiên Chúa mà Thánh Phao-lô muốn cho tín hữu Cô-rin-tô và hết thẩy các tín hữu cảm nhận được là một Đấng Thiên Chúa siêu việt đến nỗi đối diện với Người thì mọi thứ trên đời này chẳng đáng kể là gì nữa: vợ/chồng, của cải, sung sướng/đau khổ đều chỉ là những thực tại tương đối. Cả thế gian này chỉ là chốn tạm bợ. Chỉ có Thiên Chúa mới là tuyệt đối! Chỉ có đời sau mới là vĩnh hằng, trường cửu và bất di bất dịch!

Thuyết phục được người ta tin và sống như Thánh Phao-lô dạy quả là vô cùng khó khăn! Ngay tự bản thân chúng ta tin và sống như Thánh Phaolô dạy cũng đã là khó khăn lắm rồi! huống chi thuyết phục người khác.

c/ Thiên Chúa mà Thánh Mác-cô muốn giới thiệu với thế giới là Chúa Giê-su Na-da-rét, Đấng đến trần gian để rao giảng Tin Mừng Nước Trời và kêu gọi mọi người sám hối và tin vào Tin Mừng Cứu độ. Tin Mừng ấy trước hết là chính Chúa Giê-su vì Người là Ơn Cứu độ của Thiên Chúa. Tin Mừng ấy cũng là thông tin mà Người đem đến cho nhân loại: “Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Thiên Chúa đã đến gần”!

Để có người cộng tác với mình trong việc thực hiện sứ mạng rao giảng Tin Mừng, Chúa Giê-su tìm kiếm và chiêu mộ các môn đệ. Bốn vị đầu tiên được gọi và được chọn là hai cặp anh em: An-rê và Si-mon (tức Phê-rô), Gia-cô-bê và Gio-an. Cả bốn đều là dân chài lưới, sinh sống bằng nghề đánh cá. Nghề nghiệp của họ giúp họ hiểu ngay công việc mà Chúa Giê-su muốn giao cho họ: “Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Nói cách khác đó là những kẻ chinh phục lòng người cho Triều Đại và Vinh Quang Thiên Chúa!

2/ Sứ điệp của Lời Chúa:

Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay có hai phần:

* Một là: Thiên Chúa muốn giao cho mỗi người Ki-tô hữu sứ mạng kêu gọi người có tội ăn năn sám hối bỏ đường tội lỗi để được ơn tha thứ của Thiên Chúa.

* Hai là Thiên Chúa muốn mỗi người Ki-tô hữu trở thành người chinh phục người khác cho Triều Đại Thiên Chúa, cho Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Giê-su Ki-tô!

IV/ SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY

Để sống Sứ Điệp Lời Chúa của Chúa nhật III Thường Niên Năm B này, chúng ta cần thực hiện ba điều sau đây:

* Thứ nhất là xác tín mình được giao sứ mạng chinh phục lòng người trong thời đại hôm nay.

* Thứ hai là tha thiết cầu xin và để cho Chúa Thánh Thần huấn luyện và nhào nặn mình thành “những kẻ lưới người như lưới cá” mà Chúa Giêsu mong đợi.

* Thứ ba là biết tận dụng mọi cơ hội và hoàn cảnh để trau dồi những gì cần thiết cho sứ mạng chinh phục lòng người, nhất là vun đắp cho mình có một đời sống chứng tá hiệu quả. Vì “chứng tá Ki-tô đích thực là hết sức cần thiết cho ngày hôm nay, vì con người thời nay tin các chứng nhân hơn các thày dậy” (Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II, Tông huấn “Giáo Hội tại Châu Á”, số 42).

V/ CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH

1/ «Ông Giô-na bắt đầu vào thành, đi một ngày đường và công bố: “Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-vê sẽ bị phá đổ.” Dân Ni-ni-vê tin vào Thiên Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho hết mọi người trên thế gian để họ biết lắng nghe lời kêu gọi cải tà quy chính của các nhà lãnh đạo tôn giáo mà ăn năn trở lại với Thiên Chúa là Đấng muốn cứu vớt họ.

X/ Chúng ta cùng cầu xin Chúa
Đ/ Xin Chúa nhận lời chúng con.

2/ «Các anh hãy đi theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để mọi người đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa mà làm công việc lôi kéo các tâm hồn về với Thiên Chúa.

3/ «Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng!» Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, có được lòng sám hối chân thành và lòng tin sâu sắc vào Tin Mừng!

4/ «Các ông bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền, với những người làm công, mà đi theo Người.» Chúng ta hãy cầu nguyện cách riêng cho các linh mục và tu sĩ nam nữ biết hy sinh từ bỏ trong đời sống thánh hiến, để theo Chúa cách triệt để.

[Mục Lục]

Bài 18. Bướng bỉnh và ngoan ngoãn

Trầm Thiên Thu

Bướng bỉnh và ngoan ngoãn (*) là hai động thái trái ngược nhau, nhưng lại có thể “liên quan” lẫn nhau – từ bướng bỉnh trở thành ngoan ngoãn hoặc ngược lại. Từ “ngưỡng” này qua “ngưỡng” khác phải có sự dứt khoát, phải mạnh mẽ để khả dĩ vượt qua chính mình. Cả người bướng và người ngoan đều cần động thái dứt khoát.

Dứt khoát là không còn đắn đo, cân nhắc hoặc lưỡng lự. Động thái này không dễ thể hiện, vì phải mau chóng phân biệt phải trái và quyết định ngay. Rất khó! Người làm được như vậy là người có tâm lý mạnh và thể hiện tính cương trực. Nói một là một, nói hai là hai: “Điều gì đã quyết là đã quyết” (nói theo kiểu Philatô).

Trong sự dứt khoát có thể có chút gì đó bị người ta cho là tính bướng bỉnh, ngang tàng hoặc “gàn bát sách”, nhưng đó là sự bướng bỉnh cần thiết. Con ngựa chứng là con ngựa giỏi, vì không điều khiển được nó nên người ta cho nó là “chứng” và ghét nó. Với con người cũng vậy!

Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã đích thân sai ông Giôna đi lần thứ nhất: “Hãy đứng dậy, đi đến Ni-ni-vê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết rằng sự gian ác của chúng đã lên thấu tới Ta” (Gn 1:1). Ông vội đứng dậy nhưng không đi theo lệnh mà lại trốn đi Tác-sít, tránh mặt Chúa. Ngang bướng thật đấy! Nhưng kể ra cũng “can đảm” vì dám cãi Thiên Lệnh. Khi đó, ông đã thể hiện tính dứt khoát. Tàu chạy, bỗng dưng sóng gió ầm ầm, người ta gieo quẻ xem rơi trúng ai thì đó là kẻ gây tai họa. Quẻ rơi trúng ông Giôna. Ông tá hỏa tam tinh, cảm thấy mình sai nên hối hận và bảo người ta ném ông xuống biển. Con cá lớn nuốt ông trong bụng ba ngày rồi nhả ông lên bờ.

Sau đó, Chúa lại sai ông Giôna đi lần thứ hai: “Hãy đứng dậy, đi đến Ni-ni-vê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết lời tuyên cáo Ta sẽ truyền cho ngươi” (Gn 3:2). Lần này ông không dám bất tuân nên đứng dậy và đi Ni-ni-vê theo lệnh Đức Chúa. Kinh Thánh cho biết rằng Ni-ni-vê là một thành phố cực kỳ rộng lớn, đi ngang qua phải mất ba ngày đường. Ông Giôna bắt đầu vào thành, đi một ngày đường và công bố: “Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-vê sẽ bị phá đổ” (Gn 3:4). Dân Ni-ni-vê tin vào Thiên Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ. Dân Ni-ni-vê thật là ngoan ngoãn, vừa biết bảo nhau vừa biết phục thiện, vậy là diễm phúc lắm!

Thật vậy, Thiên Chúa luôn giàu lòng thương xót, không muốn ai phải hư mất, luôn kiên nhẫn chờ đợi các tội nhân hoán cải, nên khi Ngài “thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại, Ngài hối tiếc về tai họa Ngài đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, Ngài đã không giáng xuống nữa” (Gn 3:10). Đây là niềm hy vọng cho mỗi chúng ta, dẫu có tội lỗi tới mức nào thì cũng hãy cứ tin tưởng, đừng tuyệt vọng! Thiên Chúa chỉ cần chúng ta chân thành sám hối, rồi mọi thứ cũng chỉ là “chuyện nhỏ”, Ngài sẽ thứ tha hết. Thật vậy ư? Thật vậy, chắc chắn như thế, vì chính Chúa Giêsu đã mặc khải cho Thánh nữ Faustina:“Lòng Thương Xót của Ta lớn hơn cả tội lỗi của con và cả nhân loại” (Nhật Ký, số 1485). Biết như vậy không phải để ỷ lại, mà để cố gắng củng cố đức tin yếu mềm của chúng ta.

Nói tin thì dễ, nhưng rất khó để thể hiện và sống đức tin. Là phàm nhân thì ai cũng thế thôi, chẳng nói hay được. Tác giả Thánh Vịnh đã luôn phải cầu xin: “Lạy Chúa, đường nẻo Ngài, xin dạy cho con biết, lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con. Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài và bảo ban dạy dỗ, vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con. Sớm hôm con những cậy trông Ngài, bởi vì Ngài nhân ái” (Tv 25:4-5).

Thật vậy, khi còn trẻ, mấy ai không đã từng sa ngã, mấy ai không phải khốn đốn đôi lần, chính nhờ kinh nghiệm “xương máu” đó mà người ta mới nên khôn: “Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời. Tuổi xuân trót dại bao lầm lỗi, xin Ngài đừng nhớ đến, nhưng xin lấy tình thương mà nhớ đến con cùng” (Tv 25:6-7). Ngựa non háu đá, người trẻ háo thắng, đó là chuyện thường tình. Thiên Chúa không chấp chúng ta, nếu Ngài chấp tội thì chẳng ai được cứu rỗi (Tv 130:3), nhưng Ngài muốn chúng ta ăn năn thật lòng, vì Ngài là Thiên Chúa của tình yêu, Thiên Chúa của lòng thương xót:“Chúa là Đấng nhân từ chính trực, chỉ lối cho tội nhân, dẫn kẻ nghèo hèn đi theo đường công chính, dạy cho biết đường lối của Người” (Tv 25:8-9).

Ăn năn sám hối luôn là việc cấp bách, hành động cần thiết hàng ngày, không chỉ cần thiết trong Mùa Vọng, Mùa Chay, dịp tĩnh tâm,… Thánh Phaolô nói: “Thưa anh em, tôi xin nói với anh em điều này:thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có; ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả; kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi” (1 Cr 7:29-31). Thời gian là của Chúa, dù trẻ hay già thì cũng chẳng ai biết cuộc đời mình còn bao lâu. Có người còn trẻ và đang khỏe mạnh bình thường, thế mà bất ngờ nghe tin người đó từ trần. Vui mà buồn, buồn mà vui. Làn ranh rất mong manh, khó phân định rạch ròi.

Thánh Phaolô khuyên chúng ta sống mà đừng “chia trí” hoặc “nặng lòng” với những gì ở thế gian này. Sống như vậy không có nghĩa là hờ hững, vô tâm, vô cảm, bất cần đời hoặc “dở hơi”, mà là ngoan ngoãn vâng phục Thánh Ý Chúa. Đó là cách sống của người khôn ngoan: Khôn ngoan để không còn bướng bỉnh, khôn ngoan để tỉnh thức, tỉnh thức mà chờ đợi Chúa đến – chính xác nhất là lúc Ngài đến với cuộc đời riêng mình, lúc “tận thế” của cuộc đời mình, tức là lúc mình chết.

Trình thuật Mc 1:14-20 đề cập “ngày tận thế”, điều đó nhắc nhở mỗi chúng ta ĐỪNG BƯỚNG BỈNH, mà HÃY NGOAN NGOÃN. Trình thuật này cũng cho thấy sự ngoan ngoãn của hai cặp môn đệ đầu tiên được Chúa Giêsu mời gọi đi theo Ngài.

Sau khi ông Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, Ngài đã xác định: Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối  tin vào Tin Mừng” (Mc 1:15). Chắc chắn thời đại chúng ta đang sống là “thời kỳ cuối cùng”, chẳng bao giờ có chuyện “đầu thai” kiếp khác. Chỉ có hai kiếp: Kiếp này và kiếp sau. Kiếp sau là vĩnh hằng, nhưng có hai dạng: Hạnh phúc đời đời hoặc khốn nạn đời đời. Tuyệt đối không có dạng “lửng lơ con cá vàng” đâu!

Khi Chúa Giêsu đang đi dọc theo biển hồ Galilê, Ngài thấy ông Simôn với người anh là ông Anrê đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá. Ngài bảo họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Thánh sử Mát-thêu nói rõ: “Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người”. Hai anh em ngư dân này không hề lưỡng lự, không tính toán chi. Đi là đi ngay, dù đang phải lo kế sinh nhai. Động thái đó chứng tỏ họ ngoan ngoãn chứ không bướng bỉnh như ông Giôna xưa.

Một lúc sau, khi đi xa hơn một chút, Ngài thấy hai anh em khác: Giacôbê và Gioan, cả hai là con ông Dêbêđê. Hai anh em này cũng là dân chài lưới, lúc đó Chúa Giêsu thấy họ đang vá lưới ở trong thuyền. Ngài liền gọi họ. Và dù đang bận việc, họ bỏ cha mình ở lại trên thuyền với những người làm công, rồi đi theo Ngài. Hai anh em này cũng rất dứt khoát, sẵn sàng đi ngay.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết dứt khoát với mọi thứ, nhất là đối với tội lỗi, không nặng lòng với bất cứ thứ gì, nhờ đó mà chúng con mới khả dĩ ngoan ngoãn sống đúng theo Thánh Ý Ngài mọi nơi, mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

(*) Theo Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của (xuất bản tại Saigon, 1895-1896) chữ “ngoan” được sắp vào loại chữ Nho (để phân biệt với những từ thuộc loại chữ Nôm) và giải nghĩa là “cứng cỏi, ngu si, khôn khéo”. Chữ “ngoan” có nhiều nghĩa: Ngoan ma là chai sần (nói về da thịt);ngoan ngạnh là cứng cỏi, chống báng; ngoan dân là dân khó trị; ngoan nhiên là tự nhiên như một cái cây, một cục đá, không trau dồi; ngoan ngùy là khôn ngoan, nhơn lành; ngoan đạo là giữ đạo tốt, đạo đức.

Trong sách Giúp Đọc Nôm và Hán-Việt (NXB Đà Nẵng và Hội Bảo tồn Di sản chữ Nôm, 2004), Lm Antôn Trần Văn Kiệm phân biệt hai hình thức và ý nghĩa của chữ “ngoan”, ghép thành bởi chữ “nguyên” (đầu tiên, ban đầu, nguồn gốc) và bộ “kiến” (thấy, cái nhìn, quan điểm, bản sắc). Trong chữ Nho, ngoan là ngu: Ngoan độn là không biết gì; ngoan thạnhlà vô tri, vô giác; ngoan cố là khó bảo, cố giữ lập trường của mình dù biết là sai; ngoan địch là kẻ địch khó trị; ngoan bì hoặc ngoan đồng là hay phá nghịch. Trong chữ Nôm, ngoan chỉ có nghĩa là dễ bảo (ngoan đạo, ngoan ngoãn).

Trường hợp chữ ngoan trong hai nghĩa mâu thuẫn nhau: [1] Ngoan trong chữ Nho là bướng bỉnh, khó bảo, cứng đầu, ngu ngốc, tinh quái; [2] Ngoan trong chữ Nôm là thông minh, khôn ngoan, dễ dạy. Những từ ngữ kiêm dụng được cả hai nghĩa này là ngoan cố (khó bảo, cố chấp) và ngoan cường(mạnh mẽ tự vệ, đề kháng mọi sự chi phối, đàn áp). Trong cách nhìn của kẻ chinh phục, kẻ ngoan cố giữ bản tính, bản chất, bản sắc của mình là ngu ngốc, khó bảo, không vâng lời. Trong cái nhìn của kẻ tự vệ, không muốn bị đồng hoá, ngoan cường mới là khôn ngoan, có giá trị, phải phát huy để sống còn mà không bị tha hoá, biến chất.

[Mục Lục]

Bài 19. “KHỐN THÂN TÔI…”

Lm. Vũ Xuân Hạnh

Thiên Chúa và Chúa Giêsu không ngừng mời gọi chúng ta ra đi làm tông đồ để loan báo tin mừng cứu độ cho mọi người. Xưa các tông đồ nhanh chóng đáp trả tiếng Chúa và thực thi ơn gọi của mình đầy quả cảm. Nay, theo chân các tông đồ, làm tông đồ mới của thời đại mới, chúng ta không được dừng bước trên mọi nẻo của đời sống. Loan báo Tin Mừng của chúa là danh dự, là lẽ sống của người tông đồ.

Từng người tín hữu Kitô hãy có cùng một thao thức, một sự thúc bách liên lỉ như thánh Phaolô trọn đời mình: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1Cr 9, 16). Từng người tín hữu Kitô hãy luôn ấp ủ niềm vui Tin Mừng, để có sống thì sống cho Tin Mừng; có chết cũng là chết cho Tin Mừng.

1/ CÁC TÔNG ĐỒ MAU MẮN ĐÁP TRẢ ƠN GỌI

“Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi thành những kẻ chài lưới người ta”. Bài Tin Mừng hôm nay cho biết, Chúa Giêsu tuyển chọn bốn tông đồ đầu tiên đi theo Chúa là: Simon Phêrô; Anrê; Giacôbê; Gioan.

Bốn tông đồ này là hai cặp anh em ruột: thánh Anrê là anh thánh Phêrô; thánh Giacôbê là anh thánh Gioan. Đây là bước khởi đầu cho việc thực hiện đường lối cứu độ của Chúa và thiết lập Hội Thánh.

Thái độ của các môn đệ đầu tiên là thái độ đáng để chúng ta học tập: Sau khi nghe Chúa mời gọi, ngay lập tức, họ bỏ mọi sự mà theo Chúa. Thánh Mathêô ghi nhận: Lập tức các ông bỏ chài lưới, bỏ thuyền, bỏ người thân của mình mà ra đi theo tiếng Chúa gọi (x. Mt 1, 18.20).

Để nhấn mạnh trách nhiệm của người được tuyển chọn, Chúa Giêsu xác định ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên với các ông: “Ta sẽ làm cho các ngươi thành những kẻ chài lưới người ta”.

Mau mắn đáp trả lời Chúa gọi là thái độ luôn luôn cần thiết của từng người tông đồ của Chúa. Mau mắn đáp trả ơn gọi của Chúa là đi theo Chúa, tự để mình gắn bó với Chúa, thuộc về Chúa, ở với Chúa.

Sự mau mắn đáp trả còn cho biết các môn đệ của Chúa vui mừng, hân hoan, hãnh diện vì được Chúa gọi. Họ nôn nóng muốn chia sẽ ngay cuộc sống của Chúa, tâm tư của Chúa, công việc của Chúa, niềm vui và nỗi buồn của Chúa…

Một tình yêu có thể làm đảo lộn cả một cuộc đời. Từ ngày được Chúa gọi, khám phá tình yêu của Chúa, cuộc đời các tông đồ đã rẽ sang hướng khác: vinh phúc hơn, nhưng cũng khó khăn hơn, quan trọng hơn, đòi hy sinh nhiều hơn. Bởi từ nay, các tông đồ sẽ “lưới người”, chứ không chỉ “lưới cá”.

Trong ánh sáng tình yêu mà các tông đồ nhận từ nơi Chúa, đã làm các ngài thay đổi dần cuộc đời mình. Một khi theo và yêu Chúa rồi, các tông đồ không được phép dừng lại, như chỉ có việc ở bên Chúa là đỉnh điểm.

Ngay sau việc theo Chúa, các tông đồ có trách nhiệm thông truyền sự sống của Chúa, thông truyền chính Chúa cho mọi người. Các tông đồ phải nhanh chóng thực hiện sứ mạng truyền giáo do ơn gọi theo Chúa đòi hỏi. Với việc ra đi truyền giáo, Chúa “nâng cấp”, để các tông đồ từ những người “lưới cá” trở nên nhửng người “lưới người”.

2/ CHÚNG TA THEO CHÂN CÁC TÔNG ĐỒ

Một hôm được nghỉ phép về nhà, viên sĩ quan trẻ của quân đội Pháp là Charles de Foucauld miên man nói cho những người thân về những thám hiểm của mình ở Maroc. Cháu của anh, cô bé chưa đủ 10 tuổi, sau một hồi chăm chú nghe anh kể, bất ngờ hỏi: “Cậu làm được nhiều việc vĩ đại… Cậu đã làm được gì cho Thiên Chúa chưa?”.

Câu hỏi hồn nhiên của cô cháu gái đã đi theo Charles de Foucauld suốt thời gian dài sau đó. Dù chỉ là câu hỏi của một đứa trẻ, nhưng đã đủ sức lay động động lương tâm của một sĩ quan đã từng vào sinh ra tử như anh.

“Anh đã làm gì cho Thiên Chúa?”. Charles moi hết trí nhớ, moi hết lương tâm để tìm bằng được câu trả lời. Nhưng anh chỉ thấy một lỗ hổng không đáy. Anh không làm gì cho Thiên Chúa. Suốt thời gian qua, anh đã dùng sức trẻ chỉ để phí phạm tất cả thời giờ cho cuộc sống vô độ, cho những cuộc ăn chơi truỵ lạc và những danh vọng phù phiếm…

Mắt anh bỗng mở ra. Anh bắt đầu thấy con người trần trụi, khốn khổ, nghèo hèn của mình. Sau cùng, anh tìm đến một vị linh mục. Nơi tòa giải tội, Charles de Foucauld đã chân thành thú nhận tội lỗi của mình.

Để quyết tâm làm một điều gì cho Thiên Chúa, Charles de Foucauld đã hành hương Đất Thánh để sống chính cuộc đời nhập thể và nhập thế của Chúa Kitô. Từ đây, anh thực tập sống nhiệm nhặt. Anh xin nhập dòng Xitô khổ tu. Vài năm sau, thầy Charles còn hành hương Rôma để cầu nguyện và ăn năn tội.

Thầy còn hạ mình đến nỗi xin vào làm vườn cho Dòng Clarisses, như một người phục vụ âm thầm. Nhưng trên hết tất cả những việc trên, thầy đã cầu nguyện đêm ngày để được sống gần Chúa, để được Chúa biết đổi và thánh hóa.

Thầy Charles de Foucauld được thụ phong linh mục, tại giáo phận Viviers, ngày 9.6.1901. Sau khi lãnh chức linh mục, Cha Charles khởi sự truyền giáo. Đây là thời gian đầy gian lao và nguy hiểm của cha.

Ngày 10.9.1901, Cha xin qua sống trong sa mạc miền khô cằn Bénis-Abbès, ở Algérie. Tại đây, cha đã rửa tội nhiều người, xây dựng cơ sở truyền giáo, bỏ tiền chuộc người nô lệ để trả tự do cho họ. Hằng ngày cha thức dậy từ 3 giờ sáng, đọc kinh, suy gẫm rồi đi vào sa mạc để tìm đưa linh hồn con người về với Chúa.

Ngày 27.5.1903, cha đến làm quen rồi sinh sống với các cư dân vùng ngã ba giữa Algérie, Maroc và Sahara, với ý định truyền giáo cho họ. Đây là nơi quân đội Pháp thường qua lại. Vì thế, người dân vùng này sống có qui củ thành làng, nhưng chỉ biết có trời, không biết gì về Thiên Chúa.

Ngày 11.8.1905, cha lại đến truyền giáo ở vùng sa mạc Tamanrasset. Để công tác truyền giáo hiệu quả, cha Charles de Foucauld say mê tìm đến những người du mục sống trong hoang địa, làm quen, học tiếng của họ. Cha dịch Phúc Âm sang tiếng Ả Rập. Ban ngày cha giúp họ những làm việc. Tối cha dành nhiều giờ suy gẫm. Cha nêu cao đời sống bác ái để nói với cư dân địa phương về tình yêu của Thiên Chúa.

Từ miền khí hậu khắc nghiệt, hoang vu, nóng bỏng, đầy cát trắng này, cha chạm phải nhiều đau khổ: Cha bắt đầu bị nhiều bệnh tật. Dù đây là nơi mà cha Charles trở thành ân nhân của mọi người, vẫn có những nhóm người chống quân đội Pháp thù ghét cha. Họ loan tin cha là phù thủy, rồi tìm cách bắt sống cha để làm con tin. Đã có lần, do bị hại, cha bị thương trên đường đi…

Rồi chuyện gì đến cũng đã đến. Hôm ấy là tối ngày 1.12.1916, nhóm Touareges, gồm 40 người đã ập đến lục soát nơi cha ở. Dân làng hay tin, đã ùn ùn kéo đến. Nhưng họ đã không kịp. Người ta đã nổ súng, viên đạn đâm thâu mắt trái xuyên vào đầu cha. Cha Charles de Foucauld đã hiến dâng chính mình làm của lễ toàn thiêu cho Thiên Chúa.

Người tông đồ là kẻ được Chúa kêu gọi, chứ không tự mình chọn Chúa. Người tông đồ còn là kẻ được gọi sống với Chúa, chứ không phải chỉ biết một cách trừu tượng những giáo huấn của Ngài mà thôi.

Cha Charles de Foucauld là tấm gương, là bằng chứng sống cho những ai xưng mình là tông đồ của Chúa. Hãy bắt chước cha, đêm ngày cầu nguyện, suy gẫm, học hỏi Lời Chúa, để ngày càng sống gần Chúa, sống thân tình với Chúa, nên một với Chúa hơn.

Với chức vụ sĩ quan, con đường công danh, sự nghiệp, tương lai trần thế của Cha Charles de Foucauld chắc chắn không nhỏ. Nhưng cha đã bỏ tất cả. Cha quyết tâm ăn năn tội, phục hồi hình ảnh của Chúa nơi linh hồn mình.

Từ nội dung Tin Mừng và tấm gương dâng hiến đến cùng của cha Charles de Foucauld, ta rút ra bài học quý giá: Muốn theo Chúa làm tông đồ, làm nhà truyền giáo, phải từ bỏ, phải trở nên một người không vướng bận chút lo toan vật chất, của cải nào.

Đúng hơn, theo Chúa, người môn đệ chỉ mang trong tâm hồn một thứ hành trang duy nhất cần thiết, đó là lòng yêu mến và tin tưởng phó thác. Mọi của cải vật chất, mọi tiện nghi… đều trở nên chướng ngại cho việc truyền giáo. Bởi công tác truyền giáo là công tác khó khăn. Chỉ có lòng yêu mền và tín thác vào Chúa, ta mới có thể vượt qua.

Một lần nữa, nhìn gương các tông đồ, nhìn gương cha Charles de Foucauld, nhìn gương của biết bao nhiêu anh chị em trong lịch sử Hội Thánh, một lần nữa, chúng ta xác tín như thánh Phaolô: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!”.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một tâm hồn tông đồ, để chúng con biết hiến dâng cho Chúa tất cả nhiệt huyết, tất cả tình yêu, tất cả sự sống của chúng con để danh Chúa được cả sáng. Chúng con tin rằng, như các môn đệ của Chúa khi xưa, ngày nay, nếu chúng con biết từ bỏ mọi sự theo Chúa, Chúa cũng sẽ biến đổi chúng con thành “những kẻ chài lưới người ta”. Amen.

[Mục Lục]

Bài 20. TỪ BỎ – TƯƠNG QUAN – VÁC THẬP GIÁ

Lm JB Nguyễn Minh Hùng

Một ngày trong những tháng gần cuối năm 2013, tôi nhận một tin dữ: Một người trẻ trong hàng ngũ chúng tôi chết trong tư thế bị treo. Xét nghiệm cho biết: người anh em chết vì tự tìm đến cái chết. Thông tin đau lòng này làm tôi nhớ lại, nhiều năm trước, cũng người trẻ, cũng cùng theo đuổi một ơn gọi, cuối cùng, cũng đã tự mình tìm đến sự rủi ro đáng sợ này.

Những cái chết như thế, với người bình thường, đã gây chấn động. Với những người có ảnh hưởng cách này, cách khác nơi cộng đồng, trên đời sống chung, càng tạo nhiều bàn tán trong dư luận, thu hút nhiều sự chú ý, gây nhiều sửng sốt, bàng hoàng, xót xa…

Ta nhận ra, đây là thất bại trong tương quan của đời sống. Tương quan gồm cả hai phía. Không thể đơn lẻ một mình mà có thể có tương quan. Tương quan nghiêng ngã, hậu quả là tổn thương, đau buồn trong nhau. Đổ vỡ tương quan, hậu quả thật bẽ bàng. Đánh mất tương quan, hậu quả không thể lường hết.

Vì sống là sống trong tương quan. Sống bao giờ cũng phải có tương quan. Do đó, mất tương quan, người ta không có sự sống, hoặc không có lý tưởng sống đúng nghĩa. Vì thế, tương quan mà đổ vỡ, nó sẽ kéo về những xót đau, những nỗi niềm đáng suy nghĩ.

Để củng cố tương quan, nhất thiết phải gọi về sự từ bỏ. Từ bỏ lớn nhất là thu nhỏ cái tôi của mình. Cái tôi mà đặt đúng chỗ đúng lúc, tương quan trổi vượt. Cái tôi mà thể hiện hợp lý, tương quan rộng mở. Cái tôi được biểu lộ là sự thanh thoát, là những nghĩ suy thông thoáng, tương quan đầy đặn, thắm thiết, chân thành.

Bài Tin Mừng của Chúa nhật thứ III thường niên, năm B, là bài Tin Mừng nêu cao sự từ bỏ cái tôi. Chúa gọi hai anh em, thánh Phêrô và thánh Anrê. Lập tức hai con người này đứng lên theo Chúa. Sau đó Chúa gọi tiếp cặp anh em khác là thánh Gioan và thánh Giacôbê. Cũng vậy, hai anh em này lập tức đứng lên theo Chúa (Mc 1, 16-20).

Theo Chúa bằng thái độ nhanh, dứt khoát, ngay sau khi Chúa gọi, giả thiết các tông đồ là những người dễ dàng từ bỏ. Nhất là việc các tông đồ rời bỏ người cha của mình, bỏ lại những người thân khác trong gia đình, để từ đây chuyên tâm đón nhận sự giáo dục của Chúa, chỉ sống với Chúa và cho Chúa.

Từ bây giờ, các tông đồ chấp nhận lang thang cùng Chúa rày đây mai đó trên mọi nẻo đường, mọi làng quê, mọi nơi phố thị, dù ở giữa dân ngoại hay giữa cộng đoàn Dothái giáo…

Các tông đồ gác lại việc đang làm, gác lại sự nghiệp, gác lại nghề nghiệp, gác lại việc phải kiếm tiền cho cuộc sống gia đình. Các tông đồ còn chấp nhận bỏ lại sau lưng một ít của cải mà mình có được, là thuyền và lưới.

Các ngài cũng gác lại thói quen sống tự do giữa mênh mông trời biển, gác lại não trạng của một ngư dân bình thường để chấp nhận đời sống cộng đoàn, gác lại thói quen vùng vẫy để khép mình vào đời sống lề luật, khép mình vào nếp sống không phải của riêng mình, để thuận theo nếp sống chung của cả cộng đoàn…

Từ bỏ quá nhiều như thế không dễ chút nào, nếu các tông đồ không ý thức để tự từ bỏ chính bản thân, từ bỏ ý riêng mình. Chắc chắn, các tông đồ phải thu nhỏ cái tôi của bản thân để tôn trọng, để sống chung, để hòa hợp cùng mọi anh em.

Có lần Chúa dạy: “Hãy bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt 16, 24). Người ta có thể hiểu vác thập giá là chấp nhận thử thách, sống đúng bổn phận, chu toàn trách nhiệm, đề cao tinh thần khắc khổ, vui nhận hy sinh…

Nhưng nếu chấp nhận từ bỏ chính mình để đời sống cộng đoàn trổi vượt, để thượng tôn các tương quan trong đời sống, thì sự từ bỏ chính là vác thập giá. Sự từ bỏ ấy cần thiết để theo Chúa. Theo Chúa là hướng nhắm, là đích đến cuối cùng của việc từ bỏ, của việc vác thập giá.

Cho nên từ bỏ chính bản thân là một hy sinh lớn vô cùng. Nó là cây thập giá mà những người trong cuộc phải kiên trì vác lấy. Nó không miễn trừ ai. Nó đòi hỏi cả người lớn, kẻ nhỏ, có quyền hay không có quyền… phải ra sức thực hiện cho bằng được.

Sự bỏ mình có thể đến từ người đồng phận dành cho nhau; bề trên dành cho bề dưới; hoặc bề dưới đối lại bề trên. Càng chung sống, chung nhiệm vụ, chung những hoạt động… càng phải thực hành sự bỏ mình.

Khi sống cùng nhau, nếu từng cá nhân, ai cũng biết bỏ mình, tương quan sẽ ùa về, sẽ mỗi ngày một thêm lớn, thêm đẹp, thêm keo sơn, thắm thiết, bền chặt. Một cộng đoàn thấm đẫm tương quan, cộng đoàn đầy tình yêu, niềm hạnh phúc, lòng tương trợ, nghĩa bao dung… Từng thánh lễ, từng giờ kinh nguyện của cộng đoàn không giả tạo, không bên ngoài, nhưng sốt sắng, dễ rung động tâm hồn, làm lắng sâu cõi lòng. Cá nhân của cộng đoàn ấy sẽ an bình, sẽ thấy nơi mình sống đáng để sống, đáng để hiến thân phụng sự, đáng để đời mình nương ẩn.

Sở dĩ có những cái chết oan uổng, gây kinh ngạc, suy nghĩ, là bởi trước đó, những ai hiện diện bên nhau đã để xảy ra tình trạng thiếu vắng hy sinh, thiếu vắng đặt mình vào nhau, thiếu vắng từ bỏ chính mình, hoặc từ bỏ ấy đã không tới được mức độ cần thiết của nó.

Người ta cô đơn, bản thân sẽ quay quắt. Người ta cô đơn giữa tập thể, bản thân đau khổ. Người ta cô đơn triền miên giữa tập thể, bản thân rơi vào bế tắc. Cô đơn đến mức bế tắc, tình trạng sẽ rất xấu…

Tương quan là cần thiết. Chẳng những tương quan giúp giải quyết tình trạng cô đơn, nhưng còn thăng tiến, phát triển con người; còn giúp con người rút nhiều bài học sống, nhiều kinh nghiệm sinh động.

Có tương quan tốt, chúng ta không chăm chăm nhìn mình, nhưng sẽ khôn ngoan hướng cái nhìn vào anh chị em, đặt mình vào họ, vào hoàn cảnh của họ, để có thể hiểu, cảm thông, đón nhận, yêu thương… nhau hơn.

Hòa bình, tình tương thân tương ái sẽ phát sinh nếu tương quan diễn ra tốt. Chúng ta sẽ trưởng thành tư duy, lớn lên tình cảm, sâu sắc nội tâm, nhạy bén tầm nhìn…, nếu tương quan của ta mỗi ngày một được nâng cấp, được mở rộng.

Nếu sống bên Chúa, các tông đồ cần có tương quan tốt, thì tương quan chính là ơn gọi. Đó là ơn gọi sống cùng và sống cho Chúa; sống cùng và sống cho anh chị em. Ơn gọi xây dựng tương quan là một trong những ơn gọi căn bản của người tông đồ. Không thể nói, mình theo Chúa, mà lại thiếu tương quan. Nếu tương quan không được đề cao, những người theo Chúa dễ bị xem là đội lốt, là phản chứng, là hình thức.

Có tương quan, ta sống mạnh mẽ cho niềm tin vào Thiên Chúa; giới luật yêu thương của Người mà ta áp dụng để cùng sống sẽ thành công. Vì thế, ơn gọi sống tương quan mà được lưu tâm, nó nâng đỡ mọi ơn gọi khác. Bởi một trong những lý do thất bại về sự sống, thất bại trong chọn lựa bậc sống, thậm chí thất bại cả về lý tưởng, là vì tương quan không thể xác lập, hoặc tương quan bị đổ vỡ. Vì thế, sống ơn gọi tương quan là vô cùng cần thiêt, cấp bách.

Tương quan và sự từ bỏ bản thân luôn cần đến nhau, song hành cùng nhau, bổ túc cho nhau. Phải biết từ bỏ bản thân để có tương quan. Khi tương quan được nâng cao, càng thực hành từ bỏ bản thân dễ hơn. Người ta khó lòng từ bỏ bản thân vì kẻ thù của mình. Đã xảy ra tình trạng người này khó ưa, kẻ kia khó thương, nghĩa là tương quan đã biến mất, hoặc ở mức độ thấp, sự từ bỏ bản thân sẽ khó khăn, gượng ép, giả hình…

Chúng ta hãy theo chân các tông đồ, sẵn sàng đáp trả lời mời gọi của Chúa, bằng việc hiến dâng sống ơn gọi đời mình. Nhưng như thế chưa đủ. Chúng ta phải noi gương các tông đồ tập tành việc từ bỏ chính mình, để ở với Chúa và sống cùng anh chị em. Khi biết bỏ mình, tương quan nảy sinh. Bỏ mình tốt, tương quan sẽ đi lên. Bỏ mình đến mức quên mình, tương quan đạt tới đỉnh cao.

Từ bỏ chính mình để gầy dựng tương quan, kinh nghiệm cho biết, sẽ đau đớn như thể bị sát thương. Nhưng chính lúc bị sát thương vì phải sống tương quan, có thế nói, đó là chính lúc sống lời Chúa mời gọi “bỏ mình, vác thập giá” theo Chúa.

Hãy hướng nhìn các tông đồ, những người đã đi trước chúng ta, sống thành công sự từ bỏ bản thân; xác lập thành công tương quan với Chúa, với anh em; và đã vác thập giá đời mình cách trung thành đến cùng.

Nhìn các tông đồ, giúp chúng ta sống như các tông đồ…

[Mục Lục]

Bài 21. CHÚA ĐANG GỌI BẠN

Msgr. Edward Peter Browne

Tôi muốn chào đón các em học sinh mẫu giáo từ các lớp giáo lý, các thầy cô và phụ huynh của các em. Tôi muốn nói với các học sinh, và các em cần để ý lắng nghe bởi vì tôi sẽ có những câu hỏi để hỏi các em.

Pháp Luật và Lương Tâm

Nhiều lần khi tôi bật truyền hình lên để xem tin tức hoặc là lúc tôi đọc báo, một ý tưởng hiện ra, “Cái gì đang làm cho thế giới không ổn? Dường như là mỗi ngày một trở nên tệ hơn.” Có đủ thứ tội phạm – qúi vị biết là tôi đang nói về cái gì – đủ loại sa đọa, không phải chỉ ở Mỹ, nhưng mà là mọi nơi trên thế giới: giết người, chiến tranh, người ta giết hại nhau chỉ vì mầu da hay vì họ không thuộc về cùng một bộ lạc, hoặc họ không cùng một niềm tin tôn giáo.

Trong đất nước này chúng ta thấy luân lý đang đi xuống. Dường như người ta đã đè bẹp lương tâm của họ. Họ không muốn biết cái gì đúng cái gì sai; người ta chỉ muốn làm cái họ thích. Nếu lương tâm bắt đầu cắn rứt họ về một điều nào đó, họ muốn làm một luật khác thay đổi cái luật đó đi.

Ai cũng biết phá thai là tội lỗi, là một tội ác, nhưng Tối Cao Pháp Viện phán quyết cho phép phá thai, và làm việc phá thai là hợp pháp. Bởi đó “lương tâm của tôi không cắn rứt nữa. “Nó hợp pháp mà!” Ai cũng biết là hôn nhân đồng phái tính là xấu và vô luân, nhưng nếu tòa án nói là được, thì được. “Lương tâm của tôi không cần phải cắn rứt nữa.” Chúng ta đang sống trong thời đại buông thả và chính phú nói, “cái đó không phải là hình ảnh khiêu dâm, nó có thể được chiếu trên truyền hình,” thì nó thành hợp pháp, và được chấp nhận. Nhiều người cảm thấy là nếu chúng ta hợp pháp hóa tất cả mọi cái xấu trên thế gian này thì chúng sẽ được chấp nhận là đúng. “Nó không còn làm cho lương tâm tôi bị cắn cứt nữa.”

Lệch Lạc Lương Tâm

Thiên Chúa làm sáng tỏ và Đức Thánh Cha đã tuyên bố rằng bất cứ luật dân sự nào đi ngược lại với luật của Thiên Chúa thì không buộc phải tuân hành. Chỉ nguyên là hợp pháp không có nghĩa là nó có thể bỏ qua luật của Thiên Chúa. Chúng ta vẫn phải duy trì Thiên Luật cho dù dân luật có cho phép; nhưng như thế sẽ làm phiền lương tâm của một số người. Bởi thế họ tẩy chay tôn giáo. Nếu họ tẩy chay tôn giáo, thì sẽ không còn ai chung quanh để lên tiếng nói cho chúng ta biết cái gì đúng cái gì sai, cái gì tốt cái gì xấu. Loại bỏ giáo dục đạo đức tôn giáo ra khỏi trường học bởi vì nó đối nghịch với luật pháp. Lý do chúng ta có những lớp giáo lý tại giáo xứ Thánh Micae là để con em của chúng ta có được sự giáo dục tôn giáo, cho dù các em không là học sinh trường Công Giáo của nhà thờ.

Qúi vị nghe những cách nói ngày nay như, “cái đó thuộc về tôn giáo khuynh hữu qúa khích, do đó nó không đúng.” “Tôn giáo khuynh hữu qúa mức” chỉ đơn giản nỗ lực công bố lề luật của Thiên Chúa, làm sáng tỏ cái gì đúng luân lý cái gì trái luân lý. Nhưng người ta đè bẹp đi bởi vì nó cắn rứt lương tâm họ. Lương tâm của tôi nói là hành động này hoàn toàn đúng.” Thật là điều ngỡ ngàng đối với tôi khi thấy nhiều cặp trẻ đến để chuẩn bị hôn nhân đã chung sống với nhau hai, ba, bốn, năm năm. Tôi nói, “Các bạn biết điều đó là sai.” Họ trả lời, “Chúng con đâu có biết đó là sai.” Họ đã đè bẹp lương tâm của họ. Ngày nay cái gì hợp pháp thì cái đó cũng đúng luân lý. Các bạn và tôi biết nó không đúng là như thế.

Khi nghe bài đọc thứ nhất trong Thánh Lễ hôm nay từ sách Jonah, đó là một dụ ngôn hơn là một biến cố lịch sử; tôi suy nghĩ, “Tại sao Thiên Chúa không sai một người nào đó giống như Jonah đến nước Mỹ và nói với dân chúng “hãy cải sửa các hành vi của họ và làm cho ngay thẳng lại. Hãy loại bỏ tất cả các sự xấu xa trên thế giới và sửa đổi lại.” Thiên Chúa không làm như thế. Thiên Chúa đã sai người Con duy nhất của Ngài, Chúa Giêsu Kitô, đến sống ở trần gian, chịu đóng đinh, chết ở trần gian, và mở đường cứu rỗi cho chúng ta. Khi Ngài còn ở trần gian, ngài đã làm sáng tỏ, như trong bài Tin Mừng hôm nay, “Đây là con đường cứu rỗi.” Chúa Giêsu công bố Tin Mừng. “Đây là thời viên mãn, nước Thiên Chúa đến gần. Hãy ăn năn thống hối và tin vào Tin Mừng.” Đó là bản tin cho chúng ta. Nước Thiên Chúa đã đến gần, hãy ăn năn thống hối và sửa mình! Nếu các bạn không làm như thế thì sẽ không thuộc thành phần trong nước của Thiên Chúa. Thiên Chúa nói với chúng ta, đúng, chúng ta có Đấng Cứu Thế Đấng đã đến trần gian để dạy chúng ta cái gì đúng cái gì sai, cái gì tốt cái gì xấu, dạy chúng ta cái gì cần cho ơn cứu rỗi của chúng ta.

Nhưng chúng ta thấy có những người Công Giáo không muốn tin như vậy. Có những nhóm bất đồng ở trong Giáo Hội mà lương tâm của họ đang ray rứt họ về vài sự lạc giáo mà họ đang ấp ủ, hay vài vấn đề đòi họ sửa mình thì họ lại bất đồng với giáo hội; thay vì sửa mình thì họ lại nỗ lực tranh đấu để giáo hội sửa đổi giáo huấn của Giáo Hội. Họ cho là “Giáo Hội không hiểu!” Nếu họ có thể làm cho Giáo Hội sửa đổi giáo huấn, thì lương tâm của họ không còn ray rứt họ nữa và họ sẽ cảm thấy thoải mái. Đó là đường lối sai lầm, và các bạn biết là như vậy. Tuy nhiên, vẫn có nhiều người, có thể là một số người đang ngồi ở đây có chủ trương là , “Thời thế đã thay đổi. Ngày nay phải theo luật mới, luân lý mới. Do đó bao lâu có những luật mới này thì bấy lâu lương tâm tôi sẽ không ray rứt nữa.” Họ muốn Giáo Hội thích nghi theo lối sống của họ thay vì họ phải thích nghi theo các giáo huấn của Giáo Hội.

Hoán Cải Sửa Mình

Chúng ta biết Thiên Chúa hiện diện giữa chúng ta và mỗi người chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi riêng để sống đời sống viên mãn và tràn đầy ơn cứu độ. Chúa Giêsu đã không sai một đoàn các tiên ti đi vào thế giới, ngài mời gọi bạn, bạn và bạn, mỗi người riêng biệt. Ngài mời gọi bạn sửa mình, ăn năn hối cải, đón nhận Nước Thiên Chúa trong đời sống của mình, giống như ngài đã làm trong bài Tin Mừng hôm nay với Phêrô, Giacôbê, Gioan và Andrê. Ngài đã kêu gọi họ, “Ngươi đến, ngươi đến và ta sẽ làm cho các người trở nên kẻ chài lưới người. Ta sẽ làm cho các ngươi trở nên cá khí cụ bình an của Thiên Chúa trong thế giới.” Trừ khi bạn, bạn và tôi làm như thế, bằng không thì chúng ta sẽ không hoán cải thế giới được, chúng ta sẽ không thể hoán cải xã hội được. Nếu chúng ta không thay đổi, xã hội sẽ không thay đổi. Chúng ta được kêu gọi sống đời sống viên mãn của Thiên Chúa. Chúng ta cần phải lắng nghe tiếng kêu gọi đó.

Thánh Phaolô nói rằng những cái thuộc về thế gian này chẳng là gì cả. Thế giới mà chúng ta đang thấy sẽ qua đi. Như vậy có nghĩa là gì nếu bạn có rất là nhiều tiền nhiều của, nhiều thú vui và bất cứ cái gì khác? Tất cả đều qua đi. Và bạn sẽ còn lại chỉ có một cái, ơn thánh của Chúa cho ơn cứu độ đời đời. Tôi muốn đề nghị với riêng từng người là hãy sửa đổi đời sống. Nếu các bạn đang sống theo lối sống thế gian, suy nghĩ những tư tưởng lạc giáo, chấp nhận những thực hành vô luân lý, ít nhất là trong trí khôn, thì hãy thay đổi, hoán cải, để nhờ đó các bạn có thể là dụng cụ cho ơn thánh của Chúa trong đời sống của chính mình, cho gia đình mình, cho những người liên hệ quen thân, và bạn có thể đem sự hoán cải vào thế giới.” Xin Thiên Chúa chúc lành cho các bạn.

[Mục Lục]

Bài 22. LỜI CHÚA GỌI HÔM NAY

Cha Mark Link, S.J.

Khi 15 tuổi, Margaret Mehren là một thành viên của phong trào thanh thiếu niên Đức Quốc Xã ở Đức.

Sau cuộc chiến, cô tìm hiểu về sự diệt chủng trong các trại tập trung của Đức Quốc Xã. Và cô thật sửng sốt. Bỗng dưng cô nhận ra rằng Hitler không phải là một người lãnh đạo đáng vinh dự như cô nghĩ. Cô thề sẽ không bao giờ tin vào người lớn.

Chính trong tâm trạng này mà Margaret cũng bắt đầu hồ nghi về thái độ vô thần của cô. Một ngày kia cô cầu xin với Thiên Chúa, “Lạy Chúa, nếu Ngài thực sự hiện diện, hãy cho con những dấu hiệu.”

Khoảng thời gian này, tình cờ cô đọc Kinh Thánh. Cô cố gắng đọc một vài lần, nhưng chẳng tìm thấy ý nghĩa gì cả. Và rồi một đêm kia, cô lại cầm quyển sách ấy lên. Lần này, nó thật có ý nghĩa! Sau này cô viết:

Điều gì đó đã xảy đến với tôi khi đọc những lời của Chúa Giêsu. Tôi biết Người đang sống!… Tôi biết Người ở đó, tuy tôi không nghe và thấy gì cả.
Đức Giêsu thì có thật, thật hơn bất cứ gì chung quanh tôi – bàn ghế, sách vở, chậu kiểng. Tôi không còn cô độc. Cuộc đời tôi không còn là một ngõ cụt.

Một vài năm sau, khi 21 tuổi, Margaret trở nên một nữ tu dòng Phanxicô. Ngày nay, 25 năm sau, chị là một nữ tu truyền giáo, dạy học sinh ở Nam Phi Châu.

Câu chuyện của Chị Margaret Mehren nói lên sự kiện là Thiên Chúa vẫn kêu gọi con người ngày nay, cũng như Thiên Chúa đã kêu gọi ông Giôna trong thời Cựu Ước và ông Giacôbê, Gioan trong thời Tân Ước, trong bài phúc âm hôm nay.

Khi chúng ta nói Thiên Chúa kêu gọi người ta trở thành ngôn sứ của Chúa, hoặc Chúa Giêsu kêu gọi người ta trở thành môn đệ của Người, chúng ta thường đề cập đến điều đó là một ơn gọi. Chữ ơn gọi xuất xứ từ chữ Latinh có nghĩa “kêu gọi.”

Chúng ta cũng nghĩ và nói về lời kêu gọi của Thiên Chúa đối với người trẻ. Và điều đó chắc chắn đúng.

Một trong những người lãnh đạo tinh thần vĩ đại trong thời đại chúng ta là linh mục dòng Tên người Ấn là Anthony de Mello. Anthony nói rằng cha cảm thấy lời mời gọi của Chúa khi còn là thanh niên.

Khi Anthony xin cha của mình cho phép đi tu làm linh mục, cha của Anthony trả lời không. Ông chỉ còn lại hai người con gái nên nhiệm vụ của Anthony là nối dõi tông đường.

Sau đó, sau một thời gian 14 năm không sinh nở, mẹ của Anthony lại mang thai. Khi bà được đưa vào bệnh viện để sinh, Anthony đã phải chạy bộ bốn dặm đến nhà thương.

Khi đến nơi, vừa thở hổn hển Anthony vừa hỏi, “Đó là con trai hay con gái?” Khi cha của anh trả lời đó là con trai, Anthony nói, “Hay quá! Thế là con có thể làm linh mục.”

Khi 16 tuổi, Anthony gia nhập một tiểu chủng viện ở Bombay. Sau đó người trở nên nổi tiếng toàn thế giới.

Nhưng người lớn tuổi cũng được mời gọi để theo Chúa. Thật vậy, điều này dường như trở nên một khuôn khổ mới đang ló dạng.

Để minh hoạ, hãy nghĩ đến năm thanh niên từ một danh sách rất đông những người vào dòng Tên năm 1987.

Trước hết, có Vince, 33 tuổi. Anh tốt nghiệp Đại Học Pittsburgh và dậy cũng như huấn luyện thể thao ở cấp trung học cũng như đại học.

Kế đến là Mike, 26 tuổi. Anh tốt nghiệp Đại Học Harvard và làm việc với người vô gia cư ở Baltimore, và là một giáo chức với Đội Tình Nguyện Dòng Tên ở Nam Thái Bình Dương.

Thứ ba là Rene, 27 tuổi. Anh tốt nghiệp Đại Học California và là một kỹ sư của hãng Texas Instruments.

Thứ tư là David, 28 tuổi vừa mới trở lại đạo Công Giáo. Anh tốt nghiệp Đại Học Nam Alabama, trong hải quân bốn năm, và sau này là một trị liệu gia thể lý.

Sau cùng là George, 30 tuổi. Anh tốt nghiệp Đại Học Syracuse, đã năm năm là kiểm tra viên hàng không, và làm việc với Đội Tình Nguyện Dòng Tên ở Alaska tại một đài phát thanh.

Chỉ có năm người được chọn trong một danh sách những người vào dòng năm 1987.

Điểm chính là: Thiên Chúa vẫn kêu gọi người ta hôm nay, cũng như Chúa đã kêu gọi ông Giôna trong thời Cựu Ước và Giacôbê, Gioan trong thời Tân Ước.

Và Thiên Chúa đang kêu gọi người nam cũng như nữ. Và Thiên Chúa đang kêu gọi người trẻ cũng như già.

Điều này đưa chúng ta đến một áp dụng thực tế vào đời sống chúng ta.

Trước hết, nếu chúng ta là cha mẹ, chúng ta có nói con cái hãy cầu xin sự hướng dẫn khi chúng phải chọn lựa công việc trong đời không?

Thứ hai, có bao giờ chúng ta xin Chúa gọi một đứa con của chúng ta để nó tận hiến phục vụ Hội Thánh không?

Và nếu chúng ta là người độc thân – trong tuổi thiếu niên, thanh niên, hay ba mươi – chúng ta có cầu xin Chúa hướng dẫn chúng ta khi phải chọn công việc trong tương lai không?

Hoặc có bao giờ chúng ta xin Chúa giúp chúng ta tận hiến phục vụ Hội Thánh không?

Hoặc có bao giờ chúng ta nghĩ đến việc tình nguyện cả đời để phục vụ Hội Thánh, như Mike, 26 tuổi, làm việc tình nguyện ở Nam Thái Bình Dương, hoặc như George, 30 tuổi, làm việc tình nguyện ở Alaska không?

Làm việc tình nguyện với những người tình nguyện khác – nam cũng như nữ – là một cách để biết có phải một cuộc đời phục vụ Hội Thánh là điều làm chúng ta hạnh phúc hoặc là một loại thành quả mà chúng ta đang tìm kiếm không.

Đây chỉ là một vài điều để suy nghĩ xuất phát từ các bài đọc hôm nay.

Đây chỉ là một vài điều để suy nghĩ mà cha mẹ cũng như người độc thân phải suy nghĩ theo ánh sáng của các bài đọc hôm nay.

Thật vậy, vì Thiên Chúa đang mời gọi người ta trong thời đại chúng ta, cũng như Thiên Chúa đã mời gọi con người trong thời Kinh Thánh. Và Thiên Chúa đang mời gọi người nam cũng như nữ, trẻ cũng như già.

Chúng ta hãy kết thúc với một suy nghĩ của Hồng Y Newman:

Thiên Chúa đã giao cho tôi một số công việc 
mà Người không giao phó cho người khác.
Tôi có một sứ vụ…

Do đó, tôi sẽ tín thác vào Người…
Người không để nó trở thành vô hiệu…
Người biết điều Người thi hành.

Ôi lạy Chúa, con không dè dặt phó thác trong tay Ngài.

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận