Các bài suy niệm Chúa Nhật I Mùa Chay

Đăng lúc: Thứ bảy - 17/02/2018 10:39 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

 

CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY  – NĂM B

 

BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC –  Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973  2

TIN LÀ CHẤP NHẬN ĐƯỜNG THẬP GIÁ (*)– Noel Quession. 6

HOANG ĐỊA LÀ NƠI GẶP GỠ THIÊN CHÚA (*)- Suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông  9

NGƯỜI Ở TRONG HOANG ĐỊA- Chú giải của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến  15

MÙA THANH TẨY TÂM HỒN- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 18

CHỈ VÌ THƯƠNG NÊN THIÊN CHÚA ĐƠN PHƯƠNG BAN ƠN CHO LOÀI NGƯỜI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 31

KHỞI ĐẦU SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO– Chú giải của Fiches Donimicales  44

VÀO HOANG ĐỊA-  ĐTGM Jos. Ngô Quang Kiệt 51

ĐỨC GIÊSU CHIA SẺ THÂN PHẬN CON NGƯỜI–  Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm   57

CÁT BỤI TUYỆT VỜI- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 61

HÀNH TRÌNH HOÁN CẢI VÀ TIN VÀO TIN MỪNG – Lm. Phêrô Lê Văn Chính  66

CHIẾN THẮNG CÁM DỖ VỚI CHÚA GIÊSU-  Lm. Inhaxiô Trần Ngà  71

CÂU CHUYỆN HỒNG THỦY- Lm Anphong Trần Đức Phương. 75

CÁM DỖ TRONG HOANG ĐỊA- Cố Lm. Hồng Phúc. 78

ĐỨC GIÊSU TRONG HOANG ĐỊA- Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện. 81

THIÊN CHÚA MUỐN CỨU BẠN- Lm. Giuse Đỗ Đức Trí 89

SỰ CÁM DỖ – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền. 95

SÁM HỐI THÌ ĐƯỢC CỨU RỖI- Ammai, CSsR.. 100

CHIẾN ĐẤU VÀ CHIẾN THẮNG- Trích Logos B.. 104

NHỮNG CÁM DỖ CỦA MÙA CHAY- Lm. Thu Băng, CMC. 112

CHIẾN THẮNG CÁM DỖ-  Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.. 115

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY-  Năm B

BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC –  Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973

BÀI ĐỌC I: St 9, 8-15

“Giao ước giữa Thiên Chúa và ông Nôe sau khi ông này được cứu khỏi nước lụt”.

Bài trích sách Sáng Thế.

Đây Thiên Chúa phán cùng ông Nôe và con cái ông rằng: “Đây Ta ký kết giao ước của Ta với các ngươi và con cháu các ngươi, với tất cả sinh vật đang sống với các ngươi, như chim chóc, gia súc, tất cả những thú vật đang sống trên mặt đất với các ngươi, những gì ra khỏi tàu và toàn thể thú vật trên mặt đất. Ta ký kết giao ước của Ta với các ngươi: nước lụt không còn tiêu diệt mọi loài nữa, cũng không khi nào còn lụt tàn phá trái đất nữa”. Và Thiên Chúa phán: “Đây là dấu chỉ giao ước ký kết giữa Ta với các ngươi, và tất cả sinh vật đang ở với các ngươi và sau này mãi mãi. Ta sẽ đặt trên trời một cái mống, và nó sẽ là dấu chỉ giao ước giữa Ta với trái đất. Khi Ta quy tụ mây lại trên trời, mống sẽ xuất hiện trên mây, và Ta sẽ nhớ lại giao ước đã ký kết giữa Ta với các ngươi và mọi sinh vật, và không khi nào nước lụt tiêu diệt mọi loài như thế nữa!”

Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 24, 4bc-5ab. 6-7bc. 8-9

Đáp: Tất cả đường nẻo Chúa là ân sủng và trung thành dành cho những ai giữ minh ước và điều răn Chúa (x. c. 10).

1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa; xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con.

2) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa.

3) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài.

BÀI ĐỌC II: 1 Pr 3, 18-22

“Hiện giờ phép thánh tẩy cũng cứu thoát anh em giống như thể thức ấy”.

Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.

Anh em thân mến, Chúa Kitô đã chết một lần cho tội lỗi chúng ta, Người là Đấng công chính thay cho kẻ bất công, để hiến dâng chúng ta cho Thiên Chúa; thật ra Người đã chết theo thể xác, nhưng đã nhờ Thần Linh mà sống lại. Với Thần Linh, Người đã đến rao giảng cho những tâm hồn bị giam cầm, cho những kẻ xưa kia có lúc không tin, đang khi lòng nhân từ Chúa còn khoan giãn lúc ông Nôe đóng tầu, nhờ đó một số ít người, gồm tất cả tám người, được cứu khỏi nước lụt. Và hiện giờ, phép thánh tẩy cũng cứu thoát anh em cũng giống như thể thức ấy, vì phép ấy không phải chỉ rửa sạch thân xác, mà đó là lời cầu xin Thiên Chúa ban cho một lương tâm ngay thẳng, nhờ sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa, sau khi về trời, đã bắt các thiên thần, các quyền thần và các đạo binh suy phục Người.

Đó là lời Chúa.

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 4,4b

Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.

PHÚC ÂM: Mc 1, 12-15

“Chúa chịu Satan cám dỗ và các Thiên Thần hầu hạ Người”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Người ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Người.

Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng của nước Thiên Chúa, Người nói: “Thời giờ đã mãn, và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”.

Đó là lời Chúa.

 

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY- Năm B

TIN LÀ CHẤP NHẬN ĐƯỜNG THẬP GIÁ (*) Noel Quession

“Anh em phải sám hối và tin vào Tin Mừng”

Vào đầu thế kỷ 20, một văn sĩ người Anh đã kể lại trong cuốn tiểu thuyết “Bầu trời và Thập giá” của ông, truyện một người thù ghét thập giá. Thấy thập giá ở đâu là anh ta tìm cách phá huỷ. Gặp một bức vẽ có hình thập giá là anh xé bỏ. Vợ anh mang một thập giá nhỏ bằng vàng, anh cũng lừa giật được và ném đi. Anh bảo: “Thập giá là biểu tượng sự độc ác dã man đối nghịch với niềm vui và cuộc sống”.

Lòng căm ghét thập giá ăn sâu và tâm tư anh, đến mức thấy bóng thập giá là anh như điên dại. Không chịu nổi, có lần anh leo lên tận tháp chuông nhà thờ để phá huỷ cây thập giá trên đó. Lần khác, anh đập tan cái ban công nhà vì ở đó anh thấy nhiều chỗ có hình thập giá… Anh nhìn đâu cũng thấy thập giá. cuối cùng anh nổi giận đốt luôn căn nhà của mình và bị chết cháy.

Câu chuyện cốt đi tới một kết luận: Kể từ cái chết của Chúa Giêsu, thập giá đã nên biểu tượng của chiến thắng, đó là chiến thắng của tình yêu. Dẹp bỏ thập giá là chối bỏ tình yêu, nâng cao hận thù và đưa thế giới tới chết chóc, diệt vong.

Thập giá là biểu tượng niềm tin Kitô hữu và cũng là một thử thách lớn lao cho niềm tin mỗi người. ngắm nhìn Chúa Giêsu trên thập giá, con người không nhìn ra tình yêu cao cả của Thiên Chúa mà chỉ thấy vô lý khó chịu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy xuống khỏi thập giá đi” (Mt 27, 40). Thử thách này còn theo dõi mỗi người chúng ta, còn tác động trên cả Giáo hội. Người ta vẫn tiềm tàng ý định đưa Chúa xuống khỏi thập giá, muốn Thiên Chúa biểu lộ quyền năng thống trị, chứ không dấu ẩn, vì “Nhập thể” là hình thức “Yếu đuối” (1 Cr, 1, 25). Một Thiên Chúa quyền uy là thông thường, là hợp lý, thích hợp với mọi tôn giáo…. Nhưng không phải Thiên Chúa chịu đóng đinh. Thật khác xa với chủ trương của Thánh Phaolô Tông đồ: “Người Do Thái đòi phép lạ, người Hy Lạp tìm sự khôn ngoan, còn chúng ta rao giảng Chúa Cứu Thế chịu đóng đinh, đó là gương xấu cho người Do Thái và là điên rồ trước mặt dân ngoại “ (1 Cr. 1, 22-23)

Chúa cứu chuộc chúng ta bằng thập giá, nói thế cũng có nghĩa là Chúa cứu chuộc bằng tình yêu. Và Chúa đòi hỏi chúng ta đi vào con đường Thập giá như Chúa, nghĩa là sẵn sàng hy sinh, chịu đau khổ để biểu lộ tình yêu đối với Chúa và đối với anh em (Mt 16, 24-25).

Đó là con đường tốt nhất và duy nhất. đôi lúc ta ngại đón nhận thập giá, thì đó là thử thách lớn cho niềm tin Kitô hũư của ta “Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”.

(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY- Năm B

HOANG ĐỊA LÀ NƠI GẶP GỠ THIÊN CHÚA (*)- Suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Chúng ta đang sống những ngày vui xuân, xuân của đất trời, nhất là xuân của lòng người. Qua những cuộc gặp gỡ thân tình, chúng ta cầu chúc cho nhau những điều tốt đẹp nhất trong một năm sắp tới:

“Xuân hạnh phúc đong đầy nhịp sống,

Câu yêu thương gởi nhắn bao người…

Ươm mầm hy vọng sáng tươi,

Tình Xuân đem đến niềm vui cho đời”.

Ấy vậy, năm này là năm đặc biệt, khi niềm vui xuân chưa trọn vẹn, thì Phụng Vụ lại đưa chúng ta vào Mùa Chay, mùa của màu tím, gây nên một cảm giác hụt hẩng trong lòng mỗi người. Chính cái cảm giác hụt hẩng trong những ngày xuân lại đánh động chúng ta nhiều hơn, nhắc cho chúng ta nhớ rằng thực tế của cuộc đời không luôn luôn tràn ngập những giai điệu vui tươi, nhưng xem ra những lo toan vất vả trong cuộc sống thường ngày lại là những nốt nhạc chủ đạo trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Ai trong chúng ta đều có kinh nghiệm: những ngày vui trong đời chỉ đếm được đầu ngón tay, biết bao đêm trăn trở, “nằm vắt tay lên trán, nghĩ đến chuyện cuộc đời, nằm đốt ngón tay, nghĩ đến chuyện này mai”.

Vậy thì sứ điệp Mùa Chay đem đến cho mỗi người chúng ta những ý nghĩa gì vào những ngày đầu năm mới này?

Tại sao Đức Giê-su chịu thử thách?:

Tin Mừng hôm nay tường thuật cho chúng ta những thử thách hay những cám dỗ mà Chúa Giê-su đã trải qua suốt bốn mươi ngày đêm trong hoang địa. Câu hỏi đầu tiên gợi lên trong tâm trí của mỗi người chúng ta: tại sao Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, phải chịu thử thách?

-Lý do thứ nhất: Việc Đức Giê-su chịu ma quỷ cám dỗ nằm trong sự hợp lý về ơn gọi của Ngài: Ngài đã đồng hóa mình với nhân loại tội lỗi bằng cách chấp nhận phép rửa sám hối bởi Gioan Tẩy Giả. Ngài đã đi cho đến tận cùng của sự đồng hóa nầy khi chấp nhận chịu những cơn cám dỗ như số phận của con cái A-đam và E-và.

-Lý do thứ hai: Bốn mươi ngày Chúa Giê-su chịu thử thách trong hoang địa nhắc chúng ta nhớ đến 40 năm trường dân Do thái đã trải qua những thử thách trong hoang địa. Đức Giê-su đã muốn đồng hóa mình với dân Ngài bằng cách sống lại những cơn cám dỗ của họ trong hoang địa.

Chúa Giê-su chịu những thử thách nào trong hoang địa?

Qua việc đồng hóa với loài người và với dân Ngài, Chúa Giê-su chỉ cho chúng ta thấy làm thế nào chiến thắng những chước cám dỗ. Từ đó, chúng ta muốn biết những thử thách nào Chúa Giê-su đã phải trải qua?

-Cuộc thử thách thứ nhất mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến đấu với thiên nhiên. Những ai sống trong hoang địa phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt: chịu cái nóng nung người vào ban ngày, chịu cái lạnh cắt da vào ban đêm, chịu tất cả mọi thiếu thốn của đời sống thường ngày. Và hôm nay, Đức Giêsu đã thắng được cái lạnh, cái nóng và nhất là đã thắng được cái đói cái khát, đã hoàn toàn làm chủ được bản thân trước những nhu cầu của thân xác.

-Cuộc thử thách thứ hai mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến đấu chống lại ma quỷ. Những cơn cám dỗ của ma quỷ thường là cám dỗ về đức tin. Hai ông bà nguyên tổ cũng bị ma quỷ thử thách, nhưng không vững lòng tin nên đã sa ngã. Tổ tiên của dân Do thái, bốn mươi năm trường trong hoang địa, có Chúa đồng hành, nhưng họ đã không tin tưởng vào sự hiện diện của Ngài, nên phải bị vùi thây trong hoang địa, không được đặt chân vào Đất Hứa. Đức Giêsu cũng bị ma quỷ thử thách, nhưng đã thắng vượt mọi cơn cám dỗ nhờ Người vững lòng tin vào Thiên Chúa.

-Cuộc thử thách thứ ba mà Đức Giêsu đã trải qua là cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để tìm thánh ý Chúa Cha. Đức Giêsu luôn tìm thánh ý Chúa Cha, nên Người đã từ bỏ con đường rộng để đi vào con đường hẹp, từ bỏ con đường riêng tư để đi vào con đường Chúa Cha đã định. Nên Người đã toàn thắng trong cuộc chiến đấu.

Hoang địa là nơi gặp gỡ Thiên Chúa:

Hoang địa không phải chỉ là bức tranh được tô đậm bởi những gam màu tím của những thử thách đầy cam go đâu, nhưng còn bởi những gam màu sáng của những cuộc gặp gỡ thân tình với Chúa: “Ta đã quyến rủ người, đã đưa ngươi vào hoang địa, nơi đó lòng bên lòng Ta đã thổ lộ tâm can cùng ngươi”. Ông Mô-sê, sau 40 đêm ngày ở trên núi Sinai, đã trở nên bạn nghĩa thiết của Chúa. Ngôn sứ Êlia, sau cuộc hành trình 40 đêm ngày, đã tới núi của Chúa và đã gặp được Chúa. Chúa Giê-su, sau 40 đêm ngày vượt thắng mọi thử thách, đã gặp gỡ Chúa Cha, đã tìm được ý Chúa Cha và đã kết hiệp mật thiết với Chúa Cha đến độ từ nay Người trọn vẹn thuộc về Chúa Cha.

Sau những ngày vui xuân, chúng ta trở về với cuộc sống thường ngày với biết bao lo toan vất vả chuyện cơm áo. Vì thế, không gì thực tế hơn khi Giáo Hội mời gọi chúng ta phải đối mặt với chúng, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên cường. Thực tế, chúng ta không có điều kiện để vào nơi hoang địa địa lý, nhưng chúng ta vẫn có thể vào hoang địa của cuộc đời.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, thiếu thốn trong đời sống, dù đói nghèo vẫn giữ được tâm hồn tự do, không chịu nô lệ vật chất. Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là kiên cường chống trả mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới, luôn vững niềm tin vào Chúa dù gặp những khó khăn thử thách. Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là từ bỏ những ý riêng để luôn tìm thánh ý Chúa, sẵn sàng thực hành thánh ý Chúa, dù có phải đau đớn, thiệt thòi. Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là giữ tâm hồn thanh thản bình an để gặp gỡ Chúa, tiếp xúc thân mật với Chúa, hoàn toàn thuộc về Chúa. Chúa có thể ngỏ lời với mỗi người chúng ta, như với Đức Giê-su: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.

Hôm nay, vào những ngày đầu xuân, cũng là dịp chúng ta nhìn lại một năm đã qua với lòng cảm tạ tri ân vì Chúa đã dẫn dắt chúng ta qua những thăng trầm của giòng đời. Một giòng đời có xen lẫn buồn vui sướng khổ, có nước mắt và nụ cười, nhưng bàn tay quan phòng của Đấng tạo hóa luôn làm chủ mọi biến cố xảy ra trong cuộc đời của mỗi người.

Hôm nay, trong bầu khí tươi vui của những ngày đầu xuân, chúng ta hướng lòng đến một năm sắp tới. Dù bên ngoài, chuyện xuân đi xuân đến hợp với lẽ tự nhiên của đất trời: xuân khứ bách hoa lạc, xuân đáo bách hoa tươi (xuân đi trăm hoa rụng, xuân đến trăm hoa cười), điều quan trọng là mỗi người chúng ta được mời gọi giữ mãi mùa xuân trong lòng mình. Đó là một mùa xuân ngập tràn hạnh phúc khi con người sống trọn tình vẹn nghĩa với Đấng tạo thành. Đó là một mùa xuân ngập tràn yêu thương khi con người sống hòa thuận với nhau, tránh xa những đố kỵ ghen tương, hàn gắn những yêu thương đã đổ vỡ. Ước gì cuộc đời của mỗi người chúng ta dù thiếu thốn vật chất, nhưng niềm vui vẫn đong đầy khi có Chúa, là Mùa Xuân vĩnh cửu, đồng hành với chúng ta. Ước gì cuộc đời của mỗi người chúng ta, dù có phải lo toan vất vả, vẫn luôn giữ mãi mùa xuân trong lòng mình vì có Chúa Xuân hiện diện chúc phúc cho cuộc đời chúng ta:

Tình xuân nồng ấm

Bao chan chứa hồn thơ

Yêu thương giờ chớm nở

Chúa chính Mùa Xuân

Mùa xuân yêu thương vô tận”.

(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN- Năm B

NGƯỜI Ở TRONG HOANG ĐỊA- Chú giải của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến

Mc 1:12-15: 12 Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. 13 Và Người đã ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, và đã ở giữa dã thú, và các thiên sứ hầu hạ Người.

14 Sau khi ông Gioan bị bắt, Đức Giêsu đã đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. 15 Và Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và Vương quốc Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”

Tin Mừng của Chúa nhật nầy gồm hai đoạn nối tiếp nhau, nói đến hai sự kiện ngay sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa: vào hoang địa (1:12-13) và rao giảng sứ điệp đầu tiên (1:14-15). Chúa Giêsu tiếp tục gắn bó với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Người được Chúa Thánh Thần đẩy vào hoang địa (1:12), và sau đó, Người bắt đầu rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa (1:14-15). Marcô chỉ mô tả tình trạng của Chúa Giêsu trong hoang địa, không nói gì đến chuyện cám dỗ và phản ứng của Người. Rất ngắn, chỉ trong hai câu (x. Mt 4:1-11; Lc 4:1-13). Trong hoang địa, Người đã sống giữa mọi tương quan: với Thiên Chúa, con người, thiên thần, Satan, dã thú và thiên nhiên.

Hoang địa được hiểu là một nơi xa chỗ con người sinh sống (6:35-36; 8:4). Là nơi trú ẩn của những dã thú và Satan (1:13). Chúng tượng trưng cho những sức mạnh thù nghịch và nguy hiểm cho sự sống của con người (Ezk 14:21; Kh 6:8). Ở đây, hoang địa gắn liền với một thời gian: bốn mươi ngày. Con số gợi nhớ bốn mươi năm thử thách của dân Israel (Dnl 8:2). Sống trong hoang địa bốn mươi ngày, Chúa Giêsu liên đới với con người trong việc bị cám dỗ, để Người có thể giúp những ai bị cám dỗ (Dth 2:18; 4:15). Nhưng dân Israel đã không bị cám dỗ triền miên suốt bốn mươi năm, họ còn kinh nghiệm nhiều điều khác hơn thế trong hoang địa.

Hoang địa là nơi gặp gỡ Thiên Chúa. Khi Thiên Chúa giải thoát dân tộc nầy khỏi nô lệ Ai cập, Người liền đưa họ vào hoang địa để lập quốc, giao ước và để nói những lời yêu thương (Os 11:1). Nên thời gian trong hoang địa cũng là thời gian của tình yêu ban đầu. Sau nầy, mỗi khi thấy dân chạy theo ngẫu thần, Thiên Chúa muốn dẫn dân vào lại hoang địa để làm lại kinh nghiệm tình yêu của thưở ban sơ (Os 2:14; Giê 2:2). Bởi đó, Chúa Giêsu không bị cám dỗ suốt bốn mươi ngày. Người sống trong hoang địa để kéo dài kinh nghiệm tình yêu với Thiên Chúa, đã khởi đầu từ biến cố chịu phép rửa, và để từ nơi Người sẽ phát xuất một dân mới sống theo Tin Mừng mà Người sẽ rao giảng (1:14-15).

Hoang địa luôn là nơi thuận lợi để gặp gỡ Thiên Chúa. Nơi nào có các thiên thần hiện diện, nơi đó có Thiên Chúa (8:38). Việc các ngài hầu hạ Chúa Giêsu cho thấy Chúa Cha lo lắng cho Người chừng nào (1:13). Chúa Giêsu ở giữa dã thú, mà không bị chúng làm hại. Người bị cám dỗ, mà không bị thua cuộc. Như thế, hoang địa ấy đã trở thành thiên đàng (x. Is 11:6-8; 65:25; Os 2:18; Gióp 5:22), và Chúa Giêsu đã trở thành một Ađam mới, luôn tín trung với Thiên Chúa. Kinh nghiệm sống trong hoang địa đã làm Chúa Giêsu lớn lên và mạnh mẽ trong tinh thần (Lc 1:80). Từ đó, Người thường lui tới hoang địa để cầu nguyện và cũng dạy các môn đệ của Người làm như thế (1:35.45; 6:31).

“Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Tin Mừng nầy là Tin Mừng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu và Tin Mừng gắn liền với nhau như là một. Có hai cách sám hối và tin vào Tin Mừng rất cụ thể: vác thánh giá và từ bỏ bản thân vì Chúa Giêsu và Tin mừng (8:34-35), bỏ mọi sự và đi theo làm môn đệ của Chúa Giêsu và Tin Mừng (10:29). (Xin xem thêm giải thích đoạn 1:14-15 ở Chúa Nhật III Thường Niên B).

Tiếng kêu từ hoang địa là tiếng gọi của tình yêu. Mời gọi tin và trở về với tình yêu ban đầu (x. 1:3-4).

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY- Năm B

MÙA THANH TẨY TÂM HỒN- Lm Giuse Đinh lập Liễm

DẪN NHẬP

Chúng ta đã bước vào mùa Chay thánh từ hôm thứ tư  lễ Tro. Ai trong chúng ta cũng biết rằng Mùa Chay là thời gian thuận lợi giúp các tín hữu chú trọng vào việc sám hối bằng việc ăn chay, cầu nguyện và bố thí. Đề tài này đã có từ lâu trong Giáo hội và đã trở thành truyền thống lên mãi tới thời các giáo phụ.

Bài Tin mừng Chúa nhật thứ nhất hôm nay cho chúng ta biết Đức Giêsu sau khi đã chịu phép rửa của ông Gioan và được tuyên phong là Con yêu dấu của Chúa Cha, đã vào trong hoang địa ăn chay 40 đêm ngày và đã bị ma qủi cám dỗ. Khác với thánh Matthêu và Luca, thánh Marcô nói rất vắn tắt không cho biết diễn tiến cám dỗ và Chúa đã chiến thắng như thế nào.  Tuy nhiên, Giáo hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin mừng này để mời gọi chúng ta chiêm ngắm hình ảnh Đức Giêsu như kiểu mẫu và bảo đảm cho chúng ta cuộc chiến đấu với Satan và những cám dỗ của nó.  Chúng ta sẽ bị ma qủi cám dỗ nhưng theo gương chiến đấu của Đức Giêsu và với sự trợ giúp của Ngài, chúng ta sẽ chiến thắng.

TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1 : St 9,8-15.

Nhiều tôn giáo cũng có biết đến một trận hồng thủy do các thần gây nên để tiêu diệt một nhân loại phản loạn. Riêng Thánh Kinh trình bầy cho chúng ta việc Thiên Chúa tạo nên một trận đại hồng thủy tiêu diệt loài người tội lỗi. Nhưng cũng trình bầy cho chúng ta một Thiên Chúa tốt lành, Ngài sẽ phục hồi những gì nạn hồng thủy phá hủy và xây dựng lại một nhân loại trong một bầu khí giao ước và chia sẻ.  Ngài cũng hứa sẽ không bao giờ cho nạn hồng thủy tiêu diệt loài người nữa; và dấu hiệu giao ước Ngài ký kết với loài người  là chiếc cầu vồng.

Vì thế, cho dầu tội lỗi chúng ta  và thế gian có thế nào đi nữa, chúng ta đừng thất vọng, hãy tin tưởng vì nơi Thiên Chúa luôn có sự tha thứ và cứu vớt : chính vì Ngài là Tình yêu vô tận

+ Bài đọc 2 : 1 Pr 3,18-22.

Muốn khích lệ các tín hữu đang bị ngược đãi, thánh Phêrô nhắc lại nạn hồng thủy xưa và coi đó là hình bóng của phép rửa tội. Cũng như ngày xưa Thiên Chúa nhân từ đã cứu sống ông Noe và gia đình ông thế nào thì ngày nay phép rửa cũng cứu thoát con người khỏi tội lỗi, giải thoát con người khỏi hình phạt do tội gây nên. Muốn được như thế chúng ta phải cam kết sống như Chúa Kitô, tức là phải từ bỏ mình và phục vụ vô vị lợi vì lòng mến Chúa và tha nhân.

+ Bài Tin mừng : Mc 1,12-15.

Thánh Marcô nói tóm tắt việc khởi đầu sứ mạng của Đức Giêsu với hai biến cố quan trọng :

– Vào hoang địa bị ma qủi cám dỗ.

– Rao giảng Tin mừng tại Galilêa.

Trong suốt 40  đêm ngày chay tịnh (như thời gian xẩy ra cơn hồng thủy) Đức Giêsu với tư cách là con người đã bị ma qủi cám dỗ để đi sai đường lối của Thiên Chúa, nhưng Ngài đã chiến đấu dũng mạnh và chiến thắng vinh quang để đi đúng đường lối của Chúa là dấn thân vào công cuộc cứu chuộc nhân loại.

Sau thời gian chay tịnh, Ngài khởi đầu công cuộc rao giảng Tin mừng với đề tài cũng giống như của ông Gioan Tẩy giả :”Hãy sám hối và tin vào Tin mừng”.

Cuộc chiến đấu và chiến thắng của Đức Kitô cũng phải là cuộc chiến đấu và chiến thắng của chúng ta, nghĩa là hãy sống thân mật với Chúa bằng cầu nguyện để có thể mạnh mẽ chống lại sự dữ tấn công chúng ta.

THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Chiến thắng cám dỗ của ma quỷ

ĐỨC GIÊSU BỊ CÁM DỖ.

Ngài vào trong sa mạc.

Sau khi đã chịu phép rửa của ông Gioan và được tuyên dương là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu được đẩy vào sa mạc để sống gần gũi với Thiên Chúa, sống trong tình thân mật của Ngài. Chính tình yêu đó đẩy bước chân Ngài vào sa mạc để sống thân mật với Thiên Chúa, để sống trọn vẹn 40 năm trời Dân Chúa xưa đã sống trong sa mạc, nhưng không được tốt lành hoàn toàn.

Ngài ăn chay 40 đêm ngày.

Vào trong hoang địa để sống với Cha Ngài, Đức Giêsu cũng đồng thời ăn chay 40 đêm ngày.  Nói Ngài ăn chay 40 đêm ngày là có ý nói Ngài ăn chay một thời gian đáng kể chứ không hiểu theo nghĩa đen như chúng ta hiểu ngày nay. Chúng ta cũng thấy trong Cựu ước hay dùng con số 40 : Maisen được cho biết đã lên đỉnh núi với Chúa Giavê 40 ngày (Xh 24,18); sau khi được bữa ăn của thiên sứ, Elia đã đủ sức đi trong 40 ngày lên núi Horeb (1 V 19,8).

Ngài bị Satan cám dỗ và đã thắng.

Trong thời gian ăn chay đó, Đức Giêsu bị Satan cám dỗ.  Từ ngữ Satan trong Hi văn chỉ có nghĩa đơn giản là kẻ chống đối, kẻ thù, và sau cùng là thế lực chống lại Thiên Chúa. Thánh Marcô không nói rõ diễn tiến cơn cám dỗ như thánh Matthêu nhưng cơn cám dỗ đều qui về một điểm  là chúng muốn làm cho Ngài bỏ ý tưởng cứu chuộc để đi vào quan điểm của người Do thái, vật chất và trần tục.  Đức Giêsu đã cương quyết chống lại cơn cám dỗ ấy và Satan đã thất bại nặng nề trong cơn cám dỗ kéo dài trong suốt 40 đêm ngày.

Truyện : Anh nông dân keo kiệt.

Một nông dân kia giầu có nhất huyện nhưng lại rất keo kiệt. Một biến cố xẩy đến trong đời ông khiến ông kịp thời hối cải. Ông ý thức rằng mình chỉ là người quản lý : quản lý đất đai và tiền bạc.

Không lâu sau đó, một người láng giềng nghèo bị cháy hết nhà cửa. Người này đến cửa nhà ông xin ăn. Người nông dân giầu, có ý định cho người nông dân nghèo kia nguyên cả cái đùi heo trong bếp nhà ông. Ông nghe qủi thì thầm bên tai :”Cho hắn cái đùi heo nhỏ nhất ấy”. Ông nhà giầu cố gắng chiến đấu với tính keo kiệt cố hữu của mình. Sau nhiều nỗ lực, cuối cùng lòng quảng đại đã thắng tính keo kiệt ấy. Ông lựa lấy cái đùi heo lớn nhất để biếu người nông dân nghèo. Ngay tức khắc, ma qủi liền cười nhạo ông:”Mày khùng quá”! Nhưng người nông dân  đã biết cách bịt miệng tên qủi.  Ông bảo nó:”Nếu mày không im, tao sẽ cho hết mọi cái đùi heo tao có bây giờ”.

Cám dỗ không thể làm hại được người ta khi người ta không theo cám dỗ ấy, và điều đó lại càng hiệu nghiệm hơn khi có sự trợ lực từ nhiều phía, nhất là của Thiên Chúa.

CHÚNG TA CŨNG BỊ CÁM DỖ.

Các giai đoạn của cám dỗ.

Cám dỗ chỉ có nghĩa là xúi giục người ta bỏ điều lành mà làm điều xấu. Chính Satan đã cám dỗ Đức Giêsu bỏ ý hướng tốt lành của Cha Ngài để theo đường lối của thế gian. Nhưng cần phải phân biệt 3 giai đoạn của cám dỗ :

a) Gợi lên một hình ảnh.

b) Làm cho thích thú hoặc hướng chiều về sự ác.

c) Sau cùng là ưng thuận.

Satan chỉ có thể làm được nơi Đức Giêsu ở giai đoạn thứ nhất : gợi hình ảnh hoặc một sự vật ở giác quan hoặc ở trí tưởng tượng.

Truyện : cách vượt ngục đặc biệt

Một phạm nhân vượt ngục một cách rất khác thường. Người này bị nhốt trong một tháp cao, cao đến nỗi không ai có thể trèo xuống được. Để vượt ngục, người này nhổ hai sợi tóc mỗi ngày và xe lại với nhau. Sau một thời gian, người ấy đã có thể làm được một sợi dây bằng tóc. Người ấy thả sợi dây tóc đó xuống dưới cửa sổ của nhà tù và một người bạn đợi sẵn ở dưới buộc một sợi lụa vào đầu sợi dây tóc và ở cuối sợi chỉ lụa lại buộc một sợi dây dài và cuối sợi dây dài đó lại buộc một sợi dây thừng nhỏ, đầu sợi dây thừng nhỏ lại buộc một sợi dây thừng lớn. Người tù đã dùng sợi dây thừng lớn này để vượt ngục.

Đó chính là đường lối ma qủi cám dỗ bản tính yếu hèn của ta.. Chúng ta giam tù các dục vọng của ta, nhưng ma qủi giúp chúng vượt ngục dần dần. Rất ít khi ma qủi cám dỗ ta  phạm tội trọng ngay từ đầu. Vì thế sẽ khiến ta sợ. Nhưng chúng cám dỗ ta  phạm một lỗi nhỏ để rồi dẫn chúng ta đến chỗ phạm tội trọng. Không bao giờ chúng cám dỗ ta làm hai điều một trật. Còn đủ thời giờ để cám dỗ chúng ta phạm tội kia. Nhưng chúng cám dỗ ta thế nào để cơn cám dỗ này đưa đến một cám dỗ khác, rồi một cơn cám dỗ khác nữa và cứ thế tiếp tục cho đến khi chúng ta phạm tội trọng. (W.J. Diamond, Đồng cỏ non, 1968, tr 51)

Những lợi ích của cám dỗ.

Trong cuộc sống, không ai tránh được cuộc tấn công của cám dỗ, nhưng điều chắc chắn là những cuộc cám dỗ không nhằm mục đích khiến chúng ta phải sa ngã, nhưng làm cho linh hồn chúng ta  được trưởng thành, được trung kiên thi hành ý Chúa. Cơn cám dỗ có lợi cho ta vì :

– Lập công phúc khi chiến thắng cám dỗ.

– Sống khiêm nhường và nhận ra sự bất lực của mình để trông cậy vào Chúa.

– Thúc đẩy cầu nguyện, vì Chúa phán:”Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa cám dỗ”.

– Sau cơn cám dỗ ta được vui mừng an ủi vì “Gieo trong đau thương, gặt trong vui mừng”.

Kitô hữu trước những thử thách.

Sống giữa trần gian này là phải chiến đấu và lấy quyết định. Đức Giêsu tuy là Con Thiên Chúa, Ngài đã làm người và Ngài đã không đi ra ngoài qui luật ấy. Ngài cũng đã chịu thử thách  như Adong trong vườn  địa đàng và như dân Do thái  suốt 40 năm trong hoang địa. Nhưng khác với Adong và dân Do thái suốt 40 năm trong hoang địa : Ngài đã chiến thắng Satan, và sự chiến thắng này là nhờ vào sức mạnh của Thiên Chúa.

Ngày nay nhiều người cho rằng cám dỗ của ma qủi liên quan đến ba đối tượng là danh, lợi, thú. Ham danh, ham lợi, ham phú qúi là bản tính của con người. Ai cũng muốn địa vị cao sang, ai cũng muốn giầu có, ai cũng ham thích thú vui. Hoặc như quan niệm của Tây phương thì cám dỗ xoay quanh Avoir (cái có), Savoir (cái biết) và Pouvoir(quyền lực).  Đây là những cám dỗ triền miên mà con người ở mọi thời đại luôn gặp phải. Điều quan trọng là phải tỉnh thức,”phải sám hối và tin vào Tin mừng”(Mc 1,15b) thì mới có thể vượt qua được cơn cám dỗ ấy

III. PHẢI CHIẾN THẮNG CÁM DỖ.

Trước cái thế giằng co.

Đức Giêsu bị cám dỗ trước cái thế giằng co giữa lời kêu gọi của Thiên Chúa Cha và lời kêu gọi của Satan : Thiên Chúa nói với Đức Giêsu “Hãy thiết lập vương quyền bằng tình thương”, còn  Satan lại bảo Đức Giêsu:”Hãy thiết lập một chế độ độc tài bằng bạo lực”. Hôm đó, Đức Giêsu đã phải chọn giữa phương pháp của Thiên Chúa và đường lối của kẻ thù địch với Thiên Chúa.

Trong con người chúng ta có hai khuynh hướng trái ngược nhau : Một khuynh hướng kéo con người đi lên, khuynh hướng kia kéo con người đi xuống. Đời người đúng là một đấu trường giữa thiện và ác. Thánh Phaolô đã có kinh nghiệm về vấn đề này khi Ngài nói:”Tôi không hiểu nổi việc tôi làm : điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm”(Rm 7,16). Vì thế, muốn đi lên, con người phải cố gắng, phải dùng chính sức mạnh của mình, phải hao tổn năng lực của mình.

Quyết tâm cải thiện đời sống.

“Cải thiện” hay “cải tà qui chính” là nhìn nhận những gì xấu, không tốt đẹp trong đời sống chúng ta, và từ đó là từ bỏ chúng, quay lưng lại với chúng. Nói khác đi là thẳng thắn đối diện với tội lỗi trong đời sống của ta, rồi cương quyết không bao giờ tái phạm nữa. “Cải thiện” là đối diện với những khuynh hướng xấu trong đời sống chúng ta và làm một cái gì để sửa đổi những khuynh hướng đó.

Léon Tolstoi đã nói không sai:”Mọi người đều nghĩ đến chuyện thay đổi nhân loại, nhưng không ai nghĩ đến chuyện thay đổi chính mình”.

Phải đề cao cảnh giác.

Mùa Chay là thời gian hồi tâm, trở về với Chúa để định hướng cho tương lai. Mùa Chay cũng là lúc dừng lại để nhận ra những cám dỗ, những cạm bẫy đang bủa vây. Nguyên tắc bất di bất dịch là :”Cẩn tắc vô ưu”, cẩn thận đề phòng thì không sợ sa ngã, khỏi phải buồn phiền. Trong thư gửi cho tín hữu Corintô, thánh Phaolô đã nhắc đến nguyên tắc này khi Ngài nói:”Ai tưởng đứng vững, coi chừng kẻo ngã”(1Cr 10,12).

Truyện : Cạm bẫy của người Eskimô

Người Eskimô bắc cực có một cái bẫy chó sói rất độc đáo, để lấy bộ lông làm áo da thú.

Thợ săn cáo mài một con dao thật sắc, luỡi dao mỏng và bén đến độ chỉ cần vuốt nhẹ là cắt da lòi thấu xương. Họ nhúng con dao ấy vào trong máu súc vật, rồi đem ra ngoài trời tuyết lạnh cho mau đông lại. Họ làm như thế nhiều lần cho đến khi con dao bọc toàn máu.

Khi trời nhá nhem tối, họ đem ra cắm ngoài cánh đồng tuyết. Với cái mũi rất thính của loài sói bắc cực, nó đánh hơi được mùi máu tươi đông lạnh. Vội vàng chạy tới liếm lấy liếm để, liếm tới tấp, liếm điên cuồng cho đến khi lưỡi mình đã bị dao cắt đứt mà vẫn sung sướng liếm dòng máu tươi, không biết mình đang liếm máu của chính mình.

Càng say máu, sói càng liếm cuồng điên, cho tới khi kiệt sức rồi lăn ra mà chết.(Thiên Phúc, Như Thầy đã yêu, năm B, tr 143)

Cần sự trợ lực của Chúa.

Trong kinh Lạy Cha chúng ta đọc:”Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, có nghĩa là Chúa dạy chúng ta phải cầu nguyện xin Chúa ban ơn trợ lực để chúng ta khỏi thua chước cám dỗ.  Ma qủi luôn rình rập làm hại chúng ta, chúng ta phải nhớ lời thánh Phêrô nhắc nhở:”Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma qủi, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự”(1 Pr 5,8-9a). Chúng ta cũng phải nhớ đến thân phận yếu hèn của mình mà tin cậy vào ơn Chúa vì chính Chúa đã nói :”Không có Thầy, các con không làm được gì”(Ga 15,5).

Những gương chiến đấu tốt đẹp chống lại ma qủi còn để lại cho chúng ta nơi các thánh. Ma qủi đã hiện ra nhiều lần dưới nhiều hình quái ghê sợ để buộc thánh Antôn bỏ cuộc, nhưng ngài đã xua đuổi và trở nên tổ phụ đời sống tu trì.  Về đêm , trong im lặng, ma qủi quấy phá thánh Gioan Vianney trong 35 năm, ngài vẫn đứng vững dưới sự trợ lực của Chúa.

Một vị thánh kia có lần được thấy ma qủi khi đi qua một tu viện và thấy nhiều qủi ngồi ở mỗi góc,  cả ở nhà nguyện nữa. Vị thánh đó đi ra phố và thấy rằng chỉ có một thằng qủi đi cám dỗ mà thôi. Vị thánh đó hỏi tại sao thì qủi trả lời:”Chỉ một thằng qủi cũng đủ cám dỗ các linh hồn ở ngoài phố, vì họ không cố gắng chống lại, chứ còn để bắt được một linh hồn lành thánh thì cần cả một đạo binh qủi kia”.

Nếu chúng ta bị cám dỗ thì có nghĩa là linh hồn chúng ta đang lớn mạnh đó. Nếu Chúa để cho chúng ta bị cám dỗ, thì Ngài cũng ban cho chúng ta  đủ sức mạnh để nói, như Chúa chúng ta đã phán:”Hỡi Satan , hãy xéo đi”. Và chúng ta sẽ thấy dễ chịu khi nghe câu cuối cùng của bài Tin mừng:”Bấy giờ ma qủi bỏ Ngài và có các thiên thần đến hầu cận Ngài”

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY- Năm B

CHỈ VÌ THƯƠNG NÊN THIÊN CHÚA ĐƠN PHƯƠNG BAN ƠN CHO LOÀI NGƯỜI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

DẪN VÀO THÁNH LỄ

Mùa Chay là “lúc thuận tiện” để lãnh nhận ơn Chúa, là “thời cứu độ”. Nhưng để có thể lãnh nhận ơn Chúa, chúng ta phải “sám hối và tin vào Tin Mừng”.

Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe tiếng Chúa và xin Ngài giúp chúng ta thực hiện lời Ngài.

GỢI Ý SÁM HỐI

– Chúng ta cứ sa đi ngã lại mãi trong tội. Phải chăng vì chúng ta chưa thực lòng sám hối ?

– Chúng ta có biết rằng phạm tội là để mình bị trói buộc trong xiềng xích của Satan không ?

– Chúng ta có ý thức rằng phạm tội là phụ bạc với tình yêu của Đức Giêsu, Đấng đã chịu chết vì tội chúng ta không ?

LỜI CHÚA

Bài đọc I : St 9,8-15

Sau cơn hồng thuỷ (theo St 7,12 thì kéo dài 40 ngày), Thiên Chúa lập giao ước với Nôê.

– Nội dung giao ước : sẽ không còn xảy ra một tai họa nào tương tự như thế nữa cho loài người.

– Kẻ được hưởng giao ước : “mọi xác phàm”, tức tất cả các sinh vật.

– Điều kiện : đây là một giao ước đơn phương. Chỉ một mình Thiên Chúa cam kết với loài người ; loài người không bị buộc điều gì cả.

– Dấu chỉ giao ước này : cầu vòng trên trời.

Đáp ca : Tv 24

Tv 24 là lời cầu nguyện của một người công chính : ông bày tỏ niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa ; ông xin Chúa cho biết đường lối của Ngài.

Tv này áp dụng rất đúng cho Nôê : Ông là người công chính được Chúa cứu khỏi nạn hồng thuỷ và dẫn đưa ông tới một thế giới mới.

Tv này cũng có thể dùng làm lời cầu nguyện cho các tín hữu bước vào Mùa Chay : cũng như Nôê, họ bước vào thời gian thử thách 40 ngày ; nếu họ theo đường lối Chúa thì họ sẽ tới được một thế giới mới và lập giao ước mới với Chúa.

Tin Mừng : Mc 1,12-15

Đoạn Tin Mừng này có 2 ý lớn :

a/ Đức Giêsu ăn chay : Ngài ăn chay 40 ngày (như thời gian xảy ra cơn lụt). Trong thời gian đó Ngài tìm hiểu đường lối Thiên Chúa (như Tv 24), và sau đó Ngài bắt đầu sứ vụ công khai.

b/ Đức Giêsu loan báo Tin Mừng : “Thời giờ đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần đến. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.

Bài đọc II : 1 Pr 3,18-22

Thánh Phêrô nhắc lại chuyện Hồng thuỷ xưa và coi đó là hình bóng của phép rửa tội : Ngày xưa Thiên Chúa nhân từ đã cứu sống Nôê và gia đình ; ngày nay phép rửa cũng cứu thoát con người như vậy nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô.

GỢI Ý GIẢNG

* 1. Quà và ơn

Sứ điệp thứ nhất mà Phụng vụ Lời Chúa Mùa Chay gởi đến chúng ta là : Thiên Chúa tặng quà cho chúng ta, Thiên Chúa ban ơn cho chúng ta.

Người ta thường tặng quà vào những dịp nào ? Những dịp tặng quà là Tết, đám cưới, sinh nhật v.v. Thường thì ai tặng quà cho ai ? Người tặng quà thường là người có liên hệ tình nghĩa thế nào đó với người được tặng, chẳng hạn cấp dưới đối với cấp trên, học trò đối với thầy cô, người chịu ơn đền đáp cho người thi ơn. Vì thế có thể nói “quà” thường là thứ “có qua có lại”.

Khi “có qua” mà không “có lại” thì gọi là “ơn” (Tiếng hy lạp Charis luôn bao hàm tính cách miễn phí). Các bài đọc hôm nay kể đến 2 ơn mà Thiên Chúa ban cho loài người :

– Ơn ban sự sống (xem phần giải thích bài đọc I) : vì loài người tội lỗi nên bị phạt phải chịu nạn hồng thuỷ. Nhưng Thiên Chúa đã cứu sống gia đình ông Nôe. Sau khi cơn hồng thuỷ kết thúc, Thiên Chúa lập giao ước rằng từ nay sẽ không bao giờ Ngài cho xảy ra một đại họa như thế nữa. Đây là một giao ước đơn phương : Thiên Chúa không buộc loài người làm gì cả, chỉ một mình Ngài hứa và cam kết giữ lời hứa ấy. Sau này loài người lại tiếp tục phạm tội nhưng Thiên Chúa vẫn trung thành với lới cam kết đơn phương ấy.

– Ơn ban sự sống mới qua bí tích Rửa tội (Xem phần giải thích Bài đọc 2) : chúng ta đâu có công gì để được ơn này, nhưng Thiên Chúa đã ban chỉ vì yêu thương chúng ta.

Khi nhận quà thì ta mừng, khi nhận ơn thì ta cảm động. Vậy, Thiên Chúa tặng quà cho chúng ta, chúng ta có mừng không ? Và còn hơn quà nữa, Thiên Chúa luôn ban ơn cho chúng ta, chúng ta có cảm động không ?

* 2. Ý nghĩa Mùa Chay

a/ Một thời gian cầu nguyện : Ngày xưa, Môsê đã ở trên núi Sinai 40 ngày, ngôn sứ Êlia cũng ở trên núi Horép 40 ngày. Trong thời gian đó, các ngài đã cầu nguyện và đã gặp được Thiên Chúa. Trong thời gian 40 ngày Mùa Chay, việc đầu tiên chúng ta phải để ý làm là cầu nguyện như các ngài.

b/ Một thời gian chiến đấu : Ngày xưa ông Nôê ở trong tàu 40 ngày chiến đấu với phong ba bão táp của cơn hồng thuỷ ; Đức Giêsu sống trong sa mạc 40 ngày chiến đấu với những cơn cám dỗ của Satan. Noi gương các Ngài, chúng ta cũng hãy chiến đấu với những khuynh hướng xấu, những thói quen tội lỗi và những cám dỗ trong Mùa Chay này.

c/ Một thời gian sám hối và đón nhận Tin Mừng : Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã mời gọi “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Sám hối là từ bỏ con đường sai lạc cũ để quay về con đường chính. Trong Mùa Chay, chúng ta cũng quan tâm hơn đến việc lắng nghe và suy gẫm Lời Chúa.

* 3. Chiếc cầu vồng

Hình ảnh chiếc cầu vồng của bài đọc I vừa đẹp vừa gợi rất nhiều ý cho chúng ta suy gẫm trong Mùa Chay :

– Chiếc cầu vồng là một đường cong bắt đầu từ đất, vươn lên trời cao, rồi lại trở xuống mặt đất. Chính vì thế mà Thiên Chúa dùng nó làm dấu chỉ giao ước giữa trời với đất, giữa Thiên Chúa với loài người.

– Sau cơn mưa, trời lại sáng và chiếc cầu vồng xuất hiện rực rỡ. Như thế, chiếc cầu vồng còn là dấu chỉ giao ước được tái lập, trở lại tình trạng tốt đẹp thuở ban đầu.

– Cầu vồng mang 7 sắc rất đẹp. Nó còn là dấu chỉ tương giao tốt đẹp giữa Thiên Chúa với con người.

Phải chăng mối tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa cũng rất tốt đẹp hồi thuở ban đầu, nhưng rồi do tội lỗi, chúng ta như rơi vào cơn bão lụt. Nhưng Thiên Chúa muốn cứu thoát chúng ta. Ngài kêu mời chúng ta tái lập liên hệ thân thương với Ngài trong Mùa Chay này, để rồi tình nghĩa giữa chúng ta với Ngài lại tươi đẹp như trước ?

* 4. Thiên đàng đánh mất và thiên đàng gặp lại

Thánh Thần thúc đẩy Ngài vào sa mạc.

Trong phòng triển lãm tưởng tượng của chúng ta hôm nay, có bày bức tranh tứ bình, gồm hai cặp tranh đôi một đối xứng. Hai bức đầu, một bên vẽ cảnh sa mạc hoang vắng, Chúa đang bị Satan thử thách. Một bên vẽ cảnh bình yên thanh thản. Chúa đang ngồi giữa bầy dã thú đã trở nên hiền như chiên cừu. Hai bức sau, bên phải vẽ cảnh vườn địa đàng tươi đẹp. Ađam Eva trẻ trung đầy sức sống vui hưởng những ngày hạnh phúc giữa một thiên nhiên hài hòa hoa thơm quả ngọt. Bên trái, vẫn là Ađam, Eva, nhưng khuôn mặt hốc hác, trán nhăn nheo ướt đẫm mồ hôi, dáng hao gầy mòn mỏi vì mệt nhọc và già yếu, giữa một thiên nhiên khô cằn gai góc.

Đó là thân phận con người sau khi sa ngã. Con người không còn thể sống hài hòa với Thiên Chúa, với thiên nhiên, với đồng loại và với chính mình.

Nhưng Đức Giêsu đã đến để đảo ngược tình thế. Ngài sống giữa sa mạc, một thiên nhiên thù nghịch. Ngài bị thử thách gay go. Nhưng rồi Ngài đã thắng nghịch cảnh và quỉ dữ : Ngài sống yên bình hài hòa giữa một vũ tụ đã được cảm hóa.

Chỉ bằng một câu ngắn, Marcô đã vẽ nên bức tranh tứ bình đó : “Ngài ở trong hoang địa bốn mươi này, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và các Thiên sứ hầu hạ Ngài”.

Công trình tạo dựng thứ nhất của Thiên Chúa đã bị loài người phá hỏng. Chúa đến để tái tạo lại, làm công trình tạo dựng thứ hai. “Thời kỳ đã mãn, Nước Thiên Chúa đã đến gần rồi. Anh em phải sám hối và tin vào Tin mừng”.

Khi Đức Giêsu chịu phép rửa, bắt đầu sứ vụ, Thần Khí Chúa đã ngự trên Ngài. Thần Khí ấy, cũng như trong ngày đầu cuộc tạo dựng, đang bay là là trên những vùng đất khô cằn khắc nghiệt, và hoang mạc đang dần dần trở nên xanh tươi, trổ hoa thơm quả ngọt.

Vậy ra thiên đàng mà Ađam và Eva đã đánh mất vẫn còn đó, phía trước mỗi người. Nếu chúng ta biết “sám hối” và tin vào Tin mừng Đức Kitô” chúng ta sẽ gặp lại thiên đường đã mất.

Mùa Chay 40 ngày thinh lặng sa mạc, hãy để lòng chúng ta lắng xuống để bị cám dỗ, bị lôi cuốn bởi lòng cậy trông hy vọng tìm lại thiên đường đã mất, nhờ Đức Kitô, Con Chúa, Chúa chúng ta.

Dã thú và thiên thần

Câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay là một hình ảnh rất lạ : “Người ở trong hoang địa 40 ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người”

Câu này gồm 2 phần mang hai sắc thái khác hẳn nhau nhưng có liên hệ nhân quả với nhau :

– Phần đầu là một cảnh khó khăn “Người ở trong hoang địa 40 ngày, chịu Satan cám dỗ” : Đức Giêsu bị Satan cám dỗ, như ngày xưa hai nguyên tổ Ađam Evà trong vườn Địa Đàng, và như dân do thái trong sa mạc. Nhưng Ngài chiến đấu với những cám dỗ đó và đã chiến thắng.

– Phần sau là một cảnh thoải mái “sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” : (1) Trước khi hai nguyên tổ phạm tội, các ngài đã sống an hòa giữa các dã thú (xem St 2,19-20) ; Sau này khi mơ tới ngày tìm lại địa đàng đã mất, ngôn sứ Isaia cũng tưởng tượng cảnh con người và dã thú sống chung hòa thuận với nhau (xem Is 11,6-8 : “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng… Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang…” ; (2) Còn về hình ảnh các thiên sứ hầu hạ, Tv 91,9-12 hiểu rằng đó là ân huệ đặc biệt Thiên Chúa ban cho người nào biết nương tựa nơi Ngài (“Vì ngươi đã chọn Giavê làm nơi ẩn náu, Đấng Tối cao làm chốn dung thân… nên Người ra lệnh cho các thiên thần gìn giữ ngươi trên mọi lối ngươi đi…”

Vì Đức Giêsu đã chịu cám dỗ và chiến thắng chúng nên Ngài được hưởng sự an vui như đang sống trong vườn địa đàng và được Thiên Chúa đặc biệt che chở giữ gìn. Phần thưởng của Đức Giêsu khuyến khích chúng ta can đảm chiến đấu với các cám dỗ.

Cạm bẫy

Người Eskimo bắc cực có một cách bẫy chó sói rất độc đáo để lấy bộ lông làm áo da thú.

Thợ săn cáo mài một con dao thật sắc, lưỡi dao mỏng và bén đến độ chỉ cần vuốt nhẹ là cắt da lòi thấu xương. Họ nhúng con dao ấy vào trong máu súc vật, rồi đem ra ngoài trời tuyết lạnh cho máu đông lại. Họ làm như thế nhiều lần cho đến khi con dao bọc toàn máu.

Khi trời nhá nhem tối, họ đem ra cắm ngoài cánh đồng tuyết. Với cái mũi rất thính của loài sói bắc cực, nó đánh hơi mùi máu tươi đông lạnh. Vội vàng chạy tới liếm lấy liếm để, liếm tới tấp, liếm điên cuồng cho đến khi lưỡi mình đã bị dao cắt đứt mà vẫn sung sướng liếm dòng máu tươi, không hề biết mình đang liếm máu của chính mình.

Càng say máu, sói càng liếm cuồng điên, cho tới khi kiệt sức rồi lăn ra mà chết.

*

Mùa chay là thời gian hồi tâm, trở về với Chúa để định hướng cho tương lai. Mùa chay cũng là lúc dừng lại, để nhận những cám dỗ đang rình rập, những cạm bẫy đang bủa vây. Con cáo vì ham liếm máu tươi, mất cảnh giác nên đã không nhận ra được cạm bẫy chết người. Nếu cuộc đời là một chuỗi những chọn lựa, thì nó cũng là một chuỗi những cám dỗ.

Xã hội càng văn minh tiến bộ, con người càng gặp nhiều cám dỗ. Cám dỗ của thân xác đòi hỏi, hưởng thụ và chiếm đoạt. Cám dỗ của con tim mù quáng, đam mê và phóng túng. Cám dỗ của đầu óc cao ngạo, hám danh và trục lợi. Sống là một cuộc chiến đấu không ngừng. Chiến đấu với những cám dỗ khêu gợi, mời mọc, kích thích giác quan. Bao nhiêu giác quan là bấy nhiêu cánh cửa mở ra trước cạm bẫy.

Sự bất ổn của nền văn minh hiện đại, và ảo ảnh của tương lai vẫy gọi, khiến chúng ta cứ trượt dài trên con dốc tội lỗi. Người tín hữu khôn ngoan luôn cảnh giác những cạm bẫy như thủy lôi trên giòng đời.

Chính Đức Kitô đã phải liên tục đối phó với các cơn cám dỗ : “Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ” (Mc.1,13). Đây không phải là cám dỗ một lần thay cho một đời, nhưng là cuộc cám dỗ triền miên trọn cả kiếp người. Wendell Philips viết : “Kitô giáo là một trận chiến, chứ không phải là một giấc mơ”.

Nếu đời người như cây sậy trước gió, dễ ngả nghiêng trước bao cuốn hút, chúng ta càng phải biết nương tựa vào một mình Chúa.

Nếu người đời tôn thờ khoái lạc, xa hoa hưởng thụ, chúng ta càng phải biết chay tịnh cõi lòng.

Nếu thế giới đầy hình ảnh vẫn đục, phô bày thân xác, chúng ta càng phải biết giữ gìn con mắt.

Có biết bao người mơ ước hy sinh cuộc đời nhưng lại không biết hy sinh những tật xấu của mình. Leon Tolstoi viết : “Mọi người đều nghĩ đến chuyện thay đổi nhân loại, nhưng không ai nghĩ đến chuyện thay đổi chính mình”. Vì chưng có một sự thật nhức nhối này, là canh tân người khác luôn luôn dễ hơn hoán cải chính mình.

*

Lạy Chúa, Chúa đã chiến thắng những cơn cám dỗ của Satan, xin giúp chúng con can đảm lướt thắng những cạm bẫy trong cuộc đời.

Xin cho chúng con luôn xác tín rằng chỉ có Chúa mới là niềm vui và là hạnh phúc đích thực của đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)

Đổi mới

Một hôm nhà vua đang đi dạo trên đường phố thì gặp một người ăn mày ngửa tay xin tiền. Nhà vua không cho tiền nhưng mời anh đến thăm hoàng cung. Khi vào tới hoàng cung rồi, người ăn mày vô cùng bối rối vì thấy quần áo rách rưới của mình quá tương phản với những y phục lộng lẫy của những người trong triều. Biết thế, nhà vua tặng cho anh một bộ quần áo mới.

Ít lâu sau nhà vua lại dạo phố, lại gặp người ăn mày này và ngạc nhiên khi thấy anh lại mặc bộ quần áo rách rưới trước kia. Tìm hiểu lý do thì nhà vua biết được rằng sở dĩ anh không mặc quần áo mới vì nếu như thế thì anh không thể tiếp tục sống bằng nghề cũ là ăn xin được nữa. Anh đã quá quen sinh sống bằng nghề ăn xin rồi, đến nỗi nay không biết phải làm gì nếu không tiếp tục ăn xin.

Câu chuyện trên muốn nói rằng thay đổi áo quần thì dễ nhưng thay đổi cách sống rất khó ; thay đổi bên ngoài thì nhanh nhưng thay đổi bên trong rất chậm ; và nhất là rất khó thay đổi thói quen.

Mùa Chay kêu mời chúng ta đổi mới, không chỉ đổi mới bên ngoài mà phải đổi mới tận bên trong con người mình, đặc biệt là thay đổi những thói quen xấu đã ăn rễ rất sâu trong con người chúng ta.

Mùa Chay và Mùa Xuân

Mùa Xuân là mùa đổi mới : cỏ cây hoa lá đâm chồi, nẩy lộc và ra hoa. Nhưng muốn có thế thì trước đó chúng phải chịu đựng một mùa thu ảm đạm, lá rụng, cành xơ xác… rồi một mùa đông trơ trụi, lạnh giá.

Mùa Chay đến đúng vào Mùa Xuân và cũng chính là Mùa Xuân của tâm hồn, có thể biến chúng ta thành những con người mới.

Lạy Chúa, xin giúp con đừng sợ hãi chấp nhận để cho những chiếc lá thói quen cũ phải rụng đi

Xin giúp con đừng sợ hãi phải đối diện với cảnh nghèo nàn trơ trụi của tâm hồn

Bởi vì có như thế thì Chúa mới có thể đổi mới con thành con người mới, xứng đáng là môn đệ tốt của Chúa.

LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

Chủ tế : Anh chị em thân mến, trong suốt mùa chay, Hội thánh mời gọi chúng ta cùng với Đức Giêsu trải qua hai kinh nghiệm là : gặp gỡ Thiên Chúa và đấu tranh với sự dữ. Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta :

  1. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh / nhờ Mùa Chay này biết sám hối thành thật / mạnh dạn đổi mới suy nghĩ và hành động / để việc truyền giáo cho thế giới được kết quả tốt đẹp hơn.
  2. Chúng ta cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền trên thế giới / biết thành thật sám hối và sửa sai những lỗi lầm / để có thể sớm đem lại cho người dân ám no, tự do, và hạnh phúc thật.
  3. Chúng ta cầu xin Chúa cho những người đang ngụp lặn trong những đam mê tiền của, xác thịt, danh vọng / được nghe lời kêu gọi sám hối để quay về với đời sống công chính và lương thiện.
  4. Chúng ta cầu xin Chúa cho anh chị em trong cộng đồng xứ đạo chúng ta, nhất là những người còn đang rối rắm, bỏ mùa Phục Sinh / biết mau mắn trở về để sống xứng đáng với công ơn cứu chuộc của Chúa.

Chủ tế  : Lạy Chúa xin giúp chúng con trong Mùa Chay này, biết cố gắng siêng năng cầu nguyện và đi dự lễ, để được nhiều ơn Chúa mà vượt qua mọi cơn cám dỗ. Chúng con nguyện xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY-  Năm B

KHỞI ĐẦU SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO– Chú giải của Fiches Donimicales

SAU KHI CHỊU THỬ THÁCH VÀ CHIẾN THẮNG, ĐỨC GIÊSU KHỞI ĐẦU SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO Ở GALILÊ

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

Thần Khí đẩy Người vào hoang địa.

Mỗi năm cứ đến Chúa nhật thứ I Mùa Chay chúng ta lại đọc tường thuật về cuộc Cám dỗ của Đức Giêsu. Matthêu và Luca trình bày giai thoại này như một cuộc đọ sức mà hai bên dùng lời Cựu ước để tranh thắng bại, giữa Đức Giêsu và Tên Cám Dỗ. Còn về phần Máccô, ông đã khôn khéo tóm lược trong hai câu, vừa ngắn gọn lại vừa đầy đủ.

Đức Giêsu vừa đến xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa ở sông Giođan. Ở đó Người đã được thánh hiến để làm Đấng Mêsia Vua và làm người Tôi Tớ của Thiên Chúa. “Đây là Con Ta yêu dấu”, tiếng từ đám mây đã tuyên phán như vậy, “trong Người, Ta được hài lòng”. Là Môsê mới, Người đã băng qua nước thuộc về một cuộc xuất hành mới. Người được giao trọng trách tụ họp một dân mới để dẫn họ về đất hứa; Người đã nhận lãnh Thần Khí là quyền năng của Thiên Chúa để chu toàn trọng trách đã nhận.

Máccô viết tiếp: Chính Thánh Thần liền đẩy Người vào hoang địa.

+ “Liền”: Còn cách nào nhấn mạnh mối tương quan giữa phép rửa và cuộc thử thách hơn thế? Nào ta có thể cảnh báo những ai đã chịu thanh tẩy hoặc những dự tòng đang chuẩn bị để lãnh bí tích này một cách rõ ràng hơn, rằng họ đừng ngạc nhiên khi họ phải đương đầu với thử thách?

+ “Thần Khí đẩy Người vào hoang. địa”, nếu dịch nguyên văn thì phải viết: “ném người vào hoang địa”, giống như dân Israel thuở xưa, khi được lôi ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, đã bị ném ra ngoài, bị xua đuổi đi (Xh 6,1; 11,1; 12,33).

Tại sao lại vào “sa mạc”? – Thưa bởi vì theo truyền thống Kinh Thánh, hoang địa nơi thử thách cũng là nơi con tim Thiên Chúa và lòng tin con người được bộc lộ, nơi khởi đầu mọi sự; nơi thiết lập Giao ước.

Potin viết: “Đối với người Do Thái thì hoang địa là nơi thử thách ròng rã 40 năm dài. Dân Israel lâm vào một cuộc chiến không ngừng là chọn giữa Thiên Chúa thật, Đấng vừa cứu họ khỏi ách nô lệ và tự mạc khải ở núi Sinai, với bên kia là những tà thần, nào là của Ai Cập, nào là của những dân ở Canaan, những thần mà lúc nào họ cũng muốn chạy theo. Đức Giêsu không thoát khỏi cuộc thử thách này. Thử thách bắt buộc người, Vị được chọn của Thiên Chúa, phải lựa chọn một lần dứt khoát, cái lựa chọn sẽ dẫn Người đến con đường thảm kịch. Trong hoang địa, cái đói cái khát làm nổi lên trước mắt những vùng sáng chói ngời, đó có thể là những ảo ảnh, mà cũng có thể là dân Hứa. không ai có thể chọn trải qua cuộc chiến như thế, nếu không là kẻ tự phụ. Người ta bị Thần Khí đẩy vào, như Máccô đã viết, Thần Khí sức mạnh của Thiên Chúa từ nay được che giấu sâu kín trong ý chí và trong con tim” (“Jésus, l’histoire vraie”, Centurion, trang 114).

Đức Giêsu đối đầu và toàn thắng thử thách.

“Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ”, Máccô viết tiếp.

“Bốn mươi”: đối với người am hiểu Kinh Thánh đây là một con số mang nặng ý nghĩa: con số tượng trưng sửa soạn cho một cuộc khởi đầu mới. Nước Đại hồng thuỷ đã tràn ngập mặt đất suốt 40 ngày và 40 đêm, trước khi Thiên Chúa lập giao ước với ông Noe và dòng dõi. Trong 40 ngày và 40 đêm, ông Môsê chuẩn bị trên núi Sinai lãnh nhận Lề luật của Giao ước trước khi truyền lại cho dân. Trong suốt 40 năm, dân Israel được Thiên Chúa gỡ cho khỏi ách nô lệ Ai Cập đã dong duỗi hành trình trong hoang địa trước khi vào được Đất Hứa. Cũng trong 40 ngày và 40 đêm, ngôn sứ Êlia đã đi bộ về núi Horép, núi của Thiên Chúa, để ở đó lãnh nhận sứ mạng tái lập giao ước.

Ở đây thánh ký Máccô tỏ cho ta thấy rằng một khởi đầu mới đã khai mào. Đức Giêsu đã muốn làm lại cuộc hành trình do chính bản thân, cuộc hành trình thiêng liêng của dân Người; Người chiến thắng những cám dỗ mà xưa kia dân Israel đã bị thất bại trong hoang địa, với vai trò Môsê mới, Người đi đầu dẫn dắt dân mới về Đất Hứa.

– Trong Tin Mừng của ông, Máccô cũng không quên nhấn mạnh cám dỗ, mà Đức Giêsu phải liên lỉ đương đầu, là dùng quyền năng thần thiêng để áp đặt vương quốc Thiên Chúa. Ong tuy chỉ nhắc đến bằng một câu hết sức sơ sài; ông viết: “Người chịu Satan cám dỗ “.

Rồi bằng một câu ngắn, ông công bố cuộc khải hoàn của Đức Giêsu trên quyền lực của sự dữ:

– “Người sống giữa loài dã thú”. Đó là một cách tuyên bố rằng Đức Giêsu khánh thành thời đại cứu thế, mà ngôn sứ Isaia nói đến: “sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ, bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng” (Is 11,6).

+ “Và có các thiên sứ hầu hạ Người”. Một kiểu nói của Máccô ám chỉ sự trợ giúp thần thiêng dành cho người mà trong gian nan thử thách đã đặt hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chua. Ở trong Cựu ước – Matthêu và Luca trong tường thuật song hành đã trich dẫn rõ ràng Thánh vịnh 90: “Người truyền cho thiên sứ và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vập chân vào đá”.

Hervieux kết luận: Đấng Mêsia xuất hiện như một Con Người mới, sống hoà hợp tuyệt vời với trời cao cũng như đất thấp. Câu kết của đoạn Dẫn Nhập nay nói lên rất nhiều điều. nơi mà Israel đã tỏ ra bất trung với Thiên Chúa, thì Đức Giêsu, vị Chủ lại của dân mới, đã tỏ ra thái độ trung thành tuyệt hảo” (L’Evangile de Marc”, Centurion, trang 25).

Khai mạc sứ mạng của Người ở Galilê.

Thế giới mới mà Đức Giêsu vừa khai mở do toàn thắng Satan trong cuộc thử thách nơi hoang địa, bây giờ Người công bố bằng lời nói và bằng hành động.

Máccô nêu rõ, Đức Giêsu bắt đầu sứ mạng của người. “Sau khi ông Gioan bị nộp” để nói lên sự liên tục của sứ mạng Người với sứ mạng của Gioan.

“Người đến miền Galilê”, là quận của dân ngoại, là miền đất cư ngụ người Do Thái pha trộn người dân ngoại, là tỉnh bị Giêrusalem coi khinh.

Người công bố khai mạc thời đại mà những loan báo của các tiên tri được thực hiện. Giờ đây Thiên Chúa bắt đầu hoạt động ra tay, Vương quốc của Người đã đến gần: “Thời kỳ đã mãn và Triều đã Thiên Chúa đã đến gần”? Người ta cần phải thống hối ngay để đón nhận biến cố hồng phúc này trong đức tin: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.

BÀI ĐỌC THÊM.

Một cuộc lật ngược ngoạn mục, chỉ bằng 1 câu văn. (H.Vulliez, trong cuốn ~dieu si proche, Năm B” Brouwer, trang 34).

Thánh ký Máccô chỉ dùng một câu văn mà trình bày được một cuộc lật ngược ngoạn mục: một Đức Giêsu bị cám dỗ trong hoang địa, trở thành một Đức Giêsu sáng ngời trong một vũ trụ hoà hợp và xinh đẹp. Đó là tạo thành mà Thiên Chúa yêu quý. Một Đức Giêsu toàn thắng sự dữ, trong một thế giới được hoà giải với chính mình và với Thiên Chúa. Ở đó ta tìm thấy toàn bộ Kinh Thánh, toàn bộ lịch sử nhân loại, chỉ trong vài hàng chữ đầy kỷ niệm, ta thấy nổi lên nguồn hy vọng vượt khỏi tầm mức con người.

Đức Giêsu ở trong hoang địa 40 ngày chịu sa tan cám dỗ. Thế rồi, báo trước buổi bình minh vượt qua, Người sống an hoà với mãnh thú, và các thiên sứ từ trời xuống hầu hạ Người. Hoang địa, một vùng đất mênh mông đầy thế lực thù nghịch. Cuộc sống luôn bị thần chết đe doạ. Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người đến để lật ngược tình thế: là trả lại cho Thiên Chúa và cho vũ trụ đã ra méo mó, dung mạo của Thiên Chúa. Thần Khí bay lượn trên miền đất khô ráo và kìa Đấng Hằng Sống chỗi dậy trong một khu vườn xanh tươi và nở đầy bông. Bức phù điêu khắc hình Ađam đã lật sang mặt kia có hình Đức Kitô. Địa đàng đã không bị mất phía sau mình. Mà nó đang ở phía trước, người ta phải tìm kiếm thì mới tìm thấy, nhờ cộng tác với Đức Giêsu và nhận Thần Khí.

Chúng ta đang sống trong Mùa Chay, 40 ngày sa mạc để được quyến rũ và lôi kéo bởi niềm hy vọng mãnh liệt, hy vọng rằng mọi vật trong vũ trụ sống hoà hợp trong Đức Kitô, tuy chưa hoàn tất; nhưng đang hoạt động rồi.

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY- Năm B

VÀO HOANG ĐỊA-  ĐTGM Jos. Ngô Quang Kiệt

Ai yêu bóng đá đều say mê theo dõi những trận đấu đỉnh cao giữa các đội ngoại hạng Anh, hoặc giữa các đội tranh Cúp C1. Ta say mê vì các cầu thủ siêu hạng phô diễn kỹ thuật cá nhân điêu luyện, các đội bóng di chuyển chiến thuật kỳ ảo, các bài bản tinh vi của các huấn luyện viên bậc thầy, các pha phối hợp đẹp mắt giữa các cầu thủ. Không phải tự nhiên mà các cầu thủ chơi bóng giỏi đến mức độ nghệ thuật như thế. Họ phải mất nhiều thời gian tập luyện. Tập luyện để đạt được kỹ thuật cá nhân điêu luyện. Tập luyện để có thể lực dẻo dai. Tập luyện để có những xử lý thông minh theo tình huống. Tập luyện để hiểu nhau tiến đến những pha phối hợp nhịp nhàng ăn ý. Những buổi tập rất nghiêm ngặt, đòi hỏi cầu thủ phải có quyết tâm cao, có tinh thần kỷ luật nghiêm túc. Ai không chịu nổi các bài tập khó, sẽ bỏ cuộc. Ai vượt qua được những buổi tập nghiêm túc sẽ trở thành những cầu thủ giỏi.

Đời sống tâm linh là một cuộc chiến đấu. Chiến đấu với ba thù: ma quỷ, xác thịt, thế gian. Để có đủ khả năng chiến đấu, ta phải được rèn luyện, phải trải qua những thử thách. Đức Giêsu, sau khi chịu phép rửa, được Thánh Thần đưa vào hoang địa để chịu thử thách.

Đời sống tâm linh là một cuộc chiến đấu. Chiến đấu với ba thù: ma quỷ, xác thịt, thế gian. Để có đủ khả năng chiến đấu, ta phải được rèn luyện, phải trải qua những thử thách. Đức Giêsu, sau khi chịu phép rửa, được Thánh Thần đưa vào hoang địa để chịu thử thách.

Hoang địa là nơi hoang vu không nhà không cửa, không người thân, không cây cối, tức là không có một tiện nghi tối thiểu nào, không có một nguồn trợ lực nào. Chỉ có cát đá, thú dữ, ma quỷ, tức là chỉ có những khó khăn thách đố bắt ta phải chiến đấu, phải đương đầu.

Cuộc chiến đấu thứ nhất mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến đấu với thiên nhiên. Người sống trong hoang địa phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt. Tại các sa mạc cát phủ, đêm thì lạnh thấu xương, ngày thì nóng như thiêu. Hầu như không có thực phẩm. Người sống trong hoang địa phải chịu đói, chịu khát, chịu cái nóng nung người, chịu cái lạnh cắt da, chịu tất cả mọi thiếu thốn của đời sống thường ngày. Xưa, dân Do Thái được Chúa đưa vào nơi hoang địa để huấn luyện trước khi đưa họ vào Đất Hứa. Trong hoang địa, người Do Thái không chịu nổi những thiếu thốn, nên đã nhiều lần nổi loạn chống lại Chúa, chống lại ông Môsê, muốn quay trở lại làm nô lệ bên Ai cập để được ăn no ngủ kỹ. Trái lại, tổ phụ Abraham đã chấp nhận vượt qua hoang địa, nên đã tới Đất Hứa, tiên tri Êlia đã vượt qua hoang địa 40 đêm ngày, nên đã đi đến núi của Thiên Chúa. Và hôm nay, Đức Giêsu đã thắng được cái lạnh, cái nóng và nhất là đã thắng được cái đói cái khát, đã hoàn toàn làm chủ được bản thân trước những nhu cầu của thân xác.

Cuộc chiến đấu thứ hai mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến đấu chống lại ma quỷ. Thiên Chúa cho phép ma quỷ thử thách con người. Từ tạo thiên lập địa, hai ông bà nguyên tổ đã bị ma quỷ cám dỗ và đã thua cuộc. Ông thánh Gióp cũng đã bị ma quỷ thử thách, mất hết tài sản, mất hết con cái, mất hết danh dự. Nhờ kiên quyết trung thành với Chúa đến cùng, ông đã thắng được ma quỷ. Đức Giêsu đã thắng vượt mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới nhờ Người vững lòng tin ở Thiên Chúa. Những cơn cám dỗ của ma quỷ thường là cám dỗ về đức tin. Adong và Evà không vững lòng tin nên đã sa ngã. Ông thánh Gióp vững lòng tin nên luôn đứng vững qua mọi thử thách. Đức Giêsu luôn vững niềm tin vào Chúa Cha, nên đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ thâm độc nhất của ma quỷ.

Cuộc chiến đấu thứ ba mà Đức Giêsu đã trải qua là cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để tìm thánh ý Chúa Cha. Hai ông bà nguyên tổ đã tìm ý riêng hơn ý Chúa, nên đã đi trệch đường. Đức Giêsu luôn tìm thánh ý Chúa Cha, nên Người đã từ bỏ con đường rộng để đi vào con đường hẹp, từ bỏ con đường dễ để đi vào con đường nghèo hèn, từ bỏ con đường riêng tư để đi vào con đường Chúa Cha đã định. Nên Người đã toàn thắng trong cuộc chiến đấu.

Hoang địa không phải chỉ là nơi thử thách. Hoang địa còn là nơi gặp gỡ Chúa. Sau khi đã thắng vượt tất cả các cuộc thử thách, ta sẽ gặp được Chúa, sẽ sống thân tình với Chúa và sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa. Ông Môsê, sau 40 đêm ngày ở trên núi Sinai, đã trở nên bạn nghĩa thiết của Chúa. Mặt ông trở nên sáng láng đến nỗi dân Do Thái không dám nhìn thẳng vào. Tiên tri Êlia, sau khi đi 40 đêm ngày, đã tới núi của Chúa và đã gặp được Chúa. Đức Giêsu đã gặp gỡ Chúa Cha, đã tìm được ý Chúa Cha và đã kết hiệp mật thiết với Chúa Cha đến độ từ nay Người trọn vẹn thuộc về Chúa Cha. Thánh ý Chúa Cha đã trở thành kim chỉ nam hướng dẫn đời Người. Thi hành thánh ý Chúa Cha trở thành lương thực nuôi dưỡng Người. Người sẽ hy sinh tất cả, kể cả mạng sống để cho thánh ý Chúa Cha được nên trọn. Chính vì thế mà Người đã được gọi là “Con yêu dấu” của Chúa Cha.

Trong Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi ta hãy vào hoang địa với Đức Giêsu để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên cường. Ta không có điều kiện để vào nơi hoang vắng, nhưng ta vẫn có thể vào hoang địa của cuộc đời.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, thiếu thốn trong đời sống, dù đói nghèo vẫn giữ được tâm hồn tự do, không chịu nô lệ vật chất.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là kiên cường chống trả mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới, luôn vững niềm tin vào Chúa dù gặp những khó khăn thử thách.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là từ bỏ những ý riêng để luôn tìm thánh ý Chúa, sẵn sàng thực hành thánh ý Chúa, dù có phải đau đớn, thiệt thòi.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là giữ tâm hồn bình an thanh thản để gặp gỡ Chúa, tiếp xúc thân mật với Chúa, hoàn toàn thuộc về Chúa để trở nên “Con yêu dấu” của Chúa.

Nếu ta chuyên tâm rèn luyện trong suốt mùa Chay, tâm hồn ta sẽ trở nên vững mạnh chống lại được những cám dỗ ma quỷ đưa tới; nhanh nhẹn dấn thân vào những việc đạo đức không ngại khó khăn vất vả; quen từ bỏ ý riêng để tuân theo ý Chúa và sẽ trở nên Con hiếu thảo của Chúa.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Bạn có quen chấp nhận những điều khó chịu không?

2- Bạn đã bị cám dỗ bao giờ chưa? Bạn đã chống trả thế nào?

3- Mùa Chay này, bạn sẽ sống thế nào để thêm lòng mến Chúa yêu người?

4- Bạn có thường từ bỏ ý riêng để theo ý Chúa không?

CHÚA NHẬT  I MÙA CHAY- Năm B

ĐỨC GIÊSU CHIA SẺ THÂN PHẬN CON NGƯỜI–  Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Chúng ta đang ở trong Chúa Nhật thứ nhất mùa chay. Giáo Hội giúp chúng ta cảm nhận tình yêu Thiên Chúa với chúng ta qua việc nhìn ngắm Đức Giêsu sống thân phận con người.

Cám dỗ nơi con người và nơi Đức Giêsu

Đức Giêsu mà cũng bị cám dỗ sao?

Ngài chấp nhận sống với dã thú sao?

Là người, nghĩa là, với thể xác và tinh thần, con người luôn có thể bị cám dỗ. Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về điều này.

Cám dỗ là khuynh chiều đòi thỏa mãn những đòi hỏi của thân xác và của tinh thần, không muốn đáp trả tiếng gọi từ trên. Chẳng hạn người ta nhận thấy nơi mình những đòi hỏi của thân xác về tính dục hay khuynh hướng muốn mình giầu hơn người khác, hoặc những đòi hỏi của tinh thần muốn mình trổi trang hơn người khác…

Khuynh chiều đi tìm và dừng lại nơi danh lợi tiền bạc địa vị, không muốn vươn lên điều tốt hơn nhưng dừng lại ở cái tầm thường, đó là những cám dỗ thường xảy ra trong đời mỗi người.

Muốn trổi trang, không là tội, nhưng còn là điều tốt. Chỉ xấu, chỉ là tội, khi mình coi mình là nhất, đòi mình trên người khác hoặc trên Thiên Chúa, và xúc phạm người khác.

Không ai thoát cám dỗ, nhưng con người tự do trước cám dỗ, con người có thể không thuận theo cám dỗ. “Ví thử đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?”. “Ơn Ta đủ cho con” (2Cor.12, 8-9).

Chúa không hứa cho chúng ta khỏi bị cám dỗ, nhưng Chúa hứa sẽ giải phóng chúng ta, nếu chúng ta bám vào Ngài: “cứ xin thì được, tìm sẽ gặp, gõ cửa thì sẽ được mở cho” (Mt.7,7).

Thiên Chúa là tinh thần, Ngài mời gọi con người vươn lên Ngài qua những giá trị tinh thần con người thấy được qua lý trí.

Phép rửa khởi đầu đời sống mới

Dù chúng ta có thuộc về thế gian và ma qủy trong những chọn lựa ở qúa khứ, thì bây giờ Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở lại, để chúng ta khởi đầu một đời sống mới, hầu chúng ta sống hạnh phúc.

Đức Giêsu đã chịu phép rửa ở sông Yordan (Mc.1, 9), và Ngài cũng đã chịu một phép rửa rất đặc biệt (Lc.12, 50). Mỗi người chúng ta cũng đã chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu, nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa (Mt.28, 19), chính phép rửa này đã làm chúng ta thành một thụ tạo mới.

Phép rửa đã làm chúng ta thuộc trọn về Thiên Chúa, chúng ta là tạo vật mới, được được Thiên Chúa cứu chuộc qua Đức Giêsu Kitô. Nhận phép rửa nhân danh Đức Giêsu, là dìm mình trong cái chết của Ngài và sống lại trong sự sống của Ngài.

Với phép rửa, Thiên Chúa ghi ấn tín trong tâm hồn chúng ta, dấu chỉ chúng ta thuộc về Thiên Chúa, chúng ta được Thiên Chúa yêu thương.

Giao ước biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa

Con người là gì mà Thiên Chúa phải ký kết giao ước với! Chẳng lẽ người nặn bình gốm lại phải ký kết với bình gốm?

Thiên Chúa ký kết giao ước với con người, để không bao giờ tiêu diệt con người nữa! Ôi tình yêu của Thiên Chúa đối với con người thật tuyệt vời biết bao. Những gì Thiên Chúa đã nói, thì Ngài trung thành thực hiện, không bao giờ thất tín. Ngài vẫn trung thành dù con người có bất trung phản bội.

Tình thương của Thiên Chúa đối với con người, được thể hiện trong suốt dòng lịch sử. Lịch sử ghi dấu con người phản bội, nhưng lịch sử lại ghi dấu tình thương nhân từ tha thứ cho con người. Lịch sử, là lịch sử Thiên Chúa cứu độ con người.

Lịch sử đánh dấu những giao ước Thiên Chúa thực hiện đối với con người. Lịch sử cũng cho thấy Thiên Chúa điều khiển dòng lịch sử, can thiệp vào lịch sử dân Do thái để cứu dân, và qua đó cứu độ tất cả loài người.

Biến cố Đức Giêsu Kitô, là biến cố đỉnh cao cho thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Cũng với chính Đức Giêsu, con người tìm được con đường để nên thánh, con người được bảo đảm mình được yêu thương và sẽ là thánh, được thuộc trọn về Thiên Chúa.

Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể làm người. Ngài bị cám dỗ, Ngài vượt qua, “Ngài là đường, là sự thật và là sự sống”. Ngài là thầy, và không có Ngài, không có ai là thầy đích thực. Nếu có ai trên trần gian này là thầy, là người đó được tham gia “chức thầy” của Đức Giêsu.

Chúa Giêsu là mẫu mực, là thầy dạy của chúng ta. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được theo gương Ngài, được hoàn toàn tin tưởng và phó thác tất cả cho Ngài.

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY- Năm B

CÁT BỤI TUYỆT VỜI- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Nhạc Trịnh Công Sơn rất triết lý. Mùa Chay lại về, tôi thích nghe bài ca “Cát Bụi”:

Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai vươn hình hài lớn dậy.

Ôi cát bụi tuyệt vời, mặt trời soi một kiếp rong chơi.

Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi.

Ôi cát bụi mệt nhoài, tiếng động nào gõ nhịp không nguôi.

Bao nhiêu năm làm kiếp con người, chợt một chiều tóc trắng như vôi

Lá úa trên cao rụng đầy, cho trăm năm vào chết một ngày.

Cát bụi, con người chỉ là cát bụi, hạt bụi tuyệt vời khi hoá kiếp thân tôi, hạt bụi mệt nhoài khi tôi trở về làm cát bụi. Khi dùng hình ảnh hạt bụi để nói về thân phận con người, Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã lấy nguồn cảm hứng trong Thánh Kinh Sáng Thế: Thiên Chúa dùng bùn đất tạo dựng Adam, sau khi Adam phạm tội bất phục tùng, Thiên Chúa phạt ông và con cháu sau này cũng sẽ trở về với cát bụi (x St 1,26-3,24)

Nghĩ cho cùng, tất cả mọi người cũng chỉ là những hạt bụi hoá thân thành kiếp nhân sinh,sớm muộn cũng sẽ tàn lụi với thời gian. Do đó nỗi khắc khoải ngàn đời của con người là tìm kiếm ý nghĩa của sự hiện hữu, ý nghĩa của đau khổ, ý nghĩa của giải thoát, ý nghĩa của cuộc sống.Vấn nạn mà con người chưa tìm được câu trả lời:

Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi?

Hạt bụi nào hoá kiếp thân bạn?

Và Hạt bụi nào hoá kiếp thân xác chúng ta?

Một vòng quay,một trăm năm, một kiếp người có là mấy! “Chợt một chiều tóc trắng như vôi”, không phải là trắng như bông, như mây hay như tuyết mà là như vôi đổ xuống huyệt mồ. Cha Nguyễn Hồng Giáo đã nhận định: Trịnh Công Sơn không bi quan, ông chỉ nói lên điều ông cảm nghiệm thấm thía về sự mong manh của kiếp người; cuộc đời đẹp biết bao, sự sống cao quý biết dường nào, nhưng nó cũng như “đoá hoa vô thường”. Đó là một thực tế, nhìn nhận và đối diện với nó cách can đảm để có thể đưa tới một cuộc sống tốt đẹp hữu ích và có ý nghĩa.

Mùa Chay muốn nhắc nhở chúng ta quay về với sự thật của thân phận con người “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro,một mai rồi sẽ trở về bụi tro…”. Phụng vụ Giáo Hội muốn diễn tả rằng: cuộc đời này mong manh vắn vỏi, bởi thế nó rất hệ trọng. Số phận đời đời của mỗi người được quyết định trong thời gian tạm bợ này. Người theo Đạo Phật thì tin ở sự đầu thai kiếp sau, luân hồi nghiệp báo.Nhưng người Kitô Hữu thì không,vĩnh cữu được gieo mầm trong hiện tại,đừng để thời gian trôi qua cách phung phí, đời người chỉ có một lần, được – mất chỉ có một cơ hội.

Thân phận mỏng dòn mà Phụng vụ Mùa Chay nhắc cho chúng ta đừng quên,không phải chỉ có liên quan đến phần xác hay chết của phận người mà còn cả về mặt tinh thần cũng mong manh yếu đuối. Thánh Phaolô đã diễn tả kinh nghiệm đó trong thư Roma “Điều tôi muốn làm thì tôi lại không làm, nhưng điều tôi không muốn làm thì tôi lại cứ làm… Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn tôi lại cứ làm…Tôi khám phá ra luật này là khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay.Theo con người nội tâm tôi vui thích vì luật của Chúa, nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tôi…tôi thật là một người khốn nạn. Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác hay chết này?” (Rm 7,15.19.21-24).

Ý thức về sự yếu đuối và tội lỗi của mình,về khuynh hướng xấu, sự bất lực nơi bản thân để mỗi người nổ lực giải thoát khỏi sự thống trị khắc nghiệt của tội lỗi và đó là khởi đầu cho ơn hoán cải và ơn cứu độ.

Mùa Chay mời chúng ta vào sa mạc với Chúa Giêsu. Sa mạc là nơi hoang vu trơ trọi,mênh mông, đó người ta mất hết mọi điểm tựa, không còn chi để “chia trí,lo ra”, chẳng hạn như ngoại cảnh ồn ào, các hoạt động, các thú vui, các quan hệ xã hội; chỉ còn Ta với Ta và buộc Ta phải quay về với mình trong sự đơn độc của chính mình.Trong sự quay về đó Ta có cơ may nhìn thấy những điều cốt yếu nhất khi đối diện với chính lòng mình.

Con người chúng ta thường sống hời hợt bên ngoài, tan loãng ra trong trăm thứ linh tinh hay phụ thuộc khác. Mùa Chay mời gọi chúng ta đi vào sa mạc, nghĩa là tạo một sự trống vắng nào đó, một sự thinh lặng của các giác quan, của trí khôn và của cỏi lòng, một sự rút lui vào trong tâm khảm mình để có thể phân định đâu là cái chính – cái phụ, đâu là cái cùng đích và cái phương tiện. Đây chính là lúc hồi tâm.

Biết mình mỏng dòn, nhưng con người theo Phụng vụ Mùa Chay lại không phải là con người mềm yếu, uỷ mị, ngã nghiêng theo mọi lời mời mọc cám dỗ, mà đó là con người dũng cảm chiến đấu. Như Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời hoạt động công khai, Chúa vào sa mạc và tuyên chiến với Satan tức là với mọi mãnh lực của sự ác một cách không khoan nhượng và Ngài đã chiến thắng. Người Kitô Hữu là người biết nói không, là người dám bơi ngược dòng. “Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ,anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15). Người Kitô hữu không cố ý sống lập dị, khác người, song đứng trước điều xấu, dù là khi cả xã hội đều làm điều xấu đó, họ vẫn không được ngã theo. Họ phải can đảm từ chối một cơ hội làm giàu bất chính, một liên minh bất công, một mối quan hệ tội lỗi…. Dĩ nhiên điều đó không dễ chút nào, nhưng đã là môn đệ Đức Giêsu, họ không có chọn lựa nào khác.

Con người theo Phụng vụ Mùa Chay biết mình tự thân chỉ là cát bụi,nhưng là “cát bụi tuyệt vời “. Nó vẫn tuyệt vời ngay khi trở về với cát bụi trong một chiều ” lá úa trên cao rụng đầy “, chứ không phải chỉ tuyệt vời khi “vươn hình hài lớn dậy ” mà thôi.

Đức tin dạy cho chúng ta biết rằng “Hạt bụi” là chúng ta, được tình yêu Thiên Chúa gọi vào hiện hữu và chia sẽ sự sống bất diệt của Người. Kiếp người cho dù có đau thương, có bi đát, đôi lúc tưởng chừng bóng tối lấn lướt ánh sáng,nhưng cuối cùng sự sống, chân lý, tình thương vẫn mạnh hơn tất cả.

Ước gì mỗi người Kitô hữu đều có bản lãnh của Đức Giêsu để chiến thắng sự nặng nề, nhỏ mọn của bản thân; luôn luôn cậy dựa vào Thiên Chúa, sống Mùa Chay thánh thiện để đón nhận nhiều Ơn Phúc Chúa ban.

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY- Năm B

HÀNH TRÌNH HOÁN CẢI VÀ TIN VÀO TIN MỪNG – Lm. Phêrô Lê Văn Chính

Mùa chay cũng là thời gian sám hối và đổi mới, thời gian chúng ta cùng tham dự với Chúa Giêsu vào cuộc lữ hành thiêng liêng, một cuộc ra đi từ sự chết đến sự sống, từ thân phận tội lỗi và nô lệ để đến với Thiên Chúa là Đấng hằng sống và mời gọi chúng ta tham dự vào sự sống của ngài. Ngay từ bài đọc thứ nhất, chúng ta được nghe tường thuật về giao ước của Thiên Chúa với Nôê sau trận lụt hồng thủy. Trận lụt hồng thủy là trận lụt tiêu diệt mọi loài trên mặt đất lớn nhất trong lịch sử loài người. Nguyên nhân là vì con người đã phạm tội làm mất lòng Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng hằng sống và đã tạo dựng loài người, lẽ nào Thiên Chúa lại tiêu diệt con người như thế. Thiên Chúa rất hối tiếc vì đã tiêu diệt loài người, và vì thế Thiên Chúa quyết định giao ước với Nôê và chúc phúc cho gia đình ông. Giao ước này mở ra một thời kỳ đầy hứa hẹn. Thiên Chúa bảo đảm, hứa hẹn với con người là sẽ không bao giờ tiêu diệt loài người nữa và ban cho họ dấu chỉ là cái mống trên bầu trời để nhắc nhớ giao ước giữa Thiên Chúa với con người.

Thánh Phêrô khai triển ý nghĩa của cuộc hành trình thiêng liêng của người kitô hữu cùng với Chúa Giêsu nhờ bí tích rửa tội họ đã lãnh nhận. Chúa Giêsu là Đấng công chính, người đã đón nhận cái chết thập giá cách bất công nhưng nhờ đó người chết cho chúng ta là những người tội lỗi để chúng ta tất cả được tha thứ và được dẫn đưa đến cùng Thiên Chúa. Thánh Phêrô nhắc nhở chính nhờ Thánh Thần mà Chúa Giêsu đã chết, được phục sinh trong quyền năng và giải thoát cho mọi người còn đang bị giam cầm trong tội lỗi vì bất vâng phục. Tất cả những điều này báo trước phép rửa, qua đó chúng ta cũng được giải thoát khỏi tội để đến với Thiên Chúa hằng sống và khởi đầu một đời sống mới trong ân sủng Thánh Thần.

Các bài đọc vì thế hướng chúng ta cùng tham dự vào cuộc xuất hành mới với vị lãnh đạo mới là Đức Giêsu, người sẽ dẫn chúng ta trong cuộc hành trình thiêng liêng để đi từ sự chết đến sự sống bất diệt. Tin mừng theo Marcô tường thuật  câu chuyện Chúa Giêsu chịu cám dỗ nơi hoang địa, rất có thể là hoang địa ở miền Giuđêa nơi Gioan Tẩy giả làm phép rửa. Vừa sau khi  chịu phép rửa ở sông Giorđan, Chúa Giêsu được Thánh Thần thúc đẩy đi vào hoang địa để ăn chay cầu nguyện bốn mươi đêm ngày. Để khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng cứu độ, Chúa Giêsu đón nhận phép rửa và lãnh nhận Thánh Thần, đồng thời Thánh Thần thúc đẩy người đi vào hoang địa để chiến đấu chống lại cám dỗ.   Về ý nghĩa, hoang địa nhắc nhở lại hành trình ở hoang địa Sinai xưa khi dân Ítraen rời bỏ đất Ai cập để dấn thân theo lời mời gọi của Thiên Chúa qua Môisen. Chúa Giêsu vào hoang địa, người sống lại hành trình thiêng liêng của Ítraen, người cũng sẽ chịu những cám dỗ của ma quỉ. Trong khi Ítraen xưa kia đã vấp ngã dưới những cám dỗ thì giờ đây Chúa Giêsu sẽ chiến thắng và hướng dẫn một cuộc xuất hành mới, người sẽ khai mạc thời đại Đấng cứu thế bằng việc rao giảng Tin mừng của người và lôi kéo một nhân loại mới, biết tỉnh thức dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần theo gương của người để chiến thắng mọi cám dỗ của ma quỉ, biết hoán cải và tin vào Tin mừng.

Con số bốn mươi ngày thật là ý nghĩa, gợi nhớ lại thời gian bốn mươi năm của dân Chúa trong sa mạc Sinai. Tin mừng nói rõ trong suốt bốn mươi ngày, Chúa Giêsu chịu cám dỗ bởi Satan. Satan là tên gọi của kẻ thù bí nhiệm vẫn luôn chống lại việc thực hiện Nước Chúa. Về nội dung những cám dỗ của Satan, thánh Marcô không thuật lại rõ, chỉ vắn tắt nói người chịu cám dỗ bởi Satan và để cho độc giả tìm hiểu những cám dỗ mà Chúa Giêsu đã gặp trong suốt thời gian thực hiện sứ vụ rao giảng của người. Đồng thời thánh sử ghi một cảnh tượng thơ mộng, người ở giữa các loài dã thú, và các thiên thần hầu hạ người. Hình ảnh này gợi lại những lời tiên báo của tiên tri Isaia (11,6) mô tả thời đại thanh bình của Đấng cứu thế, lúc đó sói sẽ sống chung với chiên, báo nằm ngủ với dê con, và một trẻ thơ sẽ chăn dắt chúng. Thánh sử Marcô muốn mô tả Chúa Giêsu như một con người mới sống hoà hợp với trời và đất, hoàn toàn vâng phục theo thánh ý Thiên Chúa, Người sẽ trở nên vị Mục tử của đoàn dân mới của Thiên Chúa biết sống vâng phục theo thánh ý Thiên Chúa. Về những cám dỗ Chúa Giêsu thường phải đương đầu trong cuộc đời rao giảng, chúng ta có thể hình dung người vẫn luôn bị cám dỗ dùng quyền năng Thiên Chúa để làm cho triều đại Nước Chúa biểu lộ một cách đắc thắng thay vì phải sống khiêm nhường và vác thập giá đón nhận cái chết đau khổ. Chúa Giêsu đã chiến thắng cám dỗ này của ma quỉ khi người đón nhận một đời sống khiêm nhường vâng phục Thánh ý Chúa Cha và chu toàn công việc rao giảng của mình cho đến chấp nhận bị bắt bớ, đương đầu với những tố cáo của người do thái và bị kết án chịu đóng đinh chết trên thập giá. Cho đến cùng, người luôn tỏ ra hiền lành và trung tín thực thi con đường khổ nạn thập giá và mở đường cho nhân loại mới biết sống vâng phục và vác thập giá mỗi ngày.

Kết thúc thời gian chay tịnh bốn mươi đêm ngày ở hoang địa và chiến thắng cám dỗ của ma quỉ, Chúa Giêsu khởi đầu công việc rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa. Đây là lời loan báo đầy niềm vui ơn cứu độ của Thiên Chúa ban tặng nhờ người con một là Đức Giêsu. Niềm vui này hệ tại đón nhận Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu thế, người Con một của Thiên Chúa mà các tiên tri đã loan báo: “Thời gian đã hoàn tất, Nước Thiên Chúa gần đến. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin mừng”. Sám hối và tin vào Tin mừng là điều căn bản để xứng đáng đón nhận Nước Thiên Chúa. Sám hối là thay đổi lòng trí để trở về với Thiên Chúa. Lòng trí con người là nơi hướng dẫn mọi tư tưởng và mọi hoạt động. Thay đổi lòng trí là sự thay đổi triệt để nhất để con người biết từ bỏ những lối sống kiêu căng, tham lam, ích kỷ, gian dâm, ngoại tình để từ nay biết sống phù hợp với Nước Chúa và Tin mừng Chúa Giêsu rao giảng.

Những cơn cám dỗ luôn khiến chúng ta phải chọn lựa. Chọn lựa của Chúa Giêsu là dứt khoát mạnh mẽ từ chối hoàn toàn những lời cám dỗ phù phiếm của ma quỉ và tuyệt đối trung tín với Thiên Chúa không một chút nhân nhượng hay thỏa hiệp. Vì thế, dám can đảm để chiến đấu chống lại các cám dỗ của ma quỉ để sống đời sống mới trong Chúa là lời mời gọi của Lời Chúa của tuần I mùa chay. Đây cũng là bước đầu của hành trình hoán cải thiêng liêng mà chúng ta bắt đầu dấn thân từ khi lãnh bí tích rửa tội. Hành trình này bao gồm những việc căn bản là sám hối và tin tưởng vào Tin mừng Chúa Giêsu rao giảng, đồng thời chu toàn theo thánh ý Thiên Chúa với những công việc bổn phận hằng ngày. Đây quả là một hành trình khó khăn vì con người của chúng ta vốn tội lỗi yếu hèn, chúng ta luôn muốn trở về với con người cũ tội lỗi của mình. Chúng ta cần khôn ngoan để luôn biết cầu nguyện và chay tịnh để nhờ sức mạnh của Thánh Thần Chúa Giêsu nâng đỡ chúng ta trong cuộc hành trình này.

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY- Năm B

CHIẾN THẮNG CÁM DỖ VỚI CHÚA GIÊSU-  Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Người Eskimo nghĩ ra một cách bẫy chó sói rất độc đáo để lấy da chúng làm y phục.

Người ta dùng một con dao cực bén và nhúng lưỡi dao ấy vào máu súc vật, rồi đem dang ra ngoài trời tuyết lạnh cho máu đông lại chung quanh. Họ lặp lại động tác đó nhiều lần cho đến khi con dao được bọc quanh bằng khối máu lớn như quả xoài.

Đợi đến khi trời tối, thợ săn đem con dao bọc máu đó ra cắm giữa đồng hoang. Với tài đánh hơi bén nhạy, loài sói sẽ phát hiện rất nhanh mùi máu tươi và sẽ chạy đến liếm tới tấp vào cục máu đông đó cho đến khi lưỡi dao lộ ra cứa đứt lưỡi chúng. Một khi lưỡi bị cứa đứt nhiều đường, máu từ lưỡi ứa ra và chúng tiếp tục liếm cách điên cuồng hơn chính dòng máu của mình mà không hay biết. Càng liếm hăng, lưỡi càng bị cứa sâu hơn và nhiều hơn khiến máu chảy thành dòng kết thúc cuộc đời lũ sói tham ăn.

Cám dỗ trong đời người

Có thể nói: con người là con vật phải đương đầu với nhiều cơn cám dỗ nhất. Cám dỗ của miếng ăn, cám dỗ của thức uống (rượu, bia), của thuốc lá, ma tuý, cần sa, cám dỗ của thú vui nhục dục, của tiền bạc, của địa vị, công danh và vô vàn hình thức cám dỗ khác.

Người ta bị thu hút, bị lôi cuốn vào các cơn cám dỗ như con sói tham lam lao vào liếm cục máu bọc lưỡi dao, như những con thiêu thân lao vào lửa và hậu quả là con người trở nên mềm yếu, bạc nhược, bị lôi cuốn vào dòng thác dục vọng như cánh bèo nhỏ bé bị cuốn phăng phăng giữa dòng nước lũ hung tàn.

Không rõ con sói một khi biết có lưỡi dao bén ẩn dấu trong cục máu đông có còn dám tiếp tục liếm cục máu đó nữa không, nhưng đối với nhiều người thì dù biết chắc chắn rằng đằng sau những lạc thú có ẩn dấu lưỡi dao thần chết thì họ vẫn cứ tiếp tục hưởng thụ những thứ đó đến cùng rồi mượn lời thơ Xuân Diệu để tự biện minh rằng: “thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn buồn le lói suốt trăm năm” (Xuân Diệu)

Chúa Giêsu cũng bị cám dỗ như chúng ta.

“Đức Giêsu Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa… nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân. (Philip 2, 6-7)

Vì trở nên người phàm như chúng ta, “Chúa Giêsu đã từng chịu thử thách về mọi phương diện như chúng ta’ (Do-thái 4,15).

Qua đoạn Tin Mừng được trích đọc trong thánh lễ hôm nay, thánh sử Mác-cô cho biết Chúa Giêsu đã vào hoang địa bốn mươi ngày và Người đã thực sự bị Xa-tan cám dỗ. (Mác-cô 1, 12-13)

Điều đặc biệt là dù phải bị cám dỗ trăm bề về mọi phương diện như chúng ta, Chúa Giêsu không bao giờ thua cuộc, không bao giờ sa chước cám dỗ. Người đã chiến thắng vẻ vang trước mọi cơn cám dỗ và luôn trung thành đi theo đường lối của Thiên Chúa Cha cho đến cùng.

Cùng chiến đấu chống lại cám dỗ với Chúa Giêsu.

Trâu bò tuy to khoẻ nhưng dễ dàng bị chế ngự bởi một đứa bé cỏn con khi người ta xỏ mũi được chúng. Con người dù có hùng mạnh đến đâu, nhưng một khi bị “xỏ mũi” bởi các đam mê tội lỗi, thì cũng phải ngoan ngoãn lội xuống bùn, sa xuống vực vì sức kéo của những đam mê và dục vọng xấu xa đen tối.

Mỗi người có một tử huyệt, một chỗ hiểm riêng. Nơi người nầy là lỗ miệng tham ăn tham uống, nơi người khác là bệnh háo sắc hay thói tham danh hám lợi, nơi người khác nữa có thể là lòng ích kỷ, hận thù, ghen ghét, kiêu căng…

Người đi câu luôn biết lựa mồi hợp sở thích của cá; cũng vậy ma quỷ có thừa khôn ngoan để chọn những mồi bả phù hợp “khẩu vị” của từng người và nhắm tấn công vào đúng tử huyệt của chúng ta.

Trong mùa chay, Chúa Giêsu và Giáo Hội kêu mời chúng ta đi vào cõi thinh lặng của tâm hồn để nhìn lại lòng mình, rà soát tâm tư mình, xét xem những đam mê nào, những xu hướng tội lỗi nào đang chi phối đời ta mạnh nhất (đó là những tử huyệt cần canh phòng che chắn). Chính những đam mê và xu hướng đó là động cơ xô đẩy con sói tham ăn lao vào chỗ chết; và cũng chính những động cơ đó đã huỷ hoại cuộc đời ta, làm mất thanh danh phẩm giá cũng như giá trị cao đẹp của đời ta.

Nguyện xin Chúa Giêsu cùng chiến đấu với chúng con trong mặt trận nguy khó nầy và ban ơn giúp sức để chúng con không bao giờ lùi bước trước bất kỳ cơn cám dỗ nào, nhưng kiên cường chiến đấu để khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và những đam mê xấu xa đồng thời lập được nhiều chiến công vẻ vang như Chúa.

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY- Năm B

CÂU CHUYỆN HỒNG THỦY- Lm Anphong Trần Đức Phương

Mùa Chay Thánh năm nay bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro cho đến Chúa Nhật Lễ Lá mở đầu Tuần Thánh, và tiếp theo là Chúa Nhật Đại Lễ Phục Sinh.

Trong Chúa Nhật I Mùa Chay (Năm B), Bài Đọc I (Sáng thế 9, 8-15) nhắc đến câu chuyện Đại Hồng Thủy. Thánh Phêrô cũng nhắc đến câu chuyện Đại Hồng Thủy trong Bài Đọc II (1 Phêrô 3, 18-22). Đại Hồng Thủy đã tiêu diệt tất cả nhân loại và mọi sinh vật “trừ 8 người trong gia đình ông Noe và một số sinh vật được đưa lên tàu”.

Câu chuyện Đại Hồng Thủy nhắc nhở chúng ta đến hậu quả khủng khiếp của tội lỗi. Nhưng con người chúng ta luôn bị cám dỗ lôi cuốn phạm tội. Bài Phúc Âm (Matcô 1, 12-15) cũng ghi lại việc chính Chúa Giêsu cũng để cho ma qủy cám dỗ, sau khi đã ăn chay 40 ngày.

Cám dỗ là một thử thách suốt cuộc đời chúng ta. Nhưng bị cám dỗ chưa hẳn là đã phạm tội. Có rất nhiều thứ cám dỗ khác nhau, nhưng tất cả đều do khuynh hướng con người chúng là ‘ham danh, ham lợi, ham lạc thú!’. Mọi người đếu bị cám dỗ. Ai trong chúng ta cũng ham muốn được ca tụng, được giầu có, và thỏa mãn các thú vui. Ngay cả các vị Thánh tu hành trong sa mạc cũng bị cám dỗ, nhiều khi rất mạnh mẽ, cả trong tuổi già (như Thánh Antôn Viên Phú; Lễ kính ngày 17-1 hàng năm). Nhưng chúng ta có thể thắng cám dỗ, nếu có ơn Chúa giúp đỡ qua việc cầu nguyện, ăn chay hãm mình, và xa tránh dịp tội.

Trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, khi chúng ta lên chịu xức tro, chúng ta đã nghe ca đoàn hát: “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro…” (Bài “Hỡi Người Hãy Nhớ” của Kim Long) để nhắc nhở chúng ta đã được dựng nên do “bụi tro, và khi chết, thân xác chúng ta cũng sẽ trở về ‘tro bụi’. Suy nghĩ như vậy không phải để chúng ta ‘bi quan yếm thế’; nhưng chỉ để chúng ta nhớ đến cuộc đời của chúng ta trên trần thế này ngắn ngủi, mỗi ngày qua đi là một ngày chúng ta đi đến gần nấm mộ của chúng ta hơn, và sau khi chết thân xác chúng ta sẽ trở thành tro bụi. Tuy nhiên, chúng ta đã được dựng nên theo hình ảnh Chúa, có linh hồn bất tử. Chết chỉ là ‘thể phách, hồn là tinh anh” và ‘sống gửi thác về’, ‘sinh qúy tử quy’. Chúng ta sẽ được về với Chúa là Cha chúng ta trên nước Hằng Sống, miễn là chúng ta luôn biết cố gắng thắng cám dỗ để sống xứng đáng những con người đã “được dựng nên theo hình ảnh Chúa!’ (Sáng thế 1, 26).

Mùa Chay chính là “thời gian thuận tiện” (2 Corintô 6,2) để chúng ta ‘làm các việc lành phúc đức’. Mùa Chay chính là thời gian để chúng ta dùng nhiều thời giờ hơn để sống đức tin của chúng ta, thánh hóa bản thân và gia đình chúng ta. Có những việc Giáo hội nhắc nhở chúng ta phải làm nhiều hơn trong Múa Chay, đó là: Cầu nguyện, ăn năn sám hối lỗi lầm quá khứ qua việc xét mình xưng tội; làm việc đền tội qua những hy sinh hãm mình (ăn chay và kiêng thịt); làm việc từ thiện (thường gọi là ‘làm phúc bố thí’), giúp đỡ những người nghèo khó, bệnh tật, đau khổ trên thế giới. Những việc này chúng ta vẫn làm hàng ngày, và từng giây phút cuộc đời, nhưng vào Mùa Chay, chúng ta cố gắng nhiều hơn để giúp đổi mới con người chúng ta, gia đình chúng ta và chuẩn bị những ngày kỷ niệm việc Chúa đã chịu chết để chuộc tội chúng ta, nhưng Ngài đã Sống Lại và Lên Trời vinh hiển để mở đường cứu rỗi cho chúng ta.

Xin hiệp ý cầu nguyện chung, để mỗi người chúng ta sống tốt đẹp mùa Chay Thánh này, được dồi dào ơn thánh Chúa để canh tân con người chúng ta, gia đình chúng ta và chung tay xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn trong thế giới hôm nay.

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY- Năm B

CÁM DỖ TRONG HOANG ĐỊA- Cố Lm. Hồng Phúc

Hôm nay là Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay. Tất cả lời Chúa hôm nay gồm tóm trong câu Chúa tuyên bố trong bài Phúc âm: “Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”

Trước hết, thời giờ đã mãn, Nước Trời sắp đến. Mùa Chay là mùa hy vọng, mùa tình thương. Thánh Phaolô, trong Thư gửi Giáo đoàn Roma, đã nói lên một câu khiến cho chúng ta tràn đầy hy vọng: “Ở đâu tội lỗi tràn ngập thì ơn Chúa đã dồn mọi người hết thảy vào đàng bất tuân (tội lỗi), ngõ hầu Người dủ lòng thương hết mọi người” (Rom 11, 32).

Thánh Phêrô, trong bài đọc hôm nay có tính cách như một bài giáo huấn cho tân tòng sắp chịu phép rửa tội, cũng nói lên ơn cứu chuộc tràn đầy rằng: “Chúa Kitô đã chết một lần cho tội lỗi chúng ta… thay cho chúng ta là kẻ bất công, để hiến dâng chúng ta cho Thiên Chúa.” Ám chỉ phép rửa tội, Thánh Tông đồ nhắc lại sự tích ông Noe xưa, vâng lời Chúa đóng một chiếc tàu giữa tiếng bàn tán, dị nghị, chế riễu, nhưng nhờ đó mà gia đình ông được cứu sống. Thì ngày nay, nhờ phép rửa tội chúng ta cũng được cứu thoát, nhờ công nghiệp Chúa Kitô phục sinh. Ngài đã thắng sự chết và tội lỗi để ban cho chúng ta sự sống của chính Thiên Chúa. Ở đâu tội lỗi tràn ngập thì ơn Chúa cũng tràn đầy.

Trong ba tường thuật của Phúc Âm nhất lãm về việc Chúa bị ma quỉ cám dỗ, Phúc Âm của Marcô ngắn gọn và chỉ có ý đưa dẫn đến sứ vụ Tông đồ của Chúa. Ngài chỉ viết: “Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Ngài ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu sata cám dỗ, sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Ngài”.

Hoang địa hay sa mạc là chốn thinh không, là nơi không có tiếng nói ngoài tiếng gió vi vu hay tiếng kêu cầm thú. Một nơi im lặng nhưng không phải là không có tiếng kêu cầm thú. Một nơi im lặng nhưng không phải là không có tiếng nói và có nhiều thứ tiếng nói sẽ vọng lên. Tiếng nói của chính lương tâm mình, tiếng nói của dĩ vãng, của một đoạn đời đã qua, một khoảng đời sắp tới. Nhất là tiếng nói của Chúa, vì “Người thích nói trong im lặng”. Vì thế, ngày xưa bao nhiêu vị Thánh đã vào trong hoang địa Thebes bên Ai cập để sống đời khổ tu, hoặc như Thánh Hiêrônimô xa lánh sự ồn ào thành phố Lamã để vào trong sa mạc gần Nagiarét suy niệm Thánh Kinh.

Nhưng hoang địa cũng là nơi thần bí, như lời Chúa phán: “Khi tà thần ra khỏi người nào, thì nó đi dong dài những nơi khô cháy tìm chỗ nghỉ ngơi…”. Trong chốn thinh không im lặng, ma quỉ thường hay hoạt động, quấy phá. Ma quỉ đã hiện ra nhiều lần dưới nhiều hình quái ghê sợ để buộc Thánh Antôn bỏ cuộc nhưng ngài đã xua đuổi và trở nên tổ phụ đời sống tu trì. Về đêm, trong im lặng, ma quỉ quấy phá Thánh Vianney trong 35 năm.

Sở dĩ như vậy vì trước đây, Marcô nói, “Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Ngài ở đó bốn mươi đêm ngày, chịu satan cám dỗ”. Vị Thánh Sử không nói đến diễn tiến của cuộc cám dỗ nhưng chúng ta cũng hiểu được qua các cuộc đương đầu với ma quỉ trong khi Ngài ra giảng đạo. Marcô còn thêm một chi tiết: Ngài sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Ngài. Phải chăng Marcô muốn ám chỉ quang cảnh an bình mà Chúa Giêsu, vị Adam mới, đã sống. Ngài đã toàn thắng con rắn hoả ngục dữ tợn muốn cám dỗ Ngài bỏ cuộc, và mở cửa trời cho chúng ta vào hưởng hạnh phúc với các Thiên Thần.

Sau cùng, lời rao giảng của Chúa Giêsu gồm tóm trong hai điểm: Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng. Ta phải ăn năn sám hối tội lỗi. Đó là phần tiêu cực của mọi cuộc trở lại. Nhưng không phải chỉ có thế, có biết bao nhiêu đạo giáo còn đòi hỏi sự hảm mình phạt xác hơn chúng ta. Nhưng điều tích cực là TIN vào Chúa Kitô, chỉ có Chúa mới có thể cứu vãn chúng ta. Đức tin và sám hối là hai yếu tố của mọi cuộc trở lại.

Charles de Foucaul đến gặp một vị linh mục quen là cha Huvelin và tâm sự: Từ ngày lên 15 tuổi, tôi như mất đức tin. Cha Huvelin nhìn con người về từ sa mạc đó và nói: Anh hãy quì xuống xưng tội đi đã. Foucauld đã vâng lời, khiêm tốn làm việc sám hối. Và từ đó, đời của vị sĩ quan ấy đã hoàn toàn đổi mới. “Khi tôi vừa hiểu rằng có một Thiên Chúa thì tôi cũng hiểu rằng tôi không thể làm gì khác hơn là chỉ sống vì Người”.

“Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng.”

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY- Năm B

ĐỨC GIÊSU TRONG HOANG ĐỊA- Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện

Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 1,12-15) gồm hai phần: Đức Giêsu ở trong hoang địa (cc.12-13) và Đức Giêsu khai mạc công việc rao giảng (cc.14-15). Vì chúng ta mới suy niệm cc.14-15 trong Chúa Nhật III Thường Niên, nên hôm nay, bài suy niệm này sẽ chỉ tập trung vào phần nói về sự kiện Đức Giêsu ở trong hoang địa. Và những gì sắp được trình bày trong bài suy niệm này sẽ chỉ là một trong những cách hiểu có thể có về sự kiện ấy theo cách diễn tả của tác giả Mc.

Câu chuyện xảy ra ngay sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giorđan: “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (cc.12-13)

Thần Khí, sức mạnh của Thiên Chúa, “đẩy” Đức Giêsu vào hoang địa. “Đẩy” ở đây là một ẩn dụ chỉ sự thúc đẩy thần linh mà Đức Giêsu trải nghiệm; đó là sự thúc đẩy bên trong, mạnh mẽ, không thể cưỡng lại được. Sức mạnh của Thần Khí tràn ngập nơi Đức Giêsu và đặt Người, một cách chắc chắn, vào trong “hoang địa”. Và vì là tác động thần linh của chính Thiên Chúa, sự thúc đẩy và đặt để đó hẳn nhiên sẽ phù hợp với chương trình của Thiên Chúa về Đức Giêsu. Chương trình đó đã từng được tác giả Mc trình bày ngay từ những dòng đầu tiên của cuốn sách như một con đường (1,2). “Hoang địa” mà Thần Khí đẩy Đức Giêsu vào, vì thế, là nơi chốn mà ở đó Người phải thực hiện cuộc hành trình của Người.

Về bản chất, hoang địa này khác hẳn hoang địa của ông Gioan Tẩy Giả. Trong trường hợp của ông Gioan, đó là một nơi chốn địa dư, gần sông Giorđan, không dân cư và tách biệt hẳn xã hội con người; nhưng khi ông Gioan ở đó thì xảy đến hàng loạt những hoạt động do sự xuất hiện của các thành phần xã hội từ bên ngoài kéo đến: ông giảng dạy, ông làm phép rửa và người ta lãnh ơn tha thứ… Còn hoang địa mà Thần Khí đẩy Đức Giêsu vào thì không được xác định rõ ràng. Đức Giêsu đi vào trong hoang địa này bởi tác động của Thần Khí, ở lại đó trong một giai đoạn dài và thuần nhất (40 ngày), chịu cám dỗ, sống giữa các loài dã thú và được các thiên sứ phục vụ. Tác giả không kể bất cứ hoạt động nào của Người, kể cả việc cầu nguyện và ăn chay. Trong hoang địa này, bên cạnh Đức Giêsu, có sự hiện diện của ba loại “cư dân”: Satan, các loài dã thú và các thiên sứ. Tính chất và sự hiện diện đồng thời của ba loại “cư dân” này quanh Đức Giêsu khiến cho hoang địa này không còn mang tính chất địa dư – lịch sử nữa, mà là một hình ảnh ẩn dụ mang tính biểu tượng – thần học.

Đức Giêsu, theo chương trình của Thiên Chúa, đang thực hiện cuộc hành trình của Người, đang đi trên con đường của Người (x.1,2). Đỉnh điểm của cuộc xuất hành của Người sẽ là biến cố tử nạn – phục sinh. Xưa, hoang địa là nơi chốn của cuộc xuất hành của dân Israel đi về đất hứa. Nay, “hoang địa” cũng là nơi chốn diễn ra cuộc hành trình hướng đến biến cố tử nạn – phục sinh của Đức Giêsu. Sự kiện Người sẽ ở trong hoang địa bốn mươi ngày (c.13) củng cố cho cách hiểu này. Mà nếu thế thì “hoang địa” nói đây chính là cái xã hội – tôn giáo Do Thái, trong đó Đức Giêsu sống và hoạt động cho đến khi Người bước vào cuộc tử nạn – phục sinh của Người. Chính Thần Khí đẩy Người đi vào trong cái xã hội – tôn giáo đó.

Nhưng hoang địa, tự bản chất, là hình ảnh của một nơi chốn tách biệt khỏi xã hội. Trong trường hợp của Đức Giêsu, sự tách biệt này, vì thế, phải được hiểu theo nghĩa của sự tách biệt về các nguyên tắc và giá trị. Đức Giêsu ở trong “hoang địa”, tức là Người tuyệt đối không chia sẻ các giá trị giả dối và sai lầm của cái xã hội – tôn giáo Do Thái và không chấp nhận những nguyên tắc và giá trị đó. Có một sự cắt đứt, một sự đoạn tục, một sự tách lìa giữa Đức Giêsu với các nguyên tắc và giá trị đó. Tính chất của ẩn dụ “hoang địa” cho phép chúng ta hiểu như thế.

Bắt đầu Mùa Chay thánh, chúng ta cũng đang được Thần Khí đẩy vào “hoang địa” để thực hiện cuộc xuất hành của chính mình và của cộng đoàn mình. Đối với tuyệt đại đa số chúng ta, đây sẽ không phải là một hoang địa theo nghĩa nơi chốn địa dư, mà là theo nghĩa biểu tượng – thần học. Đó là nơi chúng ta thực hiện cuộc hành trình đời mình như dân Israel xưa thực hiện cuộc hành trình đi từ cõi nô lệ Ai Cập về miền đất hứa “chảy tràn sữa và mật”. Đó là nơi xảy đến cuộc xuất hành của chúng ta, cuộc xuất hành đưa chúng ta vào trong đất hứa là Nước Thiên Chúa. Hoang địa, theo nghĩa đó, là chính môi trường sống và làm việc cụ thể của chúng ta trong hiện tại.

Nhưng “hoang địa” mà Thần Khí đang đẩy chúng ta vào cũng có nghĩa là một chốn tách biệt, như xưa đã xảy ra với Đức Giêsu. Trong ý nghĩa sự “đi vào hoang địa” là biểu tượng cho một sự tách biệt, một sự giữ khoảng cách đối với những nguyên lý và giá trị sai lầm đang chi phối xã hội, thì việc Đức Giêsu vào hoang địa, như chúng ta đã nói, là việc Người không chấp nhận hành xử theo các nguyên lý và giá trị sai lầm của xã hội và tôn giáo Do Thái đương thời. Đối với chúng ta cũng vậy. Thần Khí đang đẩy chúng ta vào hoang địa, cách riêng là trong Mùa Chay thánh này, tức là Thần Khí thúc đẩy chúng ta không thỏa hiệp và không sống theo những nguyên lý và giá trị tầm thường thế gian, ngay trong những môi trường xã hội và môi trường làm việc hiện tại của chúng ta: những ý thức hệ sai lạc, những giá trị ảo của chủ nghĩa hưởng thụ, hay những não trạng duy vật và duy khoái lạc…

Đức Giêsu đã làm theo sự thúc đẩy của Thần Khí. “Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (c.13).

Trong Cựu Ước, con số “bốn mươi” thường được dùng để chỉ một giai đoạn trong đó diễn ra một tình trạng thuần nhất nào đó như thời hòa bình hay thời của một triều đại… Thí dụ trong Tl 3,11; 5,31; 8,28; 13,1; 2V 8,17; 12,2 chẳng hạn. Một điều chắc chắn là con số bốn mươi luôn ám chỉ đến bốn mươi năm con cái Israel đi trong hoang địa, tức là giai đoạn họ đi từ chốn nô lệ Ai Cập về đất hứa (x. Ds 14,33.34; 33,38; Đnl 1,3; 2,7; 29,4; Gs 14,17; Tv 95,10; Am 2,10; 5,25…). Vì thế, chi tiết “Đức Giêsu ở trong hoang địa bốn mươi ngày” rõ ràng mang giá trị biểu tượng, chỉ về cuộc xuất hành của Người, tức là cuộc hành trình đưa Người đi đến đỉnh điểm là cuộc tử nạn và phục sinh của Người.

Trong “hoang địa”, Đức Giêsu chịu Satan cám dỗ suốt bốn mươi ngày. “Satan” là một hạn từ Hípri. Thoạt kỳ thủy, hạn từ này về căn bản có nghĩa là một kẻ chống đối hay một đối thủ chuyên cáo tội trong các vụ án (x. Tv 109,6; 1Mcb 1,36). Từ đó nó có nghĩa chỉ về một thành viên của triều đình thiên thai, chuyên cáo tội con người trước mặt Thiên Chúa (x. G 1,6-12; 2,1-7). Vào thời Đức Giêsu, người ta không còn nghĩ Satan là một thành viên của triều đình thiên thai nữa, nhưng có thể hiểu như là một tinh thần thù nghịch của con người, luôn tìm cách đẩy con người đến chỗ sai lạc và luôn muốn tàn phá công trình của Thiên Chúa. Trong cái xã hội Do Thái được ẩn dụ trong bài Tin Mừng bằng hình ảnh “hoang địa”, thì Satan, trong vai kẻ cám dỗ Đức Giêsu, chính là những thế lực/nhân vật liên tục tìm cách làm cho Đức Giêsu phản bội lại chương trình của Thiên Chúa về Người. Trong Mc 8,33 Đức Giêsu sẽ gọi Phêrô là Satan vì ông ta ngăn cản Đức Giêsu thực hiện chương trình của Thiên Chúa và muốn Người đi theo “tư tưởng của loài người”. Trong cuộc đời hoạt động công khai của Người trước khi đi vào cuộc tử nạn – phục sinh, giữa “hoang địa” là xã hội và tôn giáo Do Thái, Đức Giêsu sẽ phải liên tục đối diện với những thế lực/nhân vật như thế. Bài Tin Mừng hôm nay gọi là “Người chịu Satan cám dỗ”.

Loại “cư dân” thứ hai trong “hoang địa” mà bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến, là các loài dã thú: Đức Giêsu “sống giữa loài dã thú”. Thông thường, các loài dã thú được hình dung trong đặc điểm hung dữ của chúng: chúng tấn công và thậm chí ăn thịt con người. Vì thế, trong các sách ngôn sứ, ẩn dụ dã thú thường được dùng để nói về tai ương, ví dụ trong Is 18,6; 56,9; Gr 7,33; 12,9; 16,4; Ed 32,4; 34,5. Nhưng rõ ràng đó không phải là trường hợp của Mc 1,13. Có một bản văn ngôn sứ nói về tình trạng tốt lành của việc sống chung với dã thú, là bản văn Is 11,6-9. Nhưng nếu chúng ta chấp nhận cách hiểu ẩn dụ “hoang địa” ở đây ám chỉ xã hội Do Thái đương thời và “các loài dã thú” là một thành phần trong đó, thì cũng rõ ràng là không thể hiểu Mc 1,13 dựa theo Is 11,6-9 được.

Trong số các bản văn Cựu Ước sử dụng ẩn dụ dã thú, đáng chú ý là Đn 7. Trong đó, các dã thú là ẩn dụ chỉ những quyền lực chính trị kinh khủng của các đế quốc ngoại giáo. Hiểu như là một thành phần trong khung cảnh xã hội Do Thái (“hoang địa”), theo nghĩa tương tự như trong Đn 7, các loài dã thú ở đây là ẩn dụ của những thế lực và ảnh hưởng chính trị khác nhau của các phong trào và các ý thức hệ khác nhau. Đó là những thứ quyền lực chính trị – xã hội – tôn giáo áp bức, hay ít là gây sức ép, trên những con người đang sống trong xã hội đó. Chúng tác động trên con người, từ bên ngoài; và chúng sẽ thi thố sức mạnh của mình, ít là về mặt thể lý, để đẩy Đức Giêsu đến cái chết thảm thương trên thập giá sau này. Đức Giêsu “sống giữa loài dã thú” tức là chấp nhận làm đối tượng mà các thứ quyền lực ấy nhắm đến và không ngừng tìm cách tác động, gây ảnh hưởng.

Loại “cư dân” thứ ba trong “hoang địa” mà Mc 1,13 nói đến là các “thiên sứ” (aggelos). Trong Tin Mừng Mc, lần đầu tiên “thiên sứ” được nói đến, chính là ở 1,2. Và hình ảnh của aggelos đó được thể hiện một cách cụ thể – lịch sử nơi Gioan Tẩy Giả (1,4). Như thế, trong Mc, “aggelos” vẫn có thể là con người chứ không nhất thiết phải là hữu thể thiêng liêng. Nếu chúng ta chấp nhận cách giải thích phía trên về ba hình ảnh “hoang địa”, “Satan” và “dã thú”, thì chúng ta cũng sẽ dễ dàng chấp nhận cách giải thích, theo đó, ẩn dụ “các thiên sứ” ở đây ám chỉ một nhóm người nào đó trong cuộc đời hoạt động công khai của Đức Giêsu. Nhóm này có chức năng cộng tác với Đức Giêsu, kể cả việc phục vụ Người. Vậy, có thể hiểu “các thiên sứ” ở c.13 là hình ảnh ẩn dụ của những con người gắn bó với Đức Giêsu, giúp đỡ Người khi Người thi hành sứ vụ và cộng tác với Người trong công cuộc của Người. Đức Giêsu chấp nhận sự phục vụ của các thiên sứ trong hoang địa có nghĩa là người chấp nhận sự phục vụ, giúp đỡ và cộng tác của những con người đó trong khi Người thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Tóm lại, trong phần đầu bài Tin Mừng hôm nay, tác giả Mc đã sử dụng những hình ảnh ẩn dụ rất phong phú và sâu sắc. Tất nhiên, cách giải thích vừa được trình bày vẫn chỉ là một trong những cách hiểu về những hình ảnh được tác giả Mc sử dụng. Nhưng dù sao, trong khung cảnh của phụng vụ Chúa Nhật I Mùa Chay hôm nay, cách hiểu này gợi ý cho chúng ta nhiều suy tư thiết nghĩ là rất đáng chú ý, liên quan đến cuộc sống và việc thi hành sứ mạng của các Kitô hữu chúng ta. Chúng ta được mời gọi hãy để cho chính Chúa Giêsu (như được khắc họa trong bài Tin Mừng hôm nay) nói với chúng ta về những gì chúng ta phải sống cách đặc biệt trong Mùa Chay thánh này.

“Thần Khí đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (Mc 1,12-13).

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY- Năm B

THIÊN CHÚA MUỐN CỨU BẠN- Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau rằng, các con sông lớn trên thế giới chính là nơi phát sinh các nền văn hóa của con người. Dòng sông Nil tạo nên nền văn minh Aicập, văn minh của vùng Trung đông phát xuất từ hai con sông lớn Tigre và Euphơrat. Ở Châu Á, có con sông Hằng của Ấn Độ và con sông Mekong chảy qua Việt Nam cũng đã tạo nên những vùng văn minh và cư dân sinh sống. Những dòng sông này không chỉ là nơi phát sinh sự sống, mà cho đến nay, chúng vẫn là nguồn nuôi dưỡng sự sống cho những nơi chúng chảy qua. Gần đây, Trung Quốc, Thái Lan và Cambodia đã có kế hoạch xây những con đập trên dòng sông Mekong. Điều đó sẽ dẫn đến tình trạng Việt nam sẽ bị thiếu nước, sẽ không có lũ hàng năm đem phù sa bồi đắp cho cộng đồng, sẽ ảnh hưởng nguồn tôm cá… Các cuộc thương lượng giữa các nước cũng có những lúc gay go và có nguy cơ xảy ra tranh chấp.

Thưa quý OBACE, từ cổ chí kim, ai cũng thấy rằng nguồn nước rất quan trọng cho sự sống còn của một vùng miền. Có nước mới có sự sống của các loài và người ta luôn đi tìm nguồn nước để bảo tồn sự sống. Người ta cũng thấy sức mạnh của những dòng sông này không gì có thể ngăn cản được. Hằng năm, dòng lũ của các con sông này đã gây ngập lụt, phá hủy nhà cửa, mùa màng, nhưng đồng thời nó cũng đem phù sa bồi đấp cho đất đai thêm màu mỡ.

Các bài đọc của Chúa nhật thứ nhất mùa chay hôm nay cũng cho chúng ta thấy sức mạnh của dòng nước. Trước hết là dòng nước hồng thủy trong Cựu Ước, dòng nước này đã phá hủy, cuốn trôi, và nhấn chìm tất cả tội lỗi của con người. Kinh Thánh kể lại bằng một hình ảnh rất quen thuộc : Khi ấy, tội lỗi của loài người đã tràn ngập mặt đất, con người càng ngày càng xa rời Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dùng nước hồng thủy để tiêu diệt hết dòng giống tội lỗi trên mặt đất này và tạo lập nên một dòng giống mới từ Noe và con cháu ông. Đồng thời, bài đọc hôm nay cho thấy Thiên Chúa thật nhân từ. Ngài ra tay đánh phạt con người vì tội, nhưng rồi Ngài lại xót thương, thậm chí Thánh Kinh còn dám nói rằng : Thiên Chúa “hối tiếc” về những việc đã làm với con người, nên Ngài đã ký kết một giao ước với Noe, để từ đây, Ngài sẽ không bao giờ hủy diệt, tàn phá mặt đất như thế nữa. Một giao ước hoàn toàn có lợi cho con người, chứ không có lợi gì cho Thiên Chúa. Một Thiên Chúa chiến thắng, nhưng lại cúi xuống để ký giao ước với con người. Để bảo đảm cho lời cam kết này, Thiên Chúa lại còn chấp nhận như “gác vũ khí” : Ta gác cây cung của ta lên mây và đó sẽ là dấu hiệu giao ước giữa ta với cõi đất. Điều đó muốn nói rằng, Thiên Chúa sẽ không bao giờ dùng vũ khí của Ngài để tiêu diệt con người nữa.

Nếu như dòng nước hồng thủy đã xóa sổ nhân loại cũ và tội lỗi của nó, thì theo thánh Phêrô, dòng nước phát xuất từ cạnh sườn của Đức Kitô trên thập giá, đã hình thành nên một dân mới là Hội Thánh. Dòng nước của Bí tích Thánh tẩy đã tẩy sạch mọi tội lỗi của thể xác và tâm hồn chúng ta. Dòng nước này đã được Đức Giêsu dùng cái chết và sự phục sinh của Ngài bảo đảm và mang lại sự sống mới cho con người. Ngài đã dùng dòng nước từ cạnh sườn Người để làm cho chúng ta nên công chính, nên sạch sẽ trước mặt Thiên Chúa và còn nên con cái của Thiên Chúa. Vì thế, những người đã được thanh tẩy bởi dòng nước này được mời gọi gìn giữ linh hồn và thân xác của mình luôn trong sạch trước mặt Thiên Chúa và luôn sống xứng đáng với danh nghĩa là con Thiên Chúa.

Bài Tin Mừng cho thấy, sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Thánh Thần đã thúc đẩy Người vào hoang địa, sống trong chay tịnh và cầu nguyện để tìm thánh ý của Thiên Chúa. Thánh Marco chỉ nói lướt qua về việc Chúa chịu Satan cám dỗ, nhưng cũng đủ cho thấy hoang địa chính là nơi để gặp gỡ Thiên Chúa, song cũng là nơi con người sẽ phải đối diện với những cám dỗ của Satan. Đức Giêsu đã vào hoang địa với sự hướng dẫn của Thánh Thần, và chính Thánh Thần luôn hiện diện trong cuộc đời của Đức Giêsu để thêm sức mạnh cho Ngài, giúp Ngài chọn lựa con đường cứu chuộc nhân loại bằng đau khổ thập giá, bằng vâng phục hoàn toàn thánh ý Chúa Cha.

Thánh Marcô cũng cho thấy : Trong hoang địa, Chúa Giêsu sống giữa các loài dã thú và có các thiên sứ hầu hạ Người. Chi tiết này gợi lại hình ảnh của vườn địa đàng ngày xưa, khi Ađam Eva sống thuận thảo với Thiên Chúa. Họ được hưởng một khung cảnh, một tình trạng thật hạnh phúc, sống với các thiên thần và hòa thuận với mọi dã thú. Sau khi phạm tội, nguyên tổ đã phá hủy tình trạng hạnh phúc ban đầu, gieo thù oán giữa con người với nhau và gây xáo trộn giữa con người với dã thú, thiên nhiên và vạn vật. Nay Đức Giêsu, Đấng hoàn toàn vâng phục chương trình của Thiên Chúa, cũng chính Ngài tái lập lại khung cảnh và tình trạng hạnh phúc mà nguyên tổ đã đánh mất. Ngài sống giữa các thiên thần và dã thú, và tất cả đều hầu hạ, phục vụ người.

Đức Giêsu với quyền lực và sự thúc đẩy của Thánh Thần đã khởi đầu sứ mạng của Ngài. Ngài rao truyền Tin Mừng của Thiên Chúa, Tin Mừng tình thương và cứu độ. Sứ mạng của Gioan đã chấm dứt, phép rửa của Gioan không đủ sức tha thứ tội lỗi, nay đã đến thời Thiên Chúa ra tay thực thi những điều Ngài đã hứa, đó là thời của tình thương và cứu độ, của giải thoát và tha thứ. Để đón nhận được tình thương cứu độ, con người phải thực lòng sám hối và tin vào Tin Mừng, phải có một quyết tâm thay đổi và hoán cải, phải có một thái độ tích cực, đó là tin và đón nhận Tin mừng của Đức Kitô. Đón nhận Đức Kitô là chấp nhận bước theo sự hướng dẫn, dạy bảo của Ngài, có như thế mới có thể bước vào được vương quốc của Thiên Chúa, nói cách khác là vào được Nước Trời.

Thưa quý OBACE, chúng ta đã được sức sống mới từ dòng nước của Bí tích Rửa tội. Dòng nước ấy tẩy rửa tội lỗi chúng ta, xóa bỏ tình trạng tội lỗi con người cũ và cho ta được gia nhập và sống trong triều đại của Thiên Chúa. Qua dòng nước rửa tội, chúng ta được hưởng ơn giải thoát, ơn cứu độ, đồng thời được nhận sức mạnh của Thánh Thần để chúng ta có thể chiến thắng những cám dỗ của satan. Sức mạnh của Thánh Thần còn giúp ta nhận ra và thi hành ý muốn của Thiên Chúa.

Mùa chay là dịp để chúng ta tái khẳng định lòng trung thành của chúng ta đối với Chúa, trung thành với giới ră,n lề luật của Ngài, sống đúng với tư cách làm con của Thiên Chúa và là thành viên của Nước Trời. Cụ thể, mỗi người hãy quyết tâm chu toàn cách tốt đẹp bổn phận thờ phượng Thiên Chúa, đặc biệt ngày Chúa nhật, dâng lễ một cách tích cực hơn và siêng năng đọc kinh tối gia đình.

Mùa chay này, Thánh Thần cũng sẽ đưa chúng ta vào sa mạc của tâm hồn, để ở trong thinh lặng, chúng ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong cầu nguyện và chay tịnh, hãm mình và hy sinh. Thực hiện chay tịnh để làm chủ con người mình, vượt thắng những cám dỗ của ma quỷ, dục vọng và thế gian. Để thắng được ma quỷ, dục vọng, cần phải có ơn Chúa và sự nỗ lực, kiên trì trong cầu nguyện, trong sự gắn bó thân mật với Chúa. Mỗi người hãy quyết tâm loại bỏ đi một vài tật xấu đã quen phạm, bằng cách tập những tính tốt, thói quen tốt, làm một vài việc hy sinh bác ái cụ thể như là một quyết tâm của cá nhân trong mùa chay này.

Các bậc làm cha mẹ hãy tận dụng dòng sông ơn thánh của mùa chay này để tẩy rửa nếp sống và các sinh hoạt của gia đình. Hãy rửa sạch khỏi gia đình những cãi vã, bê tha, lười biếng ; trang hoàng lại không phải căn nhà của mình, mà phải trang hoàng lại gia đình của mình bằng những nếp sống mới tốt hơn, ấm cúng hơn.

Các bạn trẻ, đừng ngại ngần với mùa chay thánh này. Thiên Chúa luôn muốn cứu chúng ta chứ không muốn trừng phạt. Ngài luôn cho chúng ta cơ hội để đổi mới. Nhưng để Thiên Chúa có thể cứu chúng ta, thì đòi chúng ta phải đưa tay ra cho Ngài nắm lấy. Hãy vượt qua sự ngại ngùng, lười biếng để đến với nguồn nước cứu độ là các Bí tích, nhất là Bí tích Giải tội và Thánh Thể, Chúa giúp các bạn tẩy rửa và vượt thắng được những cám dỗ của ma quỷ, dục vọng, thế gian và những lôi kéo của xã hội hôm nay.

Xin Chúa cho mỗi người biết sử dụng thời gian thánh thiện của mùa chay này để làm mới lại cuộc sống và cả con người của mình nên tốt đẹp hơn.  Amen.

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY- Năm B

SỰ CÁM DỖ – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Nhiều người hôm nay không tin ma quỷ, không tin sự cám dỗ của ma quỷ. Họ cho rằng tội là do mình tự ý phạm. Họ tin vào sự ý thức của con người. Họ không nghĩ đến sự yếu đuối của con người là do ngã lòng chiều theo cám dỗ. Chính do sự mất cảnh giác của cám dỗ nên con người dễ mất mắc sai lầm theo chủ quan, dễ hành động theo bản năng mà không hề kiểm soát hành vi của mình. Đó cũng là điều tệ hại dẫn con người đến mất ý thức về tội. Vì lấy mình làm trung tâm nên luôn cho mình là đúng, luôn biện minh cho hành vi sai trái của mình.

Khi con người mất ý thức về tội là lúc ma quỷ chiến thắng. Nó luôn tìm cách chứng minh không hề có sự hiện của nó. Nó chỉ tác động dưới những hình thức đẹp đẽ, tốt lành để hướng con người hành động theo ý mình. Và điều tệ hại là hành động theo ý mình thì luôn sai lầm vì thích chiều theo bản năng, chiều theo sự dễ dãi mà không cần đến lề luật.

Có một nô bộc da đen hộ tống ông chủ da trắng đi săn vịt trời. Anh ta là một ky-tô hữu. Nhân dịp nói chuyện về vấn đề tôn giáo, ông chủ hỏi người ở da đen:

“Ta chẳng hiểu tại sao mày thường xuyên nói đến tội, đến chống trả cám dỗ, nói đến Ma-quỉ. Ta chẳng phải chống trả Ma-quỉ bao giờ, mà ta vẫn sống tịnh, chẳng bao giờ bị quấy phá hoặc tấn công chi cả”

Người ở da đen trả lời lại: “Tôi xin phép được giải thích việc này. Chúng ta đang đi săn vịt. Những con nào bị ông bắn và chết liền khi rơi xuống, thì tôi để yên đó. Nhưng con nào chỉ bị thương khi rơi xuống và tìm cách chạy trốn, thì tôi dùng sào này mà phang cho chết hoặc không nhúc nhích được mới thôi”.

Ông ví như vịt đã bị Ma-quỉ bắn chết rồi, nên nó để yên ông; còn tôi ví như con vịt mới bị thương và đang tìm cách trốn thoát, do đó Ma quỉ đang giơ sào và tìm mọi cách đập tôi cho thật chết mới thôi.

Ma quý cám dỗ là sự thật. Ma quỷ luôn tìm cách cám dỗ con người đi nghịch lại với đường lối Thiên Chúa. Chúa Giê-su cũng từng bị cám dỗ. Ma quỷ đã bủa vây Chúa Giê-su bằng nhiều lời hứa đường mật, nhưng luôn theo một chủ đích là từ bỏ Chúa Cha để hành động theo ý mình. Quả thực, trên đời chẳng có gì cho không. Ai cho chúng ta điều gì thì thường họ cũng muốn đòi lại chúng ta một điều nào đó, huống hồ là ma quỷ, nó sẽ không bao giờ cho không chúng ta.

Năm xưa trong vườn địa đàng ma quỷ đã chiến thắng Adam-Eva, khi hai ông bà quay lưng lại với Thiên Chúa. Ma quỷ cũng chiến thắng dân Chúa chọn trên hành trình đất hứa khi thờ bò vàng để tìm kiếm miếng ăn. Nhưng ma quỷ đã hoàn toàn thất bại trước Con Thiên Chúa làm người. Chúa Giê-su đã nhắc ma quỷ phải tuân phục Thiên Chúa. Ngài cũng nhắc ma quỷ cuộc sống này cái ăn cái mặc đáng quý nhưng thực thi ý Chúa còn quý hơn nữa.

Hôm nay khởi đầu mùa chay, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta hãy sám hối. Sám hối vì đã có những lần chúng ta quay lưng lại với Thiên Chúa. Sám hối vì đã có những lần chúng ta chiều theo cám dỗ của ma quỷ mà hành động theo tính xác thịt, thiếu tự chủ bản thân. Sám hối là nhìn nhận sự yếu đuối của mình để trông cậy lòng thương xót và ân sủng của Thiên Chúa. Chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới có thể chiến thắng cám dỗ, chiến thắng những yếu đuối của bản thân.

Xin Chúa Giêsu là Đấng đã chiến thắng cám dỗ ban ơn sức mạnh để chúng ta vực dậy sau những lần vấp ngã, và canh tân đời sống theo tin mừng. Xin cho chúng ta đừng bao giờ tự phụ về khả năng tự chủ của mình nhưng luôn khiêm tốn trông cậy vào ơn Chúa giúp để nói không với sự xấu, với điều nghịch lại với lề luật của Chúa. Amen.

CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN- Năm B

SÁM HỐI THÌ ĐƯỢC CỨU RỖI- Anmai, CSsr

Mở đầu những trang Thánh Kinh, chúng ta thấy trình thuật Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trời đất muôn loài muôn vật. Đỉnh điểm của công trình tạo dựng của Thiên Chúa đó là Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh của Ngài. Không chỉ dựng nên giống hình ảnh mình mà thôi, Thiên Chúa còn cho con người được ơn, được quyền sử dụng tất cả những tạo vật mà Chúa đã dựng nên ấy. Thiên Chúa một mực yêu thương con người ngay từ những ngày đầu tạo thiên lập địa nhưng con người, con người mãi quay lưng lại với Thiên Chúa.

Cũng ngay những chương đầu của sách Sáng Thế, chúng ta thấy Thiên Chúa ban đầu cảm thấy vui khi tạo dựng con người. Thế nhưng, chẳng được bao lâu, con người cứ mãi hận thù, ganh tỵ, chém giết lẫn nhau như Ca-in đã giết A-ben em mình. Không chỉ có như vậy mà lòng con người cũng bắt đầu thay đổi. Lòng con người không được như trước nữa mà lòng con người đã trở nên chai đá trước tình yêu của Thiên Chúa. Sách Sáng Thế đã ghi lại: “Đức Chúa thấy rằng sự gian ác của con người quả là nhiều trên mặt đất, và lòng nó chỉ toan tính những ý định xấu suốt ngày. Đức Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất, và Người buồn rầu trong lòng. Đức Chúa phán: “Ta sẽ xoá bỏ khỏi mặt đất con người mà Ta đã sáng tạo, từ con người cho đến gia súc, giống vật bò dưới đất và chim trời, vì Ta hối hận đã làm ra chúng.”(St 6, 5-7)

Giận thì giận mà thương thì thương. Thiên Chúa thấy Nôê là người công chính nên Ngài đã thương và Ngài đã bày tỏ tình thương của Ngài với Nô-ê và gia đình của ông.

Như sách Sáng Thế đã thuật lại, chúng ta thấy Thiên Chúa giận thì có giận đấy nhưng mà Ngài không nỡ bỏ con người. Ngài vẫn chờ đợi sự hoán cải, sự hối lỗi của con người.

Nhìn vào Thiên Chúa và con người, cách hành xử của Thiên Chúa và con người chúng ta thấy rất ư là buồn cười. Con người thì cứ mãi miết đi trong tăm tối, đi trong tội lỗi còn Thiên Chúa thì cứ mãi biểu lộ tình thương, sự tha thứ của mình. Một trong những người cảm nhận được lượng từ bi lân tuất, tình yêu thương hải hà của Thiên Chúa đó chính là vua Đa-vít. Vua Đa-vít hơn một lần đã dâng lời chúc tụng Chúa, chúc tụng về tình thương bao la của Thiên Chúa:

Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi,

toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh!

Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi,

chớ khá quên mọi ân huệ của Người.

Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,

thương chữa lành các bệnh tật ngươi.

Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt,

bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà,

ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc,

khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng.

Chúa phân xử công minh,

bênh quyền lợi những ai bị áp bức,

mặc khải cho Mô-sê biết đường lối của Người,

cho con cái nhà Ít-ra-en

thấy những kỳ công Người thực hiện.

Chúa là Đấng từ bi nhân hậu,

Người chậm giận và giàu tình thương,

chẳng trách cứ luôn luôn,

không oán hờn mãi mãi.

Người không cứ tội ta mà xét xử,

không trả báo ta xứng với lỗi lầm.

Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất,

tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao.

Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm,

tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta.

Như người cha chạnh lòng thương con cái,

Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn.  (Tv 103, 1-13)

Thiên Chúa là Cha hay thương xót, chạnh lòng thương và chờ đợi con người đáp trả.

Trở về với trường hợp của Nô-ê. Thiên Chúa giận, Ngài đã quyết định số phận mọi xác phàm và rồi Ngài bảo Nô-ê chuẩn bị cho quyết định ấy. Nô-ê tin tưởng vào lời của Thiên Chúa và ông đã thực hiện những gì Thiên Chúa bảo ông làm. Nếu như ông không tin tưởng và không kiên nhẫn chờ đợi trong trong 150 ngày thì số phận của ông cũng như những người kia. Thiên Chúa không những cứu sống cho đại gia đình của Nô-ê mà Thiên Chúa còn chúc phúc cho đại gia đình ấy nữa.

Để được sống, được hưởng chúc như ông Nô-ê không đơn giản như chúng ta nghĩ. Phải thật kiên nhẫn, phải thật tin tưởng, phải thật tín thác cuộc đời mình trong tay Chúa. Đâu có đơn giản để sống 150 ngày lênh đênh trên sóng nước? Phải chiến đấu, phải đối diện với biết bao nhiêu gian nan khốn khó của cuộc đời thì gia đình của Nô-ê mới được đi vào trong vinh quang với Thiên Chúa.

Trong thư của mình, Thánh Phêrô nhắc nhở mỗi người chúng ta về ơn cứu độ, về sự phục sinh vinh hiển của Chúa Giêsu. Ngài viết: “Chính Đức Ki-tô đã chịu chết một lần vì tội lỗi – Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương – hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh” (1 Pr 3, 18-19). Đức Kitô muốn vào vinh quang phục sinh với Cha của Ngài, Ngài cũng phải trải qua nhiều đau khổ và nhất là phải đón nhận cái chết và cái chết tủi nhục trên thập giá. Chúng ta thừa biết rằng, cuộc đời của Chúa Giêsu, từ khi sinh ra cho đến khi chịu chết, Ngài phải chấp nhận biết bao nhiêu đau khổ.

Để thi hành sứ vụ rao giảng công khai của mình về Nước Trời, Chúa Giêsu đã phải đối diện với biết bao nhiêu đau khổ, biết bao nhiêu là thử thách.

Để bắt đầu sứ vụ, Chúa Giêsu đã vào hoang địa để chịu sự cám dỗ của ma quỷ. Không đơn giản để vượt qua những cám dỗ đó dẫu đó là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng mang trong mình phận của một con người yếu đuối, mỏng dòn, cũng biết cảm thương, cũng biết giận, biết hờn … Chúa Giêsu cũng có trong mình cảm nghĩ về sự đau khổ, về sự thử thách mà chúng ta đã từng được nghe Thánh Kinh thuật lại. Chúa Giêsu cầu xin với Chúa Cha là cất khỏi Ngài chén đắng mà Chúa Cha trao ban nhưng xin đừng theo ý của Ngài nhưng là theo ý Cha. Với tâm tình đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng quá vất vả, quá khó khăn khi đối diện với ma quỷ, với cám dỗ. Thế nhưng, chung cuộc, kết cục của cơn cám dỗ mà ma quỷ đưa ra đó Chúa đã thắng.

Tại sao Chúa đã thắng được những cơn cám dỗ của ma quỷ? Chúa đã sống kết hợp mật thiết với Cha, Chúa đã cầu xin Chúa Cha ban ơn cho mình và đặc biệt Chúa Giêsu đã hoàn toàn tin tưởng và phó thác cuộc đời mình trong tay của Cha. Hơn một lần chúng ta nghe Chúa Giêsu thỏ thẻ với Cha: “Lạy Cha! Nếu có thể được xin Cha cấy cho con khỏi chén này nhưng xin theo ý Cha chứ đừng theo ý con”. Qua câu thỏ thẻ ấy, chúng ta thấy tâm tình của Chúa Giêsu như thế nào. Chúa Giêsu cũng như mỗi người chúng ta, Ngài phải đón nhận những cơn cám dỗ của cuộc đời nhưng Ngài đã thắng.

Bước vào Mùa Chay Tịnh, chúng ta bước vào hoang địa với Chúa Giêsu để sống thời gian đặc biệt: Thời gian sám hối.

Đừng như một số người suy nghĩ về cuộc đời họ thường nói là “kệ nó! tới đâu thì tới!” hay là “sao cũng được!”. Nếu nghĩ như thế, nếu nói như thế thì chẳng còn gì phải bàn, phải bận tâm nữa. Cuộc đời con người mau qua chóng tàn, nay còn mai mất. Mất và tàn ấy không phải là chuyện của chúng ta mà là của Thiên Chúa. Và nếu như người khôn ngoan thật thì luôn luôn hướng đến ngày mau qua chóng tàn ấy để cân chỉnh cuộc đời của mình cho tốt hơn.

Chúa luôn luôn chờ đợi, Chúa luôn luôn bao dung tha thứ. Phần chúng ta là ăn năn sám hối, sửa đổi cuộc đời.

Mùa Chay là mùa thuận tiện, mùa cơ hội để chúng ta hồi tâm quay về với Chúa là Cha giàu lòng thương xót.

Nguyện xin Chúa là Cha giàu lòng thương xót thương mở rộng vòng tay ra để ôm chầm chúng ta là những con người tội lỗi biết quay về với Chúa.

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY- Năm B

CHIẾN ĐẤU VÀ CHIẾN THẮNG- Trích Logos B

Ngày 28/6/1997, một trận đấu quyền anh đáng ghi nhớ được tổ chức tại Las Vegas, bang Neveda, Hoa Kỳ. Hai võ sĩ hạng nặng nổi tiếng thế giới đã thách đấu với nhau : đó là võ sĩ Mike Tyson và võ sĩ Evander Holifield.

Trận quyền anh được cả thế giới chú ý vì người thắng cuộc sẽ được một phần thưởng rất lớn : 35 triệu đôla và cái đai vô địch đầy

vinh dự.

Ở hiệp 3 của trận đấu, thừa lúc hai bên đang bị khóa chặt trong vòng tay của nhau, Mike Tyson đã cắn vào tai đối thủ của mình. Cái cắn mạnh đến nỗi võ sĩ Evander Holifield bị đứt một miếng tai, máu chảy đầm đìa. Ngay lập tức trọng tài cho ngưng trận đấu và tuyên bố Holifield là người thắng cuộc. Còn Mike Tyson bị cảnh sát dẫn đi. Là một võ sĩ đang ở trên đài cao vinh quang, nhưng chỉ vì một cái cắn tai đầy ô nhục, Mike Tyson đã đánh mất tất cả danh dự của một võ sĩ. Người ta đã ví “cái cắn tai” lịch sử đó giống như “vết cắn” của ông bà Nguyên Tổ trên trái táo nguyên tội.

Khi cắn vào tai đối thủ, Mike Tyson đã không cưỡng lại được lòng say mê bạo lực. Cũng vậy, khi ghé răng cắn vào trái táo, ông bà Nguyên Tổ cũng không cầm lòng được trước những lời dụ dỗ của con rắn. Tất cả những bi kịch xảy đến cho con người đều do con người đã chịu thua trước những cơn cám dỗ. Con người luôn phải đối đầu với những cơn cám dỗ trong cuộc sống hàng ngày. Chúa Giêsu cũng không phải là một biệt lệ, Ngài cũng từng phải chiến đấu với những cơn cám dỗ.

Hôm nay, trong bài Tin Mừng theo thánh Marcô, Chúa Giêsu được Thánh Thần thúc đẩy vào hoang địa. Ngài ở đó suốt 40 đêm ngày và chịu Satan cám dỗ. Tin Mừng theo thánh Marcô không nói rõ đó là cơn cám dỗ nào và Chúa Giêsu chiến đấu ra sao. Nhưng theo các tác giả Tin Mừng khác (Matthêu và Luca) đã thuật lại, thì đó là cơn cám dỗ về cơm bánh, quyền lực và vinh quang trần thế. Có điều đáng nói là Chúa Giêsu đã chiến đấu và chiến thắng.

Hoang địa, một nơi đầy thử thách

Chúa Giêsu đã được Thánh Thần thúc đẩy vào hoang địa 40 đêm ngày để chịu thử thách. Cũng vậy, dân Do Thái cũng phải lang thang trong hoang địa 40 năm dài trước khi vào Đất Hứa. Trong thời gian này, họ đã phải chịu nhiều thử thách. Họ đã sa ngã trước những thử thách đó : bao lần họ đã nổi loạn, chống lại ông Môisen, kêu trách Thiên Chúa, muốn quay trở lại Ai Cập với kiếp sống nô lệ hơn là tiến về Đất Hứa.

Tuy nhiên, hoang địa cũng lại là nơi con người có thể gặp gỡ được Thiên Chúa. Theo Thánh Kinh, hoang địa là nơi thoát tục, để con người gặp gỡ và sống thân mật với Thiên Chúa tình yêu. Chính Chúa Giêsu ở trong hoang địa 40 ngày để cầu nguyện và lãnh nhận thánh ý Chúa Cha trước khi xuất hiện để rao giảng Tin Mừng

công khai.

Mỗi khi bắt đầu mùa Chay, Giáo Hội lại mời chúng ta vào hoang địa với Chúa Giêsu, theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Mùa Chay là thời gian để chúng ta chịu thử thách, để chúng ta cầu nguyện và tĩnh tâm. Nhờ vậy, chúng ta có thể gặp gỡ và sống thân mật với Thiên Chúa.

Mùa Chay kéo dài 40 ngày, nhắc lại thời gian 40 năm dân Israel đi trong hoang địa, 40 ngày tiên tri Êlia ở trên núi Horeb, 40 đêm ngày Chúa ăn chay và cầu nguyện trong hoang địa. Các ngài đã cầu nguyện và gặp gỡ Thiên Chúa. Trong mùa Chay, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi hướng về nội tâm, để trong sâu thẳm của lòng mình, chúng ta gặp gỡ Chúa và để Chúa hoán cải cuộc đời.

Chúa Giêsu chiến đấu và chiến thắng

Sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Ngài được Thánh Thần thúc đẩy vào hoang địa để chịu Satan cám dỗ. Bốn mươi ngày sống trong cô tịch, giữa những loài dã thú, Chúa Giêsu đã phải chiến đấu với những cơn cám dỗ do Satan đưa tới. Có lẽ cơn cám dỗ lớn nhất mà Chúa Giêsu phải đương đầu, đó là cơn cám dỗ làm theo ý mình, thay vì thực thi thánh ý Chúa Cha. Cơn cám dỗ này đã đeo đuổi Ngài cho đến tận vườn Cây Dầu, để rồi trong cơn thử thách, Ngài đã phải thốt lên : “Lạy Cha, nếu có thể, xin hãy cất chén này xa con, nhưng đừng theo ý con một theo ý Cha” (Mc 14, 36).

Sự thử thách của Chúa Giêsu trong hoang địa gợi lên sự thử thách của Ađam và Evà trong vườn địa đàng xưa. Ông bà Nguyên Tổ đã bất tuân lệnh truyền của Thiên Chúa, đã ăn trái cấm để được bằng Thiên Chúa. Ông bà đã sa ngã trước thử thách và để lại hậu quả tội lỗi muôn đời cho con cháu loài người.

Bốn mươi năm trong hoang địa cũng là thời gian thử thách lâu dài đối với dân Do Thái. Họ cũng đã sa ngã trước thử thách, vì họ chỉ đi tìm ý riêng mà không tìm kiếm và thực thi ý Thiên Chúa.

Với sự thúc đẩy của Thánh Thần, Chúa Giêsu đã chiến đấu và chiến thắng. Ngài đã từ bỏ con đường rộng rãi thênh thang để đi vào cửa hẹp và con đường chật chội. Ngài đã chấp nhận cái chết để chu toàn thánh ý Chúa Cha. Vì thế, Ngài đã toàn thắng trong vinh quang Phục Sinh.

Hôm nay, sống trong mùa Chay Thánh, chúng ta cũng nhận thấy muôn vàn cám dỗ đang bủa vây chung quanh. Chúng ta hãy xin Chúa Giêsu dạy chúng ta biết luôn chiến đấu để chiến thắng chính mình : biết từ bỏ mình để sống theo ý Chúa mỗi ngày.

Bài đọc I, trích sách Sáng Thế kể lại : sau khi chiến đấu với phong ba bão táp trong trận đại hồng thủy kéo dài 40 ngày, Thiên Chúa đã lập giao ước với ông Nôê qua hình ảnh chiếc cầu vồng (St 7, 12). Cũng vậy, mỗi lần ta kiên quyết chiến đấu để chiến thắng một cơn cám dỗ, ta lại làm cho giao ước tình yêu giữa Chúa và ta được tươi sáng hơn với những sắc mầu rực rỡ.

Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng

Có một điều đặc biệt đáng cho chúng ta chú ý : đó là nếu Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa để chiến đấu với những cơn cám dỗ và chiến thắng vẻ vang, thì cũng chính Thánh Thần lại thúc đẩy Ngài lên đường đi rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa : “Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”.

Phải chăng, sứ điệp đó cũng dành cho chúng ta hôm nay ? Lòng sám hối ăn năn luôn phải dẫn đến việc làm của niềm tin : đó là tin vào Tin Mừng. Tin Mừng là gì nếu không phải là Đức Kitô ? Và tin vào Tin Mừng chính là tin vào Đức Kitô.

Mỗi người chúng ta cũng hãy để cho Chúa Thánh Thần thúc đẩy mình hăng hái lên đường loan báo Tin Mừng cho mọi người. Loan báo Tin Mừng chính là giới thiệu Chúa Kitô cho mọi người.

Người ta kể lại một mẩu truyện trong thế chiến thứ hai như sau : ngày kia, trên chiến trường, một vị linh mục tuyên úy đi ngang qua một hố bom, chợt thấy một người lính đang rên rỉ và quằn quại vì thương tích đầy mình. Thấy anh ta đang hấp hối, vị linh mục tuyên úy hỏi :

Anh có muốn nghe vài trang sách trong cuốn Kinh Thánh này không ?

Người lính trả lời :

Tôi khát lắm, tôi muốn uống nước hơn.

Vị linh mục tuyên úy vội vàng mang nước đến cho anh. Người bị thương lại thều thào :

Ông có thể giúp kê đầu tôi lên cao hơn một chút không ?

Vị linh mục tuyên úy cởi chiếc áo khoác cuộn lại làm gối cho anh lính kê đầu. Người lính lại rên rỉ :

Bây giờ tôi mong có một cái gì đó để đắp. Tôi lạnh quá !

Vị linh mục lại cởi nốt chiếc áo nhà binh đắp cho anh ta.

Cuối cùng, người lính mới nói :

Nào, nếu trong cuốn sách đó có nói về một ai đó đã làm những việc như ông vừa làm cho tôi thì xin ông vui lòng đọc. Tôi thích nghe những điều đó.

Loan báo Tin Mừng chính là loan báo về tình yêu và lòng xót thương của Thiên Chúa cho mọi người. Chớ gì trong mùa Chay Thánh này, để Sống Lời Chúa, chúng ta luôn biết ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng, cũng như biến đời mình trở thành trang sách Tin Mừng mở ra cho mọi người một thế giới đầy yêu thương.

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY- Năm B

NHỮNG CÁM DỖ CỦA MÙA CHAY- Lm. Thu Băng, CMC.

Mùa Chay bắt đầu vào thứ 4 Lễ Tro, là ngày bắt đầu của một chu kỳ Phục Sinh, một chu kỳ đầy sức sống hạnh phúc. Mùa Chay còn được gọi là mùa “Chữa bệnh” hơn là mùa “đền tội”. Mùa Chay theo thể lý, người ta sẽ hãm mình, hãm các đam mê thể xác, bớt ăn uống theo sở thích… Đó là một hình thức tìm lại sự quân bình cho thân thể (Chữa bệnh phần xác).

Trong Mùa Chay, người tín hữu cũng tìm cách hãm dẹp những tính mê nết xấu (như thích vui chơi đàng điếm, ham mê rượu chè, thú cờ bạc…), hãm dẹp những tư tưởng bất chính (trả thù, ghen ghét, hằn học, gian lận, biếng nhác…), để tìm lại một tâm hồn thảnh thơi an bình (Chữa bệnh phần hồn).

Trong Mùa Chay, người tín hữu cũng không quên gia tăng lòng đạo hạnh qua việc chu toàn bổn phận tinh thần: Đọc thêm kinh sách, cầu nguyện, tham dự các giờ Thánh Lễ, Phụng vụ chung, hành hương kính viếng nơi thánh, dành thêm thì giờ làm việc thiện, giúp đỡ mọi người, bố thí cho người nghèo….

Trong Mùa Chay ta bắt chước Chúa, lắng đọng tâm hồn như đi vào rừng vắng để dễ cầu nguyện, xây dựng đời nội tâm thêm mạnh mẽ, để có đủ sức chiến đấu với mọi cám dỗ trong đời. Chúa Kitô trước khi thi hành sứ mệnh tông đồ, Ngài vào nơi thanh vắng nghỉ ngơi và cầu nguyện, đồng thời qủi đến cám dỗ Ngài.

Việc ma qủi cám dỗ Chúa thực là một việc thánh, vì Ngài đã kể những cách cám dỗ nơi chính mình cho chúng ta có kinh nghiệm. Các cám dỗ đem đến cho Ngài cũng không phải là loại cám dỗ thường tình của người đời: Hóa phép cho đá thành bánh – Nhẩy từ trên nóc đền thờ xuống mà không chết. Chỉ có một cái cám dỗ giống loài người là ham danh vọng: Quì xuống tôn thờ ma qủi để đoạt được quyền uy thế phiệt. Ma quỷ đoán Ngài phải là một nhân vật rất thánh, thánh khác thường, vì nó thấy Ngài cầu nguyện và suy nghĩ bằng những năng lực  phi thường (khác lối suy nghĩ và cầu nguyện của loài người), để tìm cách chinh phục các linh hồn, nên nó dùng phương pháp cám dỗ cũng khác thường như vậy.

Những cám dỗ này chắc cũng không phải xẩy ra một lúc, mà suốt 40 đêm ngày suy nghĩ và ma quỷ đã đến đưa phương thế giúp Ngài giải quyết.

-Đưa đá cho Chúa, ma quỷ giải quyết rằng Ngài có thể dùng quyền năng phi thường của mình mà biến hóa vật chất nên của quí giá làm lòa mắt người trần, đánh mạnh vào lòng ham thích vủa cải sang trọng, để lôi kéo họ theo mình. Vì nhân loại thường dùng quyền thế, chức vị danh vọng để sai khiến nhau.

-Cho Ngài xem thấy tất cả thế gian, ma qủy giải quyết rằng việc cai trị cả nhân loại không khó gì, chỉ cần qùy xuống xin hắn, thì hắn cho đủ quyền cai quản đó. Vì nhân loại dễ dàng chấp nhận quy phục gian tà để có quyền gây thanh thế trên người khác. Chúa dạy phải công chính hóa đời mình và chỉ phục quyền Đấng có quyền thật.

-Trong cám dỗ thứ ba chúng giải quyết: Cứ nhảy xuống mà không việc gì, sẽ làm cho dân chúng thấy rùng rợn mà theo, vì phép tắc của Ngài không ai có thể vượt được. Vì nhân loại vẫn hay dùng lối bùa phép này để dọa nạt người khác, nhưng Chúa dạy không lừa dối, gạt gẫm người ta.

Trên đường theo Chúa, giữ đạo, đôi khi chúng con thấy mình khó thắng các cám dỗ quá. Xin Chúa thêm sức mạnh để chúng con có thể thực hiện điều Chúa dạy cách bền chí.

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY- Năm B

CHIẾN THẮNG CÁM DỖ-  Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

Năm nào cũng vậy, cứ vào Chúa nhật thứ nhất Mùa chay, Giáo hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng kể về việc Chúa Giêsu bị cám dỗ và chiến thắng Satan. Năm A và C, đọc Tin Mừng của thánh Matthêu và thánh Luca, kể lại sự kiện này khá dài, kể rõ ba chước cám dỗ và ba lần Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ. Năm nay năm B, đọc Tin Mừng của thánh Marcô, kể lại rất vắn tắt, chỉ cho biết: “Thần khí thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa. Người ở đó 40 ngày, chịu Satan cám dỗ”. Tuy thánh Marcô không trực tiếp cho biết Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan, đã xua đuổi nó, nhưng suốt sách Tin Mừng, thánh Marcô sẽ cho thấy Chúa Giêsu đi tới đâu thì Satan bị đánh bại đến đấy. Giáo hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng này để mời gọi chúng ta chiêm ngắm hình ảnh Chúa Giêsu như kiểu mẫu và bảo đảm cho chúng ta trong cuộc chiến đấu với Satan và những cám dỗ của nó.

Đời người được ví như một đấu trường, ở đó con người phải luôn chiến đấu: chiến đấu với ngoại cảnh, chiến đấu với nhiều thứ, nhất là chiến đấu với chính mình. Tại sao vậy? Bởi vì mang thân phận con người, ai ai cũng bị giằng co, xâu xé bởi hai khuynh hướng mâu thuẫn nhau: một cái kéo con người lên và một cái lôi con người xuống. Hai khuynh hướng đó đều nội tại trong con người, khiến cho nội tâm con người trở thành chiến trường, đôi khi rất cam go làm con người đau khổ.

Khuynh hướng đi lên là khuynh hướng căn bản của ý chí con người. Ai cũng muốn mình là người tốt, ai cũng muốn mình làm điều thiện, chứ không ai muốn mình xấu hay làm điều ác cả. Nhưng muốn là một chuyện, còn có làm điều tốt hay không lại là chuyện khác. Thánh Phaolô đã nói: “Tôi không hiểu nổi việc tôi làm: điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm”. Vì thế, muốn đi lên, con người phải cố gắng, phải dùng chính sức mạnh của mình, phải hao tổn năng lực của mình.

Còn khuynh hướng đi xuống cũng ở trong nội tâm, nhưng kể từ khi nguyên tổ phạm tội, khuynh hướng này đã được ma quỉ tăng cường làm cho mạnh lên, khiến con người muốn đi lên phải chiến đấu rất vất vả. Còn muốn đi xuống thì chẳng cần phải cố gắng gì cả, chỉ cần buông thả, không cố gắng nữa là tự động đi xuống. Chính vì thế làm thiện khó hơn làm ác rất nhiều. Và cái lực hấp dẫn mọi người làm ác hoặc không làm thiện là lực của ma quỉ.

Đúng vậy, đàng sau bối cảnh chiến trường mà con người phải chiến đấu, ẩn hiện chập chờn một nhân vật rất nguy hiểm mà Kinh thánh gọi là kẻ thù, ấy là satan. Satan là quỉ, nó là “xếp xòng” của loài quỉ. Satan hay quỉ trước kia là các thiên thần, nhưng vì làm loạn cùng Thiên Chúa nên bị tống cổ ra khỏi thiên đàng và bị đày xuống hỏa ngục. Từ ngày thất thế, Satan và bè lũ trở nên những kẻ thù nguy hại của loài người. Chúng chuyên môn áp đảo, quấy phá để làm cho người ta hư hỏng theo chúng. Chúng đã làm hư hỏng biết bao nhiêu người. Chúng đã du nhập vào trần gian đủ thứ gian tham, lừa lọc, tội ác, bất công và những lối sống lố bịch, nham nhở, nhăng nhít… Tất nhiên có người sẽ nói: có thấy Satan hay quỉ nào công khai làm những chuyện đó đâu? Đúng thế, ngày nay chúng ta ít được chứng kiến những vụ quỉ ám nhãn tiền mà Kinh Thánh đã ghi lại. Ngày nay rất ít trường hợp Satan hiện nguyên hình trực tiếp tác oai tác quái nữa, nhưng gián tiếp điều khiển trong bóng tối. Đó là một sức mạnh vô hình luôn tác động trong tâm trí chúng ta: lôi kéo, xúi bẩy chúng ta đến chỗ hành động xấu xa, tội lỗi. Chiến thuật hay phương thế ma quỉ sử dụng là cám dỗ. Chúng không kiêng nể ai hay buông tha ai. Vì thế, không ai thoát khỏi cám dỗ của chúng.

Theo nghĩa thông thường chúng ta quen hiểu, cám dỗ là dịp phạm tội. Bị cám dỗ là khi chúng ta thấy mình hướng chiều về một điều ưa thích thuộc phạm vi cấm đoán. Chẳng hạn: một vẻ quyến rũ từ bên ngoài lôi cuốn, một sự xôn xao, rạo rực, thèm khát từ bên trong thúc đẩy; một âm mưu hay thủ đoạn bày vẽ ra trong trí khôn thúc đẩy chúng ta hành động; một sự nhắm mắt làm liều, một hành động nổi loạn của toàn thân từ chối ép mình trong trật tự… Đó là những phát hiện của cơn cám dỗ. Như vậy, bị cám dỗ, bất cứ là cám dỗ về phương diện gì, không phải là tội. Khi chúng ta bị cám dỗ thì chỉ có nghĩa là chúng ta bị thử thách thôi. Và chỉ khi nào chúng ta bị thua chước cám dỗ thì mới có tội.

Đành rằng ma quỉ cám dỗ chúng ta. Nhưng chúng chỉ là kẻ thù nguy hiểm thứ hai sau xác thịt của chúng ta: thế gian, ma quỉ và xác thịt. Đó là ba kẻ thù ghê gớm. Ma quỉ chỉ là kẻ xách động, cám dỗ, thúc đẩy, xúi giục chúng ta phạm tội, nhưng chúng có gặp được sự đồng tình đồng ý của chúng ta hay không? Tức là chúng ta có chấp nhận và chiều theo chước cám dỗ hay không? Nói khác đi, ma quỉ chỉ có thể cám dỗ được chúng ta khi chúng ta có nhu cầu, ham thích, đam mê đối với những thực tại trần gian. Chúng ta có làm chủ được những nhu cầu thể chất ấy chúng ta mới dễ dàng thắng lướt được những cám dỗ, và không để cho khuynh hướng xấu làm chủ mình. Từ ngày có trí khôn cho đến giờ, ai trong chúng ta cũng đều có kinh nghiệm về việc cám dỗ. Chúng ta đã bị cám dỗ nhiều lần. Có lần chúng ta đã vượt qua được, và nhiều lần đã bị vấp ngã. Đó chính là thân phận của con người yếu hèn và bất toàn. Không bao giờ vấp ngã, đó là chuyện khác thường, đặc biệt, vô cùng tạ ơn Chúa. Còn hay bị vấp ngã, đó là chuyện bình thường. Và điều quan trọng là chúng ta phải ăn năn sám hối ngay.

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận