Các bài suy niệm Chúa Nhật Lễ Lá

Đăng lúc: Thứ năm - 22/03/2018 22:43 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

 

CHÚA NHẬT LỄ LÁ – Năm B

Lời Chúa: Mc 11, 1-10; Is 50, 4-7; Pl 2, 6-11; Mc 14,1 – 15,47

———

 

DẪN LỄ

CHÚA NHẬT LỄ LÁ

VÀ TAM NHẬT THÁNH

 

CHÚA NHẬT LỄ LÁ

TƯỞNG NIỆM CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA

Is 50, 4-7; Pl 2, 6 -11; Mt 26,14-27,66

 

 

I. Nghi thức

Nghi thức trong Thánh lễ hôm nay, gồm:

- Làm phép và rước lá.

- Kết thúc phần rước lá là Lời nguyện Nhập lễ.

- Phụng vụ Lời Chúa với hai bài đọc và bài Thương Khó.

- Phụng vụ Thánh Thể.

II. Lời dẫn:

1. Dẫn đầu lễ

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,

Hôm nay, cùng với Giáo Hội chúng ta bước vào Tuần Thánh bằng việc cử hành phụng vụ Chúa Nhật Lễ Lá. Phụng vụ hôm nay gồm hai phần : cử hành nghi thức tưởng nhớ Chúa Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem và Thánh lễ tưởng niệm hy tế của Người.

Chúa Giêsu khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem như là dấu chỉ báo trước chiến thắng vinh quang chung cuộc sau khi Người đã đi trọn con đường Khổ Nạn đểø hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua.

Vì thế, cử hành phụng vụ hôm nay vừa tung hô Chúa Giêsu khải hoàn, vừa mời gọi chúng ta can đảm bước theo Chúa Giêsu trên con đường Người đã đi xưa.

Giờ đây chúng ta cùng tham dự Nghi thức làm phép và rước lá. Chúng ta cùng hân hoan tung hô Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế và hăng hái theo Người vượt qua những khổ đau để tiến vào vinh quang Phục sinh.

2. Nghi thức làm phép lá:

- Sau lời mời gọi của chủ tế, cuộc rước bắt đầu. Người dẫn lễ đọc:

Dân Do Thái xưa tay cầm cành lá đi đón và tung hô Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Con Vua Đavít. Hôm nay, trong tâm tình khai mạc Tuần Thánh, cộng đoàn chúng ta cùng làm lại cử chỉ đó để tôn vinh Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, là Vua vinh hiển, chính Người là Đấng Cứu Thế của nhân loại. “Vạn tuế Con Vua Đavít ! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa”.

- Ca đoàn hát bài phù hợp:

3. Phụng vụ Lời Chúa:

* Bài đọc 1: Is 50, 4-7

Tiên tri Isaia mô tả người tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa, tuy bị nhục mạ nhưng vẫn hiên ngang can đảm chấp nhận. Đó là lời tiên báo về cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu Kitô trong thời Tân Ước.

* Bài đọc 2: Pl 2, 6 -11

Mầu nhiệm Cứu Độ được thực hiện nơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng tự hạ và vâng phục Thiên Chúa cho đến chết trên Thập giá. Người trở nên gương mẫu cho tất cả những ai muốn sống hiệp thông trong ơn Cứu Độ.

4. Phụng vụ Thánh Thể như thường:

 

ĐẠI TAM NHẬT VƯỢT QUA

--------------------

THỨ NĂM TUẦN THÁNH

THÁNH LỄ TIỆC LY

Xh 12, 1-8. 11-14; 2: Cor 11,23-26; Ga 13,1-15

 

I. Nghi thức:

Nghi thức trong Thánh lễ chiều nay, gồm:

- Nghi thức nhập lễ và phần Phụng vụ Lời Chúa.

- Nghi thức rửa chân.

- Phần Phụng vụ Thánh Thể.

- Nghi thức kiệu Mình Thánh và lột khăn bàn thờ.

II. Lời dẫn:

1. Dẫn đầu lễ:

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,

Với Thánh lễ tưởng niệm bữa Tiệc Ly của Chúa Giêsu chiều nay, Giáo Hội bắt đầu tuần Tam Nhật Thánh. Trong Thánh lễ này, Giáo Hội tưởng niệm việc Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể cùng với chức Linh mục và ban giới răn mới: giới răn yêu thương.

Trong tâm tình tạ ơn sâu xa vì quà tặng cao quý mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta là chính Mình và Máu Thánh Người. Giờ đây, chúng ta cùng hiệp ý thờ lạy, tôn vinh và cảm tạ trong thánh lễ này.

2. Phụng vụ Lời Chúa:

* Bài đọc 1: Xh 12,1-8.11-14

Bài trích sách Xuất Hành chúng ta sắp nghe, cho thấy lễ Vượt Qua của người Do Thái là hình ảnh báo trước lễ Vượt Qua của Kitô giáo, trong đó Chúa Kitô, Chiên Vượt Qua của Thiên Chúa đã chịu sát tế để đem lại ơn cứu chuộc cho toàn thể nhân loại.

* Bài đọc 2: 1Cor 11,23-26

Trong bài đọc chúng ta sắp nghe, Thánh Phaolô tường thuật lại việc Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly. Ngài nhấn mạnh Hy tế Thập giá của Chúa chính là hy tế cứu độ cho toàn thể nhân loại.

3. Nghi thức Rửa Chân:

Giờ đây là Nghi Thức Rửa Chân.

Cha chủ tế làm lại cử chỉ chính Chúa Giêsu đã làm nơi phòng Tiệc Ly năm xưa. Rửa chân là công việc của người đầy tớ làm cho chủ. Chúa Giêsu là Chúa, là Chủ nhưng đã nhận lấy công việc thấp hèn của một người tôi tớ. Qua cử chỉ này Chúa Giêsu đã cụ thể hóa giới răn mới là yêu thương phục vụ trong khiêm tốn. Chính Con Thiên Chúa đã hạ mình trở nên hiến tế cho nhân loại. Người để lại mẫu gương tuyệt hảo cho những ai muốn tiếp bước theo Người.

4. Lời Nguyện Chung:

Mời cộng đoàn đứng dâng Lời Nguyện Chung.

5. Phụng vụ Thánh Thể:

6. Kiệu mình thánh chúa sang bàn thờ phụ:

Kính thưa cộng đoàn,

Giờ đây, chúng ta cùng bắt đầu nghi thức kiệu Mình Thánh Chúa sang bàn thờ phụ, nghi thức này nói lên việc Chúa Giêsu, trong nỗi lòng xao xuyến và buồn thảm, cùng các tông đồ từ Nhà Tiệc Ly đi sang vườn Cây Dầu để cầu nguyện và đón chờ cuộc Vượt Qua cứu độ nhân loại, theo thánh ý Chúa Cha. Vì vậy, chúng ta cùng tham dự và hướng lòng về đoàn kiệu, để cùng với Chúa Giêsu đi vào giờ cầu nguyện với Ngài trước sứ vụ Thiên Chúa Cha trao phó.

 

THỨ SÁU TUẦN THÁNH

TƯỞNG NIỆM CUỘC THƯƠNG KHÓ

CỦA CHÚA KITÔ

Is 52,13-53,12; Dt 4,14-16;5,7-9; Ga 18,1-19,42

 

 

I. Nghi thức:

Nghi thức chiều nay gồm:

- Phụng vụ Lời Chúa:

+ Hai bài đọc và bài Thương khó

+ Lời nguyện chung (gồm 10 lời nguyện)

- Tôn kính Thánh Giá

- Rước lễ

II. Lời dẫn:

1. Lời dẫn đầu:

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,

Theo truyền thống Phụng vụ, hôm nay và ngày mai Giáo Hội không cử hành Bí tích nào cả. Nhưng chiều nay, Giáo Hội đặc biệt mời gọi chúng ta cùng họp nhau để cử hành tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Giêsu.

Nghi thức Phụng vụ chiều nay gồm ba phần:

- Phụng vụ Lời Chúa

- Tôn kính Thánh Giá

- Và rước lễ

Với phần Phụng vụ Lời Chúa, đặc biệt qua bài Thương Khó, Giáo Hội tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Giêsu, mà đỉnh cao là cái chết của Ngài trên Thập giá vì nhân loại chúng ta. Cùng với các lời nguyện chung được đọc cách trọng thể liền sau đó, Giáo Hội cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa và cho các nhu cầu khác của nhân loại, nhằm thể hiện ơn cứu chuộc mà Chúa Giêsu đã đem đến cho nhân loại qua cái chết của Người. Với phần tôn thờ Thánh giá, Giáo Hội biểu lộ lòng tôn kính đối với Đấng đã thực hiện ơn cứu rỗi cho nhân loại và kêu mời tất cả mọi người quy phục Thánh giá Chúa Kitô như là giá cứu chuộc nhân loại. Và sau cùng, qua việc rước lễ, Giáo Hội giúp các tín hữu tham dự trọn vẹn vào hy tế Thập giá của Chúa Kitô.

Tham dự các cử hành phụng vụ chiều nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta đi sâu vào mầu nhiệm Thập giá và sự chết của Chúa Kitô. Giờ đây, xin kính mời cộng đoàn đứng bắt đầu buổi cử hành phụng vụ.

2. Phụng vụ Lời Chúa:

- Khi chủ tế phủ phục, người dẫn lễ đọc:

Cùng với chủ tế chúng ta hồi tâm và cầu nguyện.

* Bài đọc 1: Is 52, 1-53, 12

Trong bài đọc mà chúng ta sắp nghe, tiên tri Isaia mô tả về Đấng Cứu Thế, qua hình ảnh người tôi tớ đau khổ, nhờ Người mà chúng ta được chữa lành và được hòa giải với Thiên Chúa.

* Bài đọc 2: Dt 4, 14-16; 5, 7-9

Tác giả thư gởi tín hữu Do-thái trong bài đọc sau đây, trình bày Đức Kitô là vị Thượng tế luôn cảm thông với tất cả những ai gặp gian truân sầu khổ. Người hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa, nên lời cầu bầu của Người cho chúng ta được Thiên Chúa chấp nhận.

* Trước lời nguyện chung

Xin mời cộng đoàn đứng, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin cho các nhu cầu của Giáo Hội và nhân loại.

3. Tôn kính Thánh Giá:

* Dẫn vào nghi thức:

Giờ đây, với lễ nghi tôn kính Thánh Giá, Giáo Hội biểu lộ lòng tôn thờ Chúa Kitô, Đấng đã dùng cái chết trên Thập giá để cứu chuộc nhân loại. Với tất cả niềm tin yêu cảm mến, chúng ta cùng sốt sắng tham dự.

* Đọc suy niệm khi cộng đoàn hôn kính Thánh Giá (có thể đọc xen kẽ với bài hát):

1. Khi suy tôn Thánh giá, chúng ta không suy tôn hai thanh gỗ xếp hình chữ thập, nhưng là chúng ta suy tôn chính Đấng chịu đóng đinh vào Thập giá. Người là Đấng vô tội, là Con Thiên Chúa làm người, là Đấng yêu mến và hiến mạng sống vì chúng ta (Gal 2, 20). Chúng ta không suy tôn đau khổ và cái chết, nhưng chúng ta suy tôn Tình Yêu: Tình yêu của Cha dám trao cho thế gian Người Con Một duy nhất. Tình yêu của Con dám sống hết mình cho Cha và anh chị em. Đau khổ và cái chết là cái giá phải trả cho một Tình Yêu hiến mạng sống vì người mình yêu.

2. Phải chăng Thập giá là một thất bại của Tình Yêu. Quà tặng của Cha bị loài người từ khước: Người Con yêu dấu bị làm nhục và đóng đinh. Quà tặng của Con bị loài người coi thường. Con chẳng đáng giá bằng tên sát nhân Baraba. Thiên Chúa bị coi như thất bại vì quá khiêm tốn. Ngài để cho con người có tự do chối từ. Ngài đau đớn lặng thinh khi Con Ngài hấp hối.

3. Thế nhưng Thập giá lại là một thành công của Tình Yêu. Nơi Thập giá tội ác của con người lên đến cao điểm. Cũng nơi Thập giá Tình yêu của Thiên Chúa lên đến tột cùng, và Tình Yêu đã thắng tội ác, sự sống thắng sự chết, ánh sáng thắng bóng tối và tha thứ thắng hận thù. Thiên Chúa không đưa Đức Giêsu xuống khỏi Thập giá, nhưng đưa Người ra khỏi nấm mồ hiu quạnh. Và cũng từ đó thất bại của Thập giá đã biến thành chiến thắng. Thập giá trở thành thánh giá đem lại sự sống đời đời.

4. Cha thánh Gioan Maria Vianney đã nói: "Thập giá là quyển sách cao siêu nhất, chỉ có những ai yêu mến, nghiền ngẫm cuốn sách này thì mới thực sự là người thông thái".

Thập giá của Chúa Giêsu là quyển sách cao siêu nhất bởi vì đó là dấu chứng cao cả nhất của Tình Yêu: "Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người thí mạng vì người mình yêu". Từ một hình cụ độc ác mà con người nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu đã biến chúng trở thành dấu chứng của Tình Yêu: Tình yêu vâng phục đối với Chúa Cha và Tình Yêu trao hiến cho cả nhân loại.

Khi suy tôn Thánh Giá Chúa Kitô, chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa vì đã cho chúng ta đi vào Mầu Nhiệm của Tình Yêu. Trong Mầu Nhiệm đó cuộc sống chúng ta không còn bị đè bẹp dưới sức nặng của những đau khổ, nhưng luôn mang một ý nghĩa mới, ý nghĩa Tình Yêu.

4. Hiệp lễ:

Kính thưa cộng đoàn,

Chúng ta vừa cùng nhau tham dự nghi thức tôn thờ Thánh Giá Chúa Kitô, giờ đây Giáo Hội mời gọi chúng ta sốt sắng tham dự phần hiệp lễ, để qua đó chúng ta được tham dự trọn vẹn vào Hy Tế Cứu Độ của Chúa Kitô.

 

THỨ BẢY TUẦN THÁNH

CANH THỨC VƯỢT QUA

St 1,1 -2,2; Xh 14,15- 15,1a; Is 55, 1-11; Ed. 36,16-17a.18-28; Rm 6,3-11; Mt 28,1-10

 

I. Nghi thức:

Phụng vụ đêm Vọng Phục Sinh gồm 4 phần:

1. Làm phép lửa mới và rước nến Phục sinh

2. Phụng vụ Lời Chúa

3. Phụng vụ Thánh tẩy

4. Phụng vụ Thánh Thể

II. Lời dẫn:

1. Một vài lưu ý Cộng đoàn (Đọc trước khoảng 5 phút)

Kính thưa Cộng đoàn,

Trong buổi cử hành Canh Thức Vọng Phục sinh này, xin được lưu ý cộng đoàn khi rước nến Phục sinh và trong khi lặp lại lời tuyên hứa của Bí Tích Rửa Tội, xin Cộng đoàn thắp sáng nến của mình từ chính ngọn lửa của nến Phục sinh.

2. Dẫn đầu lễ:

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,

Theo truyền thống phụng vụ, đêm nay Canh Thức, đêm mà toàn thể Giáo hội hân hoan cử hành mầu nhiệm Chúa Kitô Phục sinh.

Phụng vụ Đêm Vọng Phục sinh gồm 4 phần:

- Phụng Vụ làm phép Lửa mới và Nến Phục sinh.

- Phụng Vụ Lời Chúa.

- Phụng Vụ Thánh tẩy.

- Và sau cùng là Phụng Vụ Thánh Thể.

Bốn phần này liên hệ chặt chẽ với nhau: khi Ánh Sáng của Nến Phục sinh bừng lên, tượng trưng cho Chúa Kitô chiến thắng bóng đêm tội lỗi, Giáo Hội suy niệm các việc kỳ diệu Thiên Chúa đã làm cho dân ngay từ  đầu. Tin tưởng vào lời hứa của Thiên Chúa nơi Đức Kitô, những người anh chị em dự tòng được tái sinh trong Bí tích Thánh tẩy, và toàn thể dân Chúa được mời gọi vào bàn tiệc Thánh Thể của Đức Kitô.

Giờ đây, trong tâm tình hân hoan cảm tạ, chúng ta cùng bước vào phần thứ nhất của buổi canh thức:

3. Làm phép Lửa mới và kiệu nến Phục sinh:

Qua việc làm phép lửa mới và kiệu nến Phục sinh, Giáo Hội tuyên xưng Chúa Kitô chính là Ánh Sáng muôn dân, là Đấng phá tan bóng đêm tội lỗi đang bao trùm nhân loại, Đấng giải thoát chúng ta khỏi tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống đời đời.

- Chủ tế chào dân chúng như thường lệ

- Làm phép lửa (chuẩn bị: cây bút bi, 5 hạt hương)

- Rước kiệu nến Phục sinh.

(Khi chủ tế hát “Ánh Sáng Chúa Kitô” lần thứ hai mới châm nến cho cộng đoàn từ nến Phục sinh, và lần thứ ba mới bật sáng các điện)

* Công bố Tin Mừng Phục Sinh: Khi cộng đoàn đã vào nhà thờ tương đối đông đủ, người dẫn lễ đọc

Giờ đây, chúng ta cùng hân hoan tán dương Thiên Chúa, Đấng đã thực hiện những việc lạ lùng cho nhân loại qua Chúa Kitô. Để biểu lộ niềm hân hoan này, chúng ta cùng hướng về cây nến Phục sinh và cất lời ca tụng Chúa Kitô, Ánh Sáng vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta.

(Hát Exultet)

4. Phần Phụng vụ Lời Chúa: Sau khi công bố Tin Mừng Phục sinh, người dẫn lễ đọc:

Sau đây, chúng ta sẽ được nghe các trình thuật về những việc lạ lùng Thiên Chúa đã làm cho dân Ngài từ xa xưa. Khi nghe những bài sách Thánh này, chúng ta hợp với anh chị em dự tòng trên khắp thế giới, sống giai đoạn giáo huấn cuối cùng trước khi lãnh các Bí Tích khai tâm Kitô giáo.

- Các bài đọc Cựu ước có thể đọc hết bảy bài nhưng vì lý do mục vụ có thể đọc những bài được gợi ý sau đây.

- Sau lời mời gọi của chủ tế, người dẫn lễ đọc:

Mời cộng đoàn ngồi.

* Bài đọc 1: St 1,1 -2,2

Bài trích sách Sáng Thế chúng ta sắp nghe, trình bày việc Thiên Chúa sáng tạo trời đất và loài người. Dưới mắt Ngài, “mọi sự đã được tạo thành: thật là tốt đẹp”.

- Sau bài đọc 1, hát đáp ca

- Chủ tế đọc lời nguyện (đứng)

* Bài đọc 3: Xh 14,15- 15,1a

Lời Chúa trong sách Xuất hành, tường thuật việc dân Do Thái bình an vượt qua Biển Đỏ khô cạn. Đây chính là hình ảnh cuộc giải thoát mới mà Chúa Kitô sẽ mang lại cho mỗi người chúng ta.

- Sau bài đọc 3, hát đáp ca

- Chủ tế đọc lời nguyện (đứng)

* Bài đọc 5: Is 55, 1-11

Trong bài đọc chúng ta sắp nghe, tiên tri Isaia loan báo một thời kỳ mới: Thời kỳ Thiên Chúa sẽ ký kết một giao ước vĩnh cửu, với những hồng ân mà Ngài đã hứa cho nhà Đavít.

- Sau bài đọc 5, hát đáp ca

- Chủ tế đọc lời nguyện (đứng)

* Bài đọc 7: Ed. 36,16-17a.18-28

Vì tội lỗi của mình, dân Chúa đang phải sống lưu vong tản mác giữa các dân ngoại. Nhưng Thiên Chúa khơng quên giao ước của Người, Người hứa sẽ quy tụ họ về, thanh tẩy họ, ban cho họ một trái tim mới, đặt Thần Khí của Người trong họ. Chúa Ki-tô phục sinh thực hiện hòan tòan lời hứa đó: Người kêu gọi ta từ khắp muơn dân, dội nước Thánh Tẩy trên ta, để tha tội và ban ơn Thánh Thần, nhờ đó ta được một trái tim mới, để có thể gọi Thiên Chúa là Cha. “Ta sẽ đổ trên các ngươi nước trong sạch và sẽ ban cho các ngươi quả tim mới”.

- Sau bài đọc 7, hát đáp ca

- Chủ tế đọc lời nguyện (đứng)

(Sau bài đọc cuối cùng trích trong sách Cựu ước, cùng với Thánh Vịnh và lời nguyện, thì đốt nến bàn thờ, Cha chủ tế xướng Kinh Vinh Danh, mọi người cùng đọc (hát), trong lúc đó rung chuông theo thói quen địa phương).

* Kinh Vinh Danh

- Rung chuông

- Trưng bông và thắp các nến trên bàn thờ

- Sau kinh Vinh Danh, chủ tế đọc lời nguyện nhập lễ.

* Bài Thánh Thư: Rm 6, 3-11

Bài đọc chúng ta sắp nghe ghi lại lời nhắn nhủ của Thánh Phaolô với mỗi người chúng ta: nhờ Bí Tích Thánh tẩy, chúng ta cùng chết và sống lại với Chúa Kitô.

- Dứt bài Thánh Thư, mọi người đứng, Chủ tế long trọng xướng ba lần “Alleluia, và mọi người lặp lại sau mỗi lần.

- Sau đó, hát đáp ca “Hãy cảm tạ Chúa – Alleluia”. Cộng đoàn vẫn đứng.

- Hát xong, nếu có thầy Phó tế, thầy Phó tế xin phép lành và ra đọc Phúc Âm ngay, không có câu xướng trước Phúc Âm, không mang đèn hầu, chỉ mang hương lửa.

- Cộng đoàn ngồi, Chủ tế giảng.

5. Phần Phụng vụ Thánh tẩy: Sau bài giảng, khi giúp lễ đang chuẩn bị giếng Thánh tẩy, người dẫn lễ đọc

Giờ đây, với cây nến được thắp sáng từ ngọn nến Phục sinh trong tay, chúng ta long trọng lặp lại lời tuyên hứa khi chịu Phép Thánh tẩy và tuyên xưng lại đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Khi tuyên xưng đức tin như thế, chúng ta liên kết với các anh chị em dự tòng lãnh nhận các bí tích khai tâm trong đêm nay, để cùng với họ, chúng ta làm chứng cho mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô trong cuộc sống hằng ngày.

Mời cộng đoàn đứng.

- Chủ tế đọc lời nguyện làm phép nước.

- Chủ tế kêu gọi lặp lại lời tuyên hứa Phép Thánh tẩy.

- Đi rảy nước Thánh (hát : Tôi đã thấy nước....)

- Sau đó, giúp lễ cất nước đã làm phép, Chủ tế trở về đọc

* Lời Nguyện Chung:

6. Phần Phụng vụ Thánh Thể:

Mời Cộng đoàn ngồi.

Giờ đây, trong tâm tình hân hoan mừng Chúa Phục sinh, chúng ta bước vào phần Phụng Vụ Thánh Thể.

 

Chúa đã sống lại thật rồi. Alleluia!

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang

 

 

Mục lục

1. Con đường theo Chúa  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Ngã rẽ cuộc đời  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Nhiệt thành của thập giá (Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm)

4. Ai là bạn của tôi  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

5. Bước vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi,DCCT)

6. Thiên Chúa tin tưởng con người (Bông Hồng Nhỏ, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

7. Ngài đã luôn  (Anna Cỏ May, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

8. Con đường thập giá  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

9. Suy niệm Lễ Lá_B  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

10. Suy niệm Lễ Lá_B.  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

11. Cuộc thương khó mang tên con người (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

12. Bóng tối và niềm tin (Lm. GB. Trần Văn Hào,SDB)

13. Con đường thập giá. (Lm. Đaminh Trần Quang Hiền, SDB)

14. Lừa con chưa ai cưỡi bao giờ  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

15. Chuyến khổ  (Trầm Thiên Thu)

16. Thật, người này là con Thiên Chúa  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

17. Vác thập giá với Chúa Giêsu  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

18. Sự thương khó  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

19. Lòng người thay trắng đổi đen (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

20. Vài nghịch lý trong cuộc đời Đức Giêsu theo thánh Marcô (Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu)

21. Máu Con Chiên (Lm. Nguyễn Thái)

22. Tham dự vào cuộc vượt qua của Chúa  (Lm. Đinh Lập Liễm)

 

 

CON ĐƯỜNG THEO CHÚA

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Trong ngôn ngữ thông thường, người ta vẫn nói: tin là theo Chúa, là theo Đạo. Chữ “theo” ở đây diễn tả một hành trình dài, một hướng đi cho cả cuộc đời. Con đường theo Chúa bao gồm vui mừng và đau khổ đan xen. Giữa những đau khổ gian nan, người theo Chúa luôn phải vững vàng. Trong ngày khai mạc Tuần Thánh, cùng với anh chị em tín hữu, tôi được mời gọi lắng đọng tâm hồn để nhìn lại con đường theo Chúa của tôi như thế nào.
 
Trong hành trình theo Chúa, nhiều khi tôi hiểu sai sứ mạng của Người: Người dân thành Giêrusalem vui mừng khi Chúa tiến vào thành thánh. Họ nghĩ Chúa Giêsu chính là vua Đavít ngày xưa đã tái xuất hiện. Họ tung hô vui mừng, cành lá phất phới trong tay, vì nghĩ dân tộc mình sắp được giải phóng khỏi ách đô hộ của người La Mã. Chính vì thế, dân thành ùa ra đường, hòa mình vào đám rước và thể hiện niềm vui hết mình. Họ nhìn Đức Giêsu thuần túy với cái nhìn chính trị. Cái nhìn lệch lạc này đôi khi cũng là cái nhìn của tôi. Nhiều lúc tôi chỉ coi Chúa như một nhân vật lịch sử xa xưa, hoặc như một nhà cách mạng giải phóng dân nghèo. Chính vì vậy, tôi không được gặp Chúa trong đời sống nội tâm, không được nghe tiếng Chúa nơi sâu thẳm của tâm hồn và không thực hiện giáo huấn của Chúa trong cuộc sống cụ thể. Đôi khi tôi cũng giống như những người dân thành Giêrusalem tung hô: “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến!”, nhưng lòng tôi trống rỗng khô khan. Lời tung hô ấy chỉ giống như những khẩu hiệu vô hồn mà tôi vẫn thấy giăng ngoài đường phố, chẳng hề tác động những người đi qua. Ngước nhìn thập giá, tôi thấy Chúa khẳng định với tôi, Ngài là Thiên Chúa tối cao. Giống như viên đại đội trưởng nọ, tôi tuyên xưng: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39).
 
Trong hành trình theo Chúa, nhiều khi tôi chán nản. Theo Chúa là con đường dài thăm thẳm, không giống như một nghề nghiệp hoặc một chức danh ngoài đời. Trên con đường dài thăm thẳm này, nhiều lúc tôi nản lòng, nhất là những lúc đối diện với những khó khăn nghiệt ngã. Biết bao lần tôi đã hỏi: “Lạy Chúa, Chúa ở đâu trong những lúc con gặp gian nan khốn khó?”. Biết bao lần đức tin của tôi xao xuyến băn khoăn, và tôi đã bị cám dỗ để tin vào những thần linh khác không phải Chúa. Tôi cũng luôn bị cám dỗ rằng Chúa không hiện hữu, để tha hồ tự do mà làm những gì mình thích. Nản lòng trước thử thách, đó cũng là cơn cám dỗ mà Chúa Giêsu đã trải qua. Người đã cầu nguyện trong vườn Cây Dầu: “Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà hãy làm điều Cha muốn” (Mc 14,36). Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu vừa diễn tả sự lo sợ của Người trước thập giá, vừa nói lên lòng hiếu thảo và sẵn sàng tuân phục ý Chúa Cha. Lời cầu nguyện này cũng giúp tôi có thêm nghị lực, để tiếp bước theo Chúa mặc dù những chướng ngại gian nan trong cuộc đời.
 
Trong hành trình theo Chúa, nhiều khi tôi phản bội. Những người Do Thái tung hô Chúa khi Người vào thành thánh Giêrusalem, ngay sau đó đã thay lòng đổi dạ. Những cánh tay giơ lên để tung hô ca ngợi Chúa, rồi cũng chính những cánh tay ấy lại giơ lên “biểu quyết” lên án tử cho Người. Trước câu hỏi của Philatô, những người Do Thái đã nhiều lần hô to: “Đóng đinh nó vào thập giá”. Họ đã đồng thuận việc thả Baraba để giết Chúa Giêsu. Người Do Thái đã căm ghét Chúa Giêsu hơn một kẻ phiến loạn. Nhận mình là Kitô hữu, nhiều khi tôi đã sống ngược lại với danh nghĩa cao quý này. Lối sống và cách ứng xử của tôi đã làm cho nhiều người hiểu sai lý tưởng Kitô giáo, để rồi hình ảnh Giáo Hội của Chúa Kitô trở nên biến dạng nơi cuộc đời của tôi. Nhiều khi tôi giống như Phêrô, lo sợ trước câu hỏi của một cô nữ tỳ, đã chối phăng Thày mình. Hoặc là, tôi giống như các môn đệ, sợ hãi chạy trốn khi Thày mình bị bắt, hay tôi mê ngủ khi Chúa bước vào cuộc khổ nạn đau thương. Những ngày Tuần Thánh này mời gọi tôi hãy “trở về” để củng cố lòng trung thành với Chúa, kiên định và gắn bó với Người, kể cả những lúc tăm tối gian nan.
 
Lễ nghi của Tam nhật Vượt qua không phải là một vở kịch, nhưng là một nghi thức gợi lại cho chúng ta cái chết của Chúa, và tình yêu thương của Người dành cho chúng ta qua cái chết này. Đó là cái chết mang ơn cứu độ cho con người. Cuộc đời của Chúa Giêsu không dừng lại ở nấm mồ, nhưng Chúa đã phục sinh sau khi trải qua sự chết. Phụng vụ của Giáo Hội trong những ngày này nhắc nhớ tôi hãy lặng thinh suy niệm, và chân thành nhìn lại mối tương quan giữa bản thân mình với Đấng chịu đóng đinh, qua đó, tôi thực sự là môn đệ của Đức Giêsu, trung thành tiếp bước theo Người.

Về mục lục

.

NGÃ RẼ CUỘC ĐỜI

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Thánh lễ hôm nay rất ý nghĩa cho giới trẻ. Trong ngày Lễ Lá, biết bao thanh thiếu niên ra đón mừng Chúa. Cả một bầu khí trẻ trung, hăng say, kính mến. Sự trẻ trung bột phát qua việc cầm cành lá, qua lời tung hô đón chào Chúa. Thật là một bầu khí cuồng nhiệt. Giới trẻ Do thái lúc ấy biểu lộ lòng kính mến thật hồn nhiên, thật dễ thương. Không khác gì giới trẻ chúng ta hôm nay.

Nhưng thánh lễ hôm nay cũng khiến ta phải suy nghĩ không ít vì những biến cố quá trái ngược. Chúa vừa vinh hiển vào thành chưa được bao lâu đã phải tủi nhục chết trên thập giá. Tại cổng thành có biết bao người ra chào đón tung hô, nhưng trên Núi Sọ chẳng còn mấy người theo Chúa. Từ chúa nhật Lễ Lá đến thứ Sáu tuần thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ đường, đi ngang, về tắt. Tại sao thế? Ta hãy lần theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ cuộc đời. Có ba ngã rẽ tiêu biểu.

Ngã rẽ của Giuđa. Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt 3 năm Chúa đi rao giảng. Ông còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quan trọng: nắm giữ tài chánh. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông vắng mặt. Ông đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ đuổi theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền.

Ngã rẽ của Phêrô. Phêrô là môn đệ rất thân thiết của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông ở bên Chúa. Nhưng ngày thứ sáu tuần thánh, không thấy ông đâu. Ông đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng và hưởng thụ. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Chúa thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa.

Ngã rẽ của đám đông. Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười. Đám đông đã rẽ sang lối nào? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án.

Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Nhưng người ta thay lòng đổi dạ do tác động của tiền bạc, của hưởng thụ, của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy hiểm.

Những gì đã xảy ra cho Giuđa, cho Phêrô và cho đám đông năm xưa vẫn có thể xảy ra cho ta hôm nay. Làm sao để ta luôn đi trên đường theo Chúa và trung thành với Chúa? Thưa hãy Sống Lời Chúa. Năm nay (2005), Hội đồng Giám mục Việt nam đề nghị chúng ta hãy lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam. Trong thư chung năm 2005, HĐGM đã nhắn nhủ riêng các bạn trẻ:

“Các bạn trẻ sẽ là chủ nhân của tương lai, là niềm hy vọng của Giáo Hội. Trước bao nhiêu khuynh hướng, trào lưu và thần tượng của thời đại, các bạn không được phép sai lầm khi lựa chọn tiêu chuẩn hướng dẫn hành động. Lời Chúa là Ánh Sáng duy nhất giúp các bạn trong sự lựa chọn có tính quyết định này” (Thư chung 2005, 9).

Thật là trùng hợp. Ngay lúc này đây, khi giới trẻ Hà nội đang họp nhau tại Nhà thờ Lớn này, thì tại quảng trường thánh Phêrô, Rôma, Đức Thánh Cha Bênêđíchtô cũng đang gặp gỡ giới trẻ Rôma, Italia. Và Đức Thánh Cha cũng khuyên nhủ các bạn trẻ hãy siêng năng đọc, học hỏi, suy niệm Lời Chúa để thực hành trong đời sống. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết sáng suốt trước những chọn lựa trong đời sống. Lời Chúa sẽ soi sáng cho các bạn trong những lúc bóng tối vây phủ. Lời Chúa sẽ ban sức mạnh khi các bạn cảm thấy yếu mệt. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết lối quay về nếu lỡ lạc đường. Lời Chúa sẽ biến các bạn trở thành chứng nhân cho Chúa trong xã hội hôm nay. Vì Lời Chúa sẽ ấp ủ, nuôi dưỡng để các bạn lớn lên trong tình thương yêu. Cảm nghiệm được tình yêu thương của Chúa, các bạn sẽ biết đáp lại. Và sẽ trung thành với Chúa cho đến cùng.

Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con trong tình thương của Chúa. Amen.

CÂU HỎI GỢI Ý CHIA SẺ

1- Trong ba loại ngã rẽ, bạn thấy ngã nào nguy hiểm nhất?

2- Bản thân bạn có kinh nghiệm gì với những cám dỗ này? Bạn đã chống trả ra sao? Bạn đã thành công hay thất bại trong cuộc chiến đấu chống những cơn cám dỗ kể trên?

3- Đối với bạn, Kinh Thánh có quan trọng không?

4- Câu nào trong Kinh Thánh đánh động bạn nhất?

5- Phải đọc Kinh Thánh thế nào mới có kết quả?

Về mục lục

.

NHIỆT THÀNH CỦA THẬP GIÁ

Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm

Tuần Thánh bắt đầu với Chúa nhật Lễ Lá và Phụng vụ Lễ Lá lại tiến hành với hai nhịp tương phản. Bắt đầu là cử hành việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong tư cách một vị vua, được dân chúng đón tiếp trọng thể, ngập tràn tiếng reo vui. Rồi ngay sau đó trong Thánh Lễ, thay cho bài Tin Mừng lại là bài tường thuật cuộc thương khó của Chúa, cuộc thương khó đầy máu và nước mắt. Hội Thánh có ý gì khi liên kết hai sự kiện tương phản này? Tại sao không đợi đến Thứ Sáu Tuần Thánh để công bố bài thương khó mà phải đọc ngay từ Chúa nhật Lễ Lá? Đã hẳn có nhiều ý nghĩa phong phú hàm chứa ở đây cần được khai triển. Một trong những nội dung đáng quan tâm là Hội Thánh muốn làm nổi bật đường lối cứu thế của Chúa Giêsu và mời gọi con cái mình bước theo Thầy.

Khi kể lại việc Chúa Giêsu thanh tẩy Đền thờ Giê-ru-sa-lem, thánh Gioan ghi nhận: “Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt thành lo việc Nhà Chúa mà tôi đây phải thiệt thân” (Ga 2,17). Một số Kitô hữu đã liên kết từ “nhiệt thành” ở đây – cũng như việc Chúa Giêsu được đón rước trọng thể vào thành Giêrusalem trong tư cách một vị vua – với phong trào chính trị được gọi là “Nhiệt Thành-zelos” thời bấy giờ. Ngoài ra người ta còn kết nối sự kiện này với lời các thượng tế tố cáo Chúa Giêsu trước tòa Philatô: “Ai xưng mình là vua thì chống lại Cêsarê” (Ga 19,12). Tất cả để dẫn đến kết luận Chúa Giêsu là nhà cách mạng chính trị.

Phong trào chính trị có tên gọi “Nhiệt Thành” được khơi nguồn từ ông Mattathias, cha của anh em nhà Macabê. Vào thời đó, vua Antiôkô cưỡng bức người Do Thái phải chối đạo và tế thần trên bàn thờ, nhưng ông Mattathias tuyên bố: “Chúng tôi sẽ không tuân theo lệnh vua mà bỏ việc thờ phượng của chúng tôi để xiêu bên phải, vẹo bên trái” (1 Mac 2,22). Và khi có một người Do Thái tiến ra tế thần trên bàn thờ theo chỉ dụ của nhà vua, thì sách Macabê kể lại: “Ông Mattathias bừng lửa nhiệt thành… ông nhào tới hạ sát hắn ngay tại bàn thờ. Ông cũng giết luôn viên chức của vua có nhiệm vụ cưỡng bức người Do Thái tế thần, rồi ông phá đổ bàn thờ”. Sau đó sách Macabê kết luận: “Ông bừng lửa nhiệt thành đối với Lề Luật giống như ông Pinêát trong vụ Dimri, con của Xalu” (2,23-26). Kể từ lúc đó, từ ngữ “nhiệt thành-zelos” trở thành khẩu hiệu diễn tả quyết tâm dùng sức mạnh và bạo lực để bảo vệ đức tin, bảo vệ Lề Luật.

Vào thời Chúa Giêsu, không ít người Do Thái đi theo phong trào này, chủ trương dùng bạo lực để xua đuổi đế quốc Rôma, giành lại chủ quyền và độc lập của dân tộc. Dựa vào một số chi tiết trong các sách Tin Mừng, người ta cũng nhìn Chúa Giêsu như một nhà cách mạng chủ trương dùng bạo lực để xây dựng một vương quốc chính trị. Đồng thời, dọc dài lịch sử Giáo Hội, hình ảnh Chúa Giêsu như một nhà cách mạng cũng được vận dụng để biện minh cho việc sử dụng bạo lực nhằm xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.

Thế nhưng đây có thực sự là ý hướng của Chúa Giêsu? Khi suy niệm về việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem cách trọng thể, Đức Bênêđictô XVI trả lời: “Không. Làm cách mạng bằng bạo lực, nhân danh Thiên Chúa để giết người, đó không phải là đường lối của Chúa. Lòng nhiệt thành của Người đối với vương quốc Thiên Chúa được thể hiện bằng cách thức hoàn toàn khác”.

Trong ngày Lễ Lá, hình ảnh Chúa Giêsu cỡi trên lưng lừa tiến vào Giêrusalem làm dội lại lời tiên tri Zacaria: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng chính trực, Đấng toàn thắng; khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (9,9). Vào thời tiên tri Zacaria cũng như vào thời Chúa Giêsu, con ngựa mới là biểu tượng của sức mạnh, còn lừa là phương tiện của người nghèo. Vì thế hình ảnh Vua Giêsu ngồi trên lưng lừa diễn tả một vị vua hoàn toàn khác. Người là vua của hòa bình, vua của người nghèo, vị vua đơn sơ và khiêm tốn.

Cũng lúc ấy, chúng ta khám phá lý do tại sao Phụng vụ Lễ Lá được bắt đầu bằng việc tưởng niệm Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong vinh quang, rồi được tiếp nối bằng việc công bố bài thương khó. Để thấy rõ hơn chân dung của vị vua hòa bình. Để thấy rõ hơn ý nghĩa của “sự nhiệt thành”, không phải thứ nhiệt thành của bạo lực nhằm xây dựng một vương quốc trần thế, nhưng là sự nhiệt thành của Thập Giá, nhiệt thành của tình yêu tự hiến trọn vẹn.

Sự nhiệt thành ấy cũng chất vấn cách nhìn và cách sống của người môn đệ Chúa Giêsu ở mọi thời đại và trong mọi hoàn cảnh. Có những lúc người môn đệ Chúa cũng bị cám dỗ sử dụng bạo lực để gọi là phục vụ Nước Chúa. Nếu chưa phải là những hành động bạo lực thì cũng là những lời nói và ứng xử bạo lực. Dù là hành động hay lời nói thì gốc rễ vẫn là sự căm thù chất chứa trong tâm hồn, đôi khi được ẩn giấu dưới lớp áo nhiệt thành, và sự căm thù ấy đã dẫn đến biết bao hậu quả tai hại cho chính Hội Thánh của Chúa. “Chúng ta đã biết quá rõ những hậu quả tàn ác của thứ bạo lực với động cơ tôn giáo. Bạo lực không xây dựng vương quốc Thiên Chúa, vương quốc của nhân tính. Ngược lại, bạo lực là khí cụ ưa thích của tên phản-Kitô, cho dù nó núp bóng tôn giáo. Nó không phục vụ nhân loại mà phục vụ sự phi nhân” (Benedict XVI, Jesus of Nazareth, tome II, 15).

“Chúa Giêsu đã thiết lập tiêu chuẩn đánh giá lòng nhiệt thành chân chính, đó là lòng nhiệt thành của tình yêu tự hiến, và sự nhiệt thành này phải trở nên mục tiêu của đời sống Kitô hữu”. Suy tư này của Đức Bênêđictô XVI đáng cho mỗi người Kitô hữu ghi nhớ để soi sáng lời nói và hành động của mình. Nhất là trong Tuần Thánh, khi đi đàng Thánh Giá, khi ôn lại những chặng đường trong cuộc khổ nạn của Chúa chúng ta.

Về mục lục

.

AI LÀ BẠN CỦA TÔI

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Có ai đó nói rằng: “Trời mưa rồi, mới biết ai sẽ là người đưa dù cho bạn. Gặp chuyện rồi, mới biết ai sẽ là người đối đãi với bạn thật lòng. Có những người chỉ biết thêu hoa trên gấm, chứ không biết đưa than trong những ngày đông. Lại có những người chỉ biết thêm dầu vào lửa, chứ không biết đối đãi chân thành”.

Nhiều ngươi vẫn tự hào có đông bạn bè, nhưng người thật sự hết lòng vì mình liệu có được mấy ai?

Có một người kể rằng vì vấn đề trong làm ăn nên anh đang cần gấp một số tiền. Anh liền gọi điện cho những bạn bè thân thiết của anh. Đều được trả lời là không thể giúp với nhiều lý do. Anh đã dựa vào độ thân thiết mà gọi 9 cuộc điện thoại kêu cứu, nhưng càng gọi về sau thì càng không có lòng tin. Cho tới cuộc gọi thứ 10 chỉ là thử vận may mà thôi, thế mà anh lại được một người bạn ít thân thiết sẵn lòng cho mượn.

Cuối cùng anh kết luận rằng: “Nếu không phải lần mượn tiền này, tôi còn tưởng rằng mình có rất nhiều bạn bè, bây giờ tôi mới hiểu thì ra tôi cô đơn đến như vậy!”

Đời người, gặp nhau là do duyên Trời, ấm áp bởi tình, tan rã bởi thiếu chia sẻ với nhau, tệ hơn là bạn bè nhưng lại chơi xấu nhau. Đời thị phi là vậy. Con người chỉ nghĩ đến lợi cho bản thân. Khi chơi với ai có lợi thì thân. Ngược lại khi mối lợi không còn thì tình thân cũng tan biến. Có khi còn vì bản thân mà đạp đổ danh dự của nhau. . .

Chúa Giê-su dường như cũng nếm trải nỗi đau của chơi xấu, của bỏ rơi nơi các môn đệ. Giu-đa môn đệ được tin tưởng giao cho làm thủ quỹ thì biển thủ, thì tham lam, cho tới khi có cơ hội lại bán Thầy với giả rẻ mạt chỉ 30 đồng thôi. Các môn đệ khác thì bỏ mặc Thầy trong nguy khó. Một mình Thầy cô đơn. Một mình Thầy trải qua cuộc thương khó. Có chăng Gioan và Phê-rô theo Thầy, nhưng chỉ lén lút đi trong đêm tối, và rồi khi đối diện với khó khăn, Phê-rô đã chối Thầy đến 3 lần.

Đúng như người ta nói: “Lúc khó khăn mới biết ai là bạn, khi hoạn nạn mới hiểu bạn là ai!”. Con người ta chỉ một lần sa cơ, mới biết ai thật lòng, ai quan tâm đến mình nhất.  Điều mà thời gian lưu lại không phải là tài phú, không phải là vẻ đẹp, mà là sự chân thật dành cho nhau. Hoa nở rồi sẽ tàn, thời gian trôi đi sẽ không quay trở lại. Lâu ngày không hẳn sẽ sinh tình, nhưng nhất định sẽ thấy được lòng người chân thành hay chỉ là đãi bôi.

Quang cảnh lễ lá hôm nay cũng tương phản với hình ảnh thứ sáu tuần thánh nơi dân thành Giê-ru-sa-lem. Hôm nay họ trải lá lót đường đón Chúa. Ngày mai họ ném đá đòi đónh đinh Chúa. Hôm nay họ tung hô Chúa là vua, ngày mai họ đóng đinh Ngài vào thập giá. Xem ra Chúa vẫn cô đơn trong tiếng reo hò của hàng ngàn người dân thành Giê-ru-sa-lem. Ngày lễ lá họ reo mừng vì thấy Chúa là mối lợi cho dân tộc. Ngày thứ sau họ kết án vì muốn lợi dụng Ngài “chết thay cho cả dân được nhờ”. Chúa vẫn cô đơn trong chính dân tộc của mình và ngay cả nơi nhóm nhỏ môn đệ thân tín của Ngài.

Hình như hôm nay Chúa vẫn cô đơn trong nhà thờ, vì người ta đến với Chúa chỉ vì thói quen, vì muốn tìm cái phao cứu mình khỏi khó khăn?

Hình như hôm nay Chúa vẫn cô đơn trong dòng đời, vì đâu mấy ai dám hy sinh cho Ngài khi phục vụ giúp đỡ người ốm đau, nghèo khó hay tật nguyền?

Hình như hôm nay Chúa vẫn cô đơn trong các mái gia đình, vì còn mấy gia đình vẫn sáng lễ chiều kinh, nhưng họ chỉ dành thời gian cho công việc và nghỉ ngơi?

Con người hôm nay tính toán với Chúa nên họ cũng tính toán với nhau. Có bao nhiêu người sống với nhau lấy tình nghĩa làm đầu? Liệu rằng ở giữa hàng ngàn, hàng vạn người kia có mấy ai là tri kỷ, mấy ai là người thật lòng đáng cho ta tin tưởng? Có tiền là có tất cả nhưng có mấy ai đem tiền để mua lấy tình thân? Tình người dường như không được mua và càng không thể cho không!

Xin Chúa giúp chúng ta biết đi vào tuần thương khó trong sự hy sinh hãm mình để đồng cảm với Chúa Giê-su. Xin cho chúng ta cũng đừng bao giờ lấy lợi nhuận để mà cân đo đong đếm tình yêu. Vì tình yêu luôn phải cho không, biếu không mới là tình yêu đích thực. Ước gì chúng ta luôn là người môn đệ trung tín với Chúa dầu phải bước đi trong khổ giá vẫn trung kiên. Amen

Về mục lục

.

BƯỚC VÀO CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA GIÊSU

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Lễ Lá cho chúng ta đi vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu.Ngày Chúa khải hoàn đi vào Giêrusalem tưởng chừng như một cuộc vinh quang lớn của một Vị Vua. Người ta trải đường cho Chúa, trẻ con cầm cành Ô liu, và cành vạn tuế để tung hô Chúa. Người ta tưởng tượng đây là cuộc chiến thắng khải hoàn của một Vị Vua thắng trận.Tuy nhiên Chúa vào Giêrusalem để chấp nhận cái chết theo ý Thiên Chúa Cha.

Thực vậy, con đường của Chúa Giêsu là con đường Thập giá. Con đường đau khổ, con đường hẹp, nhưng đó là con đường tình yêu.Tin Mừng của Thánh Gioan cho chúng ta hay Chúa Giêsu phải can đảm hết mình bởi vì người Do Thái, đặc biệt các Thượng tế, Kinh sư và Kỳ mục đang tìm cách bắt Ngài. Do đó, việc đi vào Giêrusalem trong dịp lễ Vượt Qua làm chúng ta không thể nào tin nổi :” Sắp đến lễ Vượt Qua, và rất nhiều người đi Giêrusalem…Họ đang tìm Đức Giêsu và hỏi han nhau “ Bạn nghĩ sao ? Chắc Ngài chẳng đến dự lễ đâu ? “. Bọn Tư tế và Biệt phái đã ra lênh : bất cứ ai biết Đức Giêsu ở đâu thì phải báo cáo ngay để họ bắt Ngài “  (Ga 11, 55-57 ). Và như thế, mọi người đều lo ngại cho việc Đức Giêsu vào thành Giêrusalem. Chúa Giêsu  vào thành Giêrusalem có ý nghĩa gì ? Và dân chúng đón chào Ngài có ý làm sao ?  Thánh Gioan cho chúng ta hiểu :” Đức Giêsu tìm thấy một con lừa và cưỡi lên nó, đúng như lời Kinh Thánh dạy : Hỡi thành Sion, đừng sợ, này đây Vua ngươi đến, Ngài đang cưỡi trên một chú lừa con “ ( Ga 12, 14-15 ). Đức Giêsu tiến vào thành, dân chúng vẫy các cành thiên tuế và reo lên :” Hosanna ! Vạn tuế Đấng nhân danh Chúa mà đến ! Hoan hô Vua Israen “ ( Ga 12, 13 ). Thánh Gioan kết thức đoạn Tin mừng này bằng lời bình luận bất thường như sau:” Lúc đó các môn đệ Đức Giêsu chưa hiểu điều ấy, nhưng khi Đức Giêsu đã được đưa đến chốn vinh quang, họ mới nhớ lại lời Thánh Kinh viết điều này về Ngài và chính họ đã thực hiện điều ấy cho Ngài “ ( Ga 12, 16 ).

Chúng ta hiểu thế nào về sự trái nghịch đó ? Điều này nằm nơi chú lừa ! Người ta thường cho rằng lừa là con vật chậm chạp, đần độn. Nhưng các nhân vật trong Kinh Thánh lại khen con vật này. Họ cho lừa là con vật hiền hòa khác hẳn với giống ngựa là giống vật dùng cho chiến tranh thường chở các chiến binh vào chiến địa vv…Ngôn sứ Giacaria đã tiến báo Đấng Mêsia sẽ cưỡi lừa tiến vào Giêrusalem. Đức Giêsu là như thế, Ngài quả quyết hai điều: thứ nhất Ngài là Đấng Mêsia của dân Israen, thứ hai Ngài vén lộ, mạc khải cho muôn dân biết sứ mệnh Thiên Sai của Ngài là gì ?

Vâng, vào thời Đức Giêsu người ta hiểu rất mơ hồ về vai trò, sứ mệnh của Đấng Thiên Sai. Họ cứ nghĩ Đấng Thên Sai phải là một Vị Vua oai hùng đánh Đông dẹp Bắc, quy tụ mọi người Israen tản mác, đánh đuổi Đế Quốc La Mã ra khỏi vùng Palestina, đẩy chúng nhào xuống biền khơi vv…Đức Giêsu cỡi trên con lừa hiền lành tiến vào Giêrusalem đã đi ngược lại ý tưởng của họ. Đức Giêsu lúc đó không đáp ứng được đúng yêu sách và những điều họ suy nghĩ về Ngài. Ngài phải là Vị Vua chinh chiến, bắt quân thù làm nô lệ và hầu hạ mình. Nhưng Đức Giêsu lại là một vị Vua hiền lành, yêu thương, nhân hậu đến để phục vụ chứ không để được phục vụ. Ngài cúi mình rửa chân cho các môn đệ của mình. Đức Giêsu đã không làm những việc nhưng dân chúng tưởng tượng, Ngài đến để quy tụ con người, những người thành tâm để chống lại nghèo nàn, đói khổ. Đức Giêsu đến không để kết án nhưng để tha thứ. Đức Giêsu đến để đem hòa bình, tình thương cho con người cho mọi người.

Hôm nay, chúng ta đón Đức Giêsu và tung hô một Vị Vua hiền hòa, khiêm nhượng. Hosanna! Tung hô Con Vua Đa Vít !.

Đi vào cuộc thương khó và Phục sinh của Đức Giêsu, Giáo Hội mời gọi chúng ta đi vào cuộc thương khó của Chúa bằng đời sống đạo đức, thánh thiện của chúng ta. Hãy làm những việc tử tế và tỏa sáng để đời số của mỗi người chúng ta luôn tỏa chiếu ánh sáng huy hoàn của Thầy Chí Thánh : Vua Giêsu hiền từ, nhân hậu và đầy lòng Thương Xót.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chấp nhận con đường Thập giá, con đường mà Chúa đã đi để cứu rỗi nhân loại, cứu độ nhiều người.Xin cho chúng con đi vào Tuần Thánh với tất cả tấm lòng yêu thương, với tất cả đức tin của chúng con.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Chúa đi vào Giêrusalem để làm gì ?

2.Dân chúng tung hô Ngài để làm gì ?

3.Con lừa theo nghĩa người đời và theo nghĩa các nhân vật Kinh Thánh ?

4.Vua Giêsu là Vua thế nào ?

5.Dân Do Thái nghĩ gì về một Vị Vua mà họ mong đợi ?

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA TIN TƯỞNG CON NGƯỜI

Bông hồng nhỏ

Dostoievsky từng viết thư cho anh là Michel như sau: “Em bị đày bốn năm, anh ạ; em không thất vọng đâu. Ở đâu, đời sống cũng là đời sống, nó ở trong bản thân ta chứ không phải ở thế giới chung quanh ta. Ở nơi tù đày này thì bên cạnh em, cũng sẽ có những con người và làm một con người giữa đám người, giữ được hoài như vậy dù hoàn cảnh ra sao thì ra, không nản chí, không bỏ cuộc; đó, đời là vậy, chân ý nghĩa cuộc đời là vậy. Em đã lĩnh hội được rồi.” Đọc lời tâm sự của Dostoievsky, ta thật cảm động. Ông đã có một niềm tin tưởng mãnh liệt vào cuộc sống và nhận ra được ý nghĩa của cuộc đời.

Chúa đã làm người, trải nghiệm cảnh bị bắt gian và bị giết như một tên tội phạm, nhưng Chúa vẫn yêu những kẻ làm hại mình. Vì sao vậy Chúa? Nhìn ngắm Chúa Giêsu chịu đóng đinh, lòng ta ngập tràn niềm tin mến. Ta thân thưa đôi điều: Lạy Chúa Giêsu, tại sao Chúa chấp nhận một cái chết bi thương như vậy? Dostoievsky chịu cảnh tù đày mà lòng vẫn tràn đầy niềm tin tưởng vào cuộc đời vì ông tin vẫn có những con người bên cạnh mình. Ông nắm được ý nghĩa cuộc đời khi nhận ra nó ở trong chính bản thân ông. Chiêm ngắm chân dung của Chúa trong cuộc khổ nạn, lòng con từng bước được Chúa trả lời cho những thắc mắc trong lòng.

Thầy Giêsu rao giảng Tin Mừng trong ba năm, ba năm với biết bao người mộ mến nhưng cũng không ít kẻ hiềm khích và ghen ghét. Giới quần chúng đặc biệt là những người bệnh tật và những kẻ tội lỗi thì luôn tìm cách để được gặp gỡ Thầy, vì tự nơi Thầy phát xuất một năng lực có thể chữa lãnh bệnh tật cho họ. Giới lãnh đạo tôn giáo thì tìm cách giết Thầy cho bằng được. Thầy Giêsu biết rõ cả âm mưu đen tối của các thượng tế và kinh sư. Thầy cũng biết được có kẻ sẽ nộp Thầy, người đó lại là học trò của mình. Thầy vẫn đến với con người mà không hề trốn chạy, không hề tránh né những hiểm nguy đang chờ phía trước. Là con người, Thầy hãi hũng đến nỗi đổ mồ hôi máu trong vườn Cây Dầu nhưng lòng Thầy vẫn nguyện một lòng “xin cho ý Cha nên trọn thì hơn”.  Bị Giuđa phản bội, Thầy đau lòng hơn ai hết bởi sẽ mất đi một con chiên. Mỗi người đều có một chỗ đứng trong lòng Thầy. Thầy đặt tình yêu và niềm tin nơi con người. Thầy biết rõ con người đầy những yếu đuối và bất trung nhưng thầy vẫn đặt nơi con người một niềm tin. Niền tin đó là gì và xuất phát từ đâu vậy? Niềm tin đó mang tên tình yêu và cũng xuất phát từ tình yêu Thầy dành cho con người, niềm tin tưởng sâu xa xuyên qua cả đau khổ để cho ánh sáng tình yêu tràn ra rửa sạch tâm hồn hoen nhơ của con người. Phêrô chối Thầy ba lần nhưng Thầy không từ mặt, trái lại Thầy đã dùng ánh mắt xót thương để đưa người môn đệ lầm lỗi trở về. Trên cây thập giá chiều nao, Thầy nhận biết bao điều sỉ nhục khinh khi của con người, nhưng lời Thầy thốt lên khi còn chút sức lực cuối cùng không phải là oán trách căm hờn nhưng là tiếng hát yêu thương: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).

Lạy Chúa! Khi rước Chúa vào thành thánh trong niềm hân hoan, xin cho con cũng biết rằng Chúa mãi là vua của tâm hồn con. Khi hân hoan rước Chúa trong vui mừng, xin cho con biết nhìn lại những lần tâm hồn con bán Chúa như Giuđa khi con bán mình trong tội lỗi, cũng chối Chúa như môn đệ Phêrô khi hoảng loạn không dám làm chứng cho Chúa giữa đời. Xin cho con luôn đặt niềm tín thách nơi Chúa như Chúa đã đặt niềm tin tưởng nơi con vì Chúa yêu con. Amen.

Về mục lục

.

NGÀI ĐÃ LUÔN

Anna Cỏ May

– Ứ ừ! Con không muốn xa mẹ đâu.

– Mẹ cũng không muốn xa con đâu nhưng con phải đến với các anh của con.

– Không. Con không đi.

– Bạn Tím ơi! Các anh của bạn đang chờ bạn kìa, chỉ còn thiếu bạn thôi. Nếu không có bạn thì không còn là bảy sắc cầu vồng nữa. Mọi người sẽ rất buồn đó.

Nghe các bạn mây gọi, Tím cứ chần chừ mãi. Mẹ Tím ân cần:

– Đúng đó con. Nếu không có con, các anh của con cũng không hoàn thành nhiệm vụ được. Các anh cần con, mọi người cần con.

– Vậy con đi mẹ nha.

– Tạm biệt con.

Mỗi người sinh ra đã có một nhiệm vụ và có một tương lai cho chính mình. Chúa Giêsu cũng giống như bao người khi được sinh ra, được lớn lên trong mái nhà với một sứ mạng riêng. Vậy, sứ mạng của Chúa Giêsu là gì?

  1. Gần gũi với thế giới đau khổ của con người

Trong một thế giới dù tiện nghi đến đâu cũng luôn có những người đau khổ. Họ là những người tội lỗi, bệnh tật, nghèo hèn. Chúa Giêsu đã đến ở giữa, để sống với và sống cho những người như thế. Thánh Luca cho chúng ta biết “Đi đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế” (Cv 10, 38). Ngài đã xoa dịu và chữa lành cho tất cả mọi người. Ngài không phân biệt chủng tộc hay tầng lớp xã hội nào. Ngài làm cho kẻ chết sống lại và ân cần ngỏ lời “Anh em có muốn được khỏi bệnh không?” (Ga 5, 6). Ngài khích lệ rằng: “Phúc cho anh em, nếu anh em đang lâm vào hoàn cảnh đó vì Ta.” (x. Mt 5, 3-12). Ngài sống cùng với những con người luôn tính toán “Phí dầu thơm như thế để làm gì…” (x. Mc 14, 4 -5).

  1. Là nạn nhân đầu tiên của sự dữ

Chúa Giêsu đã chấp nhận sinh ra, sống và chết như một người khốn cùng. Ngài chịu sự vất vả ngay cả chỗ tựa đầu cũng không có. “Con chồn có hang, chim trời có tổ nhưng con người không có chỗ tựa đầu.” (Lc 9, 58).  Ngài chấp nhận sống trong sự vây hãm của địch thù, bị hiểu lầm từ những người thân tín nhất. Ngài chấp nhận những đau khổ ấy không là cưỡng ép nhưng với một sự tự nguyện hoàn toàn. Ngài trao ban tình yêu nhưng đổi lại Ngài đã nhận lấy sự hận thù. Lời giảng dạy yêu thương của Ngài lại bị khép cho tội xúi dân nổi loạn. Do đó, mạng sống của Ngài luôn bị những kẻ chống đối tìm cách tiêu diệt.

Tại vườn cây dầu, Ngài đã khiếp sợ đến vã mồ hôi máu. Ngài đã bị trao nộp do chính người môn đệ của mình, bị bán với giá chỉ 30 đồng bạc. Không chỉ vậy, Ngài đã bằng lòng trở thành nạn nhân của bao người hèn nhát, không vững lập trường. Môn đệ Phêrô luôn yêu nến Chúa nhưng cũng đã chối Thầy ba lần. Sau cùng, Ngài tự nguyện đi vào sự âm thầm, Ngài không là kẻ phản loạn, chấp nhận nhục nhã với bản án tử hình thập giá với hai người tội lỗi.

  1. Trong đau khổ, Chúa Giêsu đã dạy ta điều gì?

Mỗi khi gặp đau khổ, tự nhiên chúng ta lâm vào tình trạng hoảng loạn, sợ hãi… Chính trong giờ phút đó, nếu có niềm tin vào Chúa, chúng ta sẽ nghe vang lên bên tai lời an ủi của Ngài “Đừng sợ hãi, có Ta ở với ngươi, Ta ban cho ngươi vững mạnh” (Is 41, 10). Ngài đã thấu hiểu nỗi đau khổ của chúng ta bằng chính kinh nghiệm của bản thân. Chúng ta cần được tha thứ như những con chiên lạc được trở về trong vòng tay người Mục tử nhân lành. “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”(Lc 23, 34).

Muốn vào thông phần vinh quang của Chúa, không có con đường nào khác là con đường đau khổ. Xin cho chúng con biết dùng những sự vất vả, đau khổ để được kết hợp với Ngài mọi ngày trong cuộc sống.

Về mục lục

.

CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ

Lm Giuse Nguyễn Hữu An 

Ở Tây Ban Nha, trong một thánh đường, có cây thập giá đặc biệt, nhiều người đến chiêm ngắm tôn thờ. Chúa Giêsu bị đóng đinh tay trái, còn tay phải lại buông thõng xuống.

Truyền thuyết kể lại: có một người tội lỗi tìm đến với cha xứ. Tuy ông đã xưng thú mọi tội lỗi với lòng sám hối, nhưng cha xứ lưỡng lự không biết có nên tha hay không, vì thấy ông ấy phạm quá nhiều tội. Sau cùng, cha nghiêm giọng nói:

–       Tôi ban bí tích Giải tội cho ông, nhưng trong tương lai ông phải cố gắng sửa mình.

Ông hứa với cha xứ, nhưng vì yếu đuối ông lại sa ngã và một thời gian sau lại tìm đến tòa cáo giải.

Lần này thì cha xứ nói với ông bằng một giọng nghiêm khắc:

–       Tôi ban bí tích Giải tội cho ông lần này là lần cuối cùng. Ông đã nghe thấy chưa.

Vài tháng sau, ông lại đến quỳ dưới chân cha xứ và năn nỉ:

–       Con thực lòng ăn năn, xin cha tha tội cho con một lần nữa.

Cha xứ đáp:

–       Đừng đùa giỡn với Chúa. Tôi không ban bí tích Giải tội cho ông nữa đâu.

Khi nói thế, cha bỗng nghe thấy có tiếng nấc nghẹn ngào. Rồi từ trên thập giá, cánh tay phải của Chúa từ từ hạ xuống và ban phép giải tội cho người tín hữu thành tâm sám hối. Và Ngài nói với vị linh mục:

–       Chính Ta đổ máu ra để cứu chuộc ông ấy chứ không phải là con.

Và cũng từ ngày đó, cánh tay phải của Chúa thõng xuống trong tư thế ban phép tha tội.

‘Chính Ta đã đổ máu ra để cứu chuộc con’. Chúa đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời tuyên xưng: “Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ Trời xuống thế…Người chịu đóng đinh vào Thập giá vì chúng tôi“. Nội dung chính yếu của cử hành phụng vụ Tuần Thánh là cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Ngài là người tôi tớ đau khổ của Đức Giavê. Ngài đón nhận Thập giá tủi nhục thất bại, và đã biến đổi Thập giá thành nguồn ơn cứu độ, tình thương tha thứ cho nhân loại tội lỗi.

Phụng vụ bước vào Tuần Thánh với khởi đầu là Chúa nhật Lễ Lá. Cử hành phụng vụ hôm nay khởi sự bằng việc làm phép lá và đi kiệu lá. Cộng đoàn đi kiệu để tưởng niệm việc Chúa Cứu Thế khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem. Ngay sau đó là Thánh Lễ tưởng niệm cuộc Thương khó, đặc biệt với việc đọc Bài Thương khó.Việc cử hành hôm nay mang hai sắc thái có vẻ nghịch nhau : mới mừng cuộc khải hoàn của Chúa Kitô, rồi lại cảm thông nỗi thống khổ của Người. Phụng vụ hôm nay kết hợp hai khoảnh khắc trái ngược nhau; cuộc chào đón Đức Giêsu vào Giêrusalem và thảm kịch Thương khó; lễ hội “Hosanna” và những tiếng la ó lặp đi lặp lại “Đóng đinh nó vào thập giá!”; cuộc khải hoàn và sự thất bại bề ngoài qua cái chết trên thập giá.

Bài Thương khó kể lại từng chặng đường đau thương của Đấng Cứu Thế. Ba môn đệ thân tín đã bỏ rơi Thầy. Giuđa chỉ điểm bắt Thầy bằng một nụ hôn giả dối. Các môn đệ sợ hãi bỏ Thầy mà chạy trốn. Phêrô thề là không hề quen biết Thầy. Chúa Giêsu cô đơn trước đám đông cuồng nộ. Họ bị kích động đòi đóng đinh Ngài. Họ coi Ngài còn thua Baraba là tên phiến loạn. Họ khạc nhổ, đánh đập, vả tát vào mặt, dùng roi quất vào da thịt. Đôi bàn tay bầm tím xuyên thâu những mũi đinh nhọn. Đôi bàn chân bị đinh đóng xuyên qua cây gỗ. Đầu đội mão gai nhọn. Lưỡi đòng đâm cạnh sườn, máu và nước chảy ra. Một người bị lột bỏ trần trụi. Hai tay bị giang thẳng trói xiết chặt vào thanh gỗ ngang. Hai chân bị trói vào thanh gỗ dọc phơi ngoài trời nắng gắt cho đến chết. Chết vì nghẹt thở do các cơ vòng ngực, cơ bắp tay không còn sức trương ra, co vào để rồi thu nhận và tống không khí. Tử tội bị đóng đinh nơi cổ tay, nơi bàn chân càng thê thảm bội phần vì đau đớn nhức nhối, sức người rướn lên để thơ, mau kiệt sức và chóng chết. Bị sỉ nhục. Bị cười nhạo báng. Bị khinh khi. Kẻ qua người lại đều nhục mạ Ngài, vừa lắc đầu vừa nói: mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi ! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!. Các thượng tế kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Ngài mà nói:  Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Israel ! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập gía đi, thì chúng ta tin hắn liền!.  Cả những tên cướp cùng chịu đóng đinh cũng sỉ vả Ngài như thế.

Cái chết cô đơn, cái chết đau khổ đến với Chúa Giêsu như một chén đắng mà Chúa Cha trao phó. Chúa Giêsu xin vâng ý Cha, nhưng không vì thế mà bớt sự đau đớn. Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu than thở: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).Theo thánh ý Chúa Cha, “Chúa Giêsu đã hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây Thập giá”( Pl 2,8).

Cuộc khải hoàn rước lá của Chúa Giêsu là một dấu chỉ của chiến thắng vinh quang chung cuộc. Việc kiệu lá cho thấy rõ ý nghĩa đích thực của đau khổ và thập giá. Tương tự trong sự kiện “biến hình” trên núi Tabo: Chúa Giêsu cho ba tông đồ thoáng thấy vinh quang thần tính. Khi xuống núi, Ngài ra lệnh cho ba tông đồ phải bảo mật cho đến khi Con Người sống lại từ cõi chết, nghĩa là cho đến khi ý nghĩa của biến cố được tỏ bày. Cũng chính ba tông đồ thân tín chứng kiến cơn hấp hối của Chúa ở vườn Cây Dầu. Sau Phục sinh, Chúa Kitô cũng giải thích cho hai môn đệ trên đường Emmau: “Đức Kitô không phải chịu đau khổ như thế rồi mới vào vinh quang của Người sao ?” (Lc 24,26).

Như vậy ngay từ Lễ Lá, hai sắc thái, hai cục diện của mầu nhiệm Vượt Qua được trình bày rõ ràng. Lễ Lá trình bày hai cục diện theo thứ tự đảo ngược : vinh quang trước, khổ nạn sau. Nhưng thứ tự đó biểu lộ thực chất của mầu nhiệm Vượt Qua. Mầu nhiệm Vượt qua  bản là một mầu nhiệm đạt tới vinh quang và sự sống. Sự chết chỉ là bước đi qua,  phương tiện để đạt tới mục đích là vinh quang Phục Sinh.

Bước vào Tuần Thánh, chúng ta cùng theo Chúa Giêsu trên con đường Thập giá.

Theo Chúa không chỉ khi gặp may mắn, thành công, bình an mà còn chấp nhận khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại.

Theo Chúa không là con đường “xuôi chèo mát mái” hoàn toàn hạnh phúc an lành, mà còn là con đường chọn lựa quyết liệt với những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực thế gian.

Theo Chúa Giêsu là đi con đường thập giá vừa lên dốc, vừa nhiều ổ gà ổ voi và vừa là con đường một chiều. Con đường ấy hẹp chứ không thênh thang theo những trào lưu dễ dãi, giả dối, ích kỷ, hận thù, bạo lực… nên cần phải sống từ bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao dung.

Tuần Thánh, cùng đi vào hành trình thương khó của Chúa, chúng ta gặp thấy nhiều tình huống tăm tối của “nhân tình thế thái” như vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta gặp được một tình yêu. Tình Yêu của Đấng Chịu Đóng Đinh đối với Chúa Cha và lòng xót thương với nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ. Cảm nếm và thông phần với nỗi khổ đau thân xác và tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng vẫn luôn nhận ra lòng xót thương nằm ẩn dưới từng phản ứng của Ngài theo Tin Mừng kể lại. Càng suy nghĩ về cuộc khổ nạn, chúng ta càng yêu Thập giá của Chúa hơn, yêu thập giá của mình hơn và kính trọng thập giá của người khác hơn. 

Theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là một thách đố lớn trong bối cảnh thời nay. Xác tín rằng, có Chúa cùng đồng hành, Ngài luôn thấu hiểu nâng đỡ, Ngài chia sẻ những khó khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta trên hành trình theo Ngài. Nếu can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài, chúng ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh với Ngài.

Về mục lục

.

SUY NIỆM LỄ LÁ_B

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Phụng vụ Chúa nhật Lễ Lá hôm nay được mở đầu với bầu khí hân hoan phấn khởi qua nghi thức rước lá nhằm tưởng nhớ lại việc Đức Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem. Đám đông dân chúng tung hô Chúa Giêsu“Hosana, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”. Nhưng liền sau đó, phụng vụ Lời Chúa lại trình bày cho chúng ta con đường thập giá và cuộc tử nạn của Chúa Giêsu qua bài thương khó. Giáo hội muốn làm nổi bật Mầu nhiệm Thập giá trong suốt Tuần thánh để người Kitô hữu xác tín: Thập giá, tình yêu cứu độ. Thập giá, con đường vinh quang phục sinh.

Sau đây, chúng ta chiêm ngắm cuộc tử nạn của Chúa Giêsu qua Tin mừng thánh Marcô vào dịp lễ Vượt Qua năm 30; lễ vượt qua cuối cùng trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Hôm đó, người ta đổ về Giêrusalem để mừng lễ, nhiều người ngoại quốc cũng đến để chung vui với người Do Thái vào dịp đại lễ này. Họ chứng kiến một vị ngôn sứ là Chúa Giêsu bị kết án tử hình đóng đinh thập giá. Người ta tố cáo Ngài với hai tội danh là phạm thượng“tự xưng mình là Thiên Chúa” và tội phản động chống lại hoàng đế Rôma“Người này nói dân nổi loạn”. Nhưng trước mắt toàn dân, quan án Philatô xét xử và xác nhận: Ông Giêsu không có tội, ta truyền đánh đòn và tha ông.

Các thượng tế, luật sĩ, biệt phái nhất định giết Đức Giêsu. Họ sách động dân chúng lên án Chúa Giêsu “đóng đinh nó vào thập giá”. Sau cùng Philatô đã viết bản án “đóng đinh ông Giêsu” và tha cho tên trộm cướp giết người là Baraba.

Để cứu độ nhân loại, Đức Giêsu đã chấp nhận án tử hình thập giá, chấp nhận chết để cứu sống nhân loại tội lỗi. Con đường Đức Giêsu đã đi là con đường thập giá, con đường tử nạn để cứu nhân loại khỏi tội và đưa con người vào cõi sống muôn đời như lời thánh Phêrô đã nói:

“Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết với tội lỗi, chúng ta sống cuộc đời công chính” (1Pr 2, 24). Vì thế Giáo hội đã hướng nhìn thập giá với niềm tin:

“Ôi Thập giá, phước lành thế giới,

Nguồn cậy trông cứu rỗi tràn lan”

(Thánh thi kinh trưa Thứ sáu tuần thánh)

Thập giá là đỉnh cao của con đường yêu thương mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại được thể hiện qua cái chết của Đức Giêsu Kitô: “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu dám chết cho người mình thương. Đức Giêsu đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội nhân, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5, 8).

Chúa Giêsu chết trên thập giá: một cái chết yêu thương, tự nguyện, tha thứ để con người được cứu sống: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm không biết”. Chỉ khi Chúa chết mới giải quyết được mọi vấn đề liên quan tới sự kiện Đức Giêsu Kitô “Ngài là ai”? Người Do Thái thời Chúa Giêsu không thể chấp nhận Ngài là Đấng Messia, bởi người ta chỉ trông chờ một Đấng Messia có tính cách chính trị để giải phóng dân Do Thái khỏi đế quốc Rôma. Họ không thể hiểu được “Đấng Cứu Thế phải chết thay cho muôn người”, “Đấng Messia cứu độ”. Qua cái chết của Chúa Giêsu, chúng ta tìm được lời giải đáp về căn tính của Đức Giêsu.

Chính khi Đức Giêsu tắt thở trên thập giá, là lúc Chúa Giêsu trở nên Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại như lời Ngài đã nói trước: “Phần Tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi”.Chính lúc Chúa chết là lúc Chúa Giêsu toàn thắng ma quỷ, tội lỗi và sự chết, vì Ngài đã chu toàn sứ mạng cứu độ của Thiên Chúa Cha. Chính giờ phút Chúa chết là lúc Chúa được Thiên Chúa Cha tôn vinh.

Chứng kiến Chúa chết trên thập giá, viên sĩ quan Rôma đâm cạnh sườn Chúa đã phải thốt lên với niềm tin vào Đức Giêsu: “Ông này quả thật là con Thiên Chúa”. Người trộm bên hữu cùng chịu đóng đinh đã tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu: “Ông Giêsu ơi! Khi Ông vào nước của Ông, xin nhớ đến tôi… Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với Tôi trên thiên đàng” (Lc 23, 42-43).

Dưới chân thập giá nhiều người đã đấm ngực và tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu “Ông này quả thật là Con Thiên Chúa”.

Cái chết đầy yêu thương và tha thứ của Chúa Giêsu đã tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi: Đức Giêsu là ai? Đức Giêsu là Đấng cứu độ nhân loại và là Thiên Chúa thật.

Bước vào Tuần thánh là bước vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô và cũng là hành trình tiếp cận tình yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa.

Bước vào Tuần thánh là đi vào cuộc hành trình tiến lên đỉnh cao phục sinh với Đức Giêsu. Nhưng sẽ chẳng có Đức Giêsu phục sinh nếu không có Đức Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết. Sẽ chẳng có chiến thắng vinh quang, nếu không có chiến đấu gian nan và đau khổ tột cùng trên thập giá. Thật đúng như tục ngữ Hoa Kỳ: “Không có thập giá, không có triều thiên, không có đau khổ, không có thắng lợi. (No cross, no crown, no pain, no gain).

Đón nhận khổ giá với sức mạnh của tình yêu là đồng hành với Đức Kitô trên con đường cứu thoát chính mình và tha nhân. Như thế, thập giá, tình yêu cứu độ; Thập giá, con đường vinh quang phục sinh.

Về mục lục

.

SUY NIỆM LỄ LÁ_B.

Giuse Đinh Tất Quý

Lễ lá có một khởi đầu vui nhưng lại có một kết cục buồn. Khởi đầu Chúa Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem. Kết cục Chúa Giêsu chịu kết án, chịu khổ hình và chết trên Thập giá. Con đường vào thành thánh Giêrusalem của Người là con đường vinh quang vương giả. Còn con đường lên Núi Sọ lại là con đường của kẻ tội đồ. 

Đám rước ngày lễ Lá hôm nay mời gọi chúng ta cùng tiến bước theo Chúa. 

Tiến bước theo Chúa để hiểu rằng hành trình theo Chúa không kết thúc tại cổng thành Giêrusalem với đám đông người ngưỡng mộ, với cành lá và quần áo trải thảm đường đi, nhưng kết thúc trên nuí Sọ với những lời nhục mạ ê chề, với cây Thập giá cùng với hai tội nhân đồng hành. Chúa Giêsu đã không xưng vương trước đám đông cuồng nhiệt nghinh đón, nhưng lại xưng vương trước mặt Philatô, khi tay đã bị trói, khi thân thể đã tan nát không còn hình tượng con người, khi đã mất hết uy tín, và phải đứng trước vành móng ngựa như một phạm nhân. Và danh hiệu làm Vua chỉ được chính thức ghi bằng chữ viết khi Người bị treo trên Thập Giá: “Giêsu Nagiareth, Của dân DoThái” (Mt 27,37). 

Hành trình của Chúa là một hành trình gian khổ. Đích điểm chỉ đạt tới sau khi đã từ bỏ tất cả, không phải chỉ nhà cửa, y phục mà cả những người thân, cả thành công, cả danh dự và cả mạng sống. 

Tiến bước theo Chúa để chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng cuả lòng dạ con người. 

Cũng đám đông ấy, hôm trước vừa vung tay vung chân hoan hô Chúa, ngay hôm sau đã vội vung tay vung chân kết án Chúa. 

Cũng đám đông ấy hôm trước vừa reo hò chúc tụng Chúa, ngay hôm sau cũng vẫn reo hò nhưng là để buộc tội Chúa. 

Cũng đám đông ấy hôm trước vừa chen lấn nhau để nghênh đón Chúa, ngay hôm sau đã xúm lại với nhau để hành hạ Chúa. 

Cũng đám đông ấy hôm trước vừa cởi áo, chặt cành lá lót đường để Chúa đi qua, ngay hôm sau đã lột áo Chúa, chặt cành gai cuốn lại đặt lên đầu Chúa. 

Tiến bước theo Chúa còn là để dứt khoát lựa chọn cho mình một con đường. 

Đường vào Giêrusalem chỉ có một và rộng thênh thang. Mọi người đều có thể tụ tập và cùng chung lối bước. Nhưng đường lên Núi Sọ chật hẹp và chia ra muôn ngả. Mỗi người có thể chọn cho minh một con đường để đi. 

Đường vào Giêrusalem đông vui và phấn khởi vì mọi người ca hát tưng bừng. Nhưng đường lên Núi Sọ thật buồn thảm, chỉ có tiếng roi vọt, tiếng than khóc và tiếng chửi rủa.

Đường vào Giêrusalem mọi người đều theo Chúa, mọi người đều là môn đệ Chúa. 

Nhưng đường lên Núi Sọ chỉ còn ít người theo Chúa. Có những người đã phản bội. Có những người đã trốn chạy. Có những người đã chối bỏ Thầy.   

Đường vào Giêrusalem có con lừa chở Chúa. Nhưng đường lên Núi Sọ, Chúa phải vác Thánh Giá. 

Đi theo Chúa trên đường vào Giêrusalem thì dễ dàng và vui vẻ. Nhưng theo Chúa trên con đường Núi Sọ mới thật chông gai. 

Nếu tôi có mặt ở đó, tôi sẽ dễ dàng hòa nhập vào đoàn người cầm cành lá đi rước Chúa. 

Nhưng khi Chúa đi lên Núi Sọ, tôi sẽ rẽ sang đường nào? Tôi sẽ rẽ sang con đường phản bội Chúa như Giuđa? Tôi sẽ rẽ sang con đường chối Chúa như Phêrô? Tôi sẽ rẽ sang những con đường hẻm in dấu chân trốn chạy của các môn đệ? Tôi sẽ phụ họa với đám đông kết án Chúa? Hay tôi cũng theo quân lính đánh đập Chúa? Trước sau gì tôi cũng phải lựa chọn một con đường. 

Theo truyện thần thoại của Hy lạp, Hercule là một vị thần, một lần đứng giữa ngã ba đường và tự hỏi xem đi về đâu. Hai người chỉ đường đến với ông. Một người nói: 

– Hãy theo tôi, đây là con đường thoải mái, hạnh phúc và lối đi dễ dàng. 

Người thứ hai nói: 

– Đây là con đường cố gắng, nỗ lực, khó khăn. Tuy là đường khó khăn, nhưng đưa tới hạnh phúc. 

Hercule đã chọn con đường thứ hai, khó khăn và quả thực ông khôn ngoan, ông đã thành công. 

Vâng! Bất cứ cách nào, lựa chọn là phải liều, phải chấp nhận một tương lai bấp bênh, phải chấp nhận hậu quả của việc lựa chọn ấy, mặc dầu phải hy sinh rất nhiều. 

  1. Martin Kohe nói: “Sức mạnh lớn nhất mà con người có được là sức mạnh có được quyền lựa chọn”.

Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả,

đó là ơn nhận ra Thánh giá của Con Cha

trong mọi nỗi khổ đau của đời con,

và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh giá,

bao lâu tùy ý Cha định liệu.

Nhờ Cha, ước gì đau khổ của con

nói lên lòng tin của con

vào những lời hứa của Cha,

lòng cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha,

và lòng mến mà con dành cho Cha.

Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân,

và yêu Cha chỉ vì Cha,

chứ không mong phần thưởng.

Ước gì Thánh giá trở nên mẫu gương cho con,

là ánh sáng cho cho con trong đêm tăm tối,

nhờ đó con không còn coi khổ đau

như một tai họa hay một điều vô lý,

nhưng như một dấu chỉ cho thấy

con đang thuộc về Cha mãi mãi.  (Karl Rahner)

Về mục lục

.

CUỘC THƯƠNG KHÓ MANG TÊN CON NGƯỜI

Lm. Giuse Hoàng Kim Toan

Tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Giêsu cũng gợi lên bao cuộc thương khó của con người ngày nay đang gây ra cho nhau. Những cuộc thương khó ấy giống như Thánh Phaolô nói: “Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh.” (Col 1, 24). Ước gì những người đang mang gánh nặng khổ đau cùng mang tâm tình của Thánh Phaolô để được tháp nhập vào trong thập giá của Chúa Giêsu.

Đau khổ về tâm hồn.

Tại vườn cây Dầu, Chúa nói với các môn đệ: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy.” (Mt 26, 38).

Nỗi đau tâm hồn đến từ nhiều khía cạnh trong cuộc đời này. Những người cha, mẹ, buồn sầu vì những đứa con ngỗ nghịch, đi hoang, ăn chơi, rơi vào cạm bẫy ma tủy đá, thuốc kích thích… Biết bao đau khổ của những con người tâm hồn bị dày xéo bởi tội lỗi của mình và của người khác gây nên, không thể ra khỏi hoặc trốn tránh.

Trong nỗi đau khổ tâm hồn, Chúa mang chịu trong vườn cây Dầu, chẳng mấy môn đệ hiểu về mình, vẫn tranh giành chỗ nhất, chỗ nhì, vẫn sẵn sáng chạy trốn khi cơn nguy hại đến. Cô đơn, lạc lõng, sống với nhau bao nhiêu năm, nhưng chẳng bao giờ hiểu nhau, thông cảm, sẻ chia, tha thứ, lại còn sẵn sàng lên án. Khinh miệt và chịu lên án.

Nỗi đau tâm hồn, như Chúa nói: “buồn đến chết được”, là cái chết của những trái tim bị bỏ rơi giữa dòng đời, giữa lúc tình người chỉ còn là chém giết, giữa lúc con người chỉ là tranh giành hơn thua. Con người yếu thế đến cùng cực, kêu than mà chẳng được đoái hoài. Tiếng thét gào của những con người bị tước đoạt mọi sự chỉ còn tấm thân trần mỏi mệt.

Nỗi đau của tâm hồn, còn đang chịu dày xéo bởi những lầm lỗi quá lớn trong cuộc đời vấp ngã. Những bà mẹ đau khổ từ trong đáy sâu của trái tim, khóc thương cho những đứa con mình đã giết chết, của những nặng nề oán thù mà không có dịp để gặp lại tha thứ, của những vô tình làm lạc mất nhau trong cuộc đời.

Đau khổ bởi ly biệt. Những người con mới trưởng thành, bước vào đời với những chập chững thành công đã bị chết bởi tai nạn, bởi chiến tranh, giết hại, bạo lực tính dục… Những người cha mẹ, ngày nay đôi khi cũng chỉ có một con hoặc cũng chỉ trông vào người con đang khôn lớn với đời. Mất mát để lại sự trống vắng, tê dại tâm hồn người ở lại.

Không thiếu những khổ đau tâm hồn, nhiều kiểu, nhiều cách, những đau khổ không tên, được mời gọi thông phần vào cuộc khổ nạn của Chúa. Xin cho những tâm hồn khổ đau được thấy ánh bình minh của ngày mới Phục Sinh xoa dịu những thương đau.

Đau khổ thể lý.

Chịu đánh đón, khạc nhổ, đội mạo gai, vả vào mặt, vác Thánh Giá, chịu lột trần, chịu đóng đinh, lưỡi đòng đâm thâu…

Ngày nay cuộc thương khó ấy vẫn còn tiếp diễn trên nhiều người chịu khổ đau. Vì chiến tranh, họ trở thành những di dân, đến những vùng đất xa lạ để bắt đầu lại cuộc sống. Thế nhưng, nhiều nơi họ vẫn bị từ chối và phải ở lại những căn lều tạm bợ, với những bệnh tật, thiếu thốn. Trong thông điệp Giáng Sinh 2017, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói về những tình trạng tại Sirya, Sudan, Somalia, Burundi, Cộng Hòa Congo, Cộng Hòa Trung Phi và Nigeria.: “Chúng ta thấy Chúa Giêsu ở nơi nhiều trẻ nhỏ bị buộc phải rời khỏi đất nước của mình để một mình ra đi trong những điều kiện phi nhân và những trẻ em đang trở thành một mục tiêu dễ dàng cho những kẻ buôn người. Qua đôi mắt của các cháu chúng ta thấy bi kịch của tất cả những người bị buộc phải di dân và chịu rủi ro mạng sống của họ khi đối diện với những hành trình mỏi mệt mà đôi khi kết thúc trong tình trạng bi đát.” (Thông Điệp Urbi et Orbi 2017).

Đau khổ vì những căn bệnh do môi trường ô nhiễm, thực phẩm bẩn, điều kiện sống tệ hại… Những đau khổ trên thân xác hằng ngày là những thử thách về niềm tin, trông cậy: “Bệnh tật, trên hết là bệnh nghiêm trọng, luôn luôn đặt sự hiện hữu của con người vào trong cuộc khủng hoảng và mang theo cùng với nó những câu hỏi đào sâu. Sự đáp trả đầu tiên của chúng ta đôi khi là một sự đáp trả kiểu nổi loạn: Tại sao điều này lại xảy ra với tôi? Chúng ta có thể cảm thấy tuyệt vọng, nghĩ rằng tất cả đã mất hét, rằng mọi thứ không còn ý nghĩa nữa…” (Sứ điệp ngày bệnh nhân lần thứ 24, Đức Giáo Hoàng Phanxicô).

Đau khổ về thể lý cũng đang hoành hành nơi những xã hội kém an ninh, thiếu nền tảng đạo đức: Bạo lực học đường, đường phố, bắt cóc, buôn người, mua bán nội tạng, ma túy đá, trộm cướp, giết người…

Cuộc gặp gỡ hòa giải quốc gia diễn ra trong hình thức một buổi cử hành Lời Chúa trong một cơ cấu có mái che có chỗ cho 6.000 người, ngày 9 – 9 – 2017.

Ngỏ lời với đại diện các nạn nhân của bạo lực, giới quân nhân và cảnh sát cũng như các cựu du kích quân ĐTC nói:

“Với lòng tôn trọng tôi đến một vùng đất được tưới gội bằng máu của hàng ngàn nạn nhân vô tội, và với nỗi đớn đau xé lòng của các thân nhân và người quen của họ. Các vết thương khó trở thành sẹo và khiến cho chúng ta tất cả đau đớn, bởi vì mỗi một bạo lực chống lại một con người là một vết thương trong thịt xác của nhân loại; mỗi một cái chết bạo lực khiến cho chúng ta ít là người hơn. Tôi ở đây không phải để nói nhưng để gần gũi anh chị em và nhìn vào mắt của anh chị em, để lắng nghe anh chị em và mở rộng con tim của tôi cho chứng tá cuộc sống và đức tin của anh chị em. Và nếu anh chị em cho phép, tôi cũng muốn ôm anh chị em trong vòng tay và cùng khóc với anh chị em, tôi muốn chúng ta cùng nhau cầu nguyện và tha thứ cho nhau – cả tôi nữa cũng phải xin tha thứ – và như vậy cùng nhau tất cả chúng ta có thể nhìn và tiến tới với đức tin và niềm hy vọng.”

Đau khổ về tinh thần:

Tại đồi sọ trên Thánh Giá Chúa vẫn phải chịu sự bêu riếu của quân lính, của người đời:  “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn! “. Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống37 và nói: “Nếu ông là vua dân Do-thái thì cứu lấy mình đi! ” (Lc 23, 35 – 36).

Nỗi đau đến từ những vu oan, báo họa, chịu tổn thương vì những tin giả, hoặc những bôi nhọ trên các phương tiện truyền thông. Đức Giáo Hòang ghi nhận trong sứ điệp ngày truyền thông thế giới 2018:

“Khó khăn của việc lột mặt nạ và bài trừ tin giả cũng là do bởi sự thật là nhiều người tương tác trong những môi trường kĩ thuật số đồng nhất không thể tác động được trước những cách tiếp cận và ý kiến khác nhau. Do đó thông tin sai lệch phát triển trên một sự vắng bóng của sự đối diện lành mạnh với những nguồn thông tin khác vốn có thể một cách tích cực đang thách đố những thành kiến và tạo ra cuộc đối thoại mang tính xây dựng; thay vào đó, sự lệch lạc này có nguy cơ biến người ta thành những người đồng phạm không sẵn sàng trong việc lan tỏa những ý tưởng lấn loát và thiếu cơ sở. Bi kịch của thông tin sai lệch là nó sẽ hạ thấp uy tín người khác, trình bày họ như những kẻ thù, đến mức biến họ thành quỷ và tạo nên mâu thuẫn. Tin giả là một dấu hiệu của những thái độ bất khoan dung và nhạy cảm thái quá, và chỉ dẫn đến việc làm lan tỏa sự kiêu ngạo và hận thù. Đó là kết quả cuối cùng của điều không thật.”

“Điều đáng quan ngại chính là lòng tham của chúng ta. Tin giả thường đi với việc lan tỏa, phát tán quá nhanh chóng đến nỗi thật khó để dừng lại, không phải vì cảm giác của việc chia sẻ làm động lực cho mạng xã hội, mà vì nó khơi gợi lòng tham không đáy vốn quá dễ dàng nổi lên trong con người nhân loại. Các mục đích kinh tế và mang tính thao túng đang nuôi dưỡng thông tin sai lệch được bắt rễ trong một lòng khao khát quyền lực, một lòng khao khát muốn sở hữu và hưởng thụ, mà sau cùng biến chúng ta thành nạn nhân của một điều gì đó bi đát hơn: sức mạnh mang tính lừa phỉnh của ma quỷ vốn chuyển từ một sự giả dối này đến một sự giả dối khác hòng cướp đi khỏi chúng ta sự tự do nội tâm. Đây là lý do vì sao việc giáo dục sự thật có nghĩa là dạy cho người ta biết cách biện phân, đánh giá và hiểu được những khao khát và khuynh hướng thẳm sâu nhất, để chúng ta không đánh mất tầm nhìn về điều gì là thiện hảo và sa ngã trước mọi cơn cám dỗ.”

Những con người chịu đau khổ về tin giả hằng ngày vẫn thường tìm đến cái chết qua việc tự tử, bị trầm cảm, mất niềm tin vào cuộc sống…

Có lẽ cuộc thương khó của Chúa Giêsu còn nhiều tập nhiều chương viết tiếp. Như vết đinh muôn đời mới, con người vẫn đâm vào tim nhau, vẫn còn cướp bóc mạng sống của nhau, vẫn giết chết nhau bằng những đau đớn tinh thần. Bao lâu nữa, con người mới biết thương nhau, tha thứ cho nhau, đón nhận nhau với tình thân hữu, để tháo đanh Chúa xuống khỏi thập giá và đón chờ Chúa Phục Sinh đổi mới nhân loại.

Thay lời kết:

“Lạy Chúa, xin hãy dùng chúng con như khí cụ bình an của Chúa.
Giúp chúng con nhận ra sự dữ ẩn náu trong một nền truyền thông không xây dựng sự hiệp thông.
Xin giúp chúng con biết bỏ đi sự độc hại khỏi những phán xét của chúng con.
Giúp chúng con biết nói về người khác như những anh chị em của chúng con.
Chúa là Đấng trung tín và đáng tin; xin cho những lời của chúng con là những hạt giống của sự tốt lành cho thế giới:
nơi nào có gào rú, xin giúp chúng con biết thực hành sự lắng nghe;
nơi nào có sự bối rối, xin giúp chúng con biết gợi sự hòa hợp;
nơi nào có sự mập mờ, xin giúp chúng con biết mang lại sự mạch lạc.
nơi nào có sự loại trừ, xin giúp chúng con biết mang lại tình liên đới;
nơi nào có sự ủy mị, xin giúp chúng con biết mang lại sự tiết độ;
nơi nào có sự hời hợt, xin giúp chúng con biết đặt ra những câu hỏi thật sự;
nơi nào có thành kiến, xin giúp chúng con biết đánh thức sự tin cậy;
nơi nào có sự thù nghịch, xin giúp chúng con biết mang lại sự tôn trọng;
Nơi nào có sự giả dối, xin giúp chúng con biết mang lại sự thật.
Amen.”

 Làm tại Vatican, 24/01/2018Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Joseph C. Pham (Chuyển ngữ từ Vatican News)

Về mục lục

.

BÓNG TỐI VÀ NIỀM TIN

Lm. GB. Trần Văn Hào

 Bước vào tuần thánh, chúng ta tiếp bước dấu chân Đức Giêsu tiến vào Giêrusalem. Cùng với Ngài, chúng ta đi từ vinh quang sáng chói khi được toàn dân đón chào, đến cái chết bi thương và nhục nhã trên Thập giá. Thoạt đầu, dân chúng tôn vinh Chúa như một lãnh tụ oai hùng, nhưng cuối cùng họ đã trở mặt. Tất cả đã đồng thanh đả đảo và kết án Ngài như một tên tội phạm.

 Giêrusalem, thành phố của những đối nghịch

 Đỉnh điểm của mùa chay là cuộc hành trình lên Giêrusalem, một thành phố đầy những mâu thuẫn trái ngược. Giêrusalem là kinh thành có đền thờ thánh thiêng để tôn kính Giavê, đồng thời cũng là nơi sùng bái những ngẫu tượng. Đây là chốn biểu thị niềm tin tôn giáo, nhưng cũng là nơi đầy gương mù khủng khiếp. Giêrusalem là thành phố của ánh sáng, nhưng cũng là một thế giới ngập tràn bóng tối. Dân Do thái từ chỗ đặt niềm tin trọn vẹn vào Đức Giêsu, nhưng sau đó họ đã trở mặt, lòng chất đầy phẫn nộ và sự căm thù. Giuđa thì bán đứng vị tôn sư khả kính. Trò phản thầy cách gian ác và tàn nhẫn. Các đầu mục tôn giáo thì quá quỷ quyệt đã dàn dựng một phiên tòa giả dối. Riêng các môn sinh nghĩa thiết nhất lại vội quên mất vị tôn sư của mình. Họ ngủ vùi trong mệt mỏi và cuối cùng đã lặng lẽ tháo lui. Phêrô thì quá khiếp sợ đã thẳng thừng chối bỏ người thầy đáng kính. Còn Philatô, giống như một kẻ đồng lõa, đã kết án Đức Giêsu cho dù ông biết Ngài hoàn toàn vô tội. Lính gác và đám đông thì tha hồ mỉa mai chửi bới và không tiếc lời lăng mạ. Điều trớ trêu nhất, là dân chúng lại xin tha Baraba và đòi giết Đức Giêsu. Baraba, theo nguyên ngữ Aram, có nghĩa là ‘con của cha’. Họ đã chọn để xin tha một người ‘con’ với quá khứ đặc kín tội ác, và đòi kết án người ‘Con’ duy nhất của Chúa Cha, Đấng hoàn toàn vô tội, đã gánh trên vai tội lỗi của cả trần gian. Giêrusalem quả là nơi nhức nhối đầy những đối nghịch và mâu thuẫn.

 Niềm tin kiên định nơi Đức Giêsu

 Sự kiên định trong niềm tin nơi Đức Giêsu giữa bóng tối của Thập giá là một chứng tá và cũng là khuôn mẫu tuyệt hảo để chúng ta dõi theo. Trong thơ gửi giáo đoàn Philip mà Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay, Thánh Phaolô nêu bật cho chúng ta khuôn mẫu này. Thánh nhân chiêm ngắm sự tự hạ và biến mình ra không nơi Chúa Giêsu, để dẫn đến vinh quang. Các nhà chú giải cho rằng Phaolô đã trích dẫn một bài thánh thi rất quen thuộc thời xưa. Phần dẫn nhập do chính thánh nhân biên soạn. Ngài đã viết những câu giới thiệu như sau: “ Nếu Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau…, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu Kitô (Phil 2,1-5). Sau đó, vị Tông đồ đã viết trọn bài Thánh thi với lời mở: “ Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ”. Bài Thánh Thi đã mô tả Thập gía như cách diễn bày sự khiêm nhường và vâng phục sâu thẳm nơi Chúa Giêsu. Kết quả của hành vi tự biến mình ra không, là ‘Thiên Chúa đã tôn vinh Người và mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa’.

 Thông thường, người ta vẫn hiểu rằng Thánh Phaolô đề cao chức phận làm con của Đức Giêsu, được hiện lộ nơi dáng vẻ bi thương của Thập gía. Đức Giêsu đã hạ mình, giấu bỏ thần tính cao sang để mặc lấy kiếp người hèn hạ cho đến chết và chết trên Thập gía. Tuy nhiên, ở đây chúng ta thấy có một hình ảnh song đối, nhưng khác nhau hoàn toàn giữa Đức Giêsu và Ađam. Ađam được tạo thành, giống hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26-28), nhưng lại muốn trở nên ngang bằng Thiên Chúa, vì kiêu ngạo và bất tuân (3,5t). Hệ quả là Ađam đã sa ngã trong tội dẫn đến cái chết. Ngược lại, Đức Giêsu –  Ađam mới, đã sống khiêm tốn và vâng phục, trút bỏ vinh quang của một vị Thiên Chúa. Kết quả là Ngài được siêu thăng và đã mở ra cho nhân loại chân trời ơn cứu độ. Bản văn soi sáng để chúng ta thấu đạt cả hai cách diễn nghĩa liên kết với nhau. Chúa Giêsu là Ađam mới, và cũng là người con thực sự của Chúa Cha. Ngài đã tự hư vô hoá mình, mang lấy tình trạng tội lỗi của Ađam xưa, tình trạng sống kiếp nô lệ, và tiến nhận cái chết để giải thoát chúng ta khỏi kiếp nô lệ và thân phận phải chết.

 Khi suy gẫm việc Đức Giêsu đi vào mầu nhiệm tự hủy, chứng tá cho niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa và đã trải qua những giờ phút hãi hùng trên Thập giá, có lẽ chúng ta vẫn nghĩ tưởng rằng Ngài đã biết trước những gì sẽ xảy ra. Nếu quả như thế và Đức Giêsu không thể có một sự chọn lựa nào khác, rồi sau đó Ngài biết chắc chắn Chúa Cha sẽ cho Ngài phục sinh vinh quang, thì những giây phút hấp hối kinh hoàng của Chúa trong vườn cây dầu chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Tại sao Chúa lại phải khiếp sợ, phải căng thẳng, mồ hôi và máu lại tuôn đổ đến mức thảm thiết như vậy? Tại sao Chúa phải lớn tiếng rơi lệ khẩn xin với Đấng có thể cứu mình khỏi chết (Dt 5,7) :“ Cha ơi, nếu có thể, xin hãy cất chén đắng này xa con”? Và nếu như Ngài biết trước, và phải miễn cưỡng chấp nhận, thì tại sao trên Thánh giá Chúa vẫn phải thét gào một cách thảm thiết: “Cha ơi, sao Cha nỡ bỏ rơi con”? Thánh Phaolô đã cho chúng ta thấy rằng, vì Đức Kitô đã tự hư vô hóa mình, đã tự nguyện đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy, nên Ngài đã hoàn toàn tín thác vào Chúa Cha, tín thác tận căn, đặc biệt giữa bóng tối dầy đặc của Thập giá và cái chết. Nếu Đức Giêsu biết trước Ngài sẽ sớm được phục sinh trong vinh quang, thì ngày thứ Sáu tuần thánh không còn là một ngày đen tối đầy u ám nữa. Song, khi mang thân phận con người giống hệt chúng ta, cho dù có thể Ngài biết, Ngài vẫn phải trải qua những phút giây khủng khiếp nhất, kinh hoàng nhất và đã hoàn toàn tín thác vào Cha Ngài.

Chúng ta phải nhìn vào bóng tối phủ kín nơi Đức Giêsu, với tất cả vẻ bi thương trong kiếp người, mang trên vai mọi tội lỗi trần gian, để có thể nhận ra nơi Ngài một niềm tin kiên định và một sự vâng phục tuyệt đối. Đây là nguyên mẫu đức tin cho chúng ta, khi đối diện trước những bầm dập và tan nát trong cuộc đời. Có bao giờ chúng ta đã kinh qua những phút giây bi thương như thế chưa, khi chúng ta bị mất hết, bị nhấn chìm trong bóng tối của khiếp hãi? Khi gặp những khổ đau và cay đắng, khi bị bạn bè xa tránh, bị rơi vào chán chường hay tuyệt vọng…, chúng ta có cảm thấy như đang bị Thiên Chúa bỏ rơi hay không? Đức Giêsu đã trải nghiệm như thế, ở Giêrusalem và ở trên Thập giá. Sự bi thương của Ngài còn gấp cả ngàn lần, triệu lần so với những khổ đau mà chúng ta đang gặp phải.

 Kết luận

 Trong tuần này, Giáo hội muốn chúng ta cùng với Đức Giêsu đi vào lộ trình lên Giêrusalem, để thông dự vào những giờ khắc đen tối nhất trong cuộc đời tại thế của Ngài.

Về mục lục

.

CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ.

Lm. Đaminh Trần Quang Hiền

Đối với các Tông Đồ, việc Đức Giêsu khải hoàn tiến vào Giêrusalem để khai mào vương quốc, vương quốc mà các ông hằng mơ tưởng, thế là mộng công hầu khanh tướng của các ông đã thành hiện thực.

Đối với Chúa Giêsu thì đàng sau cái vẻ thành công bên ngoài đó, Người đã nhìn thấy rõ tương lai, là việc Người bị chối bỏ, bị kết án. Hơn thế nữa, việc tiến vào Giêrusalem gợi nhớ đến ngày Người sẽ đến trong vinh quang, là ngày tất cả mọi người sẽ đi vào trong vương quốc Chúa Cha, ngày họ sẽ nhận Người là Vua đã đến cứu họ, và họ sẽ nhận Người làm Chúa của họ.

Nhưng cuộc rước lá còn nhắc nhở chúng ta về nghịch lý mà những người có mặt trong buổi Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem đã phạm phải. Họ cắt nghĩa sai sứ mệnh của Chúa Giêsu. Bởi tuy Người có tiến vào thành thánh như một vị vua nhưng là để khai trương Nước của Thiên Chúa Cha. Vị vua mà người Do Thái đón đợi là một Đavid mới, một vị vua làm cho họ được thống trị trên các dân tộc. Còn việc Đức Giêsu đến trần thế hoàn toàn khác với niềm mong chờ này của họ.

Cũng vì lẽ đó mà dân chúng đã thay lòng đổi dạ, họ tung hô Chúa Giêsu nhưng ít ngày sau đó chính họ lại quay lưng, kết án Ngài. Một Philatô hèn nhác, nhượng bộ đám dân náo loạn bỏ rơi Chúa Giêsu thay vì phải trả lại sự công chính cho Người. Ngay cả các tông đồ là những người thân cận với Chúa Giêsu cũng đã phản bội. Giuđa đã nộp Người bằng cái hôn thân tình. Phêrô chối Thầy 3 lần.

Chúa nhật Lễ Lá hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn lại chính bản thân mình. Tôi cũng có thể là một trong những môn đệ hay đám đông đang khước từ, kết án Chúa Giêsu trong cuộc sống của mình. Tôi cũng có thể là một Philatô vì không dám sống theo sự thật của Tin Mừng, đã bao lần tôi sống trong giả dối, chạy theo quyền lực, tiền bạc, xác thịt để khước từ Thiên Chúa, sợ theo Chúa đòi buộc tôi phải từ bỏ chính mình. Tôi cũng có thể là một Giuđa phản bội lại Thầy mình, một Phêrô chối Thầy, đánh mất giá trị của tình thầy trò, đánh mất giá trị của người môn đệ, làm rạn nứt mối tương quan mật thiết với Chúa Giêsu chỉ vì một chút lợi lộc của vật chất, tiền bạc, danh vọng. Với một lối sống theo chủ nghĩa hưởng thụ, duy vật chất tôi đã chối bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Thiên Chúa không còn là giá trị tuyệt đối, là ưu tiên trong cuộc sống của tôi nữa.

Bước vào Tuần Thánh và cao điểm là Tam Nhật Vượt Qua mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại thái độ sống là người Kitô hữu của mình, để chớ gì chúng ta biết can đảm sống theo những giá trị của Tin Mừng mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta bước đi, dám đặt Thiên Chúa lên trên những bậc thang giá trị trần thế khác.

Chuẩn bị bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội mời gọi mỗi người kitô hữu hãy cùng bước theo Đức Giêsu trên con đường thập giá. Chúng ta không chỉ theo Chúa khi gặp may mắn, thành công, bình an nhưng dám chấp nhận theo Chúa ngay cả khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại. Bước theo Chúa không phải là con đường hoàn toàn bình an, hạnh phúc, mà là một con đường chọn lựa quyết liệt giữa những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực để đặt Thiên Chúa chính là giá trị tuyệt đối, là hạnh phúc viên mãn của mình.

Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là đi ngược dòng đời, ngược lại với những trào lưu chạy theo sự dễ dãi, thoải mái, sự giả dối, ích kỉ, hận thù, bạo lực… để dám sống từ bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao dung mà Tin Mừng của Chúa Giêsu mời gọi.

Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá quả thật là một thách đố rất lớn trong bối cảnh ngày nay, nhưng chúng ta tin rằng chúng ta không đơn độc vì có Chúa cùng vác thập giá với chúng ta. Ngài luôn thấu hiểu, nâng đỡ, đồng hành với chúng ta, Ngài chia sẻ những khó khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta trên bước đường đi theo Ngài. Và nếu chúng ta can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài,  thì chúng ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh với Ngài.

Về mục lục

.

LỪA CON CHƯA AI CƯỠI BAO GIỜ

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Trong trình thuật Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem với tư cách đấng Mê-si-a, cả bốn Phúc Âm đều ghi nhận chi tiết mượn lừa và cỡi lừa; thậm chí có tác giả như Mác-cô và Lu-ca còn xác định chi tiết hơn: Người cỡi lên ‘con lừa con chưa ai cỡi bao giờ’. Hình ảnh Đức Giê-su khải hoàn tiến vào thành thánh ngồi trên lưng lừa thật ấn tượng; ấn tượng không phải vì vẻ uy nghi bề ngoài (điển hình như bức tranh Na-pô-nê-ôn oai phong trên lưng ngựa chiến vượt qua rặng núi Alpes của Jacques-Louis David), nhưng vì một một nét gì đó êm đềm và sâu sắc đến khó tả.

Tác giả Mát-thêu đã hé cho thấy ý nghĩa của cảnh tượng đó, khi trích dẫn lời ngôn sứ Da-ca-ri-a: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!… Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi; Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (Dcr 9:9). Các nhà chú giải Kinh Thánh đưa ra những giải thích quen thuộc, như “Các ngôn sứ đã loan báo một vị vua hiền hòa, đến viếng thăm dân, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, như người dân đơn sơ hiền hòa, thay vì ngồi trên lưng ngựa như vị tướng quân” (Christian Community Bible). Thực ra nói như thế ta vẫn chưa giải thích được gì, hoặc có nếu có thì cũng mới chỉ cho thấy hình tượng bên ngoài như một lối trình bày trước quần chúng (theo kiểu thường thấy nơi các diễn viên).

Tra cứu Cựu Ước, tôi được biết đối với người Do Thái, trong đời thường việc cỡi lừa chẳng có một ý nghĩa gì lớn. Cho tới thời Sa-lô-mom, các tổ phụ, các vua, các quan án hay mọi người giầu có, vị vọng cũng đều cỡi lừa cả (Tl 10:3; 1:14; 1Sm 25:23). Lừa đồng thời cũng từng là phương tiện chuyên chở phổ thông của cả vùng Pa-lét-tin thời đó. Phải đến thời hậu Sa-lô-môn sau khi ngựa chiến được du nhập, lừa mới trở thành biểu tượng của thời bình, cũng như ngựa là biểu tượng của thời chiến. “Kìa đức Vua đến với ngươi, hiền hòa trên lưng lừa!”. Đức Giê-su tự giới thiệu mình với đám quần chúng Do Thái như vị Con Người của đời thường, của hòa bình, khác xa với quan niệm chính trị về một đấng Mê-si-a chinh chiến đánh đuổi ngoại xâm được các thượng tế và luật sĩ truyền bá. Sau này, trước mặt tổng trấn Phi-la-tô của chính quyền Rô-ma, Người cũng sẽ thẳng thừng tuyên bố cùng một nội dung đó (Ga 18:36-38).

Đối với những ai am tường Cựu Ước hơn, khi nhắc tới chi tiết ‘Vua ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ’ chắc hẳn sẽ gợi nhớ hai giai thoại; A-bra-ham sát tế I-xa-ác, và con lừa cái của ông Bi-lơ-am. Câu chuyện sách Sáng thế chương 22 thuật: “Ông Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông là I-xa-ác. Ông bổ củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu… rồi lên đường tới nơi Thiên Chúa bảo… Sang ngày thứ ba, ngước mắt lên, Áp-ra-ham thấy nơi đó ở đàng xa, ông bảo đầy tớ: “Các anh ở lại đây với con lừa, còn cha con tôi đi lên tận đàng kia làm việc thờ phượng, rồi sẽ trở lại với các anh”… Ông Áp-ra-ham lấy củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu đặt lên vai I-xa-ác, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi…” I-xa-ác trước khi bị cha mình sát tế, đã vác củi thay con lừa mang nặng. Còn sách Dân số chương 22 thì kể câu chuyện Bi-lơ-am, thầy sấm của dân Ma-đi-an, cỡi con lừa cái của mình chạy trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Ba lần con lừa ‘thấy thần sứ của Đức Chúa đứng trên đường, gươm trần trong tay…’ và nó đã tìm cách tránh đường. Sau cùng thần sứ nói với Bi-lơ-am: “Con lừa cái thấy Ta, thì nó đã tránh mặt ta tới ba lần. Giả thử nó không tránh mặt Ta, thì chắc chắn Ta đã giết chết ngươi, còn nó thì Ta đã để cho sống…” Một con lừa gợi nhớ hy tế vâng phục, con kia nhắc nhở tha thứ khỏi cơn thịnh nộ!

Như vậy cảnh tượng Đức Giê-su khải hoàn tiến vào Giê-ru-sa-lem cỡi trên lưng lừa không đơn thuần chỉ là một hình ảnh gây ấn tượng. Nếu Hy tế Thập giá là cả một mạc khải vĩ đại về Thiên Chúa tình yêu và cứu độ, thì hình ảnh ‘cỡi lừa’ này chính là một phần của mạc khải đó (cũng như hình ảnh con rắn đồng trong Ga 3:14-18). Nó nói lên một Thiên Chúa hiền hòa, không kết án, không luận phạt; nó là hình ảnh rất Do Thái về một đấng Mê-si-a hiền hòa và xót thương, cứu vớt và tha thứ; một đấng Mê-si-a, ‘Đấng ngự đến nhân danh Chúa’ phải là như thế, không thể nào khác được!

Lạy Đấng Mê-si-a hiền hòa cỡi trên lưng lừa con, ai có thể mở miệng tung hô và đón nhận Người cách nhiệt tình nhất nếu không phải là những người tội lỗi thấp hèn? Nếu con không biết tung hô lòng từ bi nhân hậu Chúa, biểu lộ cách rực rỡ nơi mầu nhiệm Thập Giá, thì y như Chúa nói: “sỏi đá cũng sẽ kêu lên!” Xin cho tâm hồn con không bị trai cứng còn hơn cả sỏi đá tới độ không biết mở miệng lớn tiếng ca tụng tình thương cứu độ Người đã thực hiện trên thập giá vì yêu con! A-men.

Về mục lục

.

CHUYẾN KHỔ

Trầm Thiên Thu

CHÉN CAY, CHUYẾN KHỔ TRIỀN MIÊN

THẦY GIÊSU VẪN MỘT NIỀM XIN VÂNG

THẬP HÌNH LÀ DẤU YÊU THƯƠNG

CỨU NHÂN ĐỘ THẾ KHỎI VÒNG TRẦM LUÂN

Là phàm nhân, chẳng ai lại không khổ. Càng chạy trốn khổ thì càng thêm khổ: Khờ Ô Khô Hỏi Khổ. Khổ tới Khô và Khờ luôn, hỏi mà không ai trả lời được, chỉ thấy người ta thở dài và nói: “Khổ thật! Khố quá! Khổ lắm!”. Thấy “oải” lắm nghen. Khôn hồn thì có thể tránh khổ bằng cách “đi xuyên qua đau khổ”, chứ diệt khổ cũng chẳng hết, nó còn vây quanh nhiều hơn đấy. Vâng, biết rồi, khổ lắm, nói mãi!

Vì thế, người ta vẩn thường than vắn thở dài: “Khổ ải trần gian” hoặc “Đời là bể khổ”. Vâng, “biển khổ” chứ không phải “sông khổ” hoặc “ao khổ” đâu. Điều đó cho thấy kiếp người là chuỗi nối tiếp đủ thứ khổ, suốt hành trình ngổn ngang nỗi khổ, một chuyến khổ đầy ắp, khổ triền miên suốt ngày thâu đêm. Có lẽ vì vậy mà không ai cười để chào đời, mà lại “cất tiếng khóc chào đời”. Điềm báo khổ mà! Thế nên phải tự khổ luyện cách chấp nhận để khả dĩ phần nào “hóa giải” đau khổ thành niềm vui, nếu không thì càng chồng chất thêm đau khổ mà thôi. Chúa Giêsu gọi đó là “vác thập giá”.

Trong các nỗi khổ, có lẽ nỗi oan là loại gây “khó chịu” đối với chúng ta. Nhưng Chúa Giêsu đã nói với Thánh nữ Faustina thế này: “Con đừng ngạc nhiên vì đôi khi bị tố cáo bất công. Chính Ta đã từng uống chén đau khổ bất công này trước vì yêu con” (Nhật Ký Thánh Faustina, số 289). Nỗi khổ lớn nhất của chúng ta cũng không là gì so với nỗi khổ của Thầy Giêsu.

Từ hơn hai ngàn năm trước, hoàng tử Thích Ca Mâu Ni là sống trong cung vàng điện ngọc, nhưng ông đã “giác ngộ” sau khi nhìn thấy những cảnh khổ của kiếp người, thế nên ông quyết ngồi thiền dưới gốc bồ đề để tu thân và “tâm niệm” Tứ Diệu Đế: Sinh là khổ, Bệnh là khổ, Lão là khổ, và Tử là khổ. Nói chung, Khổ là… Khổ. Ông đã siêu thoát và được người ta tôn vinh là Đức Phật. Chắc chắn rằng MUỐN THOÁT ĐAU KHỔ thì chỉ có cách là ĐI XUYÊN QUA ĐAU KHỔ. Khi Chúa Giêsu cưỡi lừa vào thành Giêrusalem, được người ta vừa cầm lá thiên tuế chào đón vừa tung hô Ngài là “Đấng ngự đến nhân danh Chúa”. Thế nhưng chính giây phút đó lại là lúc khởi đầu “chuyến khổ” của Ngài.

KIẾP KHỔ

Người có “chuyến khổ” nặng nề nhất là Đức Giêsu Kitô, mệnh danh là “người tôi tớ đau khổ”, điều này đã được ngôn sứ Isaia đề cập nhiều lần. Ông cảm thấy Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho ông nói năng như một người môn đệ, để ông biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Ông xác nhận: “Sáng sáng Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ” (Is 50:4). Ông cho biết thêm: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50:5).

Hiền không phải là dại khờ hoặc yếu thế, mà là nhịn nhục và tha thứ. Ngôn sứ Isaia “không cưỡng lại” và “không thoái lui” dù ông phải “đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu” và “không che mặt khi bị mắng nhiếc, phỉ nhổ” (Is 50:6). Ông tin mình “có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ”, vì thế, ông “không hổ thẹn” mà cứ “trơ mặt ra như đá”. Thế nên ông biết mình sẽ “không phải thẹn thùng” (Is 50:7). Ông là hình ảnh của Đức Kitô, con người của đau khổ, khởi đầu “hành trình đau khổ” từ Giêrusalem, ngay khi được người ta cầm những cành thiên tuế tung hô là vua.

Nói về nỗi đau khổ tột cùng, trong tình trạng chịu nhục nhã ê chề, Thánh Vịnh gia mô tả:

Thấy con ai cũng chê cười

Lắc đầu, bĩu mỏ, buông lời mỉa mai:

“Nó trông cậy Đức Chúa Trời

Cứ để mặc Người giải cứu nó đi!” (Tv 22:8-9)

Thật thê thảm, thật thống thiết! Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ không chỉ bị khiêu khích, bị đau khổ về tinh thần mà còn bị đau khổ cả về thể lý, trong tình trạng thật tồi tệ:

Quanh con bầy chó bao chặt chẽ

Bọn ác nhân vây bủa trong ngoài

Chúng đâm con thủng chân tay

Xương con đếm được vắn dài, chúng xem (Tv 22:17-18)

Không chỉ như vậy, Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ còn tiếp tục chịu đau khổ đến tận cùng, thế nhưng vẫn luôn một lòng trông cậy vào Thiên Chúa mà thôi:

Áo mặc ngoài chúng đem chia chác

Còn áo trong cũng bắt thăm luôn

Chúa là sức mạnh con nương

Cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa! (Tv 22:19-20)

Còn hơn thế nữa, Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ vẫn không hề dao động, và chỉ muốn tôn vinh Thiên Chúa trong chính nỗi đau khổ tột cùng của mình:

Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa

Cho anh em tất cả được hay

Và trong đại hội dân Ngài

Con xin dâng tiến một bài tán dương (Tv 22:23)

Thật tuyệt vời và đáng khâm phục biết bao! Dù sao thì Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ luôn trung tín với Thiên Chúa, vừa tự động viên mình vừa khuyến khích người khác: “Hỡi những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng Người đi! Hỡi toàn thể giống nòi Gia-cóp, nào hãy tôn vinh Người! Dòng dõi Ítraen tất cả, nào một dạ khiếp oai!” (Tv 22:24).

CHỊU KHỔ

Mang số kiếp đau khổ thì chẳng tránh đâu cho thoát, thế thì chịu đựng cho khỏi “phiền phức”. Đó là thượng sách. Thánh Phaolô vừa phân tích vừa xác định: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2:6). Đạo cũng như đời, người quyền cao chức trọng có mấy ai dám “vi hành” để hiểu rõ cảnh khổ của người dân?

LM C.P. Varkey có kể lại trong cuốn “Authority: Its Use and Abuse” (Quyền bính: Sử dụng và Lạm dụng – NXB The Bombay Saint Paul Society, 1999) về một số “điểm son” của Đức cố GM Irumpen, GP Palakkad (Ấn Độ), một giám-mục-đa-không, một tấm gương sáng về tinh thần phục vụ và dấn thân. Tác giả Varkey cho biết:

Mỗi Chúa Nhật, ngài đến một giáo xứ nào đó mà KHÔNG BÁO TRƯỚC, ngồi tòa giải tội khoảng 15-20 phút, dâng lễ, giảng lễ, dạy giáo lý, và chuyện trò với giáo dân và linh mục quản xứ; ngài KHÔNG BAO GIỜ cho phép người ta tổ chức tiếp tân chào mừng ngài tại các giáo xứ. Và tại tòa giám mục hay ở bất cứ nơi đâu mà ngài ghé thăm, ngài không nhận bất cứ sự biệt đãi nào dành cho mình; ngài cho rằng sự hào nhoáng bên ngoài (kiểu như đoàn xe đưa rước trong những dịp đặc biệt) KHÔNG PHẢI LÀ CHỨNG NHÂN TIN MỪNG mà là chứng nhân của văn hóa thế tục; hằng ngày ngài dành thời gian từ 9 giờ đến 12 giờ để TIẾP BẤT CỨ AI đến gặp, KHÔNG cần hẹn trước; ngài KHÔNG BAO GIỜ nghỉ trưa; ngài chỉ dự những lễ kỷ niệm chịu chức hay khấn dòng NẾU những lễ ấy tổ chức ở nhà thờ chính tòa; ngài KHÔNG tổ chức mừng ngày kỷ niệm thụ phong giám mục của mình. Năm nào ngài cũng mừng lễ bổn mạng dịp các linh mục tĩnh tâm tháng vào ngày 19 tháng Ba (lễ Đức Thánh Giuse).

Linh mục đoàn cùng nâng cốc chúc mừng và nhâm nhi chút bánh ngọt; ngài KHÔNG đưa lên bảng thông tin giáo phận các tin về hoạt động hay đi lại của ngài trong giáo phận, mà chỉ thông tin cho mọi người biết trước về những trường hợp ngài phải ra ngoài giáo phận quá một ngày, chẳng hạn khi ngài sắp đi dự họp Hội Đồng Giám Mục,…; ngài KHÔNG BAO GIỜ đi nước ngoài, trừ phi đó là bổn phận bắt buộc như về Rôma dịp Ad limina. Ngài KHÔNG BAO GIỜ đi nước ngoài để quyên tiền. Ngài nói rằng các nhu cầu căn bản của giáo phận cần phải được gánh vác bởi chính giáo dân trong giáo phận; KHÔNG BAO GIỜ có chuyện “phạt treo”, chẳng hạn không cấp giấy chứng chỉ hôn phối vì người ta chưa đóng góp quĩ; ngài luôn ĂN MẶC GIẢN DỊ, ĂN CHAY TRƯỜNG, và chẳng ai thấy hình ảnh của ngài trên báo chí; ngài hưu trí tại nhà hưu của các linh mục cao niên.

Cuộc đời ngài thật đơn giản, tất cả đồ đạc xếp gọn trong một chuyến xe nhỏ; giáo phận tặng ngài một ô tô dịp ngài về hưu, nhưng NGÀI KHÔNG NHẬN, chỉ muốn được trợ cấp hưu bổng đúng theo mức hưu dưỡng như các linh mục khác trong giáo phận; ngài KHÔNG MUỐN XIN VIỆN TRỢ từ bên ngoài để xây các nhà thờ to lớn. Nếu ai dâng hiến đất, ngài sẽ xây một nhà thờ vừa phải với sự hỗ trợ của chính các giáo dân địa phương; văn phòng của ngài là một gian phòng nhỏ trong một ngôi nhà cũ kỹ, không có bất cứ món trang trí nào; ngài là một chứng nhân Tin Mừng, sống điều ngài rao giảng, cách sống của ngài cho thấy rõ QUYỀN BÍNH LÀ ĐỂ PHỤC VỤ.

Là người Việt Nam, chắc hẳn chúng ta không thể nào quên tấm gương sáng về sự quên mình phục vụ của Đức cố GM Jean Cassaigne (1895–1973, người Pháp, quen gọi cha Sanh, nguyên giám mục GP Saigon), vị tông đồ của người cùi ở Di Linh (Đà Lạt). Ngài cũng đã từng rong ruổi khắp khu dân cư nghèo để thấy rõ thực tế, cửa tòa giám mục cũng luôn rộng mở đón tiếp mọi người.

Những chứng nhân sống động như vậy thật đáng khâm phục, bởi vì họ đúng là những mục tử nồng nàn “mùi chiên”, dám quên mình và xả thân vì đoàn chiên của Chúa. Họ thực sự là những Vị Thánh Sống.

“Chiên Con hiền lành” Giêsu là Con Thiên Chúa, không chỉ là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ mà còn là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ-Khiêm-Nhường: “Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:7). Cái chết của Ngài khác thường là “chết trên thập giá”, loại khổ hình nhục nhã nhất thời đó. Chính vì Ngài chịu đau khổ đến tột cùng mà “Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2:9), danh hiệu ấy cao cả và quyền năng đến nỗi “khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ” (Pl 2:10). Để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2:11). Thật vậy, ngay sau khi hả hê giết chết Ông Giêsu, viên đại đội trưởng đã phải sợ hãi và thốt lên: “Quả thật, ông này là Con Thiên Chúa, đích thực là người công chính!” (Mt 27:54; Mc 15:39; Lc 23:47).

Dù cho cuộc sống nghèo nàn hoặc rất ư bình thường, cũng chẳng ai muốn đau khổ, nghĩa là ai cũng muốn sống sung sướng, muốn tận hưởng niềm hạnh phúc – tận hưởng bằng mọi cách và càng nhiều càng tốt. Vì thế mà CON NGƯỜI KHÔNG NGỪNG THAO THỨC ĐI TÌM HẠNH PHÚC. Đau khổ luôn là một ẩn số đối với cuộc sống, đồng thời cũng như một hằng số. Những người chấp nhận đau khổ có thể bị coi là “ngu xuẩn”, là “dại dột” hoặc “điên khùng”. Nhưng chính đau khổ đã tạo nên các vĩ nhân và các thánh nhân.

Ở bất kỳ quốc gia nào, khi bị cáo đứng trước vành móng ngựa cũng có luật sư bào chữa. Trong Giáo hội Công giáo, trước khi phong thánh cho ai thì cũng có 2 “phe”, một phe đưa ra các điều tốt và một phe đưa ra các điều xấu – được gọi là “luật sư của quỷ”, phe luật sư này sẽ đưa ra mọi thứ “bất lợi” cho ứng viên đến khi “chịu thua” mới thôi. Chẳng hạn trường hợp của Thánh GH Gioan XXIII, luật-sư-của-quỷ đã hết cách nên đành “tố cáo” rằng Đức Gioan XXIII hồi nhỏ hay CHƠI DIỀU. Thật là tức cười!

Thế nhưng khi Chúa Giêsu bị xét xử, dù không ai thấy Ngài có tội gì ngoài “tội làm điều tốt”, không hề có trạng sư nào bào chữa cho Ngài. Ai cũng tố cáo, kể cả những người vừa tung hô Ngài mấy hôm trước. Phúc Âm theo Thánh sử Mác-cô ghi rõ rằng vừa tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng. Sau đó, họ TRÓI Đức Giêsu lại và giải đi NỘP cho ông Philatô. Ông Philatô hỏi Ngài: “Ông là vua dân Do Thái sao?” (Mc 15:2a). Chúa Giêsu trả lời: “Đúng như ngài nói đó” (Mc 15:2b). “Đúng như ngài nói đó”, một câu nói đơn giản mà THÂM THÚY và KHIÊM NHƯỜNG. Chúa Giêsu không hề tự nhận là Vua-dân-Do-Thái mà tại người ta nói vậy. Ngài chỉ tự nhận” là Con-Số-Không: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8:20; Lc 9:58) và “Tôi đến KHÔNG PHẢI ĐỂ ĐƯỢC NGƯỜI TA PHỤC VỤ, nhưng là ĐỂ PHỤC VỤ, và HIẾN MẠNG SỐNG làm giá chuộc muôn người” (Mc 10:45). Vụ án oan sai về Chúa Giêsu là vụ án bất công và độc ác nhất lịch sử nhân loại.

Thấy các thượng tế cấu kết với nhau để tố cáo nhiều tội, ông Philatô hỏi Chúa Giêsu: “Ông không trả lời gì sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội!” (Mc 10:4). Nhưng Ngài làm thinh, KHÔNG TRẢ LỜI gì nữa, khiến ông Philatô phải ngạc nhiên. Người hiểu thì không cần giải thích, người không hiểu thì giải thích cũng vô ích mà thôi!

Kinh Thánh cho biết rằng, vào mỗi dịp lễ lớn, ông Philatô thường phóng thích cho dân một người tù, tuỳ ý họ xin. Khi ấy có tử tù “khét tiếng” Baraba đang bị giam với những tên phiến loạn đã giết người trong một vụ nổi dậy. Đám đông kéo nhau lên yêu cầu tổng trấn ban ân xá như thường lệ. Ông Philatô hỏi: “Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua dân Do Thái không?” (Mc 10:9).

Chắc hẳn ông ta thừa biết chỉ vì ghen tị mà các thượng tế nộp Ngài. Nhưng các thượng tế xách động đám đông đòi ông Philatô phóng thích Baraba. Bị áp lực mạnh nên ông Philatô lại hỏi: “Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Do Thái?”. Họ la lên: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Mc 10:13). Ông Philatô muốn tha Chúa Giêsu vì thấy Ngài vô tội, nhưng ông ta hèn nhát và sợ mất chức quyền, ông cù cưa: “Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác?” (Mc 10:14a). Nhưng đám đông càng la to: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Mc 10:14b). Qua cách xét xử này, chúng ta thấy rằng KHÔNG PHẢI CỨ ĐA SỐ LÀ ĐÚNG, thậm chí còn trái ngược – tức là SAI THẬM TỆ. Đừng bao giờ vào hùa với người khác, nhất là trong những chuyện bất lợi cho tha nhân. Hãy lưu ý vài cái “đừng” mà Kinh Thánh đề cập:

  1. “ĐỪNG làm điều xấu thì cái xấu sẽ không thắng được con” (Hc 7:1).
  2. “ĐỪNG gieo trên những luống bất công, kẻo phải gặt bất công gấp bảy lần” (Hc 7:3).
  3. “ĐỪNG xin Đức Chúa cho con quyền cao, ĐỪNG xin vua cho con chức trọng” (Hc 7:4).
  4. “ĐỪNG tưởng mình là công chính trước mặt Đức Chúa” (Hc 7:5).
  5. “ĐỪNG để tội nào trói buộc con đến hai lần, vì một lần thôi cũng đủ để bị phạt” (Hc 7:8).

Chỉ vì muốn được lòng đám đông, ông Philatô đã phóng thích tướng cướp Baraba và truyền đánh đòn Đức Giêsu, rồi trao Ngài cho họ đóng đinh vào thập giá. Đám lính điệu Đức Giêsu vào bên trong dinh tổng trấn, và tập trung cả cơ đội lại. Chúng khoác cho Ngài một tấm áo điều, và kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Ngài, rồi mỉa mai: “Vạn tuế đức vua dân Do Thái!” (Mc 10:18). Chúng lấy cây sậy ĐẬP lên đầu Ngài, KHẠC NHỔ vào Ngài. CHẾ GIỄU chán, chúng LỘT ÁO điều ra, và cho Ngài mặc áo lại như trước. Vải dính vào những vết thương sẽ rất đau đớn khi bị giật áo ra. Cảnh tượng thật hãi hùng!

Thông thường, các tử tội được ân huệ sau cùng, nhưng Chúa Giêsu không hề được ân huệ cuối cùng nào, có chăng chỉ là chút giấm chua. Bị hành hạ đủ kiểu, thương tích đầy mình, thế mà Ngài còn phải tự vác thập giá đi lên đồi. Những kẻ thủ ác vô cùng bất công và thâm độc, phàm ngôn không đủ từ ngữ để diễn tả sự bất nhân như vậy!

Dọc đường lên Gôngôtha – nghĩa là Đồi Sọ, có một người tên Simôn (gốc Kyrênê, từ miền quê lên) tình cờ đi ngang qua đó. Chúng liền bắt ông vác thập giá đỡ cho Đức Giêsu. Tới nơi, chúng trao rượu pha mộc dược cho Ngài, nhưng Ngài không uống. Chúng đè Ngài xuống và đóng đinh vào thập giá, rồi đem áo Ngài ra bắt thăm mà chia nhau. Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba (khoảng 9 giờ sáng).

Hôm đó, có hai tên cướp cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu – nghĩa là Ngài bị liệt vào hạng những tên phạm pháp. Kẻ qua người lại đều khinh bỉ và nhục mạ Ngài, có kẻ vừa lắc đầu vừa nói: “Ê, mi là kẻ phá Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà cứu mình đi!” (Mc 10:29-30). Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Ngài như vậy, và kháo nhau: “Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình”. Rồi họ thách thức: “Ông Kitô vua Ít-ra-en, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin” (Mc 10:31-32). Thậm chí cả một tên cùng chịu đóng đinh với Ngài cũng không biết thân mà còn nhục mạ và thách thức Ngài: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” (Lc 23:39). Thật tồi tệ, chết đến nơi không sợ mà còn hống hách!

Bất ngờ bóng tối bao phủ khắp mặt đất từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín (khoảng từ 12 giờ tới 15 giờ), mặc dù trời đang nắng chang chang. Một hiện tượng thiên nhiên bất thường, vô cùng kỳ lạ! Vào giờ thứ chín, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Ê-lôi, Ê-lôi, la-ma-xa-bác-tha-ni!” – nghĩa là: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 10:34). Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: “Kìa hắn kêu cứu ông Êlia”. Có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói: “Để xem ông Êlia có đến đem hắn xuống không”.

Sau đó, Đức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn, rồi trút hơi thở. Sự lạ lại xảy ra: Bức màn trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Và rồi chính viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Ngài tắt thở như vậy cũng phải công nhận Tử Tôi Giêsu là Con Thiên Chúa. Thế là hoàn tất “chuyến khổ”. Những người không muốn tin thì cho đó là nỗi thất bại ê chề của Đức Kitô, nhưng họ hoàn toàn lầm tưởng. Đối với những người tin Ngài thì đó là Hồng Phúc, và sẽ được Ngài ban Ơn Cứu Độ.

Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, cả Giáo Hội cùng chịu Đại Tang, đó là ngày Thế Giới Tang!

Lạy Thiên Chúa nhân từ, con chân thành sám hối và xin lỗi Chúa, xin Ngài thương xót và tha thứ. Xin cảm tạ Cha đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại. Phàm nhân tro bụi nhưng thật diễm phúc vì được tận hưởng Lòng Thương Xót vô biên nhờ cái chết cứu độ của Đức Kitô. Xin giúp con can đảm sống xứng đáng với Ơn Cứu Độ, kiên trì đi trọn hành trình đau khổ và làm chứng nhân của Lòng Thương Xót của Ngài, để mai đây con cũng được cùng phục sinh với Đức Giêsu Kitô. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

THẬT, NGƯỜI NÀY LÀ CON THIÊN CHÚA

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Chúa nhật Lễ Lá năm B hôm nay, Phụng vụ Giáo hội cho chúng ta đọc và nghe bài Thương Khó theo thánh Marcô. Tác giả Tin Mừng đã làm nổi bật lời của viên sĩ quan Rôma, người ngoại quốc, sau khi tham dự vào số những người hành quyết Chúa Giêsu, chứng kiến tận mắt cảnh Chúa bị đánh đòn, bị ngược đãi, bị treo trên thập tự giá và trút hơn thở, ông đã phải thốt lên cách ngạc nhiên : “Thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39).

Câu “Thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39) không phải dễ để viên sĩ quan tuyên xưng như thế. Anh đã thấy gì nơi khuôn mặt hầu như không còn hình dạng người ta nữa, để đưa ra một tuyên bố như vậy. Bằng mọi cách, anh phải khám phá ra Chúa Giêsu là người vô tội, bị bỏ rơi, và thậm chí bị phản bội; hay có thể là một con người bị đối xử không công bằng trong một xã hội bất công; Người không hề mở miệng, chịu đau khổ mà chẳng than van, chấp nhận mọi sự xảy đến cho mình, thật không hiểu nổi. Có lẽ, viên sĩ quan này cảm thấy mình là một kẻ đồng lõa với sự bất công khi thấy người vô tội mà anh không giơ ít là một ngón tay lên để ngăn chặn nó, anh nghĩ mình giống như bao người đã rửa tay trước những khó khăn của người khác.

Hình ảnh của viên sĩ quan người Rôma là hình ảnh của người có cái nhìn với lòng thương xót. Cùng lúc đó, niềm tin của một người ngoại đạo được tuyên xưng. Chúa Giêsu là Đấng vô tội, đã bị đánh đòn, bị bỏ rơi và bị giết chết, đồng thời, anh tin vào ý nghĩa sâu xa của sứ mạng, với “cái còn lại của tình yêu” và tin vào ý nghĩa sứ mệnh cao cả của Chúa, mà những vết thương còn hằn trên thân xác là bằng chứng.

Nhưng trước khi những điều điều trên xảy đến, Chúa Giêsu đã tiến vào  Giêrusalem và được dân chúng tung hô là Đấng nhân danh Chúa mà đến (x.Mc 11,9). Hôm nay, chúng ta cũng hô cũng hát, nhưng tiếng hô hát của chúng ta không phải là ảo tưởng và vô thức, giống như của dân thành Giêrusalem xưa. Lời tung hô của chúng ta hướng về Đấng đã trải qua thử thách đến nỗi hiến thân hoàn toàn và đã chiến thắng.

Sau cùng, nếu khi xưa dân chúng cầm cành lá dừa vừa đi vừa hát, họ còn trải áo lót đường Chúa đi. Thì hôm nay chúng ta sẽ không trải áo hoặc càm cành lá vô tri, những cành cây chỉ làm vui mắt trong chốc lát. Bước vào Tuần Thánh, chúng ta giục lòng tin thật, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và là người thật, là Đấng đã chịu đau khổ, chịu chết và đã sống lại để cứu chuộc chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

VÁC THẬP GIÁ VỚI CHÚA GIÊSU

Lm. I-nha-xi-ô Trần Ngà

Trong mùa chay và đặc biệt trong tuần thánh, Giáo hội mời gọi chúng ta thông hiệp sâu xa vào cuộc thương khó của Chúa Giê-su và cùng vác thập giá với Ngài. Việc này có ý nghĩa gì và có mang lại lợi ích gì không? Chúng ta cùng tìm hiểu qua mấy điểm sau đây:

Chúa Giê-su không vác thập giá một mình

Khi vác thập giá lên đồi Can-vê, Chúa Giê-su muốn cho ông Si-mon cùng vác thập giá với Ngài, muốn có Mẹ Ma-ri-a, thánh Gioan cùng đồng hành, cùng thông phần đau khổ với Ngài từ lúc bắt đầu cuộc thương khó cho đến lúc Ngài nhắm mắt tắt hơi.

Chúa Giê-su mời ta vác thập giá với Ngài

Và hôm nay, Ngài kêu gọi mỗi người chúng ta cùng vác thập giá với Ngài. Ngài nói: “Ai muốn theo tôi thì hãy vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34).

Để thực hiện việc này, Ngài lập nên bí tích Thánh tẩy (Rửa tội) để tháp nhập chúng ta vào Thân mình Ngài, trở thành một chi thể trong Thân thể Ngài. Rồi Ngài lại cho trao cho chúng ta chức linh mục (vai trò tư tế) của Ngài để chúng ta cùng hiến tế với Ngài mọi lúc mọi nơi.

Thế là từ đây,

Vì đã trở nên vai của Chúa Giê-su, gánh nặng chúng ta đang mang cũng chính là thập giá mà Chúa Giê-su đang vác;

Vì đã trở nên bàn tay, bàn chân… của Chúa Giê-su, những đau thương ta chịu hôm nay cũng chính là những mũi đinh nhọn đâm thâu tay chân Ngài… và máu của các thánh tử đạo đổ ra hôm nay cũng chính là máu của Chúa đổ ra cho nhiều người được tha tội.

Như thế, Chúa Giê-su cần có chúng ta vác thập giá với Ngài, chịu khổ nạn với Ngài để đền tội cho vô vàn tội nhân đang phạm đủ mọi thứ tội lỗi khắp nơi trên thế giới.

Vác thập giá cách nào?

Vác thập giá theo Chúa Giê-su không phải là vác cây gỗ hình chữ thập đi lui đi tới, nhưng là kết hợp với Chúa Giê-su để làm những việc bổn phận hằng ngày.

Trước hết chúng ta hãy nhớ rằng hôm nay, Chúa Giê-su đang sống trong ta như lời thánh Phao-lô dạy: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là chính Chúa Giê-su đang sống trong tôi” (Galat 2, 20).

Vì có Chúa Giê-su đang sống trong ta và ta là chi thể của Ngài, nên những việc ta làm không còn là việc ta làm nữa, mà là “chính Chúa Giê-su đang làm” việc đó trong ta.  

Vậy thì khi tôi quét rác, “không còn là tôi, mà là Chúa Giê-su” đang quét trong tôi… Khi tôi vất vả cực nhọc, “không còn là tôi, mà là Chúa Giê-su” đang chịu vất vả cực nhọc trong tôi…

Như thế, nếu chúng ta kết hợp mật thiết với Chúa Giê-su, thì chính Chúa Giê-su đang tiếp tục cuộc thương khó của Ngài trong thân mình chúng ta, qua mỗi công việc ta làm, và khi ta làm bất cứ việc gì với Chúa, là cùng vác thập giá với Chúa.

Vác thập giá hằng ngày với Chúa

Đề nghị: Mỗi sáng, chúng ta hãy thưa với Chúa một câu: “Lạy Chúa Giê-su, xin cùng làm việc với con suốt ngày hôm nay.”

Và mỗi tối trước khi đi ngủ, cũng nhớ thưa với Chúa một câu: “Con xin dâng mọi việc con làm cho Chúa.”

Thế là có Chúa Giê-su làm việc với ta suốt ngày. Đời ta ý nghĩa biết bao!

Thế là ta đang vác thập giá với Chúa Giê-su suốt ngày. Biết bao nhiêu là công phúc!

Như vậy, những công việc ta làm hằng ngày “sẽ trở nên của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa” như lời thánh Công đồng Vatican II dạy:

“Người giáo dân, vì đã được hiến dâng cho Chúa Kitô và được Thánh Thần xức dầu, nên họ được mời gọi và được ban ơn cách lạ lùng để Thánh Thần sinh hoa trái nơi họ ngày càng phong phú hơn. Thực vậy, mọi hoạt động, kinh nguyện và công cuộc tông đồ, đời sống hôn nhân và gia đình, công ăn việc làm thường ngày, việc nghỉ ngơi thể xác và tinh thần… tất cả những việc đó đều trở nên của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô…”

Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho chúng con cùng vác thập giá với Chúa mỗi ngày bằng cách kết hợp với Chúa mà làm mọi việc bổn phận của chúng con, qua đó, chúng con thi hành vai trò linh mục (tư tế) của mình, đồng thời tham gia vào công trình cứu độ của Chúa.

Về mục lục

.

SỰ THƯƠNG KHÓ

Lm. Trần Việt Hùng 

Con đường thánh giá Chúa đi,

Trải bao gian khó, ngại chi khổ sầu.

Vào thành muôn thuở khởi đầu,

Lưng lừa Chúa ngự, dân chầu đôi bên.

Tung hô vạn tuế xưng tên,

Tay cầm cành lá, rước lên đền thờ.

Mặt đường trái áo ai ngờ,

Toàn dân chúc tụng, tôn thờ Chúa ta.

Lòng người thay đổi phôi pha,

Trắng đen đen trắng, hét la chối Người.

Vinh quang trần thế cõi đời,

Phù hoa tiếp nối, một thời đã qua.

Đám người nông nổi ba hoa,

Ùa theo dư luận, mù lòa dõi theo.

Đánh đòn gai nhọn thân neo,

Tử hình thập giá, chết treo giữa trời.  

Hôm nay chúng ta bước vào Tuần Thánh. Gọi là Tuần Thánh, vì Giáo Hội tưởng niệm công cuộc chịu nạn, chịu chết và sống lại của Chúa Kitô là Đấng Thánh.

Khởi đầu Tuần Thánh là nghi thức làm phép lá và rước lá. Nhớ lại năm xưa khi Chúa vào thành Giêrusalem, dân chúng đã hân hoan đón chào Chúa. Họ tung hô vạn tuế Đấng Nhân Danh Chúa mà đến. Dân chúng đã lấy cành lá vẫy chào và có người đã cởi áo trải đường cho Chúa đi. Họ vui mừng hoan hỉ đón Chúa vào thành thánh Giêrusalem.  

Cũng nhóm người này, sau ít ngày, họ lại giơ tay đả đảo chối từ và kết án Chúa. Họ muốn tha cho tên trộm cướp là Baraba và đòi giết Chúa Giêsu. Họ khạc nhổ khinh dể và tẩy trừ Chúa. Tại sao có những thái độ trái ngược và thay đổi nhanh chóng như thế? Chỉ vì nhẹ dạ, tiểu tâm, nhẫn tâm và ác tâm. Chẳng riêng gì các nhà chức trách trong đạo đời, quân lính và dân chúng a dua nịnh bợ, ngay cả các tông đồ yêu qúi của Chúa cũng thế, người thì phản bội bán Chúa, kẻ thì bỏ áo chạy thoát thân, kẻ thì nhút nhát bỏ trốn và người tông đồ cả thì chối Chúa. Ông Phêrô chối rằng ông không biết Chúa là ai ba lần.  

Chúa đã bị bắt và chịu tra tấn cực hình trước mặt quan quyền. Một Thiên Chúa quyền năng khôn lường, nhưng thinh lặng trước sự nhục mạ khiêu khích của con người. Trước quan tòa, Chúa lặng thinh không biện hộ. Chúa tự nguyện chấp nhận mọi khổ đau để đền tội cho tất cả mọi người. Chúa lặng lẽ cam chịu khổ đau trong cô đơn và cảm thấy bị ruồng bỏ bởi chính Cha của Ngài. Ngài đã thốt lên rằng: “Lạy Cha, lạy Cha, Cha bỏ Con sao đành Cha”. Nhưng Chúa đã chấp nhận chén đắng này và uống cạn. Chúa đã chết tất tưởi trên Thánh Giá.  

Chúng ta nhận biết lòng dạ con người thật hiểm độc và lật lừa thay trắng đổi đen. Tâm tình của chúng ta ngày nay cũng không khác gì tâm tư của những người Do Thái thuở xưa. Chúng ta đã sai lạc trong phán đoán, yếu đuối trong sự phấn đấu và sa ngã trong các cơn cám dỗ. Chúng ta không chịu nổi sự nghi oan giáng họa hay nhục mạ phỉ báng. Chúng ta dễ bị lôi kéo vào những phản ứng tiêu cực và thiếu suy nghĩ. Nói rằng: Người ta làm sao, tôi làm vậy. Chúng ta không muốn lập dị, cho dù biết điều đó là sai và vô lý. Chúng ta im lặng đồng lõa chấp nhận. Ngày đó, có nhiều người lên án Chúa vì họ hùa theo dư luận, chứ không hẳn là thù ghét Chúa. Thật đáng tiếc!

Treo thân trên thánh giá, Chúa nghe biết tất cả những khiêu khích và nhục mạ của quân lính. Chúa cũng hiểu thấu trái tim của từng con người. Chúa không chấp tội họ. Chúa còn xin Chúa Cha tha tội cho họ, vì họ lầm chẳng biết. Lòng nhân hậu của Chúa vô bờ bến. Chúa yêu thương và tha thứ tất cả. Chúa hy sinh đến giọt máu cuối cùng cũng chỉ vì yêu.

Về mục lục

.

LÒNG NGƯỜI THAY TRẮNG ĐỔI ĐEN

Lm.Giuse Đỗ Dức Trí

Thưa quý OBACE, Lễ Lá hôm nay được diễn ra với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, lúc tưng bừng phấn khởi, lúc trầm buồn sâu lắng đến tang thương. Lắng nghe và suy gẫm các bài đọc Lời Chúa hôm nay, nhất là bài thương khó của Chúa Giêsu, chúng ta thấy: Chúa Giêsu mặc dù thấy trước đau khổ thập giá, nhưng Ngài vẫn bình thản đón nhận một kế hoạch đã định sẵn. Còn các thượng tế, luật sĩ và người Do Thái đã thể hiện lòng gian ác, tráo trở của họ qua việc dẫn dắt và sắp xếp, để đưa Chúa Giêsu vào cái chết thập giá. Bài thương khó cũng phác họa lên cho chúng ta nhiều gương mặt khác nhau với lòng dạ và sự toan tính khác nhau, có người chân thành, có người gian dối, dễ dàng thay trắng đổi đen.

Bài Tin Mừng trước cuộc kiệu lá cho thấy, Chúa Giêsu lên Giêrusalem lần này để thực hiện chương trình Thiên Chúa Cha đã muốn, đó là cứu độ nhân loại bằng thập giá. Các việc làm của Chúa Giêsu lúc này có tính biểu tượng và mang ý nghĩa đặc biệt. Biến cố Chúa Giêsu long trọng vào Giêrusalem trong tiếng reo mừng, gợi lại hình ảnh ngày xưa, Vua Đavít rước hòm bia Thiên Chúa lên Giêrusalem trong tiếng ca hát hoan hô và nhảy múa của toàn dân. Cũng vậy, vua Salomon vị vua của thời hòa bình cũng đã cưỡi con lừa, con vật hiền lành của thời bình, tiến vào Giêrusalem để được tôn vương trong tiếng tung hô của các thanh thiếu niên Do Thái. Hôm nay, Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế, thuộc dòng dõi vua Đavít cũng ngồi trên lưng lừa để tiến vào thành Giêrusalem trong tiếng hò reo: “Hoan hô con vua Đavít”. Ngài sẽ là một vị tân vương đem đến một thời đại hòa bình thịnh vượng mới cho cả dân tộc. Tuy nhiên, thời đại hòa bình thịnh vượng mà vua Giêsu đem đến không như dân Do Thái hình dung và mong đợi. Chúa Giêsu không thiết lập vương quốc theo kiểu trần gian, nhưng sẽ thiết lập vương quốc của Ngài trong tâm hồn mỗi con người. Những ai tin nhận Chúa, sẽ có Chúa là vua bình an cư ngụ trong tâm hồn, giúp cho tâm hồn được mở ra với mọi người. Những ai từ chối hoặc không tin Ngài, thì sẽ rơi vào sự điều khiển của ma quỷ và sự dữ. 

Khởi đầu bài thương khó theo thánh Marcô cho thấy hai gương mặt khác biệt, thuộc về hai vương quốc khác nhau: Người phụ nữ tội lỗi thuộc về vương quốc của Thiên Chúa, còn Giuđa một trong các môn đệ thuộc về vương quốc của Satan. Với một tấm lòng sám hối chân thành, người phụ nữ tội lỗi đã bước đến bên chân Chúa Giêsu. Cô biết rất rõ về tình trạng và đời sống của bản thân, cô không dám hiên ngang hoặc khoe khoang, nhưng âm thầm đến phủ phục dưới chân Chúa Giêsu. Cô đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm quý giá. Trước đây vật này là đồ đắt tiền, gắn liền với cuộc đời cô, giờ đây khi nhận biết Chúa Giêsu,  nó không còn cần thiết và không có ý nghĩa gì nữa. Theo thánh Gioan, cô đã đập vỡ bình dầu quý giá ấy, chỉ để xức lên chân Chúa Giêsu. Một việc làm bề ngoài tưởng chừng vô lý, nhưng nó thể hiện tấm lòng của cô đối với Chúa, vừa là lòng sám hối chân thành, vừa là lòng biết ơn kính trọng cô dành cho Chúa, vừa là quyết tâm đập bỏ quá khứ buôn hương bán phấn của mình. Còn Giuđa, mặc dù là môn đệ của Chúa, ở bên Chúa, nhưng lòng anh không thuộc về Chúa. Anh để lòng mình và cả con người của anh thuộc về ma quỷ và thế gian. Vì thế, khi thấy hành động đập bể bình bạch ngọc đựng dầu thơm của người phụ nữ, anh tiếc nuối và coi đó là phi lý. Giuđa cũng có lòng không ngay thẳng khi anh mượn danh người nghèo để trách lòng quảng đại của cô gái: “Phí phạm dầu để làm gì? Sao không bán để giúp cho người nghèo?”. Tác giả Gioan còn nhận định: “Hắn nói thế không phải vì thương người nghèo đâu, nhưng vì hắn giữ tiền chung, hay bớt xén tiền của anh em”. Khi lòng người đã không ngay thẳng, không thật, thì những hành động hoặc lời nói bên ngoài cũng sẽ không thật. Gioan chắc chắn rất đau lòng khi phải nhận định về người anh em mình như vậy.  

Sau đó khi vào bàn tiệc cùng với Chúa Giêsu, Giuđa vẫn mang trong mình lòng gian dối tham lam, mặc dù Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở anh. Khi Chúa nhắc cho mọi người trong bữa tiệc: “Có một người trong anh em sẽ phản bội thầy”. Câu nhắc nhở của Chúa khiến cho những người có lòng ngay, tự rà soát lại hành vi của mình. Giuđa cũng biết rõ về việc anh làm, song anh vẫn giả dối quay sang hỏi Chúa: “Thưa Thầy, có phải con chăng?” Chúa đáp: “Đúng như con nói”. Anh không một chút giật mình, sau đó anh đứng dậy ra ngoài để thực hiện mưu đồ phản bội của mình.

Chúng ta cũng thấy được sự tráo trở, hai mặt, hai lòng của người Do Thái. Họ là đám đông theo Chúa Giêsu, chứng kiến phép lạ Chúa làm, được Chúa cho ăn no, được chữa lành bệnh. Những đám dân chúng này, họ chính là những người mới đây đã theo Chúa vào đền thờ Giêrusalem, reo hò mừng hát: “Hoan hô con vua Đavít”. Vậy mà, khi các thượng tế và luật sĩ tìm cách bắt Chúa Giêsu và điệu đến dinh Philatô, thì không một người nào trong họ lên tiếng bênh vực Chúa Giêsu. Trái lại, họ để lòng mình chiều theo thói đời, nghiêng theo sự dữ, vào hùa với gian ác để kết án Chúa Giêsu. Các thượng tế và luật sĩ thể hiện sự lưu manh tráo trở của họ trong việc tìm cách mượn tay Philatô để loại trừ Chúa Giêsu. Còn người Do Thái thể hiện sự thay trắng đổi đen trong tâm hồn của họ. Mới cách đây không lâu, họ lớn tiếng tung hô Chúa Giêsu là con vua Đavít, có nghĩa là tung hô Ngài là Đấng các tiên tri loan báo. Liền sau đó, trước mặt quyền lực thế gian, họ đã dễ dàng thay đổi, họ chọn tha Baraba là một tên trộm cướp và đòi giết Giêsu. Cũng trước mặt Philatô, họ không nhận Chúa Giêsu là Con vua Đavít, họ đòi đóng đinh Người và công khai tuyên bố: “Chúng tôi chỉ có một vua là hoàng đế Cesare”. Họ đánh đổi Vua Hòa Bình bằng vua trần gian, họ từ chối tuân phục Vua Công Chính để cúi đầu trước quyền lực của hoàng đế dân ngoại.

Trước sự thay trắng đổi đen của con người, Chúa Giêsu vẫn một lòng vâng phục thành ý Chúa Cha và một lòng trung thành với sứ mạng yêu thương cứu chuộc nhân loại. Ngài không một lời oán trách những kẻ đã gây ra đau khổ cho Ngài, cũng như những kẻ muốn Ngài phải chết, nhưng luôn muốn cho chúng có cơ hội để thay đổi và làm lại cuộc đời. Trước sự phản bội của Giuđa, Chúa Giêsu vẫn dành cho các môn đệ, kể cả Giuđa những giờ phút thân thương ấm tình nhất. Ngài hướng dẫn họ từng chi tiết, từ việc sai họ đi mượn con lừa để tiến vào thành, dạy họ cách trả lời khi có người hỏi. Chúa cũng hướng dẫn các môn đệ chuẩn bị bữa tiệc Vượt qua, để bữa tiệc này không chỉ là bữa tiệc truyền thống, mà còn là bữa tiệc đậm tình thầy trò. Cũng trong bữa tiệc, dù bị học trò phản bội, Chúa không hồ nghi các người còn lại, nhưng vẫn tín nhiệm trao cả con người mình cho các tông đồ và còn cho họ quyền: “Hãy làm việc nay mà tưởng nhớ đến thầy”.

Trước sự bạc bẽo của dân chúng, Chúa Giêsu không hề oán trách, Ngài chỉ nhìn họ với cái nhìn xót thương và cảm thông. Khi bị những người Do Thái từ chối và tìm cách loại trừ, Chúa không từ chối họ. Khi đứng trên cây thập giá, kẻ qua người lại xỉ vả nhạo cười, Chúa Giêsu đón nhận tất cả với tình thương tha thứ. Trên cây thập giá, Chúa Giêsu đã trao phó tất cả nhân loại cho Thiên Chúa Cha, đón nhận mọi đau đớn cực hình, nhục nhã, để làm nên của lễ hy sinh đền tội cho nhân loại và xin ơn tha thứ tất cả cho nhân loại.

Cho dù lòng con người có thay đổi, thì Thiên Chúa vẫn trung thành mãi, vẫn tha thứ và yêu thương. Đó là sứ điệp Lời Chúa hôm nay gửi đến cho mỗi người. Suy gẫm Lời Chúa hôm nay, chúng ta thấy gương mặt của mình thấp thoáng qua những con người tham gia vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Có những lúc ta như người phụ nữ, dám đập bể bình dầu để xức lên chân Chúa, nhưng không thiếu những lúc ta để mình bị điều khiển bởi Satan hoặc tiền bạc như Giuđa. Cũng có nhiều lần, chúng ta tráo trở như các thượng tế và luật sĩ, tìm kiếm thỏa mãn sự cao ngạo của mình. Và, nhất là nhiều khi chúng ta cũng vô ơn với Chúa như những người Do Thái, thay trắng đổi đen, hai dạ hai lòng với Chúa. Xin Chúa giúp mỗi người trong Tuần Thánh này, dành những giờ phút thinh lặng để sống với Chúa, bước theo Chúa trên hành trình thập giá và để cảm nhận được tình yêu thương của Chúa dành cho cuộc đời mỗi chúng ta. Amen. 

Về mục lục

.

VÀI NGHỊCH LÝ TRONG CUỘC ĐỜI ĐỨC GIÊSU

THEO THÁNH MARCÔ

Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu

Đọc và suy niệm Tin Mừng thánh Marcô, đặc biệt là bài Thương Khó, ta thấy cuộc đời Đức Giêsu có vài nghịch lý sau:

  1. Có ngày có lúc, có thời có buổi người ta tôn vinh Đức Giêsu là vua, là Đấng Mêsia…, nhưng cũng có ngày có lúc, có thời có buổi người ta đả đảo, kết án, đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá. Đó là đám đông dân chúng.
  2. Có người suốt đời được Đức Giêsu tín nhiệm yêu thương, thế mà có ngày phản bội, cả gan bán nộp Thày mình lấy 30 đồng bạc. Đó là Giuđa Iscariô.
  3. Có người khi ở miền Césaré Philiphê thì tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa…, nhưng khi Đức Giêsu bị bắt thì ông lại chối bỏ không biết Ngài là ai trước mặt người đầy tớ gái. Đó là tông đồ Simon- Phêrô.
  4. Có những người được Đức Giêsu tuyển chọn, để cùng ăn cùng ở và cùng chia vui sẻ buồn với Ngài trong sứ vụ rao giảng Tin mừng, nhưng khi Đức Giêsu bị bắt, bị đánh đòn và phải vác thánh giá đến nơi hành hình, thì họ bỏ trốn chẳng còn một ai, chỉ có một người ngoại giáo, không quen biết, tên là Simêôn sẵn sàng ghé vai vác thâp giá đỡ Đức Giêsu và một vài người phụ nữ đạo đức theo Ngài lên đồi Sọ mà thôi. Đó là các Tông đồ và môn đệ.
  5. Lúc còn rao giảng Tin Mừng, thì Đức Giêsu ngăn cấm, không muốn cho một người nào tiết lộ Ngài là Con Thiên Chúa, nhưng khi ra trước toà án Philatô, Đức Giêsu lại xác nhận mình là Con Thiên Chúa.
  6. Đức Giêsu, Đấng vô tội, cả đời làm việc lành cứu người, thế mà lại bị người đồng hương của mình coi không bằng đứa trộm cướp giết người tên là Baraba.
  7. Người Dothái vốn ghét cay ghét đắng đế quốc Rôma ngoại giáo, thế mà chỉ vì không đồng quan điểm về giáo lý, về Lề Luật, về Đền Thờ, về Thiên Chúa, mà người Dothái lại xuất hiện như những kẻ đứng lên bảo vệ đế quốc Rôma, sẵn sàng trao nộp Đức Giêsu cho quan tổng trấn Philatô.
  8. Tổng trấn Philatô người đại diện cho công lý, trả lại công bằng cho người vô tội, mặc dù biết Đức Giêsu vô tội, nhưng vì sợ những kẻ gian tham độc ác và sợ mất chức quyền, nên đã cho đánh đòn và đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá như những tên tử tội.
  9. Lúc còn tại thế, không một phàm nhân nào nhận biết và tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, ngoại trừ Phêrô, thế mà khi Ngài tắt thở trên thập giá, có người ngoại giáo lại nhìn nhận và tuyên xưng Đức Giêsu quả thật là Con Thiên Chúa. Đó là viên sĩ quan quân đội Rô-ma.

Những nghịch lý xưa kia trong cuộc đời Đức Giêsu, ngày nay vẫn còn tái diễn trong đời sống cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội. Chỉ xin gợi lên vài điều minh họa:

Nhiều cha mẹ ngày hôm nay khó nhọc cả đời nuôi con…, nhưng khi con cái lớn khôn thì lại đánh đập chửi bới cha mẹ.

Nhiều người ngày hôm nay không muốn ai chất thánh giá trên vai mình, nhưng lại thích chất thánh giá trên vai người khác là những yếu đuối bất toàn và tội lỗi của mình.

Nhiều người ngày hôm nay “khi vui thì vỗ tay vào, khi gặp hoạn nạn thì nào thấy ai,” lúc dễ dàng thuận lợi thì đi Đạo, có thời gian rảnh rỗi thì đi lễ, đọc kinh cầu nguyện, nhưng khi gặp khó khăn, bận bịu thì bỏ Đạo, chẳng lễ lạy kinh hạt gì hết.

Nhiều người trong gia đình và xã hội ngay nay, vì tiền bạc, đất cát, chức quyền, danh vọng mà kiện cáo, bỏ tù và giết hại lẫn nhau.

Nhiều người ngày hôm nay, vì những bất đồng chính kiến, bất đồng tư tưởng mà sẵn sàng khạc nhổ vào mặt, đóng đinh vào thân thể anh chị em mình bằng lời nói và việc làm.

Nhiều người ngày hôm nay, vì ghen tương, đố kỵ trong cuộc sống mà ném đá giấu tay, mượn tay người ngoài để giết anh em đồng loại, mượn tay kẻ ngoại đạo để làm hại người đồng đạo.

Nhiều người ngày hôm nay không muốn ai phản bội mình, nhưng vì những quyền lợi vật chất và lý tưởng trần thế lại bán rẻ lương tâm, chối Chúa, bỏ Đạo, sẵn sàng đứng ra làm chứng gian, vu khống người khác.

Nhiều người ngày hôm nay là những người công chính lương thiện, nhưng phải tan cửa nát nhà, chết oan uổng, vì gặp phải những Philatô mới của thời đại, không bảo vệ người dân vô tội mà lại tiếp tay cho những kẻ gian ác.

Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã vui lòng chấp nhận những nghịch lý trong cuộc đời cho đến chết trên cậy thập giá, để trở nên bài học và gương mẫu cho nhân loại. Xin cho mỗi người chúng con biết hạn chế tạo nên những nghịch cảnh trong đời và nếu có gặp phải những nghịch cảnh, thì xin cho chúng con biết vui lòng chấp nhận. Amen.

Về mục lục

.

MÁU CON CHIÊN

Lm. Nguyễn Thái

Năm 1959 quân đội Cộng Sản Trung Quốc chiếm đóng Tibet, Tây Tạng và hành hạ những tu sĩ Phật Giáo bằng những cách tàn nhẫn, dã man. Người Cộng Sản Trung Hoa muốn hủy diệt đời sống tâm linh đã từng ăn rễ sâu trong lòng người dân Tây Tạng. Câu chuyện xảy ra là khi những người lính Trung Hoa xâm lược vào một ngôi chùa của người Tây Tạng, tất cả các tu sĩ đã chạy trốn hết, chỉ trừ ra có một vị ở lại trông coi tu viện và chùa chiền. Thấy chỉ còn mỗi một vị sư trong chùa, trong cơn giận dữ viên sĩ quan chỉ huy quân đội đưa chân đá cổng chùa bước vào. Đứng giữa sân chùa viên sĩ quan nạt nộ vị đại đức: “Ông không biết tôi là ai hả? Tôi là người có thể giết ông bằng một thanh gươm trong nháy mắt.” Vị đại đức bình tĩnh trả lời lại: “Và ông, ông cũng không biết tôi là ai hả? Tôi là người cho phép ông giết tôi bằng một thanh gươm trong nháy mắt đó.”

Vị đại đức đã đặt trọng tâm nơi Thượng Đế, Đấng đã giúp cho ông tách biệt ra khỏi mọi sự đe dọa hầu phá hủy sự bình an và niềm hy vọng mà ông chắc chắn chỉ tìm thấy nơi Ngài (Pl 1:21). Đây chính là hành động khải hoàn của Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem để chịu cuộc thương khó mà chúng ta mừng kính trọng thể hôm nay. Giống như chúng ta, là con người, Ngài cũng đã tiến đến cái chết với nỗi sợ hãi. Tuy nhiên Ngài có sự bình an và yên tĩnh của một người đang làm theo thánh ý Thiên Chúa. Vì thế Ngài tiến vào thành Giêrusalem trong khí phách hiên ngang và hùng dũng (Gl 6:14) để chu toàn sứ mạng phục hồi sự sống đời đời cho tất cả mọi người.

Trong Tuần Thánh này chúng ta tưởng niệm cuộc thương khó, đổ máu chịu chết trên cây Thánh Giá của Chúa Giêsu. Ngài mang hình ảnh của Con Chiên Chuộc tội trần gian: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian!” (Ga 1: 29)

Ngày xưa, trong Cựu Ước, máu của con chiên bôi trên các cửa nhà của những người Do Thái, đã cứu những người con trai đầu lòng của họ khỏi tử thần, và sau cùng dẫn họ đến sự tự do khỏi tình trạng nô lệ ở Ai Cập (Xh 12:23; Dt 11: 28). Và 40 năm sau, Thiên Chúa đã dẫn họ vào miền Đất Hứa.

Để biết lễ Vượt Qua quan trọng như thế nào đối với người Do Thái, William Barclay đã dùng sử liệu của Josephus cho chúng ta biết như sau. Theo sử gia Josephus, vào năm 65 A.D, Cestius, thủ lãnh của xứ Palestine đã gặp phải khó khăn trong việc thuyết phục Hoàng Đế Nêro ý thức về biến cố tôn giáo tối quan trọng của người Do Thái. Để gây ấn tượng mạnh cho Hoàng Đế, Cestius đã yêu cầu thầy cả Thượng Phẩm làm một bảng kiểm tra về số lượng những con chiên bị giết vào ngày lễ Vượt Qua trong một năm. Theo Josephus, con số là 256,500 con chiên. Căn cứ theo luật đòi buộc, mỗi nhóm ít nhất 10 người ăn một con chiên, do đó con số người hành hương lên Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua phải là 3,000,000 người.

Thật là ý nghĩa, khi người Do Thái từ khắp mọi nơi chen chúc nhau về Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua, biến cố được giải thoát khỏi sự nô lệ ở Ai Cập khi xưa, thì cũng là ngày chính Đức Giêsu Kitô đã trở nên Con Chiên Thiên Chúa, đổ máu ra để giải thoát nhân loại khỏi sự nô lệ của tội lỗi, và mở cánh cửa vào miền đất hứa mới – nước Thiên Đàng – cho chúng ta.

Jeff Smith, một người nổi tiếng ở Chicago với những show nấu ăn trên tivi có tên là Frugal Gourmet, Người sành ăn, đã viết một cuốn sách có tựa đề là “The Frugal Gourmet Keeps The Feast”. Trong cuốn sách này, qua việc nghiên cứu tra hỏi với những người chăn chiên, ông đã giải thích làm thế nào máu của Chúa Giêsu Kitô đã đổ ra lại hòa giải chúng ta với Thiên Chúa.

“Qua kinh nghiệm của những người chăn chiên cho biết, vào lúc tinh sương, khi người chăn chiên vừa thức dậy, ông thấy một con chiên mẹ đã sinh con, nhưng chẳng may chiên con bị chết. Trong một bầy chiên khác, ông lại khám phá ra một con chiên khác cũng vừa đẻ con, nhưng chiên mẹ bị chết đang lúc sinh vào ban đêm! Do đó, người chăn chiên có một con chiên mẹ đau lòng vì không có con, và một con chiên con mồ côi không có mẹ. Để cho hợp lý thì ghép chung lại với nhau. Nhưng không được, vì chiên mẹ biết rằng đó không phải là con của nó, và chiên con tự nó cũng rất lúng túng, nên nó cũng sẽ bị chết đói.”

Ông Smith nói, “những vị tiên tri và những chủ chiên ngày xưa đã nhìn thấy sự kiện này thường xuyên xảy ra trong bầy chiên của họ, nên đã dùng hình ảnh tuyệt vời này để diễn tả sự liên hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa. Chúng ta như chiên con bị xa cách với Thiên Chúa nên cũng sẽ chết vì đói. Còn Thiên Chúa giống như chiên mẹ chết con, luôn đau lòng khốn khổ. Chỉ có một điều duy nhất có thể làm được, nếu người chăn chiên lấy máu của con chiên con đã chết, bôi vào con chiên con mất mẹ. Khi chiên mẹ ngửi thấy máu của con mình, thì lập tức xúc động mà để cho con chiên mồ côi được tự do bú. Hay nói một cách khác, qua máu chiên con mà con chiên mồ côi được chấp thuận làm con nuôi, “the blood of adoption”. Trong Cựu ước Thánh Kinh đã hứa rằng Đấng Thiên Sai sẽ đến và là con chiên chuộc tội trần gian, mang chúng ta về với sự liên hệ thân mật với Thiên Chúa.”

Bắt đầu cuộc hành trình thiêng liêng trong Tuần Thánh này, điều trước tiên chúng ta phải nghĩ đến là tình yêu vô bờ bến của Chúa Giêsu đã dành cho chúng ta khi Ngài chấp nhận đóng vai trò là Con Chiên Thiên Chúa.

Để diễn tả tình yêu hy sinh của Chúa Giêsu, Shel Silverstein đã dùng một dụ ngôn, gọi là “The Giving Tree” – “Cây Hy Sinh.” Dụ ngôn nói về sự yêu thương một chiều giữa một cây và chú bé. Giống như một người mẹ thương mến đứa con yêu dấu, cây sẵn lòng cống hiến cho chú bé mọi sự trong suốt cuộc đời, miễn sao chú được vui tươi hạnh phúc.

Khi chú còn nhỏ bé, cây cống hiến cho chú cành lá để chú leo trèo thích thú. Chim chóc rủ nhau về làm tổ, ca hát. Chú nương mình dưới bóng cây mát mẻ mỗi buổi trưa hè nóng nực, vui tươi với tiếng chim ca. Mỗi năm chú một lớn, tới tuổi yêu đương thơ mộng, chú thích thẫn thờ lang thang trong những vườn hoa ngoài đồng nội. Cây lại chiều chú nở ra những cành hoa hương phấn ngạt ngào. Ong bướm rủ nhau về lẳng lơ tình tự. Hết mùa sinh hoa thì cây kết trái. Lúc này chú đã lớn hẳn, biết tiêu xài tiền bạc, nguồn vui thiên nhiên không còn là nhu cầu thiết yếu nữa. Cây cho chú những trái ngon ngọt không những dư thừa để thưởng thức mà còn bán ra để chi tiêu. Khi chú lấy vợ, ra riêng, cây lại phải cung cấp vật liệu cho chú xây cất nhà cửa. Những cành to lớn phải chặt xuống cưa ra làm gỗ. Và sau cùng ngay đến thân mình cổ thụ to lớn nhất của cây cũng phải hy sinh để chú xẻ ra lấy ván, đóng thuyền, lênh đênh trên biển cả, đưa chú đi ngao du khắp năm châu bốn bể.

Năm tháng qua đi, sau cùng chú bé ngày xưa nay đã già, trở thành một ông lão lưng còng, tóc bạc, muốn trở về mái nhà xưa. Cây khi xưa chẳng còn gì, ngoài một cái gốc cây đã bị cưa gần sát đất. Nhưng gốc cây lại rất ân tình, sung sướng gặp lại chú bé ngày xưa. Vui buồn mừng tủi. Vui vì gặp lại bên nhau. Buồn vì nay cây chẳng còn gì để dâng hiến cho chú bé như ngày xưa nữa. Bây giờ chỉ còn là một cái gốc cây trơ trụi. Gốc cây muốn cống hiến nốt cho ông lão để ông có một chỗ ngồi nghỉ ngơi đỡ đau lưng. Câu chuyện kết thúc với một bức hình hí họa vẽ một ông lão nằm nghỉ trên gốc cây với một hàng chữ: “Và cây rất vui vẻ.”

Dụ ngôn “Cây Hy Sinh” nói lên sự hy sinh và tình yêu tột đỉnh của Chúa Giêsu chịu chết trên cây thập giá cho chúng ta như những điều Thánh Phaolô đã diễn tả về Ngài trong thư gửi tín hữu Do Thái (Dt 5:7-8) và thư gửi tín hữu Philipphê 2: 6-11: “Ngài hủy bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Ngài đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá.”

Tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người quá cao vời. Những cách thức của Thiên Chúa khác với cách thức của con người (Ps 103:11-13). Điều phải suy nghĩ trong cuộc thương khó là Chúa Giêsu đã cứu chữa ngay cả những kẻ chế nhạo mình (Lc 23: 47-48). Ngài làm như vậy qua phương cách của Thiên Chúa: Đó là chết cho họ. Hơn nữa, Chúa Giêsu đã nói: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì ta, thì sẽ cứu được mạng sống ấy ” (Lc 9: 24). Chính Philatô và dân chúng đã chẳng ai hiểu lời Ngài (Lc 23:34).

Để cảm nghiệm ý nghĩa của tình yêu Thiên Chúa và sự sống lại của Ngài, chúng ta phải cùng bước đi với Chúa Giêsu qua sự thương khó và tử nạn trong Tuần Thánh này. Không có đêm tối sẽ không có rạng đông (Rm 8:17). Và không có thập giá sẽ không có sự sống lại (Lc 24:26).

Về mục lục

.

THAM DỰ VÀO CUỘC VƯỢT QUA CỦA CHÚA CHÚA

Lm. Đinh Lập Liễm

Ngày Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay kỷ niệm việc Chúa vào thành Giêrusalem. Ngài sai môn đệ vào làng kiếm con lừa: “Nếu có ai hỏi chúng con: “Tại sao các ông làm như thế?”, thì các con hãy đáp: “Vì Chúa cần dùng, rồi Người sẽ giao hoàn lại sau” (Mc 11,3).

Marcô sử dụng danh từ “Chúa” (Kyrios) với một ý rất thông dụng và thường để chỉ một nhân vật đáng kính, một vị luật sĩ nổi danh nào đó, như tiếng “ông”, tiếng “Ngài” của chúng ta. Câu 3 đoạn 11 là trường hợp duy nhất trong Phúc Âm Marcô, trong đó từ ngữ “Chúa” được áp dụng cho Ðức Giêsu, mà lại do chính Người nói về mình. Ðó chính là tước hiệu mà Cựu Ước luôn dành cho Thiên Chúa hoặc Ðấng Thiên Sai, đồng thời cũng là danh hiệu mà các tín hữu tiên khởi sau này sẽ dùng để chỉ về Ðức Kitô Phục Sinh: “Chúa Giêsu Kitô” (Jn 21:7).

Ðồng thời tiếng hoan hô chào mừng của dân chúng trong Marcô mang một ý nghĩa rõ rệt: “Hosanna! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến” (Mc 11,9). Trong khi Luca lại ghi: “Chúc tụng Ðức Vua…” (Lc 19,38).

Các lời hoan hô trên quả như muốn giới thiệu Ðức Giêsu chính thật là Ðấng Thiên Sai đang đến với Dân Người. Dân chúng chặt lá, cởi áo trải ra đường để Người đi qua, hoan hô Người là Con Vua Ðavít! Dân chúng chờ đợi Người tỏ uy quyền như một Môsê quyền thế, một Ðavít chiến thắng, một Salômon trẻ trung xưa, hoặc như một lãnh tụ kiêu hãnh trong ngày công khai ra mắt.

Tại sao Ngài không đọc một tuyên ngôn vạch rõ chương trình hoạt động? Ðức Giêsu đã vào Giêrusalem khiêm nhu trên lưng lừa qua hình dáng một người nô bộc! Ngoài vẻ mặt quen thuộc của người nô bộc được ghi trong Isaia Ðệ Nhị mà Ðức Giêsu đã sống lại cách trọn vẹn, hai đặc tính khiêm nhu của Ðấng Thiên Sai, Marcô muốn vẽ lại cho chúng ta là: sự cô đơn và thinh lặng của Ðức Giêsu trong suốt thời kỳ Khổ nạn!

Marcô đã cố gắng trình bày một cách linh động sự cô đơn tuyệt đối của Ðức Giêsu sau những tiếng hoan hô tán tụng của dân chúng. Chẳng những Người đã bị dân bỏ rơi, mà ngay cả các môn đệ thâm tín của Người cũng xa lìa, trốn tránh! Tại Ghếtsêmani, đáng lẽ những người này phải tỉnh thức, lắng nghe tâm sự của Người, thế mà họ lại ngủ mê mệt (Mc 14,37-40).

Lúc Người bị bắt, tất cả đều bỏ trốn (Mc 14,50). Và có lẽ để tăng thêm vẻ bi đát cho cảnh cô đơn này, Marcô đã không ngần ngại ghi lại cách châm biếm cảnh một môn đệ trẻ vứt bỏ áo quần mình để thoát thân (Mc 14,51-52). Phêrô cũng mạnh dạn chối từ (Mc 14,66-72). Có chăng là sự hiện diện của một con gà vô tội, cố gáy lên hai lần (Mc 14,72) như thức tỉnh những người thân! Người bị ngay cả Cha của mình bỏ rơi (Mc 15,34-35). Thật là một cảnh cô đơn tuyệt đối.

Ngoài ra, đóng vai thân phận người Tôi Tớ Chúa “bị hành hạ, nhưng Người vẫn khiêm nhu, và không mở miệng thốt lên lời nào. Như một con cừu bị điệu đi giết, như một con chiên câm miệng trước người thợ xén lông, Người đã không mở miệng” (Is 53,7).

Trước cảnh tượng ấy, có lẽ chỉ có “những tâm hồn nghèo khao khát Tin Mừng, những kẻ thiếu tự do, những kẻ đui mù, những người bị áp bức, những tâm hồn tan vỡ, những kẻ bị lưu đày, những con người không tiếng nói” (Lc 4,18; Cf Is 61,1; 58,6) mới nhận ra khuôn mặt thật của Người và bắt gặp Người trong địa vị đích thực của Ðấng Thiên Sai Thiên Chúa.

Ðức Giêsu đến, và đến với con người chúng ta qua hình ảnh một người tôi tớ. Chân lý đó quả đã khiến bao người vấp ngã như đám dân Giêrusalem xưa, bởi họ không nhận ra ý nghĩa cuộc hành trình gian khổ về Ðất Hứa xưa của dân Do Thái cũng chính là cuộc hành trình khiêm nhu và thinh lặng của Ðấng Thiên Sai trong giờ Khổ nạn. Ðó cũng chính là cuộc hành trình cứu độ của dân Chúa qua cuộc sống nhân loại ngày hôm nay.

Đức Giêsu không đến để đáp lại những chờ đợi trần gian. Người sẽ không cỡi một con ngựa trận to lớn, nhưng lại ngồi trên một con lừa nhu mì và tầm thường. Khuôn mặt Người chỉ giãi ra một vẻ hiền dịu trong trắng chứ không có vẻ quắc thước và đắc thắng. Ðám rước lúc đầu có vẻ muốn đưa đến một cuộc suy tôn lãnh tụ, nhưng thực ra đã đi vào chốn lặng lẽ của Vườn Giệtsimani. Ðức Kitô vào thành không phải để làm Vua theo ước muốn của quần chúng nhưng để thi hành một sứ mệnh siêu nhiên, đòi phải từ bỏ hết mọi vinh hoa quyền thế, cho đến cả sự sống của mình. Bài Thương Khó tường thuật cuộc thụ khổ như chúng ta vừa nghe cho thấy rõ: Ðức Kitô đã vào thành để chịu chết, và chết ô nhục trên thập giá.

Ðức Kitô biết “GIỜ” của đời Ngài đã gần đến (Jn 13:1), hay đúng hơn, thời điểm thực hiện cuộc Vượt Qua mới mà Thiên Chúa đã chờ đợi từ lâu, hôm nay đã gần đến rồi, và Ngài là Con Đức Chúa Cha sẽ là Đấng thực hiện cuộc Vượt Qua này. Qua việc thực hiện cuộc Vượt Qua mới, Thiên Chúa Cha sẽ chứng tỏ cho nhân loại thấy Người là Đấng chân thật, đã hứa điều gì là thực hiện điều đó, Thiên Chúa không phải là Đấng nói suông, không phải là Đấng lừa dối (Hr 6:17-18). Và cuộc Vượt Qua mới mang lại cho nhân loại một thứ hạnh phúc, một hồng ân quí giá, vượt xa ngàn trùng mọi thứ hạnh phúc khác, vượt xa mọi tưởng tượng, chờ mong và ước mơ của con người.

Chúng ta cũng hãy đi theo Ngài, mật thiết kết hợp với Ngài, để được hưởng hiệu quả của cuộc Vượt Qua mới mà Ngài thực hiện. Phụng vụ Tuần Thánh muốn đưa chúng ta đi theo Người cho đến khi chết trong mồ, để có như vậy, chúng ta mới hy vọng được cùng Người chỗi dậy trong đời sống vĩnh cửu. Chân lý này, Giáo Hội muốn chúng ta đào sâu, để thâm tín, để thi hành. Bất cứ ai muốn theo Chúa, phải theo Ngài cho đến chết. Phải cùng chết với Người, mới được phục sinh (II Tm 2:11-13). Thế mà có nhiều người không theo Chúa cho đến chỗ chết. Họ giống như hầu hết quần chúng Do Thái ngày trước: theo Chúa, rước Chúa, tháp tùng Chúa, phấn khởi, hân hoan trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá, nhưng như trong bài Thương Khó chúng ta vừa nghe, họ đã từ bỏ, phủ nhận, lên án, đóng đinh Chúa. Họ chỉ là những con người ham sống, muốn thứ hạnh phúc trước mắt rẻ tiền. Họ đang sống trong lầm than, hay ít ra, vất vả của cuộc đời. Nghe nói ông Giêsu là nhà tiên tri, có những quyền phép phi thường, làm cho ngay cả Lazarô chết rữa ra rồi mà còn sống lại. Họ liền nô nức chạy đến với nhà tiên tri đó, muốn công kênh Người lên làm vua, để mưa móc ân huệ trần gian cho họ. Ðến khi thấy Người bất lực trước đối thủ, không cứu được mình huống nữa còn đỡ được ai, họ chỉ còn một thái độ: xô luôn con người đó nhào xuống chết đi, để khỏi thấy mặt, để khỏi bực bội vì đã hy vọng hão huyền. Họ không xứng đáng với con người của Ðức Kitô, với sứ mạng cao cả của Người.

Dĩ nhiên chúng ta không ai muốn đồng hóa mình với đám người Do Thái trên. Nhưng có thật chúng ta đã theo Chúa một cách xứng đáng không? Chúng ta cũng đã chứng kiến nhiều trường hợp theo đạo vì gạo, vì vợ, vì quyền. Mùa Chay khuyến khích, đòi hỏi mỗi người phải kiểm thảo chính mình, chứ không phải là cứ nhìn vào người khác để phê phán anh em. Ước gì chúng ta có can đảm, sáng suốt, biết phê bình chính cuộc sống đạo đức của mình, để thấy rõ chúng ta có còn đi theo Chúa không, và có dám đi với Người cho đến khi xuống mồ, để cùng chết với Người và sống lại với Người không? Hay là chúng ta đang có khuynh hướng muốn rẽ ngang, không theo đường lối Chúa nữa, nay giấu giếm che đậy chân lý Phúc Âm này, mai có thể bớt dần các thái độ tỏ ra mình là người tín hữu? Ấy là chưa kể, việc đi theo Chúa cho đến chết và chết trên thập giá, đòi chúng ta phải chết đi cho tội lỗi, tiêu diệt các nết xấu, và sống theo giáo lý Phúc Âm. Chúng ta hằng ngày có thực thi những điều ấy không? Ngày xưa, đi theo Chúa cho đến Núi Sọ, không có mấy người. Mười hai tông đồ, bảy mươi hai môn đệ cũng không; chỉ có Ðức Maria và một số người rất ít. Như vậy, chúng ta đừng mặc cảm nhận ra cuộc đời đạo đức hời hợt hiện nay của mình. Ðiều cốt yếu trong Mùa Chay Thánh và đặc biệt trong Tuần Thánh này, là nhận ra tình trạng còn khuyết điểm của ta để cầu xin ơn tha thứ, để hưởng ơn tha tội của Thập giá Ðức Kitô, mà được sống lại đi vào cuộc đời mới.

Cuộc sống mai ngày vẫn là cuộc đời đi theo Ðức Kitô cho đến chết để được sống lại với Ngài. Thế nên tham dự tinh thần của Tuần Thánh này là hun đúc lại niềm tin, sưởi nóng lại lòng mến, để thề hứa lại trong đêm Vọng Phục Sinh: chúng ta nhất định chọn Chúa, đời đời chọn Chúa, mãi mãi trung thành với đức tin, với Giáo Hội; vì dù được lợi tất cả thế gian, mà mất hạnh phúc muôn thuở, cũng là trơ trơ hai bàn tay trắng cộng thêm ân hận vì đã hỏng cả cuộc đời. Nói đơn sơ hơn, trong Tuần Thánh cử hành mầu nhiệm cái chết và cuộc Phục sinh của Chúa chúng ta, không chân lý nào cần được suy nghĩ và thâm tín bằng lời Phúc Âm sau đây: ai ham sống thì chết; còn ai coi nhẹ sự sống sẽ được sống xứng đáng với nhân phẩm và ao ước hạnh phúc trường cửu của mình. Người biết khinh chê những mối lợi nhỏ trước mắt như thế, mới dễ có lòng nhân, hy sinh tư kỷ cho hạnh phúc tha nhân. “Con Người phải đi qua gian khổ để đạt tới vinh quang” (Lc 24:26). Chúng ta có chấp nhận vác Thánh giá hằng ngày để cùng chết với Chúa, thì mới hy vọng được cùng Người phục sinh trong hạnh phúc trường sinh.

Hôm nay chúng ta đã vào thành với Chúa, và rồi đây sẽ rước Chúa vào lòng; chúng ta xin Ngài cho chúng ta được kết hợp với Người hằng ngày và mãi mãi, vì chỉ có như vậy chúng ta mới được ơn cứu độ và được tham dự vào công cuộc cứu thế của Người.

(Trích từ tập Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

Về mục lục

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận