Thánh Vinh Sơn Phaolô

Đăng lúc: Thứ ba - 27/09/2016 01:26 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

Ngày 27/09: Thánh Vinh Sơn Phaolô, linh mục - lễ nhớ

 

Ngày 27-09:

VINH SƠN Đ PHAOLÔ

1. Đôi dòng tiểu sử

Vinh Sơn đệ Phaolô sinh ngày 24 tháng 4 năm 1580, mất ngày 27 tháng 9 năm 1660, là một vị thánh của Giáo Hội Công Giáo Rôma. Ngài sinh tại Pouy, Landess, Gascony, nước Pháp trong một gia đình nông dân nghèo khó. Lễ kính ngài trước đây là ngày 19 tháng 7 nhưng hiện nay được cử hành vào ngày giỗ của ngài 27 tháng 9 hằng năm.

Vinh Sơn thụ phong linh mục năm 1600 và lưu trú tại Toulouse cho đến khi đi Marseille để nhận thừa kế. Trên đường về từ Marseille, ngài bị người Turk cướp và bắt cóc đưa đi Tunis và bị bán làm nô lệ. Sau khi cảm hoá người chủ để trở thành một Kitô hữu, linh mục Vinh Sơn được trả tự do vào năm 1607.

Sau đó, ngài quay trở lại Pháp và nhận nhiệm sở tại một giáo xứ gần Paris. Ngài đã thành lập các dòng từ thiện như Tu Hội Nữ Tử Bác Ái, với sự cộng tác của bà Louise de Marillac, và Tu hội Truyền giáo hay còn được gọi là Lazarist.

Khi được vua Louis XIII bổ nhiệm làm Tổng Tuyên úy của những tù nhân khổ sai chèo thuyền chiến, ngài có cơ hội để cải thiện đời sống những tù nhân ở Pháp.

Thánh Vinh Sơn Phaolô qua đời ngày 27 tháng 9 năm 1660 tại Paris thọ 80 tuổi.

Vào năm 1705 tu viện trưởng Tu hội Truyền giáo Lazarists đề nghị tiến hành hồ sơ phong thánh cho đấng sáng lập. Vào ngày 13 thánh 8 năm 1739, Vinh Sơn Phaolô đã được Đức Giáo Beneđictô XIII phong chân phước và ngày 16 tháng 6 năm 1737 ngài được Đức Giáo Hoàng Clêmentê XII phong ngài lên hàng hiển thánh. Năm 1885 Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đặt ngài làm bổn mạng bổn mạng hội Nữ tu sĩ Bác ái. Đồng thời ngài cũng trở thành thánh bổn mạng của hội Nam tu sĩ Bác ái.

2. Những nét nổi bật trong đời sống

Đầu tiên là việc phục vụ cho những người nghèo khó: Cuộc đời của Ngài, ngay từ hồi còn thơ ấu đã nổi rõ nét là một con người đầy vị tha, bác ái và hay thương xót những kẻ nghèo khó. Chính vì thế, thánh Vinh Sơn Phaolô đã luôn rao giảng lòng thương xót của Chúa và sống chứng nhân tình yêu của Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Dù với bất cứ chức vụ nào: Bề trên Dòng Thăm Viếng, Bề Trên Tu Hội triều hay trong cương vị của một mục tử, thánh Vinh Sơn Phaolô đã luôn chu toàn trách vụ cách hết sức khôn ngoan. Ngài yêu thương các người nghèo khó, những kẻ đau khổ, những kẻ lao động vất vả, đặc biệt Ngài lưu tâm đến việc giáo dục các thiếu nữ. Lời Chúa trong bài giảng tám mối phúc thật (x. Mt chương 5), đã được Ngài thực hiện cách tận căn: đi và dậy người ta bước đi trên con đường hiến chương nước trời. Ngài đã sống tận cùng lời Chúa: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, thăm viếng kẻ bị tù đầy v.v...(x. Mt chương 25).

Chúa đã dậy mọi người bài học yêu thương. Yêu thương tận cùng và yêu thương không ngừng. Chính Chúa đã sống tận cùng sự yêu thương bằng cái chết trên thập hình. Chết mới nói lên lời. Trên thập giá, Chúa đã nói lên tất cả: yêu thương và tha thứ. Chúa đã trở nên nghèo, để sống với người nghèo. Thánh Vinh Sơn Phaolô đã yêu thương người nghèo, những kẻ bơ vơ vất vưởng, đầu đường xó chợ, không nhà không cửa. Theo gương Chúa, thánh Vinh Sơn Phaolô đã luôn cứu giúp người nghèo, sống như người nghèo trong việc phục vụ, lao động để gần gũi Chúa. Phục vụ người nghèo là phục vụ Chúa. Sống như người nghèo là sống như Chúa. Gặp gỡ người nghèo là gặp gỡ Chúa.

Thứ đến là lo cho họ, những người nghèo khó có các mục tử coi sóc họ. Chính vì thế mà năm 1625, ngài đã sáng lập ra Tu hội “Linh mục thừa sai” để giúp đào tạo các giáo sỹ theo tinh thần công đồng Trente, và nâng đỡ những người nghèo, đặc biệt là những người nghèo ở vùng quê. Như vậy, công việc giúp đỡ người nghèo của thánh nhân đã hội tụ được những nguồn lực có tính quyết định cho cả lộ trình đồng hành với người nghèo của ngài. Việc phục vụ những người nghèo khó theo tinh thần Tin Mừng đã trở thành một linh đạo sống cho những ai muốn hiến thân phục vụ người nghèo trong Chúa Kitô.

Theo Ngài, con đường nên thánh phải được khởi đi từ việc nhận ra hiện thân của Con Thiên Chúa, Đấng đã muốn là người nghèo“… Chính chúng ta phải cảm nghiệm được điều đó, cũng như phải xử sự như Đức Kitô là quan tâm đến những người nghèo túng, an ủi, giúp đỡ và bảo lãnh cho họ… Quả thật, Đức Kitô đã muốn sinh ra là người nghèo, đã kết nạp những người nghèo làm môn đệ. Người đã trở thành kẻ phục vụ người nghèo, nên đã chia sẻ thân phận của họ…”

Việc phục vụ người nghèo đối với Thánh nhân, không phải theo một vài hình thức ban ơn phô trương, mà phải được xuất phát từ chính con tim biết hiểu hoàn cảnh của họ mà thông cảm với họ. Sao cho tâm hồn chúng ta cũng rung động như Thánh Phaolô tông đồ, khi Người nói: "Tôi trở nên tất cả cho mọi người…”

Đức ái với những người nghèo trong linh đạo của thánh Vinh Sơn Phaolô còn hệ tại ở việc hành động phục vụ và nhận biết những nhu cầu cấp thiết nơi những người nghèo: “phải ưu tiên phục vụ người nghèo, không được trì hoãn… Vậy khi chị em bỏ đọc kinh nguyện để giúp đỡ người nghèo thì hãy nhớ rằng, đó là chị em phục vụ Thiên Chúa” (Kinh Sách, Các bài đọc).

Cám ơn Chúa đã ban cho chúng ta một tấm gương sáng trong việc phục vụ những người nghèo khó mà Chúa luôn yêu thương họ.
 

Lời Chúa: Lc 9, 51-56

Vì gần tới thời gian Chúa Giêsu phải cất khỏi đời này, Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem, và sai những người đưa tin đi trước Người. Những người này lên đường vào một làng Samaria để chuẩn bị mọi sự cho Người. Nhưng ở đó người ta không đón tiếp Người, bởi Người đi lên Giêrusalem. Thấy vậy, hai môn đệ Giacôbê và Gioan thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy muốn chúng con khiến lửa bởi trời xuống thiêu huỷ chúng không?” Nhưng Người quay lại, quở trách các ông rằng: “Các con không biết thần trí nào xúi giục mình. Con Người đến không phải để giết, nhưng để cứu chữa người ta”. Và các Ngài đi tới một làng khác.

 

 

 

Suy Niệm 1: Ra khỏi chính mình

Ðể lại một tên tuổi, có được một danh thơm tiếng tốt, đó vốn là ước mơ chung của mọi người. Tuy nhiên, được người khác trân trọng nhắc nhớ và mến thương hay không là tùy cách sống của mỗi người. Nói chung, cuộc đời hy sinh cho người khác, dù chỉ là hy sinh âm thầm cũng luôn được nhớ đến. Phải chăng đó không là ao ước của cố nhạc sĩ Văn Cao khi ông nói: "Tôi không đi qua tôi, tôi để lại gì? Tôi sẽ để lại gì nếu tôi chỉ khư khư giữ cho riêng mình? Nhưng nếu tôi có ra khỏi tôi, có trao ban chính mình, thì điều tôi để lại chính là bản thân tôi; bản thân tôi tìm gặp đã đành, mà đó cũng là quà tặng tôi để lại cho đời".

Có thể đó cũng là ý nghĩa chúng ta tìm thấy trong Tin Mừng hôm nay. Nếu mỗi tác giả Tin Mừng có một sợi chỉ xuyên suốt nối kết các biến cố trong cuộc đời Chúa Giêsu, thì theo sự trình bày của thánh Luca, sợi chỉ xuyên suốt cuộc đời Chúa Giêsu chính là cuộc hành trình lên Giêrusalem. Với thánh Luca, cuộc đời Chúa Giêsu là một hành trình ra đi không ngừng để đạt tới đích điểm là Giêrusalem, nơi gặp gỡ chung cục giữa Chúa Giêsu và các nhà lãnh đạo Do thái cũng như chính quyền Roma. Giêrusalem là cao điểm của cuộc song đấu giữa quyền lực sự dữ và tình yêu diễn ra trong con người Chúa Giêsu. Giêrusalem, xét cho cùng, chính là cái chết đang chờ đợi Chúa Giêsu; đi lên Giêrusalem có nghĩa là giáp mặt với cái chết, là đi đến tận cùng của thân phận làm người.

Nếu đã đón nhận cái chết như tột đỉnh của cuộc hành trình, thì dĩ nhiên điều kiện tiên quyết của người ta ra đi là phải kiên nhẫn trước thất bại. Chúa Giêsu muốn dạy các môn đệ của Ngài bài học về sự kiên nhẫn trước thất bại ấy khi các ông bị những người Samari khước từ. Giacôbê và Gioan tưởng có thể sai khiến lửa từ trời xuống để tiêu diệt những kẻ chống các ông; tuy nhiên, trung thành với giáo huấn của Ngài, Chúa Giêsu nhắc nhở cho các ông bài học về yêu thương nhẫn nại mà họ phải có ngay cả với kẻ thù của mình.

Ra đi, hay nói theo ngôn ngữ của Văn Cao "đi qua khỏi mình" chính là biết thắng vượt những chướng ngại do lòng ích kỷ và hận thù có thể giăng mắc trên lối đi. Cái chết chỉ thực sự có ý nghĩa và giá trị khi nó là một cái chết vì yêu thương; cuộc hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu như vậy cũng là một cuộc hành trình của yêu thương. Chỉ có yêu thương mới giúp con người thắng vượt được chính mình, chỉ có yêu thương mới giúp con người nhìn xuyên suốt qua bên kia thất bại, khổ đau.

Cuộc sống của người môn đệ Chúa Giêsu là một cuộc hành trình không ngừng. Cùng với Ngài, chúng ta luôn được mời gọi từ giã con người cũ tội lỗi và ích kỷ để tiến về con người mới của ân sủng và yêu thương. Chông gai thử thách vẫn luôn có đó, nhưng chúng ta tin rằng có Chúa Giêsu đồng hành với chúng ta và phần thưởng đang chờ đợi chúng ta chính là niềm vui được lớn lên và tìm gặp lại bản thân mỗi ngày một cách sung mãn hơn.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 2: Cái Chết Trên Thập Giá

Tin Mừng hôm nay hẳn mời gọi chúng ta lặp lại niềm tín thác của chúng ta vào sự quan phòng kỳ diệu của Chúa. Thánh Luca, tác giả của đoạn Tin Mừng hôm nay nhìn cuộc đời của Chúa Giêsu như một cuộc hành trình tiến về Giêrusalem mà cao điểm là cái chết trên thập giá. Tiến về Giêrusalem để chịu tử nạn cho nên có gặp thù nghịch chống đối trong suốt cuộc hành trình cũng là chuyện bình thường đối với Chúa Giêsu, nhưng các môn đệ của Chúa Giêsu chưa thể hiểu tại sao Thầy mình phải gặp phải những chống đối như thế. Phản ứng của hai thánh Gioan và Giacôbê là điển hình, hai vị thánh này không thể chấp nhận được sự kiện người dân tại một làng Samaria nọ không đón tiếp Ngài. Các ngài chỉ mong cho lửa từ trời xuống để tiêu diệt cái dân phản nghịch này. Chúa Giêsu quở trách các ngài, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở cho các môn đệ biết rằng điều kiện đầu tiên để làm môn đệ Ngài là phải có thái độ kiên nhẫn trước sự chống đối, thù nghịch và thẳng thắn nói chung. Ðây là dịp để các môn đệ hiểu được ý nghĩa của những bài dụ ngôn về nước Trời, đặc biệt là các bài dụ ngôn về hạt giống, về cỏ lùng và lúa tốt. Hạt giống được gieo vãi ngay cả trên đất xấu, hạt giống được gieo vãi ngay cả trên cỏ lùng, hạt giống phải chịu thối đi trong lòng đất; dù có được gieo vãi trong những điều kiện không thuận lợi, hạt giống vẫn mọc lên và sinh nhiều bông hạt.

Hình ảnh của hạt giống gợi lên cho chúng ta lịch sử của Giáo Hội. Giáo Hội được tẩy trần và sinh hoa kết trái ngay giữa những cơn bách hại đẫm máu nhất. Giáo Hội từng được thanh luyện và trưởng thành khi gặp chống đối và thù nghịch. Thái độ thỏa hiệp có thể mang lại cho Giáo Hội một vài đặc ân và dễ dãi, nhưng chắc chắn những thiệt hại và mất mát mà Giáo Hội phải chịu thì không gì có thể bù lại được. Giáo Hội có đáng tin hay không? Giáo Hội có thật sự đi lại cuộc hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu hay không? Hay giữa những chống đối, thù nghịch và thử thách, Giáo Hội vẫn tỏ ra trung thành với Ðấng khi bị treo trên thập giá đã lặng thinh và phó thác cho Thiên Chúa. Hạt lúa có gieo vào lòng đất mới thối đi và lớn lên sinh nhiều bông hạt, đó là định luật của cuộc sống Giáo Hội và của người môn đệ Chúa Kitô.

Ước gì giữa những khổ đau, chống đối và thù nghịch, chúng ta vẫn luôn nhận ra được bàn tay quan phòng kỳ diệu của Chúa, đó là ơn trọng đại mà chúng ta phải không ngừng cầu xin Chúa ban cho chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 3: Đi sang làng khác

Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem. Người sai mấy sứ giả đi trước, họ lên đường và vào một làng người Sa-ma-ri để chuẩn bị cho Người đến. (Lc. 9, 51-52)

Với lòng quả cảm, Đức Giêsu nhất quyết lên Giê-ru-sa-lem, vì Người biết rõ sắp tới ngày chịu nạn chịu chết. Người sẵn sàng vâng theo thánh ý Cha Người, nên không bao giờ lùi bước. Người không sống cho chính mình, trái lại sống phụng vụ thánh ý Cha với tấm lòng vui vẻ của người con thảo. Người gởi sứ giả đi trước dọn đường đi qua Sa-ma-ri-a, họ hận thù với dân Do-thái.

Dân Sa-ma-ri-a bị coi là kẻ ly giáo đối với thành thánh Giê-ru-sa-lem kể từ khi họ xây đền thờ trên núi Ga-ri-dim. Cả hai dân tộc đều khinh ghét nhau, nên những đoàn hành hương khi đi ngang qua ranh giới, đều phải chịu những quẫy nhiễu đủ thứ. Những Tông Đồ bị từ chối không cho qua làng Sa-ma-ri-a để lên Giê-ru-sa-lem.

Gia-cô-bê và Gio-an nổi khùng, muốn dùng biện pháp mạnh thiêu đốt làng đó ngay lập tức. Các ông nói với Đức Giêsu: “Lạy Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không”. Người ta có thể nghĩ xem Đức Kitô, Đấng nhân lành xử thế nào đối với sự chống đối của các môn đệ. Người cần cho các ông một bài học nhân lành về thái độ ngạo ngược này, và chỉ cho các ông phải lấy lửa nào mà đốt tật xấu của mình đi. Đức Kitô đã nhìn Gia-cô-bê và Gio-an với giọng khiển trách ngay thẳng, hẳn tâm can Người khá thất vọng không biết đến chừng nào các ông hiểu được một chút lời dạy của Người: cần kiên trì đến bao giờ đối với các ông và với mọi người khác. Dầu đang sống với chính Người, đang nghe chính Người nói, đang nhìn thấy chính Người hành động, các ông vẫn chưa nuốt được ý nghĩa cần thiết phải có thời giờ chờ đợi cho mọi thứ ăn năn trở về, không nên dùng sức mạnh cưỡng bách Thiên Chúa xâm nhập vào những con tim loài người. Chúng ta cũng giống như các môn đệ đó, muốn một Giáo Hội bị xé nát do nhiều Kitô hữu tự lên án phạt vạ tuyệt thông nhau, đối xử tệ với những người trễ nải, hay bất mãn với những gánh nặng của Giáo Hội đề ra. Họ còn chống đối cả sự kiên nhẫn của Thiên Chúa.

Đức Kitô chỉ nói đơn giản rằng: “Chúng ta đi sang làng khác”.

GF
 

SUY NIỆM:

1. Con đường Thập Giá

Bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay (Lc 9, 51-56) và bài Tin Mừng ngày mai theo mùa thường niên (Lc 9, 57-62) làm nên hai phần rất khác biệt: một đàng, ông Gioan và ông Gia-cô-bê muốn khiến lửa từ trời tiêu hủy người ta và đàng khác, cách thức đi theo Đức Ki-tô.

Tuy nhiên, nếu chúng ta đọc kĩ, chúng ta sẽ nhận ra rằng, cả hai phần đều nói về người môn đệ: đó là những người đang đi theo, những người muốn đi theo hay được mời gọi đi theo. Và khi đi theo Đức Ki-tô, người môn đệ được mời gọi đi theo với tâm tình nào, tinh thần nào, cách thức nào, con đường nào?

Đó là con đường Đức Giê-su đang đi, như thánh sử Luca thuật lại: “Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem” (c. 51), để lên trời ngang qua con đường Thương Khó.

2. Con đường khác

Một đàng, đối với thầy Giê-su, viễn tượng Thương Khó càng ngày càng rõ, vì trước đó, Người đã loan báo đến lần thứ hai và giờ đây Người nhất quyết đi Giê-ru-sa-lem để thực hiện (X. 19, 44-45); nhưng đàng khác, đối với các môn đệ, một viễn tượng khác trái ngược, cũng càng ngày lộ ra rõ nét không kém.

             a. Một câu hỏi được đặt ra trong nội tâm các môn đệ: ai trong họ là người lớn nhất? (c. 46-48). Và vấn đề quyền bính sẽ theo các ông đến cùng: Thánh sử Mát-thêu kể lại câu chuyện, người mẹ đi trước, hai người con là ông Giacôbê và Gioan đi sau (theo Chúa mà còn theo mẹ!), để xin Đức Giêsu được ngồi bên hữu và bên tả trên ngai tòa của Ngài (x. Mt 20, 20-23); và họ sẽ tranh luận sôi nổi về quyền bính ngay sau khi Đức Giêsu trao ban chính mình trong bữa tiệc li (x. Lc 22, 24); và một trường hợp khác, các môn đệ, qua hình ảnh hai môn đệ Emmau, hoàn toàn thất vọng khi những gì Đức Giêsu loan báo về Thương Khó được ứng nghiệm. Và chắc chắn, vấn đề quyền bính vẫn còn nguyên đối với tất cả những người đi theo Đức Ki-tô hôm nay.

          b. Tiếp đến, đó là vấn đề ảnh hưởng hay độc quyền (c. 49-50): “Chúng con cố ngăn cản vì người ấy không cùng với chúng con đi theo Thầy”. Chứng kiến điều kì diệu, đó là Danh Thầy Giê-su được tuyên xưng vượt khỏi giới hạn nhóm của mình, và Danh của Người có sức mạnh trừ quỉ, nhưng thay vì tạ ơn Chúa, ca tụng Thầy và chúc mừng người ta, với tâm hồn trẻ thơ, thì môn đệ Gioan và các môn đệ khác lại “cố ngăn cản”, vì người này không thuộc nhóm các môn đệ đi theo Đức Giê-su ! Và chuyện này cũng còn

        c. Và với bài Tin Mừng hôm nay, vấn đề trở nên nghiêm trọng hơn, đó là tiêu diệt những người từ chối đón nhận Đức Giê-su. Không biết ai đã ban cho các ông cái quyền “khiến lửa từ trời xuống”? Trong thực tế, đôi khi vẫn còn có những người tự ban cho mình những quyền bính tương tự, hay thi hành quyền bính được ban không theo tinh thần Tin Mừng của Đức Ki-tô, nghĩa là cứu sống, nhưng theo kiểu của thế gian và ma quỉ, nghĩa là lên án, loại trừ và giết chết.

3. “Con Người không đến để hủy diệt sự sống”

Nếu trong hai chuyện trước (quyền bính và ảnh hưởng), Đức Giêsu kiên nhẫn và nhẹ nhàng giải thích và thậm chí mặc khải những điều kín ẩn trong tương quan giữa Ngài với em bé, giữa Ngài với Chúa Cha, thì ở đây dường như Ngài không còn giữ được bình tĩnh:

Đức Giêsu quay lai quở mắng các ông.

Một số bản văn tiếng Hi-lạp còn thêm:

Anh em không biết anh em thuộc về thần loại nào; vì Con Người không đến để hủy diệt sự sống, nhưng để cứu vớt. (x. Lc 19, 10)

Con đường để cứu vớt sự sống của Đức Ki-tô là con đường Thập Giá. Để mặc lấy những tâm tình của Đức Giêsu, tất yếu các môn đệ cần phải hiểu mầu nhiệm Thập Giá. Lúc này họ không hiểu và cũng không dám hỏi, nhưng sau này Đức Giêsu Phục Sinh sẽ giúp các ông hiểu.

Không hiểu mầu nhiệm Thập Giá, và vì thế không thể mặc lấy tâm tình của Đức Giêsu, sẽ tất yếu bị chi phối bởi các thần loại quyền bính, độc quyền và nhất là thần loại bạo lực để phân biệt, chia rẽ và thanh toán nhau. Và chưa hiểu mầu nhiệm Thập Giá, chắc chắn cũng chính là vấn đề của chúng ta.

 

Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận