Thánh Piô Pietrelcina

Đăng lúc: Thứ sáu - 23/09/2016 02:11 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

Thánh Piô Pietrelcina, linh mục.

“Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa. Con Người phải chịu nhiều đau khổ”.

 

Thánh nhân sinh tại làng Pi-ết-ren-si-na gần Bênêventô nước Ý năm 1887. Người vào tu dòng Anh Em Hèn Mọn, ngành Capútxinô, và sau khi thụ phong linh mục đã tận tình lo việc mục vụ nhất là tại tu viện ở thị trấn Xan Giovanni Rôtônđô miền Pu-li-a. Trong tinh thần cầu nguyện và khiêm nhường, người phục vụ dân Chúa qua việc linh hướng, bí tích Hòa Giải và việc săn sóc giúp đỡ những người ốm đau, nghèo khổ. Người đã được nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô chịu đóng đinh và ngày 23 tháng 9 năm 1968, người kết thúc cuộc hành trình ở thế gian này.

 

Lời Chúa: Lc 9, 18-22

Việc xảy ra là khi Chúa Giêsu cầu nguyện riêng một nơi, và có các môn đệ ở với Người, thì Người hỏi các ông rằng: “Những đám dân chúng bảo Thầy là ai?” Các ông thưa rằng: “Người thì bảo là Gioan Tẩy giả, kẻ khác lại cho là Êlia, còn người khác thì cho là một trong các tiên tri thời xưa, đã sống lại”. Người lại hỏi các ông rằng: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Simon Phêrô thưa rằng: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Và Người ngăn cấm các ông không được nói điều đó với ai mà rằng: “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại”.

 

 

 

SUY NIỆM 1: Thầy Là Ðức Kitô

Trong số các trò chơi để trắc nghiệm mức hiểu biết của các em, có trò chơi đưa hình một danh nhân cho các em xem, sau đó yêu cầu các em nói thật vắn tắt và chính xác về nhân vật ấy. Em nào trả lời đúng sẽ được thưởng. Chúa Giêsu đã có lần áp dụng phương thức này với các môn đệ, chỉ khác ở chỗ nhân vật được đưa ra không ai xa lạ hơn là chính Ngài. Ðã có những câu trả lời được đưa ra, nhưng chỉ có câu trả lời của Phêrô là đúng, như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay.

Chúa Giêsu vốn là một vấn đề khó hiểu đối với nhiều người. Những giả thuyết về Ngài đều từ từ bị chứng minh là sai. Có người bảo Ngài là Gioan Tẩy giả, nhưng trong cách sống và giáo lý của Ngài, có nhiều điểm khác với Gioan Tẩy giả; có kẻ bảo Ngài là Êlia hay một ngôn sứ nào đó, nhưng ở đây cũng vậy, giáo lý và thái độ của Chúa Giêsu có nhiều điểm vượt quá và cắt đứt với giáo lý và thái độ của bất cứ ngôn sứ nào trong Cựu Ước. Dù đồng hóa Chúa Giêsu với Gioan Tẩy giả, với Êlia hay với một ngôn sứ nào đó, tất cả đều giống nhau ở chỗ chưa có câu trả lời nào nhận ra Chúa Giêsu là nhân vật chính, còn các vị kia chỉ là người loan báo và chuẩn bị.

Chúa Giêsu đã bị dư luận quần chúng coi là một trong các vị tiền hô cuối cùng, cho đến khi Phêrô đưa ra câu trả lời chính xác: "Thầy là Ðức Kitô Con Thiên Chúa". Phêrô đã nhìn thấy nơi Chúa Giêsu chính nhân vật mà muôn dân mong đợi. Ngài là Ðức Kitô, có nghĩa là Ðấng hội tụ mọi hy vọng và chờ mong của con người, là Ðấng quyết định vận mệnh của dân tộc và cá nhân, là Ðấng nắm giữ và đưa lịch sử đến hồi kết thúc. Ðức Kitô có đủ mọi tư cách đó, bởi vì Ngài là Ðấng được Thiên Chúa sai đến, Ngài là Con Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu linh cảm thấy lời tuyên xưng của Phêrô có thể bị giải thích sai lạc, nếu được tung ra cho mọi người biết; chính vì thế chẳng những Ngài cấm ngặt các ông không được nói điều ấy với ai, mà kể từ đó Ngài còn đích thân nói rõ về tư cách Kitô của Ngài.

Xin Chúa cho chúng ta biết lặp đi lặp lại mỗi ngày lời tuyên xưng của thánh Phêrô: "Thầy là Ðức Kitô Con Thiên Chúa" để chúng ta vững bước trên con đường theo Chúa và làm chứng cho Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 2: Cầu nguyện như Chúa

Lời tuyên xưng của thánh tông đồ Phêrô: "Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" được nhắc lại trong đoạn Phúc Âm hôm nay. Lời tuyên xưng đó chuẩn bị cho một giai đoạn mới trong cuộc đời của Chúa Giêsu, giai đoạn được bắt đầu cuộc hành trình tiến về Giêrusalem để hoàn tất công trình cứu chuộc nhân loại.

Ðoạn Phúc Âm được chia ra làm ba phần:

- Chúa Giêsu hỏi các tông đồ xem người ta nghĩ gì về chính Ngài và hỏi các tông đồ xem các ông nghĩ như thế nào về Chúa.

- Lời tuyên xưng của Phêrô: "Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa"

- Chúa Giêsu loan báo lần đầu tiên về cuộc thương khó của Ngài. Biến cố này cũng được kể như Phúc Âm theo thánh Marcô và Mátthêu, nhưng Luca có ghi thêm chi tiết đặc biệt, đó là việc Chúa Giêsu cầu nguyện trước khi hỏi các môn đệ về thực thể mình là ai?

Chúng ta biết rằng thánh sử Luca luôn luôn ghi lại chi tiết Chúa Giêsu cầu nguyện trong những giây phút quan trọng của cuộc đời Chúa. Chúa cầu nguyện khi lãnh nhận phép rửa của Gioan tiền hô để bắt đầu cuộc đời rao giảng Tin Mừng; Chúa cầu nguyện suốt đêm trước khi gọi riêng mười hai tông đồ; rồi Chúa cầu nguyện trước khi hỏi các môn đệ: "Các con nghĩ Thầy là ai?"; Chúa Giêsu cầu nguyện trước khi dạy các tông đồ kinh Lạy Cha; Chúa Giêsu cầu nguyện nơi vườn cây dầu trước khi bước vào cuộc thương khó và Chúa Giêsu cầu nguyện trên thập giá. Việc Chúa cầu nguyện cho những giây phút quan trọng của cuộc đời Chúa, mời gọi chúng ta tự vấn về đời sống thiêng liêng của mình: "tôi thường cầu nguyện lúc nào và trong những giây phút quan trọng của cuộc đời tôi có cầu nguyện hay không và cầu nguyện như thế nào?"

Biến cố Chúa Giêsu tra hỏi các môn đệ về thực thể Ngài là ai để cuối cùng đi đến lời tuyên xưng đức tin: "Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" là một biến cố quan trọng. Chúa Giêsu đã cầu nguyện trước khi bắt đầu tra hỏi các môn đệ: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" để theo Chúa trọn vẹn, không cần biết rõ cái chết của Chúa cho bằng có được mối tương quan thân tình mật thiết với Chúa. Chúa Giêsu không hỏi các môn đệ về giáo lý nhưng về chính mình, về chính thực thể Ngài là ai đối với họ. Và để trả lời được cho câu hỏi này thì cần phải trả lời hai điều: thứ nhất là biết Chúa và thứ hai là yêu mến Chúa. Ðây không phải là vấn đề biết Chúa một cách trí thức qua sách vở, nhưng là biết cảm nghiệm trực tiếp giữa người với người, giữa Chúa và đích thân mỗi người, biết Chúa như biết một người bạn; đây không phải là vấn đề giáo thuyết nhưng là vấn đề cụ thể con người, hoặc trực tiếp tiếp xúc với con người Chúa Giêsu Kitô, là Ðấng hằng luôn luôn hiện diện bên cạnh mỗi người chúng ta. Do đó, cần phải có đức tin và tình yêu thương thì ta mới có thể trả lời đúng cho câu hỏi Chúa Giêsu là ai đối với tôi? Một người không có đức tin hay ít đức tin, sống nguội lạnh thì quả thực là khó để trả lời cho câu hỏi của Chúa.

Lạy Chúa,

Xin thương ban cho con được ơn trưởng thành trong đức tin và trong tình thương Chúa. Xin cho con luôn được trung thành với lời tuyên xưng "Thầy là Ðấng Kitô" để rồi có thể múc lấy từ đó sức mạnh để dấn thân phục vụ Chúa và anh chị em chung quanh trong mọi hoàn cảnh.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 3: Môn đệ có cái nhìn đúng

Người lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phê-rô thưa: “Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa” (Lc. 9, 20)

Phải, môn đệ có cái nhìn đúng, môn đệ này chính là Phê-rô. Phê-rô này có lúc rất sáng suốt, có lúc lại té ngã lạc đường, thất vọng. Tuy nhiên chính ông đã xé được bức màn mầu nhiệm về con người của Đức Giêsu.

Một hôm, Đức Giêsu, như mỗi lần trước một biến cố quan trọng sắp xảy đến, Người đi cầu nguyện không xa các môn đệ lắm, các ông cũng tôn trọng những lúc Thầy chí thánh nói chuyện với Thiên Chúa. Tự nhiên, Người tiến đến với các ông và hỏi: “Đám đông nói Thầy là ai?” Tại sao Đức Kitô lại quan tâm lo lắng về dư luận quần chúng? tại sao Người coi đó là quan trọng? chả nhẽ Người hồ nghi về sứ mệnh của Người sao? sự oán ghét của đồng hương đối với Người là một thử thách khiến người bối rối đến nỗi phải tìm đến các môn đệ để tìm an ủi và nâng đỡ sao? hay Người sợ các ông sẽ bị lôi cuốn theo những kẻ đói nghịch đang công khai tìm mọi cơ hội truy lùng Người chăng?

Cần phải biết ý nghĩ thầm kín của Đức Kitô mới có thể trả lời tất cả các câu hỏi trên. Có phải Người lo âu hay chỉ muốn biết một cách chắc chắn người ta nghĩ gì về mình thôi chăng? bản văn của Thánh Lu-ca kể quá gọn và khô, không cho biết gì hơn nữa.

Các tông đồ cũng đơn giản trả lời Người: Kẻ thì bảo Người là Gioan Tẩy Giả, kẻ khác lại nói là Ê-li-a hay một ngôn sứ thời xưa. Nhưng Phê-rô, người một ngày kia sẽ trở thành “sếp” hướng đạo các bạn, đã đứng lên trả lời Đức Kitô đã hỏi cảm nghĩ của các ông về Người rằng: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Đó chính là điều mà Đức Kitô muốn khẳng định về mình khi Người giải thích Kinh Thánh ở hội đường Nagiarét trong ngày sabát. Vậy Phê-rô đã hiểu và các bạn khác cũng thế! các ông đã không bỏ Người vì các ông biết Người như thế và các ông tin vào Người. Người hỏi các ông, tuy nhiên, Người vẫn im lặng về căn tính của mình. Người không muốn người ta hiểu lầm Người là Đấng Kitô nhất thời ở trần thế, nên Người nói thêm: “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại”.

GF
 

Lễ Thánh Piô Piettrelcina, Linh mục - Lễ nhớ

 

 

Thánh Piô Pietrelcina là linh mục Dòng Phanxicô và là nhà thần bí, thường gọi là Cha Padre Pio hoặc Piô Năm Dấu. Ngài sinh ngày 25-5-1887 tại Pietrelcina – Nam Ý, qua đời ngày 23-9-1968, đa phần cuộc đời ngài chịu đau đớn vì năm vết thương như Chúa Giêsu. Ngài được tôn phong chân phước năm 1999 và được ĐGH Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh ngày 16-6-2002.

Tên khai sinh của ngài là Francesco Forgione, ông bà cố là Grazio Mario Forgione (1860–1946) và Maria Giuseppa Di Nunzio Forgione (1859–1929). Ngài được rửa tội tại Nguyện đường Thánh Anna. Ngay từ lúc 5 tuổi, cậu bé Francesco Forgione đã có ý dâng mình cho Thiên Chúa.

Gia đình Forgione là một gia đình Công giáo đạo hạnh, tham dự Thánh Lễ hằng ngày, cùng nhau lần chuỗi Mân Côi vào buổi tối, và mỗi tuần kiêng thịt ba ngày để kính Đức Mẹ Camêlô. Ông bà và cha mẹ của ngài không biết chữ, nhưng họ nhớ các câu chuyện trong Kinh Thánh để kể cho con cháu. Bà cố nói rằng Francesco có thể nhìn thấy và nói chuyện với Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thiên thần Bản mệnh.

Theo nhật ký của linh mục linh hướng Agostino da San Marco, cậu Francesco Forgione bị viêm dạ dày nặng lúc 6 tuổi, và bị thương hàn lúc 10 tuổi.

Hồi trẻ, Francesco cho biết là đã từng có thị kiến và xuất thần. Năm 1897, sau khi hoàn tất ba năm học ở trường công, Francesco vào học trường Dòng Phanxicô. Khi Francesco cho cha mẹ biết ý muốn của mình, cha mẹ cậu đã đến Morcone, cách Pietrelcina 13 dặm (21 km) về hướng Bắc, để tìm hiểu xem con trai họ có thể vào Dòng Phanxicô hay không. Nhà dòng cho họ biết rằng nhà dòng rất vui tiếp nhận nhưng Francesco cần học thêm.

Người cha đi Hoa Kỳ tìm việc làm để lo học phí cho con trai theo yêu cầu của nhà dòng. Trong thời gian này, Francesco lãnh nhận Bí tích Thêm Sức vào ngày 27-9-1899. Cậu được dạy riêng và đủ yêu cầu của nhà dòng. Ngày 6-1-1903, lúc này cậu Francesco được 15 tuổi, cậu vào nhà tập tại Dòng Phanxicô ở Morcone. Ngày 22-1-1903, Francesco nhận tu phục và lấy tên dòng là Pio, để kính nhớ Thánh giáo hoàng Pio I, vị thánh này có thánh tích tại Nguyện đường Thánh Anna ở Pietrelcina. Ngài khấn lần đầu với ba lời khấn: Khó nghèo, Khiết tịnh và Vâng lời. Thầy Pio tới tu viện Thánh Phanxicô Assisi bằng xe bò để học tập chuẩn bị 7 năm cho chức linh mục.

Năm 17 tuổi, ngài bất ngờ bị bệnh nặng, ăn không ngon, mất ngủ, mệt mỏi, ngất xỉu, và đau nửa đầu dữ dội. Ngài thường xuyên ói mửa, chỉ có thể uống sữa và ăn phô mai. Các nhà viết tiểu sử Thánh Padre Pio nói rằng trong thời gian này, cùng với bệnh tật thể lý, có những hiện tượng lạ bắt đầu xảy ra. Các tu sĩ trong dòng thường nghe thấy những tiếng động lạ phát ra từ phòng của ngài vào ban đêm – đôi khi là những tiếng thét vang. Trong khi cầu nguyện, tu sĩ Pio có vẻ như ở trạng thái sững sờ. Một người bạn của thầy Pio cho rằng thầy Pio đã xuất thần và lơ lửng trên mặt đất.

Tháng 6-1905, sức khỏe của thầy Pio quá yếu đến nỗi bề trên quyết định đưa thầy đến một tu viện ở trên núi, hy vọng sự thay đổi không khí sẽ làm cho thầy phục hồi sức khỏe. Tuy nhiên, sức khỏe của thầy càng ngày càng yếu, các bác sĩ khuyên thầy nên trở lại quê nhà. Thế nhưng sức khỏe của thầy vẫn sa sút dần. Ngày 27-1-1907, tu sĩ Pio khấn trọn đời.

Năm 1910, thầy Pio được TGM Paolo Schinosi trao tác vụ linh mục tại nhà thờ chính tòa Benevento. Và 4 ngày sau, ngài dâng lễ đầu tiên tại nhà thờ giáo xứ Đức Mẹ của các Thiên Thần. Sức khỏe của ngài vẫn không ổn định, ngài được phép trở về với gia đình cho tới năm 1916. Ngày 4-9-1916, cha Padre Pio được lệnh trở về nhà dòng, đến ở tại tu viện Đức Mẹ Hồng Ân, tọa lạc trên núi Gargano ở San Giovanni Rotondo, thuộc Foggia. Cùng với cha Pio, lúc này cộng đoàn có 7 tu sĩ. Cha Pio ở đây cho đến lúc qua đời vào năm 1968.

Thế chiến I bùng nổ, 4 tu sĩ trong cộng đoàn này bị động viên đi quân dịch (ngày nay gọi là nghĩa vụ quân sự). Lúc này, cha Pio là giáo sư và linh hướng. Khi một tu sĩ nữa được gọi nhập ngũ, cha Pio chịu trách nhiệm cộng đoàn. Ngày 15-11-1915, ngài bị động viên, và ngày 6-12, ngài được phân công tới đoàn Quân Y 10 ở Naples. Vì, sức khỏe yếu, ngài được giải ngũ, nhưng lại phải tái nhập ngũ cho tới ngày 16-3-1918, ngài được giải ngũ. Tính chung, ngài phục vụ trong quân đội 182 ngày.

Ngày 20-9-1918, khi đang giải tội, cha Pio được in Năm Dấu (stigmata), đau nhức và chảy máu như Năm Vết Thương của Chúa Giêsu. Dấu lạ này kéo dài suốt 50 năm, cho đến cuối đời ngài. Máu chảy ra từ Năm Vết Thương có mùi thơm như hoa. Đầu năm 1919, tin tức về cha Pio chịu Năm Dấu lan truyền khắp nơi.

Sau thế chiến I, người ta bắt đầu thấy ở cha Pio có dấu hiệu của niềm hy vọng. Người ta thấy ngài có biểu hiện của vài tặng phẩm tâm linh, bao gồm việc chữa lành, xuất hiện ở hai nơi một lúc, xuất thần lơ lửng trên mặt đất, nói tiên tri, làm những dấu lạ, không ăn và không ngủ (ít nhất 20 ngày ở Verafeno, và chỉ rước Mình Thánh Chúa), có thể biết được tâm hồn người khác, có tài giảng thuyết, khéo đối thoại, và có mùi thơm từ các vết thương.

Các vết thương được coi là dấu chỉ của sự thánh thiện, và được các bác sĩ xét nghiệm. Kỳ lạ là các vết thương không thể lành nhưng không bị nhiễm trùng. Bác sĩ Luigi Romanelli, trưởng bệnh viện Barletta, đã theo dõi các vết thương của cha Pio suốt một năm trời. Bác sĩ Giorgio Festa cũng xét nghiệm các vết thương đó vào năm 1920 và 1925. Giáo sư Giuseppe Bastianelli, bác sĩ của ĐGH Benedict XV, cũng thấy rằng các vết thương xuất hiện nhưng không thể giải thích. Nhà nghiên cứu bệnh lý Amico Bignami, thuộc ĐH Rôma, cũng kiểm tra các vết thương nhưng không thể chẩn đoán. Bác sĩ Alberto Caserta đã chụp tia X hai tay cha Pio vào năm 1954, nhưng không thấy sự bất thường trong cấu trúc xương.

Ngài không muốn người khác nhìn thấy các vết thương nên ngài luôn đeo bao tay và đi vớ chân. Khi cha Pio qua đời, thi hài ngài không còn vết thương nào, cũng không thấy vết sẹo nào.

Trong lá thư viết năm 1911 gởi cho cha linh hướng Padre Benedetto, cha Pio cho biết: “Có điều gì đó xảy ra mà con không hiểu và không thể giải thích. Ở giữa hai lòng bàn tay có dấu đỏ xuất hiện, lớn bằng đồng xu, theo sau là sự đau nhức ở giữa các vết đỏ đó. The pain was more pronounced in the middle of the left hand, so much so that I can still feel it. Also under my feet I can feel some pain”.

Thế chiến I tiếp tục. Tháng 7-1918, ĐGH Benedict XV gọi đó là “cuộc tự sát của Âu châu”, ngài kêu gọi các Kitô hữu tích cực cầu xin cho chấm dứt chiến tranh. Ngày 5 và 7-8-1918, cha Pio thấy thị kiến Chúa Giêsu bị đâm cạnh nương long. Và rồi cha Pio cũng có một vết thương như vậy. Thật kỳ lạ!

Trong lá thư gởi cho cha linh hướng Padre Benedetto, đề ngày 22-10-1918, cha Pio cho biết: “Sáng ngày 20-10-1918, sau khi dâng lễ, con cảm thấy lơ mơ như buồn ngủ. Con nhìn thấy một người bí ẩn, tương tự như người mà con đã gặp vào chiều tối ngày 5-8-1918, chỉ khác là tay và chân chảy máu. Nhìn thấy vậy nên con sợ, con cảm thấy rất khó tả. Con cảm thấy như chết đi được nếu Chúa không can thiệp và thêm sức cho con, vì lồng ngực con như muốn nổ tung. Rồi cảnh này biến mất, con thấy tay , chân và cạnh sườn của con chảy máu. Hầu như ngày nào con cũng chịu như vậy. Vết thương ở ngực chảy máu liên tục, nhất là từ thứ Năm tới Chúa Nhật. Thưa cha, con đang chết dần vì đau đớn, vì các vết thương và sự lúng túng con cảm thấy trong lòng. Con sợ con sẽ chảy máu cho tới chết nếu Chúa không lắng nghe lời nài xin chữa lành cho con. Chúa Giêsu rất tốt lành, Ngài không ban cho con ơn này sao? Hay ít ra là Ngài không làm cho con hết lúng túng vì các vết thương này sao? Con sẽ cất cao lời ngợi khen và không ngừng nài xin Ngài vì lòng thương xót của Ngài. Con đau nhức đến nỗi con cảm thấy như thể con đang hấp hối trên thập Giá vậy”.

Ngoài các chứng bệnh chịu từ hồi nhỏ, cả đời cha Pio còn phải chịu chứng viêm phế quản hen suyễn, bị sỏi thận nên thường xuyên đau bụng dưới. Ngài bị viêm dạ dày mãn tính, rồi biến chứng thành ung thư. Ngài còn bị nhiễm trùng mắt, tai, mũi và họng, cuối cùng là chịu viêm mũi và viêm tai mãn tính.

Năm 1925, cha Pio chịu phẫu thuật thoát vị (inguinal herni), rồi ngài còn phải phẫu thuật tai để cắt bỏ khối u ác tính. Năm 1956, được làm sinh thiết để chẩn đoán bệnh. Ngài nằm liệt giường suốt 4 tháng. Khi lớn tuổi, cha Pio rất khổ sở vì chứng viêm khớp.

Năm 1922, ĐGH Pio XI (triều đại 1922-1939) cho điều tra về hiện tượng lạ của cha Pio. Và rồi Tòa Thánh đã không cho phép cha Pio xuất hiện trước công chúng: Cấm dâng lễ công khai, cấm chúc lành cho người khác, cấm viết thư, cấm cho người khác thấy các vết thương, cấm giao tiếp với cha linh hướng Padre Benedetto. Cha Pio phải đến ở một tu viện khác ở Bắc Ý.

Từ năm 1921 tới 1922, cha Pio không được thi hành chức vụ linh mục công khai như giải tội và dâng lễ. Từ năm 1924 tới 1931, Tòa Thánh tuyên bố rằng các sự kiện trong đời cha Pio KHÔNG bởi nguyên nhân từ Thiên Chúa.

Năm 1933, làn sóng sùng kính mạnh nổi lên, ĐGH Piô XI tiếp tục duy trì việc cấm cha Pio dâng lễ công khai. ĐGH Piô XI nói: “Tôi không áp đặt đối với cha Padre Pio, nhưng người ta cung cấp cho tôi các thông tin không hay”. Năm 1934, cha Pio được phép giải tội và được rao giảng. Năm 1939, ĐGH Piô XII (triều đại 1939-1958) đã khuyến khích người ta đến với cha Padre Pio.

Năm 1940, cha Pio dự định mở bệnh viện ở San Giovanni Rotondo. Năm 1956, bệnh viện được khánh thành với tên là “Casa Sollievo della Sofferenza” (Nhà An Ủi Người Đau Khổ). Để cha Pio có thể giám sát công trình này, năm 1957 ĐGH Pio XII đã cho phép cha Pio khỏi phải giữ lời khấn khó nghèo. Những kẻ nói xấu cha Pio đã dùng chính công trình này làm vũ khí chống lại cha Pio, kết tội ngài đã biển thủ ngân quỹ.

Ngày 29-7-1960, Đức ông Carlo Maccari (người Ý), về sau trở thành TGM của TGP Ancona, bắt đầu điều tra đại diện cho ĐGH Gioan XXIII (triều đại 1958-1963) và Tòa Thánh. Với hồ sơ khoảng 200 trang, Đức ông Maccari tường trình rằng cha Pio bị coi là đã “dan díu” với các phụ nữ mỗi tuần hai lần. Một tu sĩ Dòng Phanxicô được phân công nghe lén phòng cha Pio, nhưng không tìm được chứng cớ về việc cáo buộc này. Đức ông Maccari là chướng ngại vật trong hành trình tuyên thánh cho cha Pio. Tuy nhiên, theo tài liệu chính thức của Dòng Phanxicô, về sau Đức ông Maccari đã công khai rút lại ý kiến và đã cầu xin với cha Pio khi hấp hối.

ĐGH Gioan XXIII và ĐGH Phaolô VI (triều đại 1963-1978) đều bác bỏ các lời cáo buộc về cha Pio. Năm 1947, cha Karol Józef Wojtyła (về sau là ĐGH Gioan Phaolô II, triều đại 1978-2005), một linh mục trẻ Ba Lan đang học tại ĐH Giáo hoàng Thánh Thomas Aquino (Trường Angelicum) ở Rôma, đã đến thăm và giải tội cho cha Padre Pio. Trong lần gặp gỡ này, cha Pio đã nói tiên tri với cha Wojtyła rằng sẽ có ngày cha Wojtyła lên ngôi vị cao nhất của Giáo hội. Và điều tiên đoán ấy đã trở thành sự thật, cha Wojtyła đã trở thành ĐGH Gioan Phaolô II và nay đã được Giáo hội tuyên thánh. ĐHY Stickler nói rằng cha Wojtyła đã tin lời tiên tri của cha Pio là thật khi ngài được tấn phong hồng y.

Năm 1962, ĐGM Wojtyła đã viết thư cho cha Pio để xin cầu nguyện cho bác sĩ Wanda Poltawska, một người bạn ở Ba Lan bị bệnh ung thư. Sau đó, BS Poltawska đã khỏi bệnh một cách kỳ lạ. Các chuyên viên y học không thể giải thích hiện tượng này. Khi ĐHY Wojtyła trở thành giáo hoàng, tông hiệu Gioan Phaolô II, ngài đã mở án tuyên thánh cho cha Pio. Cuối cùng, ĐGH Gioan Phaolô II II đã tuyên thánh cho cha Pio vào ngày 16-6-2002. Có khoảng 300.000 người tham dự Thánh lễ phong thánh này.

Cha Pio qua đời năm 1968, lúc ngài 81 tuổi. Ngày 21-9-1968, sau 50 năm chịu Năm Dấu, cha Pio cảm thấy kiệt sức. Ngày 22-9-1968, ngài muốn dâng lễ trọng thể, nhưng vì cảm thấy quá yếu, ngài xin bề trên cho phép ngài dâng lễ thường như mọi ngày. Vì đông đảo khách hành hương hiện diện tham dự Thánh lễ, bề trên bảo cha cứ dâng lễ trọng thể. Cha Pio vâng lời nhưng cảm thấy rất mệt mỏi. Giọng ngài rất yếu, ngài cảm thấy kiệt sức khi kết thúc Thánh lễ, các tu sĩ phải dìu ngài đi. Và đó cũng là Thánh lễ cuối cùng của đời ngài.

Sáng sớm ngày 23-9-1968, cha Pio xưng tội và tuyên khấn lại. Theo thói quen, ngài cầm chuỗi Mân Côi, dù ngài không còn hơi để đọc lời kinh Kính Mừng thành tiếng. Cuối cùng, ngài lặp đi lặp lại: “Gesù, Maria” (Giêsu, Maria). Khoảng 2 giờ 30 sáng, ngài nói: “Tôi nhìn thấy hai người mẹ”. Ngài có ý nói là Đức Mẹ và mẹ của ngài. Rồi ngài trút hơi thở cuối cùng tại tu viện San Giovanni Rotondo, trong khi miệng ngài thì thào: “Maria!”.

Ngày 26-9-1968, thi hài ngài được an táng tại Nhà thờ Đức Mẹ Hồng Ân. Có khoảng 100.000 người tham dự Thánh lễ an táng ngài. Lúc sinh thời, cha Pio thường nói: “Sau khi chết, tôi sẽ làm nhiều hơn nữa. Sứ vụ thật của tôi sẽ bắt đầu sau khi tôi chết”. Có điều rất lạ: Sau khi cha Pio qua đời, các vết thương đều biến mất, chỉ còn thấy một vết đỏ như vết sẹo ở ngực, nhưng sau đó lại biến mất.

Ngày 1-7-2004, ĐGH Gioan Phaolô II đã đến Nhà thờ Thánh Padre Pio, tọa lạc tại làng San Giovanni Rotondo. Tượng Thánh Pio ở Messina (Sicily) đã thu hút nhiều khách hành hương vào năm 2002 vì bức tượng này đã khóc và chảy ra những giọt huyết lệ.

Thánh Pio Năm Dấu là bổn mạng của những người bảo vệ dân quyền. Người ta chọn ngày 22 tháng Giêng là Ngày Vô Tư, để nhớ lời khuyên của Thánh Pio: “Hãy cầu nguyện, hãy cậy trông, đừng lo lắng!”.

Ngày 3-3-2008, người ta khai quật mộ Thánh Pio, sau 40 năm ngài qua đời. Lạ lùng thay, thân xác ngài vẫn nguyên vẹn. ĐHY José Saraiva Martins, Bộ trưởng Bộ phong thánh, đã cử hành Thánh lễ với khoảng 15.000 người tham dự vào ngày 24-4-2008 tại Đền Đức Mẹ Hồng Ân, trước khi thi hài Thánh Pio được trưng bày cho người ta kính viếng. Thánh tích được trưng bày cho tới tháng 9-2009.

Thánh tích cha Padre Pio được đặt tại Nhà thờ Thánh Pio, gần San Giovanni Rotondo. Tháng 4-2010, thánh tích dược chuyển tới hầm mộ đặc biệt.

Lạy Thánh Pio Năm Dấu, xin cầu giúp nguyện thay. Amen.

TRẦM THIÊN THU (tổng hợp và chuyển ngữ) (Longchuathuongxot.com)


Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận