Các bài suy niệm Chúa Nhật V Mùa Chay

Đăng lúc: Thứ sáu - 16/03/2018 14:52 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

 

CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY_B

Lời Chúa: Gr 31,31-34;  Dt 5,7-9;  Ga 12,20-33

——-

 

DẪN NHẬP

 

Lời Chúa: "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt" (Ga 12,24).

Nhập lễ:

Kính thưa cộng đòan phụng vụ,

Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 5 mùa chay hôm nay cho chúng ta thấy, tình yêu Thiên Chúa được tỏ hiện nơi Chúa Giêsu khi Người chấp nhận cái chết trên thập giá là vinh quang của Người. Người chấp nhận chết đi cho tội lỗi loài người để đem lại cho chúng ta sự sống đời đời:

Cũng như hạt lúa thối đi,

Xác thân của Chúa chết vì tội nhân.

Cho ta cuộc sống canh tân,

Với bao hoa trái muôn phần tốt sinh.

Ta nay hãy biết hy sinh,

Noi gương Con Chúa phúc vinh muôn đời.

Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta nhận ra cái chết của Chúa Kitô mang đến cho loài người ơn cứu độ. Xin cho chúng ta biết đáp lại tình yêu của Người cỏi bỏ con người cũ của mình mà mặc lấy con người mới trong tình yêu của Chúa Kitô. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.

Sám hối:

X. Lạy Chúa, Chúa là giao ước tình yêu được ký kết bằng giá máu của Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

X. Lạy Chúa Kitô, Chúa chấp nhận cái chết trên thập giá để làm vinh danh Chúa Cha. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

X. Lạy Chúa, Chúa đã vâng phục Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá để cứu độ chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.

CĐ: Amen.

Suy niệm:

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Cuộc sống của dân Israel cũng như cuộc sống của mỗi người luôn bị giằng co giữa Thiên Chúa và thế tục. Hứa trung thành với Chúa nhưng rồi lại bỏ Chúa. Khi giải thoát dân Israel khỏi ách nô lệ của Ai cập, Thiên Chúa đã ký kết với họ một Giao ước ở chân núi Sinai vào khoảng thế kỷ 13 trước công nguyên qua Môsê. Theo đó, Thiên Chúa nhận dân Israel làm dân riêng của Ngài và luôn bảo vệ họ; còn dân Israel nhận Thiên Chúa là Chúa duy nhất họ tôn thờ và hứa trung thành phụng sự Ngài. Giao ước đó đã được khắc lên hai bia đá để giúp dân tuân giữ. Giao ước ký kết giữa Thiên Chúa và loài người là một giao ước tình yêu.

Thưa anh chị em, được vào đất hứa với bao vui sướng: đất đai phì nhiêu, đời sống thoải mái khác xa những ngày lang thang trong hoang địa. Nhưng đồng thời lại do tiếp cận với nếp sống cầu an, hưởng thụ, dân Israel đã sớm phá vỡ giao ước ấy, nghĩa là chối bỏ, phản bội, bất trung, không chấp nhận tình yêu ấy nữa và kết quả khiến cơn thịnh nộ của Thiên Chúa trút xuống toàn dân, đền thờ bị tàn phá, đất nước bị sâm chiếm, dân chúng bị bắt đi lưu đày ở Babylon. Chính trong bối cảnh lịch sử bi đát đó, dù dân Israel có bất trung phản bội, Thiên Chúa vẫn luôn trung thành. Ngài đã nhờ tiên tri Giêrêmia loan báo Thiên Chúa sẽ lập một giao ước mới và vĩnh cửu: Giao ước mới này không khắc ghi lên hai bia đá mà ghi tận đáy lòng, ghi trong tâm hồn con người. Kết quả của việc ghi luật mới vào tâm hồn là Thiên Chúa tha thứ cho họ, xóa bỏ sự gian ác của họ, không còn nhớ đến tội lỗi của họ nữa: “Mọi người từ lớn chí nhỏ đều nhìn biết Ta”“Ta sẽ tha tội ác của chúng và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng”. Giao ước tình yêu này được ký kết thật sự trong máu Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô đổ ra trên thập giá. Tình yêu Thiên Chúa được tỏ hiện nơi Chúa Giêsu khi Người chấp nhận cái chết trên thập giá là vinh quang của Người. “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt”. Khi chấp nhận mục nát như hạt lúa gieo vào lòng đất với cuộc Vượt Qua trên thập giá là vinh quang của Người, Chúa Giêsu đã sống trọn vẹn mầu nhiệm tự hủy nơi bản thân mình. Chính nhờ sự vâng phục trọn vẹn đó mà Chúa Giêsu khi hoàn tất “Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những ai tùng phục Người”.

Có một câu chuyện kể rằng, Đức Hồng y Veuillet, Tổng giám mục Paris, khi biết mình bị ung thư và sắp chết, đã nhắn nhủ các linh mục của ngài như sau: “Chúng ta nói rất hay về sự đau khổ. Bản thân tôi cũng đã làm như vậy. Thế nhưng, giờ đây tôi xin các linh mục đừng nói gì về vấn đề ấy nữa, bởi vì chúng ta không hề biết đau khổ là gì. Tôi đã phải khóc lên vì nó”.

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Đứng trước đau khổ, trước khó khăn thử thách, con người tự nhiên ai cũng chùn bước. Đức Hồng y Veuillet, Tổng giám mục Paris, khi biết mình bị ung thư và sắp chết cũng không thoát được thử thách đó. Chúa Giêsu cũng không là một ngoại lệ, như chúng ta thấy Người cầu nguyện trong vườn Cây Dầu. Nhưng Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi sự vì Người yếu mến và vâng phục thánh ý Chúa Cha. Sự vâng phục này được thể hiện qua việc Chúa Giêsu sẵn lòng chịu khổ nạn đến mức chịu chết và chết trên thập giá để cứu độ loài người. Đây là chìa khoá để giúp mỗi người chúng ta vượt qua những gian nan thử thách: yêu mến và thi hành thánh ý Chúa.

Nguyện xin Chúa giúp chúng ta biết tận dụng những ngày còn lại của mùa chay thánh này trở về với Thiên Chúa là Đấng vì yêu thương đã chết thay cho tội lỗi của chúng ta để chúng ta được sống. Xin cho chúng ta biết vâng nghe thánh ý Chúa trong đời mình, biết quảng đại hy sinh để kiến tạo niềm vui và hạnh phúc cho nhau. Amen.

là Ðấng đã chết cho người mình yêu,

Thiết tưởng, mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy sống cao đẹp hơn. Hãy hy sinh niềm vui của mình, những đam mê sở thích của mình để đem lại niềm vui cho những người chúng ta yêu mến. Thiết tưởng mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy sống đúng với phẩm giá làm người của mình là biết sống vì hạnh phúc tha nhân. Chúa đã tạo dựng Eva vì niềm vui của Adam. Chúa cũng tạo dựng chúng ta vì niềm vui của thân nhân. Xin Chúa là Ðấng đã chết cho người mình yêu, giúp chúng ta biết quảng đại hy sinh để kiến tạo niềm vui và hạnh phúc cho nhau. Amen.

Bài đọc sau đây nhấn mạnh việc Đức Giêsu hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha để thực hiện chương trình cứu độ.

 

Qua đau khổ đến vinh quang. Bài Tin Mừng mời gọi tôi đón nhận những khó khăn thử thách của cuộc sống trong niềm tin tưởng và hy vọng, để hướng đến một tương lai trong đó tôi được cùng chiến thắng với Đức Kitô.

 

a) Suy tư:

         Trong bối cảnh xã hội ngày hôm nay, thập giá của Đức Giêsu dường như ngày càng trở nên khó hiểu, khó chấp nhận hơn  đối với con người, vì họ mong muốn một cuộc sống sung túc, ổn định trong sự đảm bảo của tiền bạc, của tiện nghi vật chất, hơn là tìm ý nghĩa của cuộc sống trong đau khổ của thập giá Đức Giêsu. - Đối với tôi, tôi có thật sự nhận ra vinh quang nơi thập giá của Đức Giêsu để can đảm chấp nhận mọi khó khăn, thử thách gnhiệt ngã xảy đến cho tôi không, hay tôi lại cũng chỉ muốn một cuộc sống theo Chúa thoải mái, dễ dãi?

         Giáo lý của Chúa Giêsu đưa ra hoàn toàn trái ngược với cách suy nghĩ của con người. Theo Đức Giêsu là đi trên con đường từ bỏ, hiến thân, cho đi, chết cho tha nhân. Và ta chỉ có thể hiểu được, chấp nhận được giáo lý này nếu ta mặc lấy tình yêu, tấm lòng của chính Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã sống những điều đó và Ngài cũng mời gọi mỗi người chúng ta bước đi theo Ngài trên con đường tự hiến.

         b) Minh hoạ:

Vào lúc cao điểm của trận chiến, đường dây thông tin thiết yếu giữa một sư đoàn và tổng hành dinh bộ tham mưu quân đội bị cắt đứt. Đường dây bị trái phá của quân thù cắt đứt ở một chỗ nào đó và cần được sửa chữa lập tức với bất kỳ giá nào.

Chỉ có duy nhất một nhân viên điện báo vào lúc đó và anh đã ra đi để tìm chỗ bị đứt và nối nó. Ít phút sau, những thông tin bắt đầu xuất hiện trở lại. Thế nhưng một giờ sau, anh vẫn chưa trở lại. Một nhóm người được sai đi tìm anh. Anh ta được tìm thấy đang nằm bên cạnh đường dây, tay đang cầm hai đầu dây bị đứt. Một vết thương lớn vì trái phá ở trên ngực làm anh ta chảy máu đến chết…

4. Gợi ý nguyện gẫm:

Hiệp dâng Thánh lễ hôm nay, xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết chết đi cho tính ích kỷ, nhút nhát, kêu ngạo, ghen ghét và tội lỗi, để ai cũng được sống hạnh phúc với Chúa.

Lạy Đức Giêsu, Chúa đã hy sinh mạng sống để chúng con được sống thật. Xin Chúa đánh tan thói ích kỷ, sợ khó, và nâng đỡ sự yếu hèn của chúng con, để chúng con trở thành môn đệ thực sự của Chúa, biết sẵn sàng hy sinh phục vụ mọi người chung quanh chúng con. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

 

Mục lục

1. Huyền nhiệm sự sống  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Hạt lúa mục nát  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Hạt lúa mì có thúi đi  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

4. Theo Thầy  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

5. Mẹ lạnh lắm phải không? (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

6. Nỗi lòng Cha  (Anna Cỏ May, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

7. Được tôn vinh  (Bông Hồng Nhỏ, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

8. Chính khi hiến thân là khi nhận lãnh (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

9. Hiến tế  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

10. Con đường hạt lúa (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

11. Mục nát đi để trổ sinh dồi dào bông hạt (Tu sĩ Jos.Vinc.Ngọc Biển,SSP)

12. Suy niệm Chúa Nhật 5 Mùa Chay_B  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

13. Suy niệm Chúa Nhật 5 Mùa Chay_B.  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

14. Hạt lúa mì gieo vào lòng đất  (Lm. Giuse Phạm Quốc Phong, SDB)

15. Hành trình tự hủy (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

16. Giờ Con Người được tôn vinh  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

17. Hành trình sinh tử (Trầm Thiên Thu)

18. Trao ban và nhận lãnh  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

19. Vinh quang trong khổ nhục   (Lm. Đinh Lập Liễm)

20. Hạt lúa mì rơi xuống đất thối đi (Lm. Nguyễn Thái)

21. Chịu mục nát hay vẫn trơ trọi?  (Lm. Trịnh Ngọc Danh)

22. Hạt lúa gieo vào lòng đất  (JM. Lam Thy, ĐVD)

23. Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất (Fx. Đỗ Công Minh)

24. Suy niệm chú giải Lời Chúa Chúa Nhật 5 Mùa Chay(Lm. Inhaxio Hồ Thông)

 

 

HUYỀN NHIỆM SỰ SỐNG

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Sự sống quanh ta thật huyền nhiệm. Từ con người đến muôn vật cỏ cây, mỗi loài mỗi kiểu, hết thảy đều mang trong mình sự sống. Nhờ sự sống mà muôn loài tăng trưởng và hoạt động. Tuy vậy, một điều xem ra là nghịch lý, đó là sự sống không dừng lại khi ta chết, nhưng lúc chết đi lại là lúc khởi đầu sự sống mới. Lời Chúa hôm nay muốn khẳng định với chúng ta điều ấy.
 
Mùa Chay cũng được gọi là Mùa Thương Khó, vì đây là thời gian giúp chúng ta suy niệm cuộc khổ nạn và sự chết của Đức Giêsu. Chúng ta tôn vinh thập giá là phương tiện qua đó Đức Giêsu giới thiệu tình thương yêu vô bờ bến của Chúa Cha. Đức Giêsu đã hiến chính bản thân mình làm của lễ dâng lên Đức Chúa Cha, xin ơn tha tội cho loài người. Sự sống và hạnh phúc của con người được phát sinh và tuôn chảy từ cây thập giá, tức là từ sự chết của Chúa Giêsu. Ơn cứu độ dồi dào như mạch suối trào tuôn từ chính vết thương ở cạnh sườn của Người. Chính từ vết thương này phát sinh Giáo Hội và các Bí tích. Hai ngàn năm nay, Đấng chịu khổ hình trên thập giá đã lôi kéo biết bao người ra khỏi tối tăm để đến với ánh sáng, ra khỏi tội lỗi để đạt tới sự thánh thiện, ra khỏi hận thù để thực thi đức yêu thương.
 
Khi nói về hạt lúa mục nát, Chúa Giêsu muốn nói về cái chết của chính mình. Người không bị tiêu diệt do sự chết. Trái lại, như hạt lúa chấp nhận mục nát rồi nảy mầm kết trái, Người cũng sẽ trỗi dậy từ nấm mồ để ban sự sống cho con người. Giáo lý Công giáo dạy chúng ta: sự chết của Chúa Giêsu mang ơn cứu độ cho loài người. Người đã chết để chúng ta được sống. Người đã trở nên nô lệ để chúng ta được tự do. Người đã dùng cây thập giá để cứu độ trần gian, xóa bỏ bản án nguyên tội. Thập giá vừa nói với ta về tình yêu Thiên Chúa, vừa dạy ta biết sống vì người khác để đem niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân.
 
Như thế, triết lý “hạt lúa mục nát” được đề nghị cho tất cả những ai muốn cất bước theo Đức Giêsu. Sự hy sinh này, đối với một số người, đã trở nên điều nghịch lý:
 
-Sẵn sàng hy sinh mạng sống thì sẽ giữ được nó mãi mãi
-Khư khư giữ lấy nó, sẽ bị mất muôn đời.
 
Nếu hạt lúa vẫn nằm yên bất động sau khi được gieo xuống thì niềm trông đợi của bác nông phu sẽ trở nên vô vọng. Nếu thân xác Đức Giêsu vẫn cứ tồn tại trong nấm mồ, thì nhân vật Giêsu sẽ còn gì để nói với chúng ta. Chính trong hạt lúa mục nát mà ta thấy sự sống mới; chính nhờ ngôi mộ trống mà chúng ta thấy niềm hy vọng.
 
Hạt-Lúa-Giêsu đã mục nát để phục sinh và đâm bông kết trái. Hạt lúa ấy đã trở nên bánh ăn để nuôi dưỡng chúng ta.
 
Hình ảnh hạt lúa mì cũng chứa đựng giáo huấn của Chúa Giêsu về định mệnh con người. Thiên Chúa dựng nên con người để cho họ được sống và được hạnh phúc, chứ không phải để chấm dứt với nấm mộ cô đơn lạnh lẽo nơi đồng hoang. Dưới nhãn quan của người Kitô hữu, sự chết là một cửa ngõ để họ bước vào đời sau. Tuy vậy, hạnh phúc vĩnh cửu chỉ dành cho người công chính, tức là những ai mến Chúa yêu người.
 
Không phải đợi đến khi chết mời được hưởng hạnh phúc Chúa ban. Lời Chúa hôm nay như một lời hứa phục hồi ngay ngày hôm nay, trong cuộc sống hiện tại. Ý tưởng này được diễn tả trong bài đọc trích sách ngôn sứ Giêrêmia: “Mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Ta, vì Ta sẽ tha tội ác của chúng, và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng”. Đây là những lời an ủi của Chúa đối với dân Do Thái trong bối cảnh gian nan và tuyệt vọng. Chúa hứa với họ sẽ giúp họ hồi sinh. Mặc dù trong bối cảnh tăm tối, Chúa sẽ ban cho họ một tương lai sán lạn huy hoàng.
 
Thời đại huy hoàng mà Chúa đã hứa qua lời ngôn sứ Giêrêmia đã được thực hiện khi Chúa giải phóng dân Người khỏi cảnh lưu đày. Nhưng đặc biệt hơn nữa, thời đại huy hoàng ấy, Thiên Chúa đã thực hiện trong Đức Giêsu Kitô, qua cái chết và sự phục sinh của Người. Tác giả thư Do Thái đã khẳng định: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người”(Bài đọc II).
 
Huyền nhiệm sự sống mời gọi chúng ta nhận ra Đức Giêsu là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Huyền nhiệm ấy cũng nhắc nhớ chúng ta, hãy biến đổi mỗi ngày trong hành trình phụng sự Chúa, để sự sống siêu nhiên lớn dần trong cuộc đời trần gian. Để được như thế, con người cũ phải chấp nhận chết đi. Đó chính là thông điệp của giáo huấn qua hình ảnh hạt lúa mì.

Về mục lục

.

HẠT LÚA MỤC NÁT

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt.

Mùa Xuân năm ấy, có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong thửa đất màu mỡ. Hạt giống thứ nhất hăng hái nói: “Tôi muốn mọc lên! Tôi muốn cắm rễ sâu xuống lòng đất, và đâm chồi xuyên qua lớp đất cứng bên trên. Tôi muốn vươn lên những búp non mơn mởn như những lá cờ loan báo mùa xuân đã đến… Tôi muốn cảm nhận hơi ấm của mặt trời mơn man trên mặt và hơi nước mát lạnh của sương mai trên những cánh hoa”. Và nó đã mọc lên xanh tốt.

Hạt giống thứ hai tự nhủ: “Mình sợ lắm! Nếu cắm rễ xuống đất, mình chẳng biết sẽ gặp gì trong lòng đất tối tăm. Nếu mình tìm đường xuyên qua lớp đất cứng bên trên, biết đâu những chồi non yếu ớt của mình sẽ bị thương tổn… Làm sao mình có thể cho búp non xòe lá khi một chú sâu đang chờ sẵn để xơi tái đọt lá xanh non? Và nếu mình nở hoa, một em bé có thể nhổ đứt mình lên! Không, tốt hơn mình nên đợi cho đến lúc an toàn hơn”. Và nó tiếp tục đợi chờ… Một sáng đầu xuân, cô gà mái bới đất kiếm ăn đã thấy hạt giống đang nằm chờ đợi. Cô chẳng đợi gì mà không mổ lấy, nuốt ngay.

Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng với đời sống cây cỏ. Muốn có thóc lúa trong mùa gặt, ta phải ném hết lúa giống xuống ruộng trong mùa gieo. Muốn có rau xanh trong bữa ăn, ta phải đổ hết hạt giống xuống vườn. Cứ khư khư hạt giống trong kho, ta sẽ chẳng có rau, cũng chẳng có thóc. Hạt giống gieo xuống cứ nằm trơ trơ trên mặt đất sẽ chẳng ích lợi gì. Nó phải chịu vùi sâu trong lòng đất, hút lấy nước, tắm trong phân bón, mục nát đi thì mới mọc lên thành cây mới, sinh nhiều hoa quả.

Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng đối với đời sống tự nhiên của con người. Mục nát ở đây có nghĩa là phải chịu vất vả khó nhọc. Người nông dân muốn có một mùa gặt bội thu, phải thức khuya dậy sớm, dầm mưa dãi nắng chăm chỉ cầy bừa. Người học sinh muốn đỗ đạt vinh quang, phải từ bỏ những giờ vui chơi với bạn bè, đêm đêm chong đèn miệt mài kinh sử.

Mục nát ở đây cũng có nghĩa là phải chịu đau đớn với những từ bỏ. Bào thai muốn phát triển thành một con người, phải từ bỏ lòng mẹ nơi nó được cưu mang an toàn. Em bé muốn nên người phải từ bỏ cha mẹ và những người thân để vào trường học tập. Học sinh muốn phát triển cao phải từ bỏ trường làng đầy kỷ niệm đẹp tuổi thơ để ra tỉnh, lên đại học. Thanh niên thiếu nữ đến tuổi trưởng thành cũng phải từ bỏ cha mẹ, từ bỏ mái ấm gia đình để sống tự lập trong đời sống tu trì hoặc trong đời sống hôn nhân. Đời sống con người là một chuỗi dài những từ bỏ. Từ bỏ nào cũng gây đớn đau. Nhưng chính nhờ những từ bỏ đau đớn ấy mà người ta lớn lên thành người. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà gia đình và xã hội luôn phát triển. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà cuộc sống trở nên tươi đẹp, phong phú và ý nghĩa hơn.

Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này tuyệt đối đúng với đời sống thiêng liêng. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình.

Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những con người. Những đồ vật, những nơi chốn lôi kéo ta phạm tội. Những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy như gắn chặt vào ta, như là một phần đời sống của ta. Dứt bỏ những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy khiến ta đau đớn như chết đi một phần đời mình. Đó là những mất mát to lớn. Nhưng nếu ta chấp nhận những “cái mất” hiện tại, ta sẽ có những “cái được” trong tương lại. Nếu ta dám chấp nhận những “cái mất” chóng qua, ta sẽ có những “cái được” vĩnh cửu.

Đời sống thiêng liêng hệ tại việc kết hợp với Chúa. Ta chỉ kết hợp trọn vẹn với Chúa khi ta từ bỏ ý riêng mình để làm theo ý Chúa. từ bỏ ý riêng nhiều khi là một cuộc chiến đấu khốc liệt với chính bản thân mình. Hãy nhìn Đức Giêsu trong vườn Giệt-si-ma-ni. Cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha khiến Người đau đớn đến đổ mồ hôi máu ra. Nhưng chính nhờ từ bỏ ý riêng mà ta trở nên con yêu dấu của Chúa. Chính nhờ làm theo ý Chúa mà ta trổ sinh hoa trái. Từ bỏ bản thân, ta đi đến đích điểm đời mình là được kết hiệp với Chúa. Bấy giờ ta có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Chúa sống trong tôi”. Ta chịu mất bản thân mình để được chính Chúa. Ta chịu mất điều tầm thường để được điều cao cả. Ta chịu mất trần gian để được thiên đàng.

“Lạy Chúa Giêsu, khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng, chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống đã âm thầm chịu nát tan, để trao cho đời cây lúa trĩu hạt. Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay, là do sự hy sinh quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên cứu, của các người rao giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc. Đã có những người sống như hạt lúa, để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân. Nhờ công lao của bao người, chúng con được làm hạt lúa. Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ. Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày. Để chọn tha nhân và Thiên Chúa, chúng con phải chết cho chính mình. Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm Vượt Qua đi từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước Đấng Tuyệt đối và tha nhân. Amen. (Manna 85).

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào nơi vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào khó hơn cả.

2- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống cây có?

3- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống thiêng liêng?

4- Chúa Giêsu đã là hạt giống chịu mục nát đi. Bạn hiểu điều này thế nào?

Về mục lục

.

HẠT LÚA MÌ CÓ THÚI ĐI

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Càng gần tới Tuần Thánh, chúng ta càng nghiệm  ra sự đau khổ của Chúa.Cái chết của Chúa không làm cho chúng ta kinh hãi, chán nản hay tuyệt vọng.Nhưng sự đau khổ, tử nạn và phục sinh của Chúa giúp chúng ta hiểu sâu xa tình thương vô biên của Chúa. Cây Thập giá con người nghĩ ra, tạo ra để làm khổ nhục con người. Đối với Chúa, cây Thập giá lại mang một ý nghĩa thâm sâu, cao vời vì Chúa đã nói :” Khi nào Ta được nâng cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta “. Chúa đã chấp nhận cái chết theo ý Thiên Chúa Cha để cứu độ con người, để mang lại hạnh phúc cho con người :” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ). “…Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác…” ( Ga 12, 24 ).

Bằng chính một lời mạc khải, Chúa Giêsu đã ví mình như hạt lúa mì phải được biến đổi.Chúa cho chúng ta biết, thân xác của Ngài phải chết đi, Ngài mới sống lại. Đây là sự biến đổi con người của Ngài. Sự đau khổ mà con người dồn vào Chúa Giêsu và cái chết trên Thập giá của Người nói lên sự sống mới, cuộc sáng tạo mới.Hạt lúa mì có mục nát mới sinh hoa quả tốt đẹp. Hình ảnh hạt lúa mì rất ấn tượng vì qua cái chết và sự phục sinh của Chúa đã mở ra cuộc sống vĩnh hằng cho những ai hiệp thông với Thiên Chúa. Giờ mà những người ngoại tới tìm gặp Chúa Giêsu để nhận biết Người và tôn vinh Người trên núi Sion, thờ phượng Người là Thiên Chúa duy nhất của Israen. Đức Giêsu đã nói đến giờ của Người. Giờ mà Người được tôn vinh. Đây là giờ tử nạn của Chúa Giêsu, giờ mà Người được giương cao trên Thập giá, có nghĩa là giờ Người chịu đóng đinh trên Thập giá để cứu rỗi nhân loại, cứu vớt con người. Giờ mà Đức Giêsu trong vườn Cây Dầu cùng với ba môn đệ thân tín nhất là Phêrô, Giacobê và Gioan, Chúa chịu cơn hấp hối : mồ hôi và máu chảy ra. Giờ mà các môn đệ vẫn ngủ vùi trong khi Chúa đang buồn phiền, chịu thử thách tột độ. Giờ mà Đức Giêsu thưa với Thiên Chúa Cha với tất cả lòng mình :” Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến “. Đức Giêsu đã cho mọi người hiểu rằng :” Sự đau khổ, cái chết và phục sinh của Ngài “ đưa nhân loại vào đời sống vĩnh cửu. Do đó, Chúa Giêsu đã chờ đợi giờ này để hiến mạng sống của mình và ban hạnh phúc, sự cứu rỗi, và sự sống mới cho nhân loại, cho con người, cho chúng ta.

Chúa đã nói cách dứt khoát, minh bạch, quả quyết :” Ai muốn theo Ngài, phải vác Thập giá của mình, mà theo Ngài “. Theo Ngài có nghĩa là chấp lối sống của Ngài, chấp nhận đi theo con đường của Ngài… Chúa Giêsu cũng đã dứt khoát tuyên bố :” Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ lại cho được sự sống đời đời “.  Chúa nhấn mạnh điều này bởi vì ghét không có nghĩa ghét bỏ sự sống Chúa ban tặng cho con người, nhưng là ghét bỏ tội lỗi, tật xấu, những đam mê xấu xa, những trụy lạc, sự lầm đường lạc lối, những tội này sẽ khiến chúng ta xa Chúa.

Chúa cho chúng ta hay cuộc đời sẽ mau tàn, mau lụi giống như kiếp hoa phù du sớm nở, chiều tàn, giống như cây cỏ mau úa, mau tàn. Sống ở gian trần này, con người một mặt vì kiếp sinh nhai, kiếp sống, phải lao động cần cù, miệt mài sáng tạo để làm ra của ăn của để, để đấu tranh sinh tồn, nhưng mặt khác con người phải biết “ tìm kiếm Nước Thiên Chúa “  và phải biết lắng nghe Lời Chúa, thực thi những điều Chúa dạy bằng những việc tỏa sáng ở đời như làm những việc bác ái, từ thiện, biết quảng đại chia sẻ, biết bỏ ý riêng của mình để theo ý của Chúa như Mẹ Maria đã biết nói lời Xin Vâng làm theo lời Chúa…

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết yêu thương mọi người, xin giúp chúng con biết chia sẻ, cho đi và xin dạy chúng con luôn biết mến yêu Thập giá vì chính Chúa đã chọn cây Thập giá để cứu chuộc loài người.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

  1. Tại sao Đức Giêsu lại lấy hình ảnh hạt lúa mì để ám chỉ Ngài ?
  2. Tại sao Chúa lại nói liều mình mất mạng sống vì Người thì giữ được mạng sống của mình ?
  3. Chúa Giêsu trải qua cuộc hấp hối ở đâu ?
  4. Tại sao các môn đệ thân tín : Phêrô, Giacôbê , Gioan lại ngủ khi Chúa Giêsu đang trong cơn hấp hối ?
  5. Đi theo Đức Giêsu phải làm gì ?

Về mục lục

.

THEO THẦY

Lm. Jos. DĐH.

Cho dù vô tâm hay đức độ, người ta cũng không thể chối bỏ một sự thật: cây thẳng lên nhờ uốn, trẻ khôn lớn, nhờ chăm sóc, giáo dục. Con cái lớn khôn, thành đạt, hệ tại tình yêu thương gia đình hướng dẫn, đầu tư, nói văn hoa một chút gọi là trách nhiệm, là nghĩa vụ của đấng làm cha mẹ. Gia đình dòng tộc sẽ vui và hạnh phúc biết bao khi con cháu nên người hữu ích, dù các ngài có được đền ơn đáp nghĩa, hoặc con cháu từ chối, hất hủi, các ngài vẫn đến một điểm dừng: “sinh lão bệnh tử”. Khi bước vào yêu, không ai nghĩ tới chuyện “sẽ nắm đằng lưỡi hay nắm đằng chuôi”. Khi yêu chẳng ai tính toán hơn thiệt, dẫu là tình yêu huyết thống, hay tình yêu đôi lứa.

Theo truyền thống: uống nước nhớ nguồn, theo quy luật tự nhiên: làm hoa cho người ta hái, làm gái cho người ta trêu, theo tâm lý chung: ốm tha, già thải, ít nhiều gì chúng ta còn có khái niệm để cân nhắc. Xưa kia, hoặc hôm nay, theo thầy để học nghề mưu sinh, theo thầy với mơ ước: thầy làm quan, trò làm tướng, không mấy khó hiểu. Tuy nhiên theo Thầy, đến với Thầy, để nghe những lời lẽ hết sức trừu tượng: “đã đến giờ Con Người được tôn vinh, nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình….” ! Không những hụt hẫng, mà hầu hết người ta phải khựng lại trước ý định làm thần dân của Ngài.

Theo thầy sẽ phải vượt qua chặng đường nguy hiểm mà tới thành công, theo thầy nhất định phải có gian truân vất vả, theo thầy làm thợ, với hy vọng có ngày làm thầy. Đức Giêsu thật rõ ràng nhằm giúp các học trò hiểu, và tin rằng theo Thầy để biết về tình yêu của Cha Thầy, khác với việc theo Thầy để biết về tình yêu thế trần.  Theo Thầy Giêsu không phải để tận hưởng địa vị danh vọng, được bổng lộc ở đời này, mà là được xếp vào hàng ngũ các môn đệ, được biến đổi nên giống Thầy, và cùng chia sẻ sứ mạng Cha Thầy uỷ thác. Theo Thầy là đi đằng sau Thầy lên Giêrusalem, là trung thành vác đau khổ thập giá một cách trọn vẹn trong tin yêu phó thác.

Muốn có một sức khoẻ tốt, người ta cần ăn uống ngủ nghỉ điều độ, muốn có bình an, đừng làm điều xấu, không nên xét đoán anh chị em mình. Muốn theo thầy, phải tin thầy, để thầy hướng dẫn, dù nguy nan, sóng gió, vẫn đang làm chúng ta sợ hãi. Quan niệm của cha ông chúng ta cho rằng: mạng sống hơn đống vàng. Chẳng ai lại lấy tiền của vật chất để so sánh với mạng sống của con người, tiền, vàng, là loài vô tri vô giác, sự sống con người, chúng ta được sinh ra, được nuôi dưỡng và lớn lên bằng tình yêu. Chính vì theo Đức Giêsu, những người học trò đầy giới hạn hôm xưa mới được trải nghiệm, được chắc chắn hơn về tình yêu và ơn cứu độ hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha.

Theo Thầy tiến bước, từng ngày lắng nghe Thầy chỉ dạy, và tình yêu đã cho các ông cảm nhận mưa lâu thấm đất, các ông không mềm yếu như “con chi chi”, không dại dột như “con thiêu thân”, các ông đã biết khôn ngoan theo Thầy là đi đằng sau Thầy. Sau khi cho các học trò biết: “đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Đức Giêsu rất thực tế bằng một hình ảnh thật sống động: “nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thôi đi, sẽ sinh nhiều bông hạt”. Ai theo Thầy Giêsu, người ấy thuộc về Đức Giêsu, có thực lòng tin yêu Thầy, thì phải gắn bó, kết hiệp với Thầy, Thầy ở đâu, trò cũng ở đó, như thế mới đáng là môn đệ, là quy luật yêu thương của tình thầy trò.

Theo Thầy Giêsu để kiếm tìm chức vị bổng lộc, chúng ta không có ý đó, theo Thầy, tin Thầy là Thiên Chúa cứu độ, chúng ta hằng tin như thế. Sống niềm tin theo Chúa là đi con đường nhỏ hẹp, đi con đường thập giá, sẽ dẫn đưa đến vinh quang, không hề dễ tí nào, và chúng ta thường cho rằng bị nhiều cám dỗ. Gặp Đức Giêsu con bác thợ mộc, nhìn, xem, thấy, Đức Giêsu làm phép lạ, nhiều người Do-thái đã có kinh nghiệm ấy, còn được gặp Đức Giêsu phục sinh thì đại đa số là không thấy ! Hẳn vì chúng ta chưa thực sự theo Thầy Giêsu, không ưa thích nhìn lên cây thập giá, sợ đi con đường chật hẹp, và rất ngại đi theo theo qui trình “hạt lúa mì phải thối đi, hư đi, mục nát đi”.

Sách có câu: bất hạnh khổ đau làm nên con người, giầu sang phú quý tạo nên quái vật. Có, không, mất, được, đâu phải chỉ là nghịch lý, đúng sai, xấu đẹp, khái niệm sang hèn, khổ đau, sung sướng, còn là dịp để người ta chọn lựa, sống lý tưởng gieo gì gặt nấy. Theo Thầy Giêsu không có nghĩa là theo Ngài đứng xa xa xem xét, cũng đâu phải theo Thầy là đóng đinh vào cây thập giá mới là theo. Theo Thầy Giêsu là đi theo qui trình tin yêu và sống tin yêu, là tin vào tình yêu của ông bà cha mẹ, là ý thức vâng theo sứ mạng Chúa Cha trao phó, là quá trình được tập luyện và biến đổi nên giống Thầy Giêsu. Nếu không có đau khổ thập giá, thì không có phục sinh vinh hiển, tin Thầy được đưa lên cao, thì kẻ sống niềm tin theo Thầy Giêsu cũng được Thầy kéo lên hưởng phúc đời đời. Amen.

Về mục lục

.

MẸ LẠNH LẮM PHẢI KHÔNG?

Lm.Jos Tạ duy Tuyền

Cuộc đời đẹp không phải là ở người có nhiều tiền và biết xài tiền. Cuộc đời đẹp không hẳn là ở địa vị cao sang quyền quý. Cuộc đời đẹp là dù ở cương vị nào cũng hy sinh hết mình vì tha nhân. Cho dẫu có thể hy sinh tính mạng nhưng cuộc đời họ tựa như hạt lúa chịu mục nát cho đời những bông lúa vàng ươm.

Chuyện kể rằng có một người  phụ nữ lái xe đến gần chiếc cầu, chiếc xe bỗng chết máy. Bước ra khỏi xe và băng qua cầu, người phụ nữ nghe một tiếng khóc yếu ớt bên dưới. Bà chui xuống cầu để tìm. Nơi đó bà thấy một đứa bé nhỏ xíu, đói lả nhưng vẫn còn ấm, còn người mẹ đã chết cóng. Vì người mẹ đã dùng hết quần áo để quấn cho đứa trẻ. Có lẽ bà chết vì vượt cạn một mình trong đêm lạnh lẽo. Người phụ nữ đem bé về và nuôi dưỡng. Khi lớn lên, cậu bé thường hay đòi mẹ nuôi kể lại câu chuyện đã tìm thấy mình.

Vào một ngày lễ Giáng sinh, đó là sinh nhật lần thứ 12, cậu bé nhờ mẹ nuôi đưa đến mộ người mẹ tội nghiệp. Khi đến nơi, cậu bé bảo mẹ nuôi đợi ở xa trong lúc cậu cầu nguyện. Cậu bé đứng cạnh ngôi mộ, cúi đầu và khóc. Thế rồi cậu bắt đầu cởi quần áo. Bà mẹ nuôi đứng nhìn sững sờ khi cậu bé lần lượt cởi bỏ tất cả và đặt lên mộ mẹ mình.

“Chắc là cậu sẽ không cởi bỏ tất cả – bà mẹ nuôi nghĩ – cậu sẽ lạnh cóng!” Song cậu bé đã tháo bỏ tất cả và đứng run rẩy. Bà mẹ nuôi đi đến bên cạnh và bảo cậu bé mặc đồ trở lại. Bà nghe cậu bé gọi người mẹ mà cậu chưa bao giờ biết: “Mẹ đã lạnh hơn con lúc này, phải không mẹ?” Và cậu bé oà khóc: “Mẹ lạnh lắm phải không?””

Cái chết của người mẹ là cái chết đẹp. Một cái chết trở thành bất tử như lời Chúa Giê-su từng nói: “kẻ nào giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai chịu từ bỏ cuối cùng sẽ được lại”. Chính Chúa Giê-su đã sống điều đó. Ngài đã đi qua đau khổ để tiến tới vinh quang. Ngài đã trở nên bất diệt khi Ngài trở thành hạt lúa chịu nghiền nát để trổ sinh muôn vàn bông lúa. Ngài đã trở nên vĩ đại khi Ngài dám chết vì bạn hữu.

Thực vậy, người vĩ đại trong cuộc đời chúng ta không phải là những người nổi tiếng, không phải là các ngôi sao điện ảnh hay ca nhạc mà là chính những người đang hy sinh vì chúng ta. Họ là những người cha “chân lấm tay bùn” đang đổ mồ hôi nơi nương đồng, đang miệt mài nơi công trường. Họ là những người mẹ đang lặn lội ngược xuôi nơi bến chợ, đang hao gầy vì đàn con. Họ là những người anh, người chị đang bôn ba đó đây để bòn nhặt từng đồng tiền để phụ giúp gia đình. Đó là những con người cao cả, là những hạt lúa miến đang chịu nghiền nát vì tha nhân để trở thành tấm bánh cho anh em. Đó là những con người dám quên đi niềm vui riêng của bản thân để lo cái lo của đồng loại, để sống có ích cho tha nhân.

Nhưng thật đáng tiếc! Ý niệm phục vụ tha nhân. Ý niệm sống vì người khác đang mất dần trong thế giới hôm nay. Người ta đang lo cho bản thân. Người ta đang chạy theo danh lợi thú để thoả mãn nhu cầu của chính mình. Có mấy ai dám quên mình để sống cho thân nhân? Có mấy ai chịu nghiền nát đời mình để đem lại niềm vui cho tha nhân?

Thiết tưởng, mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy sống cao đẹp hơn. Hãy hy sinh niềm vui cùng những đam mê sở thích của mình để đem lại hạnh phúc cho những người chúng ta yêu mến. Thiết tưởng mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy sống đúng với phẩm giá làm người của mình là biết sống vì hạnh phúc tha nhân. Chúa đã tạo dựng Eva vì niềm vui của Adam. Chúa cũng tạo dựng chúng ta vì niềm vui của thân nhân. Xin Chúa là Đấng đã chết cho người mình yêu, giúp chúng ta biết quảng đại hy sinh để kiến tạo niềm vui và hạnh phúc cho nhau. Amen

Về mục lục

.

NỖI LÒNG CHA

Anna Cỏ may

Cuộc đời mỗi người như ngọn nến lung linh. Có lúc nó sáng rực lên cao, có lúc một cơn gió nhẹ làm nó đu đưa, ngã nghiêng, heo hút và bất chợt dập tắt. Đâu ai biết trước sự ra đi của mình để chuẩn bị trước, ngoài một mình Thiên Chúa mà thôi. Có một chân lý mà chúng ta không ai thay đổi được đó là sinh-lão-bệnh-tử.

Qủa thực, cái chết xảy ra với mỗi người đều khác nhau và cũng chẳng có ai ngờ trước được. Có nhiều sự ra đi như do tại nạn, do bệnh tật… Và chết vì mình thì dễ hơn chết vì người khác. Chúa Giêsu thì ngược lại, Ngài đã thực hiện được điều ấy. Ngài luôn tràn đầy tình yêu và giàu lòng thương xót. Tình yêu của Ngài luôn thu hút mọi người chạy đến tìm Ngài. Lòng thương xót của Ngài thể hiện rõ nơi những người mù, kẻ què, người câm. Và chính Ngài cũng đã tự hủy, hy sinh, chịu chết để cứu độ nhân loại. Tuy nhiên, vì mang thân phận như con người, nên lúc gần vào cuộc đau khổ, cận kề cái chết, Ngài đã thốt lên “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy không biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến” (Ga 12,27). Một tâm hồn, một cõi lòng đang nặng trịu, đau buồn và cô đơn, không biết nói gì hơn. Ngài cảm nhận mình đang ngồi trong một căn phòng tối không thể thoát ra, chỉ nhìn thấy ánh sáng qua nhiều khe cửa sổ. Có ai hiểu Ngài? Ngài chỉ biết kêu lên Chúa Cha. Và từ trời cao vọng xuống “Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa”(Ga 12,29). Dầu đang đau đớn và tủi nhục là vậy, nhưng tình yêu và sự vâng phục của Ngài đã vượt qua sự yếu đuối ấy. Ngài tiếp tục đi vào cuộc đau khổ và chịu chết để thực hiện tình yêu ban đầu của Ngài. Ngài đã tự nói “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”(Ga 12,32).

Cho đến hôm nay, những lo âu sợ hãi về cái chết vẫn là một hữu thực nhức nhối và đó là một chân lý thật. Không ai là không khỏi sợ cái chết đến với mình. Dù sợ nhưng nhiều khi chúng ta không biết sống làm sao hay không biết sống thế nào cho tốt? Vì lẽ đó, chúng ta luôn cần Thiên Chúa ban thần khí để soi sáng tâm hồn mỗi người chúng ta, giúp ta vượt thắng những sợ hãi yếu đuối của bản thân và sống thánh thiện mỗi ngày hơn.

Lạy Chúa, cho đến bây giờ Chúa vẫn còn đang chịu khổ đau và cô đơn vì chúng con. Chúa không ngừng kêu lên Chúa Cha tha thứ cho chúng con và cho chúng con có cơ hội sửa mình. Chúng con xin Chúa tiếp tục soi sáng cho mỗi người chúng con nhận biết, đón nhận và cộng tác với Chúa trong từng công việc hằng ngày. Nhất là biết chuẩn bị một tâm hồn sốt sắng để thông phần vào sự sống vinh quang của Chúa. “Vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người”(Rm 8,17). Amen.

Về mục lục

.

ĐƯỢC TÔN VINH

Bông hồng nhỏ

Người đời luôn muốn được tôn vinh. Mang trong mình khao khát khẳng định bản thân, không ít lần ta cũng mong chờ một lời khen ngợi từ người khác. Hôm nay, đọc đoạn Tin Mừng theo thánh sử Gioan, hai chữ “tôn vinh” như chần chừ cứ đứng mãi trong tâm trí ta. Hai chữ ấy cứ cố tình lưu lại thật lâu, thật sâu để đụng vào cõi lòng ta.

Thời bấy giờ, Đức Giêsu rất nổi tiếng. Có nhiều người biết đến danh Giêsu nhưng chưa có dịp được gặp. Trong số những người đi dự lễ có mấy người Hy lạp cũng có ao ước ấy. Họ đến gặp ông Philipphê, một trong các môn đệ của Thầy Giêsu để xin được gặp Ngài. Tin Mừng kể lại Philipphê đi nói với Anrê, rồi Anrê và Philipphê đến thưa Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đáp “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 22- 23). Thật lạ, hôm nay Thầy Giêsu nhắc đến hai chữ “tôn vinh”. Con Người sẽ được tôn vinh cách nào đây? Lắng nghe tiếp, Thầy Giêsu lại cho ta biết “Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt” (Ga 12, 24 ). Đó là quy luật tự nhiên của hạt giống. Điều đó ta cũng đã quan sát được khi trực tiếp gieo giống và chăm sóc cây trồng. Những điều Thầy dạy ngay sau đó cũng khiến ta phải suy tư. Ta đang đi theo Thầy đó thôi, một con đường không ít những khó khăn nhưng cũng nhiều những hồng ân. “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó”  (Ga 12, 25-26 ). Nhìn ngắm cuộc đời của Thầy Giêsu, ta thấy một cách thế sống rất ngược đời. Thầy là Thiên Chúa, là Vua Vũ Trụ nhưng đã xuống thế làm người, sống nghèo hèn, khiêm hạ. Cuộc đời của Thầy là những tháng ngày nối dài của yêu thương, tự  hiến. Tình yêu của Thầy là tình yêu của phục vụ và yêu thương đến cùng. Ta khao khát được trở nên môn đệ của Thầy. Và đây là điều ta sẽ sống và trải nghiệm từng ngày. Ta muốn phụng sự Chúa và ta đã theo Chúa để rồi Chúa ở đâu ta cũng ở đó với Ngài. Ngước nhìn Thánh giá, ta nhìn thấy nơi ta cũng sẽ được treo cao khi biết thông phần đau khổ của đời mình vào mầu nhiệm tự hiến của Thầy. Chúa Giêsu đã được tôn vinh như thế và được tôn vinh đến cùng khi Ngài phục sinh. Chúa đã ghét sự sống như lời Chúa đã khẳng định và Chúa đi vào một sự sống tuyệt vời mà những ai kiên trung bước theo Thầy cũng sẽ được chung hưởng. Phục vụ như Thầy là cúi xuống rửa chân, là dùng chính Máu Thịt làm của ăn nuôi sống linh hồn những người Chúa yêu khi cuộc đời ta trở nên tấm bánh bẻ ra cho những người ta gặp gỡ.

Lạy Chúa! Thật lạ lùng thay khi con được làm môn đệ Chúa. Xin Chúa dạy con hướng về Trời cao để lắng nghe tiếng phán từ Trời, tiếng ấy phán ra là vì con. Chúa biết rõ khát khao của lòng con. Xin Chúa lôi kéo, thúc đẩy và hướng khao khát của con quy hướng về Chúa, đúng với hai chữ được “tôn vinh” mà Chúa đã trải nghiệm và sống trước cho con. Amen.

Về mục lục

.

CHÍNH KHI HIẾN THÂN LÀ KHI NHẬN LÃNH

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Sau khi đã đi được nửa chặng đường của Mùa Chay Thánh (Chúa nhật IV) với lời mời gọi “Mừng Vui Lên“, và tiến bước sang chặng thứ hai, Giáo hội khuyến khích con cái mình tiếp tục tiến lên không ngừng nghỉ trên con đường ăn năn đền tội, cải đổi đời sống để chuẩn bị Lễ Phục Sinh. Việc đền tội này gia tăng niềm vui cho chúng ta khi tiến gần tới đích.

Bước vào Chúa nhật thứ V Mùa Chay, Giáo hội trình bầy cho chúng ta đoạn Tin Mừng (Ga 12, 22-30), giúp chúng ta chuẩn bị bước vào Tuần Thánh tốt hơn và sống một cách sâu xa những mầu nhiệm quan trọng trong đời sống người Kitô hữu. Đàng Thánh Giá đối với người tín hữu là con đường phải qua, chết là để sống lại và hơn nữa để sống trọn vẹn đời sống người Kitô hữu, chúng ta phải chết.

Một phần đầu của đoạn Tin Mừng, Chúa Giêsu nói với các Tông Đồ : “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt” (Ga 12, 24). Trong hình ảnh này chúng ta tìm thấy một khía cạnh khác nữa của Thập Giá Chúa Kitô. Thật vậy, cái chết của Chúa Giêsu là một nguồn suối vô tận của sự sống mới, bởi vì nó mang theo trong chính nó sức mạnh tái sinh của tình yêu thương của Thiên Chúa. Ðược dìm mình trong tình yêu đó qua bí tích Rửa Tội, kitô hữu có thể trở thành “các hạt lúa” và đem lại nhiều bông hạt, nếu họ “liều mất sự sống mình” vì yêu thương Thiên Chúa và các anh chị em khác như Chúa Giêsu (Ga 12, 25).

Khi chú giải đoạn Tin Mừng này thánh Augustinô đã giải thích như sau : “Chúa Giêsu tự ví mình là “hạt lúa mì” được gieo vào lòng đất chịu mục nát đi để sinh nhiều bông hạt ; Người được Chúa Cha sai xuống trần gian phải được hiến tế vì sự bất trung của người Do thái ngõ hầu đức tin của cả nhân loại được triển nở”. Bánh Thánh, được làm nên bởi muôn hạt lúa miến, được nhân lên và bẻ ra để trở nên tấm bánh cho mọi người. Của chết của các vị tử đạo luôn làm nảy sinh những người tín hữu ; vì thế mới có cái ngược đời là, “ai yêu mạng sống mình” thì sẽ mất. Chúa Kitô chết để trao ban thịt máu mình cho chúng ta : phần chúng ta, chúng ta cũng phải bắt chước Chúa trao bán chính mình để được sống lại với Chúa và cùng với Chúa, trao ban quả phúc. Có biết bao người sống trong thinh lặng để mưu cầu lợi ích cho anh em ? Từ sự thinh lặng và khiêm nhường ấy chúng ta học được bài học trở nên hạt lúa mì mục nát đi để lấy lại sự sống. 

Phần kết của đoàn Tin Mừng hôm nay là một lời khuyên chúng ta tiến bước trong ánh sáng của Con Thiên Chúa trên toàn cõi địa cầu : “ … phần Ta, khi nào Ta chịu đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta” (Ga 12, 32). Chúng ta phải cầu xin Thiên Chúa là Cha nhân lành xua tan bóng tối ra khỏi lòng chúng ta. Chúa Giêsu nói : “Ðã đến giờ con người được tôn vinh” (Ga 12, 23). Chúng ta tự hỏi : Giờ đó là giờ nào ? Thưa, đây là giờ của Thập Giá! Ðó cũng là giờ bại trận của Satan, ông hoàng của sự dữ, giờ chiến thắng vĩnh viễn của tình yêu thương từ bi của Thiên Chúa. Chúa Kitô tuyên bố rằng “Người sẽ được nâng cao khỏi đất” (Ga 12, 32), đây là một kiểu diễn tả có hai nghĩa: “được nâng cao” bởi vì bị đóng đinh, và “được nâng cao” bởi vì được Thiên Chúa Cha tán dương trong việc Sống Lại, để lôi kéo tất cả mọi người đến với Người và hòa giải con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Giờ của Thập Giá, giờ đen tối nhất lịch sử, cũng là suối nguồn ơn cứu độ cho tất cả những ai tin vào Người. Đây là giờ của Thiên Chúa, giờ phút được trao ban cho chúng ta, chúng ta đừng bỏ qua ! “Các con còn ngủ ư ?” chúng ta không thể thôi là ánh sáng thế gian này. Khi mặt trăng phản chiếu ánh sáng mặt trời, chúng ta phải phản chiếu ánh sáng của Thiên Chúa.

Thật vậy, chính từ trên thập giá mà Chúa Giêsu sẽ mạc khải cho thế gian biết tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa đối với nhân loại đang cần ơn cứu rỗi. Thiên Chúa là Chúa duy nhất của chúng ta, chúng ta là dân Ngài. Giao ước tình yêu bền vững giữa Thiên Chúa và nhân loại đã được thực hiện cách trọn vẹn trong hy tế Vượt Qua của Chúa Kitô.

Nhờ tham dự vào Mầu Nhiệm Thương Khó của Chúa Kitô, mà chúng ta có thể sống sự phong phú của hạt giống gieo xuống đất, và được Chúa đón nhận vào trong Vương Quốc trên trời. Amen. 

Về mục lục

.

HIẾN TẾ

Lm. Giuse Trần Việt Hùng 

 

Chu toàn sứ mệnh Cha trao,

Giê-su Cứu Thế, bước vào chông gai.

Hy sinh dâng hiến ngày mai,

Nhục hình chịu chết, mở khai Nước Trời.

Con Người dấn bước vào đời,

Chôn vùi sự sống, rạng ngời phục sinh.

Hạt mì gieo xuống lặng thinh,

Nẩy mầm sinh hạt, muôn hình đổi thay.

Ai yêu sự sống hôm nay,

Ngày mai sẽ mất, đời này đời sau.

Tâm hồn xao xuyến đớn đau,

Xin vâng chén đắng, sẽ mau tới gần.

Xin Cha cất khỏi tội trần,

Chu toàn thánh ý, chịu phần gian lao.

Vinh danh Chúa cả trên cao,

Muôn lời chúc tụng, tuôn trào thánh ân.  

Chúa Giêsu ví mình như hạt miến được chôn vùi xuống đất và thối đi để sinh nhiều bông hạt. Một hình ảnh rất sống động trong cuộc sống. Chúng ta có thể quan sát mọi loại hạt giống, nếu muốn được lưu truyền, hạt giống cần được gieo trồng, chôn vùi và tan rữa để trở thành mầm cây mới. Sự sống con người cũng thế, cần vượt qua sự chết, linh hồn mới thanh thoát trong sự sống mới vĩnh cửu.   

Trong những ngày cuối của hành trình rao giảng, Chúa Giêsu cảm thấy xao xuyến. Hướng đến những ngày sắp tới Chúa phải đối diện với khổ đau và sự chết. Chúa đã vén mở mục đích của mầu nhiệm nhập thể. Chúa đến để làm vinh danh Chúa Cha. Chúa sẽ hiến dâng mình làm của lễ hy sinh đền tội trên thánh giá và từ đó Chúa sẽ kéo mọi người lên cùng Chúa.    

Chúa đến để chu toàn thánh ý Chúa Cha. Chúa Giêsu chấp nhận thân phận một người tôi tớ. Như tiên tri Isaia đã nói về người tôi tớ: “Người hiến thân vì người tình nguyện và không mở miệng như con chiên bị đem đi giết, như chiên non trước mặt người xén lông, người thinh lặng chẳng hé môi.” (Is. 52,7). Đây chính là hình ảnh Chúa Giêsu khi bị điệu đến trước quan tòa. Chúa âm thầm chịu đựng từng giây phút khổ đau trong sự khinh bỉ và chế nhạo.    

Con đường cứu độ là con đường của thập giá. Cuộc sống của chúng ta phải chịu hao mòn, chịu thiệt thòi và chịu tan biến trong tình yêu. Chúa phán: “Không có tình yêu nào cao trọng hơn tình yêu của kẻ dám thí mình vì bạn hữu”. Chúa hiến thân vì yêu. Vì yêu, Chúa muốn chúng ta cùng được chia xẻ hạnh phúc với Ngài trong Nhà Cha.   

Chuẩn bị bước vào Tuần Thánh, cao điểm của các nghi lễ phụng vụ. Mầu Nhiệm cứu độ sẽ được lập lại qua việc cử hành tưởng niệm Chúa chịu đau khổ, chịu chết và sống lại vinh quang. Chúng ta hãy suy niệm về mầu nhiệm tình yêu cao cả. Hãy thả mình trong biển tình yêu để gẫm suy về lòng thương xót của Chúa. Lạy Chúa, xin giúp còn ngước nhìn lên thánh giá. Chúa đang mời gọi: “Hãy đến với Ta hỡi những ai gồng gánh nặng nề, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho.”(Mt.11,28).

Về mục lục

.

CON ĐƯỜNG HẠT LÚA

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Con đường Chúa Giêsu đã đi qua là con đường hạt lúa: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh. Thật, Thầy bảo anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hoa trái” (Ga 12,23-24).

Hạt lúa được gieo trên ruộng đồng. Hạt lúa mục nát rồi mới nẩy mầm, đâm bông và kết hạt. Không mục nát, hạt lúa chỉ trơ trọi một mình. Sự mục nát làm trổ sinh sự sống mới, hứa hẹn mùa gặt tương lai.

Nhìn một cánh đồng lúa xanh tươi, uốn lượn theo gió, trải dài trong nắng, căng tròn sức sống, ta nghĩ đến muôn vàn hạt lúa đã mục nát để lên xanh đồng lúa bát ngát.

  1. Con đường hạt lúa Giêsu.

Từ khi nhập thể, Chúa Giêsu đã trở nên như hạt lúa gieo vào lòng đất nhân loại. Thánh Phaolô trình bày mầu nhiệm tự huỷ: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế“. Như hạt lúa bị mục nát: “Người đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự“. Như hạt lúa nẩy mầm, lớn lên, đơm bông sinh hạt: “Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và ban tặng danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2,6-11).

Phúc Âm Marcô viết: “Chúa Giêsu bắt đầu dạy cho các môn đệ biết Con Người phải chịu đau khổ rất nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8,31). Chúa Giêsu nói, Người phải chịu nhiều đau khổ. Phải có nghĩa là bắt buộc. Những kẻ gây đau khổ cho Chúa là những người có địa vị trong tôn giáo và xã hội, những người được coi là thuộc loại trí thức, chức cao, quyền trọng, gây nhiều ảnh hưởng trong dân.

Con đường Chúa đi, quá nhục nhã ê chề nên các môn đệ không thể chấp nhận. “Phêrô liền kéo riêng Chúa Giêsu ra và bắt đầu can trách Người. Nhưng khi Chúa Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người liền mắng ông Phêrô: Satan, hãy lui lại đằng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Chúa, mà là của loài người” (Mc 8,32-33). Chính bản thân Chúa sẽ như hạt lúa chịu nhiều đau thương tơi tả. Mục nát là chặng đường phải đi qua để có mùa gặt trù phú.

Con đường Chúa đi thật quá hãi hùng: “Chúa Giêsu và các môn đệ đang trên đường đi Giêrusalem…Người lại kéo riêng nhóm mười hai ra và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy ra cho mình: Này, chúng ta lên Giêrusalem, và ở đó con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại” (Mc 10,32-34). Con đường mở mang Nước Trời sao quá khổ đau, bị nhạo báng, bị khạc nhổ, bị đánh đập. Hạt lúa Giêsu đã đi hết chặng đường đau khổ, mục nát trong cõi chết để đạt tới sự sống vinh quang.

  1. Con đường hạt lúa các môn đệ.

Các môn đệ theo Chúa nên cùng đi trên con đường Chúa đã đi “Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta” (Mc 8,34). Thánh Phaolô kể về con đường đi của người môn đệ: “Giờ đây bị Thánh Thần trói buộc, tôi về Giêrusalem. Không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi. Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giêsu, là long trọng làm chứng cho Tin mừng và ân sủng của Thiên Chúa” (CV 20,22-24). Người môn đệ của Chúa coi vinh dự là “đựơc thông phần những đau khổ của Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa trong cái chết của Người, với hy vọng cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3,10-11). Thánh Phaolô trở thành hạt lúa Tin mừng. Trải qua tiến trình đau khổ mục nát, thánh nhân đã đứng ở vị trí đầu sóng ngọn gió trên cánh đồng truyền giáo mênh mông.

Xuyên suốt dòng lịch sử Giáo hội, biết bao hạt lúa môn đệ đã chịu mục nát để Giáo hội lớn mạnh không ngừng “Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu”. Từng thế hệ chứng nhân như những hạt giống tốt, chết đi trong lòng đất các nền văn hoá, và đã trổ sinh rất nhiều hạt lúa mới. Tất cả làm nên cánh đồng lúa thiêng liêng, mùa màng tươi tốt trong cuộc sống đạo và truyền giáo.

  1. Con đường hạt lúa chúng ta hôm nay.

Con đường hạt lúa như Chúa Giêsu hay như thánh Phaolô và các tông đồ là những con đường kiễu mẫu cho chúng ta đi theo.

Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Muốn sống một cách trọn vẹn, trổ sinh hoa trái tốt lành, ta phải chết đi cho bản thân mình. Chết đi mỗi ngày một chút cho tính ích kỷ, giả dối hận thù ghen ghét. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình. Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những gì đưa đến sa ngã.

Hạt lúa nào cố tự bảo vệ sự nguyên vẹn của mình thì nó sẽ dần dần bị hư mốc, rốt cuộc chẳng còn gì; còn hạt lúa nào chấp nhận bị phân huỷ dưới bùn đất thì sẽ đâm mầm, mọc thành cây, nở thành bụi và sẽ trổ hoa kết hạt dồi dào: từ một hạt sẽ biến thành trăm hạt khác. Định luật căn bản của sự sống là: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai bằng lòng mất sự sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống muôn đời” (Ga 12,25). Chết vì tình thương, vì hạnh phúc đồng loại, vì chính nghĩa, vì công lý, vì hòa bình, vì đức tin là những cái chết làm trổ sinh muôn ngàn nét đẹp cho đời.

  1. Hạt lúa âm thầm và hạt lúa mục nát

Tình yêu cao quý hơn cuộc sống và mãnh liệt hơn sự chết. Cái chết của Chúa Giêsu đã nên lời yêu thương con người mọi nơi và mọi thời. Chính vì dám chết cho tình yêu nên luật yêu thương của Chúa trở nên một thách đố. Thách đố con người chui ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của mình, ra khỏi những bận tâm, toan tính, vun quén cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa. Quên mình, hiến thân, đón nhận cái chết như hạt lúa mục nát, đã từng làm cho Chúa Giêsu trăn trở, nao núng và thổn thức. Những giây phút cuối cùng giáp mặt với tử thần không thể không gay go, thống thiết và đầy thách thức: “Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” (Ga.12,27). Thế nhưng, Người đã biến cuộc tử nạn nên lời tôn vinh Thiên Chúa và lời yêu thương con người: “Chính vì thế mà con đã đến trong giờ này” (Ga.12,27).

Nếu “Hạt lúa âm thầm mọc lên” (x. Mc 4,26-29) là hình ảnh của Tin mừng chan hoà trong một nền văn hoá, thì “Hạt lúa phải mục nát đi” (x. Ga 12,24) là con đường gian truân vất vả để làm nên một mùa gặt phong nhiêu.

Về mục lục

.

MỤC NÁT ĐI ĐỂ TRỔ SINH DỒI DÀO BÔNG HẠT

Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển

Theo quy luật tự nhiên, chúng ta thấy cỏ cây ngoài đồng được mọc lên là nhờ vào những hạt giống đã chấp nhận bị chôn vùi, mục nát, để trổ sinh những cây non khác.

Theo quy luật sinh tồn của loài người cũng vậy! Cuộc sống của người này phụ thuộc vào người kia, nhất là sự sống của con cái phụ thuộc và sự sống và hy sinh của cha mẹ.

Trong đời sống thiêng liêng cũng thế, con người có được sự sống thần linh, ấy là nhờ vào mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu. Ngài đã chấp nhận trở nên như hạt giống gieo vào lòng đất, để mục nát, để sinh ra và để nuôi sống chúng ta.

Như vậy, nếu hành trình của Đức Giêsu trên trần gian là hành trình mục nát của hạt lúa gieo vào lòng đất, thì với các môn đệ cũng như với tất cả chúng ta, những người mang danh của Ngài, chắc chắn không còn con đường nào khác để được hạnh phúc và sự sống đời đời mà không đi qua con đường của hạt lúa!

  1. Con đường tự hủy của Đức Giêsu

Thiên Chúa yêu thương nhân loại vô bờ, nên đã cống hiến “hạt giống Giêsu” cho loài người. Vì muốn làm đẹp lòng Chúa Cha, nên ngay từ giây phút đầu tiên trong thân phận hạt lúa, Đức Giêsu đã sống trọn vẹn vai trò của mình, khi … không nghĩphải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế”. Và: “Người đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (x. Pl 2, 6-8).

Thật vậy, con đường của Đức Giêsu đi là con đường tự hủy dẫn đến cái chết tức tưởi trên thập giá. Vì thế, việc hạ mình của Ngài đã làm cho rất nhiều người không thể hiểu được, nên đôi khi lại trở thành trò cười cho thiên hạ, thành sự thất vọng cho các môn đệ.

Chính vì Đức Giêsu lội ngược dòng như vậy, nên Phêrô đã không thể chấp nhận thầy của mình phải chịu như thế, nên khi được nghe loan báo về cuộc khổ nạn qua con đường khổ giá, ông đã mạnh mẽ lên tiếng can ngăn để Thầy khỏi bị những điều đó! (x. Mt 16, 22).

Nhưng Đức Giêsu đã nhất quyết vâng phục Thiên Chúa Cha để đi trọn vẹn con đường của hạt lúa trong thân phận tự hủy mà Cha của Ngài đã muốn Ngài phải đi. Chính vì điều đó, nên đến “Giờ” của Ngài: “Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và ban tặng danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2,9-11).

2. Con đường tiếp bước của các môn đệ

Cùng một con đường như Thầy đã đi, các môn đệ là những người sẽ tiếp bước trên con đường ấy. Vì thế, nơi các ông không thể có một con đường nào khác để thay thế con đường tự hủy trong thân phận hạt giống mục nát.

Quả thật, Đức Giêsu đã nói với các ông: “Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta” (Mc 8,34).

Như vậy, đi theo Chúa là đi trên con đường khổ giá, con đường của hy sinh, con đường dẫn đến cái chết. Tất cả những điều đó đang rộng mở để đón chờ người môn đệ của Thầy Giêsu bước tới. Điều này đã được thánh Phaolô cảm nghiệm và chia sẻ, ngài nói: “Giờ đây bị Thánh Thần trói buộc, tôi về Giêrusalem. Không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi. Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giêsu, là long trọng làm chứng cho Tin mừng và ân sủng của Thiên Chúa” (Cv 20,22-24).

Quả đúng như lời Đức Giêsu đã nói: “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ” (Mt 10, 24). Vì thế, người môn đệ chân chính chắc chắn phải là người phác họa lại hình ảnh, lối sống và hành vi của Thầy mình cách rõ nét hơn bao giờ hết! Thế nên, với người môn sinh, không có gì vinh dự và hãnh diện cho bằng: “Được thông phần những đau khổ của Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa trong cái chết của Người, với hy vọng cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3,10-11).

Khi nắm được quy luật tất yếu: “Phải qua đau khổ mới vào trong vinh quang”  (x. Lc 24,26), các môn đệ đã trung thành đi đến cùng con đường khổ giá bằng việc lấy chính mạng sống của mình để làm chứng cho Đức Giêsu. Tuy nhiên, không chỉ riêng các môn đệ, mà trải qua suốt dòng lịch sử, thời điểm nào cũng vẫn có người tiếp bước trên con đường tự hủy của hạt lúa mì, đó là chấp nhận từ bỏ ý riêng, sẵn sàng vâng phục và chấp nhận cái chết để đổi lấy sự sống đời đời.

3. Con đường dấn thân của mỗi chúng ta

Người ta vẫn thường nói: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Thật vậy, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu, tức là chúng ta mang trong mình đặc tính, hình ảnh của Đức Giêsu và thuộc về Ngài hoàn toàn.

Nếu Đức Giêsu đã đi qua con đường vâng phục, đón nhận khổ giá và chấp nhận cái chết để cứu chuộc con người. Thì đến lượt chúng ta, có lẽ không con đường nào có thể đem lại cho mình sự sống đời đời ngoài con đường khổ giá và hy sinh. Vì thế, cùng một lời mời gọi cho các môn đệ khi xưa, hôm nay Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta” (Mc 8,34). 

Lời mời gọi này đã đưa chúng ta vào con đường của Đức Giêsu đã đi. Vì thế, chúng ta sẵn sàng mục nát đi cho ý riêng, để thay vào đó là hoa trái của đức vâng phục. Mục nát đi tính tự kiêu, tự phụ, khoe khoang, thích được ăn trên ngồi trước, được mọi người trọng vọng, để thay vào đó là hoa trái của lòng khiêm nhường. Mục nát đi sự dửng dưng, vô cảm để thay vào đó là sự liên đới, tình huynh đệ. Mục nát đi tính ích kỷ, óc bè phái để thay vào đó là hoa trái của lòng bao dung, quảng đại, yêu thương, thứ tha và hiệp nhất. Mục nát đi sự giả dối, gian tham, lọc lừa, để thay vào đó là hoa trái của sự thật thà, liêm chính. Mục nát đi thái độ được phục vụ, để thay vào đó là tinh thần hiến thân phục vụ mọi người. Mục nát đi những trào lưu tục hóa, dục vọng, để thay vào đó là hoa trái của sự thánh thiện. Và, mục nát đi những “chân lý nửa vời”, những hành vi tôn thờ ngẫu tượng, để thay vào đó là lòng khát khao đi tìm chân lý trọn vẹn là chính Chúa và tin tưởng tuyệt đối ở nơi Ngài….

Như vậy, khi chúng ta chấp nhận đi trên con đường của Đức Giêsu trong thân phận của hạt lúa, chắc chắn cuối con đường ấy, chúng ta sẽ gặp được niềm vui, bình an và hạnh phúc, nhất là được sự sống đời đời làm gia nghiệp.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn giúp sức cho chúng con, để chúng con can đảm, trung thành đi đến cùng con đường mà chính Chúa đã đi khi xưa, ngõ hầu chúng con được hạnh phúc bất diệt trong ngày mùa sau hết. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY_B

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

nghĩa về sự vinh quang của Người về cuộc Tử nạn và Phục Sinh của Người để cứu độ nhân loại.

Đức Giêsu đã nói đến giờ của Người: “Đã đễn giờ Con Người được tôn vinh” Giờ là chủ đề lớn trong tin mừng Gioan. Giờ mà Đức Giêsu chịu chết trên thập giá là lúc Chúa Giêsu toàn thắng ma quỷ, tội lỗi, sự chết, chính là lúc Chúa Giêsu được tôn vinh là Đấng Cứu độ duy nhất: “Khi nào Tôi bị treo lên. Tôi sẽ kéo mọi người lên cùng Tôi… Các ông sẽ biết Ta hằng hữu”. Giờ của Đức Giêsu cũng là giờ mà Chúa được phục sinh từ cõi chết. Chính lúc Chúa tắt thở là lúc mà mọi người tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng cứu độ. Viên sĩ quan đâm cạnh sườn Chúa đã đấm ngực va tuyên xưng: “Ông này quả thực là Thiên Chúa”. Tên trộm bên hữu Chúa cũng tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu: Khi Ngài vào Nước của Ngài xin nhớ đến con”. Nhiều người chứng kiến Chúa chết trên thập giáhôm ấy cũng tuyên xưng rằng: “Ông Giêsu là Thiên Chúa thật”.

Như thế giờ của Chúa là giờ thứ sáu tuần thánh và cũng là giờ của ngày Chúa nhật Phục sinh.

Muốn được phục sinh với Chúa trong vinh quang, chúng ta cũng phải sống giờ của mình như Đức Giêsu Kitô: Hy sinh, quên mình, chết đi với những tính hư nết  xấu, chết đi cho tội lỗi, kiêu căng, bất công… để được sống lại hưởng hạnh phúc muôn đời. Vinh quang luôn luôn phải trả giá rất đắt!

Đức Giêsu minh họa cuộc đời của Ngài như“hạt lúa gieo vào lòng đất phải mục nát đi, mới sinh nhiều bông hạt”. Để cứu chuộc nhân loại, Chúa Giêsu cũng phải chết đi để bước vào cõi sống muôn đời, phải chết đi mới được phục sinh. Như thế con đường thập giá, con đường tử nạn là con đường dẫn đến sự phục sinh. Trong sự chết đã ẩn tàng sự sống. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. chính Chúa Giêsu đã đưa ra nghịch lý của cuộc đời: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất. Ai ghét sự sống mình ở đời này, thì giữ được nó cho sự sống đời đời”. Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta: Ai muốn theo Chúa thì không có đường nào khác ngoài con đường Chúa đã đi: con đường thập giá. Vì thế ai theo Người trên con đường khổ giá thì sẽ được vinh quang với Người.

Qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cho chúng ta thấy rõ giá trị của Thập giá, của đau khổ. Con đường thập giá là con đường vinh quang. Ý nghĩa này giúp ta sống tinh thần tuần thánh, đồng thời thúc đẩy chúng ta vui nhận thập giá trong đời như cơ hội đền tội và lãnh nhận phần thưởng Chúa ban.

Cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô cũng là sự từ bỏ, hy sinh và hoàn thiện của đời sống Kitô hữu. Cũng như Chúa Giêsu, người Kitô hữu đều được kêu mời trở nên hạt lúa gieo vào lòng đất để được kêu gọi tham gia vào việc cứu rỗi tha nhân qua việc kết hợp với Chúa Kitô.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY_B.

Lm Giuse Đinh Tất Quý

Lời Chúa chúng ta vừa nghe mở ra cho chúng ta những viễn tượng hết sức mới mẻ về ý nghĩa và giá trị có liên quan đến việc chịu nạn chịu chết của Chúa Giêsu sắp tới và về những đòi hỏi Chúa muốn những ai đi theo Chúa phải chấp nhận.

1. Có thể nói khi bộc lộ những lời rất chân thành còn được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu đang hướng về cái chết sắp tới mà Ngài phải chịu.

Ngài sẽ phải chết nhưng cái chết của Ngài sẽ đem lại cái gì cho nhân loại? 

Thông thường chúng ta thấy chết là chấm hết mọi sự. 

Còn đối với Chúa cái chết không những không chấm dứt mà còn đưa cuộc đời của Ngài lên một tầm cao mới. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh !” (Ga 12,23). 

“Giờ” ở đây không phải là một khoảnh khắc chiếm một chỗ xác định rõ ràng trong dòng thời gian, mà là một thời điểm vô cùng quan trọng. Nó đánh dấu sự khởi đầu một thời đại mới sẽ kéo dài đến mãi mãi. 

“Giờ” ở đây chính là lúc Đức Giêsu bước lên Thập giá. Khi đó mọi trục trặc vướng víu trong liên hệ giữa loài người với Thiên Chúa được tháo gỡ hết, tương giao giữa loài người với Thiên Chúa sẽ được thông suốt, nhờ thế tình thương và sức sống dồi dào của Thiên Chúa sẽ được chuyển thông dào dạt cho loài người. 

Như vậy chết đối với Chúa chính là lúc được tôn vinh và Chúa còn cho cả con người được tôn vinh với Chúa “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.” (Ga 12,32). 

Chúng ta tìm được bài học nào ở đây? 

Tôi tưởng bài học quí giá nhất mà chúng ta học được từ Chúa ở trong hoàn cảnh này là biết nhìn ra những giá trị nơi những cái mà người đời coi thường. Khi đối diện với cây Thập Giá, người đời cho đó là một hình phạt đáng nguyền rủa nhưng Chúa Giêsu đã nhìn nó như một phương tiện mang lại ơn cứu rỗi. 

Có một chàng trai sinh ra trong một gia đình nghèo khó. Để kiếm tiền nuôi sống gia đình, chàng trai phải bỏ học để đi bán bàn chải đánh răng với số tiền lãi ít ỏi. Bạn thử nghĩ xem, một chiếc bàn chải đánh răng chỉ lãi được một hào, thì một tháng chàng trai phải bán gần 10 nghìn chiếc bàn chải mới đủ tiền nuôi sống gia đình. Nhưng chàng trai vẫn cần mẫn làm công việc này. Trong vòng ba năm, chàng trai bán được gần 100 nghìn chiếc bàn chải. Có lẽ số tiền chàng trai kiếm được không phải là nhiều, nhưng chàng trai học được vốn kinh nghiệm quý báu trong bán hàng. 

Không lâu sau, chàng trai lập nghiệp với số vốn vỏn vẹn có 3000 đô la. Bắt đầu bằng cách hợp tác với người khác, lợi dụng thương hiệu của người khác. Sau đó, dựa vào tài năng của bản thân, chàng trai tự sản xuất và tạo dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình, hơn nữa còn liên tục mở rộng mạng lưới tiêu thụ. Trong vòng thời gian 5 năm ngắn ngủi, anh đã tiêu thụ sản phẩm của công ty mình ở hơn 20 quốc gia, và trở thành một tỷ phú. 

Người đàn ông này chính là ông vua bàn chải đánh răng của nước Mỹ James. Chính nhờ ba năm kiên trì công việc tiếp thị bàn chải đánh răng, hiểu biết cặn kẽ các khâu khác nhau từ sản xuất đến tiêu thụ, đồng thời kiên định niềm tin thể hiện tài năng trong lĩnh vực này, mà cuối cùng ông đã thành công. 

Trong cuộc sống đôi khi một điểm yếu của ai đó lại trở thành điểm mạnh vững chãi nhất của họ. Có ưu điểm là một điều tốt nhưng nếu có thể biến khuyết điểm thành lợi thế lại càng là một điều kỳ diệu hơn. Chúa Giêsu đã biết biến thất bại của cây Thập Giá thành chiến thắng vinh quang. Ngài đã nhìn thấy ở nơi cây Thập Giá ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa Cha và Ngài đã đón nhận cây Thập Giá với tất cả tấm lòng của người con thảo để từ đó Ngài mở ra cho Thiên Chúa Cha một dân tộc mới, dân tộc được cứu rỗi. 

  1. Những đòi hỏi Chúa muốn những ai đi theo Chúa phải chấp nhận.

Đây là Lời của Chúa: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”(Ga 12,25-26).Phải coi thường mạng sống của mình, phải mất mạng sống của mình thì mới giữ lại cho mình sự sống đời đời. Đó là qui luật. Đó là ý muốn của Thiên Chúa. 

Ngày xưa tại trung tâm của một thành phố nọ có một bức tượng được người dân gọi là hoàng tử vui vẻ. Bức tượng điêu khắc này đứng sừng sững trên một trụ đá cao. Toàn thân bức tượng đều được dát bằng những chiếc lá vàng. Đôi mắt của chàng được làm từ đá ngọc bích phát sáng và trên thanh kiếm của chàng người ta thấy có một viên đá hồng ngọc. Người ta đã dùng chì để làm cho chàng một quả tim. 

Là Hoàng Tử Vui vẻ nhưng giờ thì hoàng tử cảm thấy mình chẳng vui tí nào, vì chàng đang đứng trên trụ cao của thành phố và nhìn thấy mọi nỗi buồn vui, khổ sở của người dân. 

Vào một đêm nọ, có một con Chim én bay đến đậu dưới vai Hoàng tử vui vẻ. Hoàng tử nói với nó, mình rất muốn giúp đỡ những người nghèo, nhưng lại không thể giúp được. Chim én nhỏ cảm động bởi tấm chân tình của Hoàng tử nên nhận lời giúp chàng. Do đó, Chim én nhỏ lấy hòn đá hồng ngọc từ thanh kiếm của Hoàng tử ra, tặng cho một người thợ may nghèo khổ, để bà ấy có tiền mua cam cho đứa con gái đang bị bệnh. 

Chim én nhỏ lại lấy một viên ngọc bích ở một mắt của hoàng tử tặng cho một nhà văn nghèo để anh ta có đủ tiền hoàn thành tác phẩm của mình. Rồi một hôm, có cô bé nghèo khổ bán diêm trên đường, vì không  cẩn thận cô đã làm rơi hết diêm xuống rãnh nước bẩn, vì thế cô bé buồn bã khóc òa lên. Thấy vậy, Chim én nhỏ lại lấy một viên ngọc bích ở mắt còn lại của Hoàng tử tặng cho cô bé bán diêm. Hoàng tử không còn ngọc bích nữa nên đã bị mù. 

Rồi sau đó, Chim én lại lấy từng chiếc là vàng trên người hoàng tử tặng cho những người nghèo khổ. 

Mùa đông đến rồi, những người dân  nghèo khổ vì được Hoàng tử vui vẻ giúp đỡ nên đã có một năm mới thật vui vẻ. Buổi tối đêm giao thừa, Chim én nhỏ đã chết cóng dưới chân Hoàng tử. Khi Chim én nhỏ chết, tượng điêu khắc của hoàng tử cũng sụp đổ, trái tim bằng chì cũng vỡ nát. 

Buổi sáng hôm sau, thị trưởng thành phố và các quan chức đến quảng trường, phát hiện bức tượng điêu khắc hoàng tử đã bị vỡ vụn, do đó họ quyết định vứt tượng điêu khắc đó đi, để khỏi làm ảnh hưởng đến cảnh quan thành phố. Và như thế, từng mảnh vụn của pho tượng điêu khắc, cùng với trái tim chì và xác Chim én nhỏ đều bị vứt vào đống rác. Thế là chấm dứt tất cả. Không còn ai biết đến hoàng tử Vui vẻ cà con Chim én nữa. 

Thế nhưng từ trời cao Thượng Đế đã nhìn thấy tất cả. Để ân thưởng cho tấm lòng tốt của Hoàng Tử và sự hy sinh của con chim én, Thượng đế đã sai sứ thần đến thành phố này, ra lệnh cho sứ thần đem xác con Chim én và trái tim bằng chì của Hoàng Tử Vui  vẻ về cho Ngài. Từ cái xác chết đó Thượng đế đã trả lại sự sống cho Chim én và cho Chim én được mãi mãi hát ca trong vườn hoa trên thiên đường. Còn Hoàng tử thì Thượng đế phục hồi lại sự sống và sau đó thì được sống vui vẻ trong lâu đài bằng vàng Thượng đế. 

Thầy bảo thật anh em: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”(Ga 12,25-26)

Về mục lục

.

HẠT LÚA MÌ GIEO VÀO LÒNG ĐẤT

Lm. Giuse Phạm Quốc Phong

“Hạt lúa mì gieo vào lòng đất, nếu nó chết đi, nó mới sinh nhiều hạt khác” (Ga 12,24)     

       Có mấy người hilạp đến gặp Philiphe để xin gặp Chúa Giesu, vì họ muốn đi gặp để biết thật sự Chúa Giesu là ai, theo như những lời đồn đại của người ta. Có lẽ họ mong đợi sẽ được gặp một người vĩ đại, một nhà triết gia khôn ngoan, có thể chia sẻ với họ về những tư tưởng lớn lao. Nhưng ngược lại, họ lại tìm thấy một người Giesu đang đau khổ, bối rối và sợ hãi: “Bây giờ tâm hồn thầy xao xuyến, thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” (Ga 12,27). Chúng ta cũng là những người đang đi tìm Thiên Chúa, đi tìm chân lý và ý nghĩa cho cuộc đời mình, liệu rằng chúng ta có bị bất ngờ và thất vọng không, khi Thiên Chúa mà chúng ta muốn tìm kiếm, không phải là một nhân vật vĩ đại, nổi tiếng, hay một nhà triết học, một nhà tư tưởng lừng danh, hay là một người giàu có, danh giá, mà Ngài lại ẩn mình trong những người bé nhỏ và nghèo hèn nhất của xã hội, những người bệnh tật, những người bị bỏ rơi, … và có thể đã có những lúc chính chúng ta không thèm nhìn, không tiếp nhận và thậm chí xua đuổi Ngài ra khỏi cuộc đời của chúng ta.

       Nhưng có lẽ chúng ta lại bất ngờ và thất vọng hơn nữa, khi chúng ta nhận được câu trả lời từ chính Chúa Giêsu cho các người hilap khi xưa và cũng là cho chúng ta hôm nay: “nếu các ngươi muốn hiểu Thầy, hãy nhìn hạt lúa mì kia, nếu các ngươi muốn nhìn thấy Thầy, hãy chiêm ngắm thập giá”. Ngài nói với mỗi người chúng ta: “Các con muốn hạnh phúc ư, hãy vác thập giá như Thầy đã vác”. Con đường mà Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta, cũng chính là con đường thập giá mà chính Ngài đã đi trọn vẹn, dường như đối với chúng ta trong thế kỷ này, hơi bị mâu thuẫn và khó chấp nhận được. Vì sao vậy? thưa là bởi vì, thế giới mà chúng ta hay thường gọi là “thế gian” đang giới thiệu và hứa hẹn với chúng ta một con đường “kiếm hạnh phúc” khác hẳn. Đó là một con đường “tự do tuyệt đối” do con người làm chủ nhân độc quyền, một “khoa học kỹ thuật đỉnh cao” có khả năng chinh phục và điều khiểnvũ trụ, một “tiến bộ vượt bậc của ngành y học và sinh học”, một cuộc sống “hưởng thụ mọi nhu cầu”, … thế gian đang chào mời và hấp dẫn chúng ta bằng cách tạo ra nhiều “nhu cầu” và bảo đảm với chúng ta rằng, chúng ta sẽ hạnh phúc khi được thỏa mãn các nhu cầu đó. Và chúng ta ít nhiều bị ảnh hưởng bởi sự hấp dẫn của nó, và nhiều người trong chính gia đình chúng ta, trong giáo xứ chúng ta đang đi theo “lý thuyết” này. Nhưng tiếc thay cho đến bây giờ, lý thuyết này đang mất dần đi hiệu lực và sức mạnh của nó, vì những sự dữ đang hoành hành thế giới với sức phá hoại không tưởng nổi.

       Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta vào một con đường hoàn toàn khác hẳn, có vẻ đi ngược lại các xu hướng tự nhiên của con người. Nhà thần học gia nổi tiếng Karl Rahner có nói: “để biết được Thiên Chúa là ai, chỉ bằng cách là tôi phải qui gối xuống chân thánh giá”. Chính Chúa Giêsu đã đi vào trong con đường này, và Ngài mời gọi mỗi người chúng ta, nếu muốn hạnh phúc, hãy đi theo Ngài vào đó. Chúa Giesu là một hạt lúa mì, chết đi và sinh nhiều hạt mới, bước vào con đường thập giá và đã phục sinh, Ngài đã dùng cái chết của Ngài để tiêu diệt sự chết và tôn vinh Tình Yêu bất diệt mà Thiên Chúa dành cho con người.

       Không có con đường rộng nào dẫn đến thiên đàng đâu, mà chỉ có con đường hẹp mới dẫn đên Nước Trời thôi. Vấn đề là chúng ta có dám đi vào con đường hẹp không, để được hạnh phúc với sự giúp sức và đảm bảo sẽ chiến thắng của chính Chúa Giesu và Giáo hội của Ngài. Con đường này chính là con đường “tình yêu” đích thật, không phải thứ tình yêu “tôn thờ cảm xúc” như một bộ phận lớn giới trẻ đang quan niệm và tìm kiếm. Một tình yêu dẫn dắt chúng ta đến tìm gặp Đấng là Nguồn Mạch của Tình yêu, để rồi tìm gặp được chính chúng ta trong mầu nhiệm tình yêu đó, với tư cách là “con Thiên Chúa” và chúng ta sung sướng gọi Thiên Chúa “Abba, Cha ơi, Bố ơi”. Một tình yêu đưa chúng ta đến gặp một Thiên Chúa Tha Thứ, một người Cha nhân hậu không bao giờ trách tội con mình, nhưng là tha thứ luôn luôn và quên hết mọi lỗi lầm của chúng ta.Một tình yêu mang chúng ta đi vào một Thiên Chúa của giao ước và trung thành cho đến cùng, Ngài đã yêu chúng ta và Ngài đã yêu chúng ta đến cùng, đó là chết thay, trả cái nợ mà đáng lẽ chúng ta phải trả: “đó là sự chết”.

       Chỉ có “Tình Yêu” này mới có thể làm chúng ta thỏa mãn cơn khát vô tận của con tim chúng ta, và cũng chỉ có con đường “thập giá” này mới đưa chúng ta vào trong sự “hạnh phúc” đích thật. Ước gì trong tuần cực thánh sắp tới, chúng ta xin ơn được trở về với Thiên Chúa, trở về với chính chúng ta, để xin Người tha thứ và ơn can đảm đứng lên, bước theo Chúa vào trong con đường thập giá mỗi ngày, với sự đồng hành và giúp sức của chính Chúa Giêsu: “Đừng sợ, vì Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Xin cho mỗi người chúng ta dám can đảm chết đi con người cũ, chết đi cho Chúa và cho anh em, để chúng ta có khả năng trổ sinh bông hạt dồi dào.

Về mục lục

.

HÀNH TRÌNH TỰ HỦY

Lm. GB. Trần Văn Hào

Triết gia Jean Guitton, bạn thân của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, đã kể lại một giai thoại như sau. Hồi còn rất nhỏ, ban đêm ông ngủ với mẹ. Nhà hàng xóm bên cạnh có người chết. Giữa đêm khuya vắng có tiếng khóc ngân xa nghe rất não nuột. Đứa bé sợ quá ôm chầm lấy mẹ. Nó hỏi : “Mẹ ơi, chết là gì hả mẹ?” Câu hỏi đột ngột khiến bà mẹ trẻ lúng túng không biết trả lời đứa con như thế nào. Bà bật dậy, ngồi vào bàn và mở cuốn Kinh thánh ra đọc. Trong Tin mừng Gioan chương 13 câu 1, bà đọc thấy thánh ký đã viết : “Trước lễ vượt qua, Đức Giêsu biết trước giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha, Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở trần gian và Người yêu thương họ đến cùng.” Gấp sách lại, bà trở về giường và nói với đứa con : “Con ơi, chết là trở về với Cha và yêu thương đến cùng”.

Các bài đọc Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta đến gần sát với cái chết của Đức Giêsu hơn. Con đường dẫn tới núi sọ và huyệt đá chính là con đường yêu thương trong hành trình tự hủy. Cuộc hành trình tự hủy đó giống như định luật của hạt lúa được gieo vào  đất. Hạt lúa sẽ thối đi, sẽ chết đi nhưng sẽ sản sinh nhiều bông hạt khác.

‘Giờ’ Con Người được tôn vinh.

Cao điểm của hành trình tự hủy là ‘Giờ’ mà Con Người được tôn vinh. Chủ đề ‘Giờ’ được thánh ký Gioan nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong sách Tin mừng của Ngài. Trong phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu đã vén mở thực tại này khi trả lời Đức Mẹ : “Chuyện đó can gì đến bà và tôi, ‘Giờ’ của tôi chưa đến (Ga 2,4)”. Đó là ‘Giờ’ mà Chúa Giêsu không phải làm phép lạ biến nước thành rượu, nhưng biến rượu thành máu của Ngài, máu đổ ra trên Thánh giá để khai mở nguồn ơn cứu độ. Khi đàm đạo với thiếu phụ Samari bên bờ giếng Giacóp, Chúa Giêsu cũng nói : “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha không phải trên núi này hay tại Giêrusalem, nhưng sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần khí và Sự Thật (Ga 2, 23)”. Liền sau đó, Chúa nói tiếp : “Giờ đã đến”. Đó là ‘Giờ’ Chúa Giêsu khai mở một nền phụng tự mới qua máu của Ngài đổ ra trên Thánh giá. Đặc biệt, khi đến thời điểm cận kề cái chết, Chúa Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha : “Lạy Cha, ‘Giờ’ đã đến, xin hãy tôn vinh con Cha để con Cha tôn vinh Cha (Ga 17, 1)”. Cũng tương tự, trong bài Tin mừng hôm nay, khi loan báo về cái chết của mình, Đức Giêsu đã trả lời các môn đệ : “Đã đến ‘Giờ’ con người được tôn vinh” (Ga 12, 23).

Vì vậy, xuyên suất trong Tin mừng thứ 4, Thánh Gioan luôn nhấn mạnh đến ‘Lễ Vượt qua’ cuối cùng, đó là giờ ‘Con người được treo lên để ai tin vào người con sẽ không phải chết nhưng có sự sống đời’. Thánh giáo phụ Irênê đã viết : “Vinh quang của Thiên Chúa là con người chúng ta được sống”. Nhưng muốn cho con người được sống và sống dồi dào, Đức Giêsu đã đi vào hành trình tự hủy và chấp nhận cái chết nhuốc khổ như một tên tử tội đốn mạt.

Giờ Chúa Cha được tôn vinh cũng là giờ mà Đức Giêsu bị nhấn xuống tận đáy bùn đen trong xã hội loài người và đón nhận cái chết thảm khốc. Đây là nghịch lý của tình yêu được thánh Gioan nhắc đi nhắc lại khá nhiều lần. Hình ảnh về hạt lúa được gieo vào lòng đất được Chúa Giêsu vay mượn để nói về cái chết của Ngài. Hạt lúa sẽ thối rữa trong lòng đất để sản sinh những hạt lúa khác. Cũng vậy, phải đi qua Thập giá mới đạt đến vinh quang. Phải đi vào lộ trình của mầu nhiệm tự hủy, chúng ta mới vươn đạt tới sự sống. Đây là nghịch lý cao cả mà Giáo hội mời gọi chúng ta quy hướng về trong suốt tuần lễ này, tuần lễ cuối cùng của mùa Chay, trước khi bước vào Tuần Thánh. Chúng ta suy niệm về cái chết của Chúa Giêsu không phải chỉ qua ngắm nguyện, qua việc đi Đàng Thánh giá hay qua các cử hành phụng vụ. Điều quan trọng nhất, là chúng ta phải can đảm đi vào hành trình tự hủy cùng với Chúa Giêsu, bởi vì những ai cùng chết với Đức Kitô sẽ được cùng sống lại với Người (2 Tm 2, 11).

Bản chất đời sống Kitô hữu là đi sâu vào hành trình tự hủy song song với mầu nhiệm Thập giá, như Chúa đã nói : “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo”. Vác thập giá không phải đơn thuần chỉ là chịu đựng những nghịch cảnh hay những đau khổ, nhưng đó là lộ trình từ bỏ tận căn cách liên lỉ, từ bỏ chính cái tôi ích kỷ nơi con người mình, tức là phải chết đi cho con cũ của chúng ta mỗi ngày. Một cha xứ nọ có sáng kiến tổ chức một Thánh lễ an táng và mời cả cộng đoàn đến tham dự. Trong giây phút tiễn biệt người quá cố lần cuối, cộng đoàn đến trước quan tài và quan tài được mở ra cho mọi người nhìn mặt người chết lần cuối. Nhưng bên trong quan tài ấy không có một xác chết nào cả, chỉ có một tấm gương phản chiếu chính gương mặt của người đến phúng viếng. Ở phía dưới có ghi hàng chữ ‘Bạn hãy tập mai táng chính mình’. Chúng ta phải tập chết mỗi ngày, nhưng không phải là chết về thể lý mà chết trong hành trình tự hủy cách liên tục.

Cuộc chiến nội tâm.

Trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay, tác giả thư Do Thái đã viết : “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã phải lớn tiếng rơi lệ mà dâng lời nguyện nài xin Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết (Dt 5, 7). Mang kiếp con người như chúng ta, Đức Giêsu cũng khiếp sợ khi đối diện trước cái chết. Sự sợ hãi dâng cao đến độ mồ hôi và máu toát ra. Theo một số nhà khoa học phân tích, đây là hiện tượng thể lý khi sự sợ hãi dâng lên tột điểm, thần kinh sẽ căng ra và các mạch máu thấm vào những lỗ chân lông để rỉ ra bên ngoài. Nhưng trong cơn sợ hãi tột cùng ấy, Chúa Giêsu đã hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Cái chết của Ngài trở nên căn nguyên ơn cứu độ cho chúng ta (Dt 5, 9).

Sự giằng co và cuộc chiến đấu nơi Đức Giêsu trở thành bài học quý giá cho mọi người ngày hôm nay. Nhiều lúc chúng ta cũng muốn vươn lên, nhưng bản tính yếu đuối của kiếp người lại kéo ghì chúng ta đi xuống. Trong những giây phút hấp hối bi thương nơi vườn cây dầu, Chúa Giêsu đã chiến thắng những cám dỗ muốn thoái lui để hoàn toàn quy thuận thánh ý Chúa Cha. Cũng vậy, trong cuộc lữ hành đức tin trần thế, đặc biệt trong suốt mùa chay thánh này chúng ta cần suy niệm, học hỏi và bắt chước gương mẫu kiên định nơi Đức Giêsu.

Kết luận

Trên giường hấp hối, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói với các chị em trong cộng đoàn: “Em sắp chết, nhưng không phải em chết mà em đang đi về cõi sống”. Sở dĩ thánh nữ có cái nhìn lạc quan như thế khi đối diện trước cái chết vì Ngài đã thâm tín sâu xa và sống triệt để điều mà chị Thánh đã tâm niệm và viết lại trong cuốn nhật ký một tâm hồn : “Ơn gọi của tôi là tình yêu. Tình yêu vượt thắng mọi thời gian và không gian. Ơn gọi của tôi không là gì khác tình yêu”. Trong tình yêu, con người sẽ trở thành bất tử. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết sống sung mãn ơn gọi tình yêu để ngày càng đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy cùng với Chúa Giêsu.

Về mục lục

.

GIỜ CON NGƯỜI ĐƯỢC TÔN VINH

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

            ‘Ad Magiorem Dei Gloriam’ là một khẩu hiệu được nhiều dòng tu lựa chọn, tuy nhiên, ‘vinh quang Thiên Chúa – Gloria Dei’ hệ tại ở điều gì, và khi nào thì Thiên Chúa thật sự được tôn vinh thì vẫn là một điều cần minh định. Không ít lần ta được nghe giải thích, giờ phút vinh quang của Đức Giê-su chính là khi Người phục sinh vinh hiển. Người ta thường chú giải câu “nếu chết đi, hạt lúa mới sinh được nhiều hạt khác” như sau: ‘Chúa Giê-su để di thể của Người chôn vùi trong lòng đất, để khi ra khỏi mồ, chính thân thể đã được vinh quang ấy sẽ là tụ điểm của tất cả mọi người tín hữu (lời chú giải Ga 12:24 trong ‘Christian Community Bible’). Chúng ta quá quen thuộc với câu nói thường được nhắc đi nhắc lại: ‘Qua thập giá tới vinh quang – Per Crucen ad Lucem’. Câu nói đó hàm ý, cái chết của Đức Ki-tô trên thập giá chỉ là phương tiện trung gian, là con đường đưa tới vinh quang mà thôi, còn tự nó chẳng vinh quang chút nào hết, toàn là đau đớn và nhuốc khổ! Nói như thế quả là hợp lý theo lối nhìn thường tình nhân loại, tuy nhiên hình như đó không phải là điều mà Đức Giê-su đã xác quyết. Đọc kỹ một chút Tin Mừng Gio-an chương 12 ta nhận ra ngay: Đức Giê-su công khai khảng định: chính giờ chết thập giá, khi Con Người được ‘giương cao lên khỏi đất… là lúc ngài được tôn vinh’.

            Tại sao thời điểm chịu chết lại là giờ phút Con Người được tôn vinh? Cứ theo thói tự nhiên thì không có cách nào lý giải hết, bởi vì “Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến! Lạy Cha xin cứu con khỏi giờ này!” Trong tư cách người phàm, Đức Giê-su cũng đã quằn quoại trước giờ tử nạn, và các Thánh Sử đã không hề muốn che đậy điều này; “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc 14:34); ‘Lòng xao xuyến bồi hồi… Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất’ (Lc 22:44). Thế thì vì lẽ nào mà cái giờ phút kinh hoàng tột độ đó, khi mà chính Người còn mong trốn thoát, lại có thể được Người gọi là đỉnh điểm (kairos) ‘được tôn vinh’? Và không chỉ tôn vinh riêng Người, mà còn là giờ phút cả Chúa Cha cũng được tôn vinh nữa, ‘Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha… Bấy giờ có tiếng phán từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa”.

            Có thể ai đó trong chúng ta cho rằng đó chỉ là một kiểu nói, một lối diễn tả bóng bảy. Nếu quả đúng là như thế thì chẳng có gì đáng bàn thêm! Tuy nhiên tác giả Gio-an lồng tuyên bố mang tính mạc khải này trong một khung cảnh trang trọng hiếm thấy: một số người Hy Lạp yêu cầu được gặp Đức Giê-su qua trung gian các môn đệ Phi-líp-phê và An-rê; họ chân thành muốn tìm hiểu về Thầy Giê-su, nhân vật được họ nể phục. Câu tuyên bố họ nhận được sau đó quả là một cú sốc, như sau này Phao-lô sẽ nhận xét: “… người Hy-lạp tìm kiếm lẽ không ngoan… sẽ cho là điên rồ”. Nhưng rồi cũng chính Phao-lô mạnh dạn khảng định thêm: “Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng Ki-tô chịu đóng đinh ấy, chính là sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa…” (1 Cr 1:23-24)

            Như vậy Ki-tô hữu chân chính sẽ không phải là người lên tiếng khảng định ‘per Crucem ad lucem’ theo lẽ thường tình, mà phải là những người có khả năng xác quyết với niềm thâm tín sâu xa nhất ‘Crux est lux – Thập giá chính là vinh quang!’ Như môn đệ Gio-an, chỉ khi ngước nhìn lên thập giá, họ mới nhận rõ một điều ‘Thiên Chúa là tình yêu… Chúa Cha yêu thế gian đến nỗi…’ Nơi thập giá mỗi Ki-tô hữu nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa Tình Yêu rạng ngời, “chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1:14). Gio-an đã coi chứng từ thập giá là quan trọng hơn hết trong niềm tin của mình: “người xem thấy việc này đã làm chứng, và chứng của người ấy xác thật. và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Ga 19:35). Chưa nhận ra được vinh quang Thiên Chúa nơi thập giá thì cũng chưa thể nói là mình đã trọn vẹn xác tín rằng ‘Thiên Chúa là tình yêu’, vì đây chính là mạc khải độc nhất vô nhị mà Đức Giê-su cất công đến trần gian để khai mở bằng thập giá của Người. Vì thế cho nên Người mới gọi giờ phút thập giá là ‘Kairos’, “giờ Con Người được tôn vinh… và chính vì giờ này mà con đã đến”. Giờ phút quan trọng nhất đời Đức Giê-su chính là ‘khi được giương cao lên khỏi mặt đất’ (‘ám chỉ Người phải chết cách nào’) vì chính lúc đó ‘tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi’, chứ không phải lúc sống lại ra khỏi mồ hay lên trời hiển vinh. Như vậy niềm tin Ki-tô hữu trước hết và trên hết phải là niềm tin Thập giá trước cả niềm tin phục sinh, vì phục sinh, xét cho cùng, cũng chỉ là Thập Giá tình yêu chiến thắng. “Ave Crux Gloria!”

            Tôi cử hành vinh quang thập giá ra sao trong mỗi Thánh Lễ để, cho riêng cá nhân tôi, Thánh Lễ sẽ trở thành một lời ca tụng và cảm tạ vinh quang đích thực mà Thiên Chúa, trong Đức Ki-tô Giê-su đã mạc khải cho tôi được biết: ‘Thiên Chúa là tình yêu’?

            Lạy Đức Giê-su bị giương cao trên thập giá, con tôn thờ Thánh giá Chúa, con suy tôn Thiên Chúa vinh quang của tự hiến, xót thương và cứu độ. Xin cho con có khả năng luôn đọc được nơi thập giá Chúa chịu đóng đinh một chữ T và chữ Ysáng ngời (T là hình tượng thập giá và Y là hình tượng Giê-su chết treo trên đó), một Tinh Yêu vinh quang, vinh quang không phải cho ai khác mà là cho chính sự thấp hèn của con. Càng nhìn nhận mình tội lỗi yếu hèn, hình như con lại càng có khả năng nhận ra vinh quang sáng chói của thập giá. Xin gia tăng nơi con khả năng sống niềm tin thập giá này, bây giờ và nhất là trong giờ lâm tử. A-men.

Về mục lục

.

HÀNH TRÌNH SINH TỬ

Trầm Thiên Thu

Thi sĩ kiêm nhà viết kịch Bertolt Brecht (1898–1956, Đức) nhận định: “Cái đáng sợ không phải là CHẾT, mà là SỐNG RỖNG TUẾCH”. Rất lạ mà chí lý! Sống – Chết là một vòng đời, Sinh – Tử là một hành trình kiếp người.

Là phàm nhân, ai cũng một lần sinh và một lần chết, bởi vì chính Thiên Chúa đã xác định với con người: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3:19). Đối với nhân loại, cái chết là thất bại lớn nhất của con người, thế nhưng cái chết lại không đáng sợ như chúng ta tưởng, mà đáng sợ nhất là “cái chết ngay khi còn thở” – tức là sống mà như chết, sống rỗng tuếch, sống thừa, sống không có mục đích.

Người Việt Nam có câu: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Có nhiều cách chết, có cái chết đáng khâm phục và có cái chết “lãng nhách”, do đó cái “tiếng” cũng có thể là TỐT hoặc XẤU, người Công giáo gọi là chết lành hoặc chết dữ. Người ta cũng nói: “Chết vinh hơn sống nhục”. Sống nhục là chết khi còn sống. Phàm cái gì có khởi đầu thì có kết thúc. Cũng vậy, có sinh ắt có tử.

Thánh Phaolô là người đã từng hăng hái và quyết ra tay triệt tiêu Ông Giêsu, nhưng rồi cuối cùng ông đã hoàn toàn biến đổi và phải thú nhận: “Đối với tôi, SỐNG là Đức Kitô, và CHẾT là một mối lợi” (Pl 1:21), và ông nói về Đấng mà ông tin yêu: “Đức Kitô đã hạ mình, vâng lời cho đến chết trên cây thập tự” (Pl 2:8). Chết đời tạm này để có thể sống đời vĩnh hằng.

YÊU ĐỂ SỐNG

Cuộc sống luôn cần yêu và được yêu. Như vậy, yêu là sống và sống là yêu – yêu để mà sống. Qua miệng ngôn sứ Giêrêmia, Thiên Chúa tuyên phán sấm ngôn: “Này sẽ đến những ngày Ta lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giuđa một GIAO ƯỚC MỚI, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai Cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng” (Gr 31:31-32). Rất lạ, bởi vì Giao-Ước-Mới này hoàn toàn khác với giao ước đã ký kết với tiền nhân. Giao ước đó là gì? Là giao ước Thiên Chúa lập với nhà Ít-ra-en, chính Ngài ghi vào lòng dạ dân chúng, khắc vào tâm khảm dân chúng Lề Luật của Ngài. Ngài là Thiên Chúa của họ, còn họ là dân của Chúa. Họ sẽ không còn phải dạy bảo nhau, và họ truyền miệng nhau: “Hãy học cho biết Đức Chúa” (Gr 31:34a). Học cho biết Đức Chúa về nhiều thứ, trong đó có việc học yêu. Do đó mà mọi người từ nhỏ đến lớn đều nhận biết Chúa. Điều tuyệt vời nhất là “Thiên Chúa sẽ tha thứ tội ác cho họ và không còn nhớ đến lỗi lầm của họ nữa” (Gr 31:34b). Là tử tội mà được tha bổng, được trắng án, có ai lại không hạnh phúc? Được sống thì phải biết yêu, và phải yêu để sống!

Và như chúng ta được biết, Giao-Ước-Mới đó mệnh danh là Tân Ước, là Luật Yêu Thương – không chỉ yêu người yêu mình mà phải yêu cả kẻ thù (x. Mt 5:44; Lc 6:27 & 35). Coi bộ “căng” dữ nghen. Vâng, không dễ chút nào! Thế nhưng yêu thương và tha thứ có hệ lụy lẫn nhau, không thể có cái này mà thiếu cái kia. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7:12). Ai có lỗi cũng muốn được bỏ qua, nhưng muốn được tha thì phải biết tha cho tha nhân, và thành tâm xin Chúa: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm; tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” (Tv 51:3-4). Thành tâm cầu xin như thế thì Chúa không thể không tha, vì Ngài chỉ chờ mong giây phút được tha thứ cho tội nhân biết sám hối: “Ta lấy mạng sống Ta mà thề: Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống” (Ed 33:11a). Vả lại, Ngài KHÔNG làm ra cái chết (Kn 1:13).

Mặc dù đã được tha tội rồi, nhưng “vết chàm” chưa sạch (giống như “vết sẹo” vậy), thế nên chúng ta phải xin Chúa “đại tu” tâm hồn mình, và xin Ngài không ngừng nâng đỡ, nếu không thì chúng ta lại sa ngã ngay: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con Thần Khí Thánh của Ngài” (Tv 51:12-13). Phần riêng Chúa ban cho chúng ta nhưng chúng ta đã “phung phí” hết, cho nên chúng ta lại phải tiếp tục kêu cầu: “Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con; đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi, ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài” (Tv 51:14-15).

YÊU ĐỂ CHẾT

Chắc chắn cuộc sống KHÔNG THỂ thiếu vắng tình yêu thương. Sống để yêu, sống vì yêu, và sống là yêu, nhưng cũng vì yêu mà chết. “Sống để yêu” là điều dễ hiểu, nhưng lại khó hiểu khi nói rằng “chết là yêu, để yêu và vì yêu”, thậm chí nghe chừng nghịch lý. Nhưng điều đó vẫn là sự thật minh nhiên.

Mong muốn điều gì thì phải nói, chứ ai biết “ngứa” chỗ nào mà “gãi” chứ? Chính Đức Giêsu Kitô, khi còn sống kiếp phàm nhân, Ngài cũng đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết. Ngài đã được nhậm lời, vì Ngài có lòng tôn kính. Ngài “được nhậm lời” không có nghĩa là Ngài thoát đau khổ và không phải chết. Nhưng Ngài “được nhậm lời” để “thoát chết” bằng cách “đi xuyên qua cái chết”, được Chúa Cha cho sống lại vinh quang. Hành-trình-sống-chết của Đức Kitô nhằm củng cố đức tin cho chúng ta – những người đang trên đường lữ hành trần gian, đi từ cõi sinh và sẽ đến cõi chết.

Nói về Đức Kitô, Thánh Phaolô xác định: “Dầu là Con Thiên Chúa, Ngài đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5:8). Vậy đó, cái gì cũng phải khổ luyện, không thể cứ “khơi khơi” mà có thể uyên thâm, hiểu sâu và biết rộng. Học thì phải hành, không thực hành thì chỉ là mớ lý thuyết suông, không thực tế, vô ích. Học đàn phải luyện ngày đêm thì mới nhuần nhuyễn, tập tành văn thơ thi phú cũng phải làm nhiều thì mới “lên tay”, làm bếp cũng phải nấu hằng ngày mới có thể nấu ăn ngon,… Và mọi thứ đều cần kinh nghiệm, gọi là “khổ luyện”. Lười biếng thì chỉ có nước “bó tay”. Ngay cả Chúa Giêsu cũng đã theo đúng “quy trình” đó: “Khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Ngài trở nên NGUỒN ƠN CỨU ĐỘ VĨNH CỬU cho tất cả những ai tùng phục Ngài” (Dt 5:9).

Có mấy người Hy Lạp đồng hành trong số những người lên Đền Thờ Giêrusalem để thờ phượng Thiên Chúa. Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa, miền Galilê, và xin rằng: “Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu” (Ga 12:21). Một ước muốn tuyệt vời, và chắc chắn Ngài không từ chối bất cứ ai. Câu nói của người Pháp rất thú vị: “Vouloir, c’est pouvoir” (muốn là có thể được). Ông Philípphê nói với ông Anrê, ông Anrê cùng với ông Philípphê đến thưa với Đức Giêsu. Và Ngài trả lời: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!” (Ga 12:23).

Sau đó, Ngài trầm giọng: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12:24). Một hình tượng giản dị và rất thực tế. Có lẽ Ngài biết có người không kịp hiểu nên Ngài giải thích luôn: “Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12: 25). Ngài biết “giờ G” sắp đến, lòng Ngài cũng bồn chồn lo lắng vì thấy thương các đệ tử còn “non nớt”, nên Ngài nói như trải tấm lòng: “Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy” (Ga 12:26).

Là Thiên Chúa mặc xác phàm và theo nhân tính, Chúa Giêsu cũng cảm thấy xốn xang nên Ngài tâm sự với các đệ tử: “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây?” (Ga 12:27). Rồi Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (Ga 12:28a). Ngài cảm thấy sợ, nhưng Ngài ý thức trọng trách của mình và muốn Chúa Cha được tôn vinh mà thôi. Khi đó, có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” (Ga 12:28b).

Bất ngờ nghe tiếng vọng từ trời, dân chúng đứng ở đó ngạc nhiên, nhưng có người cứ tưởng chỉ là “tiếng sấm”, người khác lại cho là “tiếng một thiên thần” nói với Ngài. Đức Giêsu biết họ xì xầm nên nói: “Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người” (Ga 12:30). Vâng, giờ của Ngài sắp đến, “giờ” mà Ngài gọi là “giờ của kẻ ác”, là “thời của quyền lực tối tăm” (x. Lc 22:53). Thế nhưng chính “giờ” ấy lại là lúc “diễn ra cuộc phán xét thế gian này, lúc thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài!” (Ga 12:31). Một sự hoán vị ngoạn mục, chiến bại mà chiến thắng!

Mọi sự có vẻ khác lạ, nhưng Chúa Giêsu vẫn bình tĩnh và hứa: “Phần Tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi” (Ga 12:32). Ngài nói như vậy để ám chỉ Ngài sẽ phải chết cách nào, nhưng đầu óc phàm nhân của các đệ tử – mặc dù rất thân tín – cũng không đủ hiểu ý Ngài muốn nói. Và đó chính là lời-hứa-kỳ-diệu mà Ngài dành cho chúng ta!

Trong suốt hơn 30 năm làm người, hẳn là chưa bao giờ Ngài nói nhiều như lần này. Nói để từ giã. Nói để chia tay. Nói để trăn trối. Nói như không còn cơ hội để nói. Ngài muốn nói nhiều vì muốn mọi người BIẾT YÊU THƯƠNG NHAU, yêu để sống, yêu để chết, nghĩa là yêu cả lúc sống và khi chết. Ngài đã chịu chết để chúng ta được sống – sống đời đời. Mối Sinh và Mối Tử khép lại một Vòng Sinh – Tử, thật kỳ diệu! Hãy vững tin, bởi vì “Đức Giêsu Kitô vẫn là MỘT, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời” (Dt 13:8).

Lạy Thiên Chúa, xin thương biến đổi cuộc đời con và tái tạo trái tim con nên giống Ngài hơn, để con có thể kính mến Ngài và yêu thương tha nhân trong từng hơi thở của cuộc sống. Xin giúp con can đảm từ bỏ chính mình, dám chết với Đức Kitô để xứng đáng được phục sinh cùng với Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

TRAO BAN VÀ NHẬN LÃNH

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Người đời thường nghĩ rằng: cho đi là mất. Họ tưởng rằng cho người khác một số tiền, một tài sản nào đó… thì họ sẽ bị mất mát, thiệt thòi. Thế nên lắm kẻ chủ trương rằng tốt nhất là đừng dại dột đem cho mà hãy khư khư giữ lấy cho mình. Tư duy nầy sẽ hình thành nơi ta một con người ích kỷ, chỉ chăm lo cho bản thân mà không quan tâm trợ giúp người khác.

Đây là một tư duy sai lầm, tai hại. Trái với chủ trương vị kỷ nầy, Chúa Giê-su dạy sống vị tha, biết xả thân cho người khác.

Cho đi thì còn, giữ lại là mất; chính lúc trao ban là lúc nhận lãnh.

Để làm rõ sự thật nầy, Chúa Giê-su dạy: “Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.”

Quả vậy. Hạt lúa nào cố tự bảo vệ sự nguyên vẹn của mình thì hạt lúa đó sẽ dần dần bị hư mốc, rốt cuộc chẳng còn gì; còn hạt lúa nào chấp nhận bị phân huỷ dưới bùn đất thì sẽ đâm mầm, mọc thành cây, nở thành bụi và sẽ trổ hoa kết hạt dồi dào: từ một hạt sẽ biến thành trăm hạt khác.

Từ đó, Chúa Giê-su dạy rằng cuộc sống của con người ở đời nầy cũng như thế: “Ai yêu quý mạng sống mình (tự bảo toàn mình như hạt lúa trong kho) thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này (sống xả thân như hạt lúa chịu phân huỷ trong lòng đất) thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”

Khi nói: “coi thường mạng sống mình ở đời nầy”, Chúa Giê-su không có ý dạy chúng ta coi rẻ mạng sống, nhưng là mời gọi chúng ta sẵn lòng chấp nhận xả thân phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Làm như thế không phải là thiệt thòi mất mát nhưng là cách để triển nở dồi dào phong phú.

Minh hoạ sau đây chứng tỏ sự thật nầy:

Tôi có hai cánh tay, hai cánh tay cùng thuộc về thân mình tôi nhưng mỗi cánh tay lại có một nếp sống khác nhau, một chủ trương khác nhau. Cánh tay trái của tôi theo chủ nghĩa vị kỷ, còn cánh tay phải theo chủ nghĩa vị tha.

Vì theo chủ nghĩa vị kỷ, luôn luôn quy về mình, nên tay trái của tôi rất ít tham gia vào công việc chung mà cứ để cho tay phải đảm đương mọi việc. Khi ăn cơm, tay trái dành cho tay phải cầm đũa. Khi viết bài, tay trái dành cho tay phải cầm bút. Khi cầm búa đóng đinh hay cầm cây kim may áo, nó chẳng chịu tham gia mà nhường cho tay phải làm hết.

Hậu quả của thói ích kỷ nầy là nó trở nên yếu đuối và thua kém tay phải trong mọi việc. Nếu tổ chức một cuộc thi giữa hai cánh tay thì khi thi viết, tay phải viết nhanh, viết đẹp, viết rõ ràng nên được điểm 10, còn tay trái viết chậm, nguệch ngoạc như mèo cào, như gà bới, nên không được điểm nào.

Khi thi đóng đinh thì tay phải đóng đinh nhanh gọn, chính xác; còn tay trái đóng trật lất. Khi thi may vá thêu thùa thì tay phải may nhanh, thêu đẹp; còn tay trái thì lóng ngóng chẳng làm được việc gì. Nói tóm lại, dù thi bất cứ môn gì, tay phải cũng dành được điểm mười còn tay trái chỉ được số không!

Cả hai cánh tay phải và trái đều thuộc về thân mình tôi, cùng được chăm sóc, nuôi dưỡng như nhau, thế mà tay trái vì theo thói ích kỷ, chẳng bao giờ muốn hi sinh phục vụ toàn thân, chẳng dấn thân chăm lo cho người khác, nên nó trở nên yếu đuối và thua kém trong mọi lĩnh vực. Trong khi đó, vì tay phải theo chủ nghĩa vị tha, luôn chấp nhận đảm đương mọi công việc nặng nề khó nhọc, lúc nào cũng sẵn sàng hi sinh phục vụ toàn thân và phục vụ nhiều người … nên nó mạnh mẽ hơn, khéo léo hơn, tài giỏi hơn, vượt xa tay trái về mọi mặt.

Nhờ tự huỷ mình đi như hạt lúa, Chúa Giê-su được Thiên Chúa Cha tôn vinh.

Cuộc đời của Đức Giê-su là một minh chứng cho chân lý nầy. Người là Một Hạt Lúa chấp nhận tự huỷ đi. Dù là Thiên Chúa thật đồng hàng với Chúa Cha nhưng Người đã không đòi cho được đồng hàng với Thiên Chúa Cha, trái lại Người đã hủy mình ra không, mang lấy thân phận giòn mỏng của kiếp người, chấp nhận chết ô nhục trên thập giá, chịu mai táng trong lòng đất, để phục vụ và cứu rỗi muôn dân. Nhờ đó, Người được phục sinh vinh quang, được lên trời vinh hiển, được tôn vinh làm vua trên trời dưới đất (Philip 2, 6-8).

Thánh Phao-lô tóm lược cuộc đời tự huỷ của Chúa Giê-su như sau: Vì chấp nhận tự huỷ như thế, “Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ và …tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa”. (Phi-líp-phê 2, 9-11)

Đón nhận bài học của Chúa Giê-su

Một ngọn nến phải chấp nhận tiêu hao thì mới có thể toả sáng. Một máy bay phải tiêu hao nhiên liệu mới có thể cất cánh. Một vệ tinh, một tàu vũ trụ phải tiêu hao một số năng lượng khổng lồ mới có thể được phóng lên không gian…

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết khôn ngoan chấp nhận hi sinh, sẵn sàng tiêu hao thời giờ, sức khoẻ, trí tuệ, nghị lực để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ con người, nhờ đó cuộc đời chúng con sẽ phát triển vạn lần tươi đẹp.

Về mục lục

.

VINH QUANG TRONG KHỔ NHỤC

Lm. Đinh Lập Liễm

Đức Giêsu nói: ”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12,23). Ngài được tôn vinh như thế nào? Đức Giêsu được tôn vinh không phải bằng sự giầu sang, danh vọng, quyền thế, vinh quang thế gian; Ngài được tôn vinh chính lúc bị treo trên thập giá vì Ngài đã vâng theo thánh ý Cha Ngài; Ngài chiến thắng vẻ vang trong khổ nhục.

Đức Giêsu đã cầu nguyện cùng Cha: ”Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đến” (Jn 12:27). Giờ này là giờ nào? Phải chăng là lúc ký giao ước mới trong máu của Ngài đổ ra trên thập giá? Đúng như vậy!

Lịch sử cứu độ qua các mối tương quan giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại, ta thấy có nhiều giao ước đã được thay đổi: Từ giao ước Adong (St 3,15), đến Noe (St 9,1-17), với Abraham (St 17,1-27) đến lời hứa giao ước mới mà Thiên Chúa dùng tiên tri Giêrêmia loan báo (Gr 31,31-34): tất cả những lời giao ước đó đều thấy thực hiện viên mãn trong GIỜ của Đức Giêsu. Giao ước mới quả đã thực hiện lời Thiên Chúa hứa với nguyên tổ (St 315) đem lại chiến thắng cho con người, và tái lập tương quan mật thiết giữa Thiên Chúa và loài người.

Đức Giêsu nói: ”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Jn 12:23). “Giờ” ở đây không phải là giờ vinh quang cho bằng là “Giờ hiến tế” đem lại vinh quang cho Ngài: Giờ vinh quang của Con Người là giờ tử nạn và phục sinh của Ngài.

Khi chấp nhận mục nát như hạt giống gieo vào lòng đất với cuộc Vượt Qua trên thập giá, Đức Giêsu đã sống trọn vẹn mầu nhiệm tự hy sinh bản thân mình. Mầu nhiệm này đã bắt đầu bằng việc Nhập Thể và kéo dài trong suốt cuộc sống của Ngài. Sự tự hủy này trước hết, hệ tại ở sự vâng phục hoàn toàn của Đức Giêsu trước thánh ý của Chúa Cha. Tâm tình tuân phục đó của Đức Giêsu cũng được tỏ lộ cách cụ thể qua lời Ngài thưa với Chúa Cha, mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng hôm nay: ”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh. Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin làm vinh danh Cha” (Jn 12:23, 27-28).

Mặc dù luôn đặt ý Cha trên hết mọi sự, nhưng trong bản tính của một con người, đứng trước con đường thập giá, Đức Giêsu cũng không khỏi sợ hãi, xao xuyến, ngần ngại. Ngài sợ hãi vì trước mắt, thập giá chính là “một điều điên rồ đối với dân ngoại, là cớ vấp phạm cho người Do Thái” (1 Cr 1,23). Vì thế, khi biết rằng sắp đến “giờ” của Ngài, Đức Giêsu đã phải thốt lên: ”Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” (Jn 12:27).

Lắng nghe lời tâm sự tha thiết tự đáy lòng của Đức Giêsu, chúng ta thấy rằng: sống vâng phục không phải là một điều dễ dàng. Sự vâng phục này đòi hỏi Đức Giêsu một sự cố gắng, kiên trì để vượt qua bản thân, sẵn sàng đón nhận các biến cố vui buồn Thiên Chúa gửi đến từng ngày trong cuộc sống; hay nói cách khác, Đức Giêsu cũng đã phải học để có thể sống vâng phục, như lời tác giả thư Do Thái viết: ”Dầu là Con Thiên Chúa, Ngài (Đức Giêsu) đã học vâng phục do những đau khổ Ngài chịu.” Thế nhưng, chính nhờ sự vâng phục trọn vẹn đó mà Đức Giêsu khi hoàn tất ”Ngài đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những ai tùng phục Ngài” (Hr 5:7-9).

Với tư cách là con người như chúng ta, Đức Giêsu cũng cảm thấy sợ hãi trước đau khổ. Trong vuờn Cây Dầu Ngài cũng đã xao xuyến (x. Mt 26,38) và phải kêu xin cùng Cha: ”Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26.39). Theo tính tự nhiên, Đức Giêsu muốn trốn tránh sự đau khổ, nhưng Ngài lại muốn tuân theo thánh ý Cha để cho Cha định liệu. Và ý của Chúa Cha là muốn cho Con Ngài chịu chết trên thập gia để cứu chuộc nhân loại (Rm 8:32).

Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy rõ quan niệm của Chúa đối với đau khổ, đối với mọi thánh giá trên đời. Đức Giêsu dùng cây thánh giá như bậc thang tới vinh quang “Per Crucem ad lucem.” Quan niệm đó mới nhìn qua là một nghịch lý, song Ngài đã giải thích bằng một dụ ngôn vắn tắt và đầy ý nghĩa: dụ ngôn hạt giống: ”Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất, mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thôi đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất và ai ghét mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời” (Ga 12,24).

Cây thánh giá còn là phương tiện chinh phục. Ngài cho biết, Ngài được giương lên cao thì cũng sẽ có nhiều người cùng được lên cao với Ngài: ”Phần Ta, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32). Lịch sử đã chứng minh cho lời Chúa. Biết bao người đã tin theo Ngài vì cái chết đau thương đầy tình thương xót của Ngài. Biết bao người đã bỏ tất cả và cảm mến tấm lòng thương xót của Ngài. Thập giá Chúa đã in sâu vào trong lòng người ta.

Những người theo Đức Kitô sẽ được tôn vinh, nhưng muốn được tôn vinh thì cũng phải có điều kiện, phải nói được như Thánh Phaolô: vinh quang của ta là thánh giá Đức Kitô (Gal 6:14). Chúng ta sẽ tìm được vinh quang trong sự từ bỏ, trong việc cho đi và chấp nhận thánh giá trong đời.

Thánh Phaolô đã vinh tụng Đức Giêsu trong bài thánh ca: ”Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).

Đức Giêsu đã tự chọn lấy cái chết để chiếm lấy sự sống. Mới nghe thì ai cũng cho là phi lý vì chết và sống trái ngược nhau, làm sao có thể dung hòa được; nhưng chết và sống không hẳn là hai điều luôn đối nghịch nhau, nhiều khi chúng liên kết hỗ trợ nhau: sự chết nuôi sự sống và sự sống có thể sống được là nhờ sự chết. Ta có thể đưa ra vài ví dụ: – Nơi thực vật: những thứ được dùng làm phân bón phải chết đi thì mới trở thành chất bổ dưỡng cho cây. – Nơi sinh vật: các thức ăn phải “tiêu” mới “hoá” thành lương thực. – Trong cõi nhân sinh: những người già chết đi để nhường đất và hoa mầu của đất cho các thế hệ sau dùng đó mà sống. Đức Giêsu chết để cho con người sống. Sự chết của Ngài là nguồn sự sống cho chúng ta (Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 165)

Theo như Flor McCarthy thì “Chết là một phần của sống. Chúng ta sinh ra là để chết, hầu có thể sống sung mãn hơn.” Thực vậy, mỗi một hành vi khiêm tốn là một phần tính kiêu ngạo chết đi; mỗi một hành vi can đảm là một phần tính hèn nhát chết đi; mỗi một hành vi dịu dàng là một phần tính hung hăng chết đi; mỗi một hành vi yêu thương là một phần tính ích kỷ chết đi. Con người tội lỗi chết dần đi thì con người đích thực được dựng nên giống hình ảnh Chúa dần dần sống mạnh.

Với con đường hy sinh, Đức Giêsu đã chứng minh một chân lý xem ra có vẻ nghịch lý: ”Cho là nhận” và “Chết là con đường đưa tới sự sống.” Thật vậy, với kinh nghiệm thường ngày, chúng ta cũng có thể nhận ra điều này. Mỗi khi chúng ta mở bàn tay để cho là lúc chúng ta có thể nhận được, và sẽ trở nên phong phú. Còn nếu chúng ta cứ nắm bàn tay lại để giữ cho chính mình, thì cũng đồng thời, chúng ta không có thể đón nhận được bất cứ điều gì. Như thế chúng ta sẽ trở nên nghèo nàn và cô đơn.

Cảm nghiệm sâu sắc chân lý từ mầu nhiệm tự hủy của Đức Giêsu, Thánh Phanxicô Assisi, trong lời kinh Hoà bình, đã ca lên: ”Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.”

Cha Maximilien Kolbe làm gương cho chúng ta về cung cách sống của người môn đệ Chúa: Một buổi sáng cuối tháng 7 năm 1941 tại trại tập trung Oswiccim của Đức quốc xã, có một người vượt ngục, 10 người khác bị xử thay vào. Các nạn nhân run rẩy bước ra, đứng không vững, khiếp đảm, không dám kêu la, trừ một người kêu ré lên “Ôi vợ và các con tôi.”

Hàng trăm dẫy tù nhân xếp hàng dài im lặng, hú hồn vì chưa phải tên mình, không một ai dám cựa quậy. Bỗng từ dẫy tù nhân bên trái, một người gầy guộc rời hàng bước về phía viên trại trưởng. Mọi người nín thở: chuyện chưa từng có! Viên trưởng trại đặt tay lên súng: “Anh muốn gì?” Kolbe nói: “Tôi muốn chết thay một người trong bọn họ.”

Viên trưởng trại sửng sốt. Y tưởng mình nghe lầm. Nhưng không, người kia thực sự xin được chết thay cho kẻ có vợ và các con đang đợi ở nhà. Sau mấy câu gượng gạo, viên trưởng trại nhượng bộ, chấp nhận lời yêu cầu. Kẻ tình nguyện đó chính là Maximilien Kolbe, một Linh mục Công Giáo. Cha đã được Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II phong thánh ngày 10.10.1982.

Đau khổ và hạnh phúc luôn gắn liền và đi đôi với nhau. Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta áp dụng định luật ấy vào đời sống, vào cuộc hành trình đi đến hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu của ta. Đức Giêsu cho biết: ”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Jn 12:23). Và Ngài cho biết lý do nào khiến Ngài được tôn vinh. Hay nói cách khác, Ngài phải sống hay làm thế nào mới được tôn vinh: ”Thầy bảo thật anh em, nếu hạt giống gieo xuống đất…” Ngài còn diễn tả chân lý ấy theo kiểu khác: ”Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Mk 8:35).

Qua những lời ấy, Đức Giêsu cho thấy sự song đối tất yếu của một cặp yếu tố trái ngược nhau: chết đi và sinh ra, hạnh phúc và đau khổ. Hạt lúa có thể chết đi mới sinh ra những hạt khác. Con người có đau khổ mới làm cho mình và người khác hạnh phúc. Thật vậy, nếu người ta cứ sống mãi không chết, làm sao thế giới có đủ chỗ và tài nguyên cho các thế hệ con cháu sinh ra sau? Do đó, chết là điều kiện tất yếu của sống, và đau khổ là điều kiện tối yếu của hạnh phúc. Thật vậy, trên đời, có hạnh phúc nào mà không được xây dựng trên đau khổ, hoặc của chính mình, hoặc của người khác? Người ta nói không sai: “Có khó mới có miếng ăn, Không dưng ai bỗng đem phần chia cho (Ca dao).

Trong Kinh Thánh có rất nhiều câu nói lên sự đi đôi giữa sống và chết, giữa đau khổ và hạnh phúc; trong đó có vài câu chúng ta thường nghe như: “Người đi trong nước mắt, đem hạt giống gieo trên ruộng đồng, Người về miệng vui ca, tay ôm bó lúa ngào ngạt hương” (Tv 126,6). Hoặc: “Nếu ta cùng chết với Ngài, nếu chúng ta cùng chịu đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (2Tm 2,11-12; x. Rm 6,8; 8,17).

Phi trường quốc tế Pensylvania là một trong những sân bay lớn nhất, hiện đại nhất trong các sân bay của Hoa kỳ. Cách sân bay chỉ khoảng cây số có một ngôi thánh đường nằm đúng vào hướng bay cuối một trong những phi đạo nhộn nhịp đón nhiều chuyến bay nhất.

Sợ tháp chuông có thể gây nguy hiểm cho các máy bay mỗi lần đáp xuống phi đạo, toàn thể giáo dân ở đây đã đồng lòng quyết định sẽ đặt trên đỉnh tháp chuông một bóng đèn nê-ông lớn bằng hình cây thánh giá. Từ đó, mỗi lần chuẩn bị đáp xuống phi đạo vào ban đêm, các phi công đều dựa vào ánh sáng tỏa ra từ cây thánh giá như thể đó là một ngọn hải đăng chỉ đường cho các con tầu cập bến an toàn.

Lạy Chúa Giêsu, Thánh giá Chúa là một mầu nhiệm mà lý trí chúng con khó hiểu. Xin Chúa ban ánh sáng soi dẫn ý nghĩa cho chúng con. Xin ban cho chúng con nghị lực chấp nhận nó với tất cả những đòi hỏi của nó. Xin ban cho chúng con vui sống mầu nhiệm ấy với Chúa. Amen.

Về mục lục

.

HẠT LÚA MÌ RƠI XUỐNG ĐẤT THỐI ĐI

Lm. Nguyễn Thái

Vào một đêm giông bão, gió thổi tứ phương, mưa như thác lũ, một cặp vợ chồng già dìu nhau vào văn phòng của một cái khách sạn nhỏ ở Philadelphia. Với sự ngập ngừng e ngại, họ hỏi người thư ký: “Ông có thể kiếm cho chúng tôi một phòng ngủ qua đêm được không? Giờ này tất cả các khách sạn lớn đã không còn phòng nữa.” Người thư ký trả lời: “Thưa cụ, mọi phòng đã có người rồi, nhưng tôi không thể để ông bà cụ ra ngoài trời mưa vào lúc 1 giờ sáng như thế này được. Xin hai cụ cho biết hai cụ có thể ngủ trong phòng của tôi được không?” “Nhưng còn ông thì ngủ ở đâu?”, người khách hỏi. “Ồ, không sao, tôi có cách mà,” người thư ký trả lời, “Đừng lo cho tôi.” Sáng hôm sau, khi trả tiền phòng, ông cụ đã nói với người thư ký trẻ, người đã nhường phòng cho cụ: “Ông là người quản lý tốt, ông phải là quản lý của một khách sạn đẹp nhất nước Mỹ. Có lẽ một ngày nào đó tôi sẽ xây cho ông một cái.”

Hai năm sau, người thư ký trẻ đó nhận được một lá thư có kèm theo một vé máy bay khứ hồi đi New York, và một lá thư của ông cụ trong đêm mưa bão, yêu cầu người thư ký đến gặp ông tại thành phố New York, lớn nhất nước Mỹ. Ông cụ dẫn người thư ký tới góc đại lộ số 5 và đường 34, khi chỉ tay về một tòa nhà trọc trời mới xây, ông tuyên bố: “Đây là khách sạn tôi vừa mới xây xong dành cho ông điều hành.” Xúc động không nói nên lời, người quản lý trẻ tuổi tên là George C. Boldt, chỉ nói lắp bắp được mấy câu cám ơn. Người đại ân nhân của ông quản lý chính là William Waldorf Astoria. Ngày nay khách sạn đó được xếp vào loại sang trọng bậc nhất, chính gốc của dòng họ Waldorf Astoria.

Một hành động hy sinh nhỏ tạo nên một mối lợi lớn. Người quản lý trẻ phải hy sinh ngủ ngoài phòng ngủ của mình đêm hôm đó để nhường phòng cho ông bà cụ. Anh đã hy sinh bản thân mình đang khi nghĩ đến ích lợi của người khác (1 Cr 10:24). Sự hy sinh của anh như hạt giống được gieo xuống đất, vài năm sau nó đã nẩy mầm, đâm chồi nẩy lộc (Mt 13:23) khi anh trở thành người quản lý của khách sạn sang trọng nhất New York.

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Gioan 12: 20-33, Chúa Giêsu đã nói: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt.”

Đây là một nguyên tắc căn bản trong đời sống thiêng liêng: chỉ có sự hy sinh bản thân mình -self-denial, tự hủy diệt – dying to himself – con người ích kỷ của mình, mới phát sinh được hoa trái. Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta khi Ngài tự nguyện chấp nhận để mình bị đóng đinh trên thập giá (Gl 5:24): Ngài hy sinh bản thân mình để mang lại sự cứu rỗi cho toàn thể nhân loại.

Tự hy sinh bản thân mình là điều cần thiết để chiến thắng tính ích kỷ, kiêu căng, và những dục vọng cá nhân làm cản trở sự phát triển bản tính tốt đẹp bên trong con người chúng ta (Rm 13:13). Một người luôn luôn nghĩ về mình bị rơi vào trong cái lồng cạm bẫy của cái “tôi” đáng ghét (Gl 6:2). Và hậu quả là, người ấy không thể nhận diện ra con người thật sự của mình là ai và sự liên hệ giữa họ với Đấng Tối Cao.

Theo quan điểm của Ấn Độ giáo, từ chối “cái tôi” chính là con đường để đi tìm cái “tôi” siêu việt thực sự, và trở nên một với Thực Tại Tối Cao. Do đấy, chúng ta thường thấy các đạo sĩ Ấn Độ sống một đời khổ hạnh, tập luyện những cách thế chế ngự bản thân rất nghiêm khắc. Có vị luyện tập đứng liên tiếp trong suốt 12 năm trời, đến độ hai bàn chân đều sưng phồng lên.

Phật giáo cũng dạy rằng con đường dẫn tới mục đích của tôn giáo đòi hỏi một người phải từ bỏ chính mình và dục vọng của mình. Tất cả những sự tập luyện như ngồi thiền, suy niệm, đều nhằm đạt đến tình trạng vô vi, vô ngã. Diệt dục để nhằm tới sự hiệp nhất với Đại Ngã, Hữu Thể Tuyệt Đối.

Và theo quan điểm của Kitô giáo, sự từ bỏ chính mình là cách thế để phục hồi lại con người thật sự của mình đã được tạo dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa (Cl 3:10). Tất cả những quan điểm trên đều khẳng định một sự nghịch lý mà Chúa Giêsu đã nói trong bài Phúc Âm hôm nay: “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời nầy, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời” (Ga 12: 25).

Cây tre là một loại cây đa dụng, rất có ích lợi cho đời sống ở nông thôn. Để mang lại ích lợi này, cây tre phải biết chấp nhận hy sinh chính bản thân mình. Tác giả William Hoffsuemmer đã diễn tả tâm sự của một cây tre như sau:

Có một bác nông dân nọ, trồng được một bụi tre sau nhà. Ngày ngày bác ra ngắm bụi tre, thấy tre mọc cao hơn, lớn hơn, xanh tươi hơn, bác vui lắm! Một ngày nọ, bác nông dân lượn qua lượn lại, ngắm nghía bụi tre thật kỹ càng, từng cây một. Rồi bác đứng trước một cây tre cao nhất, to nhất, đẹp nhất và nói: “Chà cây tre này có lý lắm nghe, ta cần cháu lắm tre ơi!” Cây tre vui vẻ trả lời: “Thưa bác, cháu luôn sẵn sàng cho bác dùng cháu vào bất cứ việc gì!” Nghe vậy bác nông dân mới thẳng thắn nói: “Nhưng để dùng cháu, ta phải chặt cháu xuống.” Cây tre hoảng quá, phản ứng lại ngay: “Chặt cháu xuống à? Tại sao vậy bác? Cháu là cây tre đẹp nhất trong vườn bác mà! Thôi đi bác! Hãy dùng cháu vào bất cứ việc gì bác muốn, nhưng đừng chặt cháu xuống!” Rồi tre khóc!

Bác nông dân tội nghiệp cây tre mới nhỏ nhẹ khuyên lơn: “Này cháu, nghe bác này, nếu bác không chặt cháu xuống, thì bác không thể nào dùng cháu được!” Tre im lặng một lúc không nói. Ngay cả gió cũng im hơi lặng tiếng, nín thở. Bầu không khí hoàn toàn im bặt. Thế rồi cây tre từ từ cúi đầu xuống thì thầm: “Thưa bác, nếu cái cách duy nhất bác dùng cháu là phải chặt cháu xuống thì thôi bác cứ làm theo ý bác đi!”

Bác nông dân thở phào nhẹ nhõm, rồi lại ngậm ngùi nói: “Cháu à! Nhưng đấy mới chỉ là một phần thôi, ta sẽ còn phải tỉa tất cả cành lá trên mình cháu đi nữa!” Cây tre sợ hãi kêu lên: “Chúa ơi! Xin cứu con với! Thế là kết thúc tất cả vẻ đẹp mỹ miều của đời con rồi! Còn đâu màu xanh tươi nõn nà, còn đâu thân hình mềm mại thon thả, còn đâu những chiếc lá hình móng tay cong vút! Xin cho con giữ lại chỉ một cành thôi, một chiếc lá nhỏ kỷ niệm thôi! Please! Please! Bác nông dân lại thương hại trả lời: “Nếu ta không cắt tỉa các cành lá thì ta cũng không thể dùng cháu được!”

Hoàng hôn đã buông rơi. Mặt trời ngại ngùng giấu mặt sau bụi tre. Những cánh bướm cũng phân vân bối rối chập chờn qua lại. Cây tre cảm thấy đau buốt từ trong lòng, nhỏ nhẹ thưa với bác nông dân: “Thưa bác, xin hãy làm theo như ý bác muốn!” Bác nông dân xúc động nói: “Cháu yêu quý, bác đau đớn còn hơn cháu nữa. Bác còn phải chẻ cháu ra làm hai, róc tất cả ruột gan bên trong của cháu ra nữa. Nếu không, bác cũng không thể dùng cháu được.”

Cây tre lại im lặng một hồi, rồi cong người cúi xuống thật thấp sát đất, khiêm tốn nói: “Thưa bác, xin bác hãy chặt cháu xuống, tỉa hết các cành lá, chẻ cháu ra làm hai, và róc tất cả những mắt mấu trong ruột cháu như bác muốn!” Thế là bác nông dân lấy dao ra, chặt cây tre xuống, róc tất cả cành lá xum xuê đi, chẻ tre ra làm đôi, moi móc cẩn thận những mắt mấu bên trong. Rồi bác vác cây tre ra đi, băng ngang qua những cánh đồng khô cạn, tới một con suối gần đó. Bác nối cây tre với dòng suối nước để tre trở thành máng dẫn nước vào cánh đồng khô cằn. Có nước, đồng lúa mọc tươi tốt, trổ bông, phát sinh lúa gạo nuôi sống bác nông dân và gia đình. Và như thế, chỉ khi cây tre biết chấp nhận hy sinh, bị chặt xuống, bị tỉa cành lá, bị chẻ đôi ra, róc hết ruột gan đi, nó đã trở thành một cái ống máng dẫn nước từ nguồn suối chảy vào cánh đồng, nuôi dưỡng mùa màng.

Giống như cây tre, muốn mang lại ích lợi, chúng ta phải chấp nhận sự hy sinh, tự hủy mình đi, tự hư vô hóa chính mình, để hoàn toàn vâng theo thánh ý Thiên Chúa, như thư gửi tín hữu Do Thái đã diễn tả về Chúa Giêsu trong bài đọc thứ hai: “Dầu là Con Thiên Chúa, Ngài đã học vâng phục do những đau khổ Ngài chịu, và khi hoàn tất, Ngài đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Ngài” (Dt 5:8-9).

Sách Giáo Lý Công Giáo khuyên chúng ta bước theo gương mẫu của Chúa Giêsu Kitô như sau: “Dân Thiên Chúa dự phần vào chức năng vương giả của Chúa Kitô. Chúa Kitô hành sử vương quyền của mình khi thu hút mọi người lại với Ngài bằng cái chết và sự Phục Sinh của Ngài (Ga 12:32). Đức Kitô, Vua và Chúa vũ trụ, đã hạ mình làm đầy tớ của mọi người, vì Ngài “đến”, không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20:28). Đối với các Kitô hữu, “cai trị là phục vụ Ngài” (Lumen Gentium 36), nhất là phục vụ “những người nghèo và những người đau khổ, vì nơi những người này, Giáo Hội nhận ra hình ảnh nghèo khó và đau khổ của Đấng Sáng lập của mình” (Lumen Gentium 8). Dân Thiên Chúa thực hiện “phẩm chức vương giả” của mình bằng cách sống phù hợp với ơn gọi của mình là phục vụ cùng với Chúa Kitô” (số 786).

Chúng ta sắp sửa bước vào Tuần Thánh, tưởng niệm sự thương khó và cuộc tử nạn Chúa Giêsu đã chịu để mang lại ơn cứu rỗi cho nhân loại. Hãy nhìn lên Chúa Giêsu trên thập giá đang kêu lên thảm thiết: Lạy Cha, sao Cha bỏ con? Người đang bị treo lên cao, đang bất động hoàn toàn trong cái chết sống động. Chính lúc đó, khi trở nên cóng lạnh, Chúa đã ném lửa xuống trần gian; và khi bất động không cùng, Chúa đã trút sự sống vô biên của Chúa xuống trên chúng con. Giờ đây chúng con sống trong viên mãn và hoan say; dù chỉ nên giống Chúa một phần nhỏ thôi, và kết hợp đau khổ của con với đau khổ của Chúa để dâng lên Chúa Cha; như thế cũng đủ cho con rồi. Con tin chắc rằng hơn bao giờ hết trong những giờ phút này, bao ánh sáng và lửa đang ùa vào trần gian.

Về mục lục

.

CHỊU MỤC NÁT HAY VẪN TRƠ TRỌI?

 Lm. Trịnh Ngọc Danh

Con người sinh ra để sống rồi lại phải chết. Chết là tận số của một kiếp người. Ai cũng quý mạng sống mình. Ốm đau thì đi bác sĩ, uống thuốc. Chẳng ai muốn chết.Nhưng có một Đấng lại có một triết lý sống ngược lại với thực tại trên: sống để chết và chết để sống. Đấng ấy là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Để minh họa cho chân lý trên, Đức Giêsu đã đưa ra ví dụ về hạt giống được gieo vào lòng đất: “ Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.” Áp dụng vào cuộc sống của mỗi người, Đức Giêsu lại bảo: “ Ai yêu qúy mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” ( Ga 12: 24-25) Mạng sống phải chết đi như hạt giống gieo vào lòng đấ,phải mục đi thì mới sinh nhiều hoa trái; ngược lại, hạt giống không mục đi như người yêu mạng sống của mình thì sẽ mất. Nhưng như thế nào là hạt chịu mục nát và hạt vẫn trơ trọi?

Khi nói như trên, Đức Giêsu không khuyến khích chúng ta ghét bỏ hay coi thường mạng sống của mình; ngược lại, Ngài còn dạy chúng ta phải biết tôn trọng mạng sống của mình. Chúng ta sẽ không có khả năng yêu mến bất cứ ai, nếu chúng ta không biết yêu mến chính con người của mình. Điều quan trọng chúng ta cần biết là sống mà như chết thế nào để từ cái chết ấy có sự sống đời đời.  Ngài muốn chúng ta coi thường mạng sống của mình cho một mục đích cao cả hơn là phục vụ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.Sự chết ờ đời này là một phần của sự sống mai sau. Chúng ta được sinh ra rồi chết đi, nhưng chính khi chết đi, chúng ta mới có được sự sống trọn vẹn: chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.

Mục nát đi, theo như lời kêu gọi của Đức Giêsu, không phải là hủy hoại sự sống của mình ở trần gian này, nhưng là chết đi cho tội lỗi,từ bỏ ý riêng của mình, hy sinh bản thân mình vì Chúa, vì tha nhân. Mục nát ở đây là chịu biến đổi, chịu hy sinh quên thân mình vì người khác, vì Chúa, vì hạnh phúc mai sau.

Hạt giống không chịu mục nát đi là hạt giống chỉ sống cho chính mình, quí mạng sống mình ở đời này hơn mạng sống vĩnh cửu mai sau, là tìm vinh quang cho riêng mình, là tìm mọi cách để thỏa mãn những dục vọng trấn thế hơn là chịu mục nát để tìm cuộc sống vĩnh cửu mai sau.

Trái lại, hạt giống chịu mục nát là hạt giống hy sinh chính bản thân mình để tìm được sự sống vĩnh cửu đời sau. Hạt giống chịu mục nát đi là hạt giống chịu biến đổi, chịu cải hóa kiếp sống này vì sự sống ngày mai. Chịu mục nát đi là từ bỏ ý riêng của mình để vâng theo thánh ý Chúa, là chết đi cho những đam mê dục vọng tội lỗi làm con người xa rời tình thương của Thiên Chúa.

Đức Giêsu là tấm gương của hạt giống chịu mục nát. Sự mục nát của Ngài đã mang lại nhiều hoa trái cho nhân loại: “ Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã đạt tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho nhửng ai tùng phục Người.”( Dt 5: 8-9 ) Đức Giêsu chịu mục nát khi chỉ vâng theo thánh ý Chúa Cha: Xin cho con khỏi uống chén này, nhưng không phải theo ý con mà theo ý Cha. Ngài chịu mục nát khi chấp nhận cái chết nhục nhã, khổ đau trên thập giá vì yêu thương nhân loại.Qua cái chết của mình, Đức Giêsu đã được tôn vinh, và cái chết của Ngài sẽ mang lại sự sống vĩnh cửu cho những ai bước theo gương mục nát của Ngài.

Như những người Hy lạp khao khát muốn gặp Đức Giêsu, và qua trung gian của các môn đệ,họ đã gặp được Đức Kitô, và Ngài đã hé mở cho họ biết đâu là con đường dẫn họ đến sự sống muôn đời. Đức Giêsu và Giáo Hội đã cho chúng ta gặp Thiên Chúa, biết con đường nào dẫn đến sự cứu độ của Thiên Chúa; nhưng chúng ta đã chịu mục nát theo gương Đức Kitô hay vẫn còn trơ trọi một mình!

Về mục lục

.

HẠT LÚA GIEO VÀO LÒNG ĐẤT

JM. Lam Thy

Khi dân chúng thấy Đức Giê-su tới Giê-ru-sa-lem, “họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò: Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua Ít-ra-en!” (Ga 12, 13). Trong số đó có mấy người Hy Lạp đến gặp ông Phi-lip-phê xin được gặp Đức Giê-su. Ông Phi-líp-phê nói với ông An-rê, rồi cả 2 ông cùng đến thưa với Đức Giê-su. Đức Giê-su trả lời: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy.” (Ga 12, 20-33).  

Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, ba lần Đức Giê-su đã tiên báo cuộc Thương khó và Tử nạn của Người (Lần thứ nhất: xc. Mt 16, 21-27; Mc 8,  31-33; Lc 9, 22. Lần thứ hai: xc. Mt 17, 22-23; Mc 9, 30-32; Lc 9, 43-45. Lần thứ ba: xc. Mt 20, 17-19; Mc 10, 32-34; Lc 18, 31-34). Điều ấy làm cho các môn đệ thất vọng. Giờ đây họ đang có mặt tại nơi sẽ xảy ra điều Người đã tiên báo, nên chắc họ cảm thấy tinh thần nao núng. Nhưng Đức Giê-su muốn họ nhìn cái chết của Người theo ý nghĩa kế hoạch cứu độ mà Thiên Chúa Cha đã ấn định. Trước hết, Người cho họ biết giờ chết của Người là “giờ Con Người được tôn vinh”. Rồi để giải thích “được tôn vinh” như thế nào, Người sử dụng dụ ngôn cái chết của hạt lúa là khởi đầu cho tiến trình “sinh được nhiều hạt khác” (Bài Tin Mừng CN V.MC-B – Ga 12, 20-33).

Nhiều người chia sẻ bài Tin Mừng hôm nay cho rằng: “Như hạt lúa miến gieo xuống đất phải mục nát đi mới có thể nảy sinh nên những cây lúa miến tươi tốt trổ sinh nên bao hạt lúa miến khác”. Nếu căn cứ vào thực tế sẽ thấy không phải như vậy, vì hạt lúa gieo vào lòng đất không hề mục nát, bởi nếu mục nát thì không thể mọc thành cây lúa rồi trổ sinh hoa trái được. Thực sự, hạt lúa chỉ hư đi 2 mảnh vỏ trấu bên ngoài khi hạt gạo bên trong nảy mầm (đâm rễ và trổ sinh 2 cái lá đầu tiên). Thực ra, Đức Ki-tô cũng không hề nói mục nát, mà Người dùng tiếng “chết” để chỉ sự biến đổi từ sự chết sang sự sống: Cái hình hài bề ngoài là 2 mảnh vỏ trấu (ám chỉ thân xác con người) chết đi để mầm sống bên trong là hạt gạo (linh hồn) nảy sinh cây lúa khác (thu nhận các tín hữu mới). Đức Ki-tô luôn dùng sự mâu thuẫn hay đối kháng trong vật chất hoặc cuộc sống loài người để nêu bật lên chủ ý của Người. Cũng trong bài Tin Mừng hôm nay, từ vấn đề chết – sống của hạt lúa miến, Người muốn nhấn mạnh đến sự sống vĩnh cửu mai sau:

Người đã từng dạy: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi… Ngươi phải yêu người thân cận như yêu chính mình.” (Mt 22, 37-39). Nay Người lại dạy: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất” (Ga 12, 25). Như vậy thì có gì mâu thuẫn không? Muốn “Yêu anh em như yêu chính bản thân mình” (“ái nhân như ái thân”) thì tiên vàn phải yêu bản thân trước đã, nhiên hậu mới có thể san sẻ tình yêu ấy cho anh em. Không ai có thể ghét bản thân để đi yêu tha nhân được. Chính vì thế, mới nghe qua “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất” thì thấy có vẻ mâu thuẫn, nhưng nếu bình tĩnh đọc tiếp Lời dạy của Đức Ki-tô sẽ hiểu rõ Người muốn dạy thế nào (“còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” – Ga 12, 25). Coi thường (xem nhẹ) mạng sống ở đời này, sẵn sàng từ bỏ nó (từ bỏ chính mình) thì mới có hy vọng đến được với sự sống đới đời.

Cũng đã có một thời gian ở Việt Nam (trước năm 1975) nổi lên phong trào đưa ra khẩu hiệu “cái tôi đáng ghét”. Tìm hiểu kỹ phong trào này, thấy mâu thuẫn ngay từ cơ bản. Tại sao thế? Nếu anh thực sự ghét cái tôi của anh thì anh cứ việc ghét và trừ khử nó đi, chẳng cần phải lu loa với mọi người làm chi. Sở dĩ anh hô hoán lên “cái tôi đáng ghét” chỉ cốt để thiên hạ thấy và thán phục anh là con người biết sống khiêm tốn (không đề cao “cái tôi”) và có lòng vị tha (tôn trọng, yêu mến tha nhân). Như vậy thì chẳng phải là anh đã quá yêu anh và còn muốn mọi người yêu mến tôn trọng anh nữa đó sao? Thông thường tâm lý con người luôn chỉ biết yêu mình, yêu mình hơn tất cả, còn đối với anh em thì… hãy đợi đấy! Chính vì thế nên Đức Ki-tô mới dạy “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta.” (Mt 7, 12). Quả thật mình có yêu bản thân mới mong muốn người khác làm cho mình những điều tốt đẹp, vậy thì hãy làm cho anh em những điều tốt đẹp như mình mong ước anh em làm cho mình. Đó là một cách diễn tả khác của Lời dậy “yêu người thân cận như chính mình”. Đức Khổng Tử cũng dạy tương tự: “Điều gì mình không muốn (người khác) làm cho mình, thì (mình) cũng đừng làm cho người khác” (“Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” – Luận Ngữ).

Trở lại với bài Tin Mừng hôm nay nói về “Hạt lúa cần phải chết đi”. Quả thật 2 mảnh vỏ trấu bên ngoài hạt gạo (hình ảnh thân xác con người) phải chết đi thì hạt gạo mới nảy mầm sống mới và sinh nhiều hạt lúa khác. Mạng sống con người nơi trần thế là tro bụi tất nhiên sẽ trở về với bụi tro, nếu cứ bám chặt lấy những hư danh phù phiếm chóng qua trên đời, thì chắc chắn sẽ mất tất cả. Còn nếu chân nhận được cuộc sống trường tồn vĩnh cửu mai sau sẽ “khóc lóc nghiến răng” hay “chan hoà hạnh phúc” là tuỳ thuộc ở chỗ ngay trong cuộc sống tạm bợ này có biết sẵn sàng “coi thường mạng sống mình” hay không mà thôi. Và như thế thì Lời dạy của Đức Ki-tô đã rõ ràng như 2 với 2 là 4: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy.” (Mt 16, 26). Người cũng không dạy suông mà lấy ngay chính mạng sống trần thế của Người để minh họa, dẫn chứng cho Lời dạy chí tình chí nghĩa ấy (“Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.” – Pl 2, 8-9).

Hỡi “cái tôi” (đáng yêu hay đáng ghét?!!) của tôi ơi! Hãy lắng nghe: “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro. Một mai người sẽ trở về bụi tro. Ôi! Thân phận con người tựa bông hoa nở tươi. Một làn gió nhẹ lung lay cũng biến tan sắc màu.” (Kim Long – “Hỡi người” – TCCĐ). Ôi! Lạy Chúa Giê-su! Xin cho con được sáng mắt sáng lòng nhìn ra thân phận yếu hèn mỏng manh như đoá hoa phù dung sớm nở tối tàn của con, để con luôn biết can đảm từ bỏ cái tôi – cái xác phàm tục như hai mảnh vỏ trấu của hạt lúa mì – mà sống theo Lời Chúa dạy, ngõ hầu được như Thánh Phao-lô thủa xưa: “Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Ki-tô vào thập giá. Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống trong xác phàm, là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi.” (Gl 2, 19-20).

Ôi! Lạy Chúa! “Ngài thấy cho: lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai. Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật, dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan. Xin dùng cành hương thảo rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được tinh tuyền; xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết.” (Tv 50, 7-9). Ôi! “Lạy Chúa, vì yêu thương nhân loại, Đức Giê-su Ki-tô đã hiến thân chịu khổ hình; xin ban ơn trợ giúp, để chúng con biết noi gương Người tận tình yêu thương mọi anh em. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thủa muôn đời. Amen.” *(Lời nguyện nhập lễ Chúa nhật V Mùa Chay)

Về mục lục

.

AI YÊU QUÍ MẠNG SỐNG MÌNH THÌ SẼ MẤT

 Fx Đỗ Công Minh

Bài Tin Mừng hôm nay Thánh Gioan cho mỗi người tín hữu chúng con nhận ra điều kiện để gặp được Chúa Giêsu. Những người Hy Lạp ngày đó chắc chưa hề biết Chúa, có chăng họ mới chỉ nghe nói về Người. Nhân ngày Lễ  Vượt qua, một Lễ lớn của người Do Thái, họ biết Chúa Giêsu chắc sẽ tham dự nên nhờ ông Philipphê giới thiệu. Nghe biết điều ấy, Đức Giêsu đã nói về thời gian của Người :” Đã đến giờ Con Người được tôn vinh “ . Nhân dịp này Chúa cho các ông biết về việc Người sắp phải đi vào cuộc thương khó. Với hình ảnh rất ấn tượng : Hạt lúa mì, một lọai hạt giống rất gần gũi với dân tộc Do Thái. Như nhiều lần Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn để giảng dạy. Lần này Người ví chính mình như một hạt lúa mì, muốn trổ sinh nhiều bông hạt phải vùi sâu trong lòng đất, phải chịu đau đớn nứt  lớp vỏ bên ngòai, tức là chết đi, để phần hạt nhân bên trong nẩy mầm, đâm rễ hầu trở thành những đọt cây vươn lên mặt đất, trưởng thành sinh sôi nhiều bông hạt. Còn không chấp nhận tự hủy mình, nó sẽ trơ trọi, vô tác dụng. Một cách tiên báo về cuộc tử nạn và Phục sinh của Người sắp trải qua. Cũng qua đây, Chúa muốn mời gọi những ai muốn đến với Người: ” Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất;  còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại cho cuộcsống đời đời ”. Đức Giêsu cũng hứa cho những người muốn theo Người : ” Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy “.

Giáo hội Việt Nam chúng con, cách riêng tại Giáo phận Saigon, những ngày này đang chìm trong đau thương theo sự thông thường của cuộc sống con người. Đức Tổng Giám Mục Phaolô Bùi Văn Đọc đã được Chúa đưa về nước Người, ngay trong thời gian đức cha về  lại nơi cội nguồn của Hội Thánh, viếng mộ hai Thánh Tông đồ Phêrô, Phao Lô. Ai ai cũng thương tiếc, ai ai cũng xót xa. Nhưng trong lòng tin vào Đức Kitô, Đấng đã chết và đã sống lại, chúng con nhận ra rằng Đức Tổng Phaolô như hạt lúa mì được vùi sâu trong lòng đất sẽ trổ sinh nhiều bông hạt. Cho đến những giờ phút cuối đời, Đức Cha đã sống đời “Tự hủy”, phó thác trọn đời mình cho Chúa, dâng Thánh lễ cuối cùng của cuộc đời tận hiến với lòng hân hoan, với niềm xác tín muốn hiến trọn đời mình làm của Lễ dâng lên Thiên Chúa, như  bài ca “Hy lễ cuối cùng”:

Lạy Chúa, trọn đời con hiến dâng cho Ngài, trọn đời con bước theo chân Ngài. Con muốn Chúa ở đâu, thì cho con ở đó, để trọn đời con dâng làm hy lễ, để trọn đời con trong Chúa muôn đời

Xin cho con những ngày mùa Chay Thánh này, qua biến cố về sự ra đi của vị chủ chăn, người con của Chúa là Đức Tổng Phaolô Bùi Văn Đọc, con càng ý thức hơn về thân phận mình, làm sao để sống xứng đáng là hạt lúa mì của Chúa. Con cũng sẽ trở về nơi mình xuất phát, nhưng con có trổ sinh được điều gì tốt đẹp trước mặt Chúa và mọi người ?

Xin Chúa giúp con, Chúa ơi !

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Mùa Chay năm B dâng hiến những chủ đề rất gần với những tưởng niệm lễ Vượt Qua: thiết lập Bí Tích Thánh Thể, Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô. Cả ba bài đọc đều cấu trúc theo một nét chung: ở giữa lòng của nỗi xao xuyến vang lên một tiếng kêu tràn đầy hy vọng.

Gr 31: 31-34

Trước khi Thành Thánh Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ bị tàn phá, ngôn sứ Giê-rê-mi-a công bố rằng không có gì phải mất cả: này sắp đến những ngày, Thiên Chúa sẽ thiết lập một “Giao Ước Mới”. Đức Giê-su lấy lại diễn ngữ này khi thiết lập Bí Tích Thánh Thể: “Chén này là Giao Ước Mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em”(Lc 20: 20; 1Cr 11: 25).

Dt 5: 7-9

Thư gởi tín hữu Do thái nhắc nhớ rằng Đức Giê-su cảm thấy xao xuyến tận đáy lòng trước tấn thảm kịch của sự chết, nhưng nhờ cuộc Tử Nạn của Ngài, sự chết trở nên “nguồn ơn cứu độ đời đời cho nhân loại.

Ga 12: 20-33

Tin Mừng Gioan gợi lên rằng trước cuộc Tử Nạn gần kề của Ngài, Đức Giê-su xao xuyến, nhưng rồi trấn tĩnh khi nghĩ đến cuộc chiến thắng vinh quang của Ngài trên Xa-tan, quyền lực của sự Dữ.

BÀI ĐỌC I (Gr 31: 31-34)

Chúng ta thường nghĩ rằng diễn ngữ “Giao Ước Mới”, được rút gọn: “Tân Ước”, xuất xứ từ các sách Tin Mừng, trong đó Đức Giê-su đã sử dụng diễn ngữ này vào buổi chiều Tiệc Ly: “Chén này là Giao Ước Mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 20: 20; 1Cr 11: 25). Thật ra, diễn ngữ này được gặp thấy rồi trong Cựu Ước. Diễn ngữ này  xuất hiện lần đầu tiên ở nơi đoạn trích hôm nay đánh dấu đỉnh cao sứ điệp tinh thần của vị ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ông loan báo một “Giao Ước Mới” dưới hai dấu chỉ: tác động nội tâm của Thần Khí và ơn tha thứ tội lỗi. Quả thật, đây là sấm ngôn linh hứng của vị ngôn sứ, nhưng cũng là thành quả của một kinh nghiệm mà vị ngôn sứ đã sống với một tâm trí minh mẫn. 

Kinh nghiệm này được hình thành hai giai đoạn: “thời kỳ hạnh phúc” và “thời kỳ bi thương” của dân tộc mình. Giê-rê-mi-a có lẽ chào đời vào năm 645 trước Công Nguyên. Vào thời niên thiếu của mình, ông đã kinh qua thời kỳ hưng phấn: cuộc cải cảnh của vua Giô-si-gia, khởi sự vào năm 622 trước Công Nguyên. Trước triều đại của vị vua cải cách này, là triều đại của vua Mơ-na-se, vị vua vô đạo đã du nhập và phổ biến việc thờ ngẫu tượng cho đến tận Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Ông còn bảo trợ tội bội giáo của dân chúng nữa.

  1. Thời kỳ hạnh phúc

Vào năm 622, trong khi Nhà Đức Chúa đang được trùng tu, người ta tìm thấy “sách Luật” (có thể đây là sách Đệ Nhị Luật hay ít ra những bản văn cốt yếu của sách này), sách đã bị quên lãng hơn nữa thế kỷ qua (vua Mơ-na-se đã cai trị từ năm 687 đến 642 trước Công Nguyên).

Vua Giô-si-gia công bố trước toàn dân tất cả các lời trong sách Luật đã tìm thấy trong Nhà Đức Chúa. Vua long trọng cam kết đi theo đường lối của Đức Chúa và hết lòng hết dạ tuân giữ các mệnh lệnh, chỉ thị và quy tắc của Ngài. Toàn dân đồng thanh chấp nhận Giao Ước (2V 23: 1-3). Vua Giô-si-gia thực hiện cuộc cải cách tôn giáo tận căn: trừ tiệt tất cả mọi vết tích thờ ngẫu tượng ra khỏi đất nước, dẹp bỏ các tế đàn ở nơi cao và tập trung việc phụng tự kính Đức Chúa vào Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.

Nhưng than ôi! Vào năm 609, vua tử trận trong cuộc chiến chống quân đội Ai-cập. Ngay sau cái chết của vua, nền phụng tự ngoại giáo lại có cơ hội bộc phát. Chính vào thời điểm này  mà những sấm ngôn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a vang lên, loan báo những tai họa thảm khốc nhất nếu nhà Giu-đa không thành tâm hoán cải (Gr 26). Vì thế, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã chứng kiến việc tái lập Giao Ước bị thất bại: công việc cải cách đã tác động đến phụng tự, nghi lễ, nhưng đã không biến đổi tấm lòng của dân chúng. Vị ngôn sứ không quên bài học này.

  1. Thời kỳ bi thương

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a, được mệnh danh là ngôn sứ của những tai họa, không ngừng cảnh báo quốc họa rất gần kề; vì thế, người ta đã âm mưu hãm hại ông, quấy nhiễu ông và tống giam ông. Những sấm ngôn của ông bị vua Giô-gia-kim xé từng trang và bỏ vào lò sưởi. Tuy nhiên, những lời sấm này  đã được ứng nghiệm. Kinh thành Giê-ru-sa-lem bị quân đội của vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đánh chiếm vào năm 597 trước Công Nguyên; thành phần ưu tú bị phát lưu ở Ba-by-lon; Đền Thờ bị phá hủy vào năm 587, sau khi thành Giê-ru-sa-lem bị chiếm lần thứ hai.

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a đọc được những ý định của Thiên Chúa qua thực tại bi thảm này: cuộc tái lập Giao Ước tỏ ra thất bại, Thành Đô hoang tàn đổ nát, Đền Thờ chẳng bao lâu sau bị tàn phá, đây không phải là những dấu hiệu cho thấy Thiên Chúa có một kế hoạch khác, vì lòng chai dạ đá của dân Ngài sao? Chính như vậy mà ngay vào lúc Kinh Thành Giê-ru-sa-lem sắp bị tàn phá, vị ngôn sứ loan báo rằng không có gì phải mất cả và diễn tả niềm hy vọng bất diệt của Ít-ra-en bằng những lời lẽ tuyệt vời: “Này  sắp đến những ngày” Đức Chúa sẽ thiết lập với dân Ngài một Giao Ước Mới, không còn là Giao Ước được khắc trên bia đá như Ngài đã ban cho ông Mô-sê, cũng không trên cuốn sách như được tìm gặp trong Đền Thờ, nhưng sẽ được ghi tạc vào lòng dạ dân chúng, sẽ khắc sâu vào tâm khảm dân chúng…

Ở những nơi khác, vị ngôn sứ công bố: “Ta sẽ ban cho chúng một tâm hồn để nhận biết rằng chính Ta là Đức Chúa” (Gr 24: 7) hay “Ta sẽ ban cho chúng một trái tim và một con đường hành động, để chúng kính sợ Ta mãi mãi, nhờ đó chúng và con cháu sau này  được sống hạnh phúc. Ta sẽ lập với chúng một Giao Ước muôn đời: Ta sẽ không bỏ chúng nữa, sẽ tiếp tục theo dõi, và không ngừng thi ân cho chúng, cũng như ban cho chúng lòng kính sợ Ta, để chúng không xa rời Ta nữa”(32: 39-40).

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo cuộc sống theo Thần Khí và dưới tác động của ân sủng. Nhờ tác động của Thần Khí, mọi người, từ bé thơ cho đến người lớn, đều nhận biết và thi hành ý muốn của Thiên Chúa mà không cần phải dạy bảo nhau nữa.

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong cảnh lưu đày ở Ba-by-lon cũng thoáng thấy một niềm hy vọng về một Giao Ước Mới: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng cho các ngươi một trái tim bằng thịt. Chính thần khí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thực hành” (Ed 36: 26-27).

Cuộc đời của vị ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã là một mẫu gương về một cuộc sống trong Thần Khí rồi. Một con người đạo hạnh tận đáy lòng, đối thoại thường hằng với Thiên Chúa, vị ngôn sứ xứng đáng được gọi là “cha của kinh nguyện”. Bằng cuộc sống của mình, ông làm chứng về tôn giáo mà ông loan báo. Chính từ môi miệng ông mà sấm ngôn về “Giáo Ước Mới” được thốt lên thành lời. Đó không phải là hợp lý sao?

BÀI ĐỌC II (Dt 5: 7-9)

Phải nói một cách chính xác, “thư gởi các tín hữu Do thái” tự nó không thực sự là một “bức thư” vì tác giả không tự giới thiệu mình và cũng không cho biết người nhận thư là ai (nhan đề “thư gởi tín hữu Do thái” xuất hiện sau này vào thế kỷ thứ hai).

Bức thư này được gán cho thánh Phao-lô vì vài tư tưởng và ngôn từ rất gần với tư tưởng và ngôn từ của thánh nhân, nhưng đề tài trọng tâm không thuộc về thánh Phao-lô: tác giả muốn chứng tỏ rằng Đức Ki-tô là vị Thượng Tế Tân Ước, cao vời trên vị Thượng Tế Cựu Ước. Đức Ki-tô là Đấng Trung Gian tuyệt vời, vị Tư Tế duy nhất và hiến lễ của Ngài thì thập toàn. Ấy vậy, thánh Phao-lô không bao giờ gán cho Đức Ki-tô tước hiệu tư tế.

Chắc hẳn người nhận thư là những người Ki-tô hữu gốc Do thái chịu những bách hại và chắc chắn mang một nỗi nhớ khôn nguôi về nền phụng tự Cựu Ước. Về niên biểu, bức thư này  chắc chắn được viết trước khi Đền Thờ và Kinh Thành Giê-ru-sa-lem bị tàn phá vào năm 70 sau Công Nguyên, bởi vì tác giả nói về phụng vụ Đền Thờ như phụng vụ hiện hành và luôn luôn sinh động. Ngoài ra, nếu bức thư được viết sau biến cố năm 70, tác giả không thể nào không ám chỉ đến biến cố này, vì biến cố này rõ ràng củng cố đề tài của ông về tình trạng vô hiệu của Giao Ước Cũ.

Đoạn trích ngắn này diễn tả sâu sắc hai khía cạnh bất khả phân của con người Đức Ki-tô: nỗi xao xuyến của kiếp sống phàm nhân và vị thế Con Thiên Chúa. Hai khía cạnh này khiến cuộc Tử Nạn của Ngài được phơi bày hết mức kịch tính.

  1. Kiếp sống phàm nhân (5: 7)

Qua những lời này: Đức Giê-su “lớn tiếng kêu van khóc lóc, mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết”, chắc hẳn tác giả ám chỉ đến những lời khẩn nguyện tột cùng của Đức Giê-su trong vườn Ghết-sê-ma-ni, trong đó Đức Giê-su đã khẩn khoản nài xin Chúa Cha lớn tiếng đến mức ba môn đệ ở gần đó có thể nghe được. Nhưng đây cũng có thể ám chỉ đến tiếng kêu cuối cùng của Ngài lên cùng Cha Ngài trong cơn hấp hối trước khi trút hơi thở cuối cùng trên thập giá: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con”(Mt 27: 46). Dù thế nào, tác giả muốn nhắc nhớ rằng Đức Giê-su đã chia sẻ tận mức những yếu đuối của chúng ta và nỗi sợ hãi của chúng ta trước cái chết. Quả thật, “Thiên Chúa đã nhận lời Ngài” nhưng không theo cách thế mà con người ở nơi Đức Giê-su mong ước: để có thể chiến thắng tử thần, Ngài phải trải qua sự chết.

  1. Vị thế Con Thiên Chúa (5: 8-9)

Trong phần hai, tác giả muốn cho thấy rằng không có bất kỳ kiếm khuyết nào ở nơi Đức Giê-su. Dầu là Con Thiên Chúa, Đức Giê-su chấp nhận thánh ý Chúa Cha với một thái độ vâng phục trọn vẹn. Từ “vâng phục” âm vang tư tưởng của thánh Phao-lô. Thánh Phao-lô nói về “sự vâng phục tràn đầy niềm tin”.

“Người đã trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục”. Gian khổ là trường đào tạo tốt nhất để thành nhân, nhân loại tiến bộ nhờ những kinh nghiệm đau thương. Tác giả áp dụng tư tưởng này vào Đức Ki-tô: “bản thân đã tới mức thập toàn”. Chính không phải với tư cách là Con Thiên Chúa mà Ngài “đạt tới mức thập toàn”, nhưng với tư cách là Đấng Cứu Độ. Bằng đau khổ mà Ngài sẵn lòng chấp nhận, Đức Ki-tô đã trở nên hy lễ hữu hiệu tận mức đem lại ơn tha thứ tội lỗi. Như vậy, Ngài trở nên Đấng Trung Gian lý tưởng, vừa người anh em của nhân loại vừa Con của Thiên Chúa, làm một với Thiên Chúa và làm một với chúng ta. Đó là một trong những tư tưởng cốt yếu của “thư gởi tín hữu Do thái”  này .

TIN MỪNG (Ga 12: 20-33).

Trong Tin Mừng Gioan, câu chuyện này xảy ra ngay sau bài tường thuật về việc Đức Giê-su khải hoàn tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem vào lúc lễ Vượt Qua sắp đến gần.

Trong cùng một chuyển động, đến lượt mình, những người Hy-lạp, đại diện thế giới lương dân, bày tỏ ước nguyện “muốnđược gặp” Đức Giê-su. Trong Tin Mừng Gioan, diễn ngữ “muốn được gặp” bày tỏ dáng dấp niềm tin rồi. Lời thỉnh cầu của họ đã gây xúc động sâu xa ở nơi Đức Giê-su: những người Hy lạp này đại diện thế giới lương dân mà cuộc Tử Nạn sắp đến của Ngài sẽ mở ra cho họ con đường cứu độ. Cuộc Tử Nạn sắp đến gần của Ngài làm cho Ngài xao xuyến.

Câu chuyện này  thật cảm động. Dù thánh ký không nêu lên nỗi xao xuyến ở vườn Ghết-sê-ma-ni, nhưng tình tiết được trình bày ở đây như tham dự trước nỗi xao xuyến ở vườn Ghết-sê-ma-ni.

  1. Niềm tin của những người Hy-lạp

Những người Hy-lạp này  đến Giê-ru-sa-lem để mừng lễ Vượt Qua, họ thuộc vào số những lương dân có thiện cảm với Độc Thần Giáo Do thái. Sách Công Vụ gọi họ “những người sùng mộ Thiên Chúa” hay “những người kính sợ Thiên Chúa”.

Họ ngỏ lời xin được gặp Đức Giê-su với ông Phi-líp-phê. Ông Phi-líp-phê nói lại với ông An-rê, đoạn cả hai đến thưa chuyện với Thầy mình. Đức Giê-su không trả lời trực tiếp với những người Hy-lạp đến xin gặp Ngài. Thời gian của những cuộc chuyện trò riêng tư đã qua, nay giờ thực hiện ơn cứu độ phổ quát đã điểm.

  1. Giờ của Đức Giê-su

Trước đây, Đức Giê-su đã từ chối mang sứ điệp của Ngài đến lương dân, giờ đây Ngài biết rằng thời của họ đã đến; Ngài sắp đổ máu mình ra cho tất cả họ. Trước đó vài ngày, Ngài đã nói: “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên. Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này” (Ga 10: 15-16). Những chiên khác không thuộc ràn này, chính là những lương dân này, họ đang thỉnh cầu được gặp Ngài. Xúc động tận đáy lòng, Đức Giê-su hân hoan nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!”.

Chúa Giê-su thích dùng tước hiệu “Con Người” để nói về mình. Tước hiệu này  quy chiếu đến thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, trong đó một nhân vật huyền nhiệm “như Con Người đến trên mây trời” nhận được danh dự, quyền năng và vinh quang (Đn 7: 13-14). Tước hiệu bí ẩn này  cho phép Đức Giê-su diễn tả tính siêu việt của Ngài ở nơi nhân tính của Ngài, đồng thời vẫn giữ được mầu nhiệm con người Ngài.

“Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Trong Tin Mừng Gioan, giờ tôn vinh bắt đầu ở đồi Can-vê. Thật ra, việc tôn vinh bao gồm cuộc Phục Sinh và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha, mà bước đầu tiên chính là Thập Giá. Chính ở nơi Thập Giá mà hành động cứu độ viên mãn của Đức Giê-su được thực hiện và ý định yêu thương vô hạn của Thiên Chúa được thể hiện. Chúa Giê-su diễn tả chân lý này  bằng một sự so sánh rất giản dị: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.

  1. Lời mời gọi theo Ngài

Chúng ta ghi nhận rằng mỗi lần Đức Giê-su loan báo cuộc Tử Nạn của Ngài, Ngài đều mời gọi bước theo Ngài trên con đường gian nan của sự từ bỏ: “Ai quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này , thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống đời đời” (x. Mt 16: 21-24; Mc 8: 31-35; Lc 9: 22-23). Chính đó là câu trả lời của Ngài cho những người Hy-lạp mong ước được gặp và biết Ngài. Một cách nào đó, Ngài cho họ một cuộc hẹn gặp: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”. Không ai có thể gặp gỡ Đức Giê-su, nếu không chung bước trên cùng con đường với Ngài.

Viễn cảnh của con đường đau khổ này  làm xao xuyến Đức Giê-su. Ba chuyển động nối tiếp nhau: xao xuyến tận đáy lòng, kêu cầu cùng Chúa Cha và chấp nhận dâng hiến mạng sống mình, mà các sách Tin Mừng Nhất Lãm dùng để mô tả con người của Đức Giê-su ở vườn Ghết-sê-ma-ni. Nhưng vào giây phút này, Đức Giê-su không để cho mình ngã quỵ dưới sức nặng của cuộc Tử Nạn, nhưng trấn tĩnh lại ngay. Thêm nữa, một tiếng phán từ trời an ủi Ngài.

  1. Tiếng phán từ trời

Trong Tin Mừng Gioan, đây là cuộc Thần Hiển duy nhất. Thánh Gioan không tường thuật cuộc Biến Hình; thánh nhân tường thuật biến cố Phép Rửa chỉ gián tiếp và không có bất kỳ ám chỉ nào đến tiếng phán từ trời. Đoạn văn này là đoạn văn duy nhất ám chỉ đến sự can thiệp từ trời. Đây là dấu chỉ sau cùng được ban cho đám đông. Phải chăng đây là dấu chỉ mà người Biệt Phái đòi hỏi nhưng bị từ chối? Đức Giê-su chỉ ban dấu chỉ này  vào lúc quá muộn: án tử của Ngài đã được quyết định rồi.

  1. Cuộc chiến thắng trên Xa-tan

Vào lúc nỗi buồn phiền dâng cao, Chúa Giê-su lấy lại niềm hưng phấn lúc ban đầu: ơn cứu độ mà Ngài mang đến cho thế gian sẽ đánh dấu sự thất bại của Xa-tan. Nhân loại sẽ tránh khỏi quyền thống trị của sự Dữ. Thập Giá sẽ là dấu chỉ của cuộc chiến thắng này: “Phần tôi, khi được nâng lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”. Động từ “nâng lên” được dùng ở đây có nghĩa vừa “được giương lên cao” vừa “được tôn vinh”, tức là được đưa lên trên Thập Giá và được tôn vinh bên cạnh Chúa Cha. Đức Giê-su đã trả lời cho ông Ni-cô-đê-mô theo cùng một cách như vậy: “Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3: 14-15).  

Về mục lục

Từ khóa:

gọi là, thời gian

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận