Các bài suy niệm Chúa Nhật II Chay

Đăng lúc: Thứ năm - 22/02/2018 16:58 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

 

CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY_B

Lời Chúa: St 22,1-2.9a.10-13.15-18; Rm 8,31b-34; Mc 9,2-10

——- 

 

Mục lục

2. Biến hình  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Sống hai mặt  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Biến hình trên núi Taborê (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

5. Cùng Chúa biến hình (Bông Hồng Nhỏ, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

6. Chứng kiến  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

7. Xin ơn biến đổi  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

8. Từ cõi chết sống lại (Lm. Trịnh Ngọc Danh)

9. Hiển thị chân dung Thiên Chúa  (JM. Lam Thy, ĐVD)

10. Thưa Thầy! chúng con ở đây thật là hay (Fx. Đỗ Công Minh)

11. Ba ngọn núi  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

12. Tính phản diện trong phận người  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

13. Thập giá là vinh quang! (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

14. Suy niệm Chúa Nhật 2 Mùa Chay_B  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

15. Thử thách trong cuộc sống từ Tabor đến Golgotha (Lm. Đinh Lập Liễm)

16. Đây là con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người  (Lm. Nguyễn Thái)

17. Đường lối của Thiên Chúa và tư tưởng của con người (Tu sĩ Jos.Vinc.Ngọc Biển, SSP)

18. Vô điều kiện  (Trầm Thiên Thu)

 

 

BIẾN HÌNH

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Trong đời, có những giây phút mà ta mong muốn kéo dài mãi, nhưng nó lại trôi qua nhanh như làn gió thoảng. Đó là những giây phút hạnh phúc. Giây phút ấy thánh Phêrô hôm nay đã được hưởng khi nhìn ngắm dung nhan Đức Giêsu biến hình. Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín theo trong cuộc biến hình để huấn luyện họ. Cuộc biến hình của Người diễn tiến qua ba giai đoạn.

Giai đoạn thứ nhất: lên núi.

Theo quan niệm của người Do thái núi cao là nơi Chúa ngự. Vì thế lên núi là đi gặp gỡ Chúa. Lên núi là một việc làm đòi nhiều cố gắng. Phải dứt bỏ khỏi những ràng buộc của cuộc sống thường ngày với những lo toan bận bịu cho bản thân, cho gia đình. Phải dành thời giờ rộng rãi cho việc leo núi. Phải phấn đấu với bản thân khi leo lên độ cao dốc dác khó đi. Nhưng lên đỉnh rồi ta sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhàng thư thái. Đức Giêsu chỉ đưa theo ba môn đệ thân tín vì gặp gỡ với Chúa là một gặp gỡ thân tình. Chúa muốn ta đến với Chúa trong tình thân mật. Chúa muốn cùng ta thực hiện một tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn cùng ta đối thoại riêng tư diện đối diện. Tình yêu triển nở trong thiên nhiên và trong thanh vắng. Núi cao thanh vắng là nơi chốn thuận tiện cho ta đón nhận tình yêu của Chúa và bày tỏ với Người tình yêu của ta.

Giai đoạn thứ hai: biến hình.

Trên núi cao, Đức Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Y phục trở nên trắng như tuyết. Khuôn mặt Người sáng láng. Thực ra, ai gặp được Chúa cũng đều biến hình. Ta hãy nhớ lại ông Môsê. Sau khi ở trên núi Sinai 40 đêm ngày tiếp xúc thân mật với Chúa, mặt ông trở nên sáng láng đến độ, khi ông xuống núi, dân chúng không dám nhìn vào. Ông phải lấy khăn che mặt, dân chúng mới dám đến gần ông. Gần đèn thì sáng. Tiếp xúc thân mật với Chúa sẽ làm thay đổi tâm hồn ta. Tình yêu của Chúa sẽ đốt nóng tâm hồn ta, xua đi sự thờ ơ nguội lạnh. Sự dịu dàng của Chúa sẽ làm cho ta bớt đi tính độc ác khắc nghiệt. Sự khiêm nhường của Chúa sẽ diệt trừ thói kiêu căng trong ta. Sự bao dung của Chúa sẽ mở rộng tâm hồn để ta biết đón nhận anh em. Sự tha thứ của Chúa đổi mới tâm hồn, rửa sạch mọi nhơ uế trong ta. Càng gần gũi Chúa, tâm hồn ta càng được thanh luyện khỏi mọi nhỏ nhen, ích kỷ. Càng yêu mến Chúa, ta càng thêm yêu mến anh em. Càng kết hiệp mật thiết với Chúa, tâm hồn ta càng nên giống Chúa hơn.

Giai đoạn ba: xuống núi.

Khi đã hưởng nếm hạnh phúc ngọt ngào ở bên Chúa rồi, ta chẳng muốn lìa xa Chúa nữa. Thánh Phêrô, trong giây phút hạnh phúc tuyệt vời, đã xin Chúa cho dựng ba lều để ở lại vĩnh viễn trên núi. Nhưng giây phút hạnh phúc thật ngắn ngủi. Đức Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Nhiệm vụ ấy rất nặng nề. Đức Giêsu phải chịu đau khổ, chịu vác thánh giá, chịu đóng đinh, chịu chết rồi mới phục sinh. Thánh Phêrô cùng các tông đồ còn phải phấn đấu với những yếu đuối, sa ngã, còn phải nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách trong việc rao giảng Tin Mừng, còn phải chịu đau khổ vì Thày chí thánh, còn phải trải qua cái chết đớn đau rồi mới tới được Núi Thánh thiên quốc như lòng mong ước.

Trong cuộc sống người tín hữu, lên núi chính là những giây phút dành cho việc cầu nguyện, tiếp xúc thân mật với Chúa. Đó là những buổi tham dự thánh lễ, đọc kinh và nhất là những giờ cầu nguyện riêng tư, những buổi tĩnh tâm lâu giờ trong thinh lặng. Để đến với Chúa và nhất là để kết hiệp với Chúa trong những giờ cầu nguyện, ta phải phấn đấu rất nhiều.

Trong thân mật, Chúa sẽ dạy bảo ta về đường lối của Chúa, sẽ uốn nắn ta theo chương trình của Người và sẽ biến đổi ta nên giống hình ảnh Người. Ta có thể cộng tác vào cuộc biến hình khi khao khát kết hiệp với Chúa, khi cố gắng thanh luyện bản thân, khi quên mình, ngoan ngoãn để mặc Chúa hướng dẫn bước đường.

Kỷ niệm ngọt ngào trong những giờ sống hạnh phúc bên Chúa sẽ là sức mạnh nâng đỡ ta trong những khó khăn gian khổ của đời sống. Núi thánh sẽ trở thành quê hương yêu dấu để tâm hồn ta luôn hướng về, dù còn phải vượt qua rất nhiều trở ngại cách ngăn. Thiên đàng thoáng thấy qua những giờ kết hiệp với Chúa sẽ là nguồn động viên giúp ta chu toàn mọi nghĩa vụ của con người. Như thế, khi đã xuống núi rồi, ta vẫn còn mong ước và sẽ trở lên núi mỗi khi có dịp.

Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Một số bạn trẻ tiêu tốn nhiều thời giờ và tiền bạc cho sắc đẹp bên ngoài. bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm hồn?
  2. Cầu nguyện có thể làm con người ‘biến hình’. Bạn có tin điều đó không? bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?
  3. Bạn đã có kinh nghiệm về việc sống hạnh phúc với Chúa bao giờ chưa?
  4. Mùa Chay này bạn có thực sự muốn ‘biến hình’ không? Bạn sẽ làm gì để thực hiện ước nguyện đó?

Về mục lục

.

SỐNG HAI MẶT

Lm. Jos Tạ duy Tuyền

Người ta nói: “Tri nhân tri diện bất tri tâm”, nghĩa là : Biết mặt thôi chứ không dễ gì biết được lòng nhau. Sống bên nhau gọi tên nhau thì dễ mà đi vào lòng nhau lại càng khó biết bao! Không biết có phải vì cuộc sống “thật thà thì thua thiệt” khiến con người luôn tìm cách che đậy sự thật hay chỉ là thói đời thích sống hai mặt theo kiểu “đi với Chùa mặc áo cà sa – đi với ma mặc áo giấy”?

Dẫu sao thì biết mặt nhưng rất khó biết lòng như ai đó đã nói:

“ Biết mặt khó biết được lòng

Đôi khi quanh quẩn một vòng bon chen”.

Đôi khi xoáy giữa sang hèn

Lòng người thay trắng đổi đen bất ngờ

Cũng như “đồng tiền có hai mặt” thì hình như con người cũng thích sống theo kiểu hai mặt. Họ nói một đàng làm một nẻo. Họ bên ngoài thân thiện nhưng đầy toan tính thủ đoạn hại người. Điều đáng tiếc là nhiều người Công Giáo chúng ta cũng sống như vậy! Một mặt họ mang danh ky-tô giáo, họ đi lễ, họ đọc kinh, họ tham gia đoàn hội, nhưng ở giữa dòng đời thì họ lại bộc lộ một khuôn mặt trâng tráo, gian ngoa, luôn lường gạt và gây chia rẽ hận thù. . . Họ mang danh Công giáo nhưng không bộc lộ đặc tính người Công giáo là yêu thương, họ sẵn sàng vu khống đổ vạ cáo gian anh em. Họ là con Chúa nhưng lại sống như thể con cái của ma quỷ chuyên phỉnh lừa, dối gian, điêu ngoa . . .

Đây là lối sống mà Chúa đã từng nặng lời là bọn Pha-ri-sêu giả hình. Bên ngoài thì đọc kinh nhưng chẳng tích đức đời sau. Điều mà Chúa muốn nơi con cái của Chúa phải biểu lộ dung nhan là con cái sự sáng khi sống công bình, bác ái và yêu thương. Hãy làm cho phẩm giá làm con Chúa được thể hiện trên khuôn mặt hiền từ và bao dung. Hãy tỏ lộ dung nhan giống hình ảnh Chúa nơi cuộc sống không lệ thuộc đam mê tội lỗi, nhưng luôn sống trong tự do đích thực.

Hôm nay, lễ Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan là hình ảnh của Thiên Chúa ra trong lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống tinh tuyền, chân thật của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.

Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại  hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá con người cao qúy hơn mọi danh lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một chút bổng lộc trần gian, một chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của mình và làm tổn thương đến phẩm giá của tha nhân.

Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Amen

Về mục lục

.

BIẾN HÌNH TRÊN NÚI TABORÊ

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Chúa Giêsu đã đem ba môn đệ thân tín là Phêrô,Giacôbê và Gioan lên núi Taborê, tại đó, Chúa đã biến hình trước mặt họ. Cuôc biến hình này được Chúa xếp đặt trước việc Ngài loan báo cuộc khổ nạn. Chúa muốn cho các môn đệ thấy trước vinh quang của Chúa, để họ sẵn sàng chấp nhận việc Ngài loan báo việc thống khổ của Ngài. Vinh quang bao giờ cũng phải trải qua đau khổ. Chúa dạy các môn đệ và nhân loại đừng sống mãi trong sự đắc thắng, đừng vênh vang với những gì mình có được. Vinh quang trên núi Taborê phản chiếu vinh quang các môn đệ sẽ có được, nếu họ biết vác khổ giá của mình mỗi ngày mà theo Chúa.

Trước vinh quang tuyệt vời trên núi, ba môn đệ đã say mê cảnh tượng này, các Ngài đã thưa với Chúa Giêsu :” Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê và một cho Elia “ ( Mc 9, 5 ). Thực tế, trước hào quang rực rỡ hôm nay, Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn ở luôn trên núi. Ba môn đệ đã quên đi các bạn của họ đang ở dưới núi, công việc họ phải làm là truyền giáo, đồng thời bổn phận của họ là phải tới với dân chúng để rao giảng Lời Chúa. Đúng, trước vẻ đẹp của Núi Thánh, ba môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu không muốn xuống núi nữa.Họ muốn xa rời dân chúng để sống an nhàn, thanh thản.

Các môn đệ lúc đó chưa hiểu được rằng :” Chúa Giêsu chỉ lên núi chốc lát, và rồi lại xuống núi để chuẩn bị vác thập giá lên đồi Golgotha. Theo Thầy chí thánh không phải để được hưởng thụ, vinh thân phì da, nhưng đi theo Thầy là vác Thập Giá và hy sinh vì Thầy.

Vinh quang của Chúa phải trải qua khổ đau. Chúa chỉ khoác áo trắng như tuyết trong chốc lát vì tin tưởng sự Phục Sinh. Cái đẹp hào nhoáng bề ngoài sẽ qua đi, nhưng đức tin và hạnh phúc lâu bền mới là điều cần thiết.

Vâng, Phêrô nói nhưng không biết mình đang nói gì vì ông đang ngây ngất trong cảnh huy hoàng của việc biến hình! Phêrô đang hạnh phúc nhưng từ trời có tiếng nói :” Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người “. Chúa muốn cho Phêrô hiểu rõ việc Chúa sẽ phải chịu sau này để cứu độ nhân loại và muốn cho Phêrô,và các môn đệ cùng mọi người được uốn nắn, giáo dục, được cảnh tỉnh, hoán cải, trở về với Chúa.

Chúa Giêsu là con dấu ái của Thiên Chúa Cha, do đó, vâng lời, nghe lời Đức Giêsu là vâng lời Chúa Cha. Nghe lời Chúa không có nghĩa là nghe bằng đôi tai, nhưng là noi gương bắt chước Ngài trong hành trình đức tin. Nghe lời, vâng lời Người là mặc lấy chính người vì Người là đường, là sự thật, là sự sống. Tin vào Người sẽ có sự sống đời đời.

Các môn đệ xưa đã được chứng kiến cuộc biến hình của Chúa trên núi Taborê, chúng ta cũng được mời gọi lắng nghe và biến đổi để trở nên môn đệ đích thực của Chúa Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con được sống vững mạnh, vượt thắng con ngưởi yếu hèn của chúng con và giúp chúng con vững bước trên cuộc hành trình đức tin của chúng con vì tin vào cuộc chiến thắng thần chết của Chúa Phục Sinh. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

  1. Chúa Giêsu đã biến hình ở đâu ? Biến hình ở đây để làm gì ?
  2. Tại sao Phêrô lại ngây ngất trước cảnh huy hoàng của cuộc biến hình ?
  3. Chúa muốn các môn thế nào sau cuộc biến hình của Người ?
  4. Chúng ta được mời gọi làm gì khi theo Chúa ?

Về mục lục

.

CÙNG CHÚA BIẾN HÌNH

Bông hồng nhỏ 

Hôm nay, ngọn núi Tabor dường như cao hơn, đẹp hơn và trở thành ngọn núi vinh dự  nhất khi được chứng kiến vinh quang của  Đức Giêsu. Trên núi, Thầy Giêsu đã biến  đổi hình dạng trước mắt các môn đệ thân tín nhất. Ta hãy cùng Thầy bước vào khung cảnh tuyệt vời ấy. 

Có lẽ, ta không lạ lẫm gì khi Thầy lại chọn một ngọn núi cao để gặp gỡ Chúa Cha và đàm đạo với các ngôn sứ của Cựu Ước. Cũng như ba môn đệ thân tín, ta hết sức kinh hoàng trước cảnh tượng tuyệt vời ấy. Thầy biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy ( x. Mc 9, 3). Được sống trong khung cảnh ấy, ta có thốt lên một ý tưởng táo bạo như môn đệ Phêrô: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia”? ( Mc 9, 5). Phải chăng, khi được sống trong hạnh phúc ngập tràn như thế, ta luôn ao ước và mong mỏi được sống mãi trong hạnh phúc. Thế nhưng, Thầy Giêsu không muốn điều ấy. Thầy cho các ông được chiêm ngưỡng vinh quang của Thầy để củng cố lòng tin cho các ông trước khi loan báo lần thứ hai về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh. Bởi trước đó, chính môn đệ Phêrô đã kéo Thầy ra mà trách khi nghe Thầy loan báo lần thứ nhất cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Thầy luôn làm đẹp lòng Chúa Cha khi sống vâng phục Người đến cùng khi tự nguyện bước vào cuộc khổ nạn. Thầy biết rõ tâm tư của các môn đệ và sự yếu đuối nơi các ông. Rồi Thầy dẫn các ông xuống núi để cùng các ông tiếp tục cuộc hành trình: hành trình lắng nghe và thi hành thánh ý Thiên Chúa.   

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, mỗi lần được rước Chúa vào lòng, con lại được đụng chạm đến Chúa và được gặp gỡ vinh quang Thiên Chúa. Mỗi ngày, xin cho con được cùng Chúa biến hình để bước vào vinh quang Thiên Chúa và gặp gỡ Chúa nơi từng người bên cạnh. Amen.

Về mục lục

.

CHỨNG KIẾN

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Chúa cùng môn đệ lên cao,
Biến hình sáng láng, bước vào đám mây.
Áo Người chói lọi trời tây,
Tông đồ hiện diện, ngất ngây tâm hồn.
Môi-sen xuất hiện kính tôn,
Ê-li-a đến, thiền môn dự phần.
Ở đây tốt lắm ẩn thân,
Ba lều xin dựng, cõi trần linh thiêng.
Đám mây bao phủ tư riêng,
Các ông hoảng sợ, thần thiêng đón chào.
Tòa mây lên tiếng xen vào,
Con Ta Yêu Dấu, từ cao vọng về.
Hãy nghe Lời Chúa mọi bề,
Loan tin cứu độ, trọn thề trung kiên.
Khổ đau cõi chết trước tiên,
Ngày sau sống lại, nơi miền trường sinh.

Mầu nhiệm Nhập Thể ẩn dấu nơi con người của Chúa Giêsu. Chúa mang thân xác như mọi người, nhưng người đó chính là Con Thiên Chúa. Chúa thường biểu lộ bản tính của Ngài qua các dấu lạ Ngài đã thực hiện. Với một quyền năng vô biên, Chúa đã chữa lành tất cả các loại bệnh hoạn tật nguyền, truyền khiến thiên nhiên vâng phục và còn cho kẻ chết sống lại.

Biến hình trước mắt các tông đồ, đó chính là bản tính thật của Ngài. Chúa biến hình trong sáng chói. Quyền năng bao trùm vạn vật. Ngắm nhìn Chúa thay đổi diện mạo, các tông đồ đều hoảng sợ. Thầy mà các ông vẫn chung đụng, hàng ngày đối thoại, gặp gỡ, ăn uống và dạy bảo, giờ đây là Chúa uy linh của trời đất. Ngài chính là Con Yêu Dấu của Chúa Cha.

Từng bước, Chúa đã mặc khải cho chúng ta chương trình cứu độ. Biết bao nhiêu phép lạ Chúa đã thực hiện, nhưng nhiều người vẫn không nhận ra quyền năng của Chúa. Họ nghi kỵ, ghen tương và tìm đủ mọi cách để loại trừ Chúa ra khỏi đời sống và xã hội của họ. Họ đã gán cho Chúa biết bao danh xưng nào là mất trí, phạm thượng, phản quốc và nào là dùng quyền tướng qủy Bêelzebut để trừ qủy. Họ không muốn chấp nhận một Thiên Chúa làm người cách khiêm hạ và nghèo khó.

Con đường Chúa đi là con đường của thập giá và khiêm nhượng khổ đau. Chúa đi từ thấp lên cao. Chúa từ trời cao hạ thân làm người trong nghèo khó. Chúa muốn đồng hành cùng với những người cùng khổ, yếu đuối và bị khinh rể nhất. Chúa muốn xuống thấp để rồi nâng mọi người lên làm con Chúa. Chúa đi ngược dòng từ đáy nguồn để cùng kéo mọi người lên thượng nguồn chính là tình yêu nơi Chúa Cha.

Hãy nghe lời Ngài. Được nghe lời của Chúa là một hạnh phúc tuyệt vời. Có biết bao người chưa hề được nghe lời Chúa dạy. Chưa biết quyền phép lạ lùng của Chúa. Nhiều người không biết, không nghe, không chứng kiến viêc Chúa làm. Họ không nhận biết để tôn thờ Chúa cho phải đạo. Còn chúng ta rất hạnh phúc khi được lắng nghe lời Chúa dạy. Lời Chúa là lời hằng sống, có sức thánh hóa và đổi mới con người.

Trong Mùa Chay Thánh, chúng ta chứng kiến các biến cố xảy ra trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Chúa đã chọn con đường của khổ đau thập giá. Con đường của tình yêu hy sinh mạng sống. Chúa đã hiến thân chịu chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Chúa sẽ sống lại vinh hiển. Qua thập giá tới vinh quang. Đây chính là con đường Chúa đã đi qua.

Về mục lục

.

XIN ƠN BIẾN ĐỔI

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Bước vào Chúa Nhật thứ hai Mùa Chay, phụng vụ Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm biến cố Chúa Giêsu biến hình, một mầu nhiệm vĩ đại. Lịch sử cho thấy ba Tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê là những tấm gương sám hối suốt Mùa Chay dẫn chúng ta tới Đại lễ Phục Sinh, khi chúng ta cử hành cuộc chiến thắng của tinh thần trên thể xác, của ơn cứu chuộc trên tội lỗi.

Thánh sử Marcô nhắc đến việc Chúa Giêsu đưa ba ông lên núi cao cầu nguyện, và đang khi cầu nguyện… bỗng có hai vị đàm đạo với Người, là Môsê và Êlia…. Một số câu hỏi được đặt ra chung quanh biến cố Chúa Biến Hình :

1. Tại sao Đức Giêsu Biến Hình ?

2. Tại sao Môise và Êlia lại có mặt lúc Chúa Giêsu Biến Hình?

3. Tại sao không phải là các Tông đồ khác mà lại là Phêrô, Giacôbê và Gioan được Đức Giêsu đưa lên núi ?

Tại sao Đức Giêsu Biến Hình ?

Chúng ta biết, trước khi Chúa Giêsu biến hình, Người đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi chừng năm ngàn người ăn no (x. Mc 6, 30-44 ; 8, 1-10). Vẻ chưng hửng của các Tông đồ về tương lai tươi sáng, và sự mãn nguyện về vị Thiên sai của dân chúng. Khi thăm dò ý kiến chung, Đức Giêsu đã loan báo cuộc thương khó lần thứ I (x. Mc 31, 33). Như thế, Người đã mạc khải cho các môn đệ biết rằng, con đường tiến về Giêrusalem sẽ đưa Người đến với đau khổ, tử nạn và cái chết đau thương trên thập giá, sau đó mới rạng ngời ánh vinh quang. Vì chưa nhận ra ý Chúa nên Phêrô muốn dựng ba lều ở trên núi sau khi chứng kiến Chúa biến hình (x. Mc 9, 5). Như thế, Phêrô đã muốn biến cái tạm thời trở thành cái vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với khổ đau và thập giá.

Trở lại câu hỏi tại sao Đức Giêsu lại chọn Phêrô, Giacôbê và Gioan, phải chăng là vì họ hoàn hảo hơn những người khác?

Theo Thánh Gioan Kim Khẩu, Phêrô được chọn, vì Phêrô đã từng tuyên xưng Đức Giêsu là “Ðức Kitô” (x. Mc 8, 29). Hơn nữa, cũng bởi Phêrô đã yêu mến Chúa Giêsu Kitô nhiều hơn, “Lạy Chúa, Chúa thông hay mọi sự, Chúa biết tôi yêu mến Chúa!” (Ga 21, 17). Phần Gioan, vì đã yêu mến nhiều, nên được mệnh danh là “người môn đệ Chúa yêu” (Ga 21, 20). Còn Thánh Giacôbê, là vì phản ứng của ông đã thực hiện cùng với anh trai mình: “Chúng tôi có thể uống chén của Thầy” (Mt 20, 22), ông giữ lời và đã đi đến cùng điều ông cam kết, khiến người Do Thái không chịu nổi, đã xử trảm ông.

Tại sao không phải là một tiên tri hay ngôn sứ nào khác mà lại là Môisen và Êlia?

Sứ vụ công khai của Chúa Giêsu tại Galilê đã khiến cho dân chúng đồn đoán về Người. Có kẻ cho Người là Gioan Tẩy Giả, kẻ khác cho là Êlia, Giêrêmia hay là một tiên tri (x. Mc 8,28).

Người Do Thái không ngừng buộc tội Chúa Giêsu vi phạm luật, kẻ nói phạm thượng, kẻ chiếm đoạt vinh quang, mà theo họ, vinh quang đó là của Thiên Chúa, không thuộc về Người. Trong lúc biến hình đàm đạo với Môisen và Êlia, Người khẳng định mình còn hơn cả Môisen và Êlia nữa. Môisen là người đã trao ban lề luật cho dân chúng, nên những người Do Thái không thế nói rằng vị tiên tri thánh này đã muốn chịu đau khổ vì một người vi phạm lề luật. Còn Êlia xuất hiện cùng Chúa Giêsu, Người dạy chúng ta rằng Người là Chúa của kẻ sống và kẻ chết, cả trên trời và trong địa ngục. Đó là lý do Người biến hình cùng với Êlia là người đã không chết.

Một điều rất thú vị là Môisen đã rẽ đôi nước biển để cho dân chúng đi ráo chân, Phêrô đã đi trên mặt nước, để rồi chữa lành tất cả bệnh hoạn tật nguyện cho dân chúng, xua trừ ma quỷ, đưa mọi người về với Đức Kitô. Êlia đã làm cho kẻ chết sống lại, các Tông đồ cũng đã làm cho kẻ chết được sống lại, khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Đó là những lý do Chúa Giêsu chọn Môisen và Êlia hiện ra đàm đạo với mình.

Đức Giêsu biến hình để cho chúng ta được chiêm ngưỡng :

Vinh quang Ba Ngôi

Vinh quang của Thiên Chúa Ba Ngôi được biểu lộ trong biến cố Chúa biến hình. Chúa biến hình là hình ảnh loan báo trước cho biến cố Chúa Phục Sinh. Chúa mạc khải vinh quang mình cho các tông đồ với lời xác nhận của Thiên Chúa Cha: “Ðây là Con Ta Yêu Dấu!” (Mc 9, 7). Trong ánh sáng vinh quang, chúng ta nhìn thấy ánh sáng; và được Chúa Thánh Thần nâng lên, chúng ta chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi qua mọi muôn thế hệ .

Lắng nghe lời Đức Giêsu

Trong biến cố Chúa biến hình, chúng ta không những chiêm ngắm mầu nhiệm Thiên Chúa mỗi ngày một sâu xa hơn vừa đi từ ánh sáng này sang ánh sáng khác, mà còn được mời gọi hãy lắng nghe Lời Chúa gửi đến. Ngoài Lề Luật nơi ông Môisen và lời tiên tri nơi sứ ngôn Êlia, lời Chúa Cha còn vang lên mời gọi chúng ta “vâng nghe lời Người” (Mc 9, 8).

Xin ơn biến đổi

Nhìn xem và lắng nghe, chiêm ngắm và vâng phục, là những con đường dẫn chúng ta lên Núi Thánh. Ở đó, Ba Ngôi Thiên Chúa được mạc khải trong vinh quang của Chúa Con.

Chúa biến hình, loan báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, và mời gọi chúng ta mở rộng cặp mắt, con tim để nhìn thấy mầu nhiệm Ánh Sáng của Thiên Chúa hiện diện trong toàn thể lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Ba thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Như thế, nếu chúng ta muốn biến đổi thành công dân Nước Trời, phải bỏ mình vác thập giá hàng ngày mà theo Người. Có sẵng sàng vác thập giá Chúa gửi trao mới được theo Chúa là Đường là Sự Thật là Sự Sống để được hưởng vinh quang Phục sinh với Người.

Chúa biến hình vinh quang sáng láng, để chúng ta cũng biết biến đổi : biến đổi từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng hoàn hảo; biến đổi từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; biến đổi từ con người kiêu căng tự đắc thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.

Lạy Chúa, xin thương giúp chúng con hiểu được ý nghĩa của thập giá Chúa và ban ơn cho chúng con biết sống mầu nhiệm thập giá Chúa trong cuộc đời, để được sống lại vinh quang với Ngài. Amen.

Về mục lục

.

TỪ CÕI CHẾT SỐNG LẠI

Lm. Trịnh Ngọc Danh

Chết là hết.Đức Giêsu sau khi báo trước cho các môn đệ biết: “ Con người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại”. Khi nghe Thầy loan báo như thế, có lẽ các môn đệ đang sống trong tâm trạng thất vọng, chán nản, vì có sống lại như Lazarô rồi Thầy cũng lại chết; vì thế, ông Phêrô đã cản ngăn Thầy đừng đi, nhưng đã bị Thầy mắng: “Xa tan! Lui lại đằng sau Thầy! vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”Nhưng thế nào là sống từ cõi chết sống lại?

Hiểu được sự non yếu về đức tin nơi các môn đệ, sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình lên núi. Và trên núi, Ngài đã biến hình hiển dung. Qua biến cố hiển dung, chúng ta thấy có ba nội dung quan trọng:Đức Giêsu biến đổi hình dạng: Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, ông Êlia và ông Môsê hiện ra đàm đạo với Ngài, và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “ Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” (  xem Mc 9: 2-10)

Trước tiên, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ của Ngài biết rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp phải chịu không phải là con đường tuyệt vọng, nhưng là con đường dẫn đến vinh quang; từ đó, Ngài hướng các môn đệ về một niềm hy vọng tương lai vinh hiển để củng cố niềm tin của các ông.

Hai nhân vật đã chết từ lâu, nhưng vẫn còn là những biểu tượng cho chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa: Ông Môisê tượng trưng cho Lề Luật. Ông Êlia tượng trưng cho vai trò của ngôn sứ. Hai nhân vật này là những chứng nhân cho sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giêsu. Đức Giêsu là Đấng được Lề Luật và các ngôn sứ loan báo từ ngàn xưa, nay đã đến để thực hiện chương trình cứu độ con người của Thiên Chúa.

Sau khi nhận phép rửa của ông Gioan, có tiếng từ trời phán: “ Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.” Lời tuyên bố ấy nhằm cho nhân loại biết Đức Giêsu là con của Bà Maria theo xác thịt, nhưng là Con yêu dấu của Cha trên trời. Lần này, trên núi Tabo, sau khi biến hình, lại có một tiếng từ trời phán ra : “ Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” Đây không phải chỉ là một lời giới thiệuvề Con yêu dấu của Ngài cho nhân loại sau khi chết và phục sinh về trời mà Chúa Cha còn thêm một mệnh lệnh cho hậu thế: “ Hãy vâng nghe lời Ngài.” Vâng nghe lời của người Con chí ái của Ngài cũng là  nghe lời Giáo Hội hôm nay.

Choáng ngợp trước cảnh vinh quang và huy hoàng củaThầy biến dạng, với cái nhìn phàm tục, ông Phêrô đã thưa với Thầy: “ Chúng con ở đây, thật là hay, chúng con xin dựng ba lều.” Ông Phêrô chỉ nhìn thấy hiện tại mà chưa nhìn thấy tương lai! Lên núi chỉ mới là cái nhìn về vinh quang của tương lai. Nhưng để đạt đến được sự biến hình ấy, con người phải xuống núi, sống với cuộc sống thực tại của mình mà vẫn luôn hướng về viễn cảnh vinh quang ấy. Không con đường nào có thể dẫn đến vinh quang ấy ngoài con đường mà Đức Giêsu đã đi qua.

Từ trên núi xuống, Đức Giêsu đã truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Con Người đã từ cõi chết sống lại.Các ông vẫn chưa hiểu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì. Con đường dẫn đến sự biến dạng vinh quang ấy không còn con đường nào khác ngoài con đường Thầy chí thánh đã đi qua:Con đường đau khổ phía trước mà Đức Giêsu sẽ đi qua là một thử thách con người để đi đến sự sống vinh quang đời đời.

Chúa nhật I Mùa Chay, Phụng vụ mời gọi chúng ta cùng Đức Giêsu đi vào sa mạc để ăn chay, sám hối và cầu nguyện, thì Chúa nhật này, Phụng vụ lại mời chúng ta cùng lên núi với Ngài để nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu phục sinh để vững tin vào Ngài.

Ngày xưa, các môn đệ chưa hiểu thế nào là “ từ cõi chết sống lại”; nhưng người tín hữu hôm nay đã hiểu từ cõi chết sống lại là gì, nhưng chúng ta đã và sẽ chuẩn bị thế nào cho ngày sống lại của mình?

Về mục lục

.

HIỂN THỊ CHÂN DUNG THIÊN CHÚA

JM. Lam Thy

Trong sách Thánh Kinh Tân Ước, bài Tin Mừng Chúa nhật II Mùa Chay năm B (Mc 9, 2-10) có tiêu đề “Đức Giê-su biến đổi hình dạng”. Cùng chủ đề, Thánh sử Mat-thêu (Mt 17, 1-8) và Thánh sử Lu-ca (Lc 9, 28-36) đều ghi là “Đức Giê-su hiển dung”. Tuy nhiên, khi trình thuật, cả 3 Thánh sử đều viết là “Đức Giê-su biến đổi hình dạng” (Thánh Mac-cô viết: “Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.”; Thánh Mat-thêu viết: “Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.”; Thánh Lu-ca viết: “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà.” Như vậy thì Đức Ki-tô hiển dung hay biến hình ?

Hiển dung là bày tỏ cái diện mạo thực (chân dung) ra một cách rõ ràng. Còn biến hình là thay đổi hình dạng. Đặt một giả thiết có người cắc cớ hỏi: “Đức Ki-tô đã sống 33 năm nơi trần thế, với một hình dạng bình thường là con bác thợ mộc Giu-se và bà Maria, cho đến khi tử nạn trên thập giá vẫn không thay đổi. Đó chẳng phải là chân dung của Người sao? Còn trên núi Ta-bo, Người chỉ biến đổi hình dạng trong chốc lát thì sao gọi là hiển dung được?” Thưc ra, vấn đề cũng không có gì là khúc mắc cả. Người biến đổi hình dạng thường ngày sang một hình dạng khác hẳn, rực rỡ hơn, chói loà hơn gấp bội, là Người muốn cho các môn đệ và mọi người biết ngoài bản tính loài người chứa trong thân xác phàm tục ra, Người còn một bản tinh nữa là bản tính Thiên Chúa.

Chân tướng sự vịêc là điều Người muốn công nhiên mạc khải: Chân dung của Người chính là dung mạo đích thực của Thiên Chúa. Nói cách cụ thể, trong cùng một Con Người là Đức Giê-su Ki-tô có 2 hình dạng: Dung mạo bình thường là bản tính loài người, còn chân dung – bản chất đích thực của Người – là bản tính Thiên Chúa. Nói Đức Giê-su “biến hình” là muốn nói Người đã biến đổi từ hình dạng bình thường của loài người sang hình dạng Thiên Chúa, còn nói “hiển dung” là muốn nói – qua việc biến đổi hình dạng bên ngoài – Người bộc lộ bản chất đích thực (hiển hiện chân dung) của Thiên Chúa ẩn kín bên trong. Như vậy cả 2 cách nói đều đúng, nhưng vì đây cũng là một dịp Thiên Chúa mạc khải  công trình cứu độ loài người, nên nói ”Đức Giê-su hiển dung” chính xác hơn.

Sự kiện mạc khải này đã có tác dụng cụ thể khiến các môn đệ – trong đó có thánh Phê-rô – hoảng sợ. Sự hoảng sợ lần này khác với lần được chứng kiến “Đức Giê-su đi trên mặt biển” (Mc 6, 45-52). Lần trước, thánh nhân còn bán tín bán nghi cho là mình gặp ma, thì lần này thánh nhân đã thực sự tin Thầy mình đích thị là Thiên Chúa, và chỉ có như thế Thầy mình mới hội kiến, đàm đạo với ông Mô-sê và ông Ê-li-a được. Khi Đức Giê-su Ki-tô từ hình dạng con người trần thế biến sang chân dung Thiên Chúa, thì tấm màn che phủ bí mật được mở ra (mạc khải – revelatio) qua Lời phán dạy của chính Thiên Chúa Ngôi Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mt 9, 7). Hiển nhiên Đức Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật; điều đó đã giúp củng cố đức tin, đồng thời cũng chính là giúp biến đổi con người các môn đệ và nói chung là các Ki-tô hữu.

Nghe nói đến biến đổi hình dạng tự nhiên lại nghĩ tới vấn đề con người chỉ thích thay hình đổi dạng ở cái thế kỷ XXI này. Có đủ kiểu, đủ cách: Nào là giải phẫu thẩm mỹ, cấy da, ghép thịt, cắt mắt, kẻ môi, nhuộm tóc, rồi thì tô son trét phấn, tắm sữa đắp kem…, ấy là chưa kể thời trang nọ, mô đen kia, thậm chí còn thay đổi cả giới tính nữa… Nhiều, nhiều lắm những cách thức biến đổi hình dạng bên ngoài, nhưng dù  có thay đổi cả giới tính, thì trước sau “Mèo vẫn hoàn mèo”, con người vẫn là… loài người, không hơn không kém. Chỉ có Đức Giê-su Ki-tô mới có thể từ bản chất loài người, biến hình và hiển dung thành bản thể Thiên Chúa. Tuy rằng con người không thể nào biến đổi chân dung thành Thiên Chúa được, nhưng vẫn có thể biến đổi chân tướng nên giống với Thiên Chúa, bởi chính khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã làm theo hình ảnh Thiên Chúa (St 1, 27). Nói cách khác, con người vẫn rất có thể và rất nên biến đổi cõi lòng, biến đổi tâm hồn của mình, để trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giê-su Thiên Chúa.

Có một minh hoạ rất thật, rất cụ thể, rất sống động cho sự biến đổi này, đó chính là thánh Phao-lô với biến cố Damas (Cv 22, 6-11). Trải qua biến cố Damas, hình dạng thánh nhân vẫn không có gì thay đổi, nhưng chân tướng của ngài, bản chất của ngài đã biến đổi hoàn toàn. Thánh nhân đã cảm nhận được bản thân trở nên giống, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, đến nỗi phải thốt lên: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Ðức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Như vậy, vấn đề đặt ra không phải là thay hình đổi dạng bên ngoài, mà chính là làm sao biến đổi được cõi lòng bên trong, canh tân được đời sống tâm linh. Bởi vì và trên hết, Mùa Chay phải là mùa các tín hữu “hãy xé lòng, chớ đừng xé áo” (Ge 2, 13). Đừng xé áo để mặc áo mới cho hợp thời trang, cho đúng mốt thời đại, mà cần phải xé lòng ra để rũ bỏ hết những tì ố, những xấu xa, tội lỗi, đồng thời đón nhận “luồng ánh sáng chói lọi” là chính Đức Giê-su Ki-tô đến để thanh tẩy tâm hồn, canh cải con người cũ, hầu trở nên con người mới, “đồng hình đồng dạng với Người” (Rm 8, 29).

Thông qua các lời tiên tri của các ngôn sứ, các lời rao truyền về sấm ngôn của Đức Chúa, Dân Chúa thời Cựu Ước mới chỉ được biết Con Một Thiên Chúa sẽ giáng trần cứu độ nhân loại, chưa được trực diện chứng kiến cuộc biến hình của Đức Giê-su, chưa được như ba môn đệ thân tín của Đức Ki-tô được trực tiếp nghe Lời Đức Chúa Cha phán: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” (Lc 9, 36). Vậy mà Cựu Ước đã có lời nhắn nhủ: “Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của anh em.” (Ge 2, 13). Đến như các Ki-tô hữu ngày nay thì không những được nghe lời tiên tri, tiên báo về Đấng Cứu độ Giê-su Ki-tô, mà còn được chính các môn đệ thân tín của Người tường thuật lại biến cố hiển dung của Con Thiên Chúa và nghe Lời phán dạy của Chúa Cha.

Rõ ràng là Dân Chúa ngày hôm nay được biết nhiều hơn Dân Chúa thời Cựu Ước; nhưng thử hỏi đã mấy ai dám mạnh dạn xé lòng hơn là xé áo? Kể ra thì con số những người dám “xé lòng” đã là con số khá nhiều, đó là các vị Tông đồ tiên khởi, và biết bao nhiêu vị hiển thánh – nhất là các thánh Tử vì Đạo – hiện đang được diễm phúc vui hưởng thành quả của hành động “xé lòng” trên Thiên quốc. Tuy nhiên, con số người chỉ thích “xé áo” vẫn là những con số nhiều hơn, áp đảo cả con số những kẻ biết “xé lòng”. Người ta chỉ thích xé áo để khoác vào người bộ áo sặc sỡ thế trần. “Cái áo không làm nên thầy tu” nhưng muốn có cái mác thầy tu để loè (hay “lừa”?) đời thì lại rất cần cái áo đó, để trục lợi về vật chất (khất thực, quyên góp tiền của), hãnh tiến về tinh thần (tín đồ o bế, xã hội trọng vọng).

Mùa Chay 2018 đã tới, xin hãy mạnh dạn bước vào Mùa-Chay-cuộc-đời trong hoang địa trần thế với quyết tâm như một lời đoan hứa: Tôi nhất định không khua chiêng gõ mõ khi cầu nguyện, không méo miệng ngoẹo đầu rầu rĩ khi ăn chay, không biểu ngữ khoa trương khi làm từ thiện, không sáo rỗng màu mè khi an ủi anh em, không hứa lèo hứa cuội khi hoà giải, không mặc áo thày tu khi mình không phải là tu sĩ, không đánh trống bỏ dùi, không tiền hậu bất nhất khi đòi đi theo Thầy Chí Thánh. Tất cả những thói hư tật xấu, tôi quyết tâm từ bỏ, như một lần nữa tôi tuyên xưng đức tin.

Ôi! Lạy Chúa! Con xin vâng nghe Lời Ngài, như lời Mẹ con hằng nhắc nhở: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2, 6). Cũng chính vì “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119). Con quyết không cầu xin cho con biến đổi hình dạng bên ngoài, mà con dốc lòng cúi xin Chúa thương ban cho con một trái tim mới, một thần trí mới, để con có đủ nghị lực và quyết tâm biến đổi tâm hồn con thành con người mới như lòng Chúa mong đợi. Ôi! Lạy Chúa! “Xin ban cho con một trái tim mới, để con yêu Chúa đến trọn đời. Xin ban cho con một thần trí mới, để con thi hành thánh ý Cha. TK: Xin rảy nước trong ngần để con sạch mọi vết nhơ. Xin đổi thay trái tim bao năm cằn khô sỏi đá. Xin đặt Thần Khí Chúa vào lòng chúng con. Xin ban tặng chúng con trái tim vẹn tuyền.” (“Trái tim mới” – TCCĐ). Amen.

Về mục lục

.

THƯA THẦY! CHÚNG CON Ở ĐÂY THẬT LÀ HAY

Fx Đỗ Công Minh

       Bài Tin Mừng Chúa nhật Thứ II Mùa Chay Thánh Maccô thuật lại một chuyến đi của thầy trò trên đường rao giảng. Đã không ít lần Đức Giêsu dẫn các Tông đồ đi qua hết làng mạc này đến kinh thành khác. Có lúc bên bãi biển, bờ hồ, lúc lại vào hoang mạc, lúc giữa biển khơi. Lần này Người cùng các ông lên núi. Được đi với Thầy, học cùng Thầy, chiêm ngưỡng Thầy khi được nghe mọi người tung hô, thật là hãnh diện. Được Thầy chọn đi cùng lên núi, không phải cả nhóm 12 mà vỏn vẹn ba học trò thân tín lại càng là một niềm hạnh phúc với Phêrô, Gioan và GiacôBê.

       Lên núi thư giãn? lên núi để nghe lời Thầy tâm sự, giãi bày? lên núi để được Thầy dặn dò riêng điều gì chăng ? Mừng lắm, vui lắm!Tâm trạng của ba vị Tông đồ cũng chính là tâm trạng của từng người chúng con, khi được sống trong bầu khí thân mật Thầy trò, huynh đệ với nhau . Và còn hơn thế nữa, các ông được chứng kiến vinh quang của Thầy mình: chứng kiến Đức Giêsu đàm đạo với hai vị Tiên tri MôiSen và Êlia, những bậc ngôn sứ tiên tổ lỗi lạc trong dân Israen, những Đấng cao trọng của dân Chúa.Thì ra Thầy mình quả thật là Đấng phải đến như Kinh Thánh đã truyền. Lòng trí các ông mở ra. Các ông kinh sợ nhưng cũng hạnh phúc vì được kề bên các Ngài, đến nỗi quên đi rằng mình đang trên khỏanh đất núi Tabor, khiến Phêrô phải thốt lên:”Lạy Thầy! chúng con  ở đây thật là hay . . .”. Các ông càng trở nên xác tín hơn khi từ trong đám mây bao quanh các Ngài có tiếng phán :”Đây là con ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người “. Thầy Giêsu chí thánh, nay thật là con Thiên Chúa Cha. Điều mà các ông theo Chúa dù đã lâu, đã từng chứng kiến việc Chúa làm, từng nghe lời Thầy giảng dạy nhưng vẫn nửa tin, nửa ngờ.

      Chúa tỏ mình ra cho các ông nhận biết vinh quang của Người, để củng cố niềm tin cho các tông đồ, hầu giúp các ông sẽ không thất vọng hay ngã lòng, khi gặp các biến cố xảy ra trong cuộc đời theo Chúa. Không ngỡ ngàng khi nghe Chúa loan báo cuộc khổ nạn của Người.

     Ngày hôm nay, đọc trên báo chí, theo dõi các phương tiện truyền thông , biết bao tin tức về tội ác, về tệ nạn trong xã hội, về thiên tai, dịch bệnh . Mới đây nhất, tin về những cơn cháy rừng, về bão tuyết, lụt lội. . . xảy ra ở nhiều nơi khiến chúng con chao đảo, lo lắng. Trong Giáo hội, tin tức về những vụ nhà thờ bị đốt, bị hủy hoại; tín hữu bị hành hung. Rồi những vụ lạm dụng, những bê bối xảy ra nơi này nơi khác của giáo sĩ, tu sĩ khiến cho niềm tin chúng con gặp nhiều thử thách, ngờ vực. Chúa ở đâu ? Vinh quang của Người ở đâu ?

      Lạy Chúa,

      Nếu chỉ nhìn vào những hiện tượng ấy mà ngã lòng thì con thật đáng trách. Con đã không nhận ra được mình luôn có Chúa ở cùng. Người đã tỏ hiện vinh quang cho ba môn đệ cũng chính là tỏ hiện cho con, sao

     Xin cho con luôn nhìn lên Thập giá, vì “ Vinh quang của ta là Thánh giá Đức Kitô, Nơi Người ơn cứu độ của ta, sức sống của ta,  Phục sinh của ta. Nhờ Chúa ta được ơn cứu độ. Nhờ Chúa ta được giải thóat  “.

     Xin Chúa củng cố Đức tin cho con !

Về mục lục

.

BA NGỌN NÚI

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Núi là biểu tượng cho sự uy nghi, hùng vĩ, cao cả. Trong Thánh Kinh, núi thường được xem là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa thần linh và con người. Những mạc khải quan trọng trong Thánh Kinh đều diễn ra trên núi.

Trong tác phẩm “Đức Giêsu thành Nazareth”, suy niệm về biến cố Hiển Dung, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã viết những lời thật ý nghĩa về các ngọn núi: “Chúa Giêsu đem theo các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan riêng với mình và dẫn họ lên một ngọn núi cao (Mc 9,2). Chúng ta lại gặp ba vị này trong vườn Cây Dầu (Mc 14,33), lúc đó cơn âu lo cuối cùng của Đức Giêsu như hình ảnh nghịch lại với Hiển Dung, dù vậy cả hai vẫn thuộc vào nhau. Ở đây không nên bỏ qua đoạn Xh 24, ông Môisen lên núi cùng với Aaron, Nadab và Abihu, có lẽ cùng với 70 vị trưởng lão của Israel.

Ở đây, như lời bài giảng trên núi và trong những đêm cầu nguyện của Đức Giêsu, chúng ta lại gặp núi như vị trí gần gũi cách đặc biệt với Thiên Chúa. Chúng ta nhìn tổng hợp một lần những ngọn núi khác nhau trong đời sống Đức Giêsu: núi cám dỗ; núi lúc Người ngồi rao giảng; núi cầu nguyện; núi Hiển Dung; núi âu lo; núi thập tự và cuối cùng là núi Thăng Thiên, trên đó – nghịch lại với lời mời đón nhận vương quyền thế giới do quyền lực của ma quĩ – Chúa tuyên bố: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18). Nhưng trong hậu cảnh, người ta cũng thấy xuất hiện các ngọn núi Sinai; Horep; Morija- các ngọn núi mạc khải của Cựu Ước, kết hợp làm một với núi khổ nạn và núi mạc khải; tất cả chúng đều hướng đến núi Đền Thờ, nơi đó mạc khải trở thành phụng vụ

Nếu chúng ta đi tìm một lời giải thích, sẽ gặp ở hậu cảnh biểu trưng chung về núi: núi là vị trí nâng cao, không những phải trèo lên bên ngoài, nhưng ngay cả bên trong; núi như giải thoát gánh nặng thường nhật, như hít thở không khí trong lành của sáng tạo; núi cho chúng ta một cái nhìn thật xa và vẻ đẹp của vũ trụ; núi cho tôi một cảm giác nâng cao trong tâm hồn và cho tôi cảm nghiệm về Đấng Sáng Tạo. Ngoài lịch sử, còn có cảm nghiệm về một Thiên Chúa, Đấng đang nói và kinh nghiệm về cuộc khổ nạn mà đỉnh cao đạt được trong cuộc hy tế Isaac, trong hy tế Con chiên, tiền ảnh của Con Chiên cuối cùng bị sát tế trên núi Golgotha. Trên núi, ông Môisen và ông Êlia được đón nhận mạc khải của Thiên Chúa; các ngài đàm đạo với Đấng là mạc khải của Thiên Chúa nơi bản thân Người”. (x.Đức Giêsu thành Nazareth, Lm Aug Nguyễn Văn Trinh biên dịch, trang 266-267).

Các bài đọc Thánh Kinh của Chúa nhật hôm nay nói đến ba ngọn núi. Núi Moria đức tin, Tabor vinh quang và Golgotha tình yêu.

  1. Moria, núi niềm tin

Bài đọc 1 kể về ngọn núi Moria. Trên núi cao, Tổ phụ Abraham sẵn sàng hiến tế con trai duy nhất cho Thiên Chúa.

Tổ phụ Abraham có quê hương miền Lưỡng Hà. Chúa gọi ông tại Haran, lúc ông 75 tuổi. Chúa hứa cho ông có một dòng dõi đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển (St 12,1-5). Chờ đợi mãi, dài đến 25 năm sau, bà Sara mới sinh cho ông được một người con duy nhất. Abraham bước vào tuổi 100, lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Niềm vui quá lớn trong ngày con trẻ chào đời (St 21,1-7). Bồng ẳm con trẻ, ông thấy tương lai của cả một dân tộc hùng mạnh. Vợ chồng già hạnh phúc ngập tràn trong tiếng khóc tiếng cười trẻ thơ. Isaac là đứa con của lời hứa, là cây gậy nương tựa tuổi già.

Thế rồi vào một ngày kia, Chúa phán với ông: “Abraham, Abraham! Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó, ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi “. Tiếng sét ngang tai làm ông chết lặng. Lệnh truyền sát tế Isaac, vượt quá tầm nghĩ của con người. Lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, sẽ thành mây khói. Lệnh truyền làm ông đau nhói ruột gan.

Nhưng với niềm tin mãnh liệt, Abraham thi hành lập tức lệnh truyền ấy. Ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông. Chúa phán: “Đừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây Ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta “.

Đức tin và lòng vâng phục của tổ phụ Abraham trở nên gương mẫu cho muôn thế hệ.

Tác giả thư Do Thái viết: “Bởi tin, Abraham được kêu gọi vâng lời ra đi đến xứ ông sẽ lấy làm cơ nghiệp, ông ra đi mà chẳng biết mình đi đâu” (Dt 11,8). Tin là sẵn sàng làm theo lời Chúa dạy, hy vọng Chúa sẽ thực hiện điều Người hứa, dù trước mắt chưa thấy chút gì là hiện thực cả. Vâng lời Chúa, ông đã bỏ quê cha đất tổ lên đường và đặc biệt ông đã dám dâng Isaac làm lễ tế Thiên Chúa. Đức tin thật vững chắc, không do dự, không mặc cả. Vì một dạ tín trung với Chúa, Abraham đã nên “bạn thân của Thiên Chúa” (Gc 2,23). Chúa gọi ông là “Tôi Tớ của Ta” và nói “Ta ở với ngươi” (St 26,24). Vì Chúa “Chúc lành cho các dân tộc trong dòng giống ông và dòng giống ông sẽ nên đông như cát biển” (Hc 44,21), nên ông là cha chúng ta trong đức tin.

  1. Tabor, núi vinh quang

Chuẩn bị bước vào cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ biết : Người sẽ lên Giêrusalem để chịu khổ nạn và chịu chết. Các môn đệ chao đảo niềm tin. Phêrô đại diện cho các anh em phản đối kiệt liệt. Phêrô không chấp nhận thập giá khổ nhục. Để cũng cố niềm tin cho các môn đệ, Chúa Giêsu đưa họ lên núi cao. Chúa biến hình, cho họ thấy một thoáng Phục sinh trước Phục sinh, cho hưởng nếm một chút Thiên đàng trước Thiên đàng. Nhờ đó các môn đệ thêm niềm tin tưởng, thêm mạnh mẽ can đảm.

Chúa đưa ba môn đệ lên núi cao. Các ông được đi vào một thế giới vừa kỳ diệu vừa lạ lùng, làm biến đổi ý nghĩa cuộc đời.

Các ông thấy: “Dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (Mc 9,3); “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17,2); “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa” (Lc 9,29).

Chính nơi đây nổi bật sự liên hệ và sự khác biệt với gương mặt ông Môisen: “Khi ông Môisen từ trên núi Sinai xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước, khi xuống núi, ông Môisen không biết rằng da mặt ông sáng chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa” (Xh 34,29-35). Qua việc đàm đạo với Thiên Chúa, ánh sáng của Thiên Chúa chiếu sáng trên ông và làm cho ông sáng chói. Như thế, ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào ông làm cho ông sáng chói. Đức Giêsu chói sáng tự bên trong, không những Người đón nhận ánh sáng mà chính Người là ánh sáng bởi ánh sáng”. (sđd trang 268).

Và có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người!” (Mc 9,7). Đám mây thiên linh, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Đám mây ngự trên Lều Hội Ngộ cho thấy sự hiện diện của Đức Chúa. Đức Giêsu là Lều Thánh, đám mây của sự hiện diện Thiên Chúa đậu trên Người và từ đó cũng sẽ “bao phủ” mọi người. Sự kiện thánh tẩy Đức Giêsu được tái hiện, nơi đó Chúa Cha từ đám mây công bố Đức Giêsu là Con: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1,11). (sđd trang 172).

Các môn đệ còn thấy: “Có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia”. Đây là hai nhân vật quan trọng nhất trong Cựu ước, đại diện cho hai thực tại quan trọng nhất của Do Thái giáo. Môisen đại diện cho luật pháp. Êlia đại diện cho các ngôn sứ. Hai ông là biểu tượng tiên báo sự ra đời của Đức Giêsu. “Lề luật và ngôn sứ đàm đạo với Đức Giêsu và nói về Người. Trong một chú thích ngắn ngũi, thánh Luca trình thuật cho chúng ta về điều hai chứng nhân của Thiên Chúa nói với Đức Giêsu: “Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem” (Lc 9,31). Đề tài đàm đạo của các ngài là thập giá, nhưng hiều ngầm là cả cuộc “Xuất hành của Đức Giêsu” phải diễn ra tại Giêrusalem. Thập giá Đức Giêsu là cuộc xuất hành, một việc bước ra khỏi cuộc sống này, vượt qua Biển Đỏ của cuộc khổ nạn và tiến đến vinh quang, dù vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn”. (sđd trang 268).

Ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê có những trải nghiệm tuyệt vời về Thầy của mình. Cũng vẫn là Đức Giêsu bằng xương bằng thịt mà các ông vẫn thường gặp gỡ tiếp xúc hằng ngày, nhưng lần này, các ông được nhìn thấy Người dưới một dung mạo mới: thật sáng ngời, thật hấp dẫn và đầy uy nghi. Các ông vững lòng tin tưởng.

  1. Golgotha, núi tình yêu

Trên núi cao, Đức Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Các môn đệ ngất ngây trong niềm hạnh phúc tuyệt vời. Các ông muốn ở lại trên núi để sống niềm hạnh phúc ngập tràn ấy. Các ông muốn níu kéo khoảnh khắc thần tiên ấy lại nên Phêrô thay mặt anh em thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môisen, và một cho ông Êlia”.

Các môn đệ muốn đăng ký thường trú trên núi Tabor, muốn đắm mình trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo của Thầy. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa. Nhưng Đức Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Người chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên núi Golgotha. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Đức Giêsu phải chịu khổ nạn, chịu chết rồi mới Phục Sinh mở lối vào thiên đàng. “Cảm nghiệm sự kiện Hiển Dung đã giúp cho thánh Phêrô nhận thức trong lúc ngất trí, những thực tại được biểu trưng trong các nghi thức của ngày lễ đã được hoàn tất, biến cố Hiển Dung loan báo thời đại Messia đã bắt đầu. Mãi khi xuống núi, thánh Phêrô lại phải học hỏi một lần nữa, thời đại Messia trước tiên là thời đại của thập giá và việc Hiển Dung, Chúa biến dạng thành ánh sáng, sẽ bao trùm chúng ta trong ánh sáng của cuộc khổ nạn.”. (sđd trang 269).

Hai đỉnh núi: núi Tabor và núi Golgotha cách nhau không xa về địa lý nhưng lại là con đường vạn lý. Chỉ có con đường thập giá tình yêu mới nối liền hai núi mà thôi.

Thánh Phêrô cùng các Tông đồ còn phải vượt qua những yếu đuối, sa ngã, còn phải nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách, còn phải chịu đau khổ vì Thầy chí thánh, còn phải trải qua cái chết đớn đau rồi mới tới được Núi Thánh thiên quốc như lòng mong ước. Các ngài chỉ đi một con đường Thầy mình đã đi qua. Đó là con đường thánh giá tình yêu.

  1. Muốn tới vinh quang phải đi qua thập giá tình yêu và niềm tin.

Ba môn đệ thân tín được Đức Giêsu dẫn lên núi Tabor. Ở đó cả ba nhìn thấy vinh quang của vương quốc Thiên Chúa chói sáng nơi Đức Giêsu. Trên núi, đám mây thánh thiện của Thiên Chúa bao phủ họ. Trên núi, trong cuộc đàm đạo của Đức Giêsu Hiển Dung với Lề luật và Tiên tri, họ hiểu rằng, giờ của ngày Lễ Lều đích thực đã đến. Trên núi, họ cảm nghiệm, Đức Giêsu chính là Tora sống động, là lời trọn vẹn của Thiên Chúa. Trên núi, họ thấy “quyền lực” của vương quốc đang đến trong Đức Kitô. Nhưng chính trong sự gặp gỡ đáng sợ với vinh quang của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, họ phải học biết điều thánh Phaolô nói trong lá thư thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô với các môn đệ thuộc mọi thời đại: “Chúng tôi rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, Người là sức mạnh và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1,23-24). Sức mạnh của vương quốc tương lai xuất hiện nơi Đức Giêsu Hiển Dung, Đấng nói với các chứng nhân Cựu ước về sự cần thiết của cuộc khổ nạn như con đường tiến đến vinh quang (x. Lc 24,26-27). Như thế, họ được tiền dự vào ngày quang lâm; nhờ đó dần dần họ được dẫn vào mầu nhiệm sâu thẳm của Đức Giêsu.(sđd trang 273).

Muốn đạt tới vinh quang núi Tabor, cần phải vượt qua được hai ngọn núi Moria đức tin và Golgotha tình yêu một cách trọn vẹn. Lúc ấy, thật là hạnh phúc được chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa.

Về mục lục

.

TÍNH PHẢN DIỆN TRONG PHẬN NGƯỜI

Lm. GB. Trần Văn Hào

Biến cố Chúa hiển dung trên núi Thabor được cả 3 thánh ký Tin mừng nhất lãm trình thuật lại. Sau khi Đức Giêsu loan báo về cái chết và sự thống khổ mà Ngài sẽ phải trải qua, một bầu khí u ám bao trùm trên các học trò của Ngài. Vì vậy 6 ngày sau, Đức Giêsu dẫn 3 môn sinh thân tín lên núi cao và biến hình trước mặt các ông, để các ông được tận mắt mục kích vinh quang sáng chói nơi Ngài. Sứ điệp mà Đức Giêsu muốn ngỏ trao cho các môn đệ, là hãy can đảm đối diện mầu nhiệm Thập giá, vì con đường Thập giá sẽ dẫn đến vinh quang (Per Crucem ad Lucem). Tương tự như thế, thánh Phaolô cũng đã khẳng định : “Những ai cùng chết với Người, sẽ được cùng Người sống lại trong vinh quang” (2Tm 2, 11).

Vinh quang bị che dấu

Cha Phanxicô Amberat đã so sánh: “ Giống như một đám mây bị xé ra cho thấy ánh mặt trời rực rỡ, việc Chúa biến hình cũng xé toang đám mây trong kiếp người hèn hạ của Đức Giêsu để 3 môn đệ được chiêm ngắm vinh quang bị che dấu nơi Ngài.”

Có nhiều ảo thuật gia tài ba như Coperfield đã khéo léo sử dụng kỹ xảo để đánh lừa thị giác con người. Ông biểu diễn những màn ảo thuật như chặt đôi thân xác, đi xuyên qua tường hoặc làm biến mất ngọn tháp Eiffel rất ngoạn mục. Thế nhưng, đó chỉ là xảo thuật nhờ vào những kỹ thuật hiện đại. Trong các câu chuyện cổ tích, người ta vẫn hay tạo ra những nhân vật có phép thần thông biến hóa như Tôn Ngộ Không chẳng hạn. Song, cuộc biến hình của Đức Giêsu không phải là một màn ảo thuật. Đây cũng không phải là một câu chuyện hoang đường mang tính giả tưởng. Đức Giêsu là một ‘Thiên Chúa – Người’, một Thiên Chúa đầy quyền năng nhưng lại ẩn dấu thiên tính cao sang trong dáng dấp của một người phàm thấp kém. Ngài là Thiên Chúa hằng sống, Đấng không bao giờ phải chết, nhưng lại mang thân phận con người vốn hay chết. Đó là một nghịch lý vĩ đại, không phải nhằm đánh đố đầu óc suy lý của con người, nhưng đây chính là lời mời gọi đức tin để chúng ta mạnh dạn tiếp bước dấu chân của Đức Giêsu trên con đường tiến về núi sọ. Mùa chay là thời gian tôi luyện, giúp chúng ta tiến sâu vào cuộc hành trình này.

Tính phản diện trong phận người

Biến cố biến hình mà phụng vụ hôm nay gợi nhắc, nêu bật tính phản diện ấy. Trên núi cao, ba môn đệ sung sướng mở to đôi mắt để ngắm nhìn vinh quang chói sáng nơi Đức Giêsu. Nhưng khi đối diện trước viễn ảnh Thập giá nơi vườn cây dầu, cả ba vị lại yếu đuối khép chặt đôi mắt trong giấc ngủ sâu, đến độ không thể cùng thức với Thầy mình dù chỉ một tiếng đồng hồ. Một Phêrô đã cao hứng xin dựng 3 lều, lại là một anh học trò nhát đảm đã 3 lần bai bải chối Chúa. Trong biến cố đầu tiên, cả 3 môn đệ vui mừng phấn khởi, nhưng trong biến cố sau, cả 3 đệ tử nghĩa thiết đều đã nhát đảm thoái lui. Tính phản diện này cũng được thánh Phaolô lột tả khi Ngài viết : “Có những điều tôi muốn làm nhưng tôi lại không làm, ngược lại có những điều tôi ghét, nhưng tôi lại cứ làm” (Rm 7,15).

Trong cuộc hành trình nội tâm mà Giáo hội gợi nhắc chúng ta suốt mùa chay, chúng ta phải nhận ra tính phản diện ấy nơi mỗi người để can đảm đi vào cuộc chiến đấu thiêng liêng. Con người ai cũng có những yếu đuối và sa ngã, nhưng không sao, Chúa Giêsu luôn ở với ta và Ngài sẽ nói với chúng ta như đã từng ngỏ lời với Phaolô: “Ơn Thầy thì luôn đủ cho anh” (2 Cor 12, 9).

Biến đổi nội tâm

Một câu chuyện ngụ ngôn Ấn Độ kể lại rằng, có một gia đình khỉ sống trong một khu rừng rậm. Trời buốt gía, lũ khỉ run rẩy vì lạnh. Chúng gom một ít củi khô để đốt hầu sưởi cho bớt rét. Một con đom đóm bay sà tới. Con khỉ đầu đàn tóm lấy và đặt vào giữa đám củi khô, vì nó tưởng là ánh lửa. Cả gia đình khỉ đều túm lại và phùng mang trợn má thổi thật mạnh. Nhưng, con đom đóm mãi vẫn chỉ là con đom đóm, chứ không phải là ngọn lửa. Một con chim bay ngang qua nói với lũ khỉ: “Này các bác ơi, đó chỉ là con đom đóm chứ có phải là ngọn lửa đâu”. Bầy khỉ không nghe, bắt lấy con chim và đập chết. Sáng hôm sau, người ta thấy cả gia đình nhà khỉ nằm chết cóng bên đống củi khô cùng với xác của một con đom đóm.

Trong cuộc sống đời thường của chúng ta, có rất nhiều con đom đóm xuất hiện mà chúng ta cứ ngỡ tưởng là ngọn lửa thật. Đó là những con đom đóm của tiền bạc, của danh vọng, của những lạc thú trần gian. Nếu cứ bám mãi vào những con đom đóm ấy, chúng ta sẽ chết một cách nghiệt ngã giống như đám khỉ trong câu chuyện nêu trên. Muốn thoát ra khỏi ánh sáng lập lòe của những con đom đóm giả hiệu này, chúng ta phải lột xác, phải biến hình với Chúa Giêsu, tức là phải đi vào cuộc biến đổi nội tâm một cách triệt để.

Kết luận

Một nhà tu đức nọ đã viết trong nhật ký của mình những tâm tình sau đây. ‘Lúc còn nhỏ với bao tham vọng, tôi vẫn cầu xin Chúa giúp tôi biến đổi cả thế giới này. Lớn lên khi thấy chưa làm được gì, tôi chỉ cầu xin Chúa giúp tôi biến đổi những con người mà tôi vẫn gặp thường ngày. Bây giờ khi cuộc đời đã xế chiều, tôi thấy mình rất mong manh chẳng làm chi nên chuyện, tôi chỉ cầu xin Chúa giúp biến đổi chính con người của tôi mỗi ngày’.

Michael Angelo, một điêu khắc gia tài ba, đã thổ lộ: “Đứng trước một phiến đá thô, để có được một bức tượng hoàn hảo, chúng ta cần phải biết đục đẽo và loại bỏ đi những gì thừa thãi, chứ không cần đắp thêm vôi vữa”. Cũng vậy muốn biến con người chúng ta trở nên một bức tượng sống, họa lại hình ảnh Chúa Giêsu, chúng ta cũng cần phải biết đục bỏ những gì dư thừa trong cuộc sống. Đó là phương cách để chúng ta đi vào sự biến đổi cách sâu xa.

Chúa biến hình trên núi cao, cũng mời gọi chúng ta ở dưới đất thấp, hãy can đảm lột xác, biến đổi nội tâm cách triệt để. Sự biến đổi ấy là điều kiện cần thiết để chúng ta tiếp nối dấu chân của Đức Giêsu, và cùng bước đi với Ngài trên con đường Thập giá.

Về mục lục

.

THẬP GIÁ LÀ VINH QUANG

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Nhiều nhà chú giải Thánh Kinh cho là cảnh hiển dung trên núi Ta-bo là một trong những sự kiện quan trọng nhất của Tân Ước, vì tuy không phải là chóp đỉnh, biến cố này thật sự tóm tắt tất cả mạc khải cứu độ. Chúng ta thấy ở đây, Mô-sê và Ê-li-a, các phát ngôn viên của lề luật và ngôn sứ (tắt một lời là đại diện của Cựu Ước) giới thiệu đấng Ki-tô của Tin Mừng cho các môn đệ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an. Các môn đệ này sẽ là các nhân chứng được coi là ‘trụ cột’ của Giáo Hội (theo lối diễn tả của Phao-lô trong thư gửi tín hữu Ga-lát), những người có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo (Xem chú thích Mc 9:1tt trong ‘Lời Chúa Cho Mọi Người’). Nếu quả thật là như thế thì hiển dung đâu chỉ đơn thuần là một liệu pháp tâm lý đề vực dậy tinh thần suy sụp của các môn đệ trước cuộc khổ nạn đau thương Đức Giê-su sẽ phải chịu tại Giê-ru-sa-lem. Ý nghĩa của nó chắc hẳn phải lớn lao hơn nhiều…, và vì thế đáng để ta dành đôi chút thời giờ tìm hiểu thêm.

Vinh quang, hay diện mạo đích thực của Thiên Chúa là điều con người mọi thời đại và mọi tôn giáo đều muốn kiếm tìm. Mô-sê và Ê-li-a là hai nhân vật Cựu Ước được mô tả như đã có diễm phúc chớm thấy vinh quang đó tỏ lộ; Mô-sê trên định Si-nai khi lãnh tấm bia giới luật (xem sách Xuất Hành chương 19), và Ê-li-a trên đỉnh núi Khô-rếp trên đường trốn chạy khỏi sự truy đuổi của hoàng hậu I-dê-ven (xem 1 Vua chương 19). Tuy nhiên thứ vinh quang Đức Chúa mà hai ông được chứng kiến thực tế đã rất khác nhau; một đàng là ‘Đức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống, khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh… (Xh 19:18), đàng khác là ‘Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa là tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe tiếng đó, ông Ê-li-a lấy áo choàng che mặt, rồi ra đứng ở cửa hang… (1 V 19:12-13). Nếu thế vinh quang mà Đức Giê-su muốn hiển thị trong lần biến dạng trên núi Ta-bo có chi khác với những lần đó không? Trước hết đó hẳn phải là một thứ vinh quang đích thực, vì được hiển thị do chính Người Con duy nhất từ Thiên Chúa mà đến. Vinh quang đó không những phải vượt xa mọi thứ hào quang đôi mắt phàm tục có thể nhìn thấy, mà còn phải vượt xa những gì cả Mô-sê lẫn Ê-li-a đã được chứng kiến trong những lần thị kiến Đức Chúa thời Cựu Ước.

Tác giả Lu-ca cho biết ‘hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem’ (Lc 9:31), điều đó chứng tỏ cuộc xuất hành sắp tới mới biểu hiện vinh quang thật, khác với những gì các ông đã biết hoặc đang được chứng kiến lúc này. Thứ hào quang mà hai ông hiện đang được chứng kiến chưa hẳn là tột đỉnh; tột đỉnh vinh quang phải là cuộc xuất hành các ông đang được nghe đề cập tới. Đức Giê-su cũng hàm cùng một ý đó khi căn dặn ba môn đệ trên đường xuống núi: “không được kể lại cho ai nghe các điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại”. Đúng vậy, cuộc tử nạn hay cuộc vượt qua Người sắp chịu mới chính là vinh quang đích thực, trong đó tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được tỏ hiện cách rực rỡ nhất. Nếu Thiên Chúa là tình yêu, thì vinh quang chói lọi của Người không thể là điều gì khác hơn biểu hiện của tình yêu đầy từ nhân và xót thương thông qua hành động cứu chuộc. Sau này khi gần tới giờ ra đi chịu chết và khi cầu nguyện với Chúa Cha, chính Đức Giê-su đã không ngần ngại gọi giờ phút ‘tang thương’ đó là giờ Thiên Chúa tỏ lộ vinh quang Ngài, giờ phút Thiên Chúa được tôn vinh cách tuyệt đối. “Lạy Cha, giờ đã đến, xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha… xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17:1.8).

Chính Mô-sê và Ê-li-a cũng hầu như còn đang mong đợi được chứng kiến thứ vinh quang đó, vinh quang của Thập Giá. Và Đức Giê-su thật sự mong muốn và khích lệ các môn đệ, đặc biệt ba môn đệ thâm tín nhất, loan truyền cho mọi người thứ vinh quang ‘xuất hành’ đó, hơn là chựng lại làm ba lều bên thứ vinh quang ‘giả tạo’ của diện mạo sáng láng và y phục trắng tinh. Phải chăng đây chính là cuộc chuyển biến quyết định nhất của mọi niền tin, từ Cựu Ước bước qua Tân Ước, từ vinh quang của quyền uy (lửa, động đất, loa vang dội…) qua vinh quang của tha thứ và cứu độ, từ quan niệm về một Đức Chúa quyền phép qua hình ảnh một Thiên Chúa là Cha của Đức Ki-tô Giê-su đầy xót thương nhân hậu? Đối với các môn đệ là những người Do Thái chính hiệu, sự chuyển tiếp này không thể không gây ngỡ ngàng và đặt ra nhiều vấn nạn. Các ông vẫn còn phải ‘bàn nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì’, và Đức Giê-su còn phải cất công giải thích nhiều lần hơn nữa. Điều này cũng sẽ mãi mãi, qua mọi thời đại, tiếp tục là vấn đề then chốt độc đáo của niềm tin Ki-tô hữu (so với các tôn giáo khác, nhất là Do Thái giáo và Hồi giáo) khi phải vẽ lên trong tâm linh các tín hữu hình ảnh về một Thiên Chúa… lòng lành, xót thương và cứu độ, những nét không tuân theo bất cứ thứ lô-gich hay lối suy nghĩ thông thường nào, nhưng chỉ dựa trên mạc khải duy nhất của Đức Ki-tô thập giá. Cách duy nhất họ có thể làm là để mình hoàn toàn bị khuất phục bởi mạc khải vinh quang thập giá, điều làm cho họ, trước mặt khôn ngoan của người đời, bị liệt vào hạng ngu đần và hèn nhất; do đó “Hãy vâng nghe lời Người!”

Mùa chay chính là thời gian để mỗi chúng ta vâng nghe và đón nhận thứ vinh quang cứu độ này của Thiên Chúa, vì thế đó là thời gian của thanh lọc và củng cố niềm tin Ki-tô.

Lạy Chúa là đấng Cứu Độ của con! Con xin được như Phê-rô dựng lều, nhưng không phải để chiêm ngắm dung mạo hiển dung sáng láng, mà là để say mê vinh quang cứu độ Chúa dành cho con. Chính Chúa đã chủ động kêu mời con ở lại trong tình yêu xót thương của Người, không những chỉ trong mùa chay thánh mà còn trong suốt cuộc sống dương thế, và mãi mãi trong hạnh phúc Quê Trời mai sau. A-men.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY_B

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi đã được Tin mừng Nhất Lãm Matthew, Marco và Luca ghi lại chi tiết. Biến cố biến hình mạc khải cho các tông đồ để biết Đức Giêsu là Đấng Messia, Đấng Cứu Thế “Đây là Con ta yêu dấu” và đồng thời củng cố niềm tin của các ông, chuẩn bị để các ông đón nhận việc Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết để cứu độ muôn người: “Trước khi Con Người từ cõi chết sống lại”.

Theo Thánh kinh thì Chúa biến hình ở trên ngọn núi miền Galilê và theo truyền thống thì đó là núi Tabor: “Người lên núi cao”. Núi cao là biểu tượng nơi Thiên Chúa ngự. Lên núi cao để gặp gỡ Thiên Chúa, Như Môsê trên núi Sinai, Tiên tri Êlia trên núi Horeb, 3 tông đồ thân tín được đưa lên núi cao là để được tiếp xúc với vinh quang của Chúa Giêsu, tiếp xúc với thần linh của Người. Người biến hình trước mặt các ông để biểu lộ Thiên tính của mình để các ông nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong con người Đức Giêsu “Áo Người trở nên chói lọi trắng tinh như tuyết”.

Sự hiện diện của Êlia và Môsê nói lên sứ mạng của Đức Giêsu. Môsê tượng trưng cho lề luật. Êlia tượng trưng cho tiên tri. Đức Giêsu chính là Môsê mới, Êlia mới nghĩa là Người là thủ lãnh, là ngôn sứ của Thiên Chúa đến để giải phóng nhân loại và cứu chộc nhận loại. Như thế sự có mặt của hai ông trong biến cố Chúa biến hình nói lên rằng thời đại cánh chung đã tới, đó là thời đại cứu chuộc, thời đại của Đấng Thiên sai đưa lại hạnh phúc đời đời cho chúng ta.

Quang cảnh vinh quang của việc Chúa biến hình trên núi đã làm cho các tông đồ sung sướng và vô cùng hạnh phúc. Thánh Phêrô đã thốt lên cảm nghiệm của mình: “Ở đây thì tốt lắm”. Đối với Phêrô, lúc này là lúc hạnh phúc vô cùng không thể nào có. Vì thế ông muốn kéo dài hạnh phúc này, muốn ở lại trên núi luôn bằng cách xin Thầy làm 3 lều. Phêrô muốn kéo dài ước mơ hạnh phúc mãi mãi. “Lều” biểu tượng sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người (Xh 26, 7).

Thời Chúa Giêsu, lều là tượng trưng nơi Thiên quốc, vì thế, Phêrô có cảm tưởng rằng là thời cuối cùng, là thời Thiên quốc đã đến, nên ông muốn ở lại đây mãi mãi để hưởng hạnh phúc.

Tại sao Phụng vụ mùa Chay lại đọc bài Tin mừng Chúa biến hình? Hình như có sự mâu thuẫn? Người tín hữu đang sống bầu khí đau thương của cuộc tử nạn. Nhưng thực sự không có gì mâu thuẫn cả, ta thấy cuộc khổ nạn đau thương và vinh quang phục sinh chỉ là hai mặt không thể tách rời của một thực trạng “Qua thập giá đến vih quang”. Làm như vậy Phụng vị đã đặt đúng ý nghĩa mà các tác giả Nhất Lãm mong muốn. Khổ nhục và vinh quang Thiên quốc là hai dữ kiện xuất hiện trong suốt cuộc đời Chúa Giêsu.

Tóm lại, theo Papias, việc biến hình trên núi là trụ chốt, trung tâm của Tin mừng Marco, Marco đặt yếu tố này quan trọng vì nó là tiền ảnh của biến cố phục sinh và báo trước những gì xảy ra ngày quang lâm. Marco đã đặt trọng tâm vào giữa sách Tin mừng biến cố Chúa biến hình, vì ngay từ đầu Marco muốn nhấn mạnh cho cộng đoàn Giáo hội biết ý nghĩa hiện thực của cuộc đời: cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.

Qua lời Chúa hôm nay nhắc nhở và đề nghị những thực hành cho người Kitô hữu:

– Khi biến hình, Chúa Giêsu đã được Chúa Cha xác nhận: “Này là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Muốn trở nên con yêu dấu của Thiên Chúa, chúng ta cũng phải biến hình bằng cách cởi bỏ con người cũ, mắc lấy tinh thần mới của Chúa, thay đổi cuộc sống cũ với những tiêu cực… để sống cuộc sống mới, thánh thiện, đạo đức hơn.

– Các tông đồ gặp Chúa vinh quang trên núi Tabor, các ngài cảm thấy hạnh phúc và muốn ở luôn trên núi. Nhưng rồi Chúa bảo phải xuống núi; lên núi cao để gặp gỡ Chúa; rồi phải xuống núi để chấp nhận đau khổ của bổn phận hằng ngày và làm chứng nhân cho Chúa. Đời người đan kết bằng những vui buồn và sướng khổ, hạnh phúc và bất hạnh, sự sống và sự chết, thành công và thất bại, vinh quang và ô nhục… Nói cách khác đời là con đường thập giá đưa tới vinh quang muôn đời.

– “Các con hãy nghe lời Người”. Sống đạo là nghe lời Chúa và đem ra thực hành, đưa lời Chúa vào cuộc sống sẽ đem lại niềm vui, an bình, hạnh phúc cho mình và cho mọi người.

“Lời Ngài là sức sống của con.

Lời Ngài là ánh sáng đời con,

Lời Ngài làm chứa chan hy vọng,

Là đường để con hằng tiến bước.

Lời Ngài đượm chất ngất niềm vui,

Trọn vẹn ngàn tiếng hát đầy vơi.

Lời Ngài đổi mới cho cuộc đời.

Lời Ngài hạnh phúc cho đời ai”.

Phúc cho bạn, người đã biết nghe lời Chúa và sống lời Chúa trong cuộc sống hôm nay.

Về mục lục

.

THỬ THÁCH TRONG CUỘC SỐNG TỪ TABOR ĐẾN GOLGOTHA

Lm. Đinh Lập Liễm

Thánh Marcô cho biết: Đức Giêsu đã đưa ba môn đệ yêu quí là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao. Vì đi đường mệt nhọc các ông lăn ra ngủ và khi thức giấc, các ông nhìn thấy cảnh lạ lùng: Chúa biến hình, “áo Ngài trắng như tuyết, không thể nào giặt được như vậy.” Có ông Maisen và Elia đàm đạo với Ngài để khuyến khích Ngài đi vào cuộc tử nạn và có tiếng phát ra trong đám mây: ”Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Ngài” (Mk 9:2-7). Việc biến hình này có ảnh hưởng sâu đậm đến ba ông.

Maisen là đại diện cho pháp luật và Elia là tiên tri vĩ đại nhất trong các ngôn sứ. Khi hai nhân vật lỗi lạc đó hội kiến với Đức Giêsu, có nghĩa là nhà tuyên bố pháp luật vĩ đại nhất và nhà tiên tri lỗi lạc nhất đã nói với Đức Giêsu rằng “Xin cứ tiến lên.” Nó có nghĩa là hai vị thấy nơi Đức Giêsu sự hoàn thành của tất cả những gì họ từng mơ ước trong quá khứ. Nó có nghĩa là họ thấy nơi Ngài tất cả những gì mà lịch sử vẫn trông chờ từ lâu và đã hướng về đó với hy vọng tràn đầy. Dường như chính lúc đó Đức Giêsu được bảo đảm rằng Ngài đang đi đúng hướng vì cả lịch sử đều dẫn đến thập giá.

Đức Giêsu đã quyết định lên Giêrusalem (Lc 18:31), và quyết định ấy có nghĩa là chấp nhận thập giá. Khi nghe Đức Giêsu báo cho họ biết là Ngài sẽ lên Giêrusalem để chịu chết, họ bàng hoàng, bối rối lo sợ vì bao điều mơ tưởng của họ sẽ bị tiêu tan, tương lai của họ trở nên bấp bênh, đen tối. Tuy thế, những gì đã xem thấy trên núi biến hình cho họ có cơ hội bám chặt lấy ngay khi họ chẳng hiểu gì. Cho dù có thập giá hay không, họ vẫn được nghe tiếng của Thiên Chúa xác nhận Đức Giêsu là Con Ngài (Mk 9:7).

Ngoài ra, việc Chúa biến hình trên núi khiến họ trở thành các chứng nhân cho sự vinh hiển của Chúa Cứu thế theo một ý nghĩa đặc biệt. Xác tín rằng mình là chứng nhân trước sự vinh hiển của Chúa Cứu Thế, sau này khi có dịp, họ đã có sẵn câu chuyện đang giấu kín trong lòng, sẽ kể lại cho mọi người nghe (II Pet 1:16-18).

Hãy nhìn chung quanh, chúng ta sẽ thấy mọi sự luôn biến đổi. Thí dụ nhìn vào bản thân: các nhà khoa học nói rằng các tế bào luôn thay đổi, cái này chết cái kia sinh ra, sau 7 năm thì không còn tế bào nào là tế bào của 7 năm trước nữa. Không biến đổi cũng đồng nghĩa với chết. Đối với cuộc sống thân xác thì như thế. Đối với cuộc sống thiêng liêng thì cũng như vậy; bởi thế trong mùa Chay chúng ta cần biến đổi. Cứ sống y như cũ là chết (Carôlô, Sợi chỉ dỏ, năm B, tr 134-135).

Việc Chúa biến hình nhắc cho các môn đệ và chúng ta phải cởi bỏ tội lỗi để nên tốt lành thánh thiện hơn: ”Hãy lột bỏ con người cũ mặc lấy con người mới. Hãy để Thần Khí Thiên Chúa canh tân tận tâm linh anh em”” (Ep 4,23). Thánh Tông Đồ còn khuyên nhủ chúng ta hãy làm một cuộc canh tân toàn diện để cho con người nội tâm của ta biết nghe theo luật của Chúa mà bỏ đường lối của xác thịt. Vì thế, trong thư gửi tín hữu Êphêsô Ngài đã viết: ”Anh em hãy cởi bỏ kiểu sống xa xưa, con người cũ đã ra hư hốt buông theo những đam mê lầm lạc. Hãy để Thần Khí canh tân đổi mới thấu tận trí khôn. Hãy mặc lấy người mới đã được tạo dựng nên theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật” (Ep 4,22-24).

Bài đọc I hôm nay thuật lại việc Abraham sát tế Isaác con mình (Gen 22:1-19). Việc này cho chúng ta thấy đức tin của ông. Lệnh truyền sát tế Isaác, người con duy nhất sinh ra trong tuổi già, thì vượt quá tầm nhìn cách nghĩ của con người và xem ra là phi lý. Sẽ thực hiện ra sao đây lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, nếu không còn người con trai này? Thiên Chúa đòi hỏi ông hiến tế luôn cái cơ hội sống còn cuối cùng này của ông, đồng thời cũng là cái nền tảng cho niềm tin của ông. Yêu cầu của Thiên Chúa quá đỗi đau thương đoạn trường, nhưng với niềm tin cậy vào Thiên Chúa, ông vội vã thực hiện ngay lệnh truyền ấy. Cần vâng phục Thiên Chúa bất cứ giá nào. Ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông và mạng sống Isaác được dành lại.

Đường lối Thiên Chúa thật lạ lùng. Câu chuyện về hy tế của Abraham khá làm sáng tỏ những phương thức của Thiên Chúa. Quả thật, tất cả chỉ là thử thách trong cuộc đời. Nhưng một khi chân trời mây mù bưng bít, không trông đâu được sự giúp đỡ của loài người, mọi sự dường như mất hết, chúng ta không còn cân nhắc suy tính được nữa, và thất vọng tự hỏi: ”Tại sao Thiên Chúa xử như vậy?”

Nhưng chúng ta phải hiểu rằng Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta, Ngài đã phó nộp Con Một Ngài trên cây thánh giá vì phần rỗi chúng ta. Như vậy, khi Ngài để cho chúng ta nhờ đau khổ và thử thách kết hợp với sự thương khó của Chúa Kitô, chúng ta chắc chắn rằng, nhờ đó, Ngài cũng muốn liên kết chúng ta vào sự Phục sinh và vinh quang của Chúa Kitô. Do đó, thử thách cũng có ý nghĩa tích cực vủa nó. Không lạ gì khi thấy người ta nói: “Có cứng mới đứng đầu gió” (Tục ngữ)

Chính những đau khổ và gian nan thử thách sẽ làm cho chúng ta thêm giá trị trước mặt Chúa, nó thanh luyện chúng ta, nó làm cho chúng ta thể hiện lòng trung thành đối với Chúa. Lúc đó, đức tin của chúng ta mới có giá trị sau khi đã được thanh luyện như vàng ra khỏi quặng: “Có gió lung, mới biết tùng bá cứng. Có lửa hừng, mới biết thức vàng cao” (Tục ngữ).

Thánh Giacôbê Tông Đồ nói về vấn đề này: ”Phúc cho ai bị thử thách mà vẫn trung thành, bởi vì khi thành công trong cơn thử thách như thế, người đó sẽ được Thiên Chúa ân thưởng bằng sự sống mà Thiên Chúa đã hứa cho những ai yêu mến Ngài” (Gc 1,12).

Trong gian nan thử thách, hãy giữ vững niềm hy vọng và tin tưởng phó thác. Nhưng làm sao giữ được niềm hy vọng tâm hồn? Hãy noi gương Chúa Kitô! Tất cả cuộc đời Ngài chỉ là một chuỗi phó thác trong tay Chúa Cha. Trong lúc hấp hối Ngài than thở: ”Lạy Cha, xin đừng theo ý Con, một theo ý Cha” (lC 22:42). Sự tín thác mến yêu này là nguồn ơn cứu độ cho hết mọi người và là nguyên nhân của Phục sinh khải hoàn. Chính trong việc chiêm niệm về Chúa Kitô tín thác cho Tình Yêu mà chúng ta múc lấy nghị lực để nói như Ngài: ”Lạy Cha, đừng theo ý con, một theo ý Cha.”

Trong những lúc bị thử thách, chúng ta không biết bám víu vào đâu vì những người chung quanh đều bất lực không thể giúp chúng ta. Lúc đó, chúng ta chỉ còn biết dựa vào đức tin để phó thác cho Chúa, xin Ngài đến cứu giúp. Đức tin cũng cần phải được thử thách thì mới có giá trị. Nếu ở trên núi Tabor, ông Phêrô thưa với Chúa: ”Lạy Thầy, chúng con ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Elia và một cho Maisen” (Mc 9,5). Các ông muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor, ngủ yên trong hào quang rực rỡ, bỏ lại dưới núi bạn đồng môn, muốn hưởng thụ đầy đủ ánh hào quang của Chúa, thì các ông sẽ nói thế nào ở vườn Cây Dầu và ở đồi Golgotha?

Khi lên tinh thần, đức tin của chúng ta cũng vững mạnh và xán lạn như đức tin của các Tông Đồ trong bài Tin Mừng hôm nay. Khi đức tin ở đỉnh cao, chúng ta thấy gần gũi Đức Giêsu đến độ chúng ta tưởng rằng có thể đụng rờ được Ngài. Chúng ta cảm thấy gần gũi Thiên Chúa Cha đến độ dường như đôi tay của Ngài đang bao bọc chung quanh ta, và Thánh Thần dường như đang nói với chúng ta. Trái lại, khi xuống điểm thấp, đức tin của chúng ta yếu ớt như muốn mất hẳn, giống như đức tin của các môn đệ ở vườn Cây Dầu (Mark Link).

Áp dụng vào trong cuộc sống hằng ngày, đôi lúc chúng ta cảm thấy đức tin mình ở những điểm cao, lúc đó chúng ta yêu thương hết mọi người. Chúng ta thắm thiết với bạn bè, và chúng ta tha thứ cho tất cả mọi thù địch. Vào những ngày như thế, chúng ta không thể hiểu được chúng ta đã từng cho rằng cuộc đời là khó khăn. Nhưng khi ở những điểm thấp, không có gì là trôi chảy cả: “Chúng ta cảm thấy bị đè nén và đáng thương, bị hiểu lầm, chán nản, bị mất mát thiệt thòi” (Anthony Padovano).

Những lúc gặp đau khổ hoặc gian nan thử thách chúng ta chỉ còn biết tin tưởng và phó thác cho Chúa. Ngài có thể làm được tất cả trong những cái loài người cho là không có thể, để quyền năng của Chúa được tỏ hiện nơi ta, như Thánh Phaolô đã nói: ”Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10).

Có câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống đạo, sống niềm tin trong đau khổ thật sâu xa: ”Khi Thiên Chúa đóng cửa chính thì Ngài mở ra cửa sổ.” Thiên Chúa đóng cửa chính là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc chúng ta đương đầu với thử thách, khó khăn. Lúc đó, chúng ta cần nhớ rằng: Thiên Chúa Ngài sẽ mở ra cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta. Thiên Chúa mở ra những cửa sổ để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn mà trước đó chúng ta không ngờ. Những kinh nghiệm đau thương, tiêu cực mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa để mời gọi chúng ta bước ra khỏi một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị chúng ta sẵn sàng hơn đón nhận những hồng ân mới (I Cor 10:13).

Du khách đến Roma thường đi thăm ngôi thánh đường cổ tên là Dominus sub aquis. Phía trên bàn thờ, có một tượng thánh giá rất đặc biệt: bất cứ ai đến quì trước tượng thánh giá và cầu nguyện với tất cả lòng thành đều được sức mạnh và an ủi thâm sâu.

Người ta kể rằng tượng cẩm thạch trên thánh giá này đã mất nhiều năm mới hoàn thành được. Hơn hai lần, mỗi khi treo bức tượng lên để ngắm nhìn, tác giả lại cho kéo xuống và đập bỏ, vì ông cho rằng tác phẩm vẫn chưa diễn đạt được điều ông muốn. Khi ông bắt tay vào công trình lần thứ ba thì cũng là lúc ông gặp nhiều thử thách nhất. Nhiều người ganh tị nên tìm cách hạ uy tín ông. Vợ con ông qua đời trong những hoàn cảnh thật đau thương.

Lúc này, người nghệ sĩ dồn tất cả niềm đau của mình lên khuôn mặt của Đức Kitô. Bức tượng của Chúa Giêsu trên thập giá không còn là một phiến đá lạnh lùng, xa lạ, mà trở thành niềm đau đậm nét của một tâm hồn. Bức tượng đã trở nên sống động và có sức thu hút do chính tâm tình mà người nghệ sĩ muốn tháp nhập vào (Thiên Phúc, Chuyện hay đông tây, tập 1, tr 159).

Khi gặp những giây phút đen tối, chúng ta hãy bắt chước gương của Abraham trong bài đọc I hôm nay. Thiên Chúa đòi hỏi ông phải hy tế con trai của ông là Isaác. Điều đó làm cho ông khổ tâm và bối rối. Nhưng Abraham vẫn tin cậy vào Chúa, và Thiên Chúa không để ông thất vọng. Thiên Chúa đã chúc phúc và ban ơn cho ông hơn cả những ước mơ của ông (Hr 11:17-19).

Khi bị thử thách, nếu chúng ta tin cậy vào Thiên Chúa giống như Abraham, thì Thiên Chúa sẽ không để chúng ta thất vọng. Và cuối cùng, Thiên Chúa cũng sẽ chúc phúc và ban ân huệ cho ta nhiều hơn những gì chúng ta mơ ước.

Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một (Hr 13:8); Ngài là Đức Giêsu sáng láng trên núi Tabor, cũng là Đức Giêsu mướt máu trong vườn Cây Dầu, và cũng là Đức Kitô đau khổ trên thập giá ở đồi Golgotha. Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường Tình Yêu.

Về mục lục

.

ĐÂY LÀ CON TA YÊU DẤU, HÃY VÂNG NGHE LỜI NGƯỜI

Lm. Nguyễn Thái

Khách du lịch viếng quần đảo Aram Islands của Ái-Nhĩ-Lan đều kinh ngạc và sửng sốt vì có quá nhiều cầu vồng bắt hình vòng cung khắp bầu trời xung quanh những hòn đảo. Ngay khi một cầu vồng này vừa mờ nhạt thì cái khác đã lén lút xuất hiện trên biển khơi ở một phương hướng khác. Có những cái chỉ có một nửa hình vòng cung, những cái khác thì đầy đủ. Có cái mang màu xanh nhạt hòa hợp với màu nước biển. Có những cái xuất hiện với vẻ rực rỡ làm sáng chói cả một vùng trời. Khi có những điều kiện thuận lợi, có rất nhiều cầu vồng cùng xuất hiện một lúc, rực rỡ vô cùng. Không thể nào đếm nổi có bao nhiêu cầu vồng đã xuất hiện trong một ngày. Trong sự kinh ngạc trước vẻ đẹp của những cảnh tượng trước mắt, một người khách du lịch đã hỏi người phụ nữ cư ngụ tại Aram Island nghĩ gì về sự xuất hiện thường xuyên của những cầu vồng như vậy. Người phụ nữ chỉ nhún vai trả lời, “Ôi, chúng tôi không để ý đến chúng.” Đối với người dân cư ngụ tại đây, những cầu vồng đó đã trở nên quá tầm thường rồi!

Mùa Chay là thời gian kêu gọi chúng ta ý thức về tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa được thể hiện trong thế giới chúng ta đang sống. Sự hiện diện rực rỡ của Ngài giữa những khổ đau trần thế. Vẻ đẹp của nhân phẩm con người và giá trị của đời sống tinh thần. Sự rạng rỡ của “sự sống lại từ trong cõi chết.” Giáo hội kêu gọi chúng ta hãy là những du khách chiêm ngắm vẻ đẹp của những cầu vồng này trong cuộc sống với thái độ kinh ngạc và thán phục, đừng có thái độ ỷ lại là Kitô hữu, giống như người dân bản xứ, mà cố ý phớt lờ, không thèm để ý.

Trong Cựu Ước, đỉnh núi cao thường được dùng để diễn tả những cuộc gặp gỡ của Thiên Chúa với con người và mạc khải những điều siêu nhiên. Mô-sê đã đón nhận Mười Điều Răn trên núi Sinai (Ex 19:3-20). Êlia cũng đã trèo lên đỉnh núi Các-men để đón nhận sức mạnh chiến thắng sự dữ (I king 18:20-40). Trong bài Phúc Âm hôm nay, Mác-cô 9:1-9, Chúa Giêsu cũng dẫn ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan lên đỉnh núi cao. Ngài biến hình trước mặt họ. Họ cũng kinh ngạc và thán phục trước vẻ đẹp “từ cõi chết sống lại” của Chúa Giêsu, nhưng trong chiều hướng khác với điều Chúa Giêsu muốn dạy họ. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng, trước khi Chúa Giêsu biến hình trước mặt họ, Ngài đã loan báo cho họ biết rằng Ngài là Đấng Thiên Sai, nhưng Đấng Thiên Sai có nghĩa là phải chịu đau khổ, bị giết chết, và sống lại ngày thứ ba (Mc 9:31). Còn các môn đệ thì cứ nghĩ rằng Đấng Thiên Sai có nghĩa là Đấng sẽ làm vua bá chủ thiên hạ, cai trị muôn dân muôn nước, ngay bây giờ nơi trần thế này, theo như ước nguyện của dân chúng và của họ (Act 1:6; Lc 24:21).

Theo William Barclay, trong tư tưởng của người Do Thái, sự hiện diện của Thiên Chúa cũng thường được liên kết với đám mây nữa (GLCG # 555). Trong đám mây Mô-sê đã gặp gỡ Thiên Chúa, Êlia đón nhận sức mạnh của Thiên Chúa. Và người Do Thái cũng mơ ước khi Đấng Thiên Sai đến, đám mây của sự hiện diện Thiên Chúa sẽ trở lại với Đền Thờ (Xh 16:10; Xh 19:9; Xh 33:9; 1V 8:10; 2Mcb 2:8). Sự ngự xuống của đám mây là một cách nói rằng Đấng Thiên Sai đã đến, và bất cứ người Do Thái nào cũng hiểu như vậy: “Và có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: ‘Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.’”

Với một chút tưởng tượng chúng ta hãy tạm ví Chúa Giêsu như một cha sở họ đạo với ba ông trùm Phêrô, Giacôbê và Gioan. Bốn thầy trò đưa nhau lên núi để cầu nguyện. Ông trùm Phêrô vốn là người chài lưới đánh cá nhà quê, tính tình bộc trực, chất phác. “Có sao nói vậy, không giấu giếm”. Chuyện gì cũng phải lẹ làng, cấp tốc, làm ngay, ăn liền. Vừa thấy cảnh Chúa Giêsu biến hình sáng láng đẹp đẽ, ông trùm Phêrô xin ngay: “Lạy Thầy, nếu được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin làm 3 lều, một cho Thầy, một cho Môi-sen, và một cho Êlia.”

Ông trùm muốn ở lại đây luôn để hưởng ngay cái vinh quang rực rỡ này. Xuống núi làm gì? Khổ lắm! Lên Giêrusalem làm gì? Bị bắt bớ, bị đóng đinh, chịu đau khổ và chết nhục nhã! Tâm thức của ông trùm Phêrô phản ảnh cái tâm trạng của con người ở mọi thời đại. Khoái lạc thì muốn hưởng thụ ngay. Đau khổ thì tìm cách trốn tránh. Muốn hưởng khoái lạc vinh quang ngay trên đỉnh núi, mà e ngại con đường khổ giá dưới chân (GLCG # 555).

Ở Bangkok có một ngôi chùa rất nổi tiếng, tên là Chùa Tượng Phật bằng vàng. Ngôi chùa nhỏ bé với chiều rộng và ngang khoảng 8 mét. Nhưng khi vào bên trong, người ta sẽ rất ngạc nhiên vì một tượng Phật bằng vàng ròng cao khoảng 2m50, cân nặng 2 tấn rưỡi và trị giá khoảng 196 triệu đô la. Ở bên cạnh tượng, có ghi lịch sử của tượng Phật vĩ đại này: Vào năm 1957, thành phố Bangkok được sửa đổi, mở rộng thành phố, nhiều nhà bị giải tỏa để làm siêu xa lộ. Tu viện của các thầy sư cũng bị giải tỏa và tượng Phật vĩ đại bằng đất sét cũng phải bị dời đi chỗ khác. Vào một buổi chiều, khi chiếc cần cẩu cố gắng nâng bức tượng khổng lồ lên, thì bức tượng đã bị nứt ra vì nặng quá. Đồng thời trời cũng bắt đầu đổ mưa, nên các thầy quyết định lấy vải phủ lên bức tượng tránh mưa. Khi trời tối hẳn, mưa ngừng rơi, vị sư trưởng cầm đèn pin ra kiểm soát xem có hư hại gì không. Thầy rọi đèn vào để quan sát. Khi ánh đèn chiếu vào chỗ nứt, thì một luồng sáng phản chiếu. Tò mò vì ánh sáng lạ, thầy đến gần hơn để xem và phát hiện ra có một lớp kim loại ở dưới lớp đất sét. Thầy đi tìm cái đục và cái búa, rồi bắt đầu đục đẽo. Lớp đất sét càng bị rớt dần xuống, thì tia sáng càng sáng dần và lớn hơn. Sau nhiều giờ đục đẽo, cuối cùng, một tượng Phật bằng vàng ròng sáng chói đã xuất hiện trước mặt thầy sư.

Các nhà lịch sử đã tin rằng vài trăm năm trước đây, quân đội Miến Điện xâm lăng Thái Lan. Các nhà sư biết rằng xứ sở của họ sẽ bị tấn công và xâm chiếm, nên đã dùng một lớp đất sét dầy phủ lên bức tượng để che giấu và bảo vệ tài sản của họ tránh khỏi sự cướp bóc của quân đội Miến Điện. Không may, các nhà sư đã bị giết chết hết, cho nên bí mật về bức tượng cũng bị quên lãng cho đến năm 1957 mới tình cờ được khám phá.

Mỗi người chúng ta là một con người được Thiên Chúa dựng nên có linh hồn và thể xác. Thân xác bề ngoài mang thân phận yếu hèn, tội lỗi, và hư nát (1 Cr 15: 42-49). Còn linh hồn thiêng liêng bất tử, được Chúa mời gọi chia sẻ sự sống đời đời. Nhưng qua cái chết của thân xác, con người sẽ sống lại sáng láng và vinh quang giống như Chúa Giêsu đã biến hình. Hình ảnh tượng bằng vàng bị bao phủ bởi lớp đất sét bên ngoài giúp ta ý thức về con người đích thực của mình. Con người đã được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình. Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa” (St 1: 27).

Bởi tội lỗi bao trùm, con người đã bị che lấp hình ảnh đẹp đẽ của Thiên Chúa nơi bản thân, rồi dần dần lại ngủ quên trong tình trạng xấu xa bẩn thỉu ấy (Ep 4:17-20; 1Tx 5:6). Giống như những con trâu đen đủi trầm mình nơi vũng bùn sình êm ái, con người cũng muốn tự dìm mình trong hoàn cảnh ngủ yên của tội lỗi. Tuy dơ bẩn nhưng nó lại tạo ra cảm giác mát mẻ nhất thời, vì thế những con trâu thường không muốn đứng dậy bước ra khỏi vũng sình lầy lội. Con người cũng vậy! (Ga 15:22).

Muốn có một sự biến đổi từ bẩn thỉu sang sạch sẽ, từ đất sét sang vàng, từ tội lỗi yếu đuối sang thánh thiện vinh quang, phải có thời gian khám phá, tu luyện và đục đẽo (Rm 8:18). Phải tốn nhiều công sức. Phải có hy sinh, thử thách để nhân phẩm và giá trị thiêng liêng được tỏ lộ sáng ngời (Ep 5:8). “Chúng ta phải qua nhiều nỗi gian truân mới vào được Nước Thiên Chúa” (Cv 14:22; GLCG # 556).

Mùa Chay là mùa Giáo Hội kêu gọi chúng ta phải trở về với hình ảnh vinh quang và thánh thiện đích thực của mình như Chúa đã tạo dựng con người lúc ban đầu (Cl 3:10). Mùa Chay là mùa lắng nghe tiếng Chúa Giêsu mời gọi: “Hãy hoàn hảo như Cha trên trời của các con là Đấng hoàn hảo” (Mt 5:48).

Về mục lục

.

ĐƯỜNG LỐI CỦA THIÊN CHÚA

VÀ TƯ TƯỞNG CỦA CON NGƯỜI

Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển

Hôm nay, thánh sử Máccô trình thuật câu chuyện Đức Giêsu biến hình. Việc Đức Giêsu biến hình được diễn ra sau khi vị Tông đồ trưởng tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Tuy nhiên, ngay sau khi ông tuyên tín như vậy, Đức Giêsu đã tiên báo cho các ông biết trước về cuộc khổ nạn mà Ngài sẽ phải chịu. Thấy vậy, Phêrô đã can ngăn kịch liệt khi nhân danh Thiên Chúa để bảo vệ Thầy mình, ông nói: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16,22). 

Nhưng Đức Giêsu đã quở mắng cách nặng nề khi nói ông là “Xatan”. Ngài cũng nói thêm: Tư tưởng của Phêrô là tư tưởng của loài người, không phải là tư tưởng của Thiên Chúa.

Chính vì lý do trên, mà hôm nay, Đức Giêsu đã dẫn ba môn đệ thân tín với mình lên núi Tabor và biến hình trước mắt các ông, để qua đó, dần dần Ngài mặc khải và dẫn các ông vào đường lối cũng như tư tưởng của Thiên Chúa. 

  1. Lý do Đức Giêsu hiển dung

Các môn đệ là những người được Đức Giêsu đích thân tuyển chọn làm trợ tá cho Ngài, để rồi mai đây chính Ngài sẽ trao phó Giáo Hội cho các ông, ngõ hầu các ông sẽ tiếp bước đường lối và tư tưởng của Thiên Chúa!

Tuy nhiên, không thể trao phó một công trình vĩ đại, quan trọng, mang tính trường tồn cho những người lơ mơ…, trao phó như thế thì chẳng khác gì “trao trứng cho ác”.

Thiếu hiểu biết và nhiều khi hiểu sai đường lối của Đức Giêsu nơi các môn đệ thật là rõ nét, vì đã có những lúc các ông phỏng chiếu một Đức Giêsu oai phong, quyền lực, chẳng khác gì các vị tướng lãnh chốn trần ai. 

Thế nên, nơi các ông, nhiều lần họ đã đôi co với nhau xem ai là người lớn nhất trong Nước Trời; có những người lại còn dẫn cả mẹ mình đến để năn nỉ kỳ nèo cho được ngồi bên tả và bên hữu trong Nước mà Đức Giêsu sẽ thiết lập; rồi cụ thể như Phêrô, chỉ cách đó có 6 ngày, ông đã đại diện cho anh em để tuyên xưng hùng hồn niềm tin của mình vào Thầy Giêsu, nhưng sau đó, khi nghe thấy Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn mà Ngài sẽ phải chịu, ngay lập tức, ông đã không chần trừ, mà đã khẳng khái lên tiếng can ngăn! Như vậy, các môn đệ là những người kề vai sát cánh bên Đức Giêsu, nhưng tư tưởng của các ông vẫn lè phè dưới đất, chưa vươn lên để hiểu được tâm tư của Thầy mình.

Chính vì những lý do này, nên các ông không thể chấp nhận một Vị Tôn Sư mà mình chọn làm người dẫn dắt, lại là một người thất bại qua cái chết đau thương và nhục nhã trên cây thập tự giá như một tử tội được!

Để giúp các môn đệ, nhất là ba môn đệ thân tín mà sau này chính các ông sẽ là các chứng nhân trong những chuyện đặc biệt, nên Đức Giêsu đã đưa các ông lên núi Tabor để biến hình trước mắt các ông, nhằm củng cố đức tin, ban hành sứ điệp và đưa các ông đi vào đường lối cứu chuộc của Thiên Chúa.

  1. Qua đau khổ mới đến vinh quang

Câu chuyện biến hình được khởi đi từ việc Đức Giêsu dẫn ba môn đệ của mình lên núi, và đang khi Ngài cầu nguyện “rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy  (x. Mc 9, 3).

Bên cạnh Ngài còn có Môsê là người đại diện cho lề luật Cựu Ước, và Elia là ngôn sứ vĩ đại nhất. Cả hai cùng hiện ra và đàm đạo với Đức Giêsu. Điều này cho thấy: toàn bộ lề luật và lời các ngôn sứ đều quy hướng về Đức Giêsu và về cuộc khổ nạn, phục sinh của Ngài như là trung tâm của công trình cứu chuộc mà Thiên Chúa sẽ thực hiện nơi Đức Giêsu! 

Khi thấy diện mạo Đức Giêsu biến đổi và khung cảnh thánh thiêng, huy hoàng tuyệt đẹp như vậy, tâm hồn các ông ngây ngất và lòng các ông hân hoan quá đỗi.

Chắc chắn trong cuộc đời của các ông chưa một lần nào được hạnh phúc như vậy! Vì thế, Phêrô đã thay lời cho Gioan và Giacôbê để thưa lên với Đức Giêsu, ông nói: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Mc 9, 5).

Qua lời đề nghị này của Phêrô, lại một lần nữa, nơi ông toát lên tính hưởng thụ, thực dụng…! Ông muốn được ở lại trong vinh quang với Đức Giêsu mãi mãi và không chịu đối diện với thực tế mà ông và các bạn của ông sẽ còn phải tiếp tục…!!!

Thấy được điều đó, Đức Giêsu đã không để cho các ông rơi vào tình trạng bi đát của tư tưởng: “Thích sướng, ngại khổ”. Nên Ngài đã không những khước từ đề nghị của ông, mà còn mặc khải cho ông hiểu được quy luật tất yếu của Tin Mừng, đó là: “Phải qua đau khổ mới tới vinh quang.”

Sau khi cho các ông lạc vào thiên cung, cho các ông nếm trước vinh quang Thiên Quốc, Đức Giêsu đã mời gọi các ông phải xuống núi.

Xuống núi với anh em, với đồng loại, và với những công việc thường ngày.

Xuống núi để tiếp tục cuộc hành trình theo Thầy của mình. Xuống núi trong tâm tình cảm nghiệm rõ nét con đường mà Thầy đã, đang và sẽ đi, để mai đây chính mình sẽ tiếp bước.

  1. Sứ điệp Lời Chúa

Trong đời sống thực tế của nhiều người nơi cộng đoàn, đã có nhiều lần chúng ta cũng mang trong mình tư tưởng của các Tông đồ khi xưa, đó là: tham sân si; tranh gành địa vị; trọng hình thức mà quên đời sống nội tâm. Nhiều khi gây chia rẽ, lên mặt dạy đời, hay luôn chọn cho mình những công việc nhàn hạ, còn việc nặng nhọc để lại cho người khác. Rồi cũng không thiếu những người theo Chúa, tin Chúa, nhưng theo và tin kiểu công dân hạng hai, tức là lúc thuận tiện thì theo và tin…, nhưng khi gian nan thử thách đến là bỏ giữa chừng và sẵn sàng đi cầu ông nọ, khấn bà kia thay Chúa.

Đôi khi chúng ta cũng có tư tưởng thực dụng như: tìm mọi cách để níu kéo Thiên Chúa về với mình. Thiên Chúa là Đấng ta được hưởng độc quyền, còn người khác, chúng ta luôn muốn Chúa phải thẳng tay để đánh phạt họ…. 

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có tư tưởng của Thiên Chúa thay cho tư tưởng của loài người. Đó là: luôn đặt ý Chúa lên trên hết. Phải biết yêu thương nhau chân thành. Xây dựng tình huynh đệ, hiệp nhất và bình an. Sẵn sàng kề vai sát cánh bên nhau cả những công việc nhẹ nhàng lẫn công việc nặng nề. 

Biết đón nhận những đau khổ, thử thách trong đời sống đạo với tâm tình: Mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Thiên Chúa” (Rm 8,28). Và: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Sẵn sàng lột xác để biến đổi, để từ con người ích kỷ, thành bao dung; từ chỗ thực dụng thành vô vị lợi; từ chỗ chỉ biết nghĩ đến mình, thì giờ đây biết nghĩ đến người khác; từ chỗ muốn được hạnh phúc và sung sướng mà không chấp nhận đau khổ, thành một người mang trong mình tư tưởng của Thiên Chúa và đi vào đường lối của Đức Giêsu đã đi, đó là: “Qua đau khổ mới đến vinh quang”.  

Muốn thực thi được những điều trên, quan trọng nhất, chúng ta phải biết lắng nghe lời Đức Giêsu, thi hành điều Ngài dạy và đi theo Ngài trên chính con đường mà Ngài đã đi khi xưa.

Lạy Chúa Giêsu, chắc chắn đã có nhiều lần chúng con như các môn đệ khi xưa, đó là: chỉ thích sung sướng, hạnh phúc mà không biết đón nhận khổ đau. Xin Chúa khai trí mở lòng chúng con, để chúng con hiểu được đường lối cũng như tư tưởng của Chúa, từ đó, biết đi theo Chúa trên chính con đường mà Ngài đã đi để được sống đời đời. Amen. 

Về mục lục

.

VÔ ĐIỀU KIỆN

Trầm Thiên Thu

Trong đời sống hàng ngày, vâng lời là điều không dễ thực hiện, nói thẳng ra là rất khó. Tại sao vậy? Bởi vì “cái tôi” luôn to lớn khiến người ta tự ái, cảm thấy vâng lời người khác là yếu thế, bị lép vế.

Khó vâng lời không có nghĩa là không thể vâng lời, khó mà làm được mới đáng khen, thế nên vâng lời là một nhân đức quan trọng, nhất là đối với các Kitô hữu. Đức vâng lời liên quan đức khiêm nhu. Chính Chúa Giêsu đã nêu gương: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha” (Mt 26:42).

Dẹp được “cái tôi” là vượt qua chính mình để sẵn sàng vâng lời – vô điều kiện chứ không có điều kiện, thì dễ nên thánh. Ngày xưa, ông Samuel đã đặt vấn đề với vua Sa-un: “Đức Chúa có ưa thích các lễ toàn thiêu và hy lễ như ưa thích người ta vâng lời Đức Chúa không? Này, vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu” (1 Sm 15:22; x. Tv 50:8-9). Đức vâng lời rất quan trọng! Thật vậy, vâng lời là một trong ba (hoặc bốn, hoặc năm, tùy dòng) lời khấn của các tu sĩ: Vâng lời, khó nghèo, khiết tịnh (thanh tuân, thanh bần, thanh tịnh). Trong đời sống gia đình và xã hội, con cái phải biết vâng lời cha mẹ, người nhỏ phải biết vâng lời người lớn, nhân viên phải biết vâng lời giám đốc,… Nếu không vâng lời thì mọi thứ mất trật tự.

Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên – chỉ ba người thôi cũng có người có thể làm thầy, tức là người đó có thể hướng dẫn người khác, và chắc hẳn hai người kia phải nghe theo lời hay lẽ phải của họ. Tất nhiên vâng lời phải theo nghĩa tích cực, không thể vâng lời khi người trên dạy làm sai do độc đoán, áp chế.

ĐỪNG ĐẮN ĐO !

Đức vâng lời của tổ phụ Ápraham thật là tuyệt vời, không so đo, không nghi ngờ, không thắc mắc. Trình thuật St 22:1-2, 9-13, 15-18 cho biết về đức tin tuyệt đối của ông.

Sau một thời gian, hết chuyện nọ tới chuyện kia, Thiên Chúa tiếp tục thử lòng ông Ápraham. Nghe Đức Chúa gọi đúng tên và ông liền thưa: “Dạ, con đây!”. Ngài truyền lệnh: “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Ixaác, hãy đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho”.

Ông Ápraham chỉ có một đứa con cầu con khẩn, một con trai rất yêu dấu, mà theo tục lệ Do Thái, “anh Hai” rất quan trọng vì là con thừa tự và có quyền trưởng nam, thế mà Thiên Chúa lại bảo dâng chính đứa con đó làm lễ toàn thiêu. Căng quá! Thế nhưng ông Ápraham vẫn không hề đắn đo, không hề thắc mắc, không hề nghi ngờ, không hề tiếc nuối, mà ông lại sẵn sàng tuân phục lệnh truyền của Thiên Chúa một cách mau mắn, dứt khoát, không chút ngần ngại hoặc chần chừ.

Quyết định và làm ngay. Ông chuẩn bị mọi thứ và dẫn con trai theo. Khi tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Ápraham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói Ixaác con ông lại, và đặt lên đống củi trên bàn thờ. Rồi ông Ápraham lấy dao để sát tế con mình. Gay cấn quá! Nhưng sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi đích danh ông, và ông cũng lại liền thưa: “Dạ, con đây!”. Ông nghe tiếng Người nói: “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!”. Ôi, một niềm tin trong ngần như pha lê và hoàn toàn tuyệt đối. Nhờ niềm tin như vậy mà ông được kể là người công chính.

Thật là trên cả tuyệt vời! Ông Ápraham ngước mắt lên nhìn, ông thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông Ápraham liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình. Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Ápraham một lần nữa và nói: “Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: Bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính vì ngươi đã vâng lời Ta”. Thiên Chúa hứa bất cứ điều gì thì đều ứng nghiệm và nên trọn.

Cũng dễ hiểu rằng người ta càng tin tưởng thì càng dễ dàng dứt khoát và mau mắn vâng lời. Thánh vịnh gia đã bộc bạch: “Tôi đã tin cả khi mình đã nói: Ôi nhục nhã ê chề!” (Tv 116:10). Bị nhục nhã ê chề mà còn tin được sao? Thật khó quá! Đúng vậy, thường thì chúng ta chỉ tạ ơn Chúa khi mình được ơn này, ơn nọ, vì thấy “hợp ý mình”, còn nếu “trái ý mình” thì chắc hẳn chúng ta không muốn tạ ơn Chúa, cho vậy là “phi lý”, thậm chí có người còn có thể trách Chúa.

Tuy nhiên, nếu suy cho thấu đáo, chúng ta sẽ khả dĩ chân nhận tất cả đều là Hồng ân Thiên Chúa, bởi vì như Thánh Vịnh gia xác định: “Thân này là tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi” (Tv 116:16). Do đó, chúng ta càng phải biết “dâng lễ tạ ơn, và kêu cầu thánh danh Đức Chúa” (Tv 116:17). Vâng lời và tạ ơn Chúa không chỉ là bổn phận mà còn là niềm hãnh diện và hạnh phúc của mỗi chúng ta – những “hạt bụi” nhỏ bé nhưng vẫn đáng giá vì được Thiên Chúa tạo nên.

Quả thật, hạt bụi phàm nhân trở nên hạt ngọc của Thiên Chúa. Lạ lùng lắm! Trong trình thuật Rm 8:31-34, Thánh Phaolô đặt ra một loạt câu hỏi: “Vậy còn phải nói gì thêm nữa? Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?”.

Và chính những câu hỏi đó cũng chính là những câu trả lời rạch ròi và chính xác về thân phận của chúng ta. Đúng là không phải nói gì thêm nữa! Vô tri bất mộ – không biết chẳng yêu, nhưng một khi biết rồi thì không thể không yêu mến, không cậy tin, và không ngần ngại xác định: “Giờ đây con biết đợi trông gì, lạy Chúa, hy vọng của con đặt ở nơi Ngài” (Tv 39:8).

CON CỦA CHÚA

Trình thuật Mc 9:2-10 (tương đương Mt 17:1-8; Lc 9:28-36) kể lại cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi Tabor. Hôm đó, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo tới một ngọn núi cao. Bỗng nhiên Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Ngài mặc trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Các ông còn thấy có ông Êlia và ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu. Các ông được thấy “hiện tượng lạ” không chỉ là người “may mắn” mà còn là người có trọng trách nặng nề hơn, đó là sự công bằng. Thật vậy, bất cứ tặng phẩm nào cũng gắn liền với trách nhiệm nào đó, như tục ngữ Việt Nam nói: “Cây càng cao, gió càng lay”. Biết vậy để khiêm nhường chứ không để ỷ lại mà kiêu sa.

Được tận mắt chứng kiến sự lạ lùng đó, ông Phêrô rất phấn khởi, đến nỗi ông phải thưa ngay với Sư Phụ Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia”. Chắc chắn không ai có thể trì hoãn sự sung sướng, nhất lạ khi hưng phấn cao độ. Vừa kinh hoàng vừa hạnh phúc tột đỉnh bởi vì được “nếm thử” vinh quang Thiên Đàng, ông Phêrô không còn nhớ đến hai anh bạn bên cạnh và quên luôn cả chính mình, chỉ muốn dựng lều cho Chúa Giêsu, cho ông Môsê và ông Êlia mà thôi.

Sự lạ nối tiếp, sự ngạc nhiên cũng nối tiếp. Bất chợt có đám mây bao phủ các ông, và có tiếng nói vọng ra: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Chính Thiên Chúa truyền dạy chúng ta phải vâng lời Đức Kitô – Đấng vừa là “Con Cưng” của Chúa Cha vừa là Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng vẫn thực hiện đức vâng lời tuyệt đối. Điều đó chứng tỏ Thiên Chúa rất quý trọng đức vâng lời, và chính Ngài cũng “đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5:8). Không hề đơn giản, và cũng không thể cứ tà tà hoặc cứ khơi khơi mà “thuộc lòng” bài học vâng phục để có thể thành nhân!

Niềm vui sướng trào dâng, niềm hạnh phúc đang lâng lâng khó tả, tuyệt vời biết bao! Nhưng bất chợt các ông nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi. Hẳn là các ông còn dư âm niềm hạnh phúc ấy và chắc là tiếc những giây phút kia lắm. Ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó nên giữ bí mật riêng, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì. Con người thật yếu đuối, vừa thấy nhãn tiền vinh quang Nước Trời mà vẫn chưa đủ lòng tin!

Hạnh phúc không thể dừng lại ở đó – trên đỉnh Tabor, mà hạnh phúc còn phải trải qua nhiều đau khổ cho tới đỉnh Can-vê – nơi tang thương và chết chóc: chết cho chính mình, chết cho tha nhân và chết vì Chúa. Tình yêu nào không tiết ra chất hy sinh thì không là tình yêu đích thực, và cũng không thể có hạnh phúc thật. Chắc chắn như vậy!

Trình thuật Lv 19:11-18 nói về luật luân lý, cũng có thể coi như Luật Chay, bởi vì giữ chay là sống đúng các nguyên tắc về luân lý. Luật đó được ấn định qua 13 mệnh lệnh phủ định với chữ KHÔNG và 2 mệnh lệnh xác định với chữ PHẢI. Kinh Thánh ghi rõ:

“Các ngươi KHÔNG được trộm cắp, không được nói dối, KHÔNG được lừa gạt đồng bào mình. Các ngươi KHÔNG được lấy danh Ta mà thề gian: làm thế là các ngươi xúc phạm đến danh Thiên Chúa của các ngươi. Ta là Đức Chúa. Ngươi KHÔNG được bóc lột người đồng loại, không được cướp của; tiền công người làm thuê, ngươi KHÔNG được giữ lại qua đêm cho đến sáng. Ngươi KHÔNG được rủa người điếc, đặt chướng ngại cho người mù vấp chân, nhưng phải kính sợ Thiên Chúa của ngươi, Ta là Đức Chúa. Các ngươi KHÔNG được làm điều bất công khi xét xử: KHÔNG được thiên vị người yếu thế, cũng KHÔNG được nể mặt người quyền quý, nhưng hãy xét xử công minh cho người đồng bào. Ngươi KHÔNG được vu khống những người trong dòng họ, không được ra toà đòi người đồng loại phải chết. Ta là Đức Chúa. Ngươi KHÔNG được để lòng ghét người anh em, nhưng PHẢI mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó. Ngươi KHÔNG được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi PHẢI yêu đồng loại như chính mình. Ta là Đức Chúa”.

Thực thi Luật Chay nhưng phải đúng cách, không thể theo kiểu đại khái hoặc cho qua lần, chiếu lệ. Thiên Chúa cảnh báo qua ngôn sứ Isaia: “Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách (Is 58:3b-4).

Thiên Chúa yêu thương và tha thứ cho chúng ta vô điều kiện: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34). Như vậy, chúng ta cũng PHẢI ăn chay, đền tội, và tha thứ cho tha nhân vô điều kiện: “Anh em đã ĐƯỢC CHO KHÔNG thì cũng PHẢI CHO KHÔNG như vậy” (Mt 10:8). Đó là cách chứng tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa tuyệt vời khiến Ngài vui lòng chúc lành cho chúng ta – hôm nay và mãi mãi.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết sống khiêm nhường và vâng lời, đồng thời xin ban cho con thêm đức Tin, đức Cậy và đức Mến, để con có thể làm đẹp lòng Ngài và làm vui lòng tha nhân. Con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Thánh Tử Yêu Dấu của Cha, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận