Các bài suy niệm Chúa Nhật III Mùa Vọng

Đăng lúc: Thứ sáu - 15/12/2017 16:22 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

 

CHÚA NHẬT 3 MÙA VỌNG B

Lời Chúa: Is 61, 1-2a.10-11;  1Tx 5,16-24;  Ga 1, 6-8.19-28

———

DẪN NHẬP

Lời Chúa: “Giữa các ngươi có một Đấng mà các ngươi không biết” (Ga 1,26).

Nhập lễ:

Kính thưa cộng đòan phụng vụ,

Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 3 mùa vọng hôm nay mời gọi chúng ta hãy vui lên, vì mọi người sẽ đón nhận niềm vui ơn cứu độ của Chúa. Gioan Tẩy Giả đã được sai đến để dọn đường và loan báo niềm vui khi Chúa đến, chính Người là ánh sáng muôn dân:

Tôi đâu có phải Ki-tô,

Chỉ là tiếng nói tiền hô dọn đường.

Ki- tô là Đấng khiêm nhường,

Đang cùng chung sống, yêu thương mọi người.

Vui lên trong Chúa, bạn ơi,

Nhận ra Con Chúa nơi người anh em.

Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta biết noi gương Gioan Tẩy Giả dọn đường cho Chúa đến bằng lời rao giảng và bằng đời sống chứng nhân, để niềm vui khi Chúa đến sẽ tràn ngập nơi tâm hồn của mỗi người chúng ta. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.

Sám hối:

X. Lạy Chúa, Chúa đến trần gian để đem niềm vui ơn cứu độ của Chúa cho chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

X. Lạy Chúa Kitô, Chúa đã sai Gioan Tẩy Giả đến để dọn đường và làm chứng về ánh sáng của Chúa. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

X. Lạy Chúa, Chúa Chúa đến trần gian để băng bó những tấm lòng tan nát. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.

CĐ: Amen.

Suy niệm:

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Có câu chuyện kể rằng, một nhóm tông đồ trẻ thuộc nhiều quốc tịch đang bàn nhau làm thế nào để phổ biến Tin Mừng cách rộng rãi, hiệu quả nhất. Có người bảo dùng đài phát thanh, truyền hình và internet, có người bảo dùng báo chí. v.v. Một cô gái Châu Phi lên tiếng: “Ở xứ chúng tôi, khi muốn loan báo Tin Mừng tới một nơi nào thì chúng tôi gởi đến đấy một gia đình Kitô hữu tốt để gia đình này sống giữa những người khác”.

Thưa anh chị em, câu chuyện trên đây cũng diễn tả cho chúng ta thấy được mẫu gương sáng chói của các ngôn sứ đã được Chúa sai đến qua các trình thuật hôm nay. Trước hết, khuôn mặt sáng chói của Isaia. Sau khi thay mặt toàn dân kêu van Thiên Chúa dủ lòng thương đến cứu giúp dân Chúa, trong giờ phút khó khăn hiện tại bị lưu đày ở Babylon suốt 70 năm, Isaia đã xuất hiện rao truyền sứ điệp cứu rỗi: “Hỡi dân ta, hãy an tâm, thời nô lệ đã chấm dứt, tội lỗi đã được ân xá”. Ông còn xác tín rằng: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa”. Thời nô lệ của Israel đã chấm dứt và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, nghĩa là trong năm toàn xá này, mọi nô lệ được phóng thích, mọi của cải ruộng đất bị cầm cố hoặc bán đi sẽ được trả lại, mọi người được hoàn toàn nghỉ ngơi trong năm đó. Isaia được Thiên Chúa tuyển chọn, xức dầu và sai đi công bố hồng ân cứu độ của Thiên Chúa cho muôn dân. Công bố hồng ân này quả là một tin vui, tin mừng cứu độ mà Isaia phải thốt lên: “Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa”.

Tuy nhiên, tin vui, tin mừng này mới chỉ là hình ảnh, công bố một tin vui trọn vẹn và lớn lao đã được tiếp nối nơi khuôn mặt sáng chói của Gioan Tẩy Giả, và được thực hiện nơi Chúa Kitô. Gioan Tẩy Giả đã xác tín vào ơn giải thoát từ Chúa Kitô nên ông đã vui mừng làm chứng về Người: “Tôi không phải là Đấng Kitô, không phải là Elia, cũng không là một đấng tiên tri”. Ông dõng dạc tuyên bố: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo”. Ông còn nhấn mạnh thêm: “Giữa giữa các ngươi, có Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Đấng ấy đã có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người”. Gioan Tẩy Giả quả thật đã làm chứng cho Chúa Kitô; 'ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng cho ánh sáng'. Cụm từ “làm chứng” được dùng đến bốn lần cho thấy lẽ sống của Gioan là làm chứng. Gioan không làm chứng cho mình hay về mình, bởi lẽ ông ý thức mình không phải là ánh sáng mà chỉ là ngọn đèn giúp mọi người tin vào ánh sáng thật là Chúa Kitô.

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Gioan Tẩy Giả là một mẫu gương của Mùa Vọng đã được Chúa sai đến cho chúng ta, vì ông đã dọn đường cho Chúa đến bằng lời rao giảng, và bằng đời sống khổ hạnh. Chúng ta hãy chiêm ngắm và học hỏi đời sống dấn thân phục vụ của Gioan cho chương trình của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được mời gọi làm chứng cho Chúa không chỉ bằng lời nói, mà còn làm bằng chứng cả cuộc sống của mình. Biết vận dụng mọi tài năng, hoàn cảnh để loan truyền niềm vui của tin mừng cứu độ như lời khuyên của Thánh Phaolô: “anh em hãy vui mừng luôn. Hãy cầu nguyện không ngừng. Trong mọi việc, hãy cảm tạ Chúa. Vì đó là thánh ý Thiên Chúa về tất cả anh em trong Chúa Giêsu Kitô”. Gioan Tẩy Giả đã sống một cuộc đời có ý nghĩa, hoàn thành sứ mạng của mình trong ánh sáng chân lý.

Nguyện xin ánh sáng tình yêu của Chúa Kitô chiếu giải vào tâm hồn chúng ta, để tâm hồn chúng ta tràn ngập niềm vui cứu độ và trở nên chứng nhân của ánh sáng. Amen.

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.

 

Mục lục

1. Chúa hiện diện giữa chúng ta  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Chứng nhân của ánh sáng (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Để con nên hình bóng Ngài (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Anh em hãy vui lên (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

5. Gioan Tẩy giả làm chứng (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

6. Sống trong ánh sáng Chúa  (Anna Cỏ May, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

7. Đong đầy tình yêu  (Bông Hồng Nhỏ, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

8. Khiêm nhượng  (Lm. Trần Việt Hùng)

9. Đấng Messia  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

10. Làm chứng cho ánh sáng(Lm. Barnaba Lê An Phong, SDB)

11. Niềm vui đích thực phát xuất từ tâm hồn bình an (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

12. Chứng nhân trung thực (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

13. Làm chứng về ánh sáng  (P.Trần Đình Phan Tiến)

14. Suy niệm Chúa Nhật 3 Mùa Vọng_B  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

15. Suy niệm Chúa Nhật III Mùa Vọng_B  (Fx. Đỗ Công Minh)

16. Nhân chứng khiêm nhường (Trầm Thiên Thu)

17. Vậy ông là ai?  (Lm. Trịnh Ngọc Danh)

18. Làm chứng về ánh sáng.  (JM. Lam Thy, ĐVD)

19. Tìm Chúa cho mình và cho người khác  (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)

20. Niềm vui (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

21. Niềm vui đang đến (Lm. Lu-y Nguyễn Quang Vinh)

22. Học sống trung thực với Gioan Tẩy Giả (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

23. Niềm vui của chứng nhân (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang)

24. Ánh sáng  (Lm. Vũ Đình Tường)

 

.

CHÚA HIỆN DIỆN GIỮA CHÚNG TA

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Trong cách suy nghĩ của nhiều người, kể cả người Công giáo, Mùa Vọng chỉ được hiểu là thời gian chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh. Vì vậy, họ chú trọng nhiều đến việc  làm hang đá, trang trí hoa đèn rực rỡ mà quên mất một điều căn bản, đó là Thiên Chúa đang hiện diện giữa cuộc đời. Ngài hiện diện giữa chúng ta và mỗi người tín hữu được trao phó trách nhiệm loan truyền sự hiện diện linh thiêng kỳ diệu ấy. Lời Chúa chúa nhật 3 Mùa Vọng nhằm nhắc nhở chúng ta điều quan trọng này.
 
Các Bài đọc trong Phụng vụ hôm nay đều diễn tả niềm vui. Tại sao chúng ta vui mừng? vì có Chúa hiện diện. Ngài xức dầu cho chúng ta và sai chúng ta vào lòng cuộc đời. Trong truyền thống Thánh Kinh, dầu thơm chỉ niềm vui, sự hoan lạc và ân sủng của Thiên Chúa. Nhờ được xức dầu trong bí tích Thanh tẩy, mỗi người tín hữu được sai lên đường để loan báo niềm vui. “Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi”. Họ không lên đường đơn lẻ một mình, nhưng có Chúa Thánh Thần là sức mạnh của Thiên Chúa đi cùng. Ngôn sứ Isaia đã diễn tả niềm vui: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao” (Bài đọc I). Những lời này diễn tả một tâm hồn an vui, hạnh phúc và tràn đầy nghị lực. Có bao giờ chúng ta, với tư cách là Kitô hữu, cảm nhận được niềm vui này? Đó không phải là niềm vui trần thế, nhưng là niềm vui toát lên từ hạnh phúc nội tâm, trong sáng, tinh tuyền thánh thiện. Lễ Giáng Sinh đem lại cho chúng ta niềm vui, vì xác tín vào sự hiện diện của Chúa giữa đời. Niềm vui này phải được loan báo cho mọi người, vì đó là niềm vui cho cả toàn dân. Chân lý cứu độ phải được trình bày cho thế giới, vì Thiên Chúa muốn cứu vớt muôn loài. Chúng ta không chỉ giữ niềm vui Giáng Sinh cho riêng mình, nhưng mỗi tín hữu phải là người tiếp nối sứ mạng đem tin vui ấy cho những người xung quanh. Lễ Giáng Sinh chỉ có ý nghĩa và mang lại hiệu quả thiêng liêng, nếu mỗi chúng ta biết sống và loan báo sứ điệp hân hoan vui mừng ấy.
 
Chúng ta được xức dầu và sai lên đường để rao giảng tình yêu của Chúa và sự hiện diện của Ngài. Mọi cố gắng nỗ lực của đời sống tín hữu nhằm cho hình ảnh của Chúa được tỏa sáng, chứ không phải hình ảnh của chúng ta. Khi nghe thánh Gioan Tẩy giả rao giảng và kêu gọi sám hối, những người đương thời cũng tưởng rằng ông là Đấng Thiên Sai. Gioan Tẩy giả đã cương quyết khẳng định: “Tôi không phải là Đấng Kitô”. Ông nhận rõ sứ mạng của mình rất khiêm tốn, đó là làm cho hình ảnh của Đấng Thiên Sai nổi bật. Ông cũng sẵn sàng chấp nhận bị lu mờ trước Đấng Cứu thế: “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại… Tôi không đáng cởi quai dép cho Người”.
 
Đây đó tại các cộng đoàn giáo xứ, vẫn tồn tại những sinh hoạt sầm uất sôi nổi chỉ mang tính trần tục hoặc bề ngoài, mà không chú ý đến việc giới thiệu hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng đang hiện diện giữa chúng ta. Gioan Tẩy giả làm phép rửa, nhưng phép rửa của ông chỉ là nghi thức sám hối và giúp cho các hối nhân nhận ra Đấng Cứu thế sẽ đến. Ông là người dọn đường cho Đấng Thiên Sai. Mặc dù có rất đông dân chúng đến với mình, ông luôn tránh những ngộ nhận của họ, nên khẳng khái nhận mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Giới thiệu và chứng minh Chúa đang hiện diện trong cuộc đời này, cần phải có sự khiêm tốn, đi liền với một đời sống thánh thiện tốt lành. Đây là điều kiện căn bản để lời chứng của chúng ta có sức thuyết phục.
 
Niềm vui có Chúa hiện diện phải tác động mọi khía cạnh của đời sống chúng ta. Thánh Phaolô đã nhắn nhủ cộng đoàn Thêxalônica: “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh“. Theo lời thánh Phaolô, kể cả lúc chúng ta gặp chuyện chẳng lành, đó cũng là cơ hội để tạ ơn Chúa. Bởi lẽ trong những hoàn cảnh ấy, chúng ta được mời gọi kiên vững và chứng minh lòng trung thành của mình vào Chúa. Thực ra, người tín cần xác tín một điều: Thiên Chúa không để cho ai chịu thử thách quá sức chịu đựng. Ơn Chúa luôn đủ cho những ai thành tâm yêu mến Ngài. Ý thức sự hiện diện của Chúa sẽ giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, đồng thời chuyên tâm làm việc thiện, xa lánh những điều xấu, bất cứ dưới hình thức nào, nhất là đừng dập tắt thần khí của Chúa nơi tâm hồn chúng ta (Bài đọc II).
 
Cảm nhận sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời sẽ giúp chúng ta đón nhận những gì xảy đến với lăng kính đức tin. Bởi lẽ Chúa là Cha chúng ta. Ngài luôn yêu thương và chẳng bao giờ bỏ rơi những con cái của Ngài. Nhờ sự hiện diện hồng phúc của Chúa, hoa sẽ nở trong sa mạc, niềm vui sẽ tràn ngập cuộc đời, tình thương sẽ ngự trị, công chính sẽ lên ngôi.

Về mục lục

.

CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Trên đời có nhiều thứ ánh sáng: ánh sáng vật lý, ánh sáng văn hoá, ánh sáng khoa học, ánh sáng tâm linh. Để nhìn ra ánh sáng, cần có một khả năng nào đó. Để thấy ánh sáng vật lý, chỉ cần có đôi mắt bình thường. Nhưng để nhìn thấy ánh sáng khoa học, phải có một số vốn kiến thức cần thiết. Để thấy ánh sáng văn hoá, cần được khai tâm mở trí. Và để thấy được ánh sáng tâm linh, cần có các chứng nhân chiếu dọi. Thánh Gioan Baotixita là chứng nhân của Đức Ki-tô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Ki-tô bằng chính cuộc đời trong sáng của ngài. Nhìn vào cuộc đời ngài, ta thấy toả ra các làn ánh sáng sau đây:

Làn ánh sáng thứ nhất mà ta thấy nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự khiêm nhường. Ngài khước từ mọi vinh quang người ta phủ quanh ngài. Ngài thành thực nhận mình không phải là Đấng Cứu Thế toàn dân mong chờ, không phải là Êlia vĩ đại, cũng không phải là một tiên tri cao cả. Ngài tự nhận mình chỉ là một “tiếng kêu trong sa mạc”. Ngài khiêm nhường nói rằng ngài không xứng đáng xách giày cho Đẫng Cứu Thế. Thật là khiêm nhường tự hạ. Đức khiêm nhường ấy chiếu lên dung mạo ngài một làn ánh sáng. ánh sáng ấy khiến cho lời chứng của ngài càng có sức thuyết phục. ánh sáng ấy phản chiếu dung mạo đích thực của Đấng Cứu Thế, Đấng tuyệt đối khiêm nhường.

Làn ánh sáng thứ hai ta thấy nơi cuộc đời của thánh nhân là làn ánh sáng của sự khổ hạnh. Phần lớn đời ngài ẩn dật trong sa mạc. Sống trong sa mạc đồng nghĩa với sống khổ hạnh. Ngoài sự khắc nghiệt của thời tiết, sự hoang vu cô tịch, sự đe doạ của thú dữ, thánh Gioan Baotixita còn tự nguyện sống khó nghèo, đơn sơ, đạm bạc. Y phục của ngài chỉ là mảnh da thú quấn quanh thân thể. Thức ăn của ngài là châu chấu và mật ong rừng. Sự khổ hạnh không chỉ loé sáng lên một ý chí mạnh mẽ biết vượt thắng chính bản thân mình, mà còn chiếu ánh sáng hy vọng vào tương lai. Người lệ thuộc vào vật chất là người bị trói buộc trong hiện tại. Người khổ hạnh là người đặt niểm hy vọng ở tương lai. Niềm hy vọng ấy chiếu sáng vào cuộc đời hiện tại vì làm cho cuộc sống có một ý nghĩa cao đẹp và sâu xa. Tương lai tươi sáng mà thánh Gioan Baotixita chờ đón chính là Đức Giêsu Ki-tô mà ngài loan báo.

Làn ánh sáng thứ ba nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự trung thực. Trung thực trong những lời nói về chính mình, nên ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm Ngài có. Ngài chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình. Trung thực với lòng mình, nên ngài sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong những phán đoán về người khác, nên ngài đã thẳng thắn khuyên vua Hê-rô-đê không đựơc phép lấy chị dâu. Chính sự trung thực này đã phải trả giá bằng cái chết chẳng toàn thây. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Làn ánh sáng ấy cho ta thoáng thấy ánh sáng đích thực của Đấng là Sự Thật, là chính Đức Giêsu Ki-tô.

Làn ánh sáng thứ tư nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự quên mình. Biết mình chỉ là người đưa tin, thánh nhân luôn xoá mình đi, để cho Đấng là chính Tin Mừng được nổi bật. Biết mình chỉ là người mở đường, thánh nhân luôn tự hạ để cho Đấng là Đường được mọi người nhận biết. Làm chứng cho sự thật, thánh nhân đã tự nguyện hy sinh để cho Đấng là Sự Thật được trân trọng. Khi mọi người tuốn đến với Ngài, Ngài đã không giữ lại cho mình, nhưng đã giới thiệu họ đến với Đức Giêsu, nên ngài nói: “Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi dây giầy cho Người” (Ga 1,27). Nhiều môn đệ đã theo Ngài, nhưng Ngài giới thiệu để họ theo làm môn đệ Đức Giêsu. Khi thấy đám đông đã bỏ ngài để đi theo Đức Giêsu, ngài hài lòng vì thấy nhiệm vụ đã hoàn tất, nên ngài nói: “Chúa phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3, 30).

Thánh Gioan Baotixita thật là một chứng nhân tuyệt hảo. Ngài đã biết tự hạ mình xuống để Chúa được nổi bật lên. Ngài đã biết ẩn mình trong bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng. Ngài đã biết tự huỷ mình đi để Chúa được nhận biết. Ngài đúng là người đi mở đường cho Chúa. Ngài thực là chứng nhân của ánh sáng.

Mùa Vọng này, mọi người đang chờ đón Chúa đến. Chúa muốn tôi hãy đi mở đường cho Chúa. Chúa muốn tôi làm chứng cho Chúa. Chúa muốn tôi giới thiệu Chúa cho anh em. Nhưng rất nhiều khi, thay vì mở đường cho Chúa, tôi chỉ lo mở đường cho tôi. Rất nhiều khi thay vì làm chứng cho Chúa, tôi chỉ lo làm chứng cho tôi. Rất nhiều khi thay vì giới thiệu Chúa, tôi chỉ giới thiệu bản thân mình.

Hôm nay, Chúa mời gọi tôi hãy soi mình vào tấm gương của thánh Gioan Baotixita để biết cách dọn đường cho Chúa ngự đến.

Xin thánh Gioan Baotixita giúp chúng con sống trong sáng để trở nên chứng nhân của ánh sáng.

Về mục lục

.

ĐỂ CON NÊN HÌNH BÓNG NGÀI

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Con người thời đại nào cũng cần chứng nhân. Một đời sống chứng nhân đích thực không dừng lại ở lời nói hoa mỹ mà ở chính cung cách sống phù hợp với lời rao giảng của mình. Có ai đó nói rằng: người ta chỉ thán phục những người nói hay nhưng họ sẽ kính phục những ai thực thi điều mình nói.

Đây chính là lời chứng hùng hồn của thánh Gioan B. Ngài đã sống trọn cuộc đời thanh thoát với chốn bụi trần để tâm hồn chỉ còn một niềm vui là ra đi làm chứng cho Đấng Cứu Thế giữa dòng đời. Lời rao giảng và kèm theo cách sống thanh thoát của ngài đã khơi gợi lên cho dân chúng một niềm vui của thời đại Messia đã đến. Niềm vui đó đã khiến hàng ngàn người thay đổi đời sống bằng sám  hối và canh tân.

Trên dòng sông Jourdan năm đó người ta tuôn đến rất đông không chỉ để mong được nghe Gioan rao giảng mà quan yếu được gột rửa mình trong sông Jourdan. Dòng nước sông Jourdan được gột rửa với lòng sám hối đã mang lại niềm vui hoan lạc cho tâm hồn con người.

Xem ra dòng đời hôm nay rất cần những chứng nhân của Đức Ky-tô. Một đời sống chứng nhân có thể thay đổi lòng người và mang lại niềm vui nội tại cho những người mà ta đang sống. Một đời sống chứng nhân bằng bác ái, bằng dấn thân phục vụ cho người nghèo, người bệnh tật, già nua chính là phương thức hữu hiệu để dọn đường cho Chúa đến với thế gian.

Cám ơn Chúa trong dòng đời hôm nay ta vẫn thấy thấp thoáng những chứng nhân của Đức Ky-tô đang dấn thân trong mọi môi trường. Họ chính là những con chim én đang tìm đàn để tạo nên mùa xuân tô thắm cho nhân loại. Đâu đó ta vẫn thấy những người đơn độc một mình nhặt những cái đinh đang rải rác trên quốc lộ do người xấu rải ra. Đâu đó ta vẫn thấy những người đang âm thầm đi đến phục vụ những bệnh nhân nằm thoi thóp trên giường bệnh mà thiếu người thân chăm sóc. Đâu đó ta vẫn thấy những con người tình nguyện đem ánh sáng văn hoá cho các trẻ em nông thôn vùng miền núi xa xôi. Và đâu đó ta vẫn thấy những con người đang cúi mình tắm rửa cho các bệnh nhân Sida hay các bệnh nhân tại các trại phong . . .

Tất cả những con người đó đang làm cho thế giới này đẹp hơn về tình người, ấm áp hơn tình đồng loại. Đây cũng chính là dấu chỉ về thời đại Messia mà Chúa đang mời gọi chúng ta hãy cùng với Ngài mang tình thương đến cho muôn người.

Ngày 19.11 vừa qua Đức Thánh Cha Phanxico phát động ngày vì người nghèo, với chủ đề “tình yêu không bằng môi miệng mà phải hành động cụ thể”. Và chính ngài cũng mời người nghèo vào trong quảng trường dùng cơm với ngài trong tinh thần hòa đồng yêu thương. Phải chăng Đức Thánh Cha đang mời gọi chúng ta hãy trở nên dấu chỉ cho tình yêu Chúa bằng những công việc cụ thể “chia cơm sẻ áo”? Tình thương và lòng bác ái vốn dĩ là dấu chỉ về người môn đệ Chúa Ky-tô. Vì khi ta sống tình yêu ấy là ta đang họa lại chân dung về Đấng Messia cho nhân loại hôm nay.

Đặc biệt trong mùa này, mùa tình yêu, mùa của chia sẻ và trao ban. Lễ giáng sinh cũng chính là lễ của tình yêu. Đấng Messia đã đến để mang lại niềm vui cho con người khi Ngài băng bó, chữa lành mọi tật nguyền cho dân. Khi Ngài dám chết cho người mình yêu. Chính cuộc đời của Ngài trở thành Tin mừng cho nhân thế.

Hôm nay Đấng Messia vẫn đang cần chúng ta tái diễn tình yêu của Ngài cho những người đau khổ, nghèo đói, tật nguyền. Ngài đang cần đôi tay của chúng ta để Ngài băng bó vết thương cho trần thế. Ngài đang cần đôi chân chúng ta để Ngài lại có thể ra đi đến với những ai đang thất vọng sầu khổ. Và Ngài cũng cần trái tim của chúng ta để Ngài lại có thể cảm thông, chia sẻ với những ai bất hạnh đang mang nặng gánh đau thương. Đây cũng là phương thế để chúng ta dọn đường cho Chúa đến với nhân thế hôm nay.

Xin Chúa chúc lành cho những dự định, ước mơ và công việc của chúng ta ngõ hầu muôn dân sẽ nhận biết chúng ta là môn đệ Thầy Chí Thánh Giê-su. Amen

Về mục lục

.

ANH EM HÃY VUI LÊN

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hành trình Mùa Vọng, với đích điểm là lễ Giáng Sinh. Chúa nhật thứ I, Lời Chúa mời gọi chúng ta : “Hãy tỉnh thức” (Mt 24, 44). Chúa nhật thứ II, Gioan Tẩy Giả thôi thúc chúng ta : “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” (Is 40, 3).  Hai tuần trước như là tiền đường dẫn chúng ta tiếp bước với niềm vui của Chúa nhật thứ III Mùa Vọng.

Gaudete – Hãy vui lên là chủ đề của Chúa nhật này. Màu sắc Phụng vụ đang màu tím chuyển sang hồng, nhằm đánh dấu một giai đoạn sám hối, nay nghỉ một chút để nhìn lại chặng đường đã qua với niềm vui vì những gì đã đạt được, và lấy thêm đà mới chuẩn bị mừng (Chúa Giáng Sinh), nên Giáo hội mời gọi con cái mình “Gaudete – Hãy vui lên“, như Isaia:“Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi” (Is 61, 10). Niềm vui thánh thiêng ấy được biểu lộ qua lời nguyện: “Lạy Chúa, xin đoái xem, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề” (Lời nguyện nhập lễ Cn III Mùa Vọng).

Với những lời trên làm tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên, dẫn chúng ta bước vào mầu nhiệm của niềm vui ơn cứu độ. Làm sao không thể không vui khi nghe những lời loan báo đầy niềm vui của Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa” (Is 61, 1-2). Và làm sao không thể không mừng vì Người đã mặc cho tôi áo phần rỗi, và choàng áo công chính cho tôi, như tân lang đầu đội triều thiên, như tân nương trang sức bằng ngọc bảo. Như đất đâm chồi, như vườn nảy lộc, Chúa cũng làm phát sinh công chính và lời ca tụng trước mặt muôn dân” (Is 61, 10-11).

Nhưng đâu là lý do để con người vui mừng hân hoan? Thưa, Chúa chính là niềm vui của nhân loại. Tất cả chúng ta đều khao khát niềm vui, mỗi gia đình, mỗi dân tộc luôn cầu mong được hạnh phúc. Vui vì có Thiên Chúa ở cùng, vui vì ở gần bên Chúa, được sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Khi giáng trần, Chúa Giêsu đã mang đến cho con người mọi nơi, mọi thời niềm vui thiêng thánh. Nếu không có Chúa Giêsu, sẽ không có niềm vui, niệm vui ơn cứu độ.

Vào Chúa nhật trung tâm của Mùa Vọng, chúng ta được mời gọi vui lên và sống hy vọng, đồng thời trở nên sứ giả của niềm vui : “Anh em hãy vui mừng luôn. Hãy cầu nguyện không ngừng. Trong mọi việc hãy cảm tạ Chúa” (1Th 5,16-17). Nếu điều này trở thành lối sống của chúng ta, thì Tin Mừng có thể thấm nhập vào mọi nhà và giúp đỡ con người cũng như gia đình tái khám phá rằng thực sự có ơn cứu độ nơi Ðức Kitô. Trong Ngài, người ta có thể tìm thấy sự bình an nội tâm và trợ lực để đương đầu mỗi ngày với những trạng huống khác nhau trong cuộc sống.

Niềm vui là một đặc tính thiết yếu của đức tin. Cảm thấy được Thiên Chúa yêu thương, viếng thăm và cứu độ là động lực làm cho chúng ta vui mừng; chúng ta biết Chúa Giêsu Kitô đã xuống thế, tự hiến thân mình vì chúng ta là lý do chính để người tín hữu vui mừng. Người Kitô hữu buồn, bởi họ không nhìn thấy những điều Thiên Chúa đã làm cho họ, và vì thế, sẽ không có sự hiệp thông. Niềm vui của người Kitô hữu phát xuất từ tâm tình tạ ơn tạ ơn, nhất là vì tình yêu thương của Chúa thể hiện nơi chúng ta; mỗi Chủ nhật chúng ta làm điều đó bằng việc cử hành Thánh Lễ.

Tin Mừng trình bày cho chúng nhân vật Gioan Baotixita, tiền hô Đấng Cứu Thế. Ông là người cao trọng sinh ra bởi người nữ; nhưng khi được hỏi : Ông là ai ? Ông khiêm tốn trả lời, Tôi không phải là Đấng Kitô…” (Jn.121); “Tôi làm phép rửa bằng nước. Nhưng giữa các ngươi, có Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi” (Ga 1,26-27). Chúa Giêsu là Đấng mà muôn dân trông đợi; Người là Ánh Sáng chiếu soi trần thế.

Tin Mừng không phải là một sứ điệp xa lạ, càng không phải là một mớ học thuyết giữa thế gian, nhưng là Tin Mừng nhằm thỏa mãn những khát vọng sống của con người, vì Tin Mừng nối kết Thiên Chúa với chúng ta bằng việc nhập thể làm người của Con Chúa. Tất cả các Kitô hữu đều được mời gọi để tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa Giêsu Kitô và làm chứng về đức tin đã lãnh nhận. Là môn đệ của Chúa Kitô, chúng ta được kêu gọi mang hồng ân ánh sáng, ngoài lời nói, gương lành, còn trở nên gương mẫu về đời sống đức tin.

Trong mùa vọng này, chúng ta hãy củng cố xác tín Chúa đã đến giữa chúng ta và chúng ta hãy tín thác nơi Chúa; như thánh Augustinô với kinh nghiệm của ngài đã quả quyết : “Chúa gần chúng ta hơn chúng ta gần chính mình” (Le Confessioni, III, 6,11).

Chúng ta hãy phó thác hành trình của chúng ta cho Ðức Maria, thần trí của Mẹ đã vui mừng trong Chúa là Ðấng Cứu Thế. Xin Mẹ hướng dẫn tâm hồn chúng ta trong sự vui mừng chờ đợi Chúa Giêsu đến, một sự chờ đợi đầy kinh nguyện và việc lành. Amen.

Về mục lục

.

GIOAN TẨY GIẢ LÀM CHỨNG

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Tiếng của Gioan Tẩy Giả vang vọng từ sa mạc hoang vu đến tận thế giới, đến với những con người thành tâm thiện chí. Tiếng của Ông nói lên niềm hy vọng bởi vì thống hối mà Ông rao giảng là trở về, là cải thiện, là làm mới cõi lòng để đón chờ Chúa đến. Tiếng hô của Ông làm cho mọi người phải suy nghĩ, thay đổi:” đồi núi phải bạt xuống cho bằng, hố sâu phải lấp cho đầy, quanh co phải uốn cho ngay thẳng “. Điều Gioan Tẩy Giả muốn nói là làm đẹp nội tâm, làm đẹp cõi lòng để Chúa ngự đến.

Vâng, Gioan Tẩy Giả chỉ là tiếng hô trong sa mạc, dọn đường cho Đấng Thiên Sai. Tiếng của Ngài mang đến niềm hy vọng cho con người. Tuy nhiên, tiếng hô của Ông, niềm hy vọng Ông mang lại không phải là sự hy vọng đầu tiên.Bởi trước Ông, tiên tri Isaia đã loan truyền, công bố niềm hy vọng.Ông loan báo sự hy vọng cho con người khi được Thiên Chúa xức dầu sai Ông đi.Ông công bố sự an ủi, niềm cậy trông, băng bó những tâm hồn bị tan nát dày vò, phóng thích kẻ tù tội và giải oan cho những người bị áp bức. Ông loan truyền một Đức Chúa sẽ giải phóng mọi người khỏi ách nô lệ tội lỗi, đem lại ơn cứu độ cho con người vv…Trước Gioan Tẩy Giả, Mẹ Maria, Nữ tỳ của Thiên Chúa, được đắc sủng nơi Thiên Chúa.Mẹ đã nói lời xin vâng đem lại tràn đầy hy vọng và hạnh phúc cho loài người, cho muôn người.

Mẹ Maria, Gioan Tẩy Giả và ngôn sứ Isaia là những chứng nhân của niềm hy vọng, chứng nhân của chính Thiên Chúa. Các ngài loan báo một Đấng Cứu Thế sẽ được sinh ra bởi phép Chúa Thánh Thần. Đấng cứu độ sẽ đến giải thoát con người khỏi ách nô lệ của tội lỗi. Đấng cứu thế đến để mang lại hạnh phúc và niềm vui cho con người. Ngôi Lời sẽ làm người và cư ngụ giữa nhân loại, giữa chúng ta, Ngài là “ Emmanuen nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta “.

Gioan là người dọn đường, còn Chúa Giêsu là chủ. Gioan là đèn soi, còn Chúa Giêsu là ánh sáng. Gioan là tiếng kêu, Chúa Giêsu là Ngôi Lời vĩnh cửu, Lời hằng sống. Chúng ta mỗi người cũng là chứng nhân sống động của niềm hy vọng, của Lòng Thương Xót Chúa. Quả thật khi con người phải đối diện với những thử thách, những khó khăn, họ luôn tìm câu trả lời cho những câu hỏi được đặt ra.Tuy nhiên, tất cả những câu trả lời cho những vấn nạn của con người, không thể nào làm cho con người thỏa đáng. Chỉ có Chúa Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể làm người mới trả lời được cho những vấn nạn hốc búa của con người trong mọi thời đại.

Thực ra như Gioan Tẩy Giả, chúng ta đều là chứng nhân cho Chúa. Chúng ta làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của chúng ta.Mỗi lần chúng ta phục vụ anh em, giúp đỡ tha nhân với tất cả tấm lòng của mình. Chúng ta sống bác ái yêu thương, và tỏ lòng nhân từ với tha nhân, với người khác là chúng ta đang làm chứng cho Chúa. Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II nói:” Người ngày nay không thích những chứng nhân nói, mà thích gương sống của các chứng nhân ấy “. Nói và làm phải đi đôi với nhau vì nếu chỉ nói suông, chỉ nói ngoài môi miệng mà lòng không phải thế thì con người đích thực không phải là chứng nhân chân thực. Sống chứng nhân như Mẹ Têrêsa Calcutta, như Têrêsa Hài Đồng Giêsu là làm cho các tâm hồn cuốn theo mình.

Gioan Tẩy Giả đã hoàn thành sứ mạng dọn đường cho Chúa :” Có tiếng hô trong sa mạc, hãy dọn đường cho Chúa “. Mỗi người chúng ta cũng phải trở nên chứng nhân đích thực cho Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn can đảm, hiên ngang và sẵn sàng làm chứng cho Chúa giữa muôn vàn nghịch cảnh. Xin cho chúng con luôn biết làm cho nhiều người nhận biết Chúa. Amen.

Gợi ý để chia sẻ :

1.Gioan là ai ?
2.Tại sao lại gọi Gioan là chứng nhân ?
3.Mỗi người chúng ta phải trở nên chứng nhân như thế nào ?
4.Gioan Tẩy Giả có phải là chứng nhân đầu tiên loan báo Đức Giêsu Kitô hay không ?

Về mục lục

.

SỐNG TRONG ÁNH SÁNG CHÚA

Anna Cỏ May

Trên hành trình rao giảng, ông Gioan đã thu hút mọi người từ khắp nơi đến chịu phép rửa. Điều đó khiến cho mấy thầy tư tế, thầy Lêvi cùng những người Pharisêu không khỏi tò mò. Họ muốn tìm cách tiếp cận ông. Họ cất công đi từ Giêrusalem đến gặp ông. Ông Gioan đang làm phép rửa ở sông Giođan. Họ tiến đến và hỏi “Ông là ai?” (Ga,1,19). Một câu hỏi đi thẳng vào vấn đề. Ông trả lời thẳng thắn cho họ: “Tôi không phải là Đấng Kitô” (Ga 1, 20). Không thỏa mãn trước câu trả lời ấy, họ đưa ra những câu hỏi khác. Ông điềm tĩnh trả lời cho họ từng câu một. Một bên đang nóng lòng biết được thông tin theo ý mình còn người trả lời thì thẳng thắn và không hề giấu diếm. Những người tư tế và các thầy Lêvi không mấy tin tưởng nên khó chịu nhưng vẫn nài nỉ với ông để hy vọng một câu trả lời khác để về trả lời cho những người đã cử mình đến. Ông Gioan nói về mình “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi” (Ga 1, 23). Dù đã trả lời như thế nhưng họ vẫn không bằng lòng liền lấy ngay việc làm của ông mà thách thức và chất vấn ông. “Vậy tại sao ông làm phép rửa nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không  phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?” (Ga 1, 25). Quả là một câu hỏi hay để cho ông nói rõ về sứ mạng của mình, bắt đầu giới thiệu Chúa Giêsu cho họ biết. Ông đã tự hạ mình xuống và nâng Đấng sẽ đến sau ông. Ông chỉ là người được sai đến để làm chứng cho mọi người tin chứ ông không phải là ánh sáng. Ông đã khiến cho mọi người khâm phục bởi chính sự khiêm tốn, không một chút kiêu ngạo hay tự phụ nhưng luôn che khuất bản thân mình. Vậy ngày hôm nay, còn có chút hình bóng của ông Gioan nơi chính chúng ta không? Chắc chắn là có nhưng chính hoàn cảnh cuộc sống có quá nhiều sự dữ khiến chúng ta dần đánh mất đi hình ảnh là người đượcThiên Chúa sai phái. Chúng ta lâm vào con đường nâng mình lên trên và trước Thiên Chúa qua những câu chuyện nhỏ hàng ngày. Đôi khi, chúng ta nghĩ mình sống vì Chúa nhưng không phải. Chính những khi chúng ta ích kỷ đó là khi chúng ta làm trái ý Chúa. Chúa đã bị lu mờ đi (Ngài vốn dĩ không bị lu mờ bởi bất cứ một điều gì). Chính khi chúng ta đánh mất nét đẹp của Chúa nơi mình, chúng ta đánh mất hạnh phúc. Cơ hội vẫn còn. Chúng ta hãy bắt đầu lại, sám hối và hy sinh bằng những việc nhỏ hằng ngày.

Trong giờ chơi góc, có tiếng hét vang lên. Cô giáo vội vàng đi tới thì thấy cậu bé đang đứng vòng tay xin lỗi cô bé ngồi bên cạnh. Cô giáo không nỡ lòng nào phạt cậu bé nữa.

Lạy Chúa! Mỗi người chúng con được Chúa sai đi rao giảng. Ngài đã đặt tình yêu và niềm hy vọng nơi chúng con. Nhưng rồi chúng con đã làm gì? Vâng, Chúa biết rõ mỗi người chúng con hơn chúng con biết nhau. Nguyện xin Chúa dùng ánh sáng Ngài soi vào cõi lòng, tâm trí và trái tim chúng con. Nguyện xin Chúa giúp chúng con được thấy và sống trong ánh sáng của  Ngài. Amen.

Về mục lục

.

ĐONG ĐẦY TÌNH YÊU

Bông hồng nhỏ

Quân đang mải mê chơi bắn bi ở sân nhà thì có một người lạ đến nhà. Hôm nay, bố mẹ Quân đi làm ở đồng xa, chỉ có cậu ở nhà một mình. Người lạ lên tiếng hỏi:

– Bố mẹ cháu đi đâu cả rồi?

– Cháu chào ông? Bố mẹ cháu đi làm đồng rồi ạ. Nhưng ông là ai? Ông hỏi bố mẹ cháu có việc gì cơ?

– Ông là bạn của bố cháu. Cháu đi gọi bố cháu về đây được không? Ông có việc gấp cần gặp bố cháu.

– Dạ, khoảng 10 giờ thì bố mẹ cháu đi làm về đó ạ.

– Vậy thì cháu cứ chơi tiếp đi vì bây giờ đã 10 giờ kém rồi.

Khi gặp một người lạ đến nhà mình, ta thường hỏi họ là ai, đến đây để làm gì. Hôm nay, Tin Mừng theo thánh sử Gioan đã thuật lại lời chứng của ông Gioan khi các tư tế và mấy thầy Lêvi được những người Do thái từ Giêrusalem cử đến hỏi ông. Họ đã chất vấn ông rất nhiều điều. Ông Gioan tuyên bố thẳng thắn rằng mình không phải là Đấng Kitô mà muôn dân đang mong đợi. Ông cũng không phải là ông Êlia hay là vị ngôn sứ nào cả (x. Ga 1, 19-21). “Ông nói gì về chính ông?” (Ga 1, 22b). Các tư tế và mấy thầy Lê vi đang nóng lòng biết về chính ông. “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi.” (Ga 1, 23). Đúng như lời chứng của ngôn sứ Isaia đã nói. “Ông nói gì về chính ông?”, đó cũng là câu hỏi dành cho chính ta. Ta tự hỏi lòng mình “Tôi nói gì về chính tôi?”. Ông Gioan đã nói cho các tư tế và mấy thầy Lêvi biết về sứ mạng “Tiền hô” của mình. Còn ta, ta thường nói về điều gì? Chẳng phải không ít lần, ta đã tự hào giới thiệu cho mọi người biết về tài năng ta có, thành tích ta đạt được đó sao? Nhưng những điều đó không nói gì về chính ta. Ông Gioan làm những việc làm mà bao người cảm phục ông. Ông rất nổi tiếng nhưng khi nói về chính mình, ông khiêm tốn nhận mình chỉ là một tiếng hô trong hoang địa. Một tiếng hô vang lên và người ta kéo đến với ông để ông thức tỉnh họ. Ông chỉ là người dọn đường. Ông được Thiên Chúa sai đến để làm chứng về ánh sáng. Ông ý thức rằng Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ đi. Ông đã ẩn mình suốt ba mươi năm, sống trong hoang địa để nhận biết tiếng nói của Thiên Chúa. Ông đã giấu mình đi trong âm thầm như thế. Ông không phải là Đấng mà muôn dân mong đợi. Có một Đấng đến sau ông, sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần.

Nhìn về chính mình, ta ý thức mình là một người Kitô hữu. À phải rồi. Nói về Chúa trong ta, đó mới thật là nói về những gì thuộc về chính mình. Nhưng nói về Chúa bằng cách nào?  Ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Chúa. Ta phải là chứng nhân cho tình yêu Chúa hiện hữu nơi mình. Ta là người được Thiên Chúa sai đi để làm chứng cho Chúa.

Có một câu chuyện như sau: Một giáo lý viên đang say sưa dạy cho các học trò về đề tài “Thiên Chúa là tình yêu”. Thằng Tèo tinh nghịch chọc thằng Thắng ngồi bên cạnh. Cả hai cười rúc rích mà quên mất rằng mình đang ở trong lớp học. Giáo lý viên tức giận bước xuống cho mỗi đứa một cái tát rõ đau. “Thằng Tèo nói cho chị biết, lớp đang học bài gì? Thằng Tèo đang ú ớ chưa có câu trả lời thì chị nhìn sang Thắng, nó cũng tiu nghỉu cúi mặt xuống đất. Chị hỏi cả lớp “Cả lớp đang học bài gì?”.  “Dạ, bài Thiên Chúa là tình yêu ạ.”

Nói về tình yêu Thiên Chúa hay giảng về tình yêu Thiên Chúa không phải là điều khó. Thế nhưng, thực tế để sống chứng tá cho điều ấy thật không mấy dễ dàng. Ta cũng dễ nóng nảy, thiếu kiên nhẫn với ai đó khi họ không làm ta hài lòng, khiến ta bực bội khó chịu. Chính những lúc ấy là lúc đo lường lòng mến Chúa thật sự nơi ta. Ông Gioan đã không hề tỏ ra khó chịu trước những câu hỏi mang tính cách chất vấn của những Tư tế và các thầy Lêvi. Ông kiên nhẫn trả lời cho họ từng câu. Ta đã làm gì để làm chứng cho Chúa với chức năng “ngôn sứ” ta đã lãnh nhận?

Lạy Chúa! Xin đong đầy tình yêu trong con để mỗi ngày con kiên nhẫn và hăng say làm chứng cho Chúa giữa đời. Xin dạy con biết yêu thương hết mọi người, bắt đầu từ những hành động nhỏ bé nhất. Làm chứng cho Chúa đòi hỏi con phải nỗ lực hoàn thiện bản thân, sống trong tâm tình sám hối và khiêm tốn. Xin Chúa luôn đồng hành cùng con và cho con cảm nếm niềm vui “Chúa phải lớn lên còn con phải nhỏ đi.” Amen.

Về mục lục

.

KHIÊM NHƯỢNG

Lm. Trần Việt Hùng 

Chứng nhân sự sáng được sai,

Tiền hô mở lối, đóng vai mọn hèn.

Tiếng kêu hoang địa chong đèn,

Mở đường chiếu giãi, đêm đen vào đời.

Tiên tri cao trọng rạng ngời,

Ẩn thân khiêm nhượng, gọi mời dấn thân.

Vui mừng sứ vụ bình dân,

Dọn đường sửa lối, canh tân lòng người.

Không màng danh lợi ở đời,

Xả thân phục vụ, Chúa Trời Ngôi Hai,

Ngài là ánh sáng thiên thai,

Giê-su Chí Thánh, thiên sai từ trời.

Mở lòng đón nhận Vua Trời,

Thành tâm tôn kính, sống đời khiêm nhu.

Thực hành sống đạo luyện tu,

Nêu gương nhân đức, thiên thu sáng ngời.

Thánh Gioan Tẩy Giả là một nhân chứng khiêm nhường và can đảm. Ngài là vị tiền hô. Ngài xuất hiện để loan báo và dọn đường cho Chúa. Ngài không phải là sự sáng nhưng làm chứng cho sự sáng. Ngài nhận mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa. Ngài đã hoàn tất sứ mệnh của người làm chứng cho Chân Lý qua cái chết của ngài.

Sống một đời ngắn ngủi nhưng từng bước chân đã ghi dấu niềm xác tín nơi Con Chúa. Qua cuộc sống khắc khổ nơi hoang địa, ngài chuẩn bị cho chính mình một tấm lòng đơn sơ và khiêm nhường. Ngài khơi dậy sự mong chờ và lòng khao khát ơn Cứu Độ. Ngài đã chuẩn bị lòng con người, kêu gọi sửa cho ngay đường Chúa đi. Ngài đã giới thiệu Chúa cho mọi người. Đã hiến mình làm chứng cho Sự Thật.

Chấp nhận thân phận người tiền hô, ngài không tìm vinh quang cho chính mình. Giống như Gioan, chúng ta được mời gọi chia xẻ sứ mệnh rao truyền chân lý của Chúa. Hãy học nơi thánh Gioan, tìm làm vinh danh Chúa. Dẫn dắt nhiều người về với Chúa. Trong sứ mệnh rao truyền Tin Mừng hôm nay, đôi khi vì sự háo thắng, chúng ta lại muốn rao truyền và tìm vinh danh cho chính mình. Muốn người ta biết về mình nhiều hơn. Thay vì giới thiệu Chúa cho người khác, chúng ta tìm giới thiệu chính mình và sự khôn ngoan thông thái của mình. Tìm giải thích Lời Chúa theo ý của mình và uốn nắn theo những sở thích của riêng mình.

Gioan đến làm chứng cho sự sáng. Chúa chính là ánh sáng soi dọi vào đêm tối. Chúng ta hãy truyền đạt ánh sáng mà chúng ta đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa Tội. Hãy để ánh sáng của Chúa chiếu tỏ qua cuộc sống của chúng ta. Cầu nguyện để mỗi người là chứng nhân trung thành. Chúng ta đã theo đạo, cần giữ đạo, sống đạo và thực hành đạo để xứng danh Kitô hữu.

Chúa Giêsu đã phán rằng: ‘Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống’. Bước theo Chúa, chúng ta sẽ không lạc lối vì có Chúa là Đường. Mọi sự đều quy về Lời Chúa. Chính Chúa Giêsu là tâm điểm để mọi người xoay quanh. Càng đến gần tâm điểm là Chúa Giêsu, chúng ta càng được sưởi ấm trong tình yêu của Ngài.

Về mục lục

.

ĐẤNG MESSIA

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Đấng Messia không phải là…

 Đoạn Tin Mừng mở đầu bằng một xác quyết phủ định: “Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng”. Thế rồi tiếp theo đó trong chứng từ của Gio-an, chúng ta còn gặp thấy nhiều phủ định khác nữa: “Tôi không phải là đấng Ki-tô!… Ông có phải là Ê-li-a không – không phải!… Ông có phải là vị ngôn sứ chăng – không! “. Thì ra thế, lời chứng của Gio-an về đấng Thiên Sai trước hết đã khởi đầu bằng những phủ định. Đối với một số người, đặc biệt những ai tưởng mình đã hiểu biết đủ, thì đôi khi để minh xác một đối tượng là ai họ cần trước hết nói rõ Ngài không phải là ai cái đã.

Chắc chắn rất nhiều người Do Thái cùng trông đợi đấng Messia hay Ki-tô – Người Được Sức Dầu, trong số đó phải kể các thầy tư tế và Lê-vi. Giới giáo sĩ này vẫn hướng dẫn dân chúng theo những gì họ đọc được trong Sách Thánh Cựu Ước: đấng Ki-tô – Messia sẽ đến phải là môt nhân vật đầy quyền lực thống trị, cao sang tột cùng và đầy Thần Khí, tức là đầy sức mạnh của Đức Chúa Gia-vê. Để đón tiếp một vị quyền uy như thế phải có nhân vật xứng tầm Ê-li-a – người đã một mình ngăn cản vua A-háp, thách thức hoàng hậu Giê-dê-ben và tiêu diệt bọn sư sãi Ba-an trên đỉnh núi Cát Minh (I Vua 17), hoặc vị ngôn sứ tuyệt hảo tầm cỡ Mô-sê với sức mạnh giải phóng dân khỏi ách thống trị của Pha-ra-ô. Thế nhưng Gio-an đã phủ nhận toàn bộ lối suy nghĩ này khi họ muốn gán cho ông những danh hiệu đó (cho dầu chính Đức Giê-su có ám chỉ ông là Ê-li-a phải đến, có lẽ vì thái độ thẳng thắn ông lên tiếng tố cáo Hê-rô-đê loạn luân). Gio-an dứt khoát không muốn đặt mình thuận theo lối suy nghĩ đó. “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ?” Ông không là đấng Ki-tô theo lối suy nghĩ của giới tư tế và Lê-vi đã đành, ông còn phủ nhận luôn vai trò tiền hô theo suy nghĩ họ có trong đầu. Ông nói rõ, quan niệm họ vốn có về đức Ki-tô – Messia sẽ không làm họ có thể nhận ra được Người, vì cụ thể Người đang ở ngay giữa họ, “Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.” Nói lên điếu đó, hầu như Gio-an yêu cầu chính các tư tế và Lê-vi phải bỏ hẳn lối suy nghĩ cũ về đấng Messia, điều kiện cần thiết để họ có thể nhận ra và đón rước Người.

Thế ra đôi lúc, nhất là đối với một hạng người nào đó, việc làm tiên quyết để đón đấng Messia không phải là từ bỏ đường tội lỗi để cải tà qui chính, mà lại là phải bỏ hẳn lối suy nghĩ cũ để khám phá ra dung mạo hay ánh sáng đích thực của Đấng phải đến. Phải chăng có một ứng dụng rất mới của sứ điệp dọn đường: “Thung lũng phải lấp cho đầy, núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng” (Lc 3:5), cũng như lời kêu gọi “anh em hãy sám hối” (Mt 3:2); sứ điệp này chứa đựng một ý nghĩa vượt xa nội dung thuần luân lý mà nhiều người vẫn hiểu? Ánh sáng mà Hài Nhi Giê-su đem đến trần gian sẽ là một thứ ánh sáng rất khác lạ, có lẽ cho tới lúc đó rất hiếm người đã được nhìn thấy nó. Ánh sáng này chỉ dành cho các tâm hồn đơn sơ hèn mọn được thấy, các ‘A-na-wim’ (tôi tớ hèn mọn) của Gia-vê như Ma-ri-a, các mục đồng, Si-mê-on và An-na…, vì đó là ánh sáng của một ‘Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian’ (Ga 1:29). Những ai vẫn bảo thủ quan niệm cố hữu về đấng Mét-si-a quyền uy cao cả và thống trị, như quân vương Hê-rô-đê, các thượng tế và thầy thông luật, sẽ chẳng bao giờ có thể nhận ra được Ngài đâu.

Như thế, ngoài sứ điệp thống hối tội lỗi để thanh tẩy tâm hồn vẫn thường nghe nhắc nhở, Mùa Vọng còn gởi tới một sứ điệp khác cấp bách không kém: hãy duyệt lại quan niệm tôi vốn có về đấng Ki-tô, về Thiên Chúa giáng trần. Nếu tâm trí tôi vẫn thường chỉ hướng tới Thiên Chúa như đấng quyền uy cao cả, thì Hài Nhi sinh ra khó nghèo trong hang bò lừa, hoặc sẽ chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi, hoặc tôi sẽ cố biến hang bò lừa ấy thành một nơi cao sang rực rỡ. Để nhận ra được ‘Chiên Thiên Chúa’ tâm hồn tôi không những phải sạch tội, mà còn phải đơn sơ và hèn mọn, nếu không Hội Thánh sẽ nói với tôi, giống như Gio-an đã cảnh cáo các Tư Tế và Lê-vi: “có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.” Có không rất nhiều tín hữu, trong số đó có cả linh mục và tu sĩ, dọn mừng lễ Giáng Sinh rất trọng thể linh đình, nhưng khi Người đến họ lại không thể nhận ra, vì trong thâm sâu cõi lòng họ vẫn chỉ muốn thấy một Thiên Chúa quyền uy thống trị và cao sang? Có thể lắm đấy, bản thân tôi cũng đã từng là một trong số đó, nếu không sớm được giác ngộ để thay đổi tận căn quan niệm tôi có về đấng Ki-tô Cứu Thế, Người Cha từ nhân và xót thương!

Lạy Hài Nhi Giê-su giáng sinh trong hang bò lừa nghèo hèn, xin hãy liệt con vào số các người hèn mọn của Gia-vê để con có thể nhận ra khi Người đến giữa và ở với chúng con. Xin gạt hẳn khỏi tâm trí con hình ảnh một Thiên Chúa công thẳng quyền uy, và thế vào đó là một Thiên Chúa từ nhân cứu độ; và cũng xin đừng bao giờ để hình ảnh này biến mất khỏi tâm trí lòng con, một hãy làm cho nó ngày càng đậm nét hơn. Lạy Mẹ Maria, kẻ hèn mọn tuyệt vời, xin giúp con như Mẹ nhận biết Chúa Hài Nhi. A-men.   

Về mục lục

.

LÀM CHỨNG CHO ÁNH SÁNG

Lm. Barnaba  Lê An Phong,

1. Có một người Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến làm nhân chứng để làm chứng cho ánh sáng. Ông không phải là ánh sáng, nhưng đã được gửi đến làm chứng về ánh sáng đó. Và đây là lời chứng của Gioan, khi người Do Thái gửi các “chuyên viên” từ Jerusalem đến hỏi ông: “Ông là ai?”. Gioan thú nhận, không phủ nhận, “Tôi không phải là Đức Kitô” – Tôi không là Đấng cứu thế, cũng không phải là nhà tiên tri. “Tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn con đường của Đức Chúa, như tiên tri Isaia đã nói”.

Trước mặt ông là sa mạc hoang vu, và nơi ấy Gioan đã lắng nghe Lời Chúa. Đến với ông là mọi người thuộc nhiều tầng lớp và là những ai muốn đổi mới cuộc đời. Gioan Tẩy giả loan báo và dọn đường bằng lời nói và bằng hành động nơi cuộc sống của chính mình.

Gioan Tẩy giả bị “hạch hỏi” vì những gì mình đang làm nhân đanh Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn dùng con người – các ngôn sứ – để nói về Ngài và nhờ họ dẫn đưa nhiều người về với Thiên Chúa. Cũng vì thế, lý chứng hay nhân chứng về Thiên Chúa không phải được con người đón nhận luôn luôn. Người ta có thể chất vấn, tra hỏi và xua đuổi các chứng nhân Tin mừng.

2. Tin mừng tuần này theo Thánh Gioan cũng nói đến ánh sáng và làm chứng cho ánh sáng. Cuộc tranh đấu giữa thiện và ác, tốt và xấu, ánh sáng và bóng tối vẫn luôn diễn ra trong và ngoài bản thân mỗi chúng ta. Bây giờ chúng ta đang bão hòa với “tin xấu” và sự dửng dưng, vô cảm. Chỉ cần nghe vài thông tin là người ta có thể rơi vào tình trạng “trầm cảm”. Đây là tin chiến tranh, này là tin cuộc sống “có vấn đề” của giới trẻ; nọ là tin bạo lực vô cớ đối với phụ nữ và trẻ em, kia là tin gia đình tan nát vì muôn vàn lý do ngô nghê.

Cần chăng những tin vui và bình an được loan đi! “Tin mừng của Thiên Chúa”, đây không phải là một kiểu chơi chữ. Lời mở đầu khi đọc Lời Chúa là “Tin mừng”. Con người luôn mong đợi được nghe một điều tốt lành ở giữa rất nhiều tin tức xấu. Sự xuất hiện của tình yêu Thiên Chúa nơi Đấng an ủi và hoà giải mọi người luôn là một tin tốt lành.

3. Theo gương Gioan, chúng ta có thể là một sự hiện diện chứng tá. Cũng giống như Gioan Tẩy Giả, mục đích rao giảng của ông không phải là để thu hút sự chú ý của mọi người về phía mình và để chiếm toàn bộ thế giới cho riêng mình, nhưng là để chuẩn bị một không gian rộng lớn hơn nơi tâm hồn mọi người, và toàn bộ không gian ấy thuộc về Chúa Giêsu Kitô. Chỉ có Ngài mới là “ân sủng tràn đầy của Thiên Chúa”, và Ngài sẽ xuất hiện cho chúng ta trong tất cả vẻ huy hoàng rực rỡ, như ánh sáng rọi vào đêm tối.

Ban và tôi có thể chuẩn bị và làm sạch sẽ không gian bụi bặm của tâm hồn mình để ánh sáng của Chúa có thể rọi chiếu vào. Bạn và tôi có thể làm chứng cho Ngài trong tuần lễ này bằng lối sống chân thực và khiêm nhường được chăng? Hãy thắp lên một ngọn nến nhỏ khi bạn cầu nguyện trong tuần này, một dấu hiệu cho thấy chúng ta đang tỉnh thức. Ngọn nến thắp sáng cũng là một dấu hiệu của ánh sáng đã rọi chiếu vào chúng ta qua Bí tích Rửa tội. Trong Mùa Vọng này, bạn được mời gọi để xem lại rằng ánh sáng ấy đang trở nên mờ nhạt hay không. Hãy xin Chúa giúp bạn cảm nhận được vẻ đẹp và sự ấm áp của ánh sáng đã đốt cháy tâm hồn bạn, để bạn cũng có thể làm sinh động, chiếu sáng và sưởi ấm những người gần gũi với bạn.

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến với chúng con. Vì Ngài là ánh sáng của thế giới, xin hãy chiếu sáng tâm hồn chúng con. Amen.

Về mục lục

.

NIỀM VUI ĐÍCH THỰC PHÁT XUẤT TỪ TÂM HỒN BÌNH AN

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Cách đây ít tuần, có một phụ nữ tâm sự: Thưa cha, cuộc sống gia đình con không hạnh phúc, con đã phải chịu đựng ông chồng vừa lười, vừa có tính gia trưởng và bạo hành. Con đã không thể chịu đựng được nữa nên đã đem con cái về nhà mẹ ruột ở. Vậy mà ông ấy vẫn đến quậy phá con, ông ấy còn tuyên bố: Mày có đi đến đâu thì cũng vẫn là vợ của tao. Con thấy cuộc sống của mình bất ổn quá, con nói ổng ly dị để cuộc sống bằng an và yên ổn làm ăn. Ông ấy nhất định không viết đơn nên con tự đưa đơn ra tòa. Tòa đã chấp nhận và xử cho hai người ly hôn, đến hay đã được hơn ba tháng. Thế nhưng, sự việc đã không như con nghĩ, ông ấy vẫn đến quậy con và tuyên bố: Tòa có xử ly hôn thì mày vẫn là vợ tao. Thế nhưng, thưa thật với cha, từ khi tòa xử đến nay, con không thấy vui, cũng không thấy tâm hồn bằng an, trái lại lương tâm áy náy, ruột gan rối bời, đầu óc hoảng loạn, có những lúc như không thở được.
Thưa quý OBACE, niềm vui đích thực phải là niềm vui phát xuất từ Thiên Chúa, nơi một tâm hồn bình an, thanh thản trước mặt Chúa và trước mặt mọi người. Bước vào tuần thứ ba mùa Vọng, màu sắc của phụng vụ và Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy vui lên vì Chúa đã đến gần. Chúng ta có thể vui được không? Điều gì đang làm tâm hồn ta trĩu nặng khiến ta không thể vui? Ai có thể đem đến niềm vui cho chúng ta?
Tiên tri Isaia cho biết, để có niềm vui thì cần phải có Chúa trong tâm hồn. Ông đã diễn tả niềm vui  bằng những lời rất đẹp: Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa. Ông xác tín rằng, Chúa đã bước vào tâm hồn ông, biến đổi ông, hơn nữa, Chúa đã tín nhiệm, đã chọn và sai ông thi hành sứ mạng loan báo niềm vui cho người khác. Ông đã sẵn sàng để cho Thiên Chúa sử dụng mình: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Đức Chúa đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tâm hồn tan nát, công bố lệnh ân xá, phóng thích cho tù nhân. Vị tiên tri cũng chỉ cho thấy, để có được niềm vui đích thực cần phải để cho Thiên Chúa biến đổi: Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh. Ngài làm cho tâm hồn tôi trổ sinh những hoa trái tốt lành như đất đai làm đâm chồi nảy lộc, cây cối nảy mầm kết trái. Cách diễn tả giàu hình ảnh của Isaia nói lên việc Thiên Chúa đã biến đổi hoàn toàn con người ông và chính Chúa đem lại cho ông niềm vui.
Bài Tin Mừng giới thiệu cho chúng ta Gioan Tẩy Giả như một mẫu gương sống và cảm nhận được niềm vui phục vụ. Gioan là một ngôn sứ được sai đến với sứ mạng dọn đường cho Đấng Cứu Thế, ông đã vui với sứ mạng của mình và chu toàn một cách tốt đẹp vai trò là một người dọn đường. Tin Mừng hôm nay giới thiệu sứ mạng của Gioan là để làm chứng về ánh sáng, chính ông không phải là ánh sáng. Với lời giảng thật mạnh mẽ, dứt khoát của Gioan, ông đã quy tụ được rất nhiều người đến nghe ông và xin chịu phép rửa tỏ lòng sám hối. Nhiều người thấy lối sống đơn sơ khắc khổ của ông, cùng với những lời kêu gọi sám hối: Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng, núi cao- bạt xuống, thung lũng- lấp cho đầy, đường quanh co- uốn lại cho ngay thẳng.., họ nghĩ rằng ông chính là Đấng Cứu thế. Gioan khiêm tốn nhận rằng: Tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi. Gioan đã không ảo tưởng về sự thành công của mình, không để mình rơi vào cám dỗ trở thành người nổi tiếng và cũng không tìm cơ hội đánh bóng bản thân. Trái lại, Gioan đã trả lời cho những người thắc mắc về sứ mạng của ông, khi hỏi ông: Ông có phải là Đấng Kitô không, tại sao ông làm phép rửa? Gioan đã mượn lúc này để giải thích về Đấng Mesia, Đấng ấy sẽ làm phép rửa bằng Thánh Thần cho tất cả những ai tin Ngài. Còn Gioan đã nhận mình không đáng cúi xuống để cởi quai dép cho Người. Chính vì biết khiêm tốn đặt mình trước mặt Chúa, chu toàn tốt nhiệm vụ Chúa trao, Gioan đã trở thành con người ngập tràn niềm vui đơn sơ, thiêng liêng và thánh thiện.
Thánh Phaolô đã đúc kết lại và chỉ cho ta biết phải làm thế nào để có được niềm vui đích thực: Anh em hãy vui mừng luôn mãi, hãy cầu nguyện không ngừng và hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh. Anh em đừng dập tắt Thần Khí, chớ khinh thường những lời tiên tri. Điều gì tốt hãy giữ lấy, còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì cũng tránh cho xa. Khi thực hiện như thế, Chúa sẽ là nguồn mạch bình an trong tâm hồn, Ngài sẽ thánh hóa toàn diện con người chúng ta, để thần trí, tâm hồn và thể xác chúng ta được gìn giữ không có gì đáng trách trước mặt Chúa.
Cuộc sống chung quanh đang tạo ra rất nhiều thú vui, xã hội tạo ra nhiều tụ điểm vui chơi, nhưng con người dường như vẫn cảm thầy buồn chán. Có nhiều người phải che dấu sự bất an và đau khổ trong tâm hồn bằng sự ồn ào và nụ cười ngượng. Nhiều người gặp nhau chỉ khoe răng, hé môi, nhưng trong ánh mắt, trên nét mặt vẫn hằn sâu một nỗi buồn. Nhiều người, trong đó có những người trẻ, đang sống trong chán nản, buồn bã, vì cuộc sống đơn điệu, nhàm chán, họ cảm thấy mình cô đơn ngay trong gia đình và thấy lạc lõng ngay trong đám đông. Để tìm được niềm vui đích thức làm động lực cho cuộc sống, mỗi người cần phải mạnh dạn gỡ bỏ nguyên nhân chính gây buồn chán, đó là tình trạng lười biếng, tội lỗi. Hãy mạnh dạn làm hòa với Thiên Chúa và làm hòa lại với anh em, gỡ bỏ những gì đang cản bước chúng ta không đến được với Chúa và Chúa không đến được với ta, cũng như gỡ bỏ những vật cản, vướng mắc khiến ta không thể đến được với anh em. 
Ma quỷ không thề làm điều tốt, nó chỉ có thể cám dỗ ta phạm tội và hứa sẽ đem lại niềm vui khi phạm tội. Nhưng khi đã nghe lời cám dỗ, nó chỉ có thể đem đến sự buồn chán và thất vọng. Chỉ có Chúa mới là nguồn vui và hạnh phúc đích thực. Khi có Chúa, tâm hồn ta sẽ có bình an thẳm sâu và niềm vui thánh thiện của Chúa. Khi cảm nhận được sự hiện diện yêu thương của Chúa, dù hoàn cảnh bên ngoài có thất bại hay sóng gió có thử thách vùi dập, ta vẫn cảm nhận được niềm vui và sự bình an của Chúa từ tận sâu trong tâm hồn.
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du), chúng ta chỉ có thể trở thành người đem niềm vui và bình an đến cho người khác khi trong lòng chúng ta thực sự ngập tràn niềm vui. Trái lại, khi tâm hồn chứa đầy u sầu buồn bã, chúng ta chỉ có thể đem đến cho người khác sự căng thẳng, nóng nảy, cãi vã. Vì vậy, để gia đình có được niềm vui và bình an, thì các thành viên, đặc biệt là cha mẹ, cần phải có niềm vui trong tâm hồn và trong cuộc sống. Niềm vui không đến từ các bữa nhậu, cũng không phải từ những cuộc túm tụm bạn bè bài bạc, nhưng phải là niềm vui của tâm hồn thanh thản, bình an vì sạch tội. Các cha mẹ cần tìm kiếm niềm vui vui đích thực qua việc hòa giải, gặp gỡ Chúa mỗi ngày nơi Thánh lễ, qua bí tích Thánh Thể và những giờ kinh cầu nguyện. Chúa sẽ ban cho ta một tâm hồn bình an thanh thản và niềm vui nhẹ nhàng lan tỏa trong cả ngày sống và trong gia đình.
Xã hội ngày nay đang tạo ra rất nhiều thú vui, nhiều bạn trẻ lao vào các cuộc vui như con thiêu thân lao vào ngọn đèn, đến độ thiêu rụi cả tương lai cuộc đời mình. Nhiều bạn trẻ khác để mình chìm ngập trong dòng chảy của thế giới ảo, lối sống ảo, sống vội, sống cuồng đến độ đánh mất thực tại cuộc đời. Càng lao vào những chỗ ồn ào, những thú vui và các cám dỗ của xã hội như thế, các bạn càng cảm thấy trống rỗng và buồn chán, mất ý nghĩa và mục đích sống. Mùa Vọng là dịp để mỗi bạn tìm lại ý nghĩa, mục đích và niềm vui đích thực cho cuộc sống của mình, bằng việc lấy Tin Mừng làm thước ngắm để uốn nắn lại hành động, lấy Chúa và sự phục vụ anh em làm niềm vui cho tâm hồn và dùng các việc đạo đức để cân bằng lại đời sống.
Xin Chúa cho mỗi chúng ta biết để cho Lời Chúa điều chỉnh cuộc sống của mình để mùa Vọng và Giáng Sinh này thực sự là mùa chúng ta cảm nhận được niềm vui của Chúa lan tỏa trong tâm hồn và lan tỏa đến từng lời nói và hành động của chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

CHỨNG NHÂN TRUNG THỰC

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Gioan Tẩy Giả, có lẽ, là vị Thánh Công Giáo đi vào hội họa nhiều nhất. Có vô số tranh vẽ về ông với đề tài khá đa dạng, hướng đến những giá trị tư tưởng khác nhau. Gần như hầu hết các họa sĩ nổi tiếng nhất trong lịch sử nghệ thuật Công giáo, từ Leonardo da Vinci, Titian, Caravaggio đến Rubens…đều tìm thấy trong cuộc đời của ông một chi tiết nào đó làm nguồn cảm hứng sáng tác cho mình. Riêng Caravaggio, đã vẽ đến hàng chục tác phẩm về Gioan Tẩy Giả…

Không chỉ nhiều, Gioan Tẩy Giả có lẽ cũng là vị Thánh đi vào hội họa sớm nhất. Icon thể hiện hình ảnh Thánh lâu đời nhất được tìm thấy, là icon về Gioan Tẩy Giả, được vẽ vào khoảng cuối thế kỷ thứ V đầu thế kỷ thứ VI, có nguồn gốc Palestine.

Bức tranh đã bị hư hại nhiều, không thể nhận biết hai hàng chữ viết hai bên chuyển tải thông điệp gì. Ở trên cùng, dễ nhận biết, bên trái, là hình ảnh Chúa Giêsu, và bên phải, là hình ảnh Đức Mẹ Maria.

Giữa vô số tranh vẽ Thánh Gioan Tẩy Giả, chiếm số lượng nhiều nhất, và có nhiều tác phẩm xuất sắc nhất, là ở mảng chủ đề: “Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết”.

Đây là icon thể hiện chủ đề “Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết” được cho là lâu đời nhất được vẽ vào khoảng đầu thế kỷ thứ VII, thuộc truyền thống Byzantium.

Đứng chính giữa, là Thánh Gioan Tẩy Giả. Ông đang nói: “Tôi không phải là ánh sáng, nhưng tôi đến để làm chứng cho ánh sáng”.

Phía sau là dòng sông, nơi ông thực hiện phép Rửa cho Chúa Giêsu.

Bên trái, là đầu của ông, đã bị chặt lìa, nhưng vẫn như đang hướng nhìn về phía chúng ta.

Bên phải: ở dưới là con chiên tượng trưng cho Dân Chúa như đang suy ngẫm về những gì Thánh Gioan Tẩy Giả nói trong sự tôn kính, và bên trên là cây tượng trưng cho sự sống.

Bức tranh như vậy, theo một số học giả, là sự khái quát trọn vẹn cuộc đời và sứ mệnh của Thánh Gioan Tẩy Giả: “là nhà tiên tri cuối cùng, là người dọn đường cho sự ra đời của Chúa”. (Nguyên Hưng).

  1. Chứng nhân ánh sáng trung thực

Khởi đầu Phúc Âm, Thánh Gioan viết: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin.” (Ga 1,6-7).Thánh Gioan là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của mình. Ngài là chứng nhân ánh sáng của sự trung thực.

Chúa Giêsu nói về Gioan: “Ðây còn hơn cả ngôn sứ nữa” (Mt 11, 9). Và Chúa còn nói thêm : “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt 11,11). Nhưng so với Chúa Giêsu, Gioan nhận ra mình thật nhỏ bé. Thấp kém đến nỗi “không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người”. Gioan trung thực nói lên một sự thật. Đó là mình kém xa vì Gioan chỉ là một thụ tạo yếu đuối mỏng dòn.Trong khi đó, Đức Kitô là Thiên Chúa, là Chúa của Gioan và là chủ tể của mọi loài. So sánh với Chúa Giêsu, Gioan chỉ là một giọt nước giữa lòng biển cả mênh mông, chỉ là một cây nhỏ trong đại ngàn trùng điệp, chỉ là một hạt cát giữa sa mạc bao la.

Khi thấy Gioan xuất hiện, rao giảng phép rửa thống hối, dân chúng tự hỏi xem có phải ông là Ðấng Cứu Thế không? Gioan phủ nhận địa vị mà họ gán cho ông (Ga 1,20; Cv 13,25). Gioan tự xóa mình trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước bao nhiêu người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần.Gioan trung thực trong những lời nói về chính mình. Ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm ngài có. Gioan chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình mà thôi.

Trung thực với lòng mình, nên Gioan sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong sứ vụ nên Gioan chẳng nể vì kiêng cữ ai. Những luật sĩ thông thái phái Pharisiêu, những bậc vị vọng có nhiều ảnh hưởng lớn trong xã hội thuộc phái Sađucêô, những thầy cả tư tế đạo cao chức trọng, tất cả đều bị Gioan cảnh cáo nặng lời. Gioan gọi họ là loài “rắn độc” (Mt 3,7). Ngay cả vua Hêrôđê, Gioan cũng thẳng thắn cảnh cáo vì vua muốn chiếm vợ của anh mình (Mt 14, 3-12). Vua Hêrôđê vẫn nể sợ Gioan vì biết ông là người công chính, thánh thiện (Mc 6,20). Chính vì trung thực trong sứ mạng ngôn sứ mà Gioan phải trả giá bằng ngục tù và bị chém đầu. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Ánh sáng trung thực khiến cho lời chứng của Gioan càng có sức thuyết phục.

Thánh Gioan đã làm chứng nhân ánh sáng trung thực nên ngài đã sống một cuộc đời thật đẹp và đã chết hào hùng.

  1. Thánh Gioan sống rất đẹp

Gioan sống đẹp vì dám từ bỏ đời sống dễ dãi tiện nghi của gia đình và xã hội, rút vào trong sa mạc hoang vắng để sống gắn bó với Thiên Chúa, lắng nghe và thực hiện ý Ngài.

Gioan sống đẹp khi có được một số môn đệ theo mình, nhưng ngài cũng không ngần ngại giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa cho họ (Ga 1,36) để họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu, một bậc Thầy cao cả hơn.

Gioan sống đẹp khi ngài thu phục được đám đông, được dân chúng ngưỡng mộ, họ xem ngài như một tiên tri cao cả, nhưng Gioan lại chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà ngài không đáng cởi quai dép cho Người (Ga 1,27) để cho dân chúng thôi ngưỡng mộ mình mà quay sang ngưỡng mộ Chúa Giêsu.

Gioan sống đẹp khi chủ trương rằng: “Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”(Ga 3,30)

  1. Thánh Gioan chết cũng rất đẹp, rất hào hùng.

Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương,bị đế quốc Roma cai trị hà khắc, nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn, dân chúng lầm than. Gioan mang nặng những ưu tư, những trăn trở yêu nước thương dân.

Vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân. Lương tâm ngôn sứ thúc đẩy, Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua, kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay.Vì thế, Gioan đã bị vua chém đầu. Cái đầu vị ngôn sứ đổi bằng bữa tiệc và điệu múa vũ nữ. Hêrôđê tàn bạo, Hêrôđiađê lăng loàn và thủ đoạn. Cái chết của Gioan cao đẹp và hào hùng vô cùng.

Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ngài không hoàn thành,bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù. Ngôn sứ, chứng nhân của sự thật thời nào cũng phải trả giá. Điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống.Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.

Người theo Ðạo Hồi giáo Islam sùng kính Thánh Gioan Tiền Hô ở giáo đường bên Syria. Theo sự tin tưởng và tương truyền, trong ngôi đền thờ Hồi giáo Omajjden bên Syria có nấm mộ chôn đầu bị chém của Thánh Gioan Tiền Hô. Người Hồi giáo Syria gọi thánh nhân bằng tên Yaya Ben Zakariyah. Năm 2001, Thánh Gioan Phaolô II đã đến hành hương kính viếng cầu nguyện trước ngôi mộ Thánh nhân tại ngôi đền thờ này với mọi người Hồi giáo tại đó. Một vị Thánh sống tôn trọng và rao giảng sự trung thực, sự ăn năn sám hối. Từ đó cho tới nay, người Hồi giáo vẫn luôn luôn sùng kính mộ mến thủ cấp của vị ngôn sứ chứng nhân sự thật.

  1. Theo gương Thánh Gioan, sống chứng nhân trung thực

Nói sự thật có thể bất lợi cho mình hoặc cho người khác. Gioan đã dám nói sự thật, dù phải chết. Gioan không sợ quyền lực, không hùa theo kẻ có quyền lực. Trước điều sai trái, ngài không im lặng để được an toàn bản thân, để được xã hội ưu đãi. Gioan lên tiếng làm chứng cho lẽ phải, ngài không thể nói ngược lại lương tâm mình. Không thể nói điều sai trái là đúng, hay nói điều đúng là sai trái.

Có lẽ chưa bao giờ người dân Việt Nam lại ngao ngán trước những tiêu cực, tệ nạn, bất công, gian dối đầy dẫy trong xã hội như ngày hôm nay. Người dân phải chấp nhận sống chung với gian dối, tiêu cực, tệ nạn như người miền Tây, miền Trung được khuyên tập sống chung với lũ vậy.Ông Trần Quốc Thuận, văn phòng Quốc Hội Việt Nam tuyên bố: “Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống. Nói dối hằng ngày nên thành thói quen. Thói quen đó lập lại nhiều lần thành ‘đạo đức’, mà cái ‘đạo đức’ đó là mất đạo đức.”. Gian dối trở thành tập quán xã hội, một bản tính thứ hai, một nền “đạo đức” của con người, như vậy thì tương lai của dân tộc Việt Nam sẽ đi về đâu?

Giáo sư Hoàng Tụy nhận định: Sự giả dối hiện nay đang có nguy cơ trở thành nỗi nhục trong khi truyền thống dân tộc Việt Nam không phải là dân tộc giả dối. Ngành giáo dục càng không thể là ngành giả dối. Thế nhưng, đã có hơn một nhà khoa học nước ngoài nói thẳng với tôi rằng, điều thất vọng lớn nhất mà ông ta cảm thấy là sự giả dối đang bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội ở các tầng nấc… Trung thực thế nào được khi mà người ta hàng ngày phải sống trong một môi trường giả dối mà minh chứng rõ nhất là tiền lương công chức. Chẳng ai sống nổi bằng lương nhưng rồi ai cũng sống đàng hoàng, dư giả. (x.Báo Khuyến học & Dân trí, Thứ sáu, 28/11/2008).

Tác giả Đỗ Duy Ngọc viết bài: “Chúng ta đang ở thời đại nói láo toàn tập !”. Ông than thở: Không biết lịch sử ghi lại các triều đại phong kiến đúng sai như thế nào, cũng chẳng có cách nào để kiểm chứng. Thế nhưng, thời đại ta đang sống hoá ra toàn láo cả. Rồi lịch sử thời hiện đại sẽ viết sao đây?

Cuối bài, ông viết nghe thật buồn: Láo từ trung ương đến địa phương, láo từ tập đoàn cho đến công ty, láo từ một tổ chức cho đến cá nhân. Láo mọi ngành nghề, láo toàn xã hội. Tất cả đều bị đồng tiền sai khiến, bị danh lợi bám quanh.Hơn nữa vì sự thật bi đát quá, đành láo để khoả lấp, hi vọng sẽ an dân. Nhưng thời đại bùng nổ thông tin, dân biết hết nên chuyện láo trở thành trơ trẽn.Nghe láo quen, chúng ta lại tự láo với nhau và chuyện láo trở thành bình thường, láo để tồn tại, để phấn đấu, để thêm lợi thêm danh, và rồi láo đã trở thành một nếp sống.Trẻ con học người lớn nói láo rồi tiếp tục những thế hệ nói láo: Ở nhà trường nghe cô thày nói láo, ra đời nghe thiên hạ nói láo, về nhà lại được nghe nói láo từ cha mẹ, mở máy nghe, nhìn cũng rặt điều láo. Một nền văn hoá láo đã nẩy sinh và phát triển. Hỏi sao trẻ con không láo và tương lai lại tiếp tục láo. Nghĩ cũng buồn! Những ngày cuối tháng 10/2017 (x.baotiengdan.com).

Lm Nguyễn Hồng Giáo nhận định: Xã hội ta thì xưa nay đã quá quen với việc làm dối, nói dối, báo cáo láo đến nỗi dường như không còn coi đó là một điều xấu nữa. Chúng ta còn nhớ một khẩu hiệu được tung ra thời đầu đổi mới là “Nói thẳng, nói thật”. Có chủ trương như thế là vì có tình trạng quanh co, gian dối. Một bài thơ châm biếm đăng trên Sài Gòn Giải phóng ngày 18. 5. 1990 có nhan đề đáng để ý.

Thôi xài chữ giả 
Chữ nghĩa du di chả mấy hồi 
Đói không nói đói, “thiếu ăn” thôi!
Học hành “hạn chế”: y chang dốt
Báo cáo “tuy nhiên”: ắt hẳn… tồi. 
“Vượt mức chỉ tiêu”? Nên bớt nửa, 
“Có phần sơ sót”? Hãy nhân đôi…
Mực đen gấy trắng đòi trung thực 
Chữ giả xài lâu hỏng lắm rồi. (Long Vân)

Các nhà nghiên cứu đã phân tích và nêu lên nhiều nguyên nhân của tình trạng thiếu trung thực tràn lan. Nhưng tôi thiển nghĩ rằng, ta còn có thể nghĩ tới một nguyên nhân sâu xa mà hình như chưa ai đề cập tới cách thẳng thắn. Đó là liệu tình trạng này có liên quan cách nào đó chăng tới nhân sinh quan chính thức của xã hội ta hay ít nhất là tới một cách làm, cách nghĩ lâu đời đã ăn quá sâu vào trong tâm thức của giới cầm quyền và nhân dân? Tôi không dám khẳng định mà chỉ nêu câu hỏi như một “giả thuyết làm việc”, như người ta quen nói trong phạm vi nghiên cứu khoa học (hypothèse de travail)… Tôi thiển nghĩ, muốn cải tổ giáo dục theo chiều hướng trung thực, cần phải có một sự cải tổ sâu hơn về não trạng và về quan niệm đạo đức, tựu trung là về nhân sinh quan. (x. Giả dối lan tràn, tại sao? Lm Nguyễn Hồng Giáo, OFM).

 Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa Trung Tín (1 Tx 5,24). Ngài là “đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Ngài đã tin tưởng và gọi chúng ta là môn đệ của Ngài (Mt 25,22), và trao cho chúng ta những trách nhiệm lớn (Mt 25,21; Mt 28,19). Vì thế, chúng ta phải là chứng nhân trung thực của sự thật và trung tín giữa một xã hội mà sự gian dối đã trở thành “đạo đức”.

Thiết nghĩ, bài học về lòng trung thực phải là bài học đầu đời cho các bộ óc trẻ trung đang còn trong trắng tuổi học sinh.

Theo gương Thánh Gioan chứng nhân ánh sáng trung thực, với tư cách ngôn sứ, chúng ta cần sống chứng nhân cho chân lý và tình yêu. Sống chân chính ngay thẳng theo lương tâm Kitô giáo, chúng ta góp phần mở đường dọn lối cho Chúa đến.

Về mục lục

.

LÀM CHỨNG VỀ ÁNH SÁNG

P.Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn, Bốn sách Tin Mừng, Tin Mừng Nhất Lãm và Tin Mừng theo thánh Gioan đều có chung “ nhất lãm” về   “nhân vật “ Tiền Hô” cho Đấng Cứu Thế.

Hôm nay , Chúa Nhật III Mùa Vọng cho chúng ta về một “ chứng nhân” cho Đấng Cứu Thế. Sự xuất hiện của Chúa Giêsu  không phải là một sự xuất hiện “đơn điệu”, dù rằng là một sự “ tự hạ” hết sức. Nhưng, lời tiên tri loan báo từ ngàn xưa và đến thời giờ đã định, Thiên Chúa cho xuất hiện nhân vật “ làm chứng” là Gioan Tiền Hô. Một gương sống khiêm nhường, đến độ người ta tưởng lầm là Đấng Cứu Thế , tức Kitô.

Nhưng thánh Gioan Tiền Hô không “ mạo nhận “ lợi dụng cơ hội nầy để “lừa gạt”, mà ngài nói “ Tôi không phải là Đấng Kitô”. “ Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi” ( c 23)

Cuộc sống khắc khổ của ngài, lời ngài rao giảng sám hối, làm phép rửa thể hiện một ngôn sứ, một ngôn sứ của thời đại mới. Tiếng tăm của ngài vang xa, đến độ các thầy Lêvi cho người đến dò hỏi trực tiếp : “ Ông là ai ?”. Có phải là Êlia, hay Đấng Kitô, ông đều trả lời : “Không”, ông rất thẳng thắn, không mạo nhận mình là “ ngôn sứ”. Nhưng, người ta hỏi : “Tại sao ông làm phép rửa”, ông trả lời: “ Tôi làm phép rửa trong nước, nhưng Đấng đến sau tôi, đang ngự giữa các ông mà các ông không biết”.

Tuy , Đấng Cứu Thế được loan báo từ ngàn xưa, nhưng đến thời gian Người xuất hiện thật âm thầm, đến độ “tầm thường”, nhưng, “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng”. ( c 6-8)

Như vậy, vời ba câu mở đầu nói về Gioan Tiền Hô, với cách nói của thánh Gioan tông đồ, chúng ta thấy cách viết của thánh Gioan rất độc đáo, chỉ ba câu, nhưng nói lên được tính cánh của một con người Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế, đồng thời nói lên “đặc tính” của Đấng Cứu Thế là ” ÁNH SÁNG”. Không gì “thật” bằng ánh sáng, không gì “sáng” bằng ánh sáng, không gì “ mạnh” bằng ánh sáng, không gì “ nhanh” bằng ánh sáng và không gì “ sáng” bằng ánh sáng.

Theo đó, người làm chứng về ánh sáng, thật là một người “sáng”, và người ấy phải từ Thiên Chúa mà đến. Như vậy, sau Đấng Cứu Thế, thánh Gioan Tiền Hô cũng là một “ánh sáng”,nhưng, không phải là “ánh sáng” Cứu Thế,  bởi vì, như Lời Chúa Giêsu nói: “ Không có phàm nhân nào do bởi lòng mẹ sinh ra mà cao trọng hơn Gioan Tẩy giả”, nhưng “ kẻ nhỏ nhất trong Nước trời còn cao trọng hơn ông”. Theo đó, chúng ta suy ra được Đấng Cứu Thế Giêsu- Kitô thật cao trọng dường nào.

Như vậy, vai trò Tiền Hô của Gioan Tẩy Giả, dù ngài không nhận mình là ngôn sứ, nhưng, ngài đảm  nhận sứ mạng như Isaia, có thể nói Gioan Tẩy Gỉa chính là “Isaia thứ hai” cho Đấng Cứu Thế. Vì : “ Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Ngài sai tôi đến với người nghèo khó…” nói lên sứ mạng của Đấng Cứu Thế, mà Tiên Tri Isaia đã nói từ ngàn xưa.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian để cứu độ chúng con, và đã chọn một nhân vật “làm chứng”, để minh chứng Chúa chính là “ÁNH SÁNG” cứu độ. Xin thương ban cho những ai mong chờ ngày Chúa đến được xứng đáng gặp Người, dù là ngày tưởng nhờ Người đến lần thứ Nhất, và lần sau cùng. Amen

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 MÙA VỌNG_B

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Tin mừng Chúa nhật III Mùa Vọng qua cuộc gặp gỡ giữa Gioan Baotixita với các thầy tư tế và các thầy Lêvi trình bày cho chúng ta một tin vui: Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu độ nhân loại và yêu thương đang hiện diện giữa chúng ta. Ngài đến để chiếu sáng thế gian: “Nhưng giữa các ngươi, có Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy đến sau tôi, nhưng có trước tôi. Tôi không xứng đáng cởi dây giầy cho Người”.

Gioan Tẩy Giả là người làm chứng cho Đấng Cứu Thế “Ông đến để làm chứng cho ánh sáng”. Ánh sáng đích thực là chúa Kitô. Lúc bấy giờ dân chúng mến mộ Gioan Tẩy Giả. Họ tưởng ông là Đấng Messia là ánh sáng, là một vị tiên tri. Ông đã ba lần phủ nhận: “Tôi không phải là Đấng Messia, không phải là ánh sáng”.

Sứ mạng của Gioan Tẩy Giả là chứng nhân cho sự sáng thật là Đức Giêsu Kitô.

– Qua lối sống khổ hạnh, hy sinh hãm mình, lời rao giảng sám hối và qua lời chứng: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: hãy sửa cho ngay đường Chúa đi” (Ga 1, 23). Đã xác minh Gioan Tẩy Giả là Vị tiền hô của Đấng Cứu Thế, là chứng nhân của Thiên Chúa. Gioan Tẩy Giả chỉ đứng ra làm chứng, giới thiệu Đấng Cứu Thế: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. Khi Đấng Messia xuất hiện, thì ngài rút lui vào bóng tối: “Người phải lớn lên, tôi phải nhỏ đi”.

– Có thể nói, Gioan Tẩy Giả là người tôi tớ, còn Đức Giêsu là ông chủ. Gioan là ngọn đèn soi. Đức Giêsu là ánh sáng. Gioan là tiếng kêu và Đức Giêsu là lời hằng sống của Thiên Chúa.

– Như Gioan Tẩy Giả, Kitô hữu phải là chứng nhân cho Đức Kitô trong cuộc sống hôm nay.

– Gioan Tẩy Giả khiêm tốn tự nhận mình là tiếng hô trong sa mạc để dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Khi thi hành bổn phận với những thành công, chúng ta phải biết quy hướng tất cả về Thiên Chúa “Tất cả vì vinh danh Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn”.

– Sống chứng nhân cho Chúa bằng cuộc sống gương mẫu đạo đức: hiền lành, yêu thương, tha thứ, khiêm hạ…

– Thánh Gioan Tiền hô đã anh dũng làm chứng nhân cho ánh sáng, cho chân lý mà ngài đã phải trả giá rất mắc là chấp nhận tù đầy và bị chặt đầu. Trong xã hội hôm nay, người ta đánh mất đi ý thức về công bằng, về chân lý, Kitô hữu cũng phải can đảm dám nói lên sự thật, thà chết không thỏa hiệp với ma quỷ, với tội lỗi, với thế gian.

Mùa Vọng nhắc chúng ta dọn lại con đường tâm hồn cho Chúa đến, dọn lòng mình, dọn lòng anh em, để Chúa đến với mọi người. Một lời nói thân thiện, một việc làm bác ái, một sự hy sinh phục vụ anh em, một nụ cười thông cảm… do đức tin soi dẫn, sẽ mang lại sức sống, niềm tin cho mọi người. Đó là cách dọn lòng mình và tha nhân, đón Chúa đến một cách thiết thực và chân thành nhất.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG_B

Fx. Đỗ Công Minh

Mùa Vọng, mùa trông đợi đã trở về với nhân lọai chúng con. Tuần này đã là tuần thứ ba của mùa Vọng. Đó đây trong khuôn viên các nhà thờ đã có đèn sao nhấp nháy trên những cây thông xinh xắn. Những hang đá máng cỏ đang được dựng lên chuẩn bị cho ngày đại lễ. Trên những xóm ngõ của các xứ đạo, người người chăng đèn kết sao. Những hàng chữ MERRY CHRISTMAS bên những Ông già Noel vai đeo túi quà tươi cười vẫy chào. Không khí ngày lễ đang tràn về trên phố phường khiến mọi người có thêm niềm vui.

Lạy Chúa,

Con cũng đang chuẩn bị cho ngày đại lễ, con dọn lại nhà cửa, sắp xếp cho Chúa một chỗ nhỏ trong căn phòng khách. Nơi đó sẽ có một cây thông nhỏ, có bộ tượng be bé xinh xinh, có những dây đèn điện, những quả cầu trang trí, những dây kim tuyến đủ màu. Nhìn vào là thấy một bầu khí ấm cúng của đêm Chúa ra đời, thay cho một đêm đông giá rét ngòai đồng vắng không người qua lại, chỉ có những chú mục đồng nghèo nàn trong các căn chòi tá túc hơn 2000 năm trước đây. Con dọn chỗ đón Chúa bằng những hình thức quả có trang trọng, đẹp đẽ trong nhà của con với những thứ bên ngòai, như mọi người trên thế giới này. Như thế có đầy đủ?

Bài tin mừng hôm nay giới thiệu: “Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan, ông đến để làm chứng“. Ông xác định mình: “Tôi không phải là Đức Kytô“, cũng không nhận mình là Ông Êlia hay một vị Ngôn sứ. “Tôi  là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như Ngôn sứ Isaia đã nói“. Lời Chúa cho con nhận ra rằng chuẩn bị cho ngày lễ bằng những hình thức bên ngòai không có gì sai, nhưng quả thật là chưa đủ. Con còn phải sửa con đường tâm linh cho thẳng để Chúa đi và để con đón Chúa đến. Ông Gioan, một vị sứ giả của Thiên Chúa, ông cũng rao giảng, nhưng không phải nói về ông, đề cao mình là một Rabbi trong dân Israel, mặc dầu có rất nhiều người ngưỡng mộ. Thậm chí có nhiều người đến xin làm môn đệ. Ông chỉ nhận mình là người giới thiệu: ”Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết“.

Chúa đến trần gian này để con người được chia sẻ hạnh phúc là con Thiên Chúa. Được hưởng niềm vui Chúa trao, đó là sự bình an. Con người không còn sống trong tội lỗi, không còn tranh chấp, khinh chê lẫn nhau, áp bức nhau. Sẵn sàng coi nhau là anh em con một Cha, sẵn sàng đến với nhau, giúp nhau cùng thăng tiến. Và để có được những điều ấy con phải mở lòng đón tiếp Chúa, dọn cho Chúa một con đường đi vào nhà Linh hồn con. Con đường ấy không thể lồi lên những thói xấu, những ích kỷ. Không lõm xuống nhửng đam mê dục vọng.

Những  núi đồi kiêu căng, tự mãn, coi rẻ người khác nơi con phải được bạt đi cho phẳng. Những khúc quanh dối trá, lươn lẹo của con phải được uốn nắn lại theo sự công chính và ngay thẳng. Con có dám làm những điều ấy? Con có xứng đáng là người loan báo Chúa cho những anh chị em con chưa nhận biết Người? Con có nói về Chúa, sống làm gương ngay trong gia đình, để giới thiệu Chúa cho con cái, người thân của con? Lời Chúa vẫn đang tra vấn con…

Nếu con vẫn sống như con đang sống hôm nay, và mỗi năm, mùa Vọng về, vẫn dọn nhà cửa, trang trí trong ngòai căn nhà vật chất này thôi, thì nhà con, tâm hồn con đâu có chỗ cho Người ngự vào.

Xin cho con nhân những ngày này biết dọn lòng đón Chúa vào gia đình, vào linh hồn con, biết thay đổi cách sống của mình. Bây giờ con còn tội lỗi, vấp phạm thì nhờ ơn Chúa, con sẽ đứng lên và đến với Chúa xin ơn tha thứ. Xin Chúa giúp con. Chúa ơi!

Về mục lục

.

NHÂN CHỨNG KHIÊM NHƯỜNG

Trầm Thiên Thu

Khiêm nhường là nhân đức cần thiết đối với mọi người, lại càng quan trọng hơn đối với những người làm chứng về Thiên Chúa. Sống khiêm nhường không dễ, bởi vì “cái tôi” luôn muốn nổi loạn bất cứ lúc nào. “Không dễ” có nghĩa là “khó”, nhưng “khó” không có nghĩa là “không làm được” hoặc “bất lực”. Chúa Giêsu chỉ cho bí quyết sống khiêm nhường: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17:10). Đừng quan trọng hóa mình thì có thể sống khiêm nhường.

Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi? Như có lời chép: Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo tin mừng!” (Rm 10:14-15). Rất lô-gích!

BÀI SAI CỦA CHÚA

Ai cũng có trách nhiệm làm chứng về Đức Giêsu Kitô theo hoàn cảnh sống của mình. Khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, được trở nên con cái của Thiên Chúa, đồng thời mỗi Kitô hữu cũng được Thiên Chúa sai đi vào giữa cuộc đời để làm nhân-chứng-sống cho Ngài. Thật vậy, điều đó được ngôn sứ Isaia khi nói thay tất cả chúng ta: “Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta; Người sai tôi đi yên ủi mọi kẻ khóc than” (Is 61:1-2).

Trọng trách đó không của riêng ai, bổn phận đó của bất cứ ai tin tưởng và mong đợi Đấng Cứu Thế. Nhưng vấn đề là Chúa không sai ai đến với người giàu sang, người quyền cao chức trọng, người ăn trên ngồi trước,… mà Ngài sai chúng ta đến với kẻ nghèo hèn, người đau khổ, tù nhân, người bị bỏ rơi, kẻ bị khinh miệt, kẻ cùng đinh,… Nhưng thực tế xã hội thường đi ngược lại, nghe “lời sai đi” kia cho xong lần, qua tai rồi thôi, sau đó có thể lại tự hành động theo ý mình. Có lẽ vậy mà người nghèo khổ và kẻ thấp cổ bé miệng vẫn không thể ngóc đầu lên được, nhân vị của họ vẫn bị chà đạp, nhân phẩm của họ vẫn bị bôi nhọ, và nhân quyền của họ vẫn bị tước đoạt! Chính ĐGH Leo XIII đã xác định trong tông thư Tân Sự (Rerum Novarum, 15-5-1891): “Sự nghèo khổ không là điều hổ thẹn” (a. 37).

Không phải đi làm theo ý mình, mà bước chân ra đi và dấn thân vào đời để hành động theo hướng dẫn của Thiên Chúa, có vậy thì chúng ta mới có thể “như đất đai làm đâm chồi nẩy lộc, như vườn tược cho nở hạt sinh mầm, Đức Chúa là Chúa Thượng cũng sẽ làm trổ hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân” (Is 61:11).

Đức Mẹ là một nhân chứng sống động và khiêm nhường. Lời Kinh Magnificat (Lc 1:46-50, 53-54) của Đức Maria chứa đầy niềm hân hoan: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi”. Tuy là người cao trọng và có cuộc sống tuyệt vời, nhưng Đức Mẹ vẫn tự nhận mình là “phận nữ tỳ hèn mọn”. Đó là sự khiêm nhường đúng Thánh Ý Chúa. Thiên Chúa là Đáng toàn năng, Ngài không chỉ làm cho Đức Mẹ biết bao điều cao cả, mà hàng ngày chúng ta cũng vẫn nhận “miễn phí” từ Thiên Chúa với bao điều kỳ diệu của cuộc sống! Đơn giản nhất mà cũng quan yếu nhất là không khí, nếu không có không khí trong vài giây thì không gì sống nổi. Một hồng ân kỳ diệu hiển nhiên vẫn xảy ra từng giây phút hàng ngày, nhưng đôi khi chúng ta “làm ngơ” và thậm chí còn đòi hỏi nhiều thứ hơn nữa.

Tất cả hồng ân đều bởi Lòng Thương Xót vô hạn của Thiên Chúa, bởi vì Ngài “hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1:50). Thiên Chúa là Đấng Thánh cao cả, luôn yêu chuộng sự công bình và đức khiêm nhường: “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1:53-54). Cựu Ước cũng đề cập tương tự: “Đức Chúa hạ bệ những ai quyền thế, và đặt kẻ hiền lành ngồi lên thay” (Hc 10:14). Ngôn sứ Isaia nói: “Đức Chúa các đạo binh đã quyết định điều ấy để làm nhục mọi đứa cao sang ngạo mạn và hạ bệ mọi kẻ hiển danh trên mặt đất” (Is 23:9). Và rồi chính vua Na-bu-cô-đô-nô-xo cũng phải công nhận: “Giờ đây, ta, Na-bu-cô-đô-nô-xo, ta ca ngợi, tán dương và tôn vinh Vua Trời, vì mọi việc Người làm đều chân thật, đường lối của Người vốn công minh. Người có quyền hạ bệ kẻ quen thói kiêu căng hống hách” (Đn 4:34).

Có điều quan trọng: Mặc dù hành động nhưng vẫn không được xao lãng việc cầu nguyện. Thánh Phaolô căn dặn: “Anh chị em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng” (1 Tx 5:16-17). Không chỉ tạ ơn khi thuận ý mình mà “hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh” (1 Tx 5:18), vì “đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu”. Thánh Phaolô căn dặn thêm: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ, còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa” (1 Tx 5:21-22). Tỉnh thức, vừa hành động vừa cầu nguyện để “thần trí, tâm hồn và thân xác được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm” (1 Tx 5:23).

Với kinh nghiệm dày dạn, thánh Phaolô xác định chắc chắn với chúng ta như đinh đóng cột: “Đấng kêu gọi anh chị em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó” (1 Tx 5:24). Ôi, thế thì trên cả tuyệt vời! Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã cầu xin Chúa Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành”(Ga 17:24). Nhưng cũng cần có điều kiện, điều kiện đó không vì lợi ích cho Chúa mà vì lợi ích cho chính chúng ta. Lợi ích đó là gì?

TRỞ THÀNH NHÂN CHỨNG

Thiên Chúa đã sai ông Gioan làm người tiền phong đến dọn đường trước khi sai Con Một Giêsu đến thế gian. Ông được gọi là tiền hô, ông không là ánh sáng nhưng ông đến để “làm chứng về ánh sáng để mọi người nhờ ông mà tin” (Ga 1:7). Và Thiên Chúa cũng trao “bài sai” cho những ai tin nhận Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ.

Lúc đó, nhiều người Do Thái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi xem ông Gioan là ai, nhưng ông nói thẳng: “Tôi không phải là Đấng Kitô”. Họ lại hỏi ông có phải là ông Êlia hay là vị ngôn sứ chăng. Ông vẫn một mực từ chối: “Không”. Họ chưa thỏa mãn nên tiếp tục hỏi, ông Gioan đành nói thật: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói” (Ga 1:23). Nhân vật quan trọng Gioan thực sự khiêm nhường khi chỉ nhận mình là “tiếng hô trong hoang địa”.

Sao kỳ vậy nhỉ? Mấy người thuộc phái Pharisêu nghe nói vậy nên nhíu mày và tròn mắt ếch: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?”. Đúng là bọn người “ma mãnh” mà lại quá chậm tiêu! Ông Gioan trả lời rành rọt: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1:27). Lại một lần nữa ông Gioan thể hiện đức khiêm nhường khi nói mình “không đáng cởi quai dép” cho Đấng đến sau ông.

Đức khiêm nhường là nền tảng mọi nhân đức, nhưng cũng là nhân đức khó thực hiện, bởi vì “cái tôi” luôn “cản mũi kỳ đà”. Ai cũng muốn được khen, vì đó là bản tính bình thường của phàm nhân. Không ai muốn bị chê, nhất là những người có chức quyền, danh vọng, địa vị, “tai mắt” trong thiên hạ,… Tự ái là yêu mình, yêu mình là điều cần, nhưng đừng yêu mình quá. Đôi khi “chiếc ghế quyền lực” còn được người ta coi trọng hơn danh dự. Thực tế xã hội đã và đang cho chúng ta thấy rõ như vậy. Đó là một “hội chứng” đáng quan ngại, ngày nay người ta thường gọi các dạng đó là “chủ nghĩa” – chủ nghĩa quyền lực, chủ nghĩa hưởng thụ, chủ nghĩa 5V (vội vàng vơ vét về).

Người Việt có cách nói: “Văn mình, vợ người”. Quả thật, văn mình lúc nào cũng hay, và vợ người bao giờ cũng đẹp. Người ta luôn muốn chứng tỏ mình đúng và “bản lĩnh” của mình hơn hẳn người khác. Ai “chạm” vào quyền lợi của mình thì “có chuyện”, dù đó chỉ là “chuyện nhỏ”, không đáng chi cả. Thật vậy, chỉ nhìn thấy “ngứa mắt” mà người ta cũng sẵn sàng “xử” nhau theo “luật rừng”, và họ lý luận là “đánh cho bõ ghét” hoặc “giết cho biết tay”. Quả thật, “cái tôi” và “cục máu tự ái” luôn sẵn sàng dâng cao như sóng thần bất cứ lúc nào. Đúng là không dễ gì sống khiêm nhường đâu!

Có lẽ ít ai lại không nghe nói tới vĩ nhân Mohandas Karamchand Gandhi (2/10/1869 – 30/1/1948). Ông được dân Ấn Độ tôn là thánh nhân và gọi ông là Mahatma (Tâm hồn Vĩ đại). Ông đã từng nhận định: “NẾU các Kitô hữu SỐNG ĐÚNG như Chúa Giêsu, tôi THEO đạo ngay”. Quả thật, một câu nói khiến chúng ta cảm thấy “nhức nhối” và phải suy nghĩ thật nhiều. Thiên Chúa muốn chúng ta phải thực sự là những nhân chứng sống động và khiêm nhường mà chúng ta chưa đạt đến tiêu chuẩn mà Ngài đề ra!

Thời gian thấm thoắt thoi đưa, con đường Mùa Vọng đã bước sang chặng thứ ba (tuần III), nghĩa là đã được nửa đường. Do đó, hôm nay Giáo hội không sử dụng màu Tím mà sử dụng màu Hồng – gọi là “Chúa Nhật Hồng”, thể hiện niềm vui mừng vì sắp đến ngày Ngôi Hai giáng trần. Trong khi chờ mong, không thể ngồi “chờ sung rụng” mà phải tích cực hành động, nghĩa là chúng ta phải lên đường và vào đời…

Làm nhân chứng là trách nhiệm và bổn phận, nhưng làm nhân chứng mà không khiêm nhường thì vô ích, Chúa không cần loại nhân chứng đó!

Lạy Thiên Chúa, xin cảm tạ Ngài đã dựng nên chúng con để làm sáng danh Ngài, rồi Ngài lại sai chúng con vào đời để làm chứng về Tình Yêu vô biên và Lòng Thương Xót bao la của Ngài, xin ban Thánh Thần để chúng con can đảm và nhiệt tâm làm nhân chứng về Ngài, sẵn sàng dấn thân và hành động với tinh thần khiêm nhường, và luôn biết nhận mình thiếu sót để khả dĩ sửa sai theo đúng Tôn Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Đấng Thiên Sai, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

VẬY ÔNG LÀ AI?

Lm. Trịnh Ngọc Danh  

Có một người đến gặp Đức Phật. Hai tay cầm hai bó hoa. Đức Phật nhìn anh và nói: “ Quăng nó đi!” Anh ta sửng sốt, không hiểu vì sao Đức Phật lại bảo mình quăng những bó hoa ấy đi. Anh ta đoán có lẽ Đức Phật yêu cầu mình quăng bó hoa trong tay trái, vì đưa cho ai một cái gì đó bằng tay trái là điều được xem như không lịch sự. Thế là anh vứt bó hoa trên tay trái mình xuống đất. Nhưng Đức Phật vẫn nói: “ Quăng nó đi!” Lần này anh ném bó hoa còn lại và đứng trước mặt Đức Phật với hai bàn tay trơ  trọi. Một lần nữa, Đức Phật mỉm cười và nói : “ Quăng nó đi!” Hết sức lúng túng, anh ta hỏi: “ Thưa ngài! Con còn phải quăng cái gì nữa?” Đức Phật trả lời: “ Không phải hoa, con ạ; nhưng là chính người cầm hoa.”

Thánh Gioan Tẩy Giả, ngôn sứ của Đấng Thiên Sai, đã vứt bỏ cái tôi của mình, đã vứt đi những ý riêng, những tự mãn kiêu căng, những đam mê của xác thịt. Ngài sống trong hoang địa, “ mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng day da, ăn chấu chấu và uống mật ong.” Ngài nhận mình chỉ là tiếng kêu giữa sa mạc hoang vắng vì lòng nhân loại đối với Đấng Mêsia. Tiếng kêu vang lên rồi biến mất trong không gian, chẳng còn để lại dấu tích gì. Nó chỉ có tác dụng cho ai đó còn giữ lại được nó trong trí óc, con tim của mình.

Được hàng ngàn người đi theo nghe giảng và nhận phép rửa, nhưng thánh Gioan không từ đó mà sinh tự phụ đưa mình lên. Khi được hỏi đi hỏi lại nhiều lần: “ Ông là ai?” ngài đã công khai tuyên bố với dân chúng ngài không phải Đấng Kitô, cũng không  phải là những bậc ngôn sứ nổi tiếng như Êlia, Giêrêmia hay là một ngôn sứ nào khác, ngài chỉ nhận mình là” tiếng người hô trong hoang địa.” Ngài khiêm tốn trung thực xác nhận với dân chúng: “ Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.”  Nhiệm vụ của ngài là “đến để làm chứng và làm chứng về ánh sáng để mọi người nhờ ông mà tin Ông không phải là ánh sáng nhưng đến để làm chứng cho ánh sáng.” ( Ga 1:7-8). Ánh Sáng ấy là Ngôi Lời, là Đấng Mêsia, là Con Thiên Chúa. Nếu đặt mình vào trường hợp của thánh Gioan, có lẽ nhiều người trong chúng ta sẽ từ đó coi mình là một nhân vật quan trọng để rồi làm lu mờ đi hình ảnh của người mình muốn làm chứng và giới thiệu.

Sau khi chết và sống lại, Đức Kitô phục sinh đã trăn trối cho các môn đệ lần cuối cùng trước khi về trời: “ Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” ( Mt 28:19-20). Các môn đệ của Đức Kitô cũng đã lần lượt ra đi. Vậy thì nhiệm vụ tiếp nối công việc làm chứng cho Chúa sẽ trao cho ai đây? Mỗi người Kitô hữu đều lãnh trách nhiệm trở nên môn đệ của Chúa Phục sinh để làm chứng cho Ánh Sáng. Chúng ta là chứng nhân Kitô hữu.

Đấng mà chúng ta phải làm chứng là  Đấng đang ở giữa chúng ta mà chúng ta không biết, không thấy: “Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có,  nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” ( Ga 1:10-11) Đó là lý do Chúa cần chúng ta ra đi trở thành chứng nhân để tiếp nối công việc của các tông đồ xưa kia.

Bước vào Mùa Vọng, không những chúng ta được nhắc nhớ nhiệm vụ mở đường nơi lòng mình mà còn giới thiệu, mở đường cho người khác để Chúa đến. Thiếu việc làm chứng, thì gương mặt của Đức Kitô vẫn còn bị lu mờ trong thế giới hôm nay. Con đường làm chứng hữu hiệu nhất cho Ánh Sáng là theo gương thánh Gioan sống khiêm nhường, khổ hạnh, trung thực, quên mình

Trong vai trò chứng nhân của người Kitô hữu hôm nay, chúng ta sẽ trả lời thế nào khi có người hỏi chúng ta: “ Vậy ông bà là ai?

Về mục lục

.

LÀM CHỨNG VỀ ÁNH SÁNG.

JM. Lam Thy

Bài Tin Mừng hôm nay (CN III/MV-B – Ga 1, 6-8.19-28) trình thuật: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.” (Ga 1, 6-8). Mới thoạt nghe Tin Mừng, tự nhiên nảy sinh thắc mắc: Bình thường khi một người làm chứng thì chỉ có thể làm chứng về một sự việc có thật xảy ra (trong đó người hay vật chứng phải là người thật, vật thật). Ánh sáng không phải là một vật thể, lại càng không phải là một người thật, mà chỉ là sự phát sáng từ một vật thể khác, vậy thì làm sao để có thể “làm chứng về ánh sáng”? Vấn đề cần phải được hiểu như thế nào?

Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia) đã giải thích về ánh sáng: “Ánh sáng là từ phổ thông dùng để chỉ các bức xạ điện từ có bước sóng nằm trong vùng quang phổ nhìn thấy được bằng mắt thường (tức là từ khoảng 400 nm đến 700 nm). Giống như mọi bức xạ điện từ, ánh sáng có thể được mô tả như những đợt sóng hạt chuyển động gọi là photon. Ánh sáng do Mặt Trời tạo ra còn được gọi là ánh nắng (hay còn gọi là ánh sáng trắng bao gồm nhiều ánh sáng đơn sắc biến thiên liên tục từ đỏ đến tím). Ánh sáng Mặt Trăng mà chúng ta thấy được gọi là ánh trăng thực tế là ánh sáng do mặt trời chiếu tới mặt trăng phản xạ đi tới mắt người. Ánh sáng do đèn tạo ra còn được gọi là ánh đèn; do các loài vật phát ra gọi là ánh sáng sinh học.”

Để hiểu được thế nào là “làm chứng về ành sáng”, cần phải hiểu Lời Chúa được các thánh sử trình thuật đều nằm trong giới hạn của “nghĩa chiểu tự và nghĩa thiêng liêng” (nghĩa đen và nghĩa bóng), mà Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini” (số 27) đã giải thích: “Về phương diện này, người ta có thể nhắc tới 2 câu thơ trung cổ diễn tả mối tương quan giữa các nghĩa khác nhau của Sách Thánh: “Littera gesta docet, quid credas allegoria, Moralis quid agas, quo tendas anagogia” (Chữ đen nói tới việc làm; ẩn dụ nói về đức tin; Luân lý nói tới hành động; loại suy nói về số phận ta).” Như vậy là thánh sử Gio-an đã dùng từ “ánh sáng” theo nghĩa “ẩn dụ” – nghĩa thiêng liêng – để chỉ về Đức Giê-su Ngôi Lời nhập thể. Ngay từ Lời mở đầu trong sách Tin Mừng, thánh nhân đã viết: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.” (Ga 1, 1-5). Đó là chưa kể chính Đức Giê-su cũng tự nhận Người chính là ánh sáng: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối.” (Ga 12, 46).

Rõ ràng thánh sử Gio-an đã giới thiệu thánh Gio-an Tẩy Giả là người  “làm chứng về ánh sáng” với ngụ ý là một “chứng nhân của chân lý Cứu Độ”. Mà chân lý Cứu Độ là “điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống.” (1Ga 1, 1). Lời Sự Sống ấy chính là Đức Giê-su Ki-tô mà ở phần kết luận sách Tin Mừng, thánh sử đã xác quyết: “Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực. Còn có nhiều điều khác Đức Giê-su đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.” (Ga 21, 24-25). Cuối cùng, khi viết “Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực” thì thánh sử Gio-an lại là một nhân chứng của “người làm chứng về ánh sáng” (thánh Gio-an Tẩy Giả).

Không những thế, Người được làm chứng (là Đức Giê-su Ki-tô) cũng làm chứng về nhân chứng độc đáo (thánh Gio-an Tẩy Giả) ấy: “tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến. Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả.” (Mt 11, 9-11); “Phần tôi, tôi không cần lời chứng của một phàm nhân, nhưng tôi nói ra những điều này để các ông được cứu độ. Ông Gio-an là ngọn đèn cháy sáng, và các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng của ông trong một thời gian.” (Ga 5, 34-35). Quả thực, không còn một lời chứng nào sáng tỏ và thuyết phục hơn về “Chứng nhân của ánh sáng” Gio-an Bao-ti-xi-ta.

Người làm chứng phải là người có kinh nghiệm thật sự về điều mình làm chứng: hoặc thấy tận mắt sự việc, hoặc cảm nghiệm được sự việc cách thấu đáo. Người làm chứng (chủ thể) chỉ có thể làm chứng về một người khác (khách thể), chớ không ai lại làm chứng về bản thân mình. Chính Đức Giê-su đã giải thích rõ ràng: “Nếu tôi làm chứng về chính mình, thì lời chứng của tôi không thật. Có Đấng khác làm chứng về tôi, và tôi biết: lời người làm chứng về tôi là lời chứng thật. Chính các ông đã cử người đến gặp ông Gio-an, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật.” (Ga 5, 31-33). Tuy được chính Đấng Ki-tô làm chứng về mình, nhưng khi bị một số Tư-tế và thầy Lê-vi vặn hỏi, thánh Gio-an Tẩy Giả vẫn một mực khẳng định ngài “không phải là Đấng Ki-tô, không phải là Ê-li-a, không phải là ngôn sứ”, mà chỉ khiêm nhường tự nhận “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói.” (Ga 1, 23).

Không những tự nhận mình chỉ là “tiếng người hô trong hoang địa”, Thánh Gio-an Tẩy Giả còn xác quyết về Đức Ki-tô: “Người đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1, 27). Đức tính tuyệt đối khiêm nhường cộng với những hành vi công minh chính trực đã khiến thánh Gio-an Tiền Hô từ một người “làm chứng về ánh sáng” lại trở nên “ngọn đèn cháy sáng” (Ga 5, 35) đã toả ra các làn ánh sáng sau đây:

1- Ánh sáng của sự tự nguyện sống khổ hạnh, hãm mình ép xác: Thánh Kinh đã ghi nhận: “Cậu bé Gio-an càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân It-ra-en.” (Lc 1, 80). Hoang địa là sa mạc hoang vu, cô tịch, đầy thú dữ, thời tiết lại khắc nghiệt (ngày thì nắng cháy da, đêm thì lạnh cóng ruột). Ngay từ nhỏ, Thánh nhân đã chấp nhận sống trong hoang địa với cách ăn mặc đơn sơ, đạm bạc (“Ông mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng” – Mc 1, 4-6), chứng tỏ ngài đã chấp nhận sống khổ hạnh để theo đuổi lý tưởng “làm chứng cho chân lý”. Vì thế, tự nơi ngài đã tỏa sáng tinh thần “làm tôi Thiên Chúa hơn là làm tôi của cải vật chất”.

2- Ánh sáng của sự công minh chính trực, sẵn sàng hy sinh “cái tôi” cho chân lý: Đức tính cương trực của thánh Gio-an Tẩy Giả đã bộc lộ ngay khi ngài bắt đầu rao giảng Tin Mừng, làm Phép Rửa cho dân chúng tại sông Gio-đan: “Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” (Mt 3, 7). Phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc là những phe phái quyền lực trong Do Thái giáo thời đó, vậy mà Thánh nhân cũng không chút e ngại khi nói họ là “nòi rắn độc”. Đến như vua Do Thái là Hê-rô-đê đã lấy bà Hê-rô-đi-a, vợ của người anh là Phi-líp-phê, thánh nhân cũng nói thẳng: “Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài!” (Mt 14, 3-12), và vì thế  mới bị Hê-rô-đê trảm quyết.

3- Nhưng bao trùm lên tất cả là: Ánh sáng của sự khiêm nhu tự hạ, quên mình trong  phục vụ chân lý: Thánh Gio-an Tẩy Giả đã không dám nhận mình là Đấng Ki-tô, là ngôn sứ, mà khẳng định: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói.” (Ga 1, 23). Không những thế, ngài còn nói về Đấng mà ngài làm chứng: “Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi quai dép cho Người”  (Ga 1, 27); “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi.” (Ga 3, 30). Chính đức tính khiêm nhường, quên mình đi để thi hành sứ vụ “rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” đã khiến cho “Mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan.” (Mc 1, 4-5).

Tất cả những ưu điểm nổi bật nêu trên phải chăng là ân sủng của Thiên Chúa đã ban cho thánh Gio-an Tẩy Giả? Đúng là như vậy, bởi vì ngay từ khi được hình thành trong cung lòng bà Ê-li-da-bet, thiên sứ đã truyền cho ông Da-ca-ri-a đặt tên cho thánh nhân là Gio-an (Gioan hay Giokhanan tiếng Do Thái có nghĩa là “Thiên Chúa thương xót”). Quả thực thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta đã được Thiên Chúa đoái thương,  tiền định từ trước, nên ngài là một chứng nhân tuyệt hảo. Thánh nhân đã tự hạ mình xuống để Chúa được nổi bật lên; đã ẩn mình trong bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng; đã tự huỷ mình đi để Chúa được nhận biết. Ngài đúng là người đi dọn đường, sửa lối tâm linh con người để mừng đón Ánh Sáng Chúa Ki-tô. Ngài thực là chứng nhân của ánh sáng.

Chúa nhật III/MV Giáo hội cho phép các chủ tế trong Thánh lễ được dùng lễ phục màu hồng và kêu gọi tín hữu “hãy vui lên” vì ngày Chúa quang lâm đã cận kề. Ấy cũng bởi vì chính “người làm chứng về ánh sáng” đã khẳng định: “Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi.” (Ga 3, 30). Người Ki-tô hữu ngày hôm nay hãy vui mừng, vì không chỉ có “người làm chứng về ánh sáng” là “ngọn đèn cháy sáng”, mà chính mình cũng được Ngôi Lời phán dạy “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5, 14). Hãy học theo thánh Gio-an Tiền Hô chiếu tỏa ánh sáng “khổ hạnh, trung thực, quên mình và nhất là khiêm nhường chịu lụy” của bản thân ra môi trường xung quanh (từ gia đình lan tỏa ra cộng đoàn xã hội), ngõ hầu dọn đường đón Chúa quang lâm. Ước được như vậy.

Ôi! “Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Ðấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới, mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN III/MV).

Về mục lục

.

TÌM CHÚA CHO MÌNH VÀ CHO NGƯỜI KHÁC

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

“ Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”

I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (1,6-8.19-28):

(6) Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gio-an (7) Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. (8) Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.

(19) Và đây là lời chứng của ông Gio-an, khi người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy Thầy Lê-vi đến hỏi ông: “Ông là ai?” (20) Ông tuyên bố thẳng thắn: “Tôi không phải là Đấng Ki-tô.” (21) Họ lại hỏi ông: “Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Ê-li-a không?” Ông nói: “Không phải.” – “Ông có phải là một vị ngôn sứ chăng?” Ông đáp: “Không.” (22) Họ liền nói với ông: “Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?” (23) Ông nói: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa:  hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói.” (24) Trong nhóm được cử đi có mấy người thuộc phái Pha-ri-sêu. (25) Họ hỏi ông: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ?” (26) Ông Gio-an trả lời: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết (27) Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” (28) Các việc đó đã xẩy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sống Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép rửa.

II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (1,6-8.19-28):

2.1 Gio-an Tiền Hô đã làm tròn trách nhiệm của mình giữa cộng đồng Do-thái thời  Đức Giêsu Na-da-rét xuất hiện:  

Không có vị ngôn sứ nào có trọng trách lớn lao hơn Gio-an Tiền Hô. Trọng trách đó là dọn đường cho Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a của Thiên Chúa đến với dân, là giúp người ta nhận ra Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a đã đến và đang ở giữa dân mà dân không biết, không nhận ra.

Công việc của Gio-an không hề dễ dàng: ngài phải cải chính hết điều này đến điều kia; ngài phải giải thích cặn kẽ và chỉ bảo tận tình. Thậm chí ngài phải chấp nhận cả cảnh ngục tù và cuối cùng bị chém đầu bởi nhà vua hung tàn.

2.2 Hội Thánh và mỗi Ki-tô hữu phải thi hành nhiệm vụ đuợc giao là tìm ra Đấng Mê-si-a cho mình và cho người khác giữa dòng đời.

a) Hội Thánh Công Giáo được tiếp nối công việc của Gio-an Tiền Hô nên Hội Thánh có trách nhiệm tìm ra Đấng Thiên Sai là Đức Giê-su Ki-tô và chỉ cho người ta biết Đức Giê-su Ki-tô là ai? tìm ra Người ở đâu và bằng cách nào?  Nhiệm vụ nặng nề ấy được đặt trên vai Hội Thánh, mà cụ thể là trên vai các Hồng y, Giám mục, Linh mục và Tu sĩ nam nữ và Giáo Dân nam nữ.

b) Vì thế mà mọi Ki-tô hữu đều có trách nhiệm chỉ đường cho người chung quanh tìm ra Chúa Cứu Thế, đến với Người và sống với Người. Muốn làm được công việc ấy mọi Ki-tô hữu phải có mối quen biết thân tình gần gũi với Chúa Ki-tô [nemo dat quod non habet = không ai cho cái mình không có]. Đôi khi phải hy sinh, chịu thiệt thòi và từ bỏ nhiều thứ kể cả mạng sống mình như Gio-an Tiền Hô.

III. THỰC THI  LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (1,6-8.19-28):  

3.1 Tôi đã tìm ra Chúa hay đúng hơn là tôi đã đón nhận Chúa trong Hội Thánh. Cả cuộc đời tôi hơn 70 năm tôi không ngừng đi tìm Chúa. Tôi tìm ra Chúa trong các giờ cầu nguyện và các giờ đọc, tỉm hiểu, giảng giải Thánh Kinh. Tôi cũng tìm ra Chúa khi gặp gỡ, tiếp xúc, trao đổi với những người khát khao tìm kiếm Chúa và sống Phúc Âm. Tôi còn tìm ra Chúa trong đời sống gia đình, hiệp hội và giáo xứ.

3.2 Tôi đã và đang giúp một số người tìm ra Chúa khi tôi chia sẻ những tìm kiếm, suy niệm và thực hành Lời Chúa qua các bài Sống Lời Chúa hôm nay và các bài Suy Niệm Phúc Âm Chúa Nhật hàng tuần mà tôi gửi cho rất nhiều người. Tôi đã và đang giúp một số người tìm ra Chúa trong các buổi học Thánh Kinh Một Trăm Tuần và Tìm Hiểu Công Đồng Va-ti-can II. Thật ra những việc ấy không đáng là gì, nhưng có, dù ít, vẫn còn hơn không, đúng không nào?

IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (1,6-8.19-28):

Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng đã, đang và sẽ đến với con. Con mong đợi Chúa. Nói là con đi tìm Chúa thì chỉ đúng một phần vì thật ra là Chúa đi tìm con nhiều hơn, liên lỷ hơn, vô vị lợi hơn.

Con hết sức ước ao được tìm thấy Chúa, được gặp gỡ Chúa, được sống với Chúa. Con cũng hết sức khát khao giúp được nhiều người tìm thấy Chúa, gặp được Chúa và sống với Chúa. Được như thế là con hạnh phúc lắm rồi! Con ngợi khen cảm tạ Chúa Hài Nhi.

Về mục lục

.

NIỀM VUI

Lm. Jos. DĐH.

Con người thời đại no cũng bị chi phối bởi niềm vui vật chất và tinh thần, cho dù điều kiện, cơ hội, đến với mỗi người rất khác nhau, người ta vẫn muốn tìm kiếm và sở hữu chúng. Chẳng phải tự nhiên mà người xưa viết nên câu thành ngữ: vui một đêm thành tiên, phiền một đêm thành cú. Thành tiên, thành cú, thành người hữu ích, có danh có phận, đều là một quá trình biến đổi. Với cái nhìn bi quan, người ta chỉ thấy một thế giới có quá nhiều bất ổn: kinh tế chính trị, mâu thuẫn chiến tranh, thiên tai bão lũ, bạo lực gia đình, xã hội bế tắc ! Lạc quan một chút, thì bất đồng quan điểm, khổ đau, túng thiếu, là quá trình phát triển, niềm thao thức sâu thẳm nơi mỗi người, đang tác động hoà hợp với thế giới tự nhiên làm nên sự bình an niềm vui.

Hậu thế sẽ nghĩ gì khi mà chúng ta biết đâu là niềm vui mà chúng ta không nói, không chia sẻ, hiểu bình an hạnh phúc chỉ đến sau quá trình được biến đổi, mà chúng ta không sống, không hợp tác ? Phụng vụ tuần 2 mùa vọng mời gọi “hãy vui lên”, vui lên vì tình yêu, vì Đấng Em-ma-nu-el đang đến, mỗi người hãy lắng nghe để hiểu, để biết thực hành, hầu xác tín hơn thế nào là “niềm vui ơn cứu độ”. Bóng dáng cuộc đời mỗi người sẽ tỏ hiện rõ ràng như đứng trước tấm gương: mỉm cười, tấm gương sẽ tương phản một niềm vui xuất hiện, nhăn nhó bất an, sẽ cho lại sự giận giữ, bực tức mà thôi.

Vì sao có một số đông từ Giê-ru-sa-lem tìm đến Gioan, cả một số người thuộc nhóm biệt phái cũng được sai đến hoang địa, và họ chỉ muốn biết ông Gioan có phải là Đấng Kitô không ? Sau khi được nhìn xem, chăm chú nghe, Vị Tiền hô giảng giải phải chuẩn bị tâm hồn, chịu phép rửa sám hối, ít ra đám đông hôm đó cũng được Gioan giải toả thắc mắc: Đấng cứu thế đang ở giữa các ngươi. Gioan rất vui vì ông ý thức mình được là tiếng kêu trong sa mạc, là người dọn đường, là người chuẩn bị tâm hồn cho những ai khao khát niềm vui cứu độ. Niềm vui mà Gioan đã loan báo là niềm vui tinh thần, niềm vui từ nay thế giới sẽ được Đấng tẩy rửa bằng Thánh Thần, Đấng giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết.

Có ba điều khi mà chúng đi qua, người ta không thể lấy lại được, đó là lời nói, thời giờ và cơ hội. Kitô giáo thì lưu ý sống và thực hành: đức tin, đức cậy và đức ái là dấu chỉ người thuộc về Đức Kitô, Ngài sẽ liên kết chúng ta nên một trong tình yêu bền vững đến muôn đời. Lời hô hoán của Gioan, thời giờ để chuẩn bị tâm hồn, hoặc cơ hội để sám hối đón nhận niềm vui cứu độ, chính là quá trình sống tự do chọn lựa. Ngày hôm nay, người ta tìm gặp quân sư để giải gỡ những khó khăn phức tạp, người ta có thể tìm thấy người tài đức như Gioan, nhưng để nhận ra niềm vui cứu độ, ai cũng phải bày tỏ lòng sám hối và gặp gỡ Đấng Kitô.

Niềm vui của Gioan là xác tín Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần đã đến, niềm vui của đám đông năm xưa là nghe, hiểu và sám hối để lãnh nhận ơn cứu độ, và niềm vui của mỗi chúng ta hôm nay là hãy tin Chúa đang hiện diện nơi anh chị em mình. Niềm vui của Gioan, niềm vui của đám đông, hay niềm vui của chúng ta, tuy có khác nhau về hoàn cảnh địa lý, nhưng tất cả đều phải có Đức Kitô làm trung tâm thì niềm vui mới trọn vẹn. Gioan không nhận mình là tiên tri, là nhà đạo đức, ông quả quyết ông chỉ là tiếng hô, là người dọn đường cho Đấng cứu thế, đó phải là niềm vui của cộng đồng nhân loại, vì Đấng Kitô cao cả Thiên Chúa ban đã đến là sự thật.

Cha ông chúng ta cho rằng, có ba thứ quý nhất trên đời, đó là sự tự tin, tình bạn và tình yêu, vì cuộc sống thiếu quảng đại tha thứ, là cuộc sống ích kỷ, tù túng, vô nghĩa. Vì vậy, nếu thiếu niềm tin, thiếu tình yêu, Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần, sẽ mãi mãi là một bí ẩn, dù Vị Tiền hô có tài giỏi, có khả năng thu hút, niềm vui ơn cứu độ cũng chỉ nằm trên lý thuyết mà thôi. Ngày hôm nay, bằng mắt thường ai cũng nhìn thấy đèn nhấp nháy ở hang đá Mừng Chúa Giáng Sinh. Bằng đầu óc thông thái, người ta có khả năng thu được nhiều lợi nhuận vật chất. Nếu khiêm tốn, biết lắng nghe, người ta sẽ hiểu niềm vui cứu độ là có Chúa ngự thật nơi anh chị em của mình.

Cha ông chúng ta có câu: ăn lúc đói, nói lúc say, Gioan thì không say bao giờ, nhưng ông có khả năng nói, và thu hút dân chúng tự nguyện đến xin thống hối xin ông làm phép rửa. Chúng ta ngày nay có thể nói rất hay về tình yêu, chưng chắc gì đã hiểu thế nào là hạnh phúc. Mọi người có thể nói mặt trời mọc ở hướng đông, nhưng đâu dễ dàng hiểu vạn vật vũ trụ này đều có liên hệ và phát xuất tình yêu của Thiên Chúa. Hy vọng mỗi chúng ta dù là linh mục tu sĩ, là ông trùm, là công nhân, là người quét lá, lau chùi nhà thờ, chúng ta vẫn vui vẻ chu toàn phận vụ vì tình yêu, vì có Chúa hiện diện, là vì ơn gọi thật cao quý của mình. Amen.

Về mục lục

.

NIỀM VUI ĐANG ĐẾN

Lm Lu-y Nguyễn Quang Vinh

Phụng vụ Chúa nhật thứ ba mùa Vọng ghi đậm nét vui tươi. Tiên tri Isaia sống trước Chúa Cứu Thế sáu trăm năm, loan báo tin mừng hồi hương cho dân đang bị lưu đày ở Babylon:

“Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa … Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa. Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ cứu độ” (x. Bài Đọc 1. Is 61, 1-2a.10-11). Đây là niềm vui giải phóng, niềm vui hồi hương.

Tin vui cứu độ được Đức Maria cảm nghiệm cụ thể khi lời sấm của ngôn sứ Isaia trở thành hiện thực nơi cung lòng Mẹ, khi Mẹ thưa với sứ thần truyền tin “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”(Lc 1,38) và Mẹ diễn tả niềm vui sung mãn đó trong Kinh Linh Hồn Tôi Ngợi Khen Chúa (Kinh Magnificat). Mẹ lên tiếng ca tụng Thiên Chúa đã đoái thương thân phận mọn hèn của Mẹ, niềm vui cá nhân của riêng Mẹ được tuyển chọn làm mẹ Thiên Chúa; và niềm vui của cộng đồng Do thái được cứu độ theo như Lời Chúa đã hứa từ ngàn xưa. Niềm vui hoàn vũ nầy này vọng lại trong thư thánh Phaolô gửi cho tín hữu Thêxalônica đang chờ mong Chúa Cứu Thế trở lại: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng” (x. Bài Đọc 2. 1Tx 5, 16-24). “Vì đã có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng về ánh sáng” (x. Bài Tin Mừng. Ga 1, 6-8.19-28), làm chứng cho niềm vui cứu độ đã xuất hiện trên trần gian, đó là Chúa Giêsu. Đây là khởi đầu niềm vui Chúa Cứu Thế thực hiện bằng con đường nhập thể và nhập thế đi vào giữa nhân loại. Niềm vui Thiên Chúa làm người, định cư giữa nhân loại, để nhân loại biết đường về trời.

Niềm vui cảm nghiệm mình được Thiên Chúa cứu chuộc được tiên báo qua nụ cười của bà Sara, vợ ông Ápraham, khi được báo tin con đầu lòng Ixáac sẽ ra đời, cho đến sự nhảy mừng của thánh Gioan khi còn trong lòng bà Isave. Tất cả cho thấy niềm vui của buổi phụng vụ hôm nay như tô đậm nét sự hân hoan mà bà Isave cảm nghiệm khi đứa con thân yêu nhảy lên trong dạ mẹ, niềm sung sướng tràn trề của vị tiên tri cuối cùng Cựu Ước gặp được Chúa Cứu Thế thời Tân Ước. Niềm vui vỡ bờ hoành tráng hoàn vũ.

Niềm vui vĩ đại đòi cung cách diễn tả hòanh tráng. Tiền hô hậu ủng là phong cách nhân lọai của bất cứ đại vương nào khi hạ cố thăm thần dân của mình. Sự long trọng của người tiền hô càng làm sáng tỏ uy quyền cao cả của nhân vật chính yếu đến sau. Đây là cung cách của vị tiền hô: Lối sống tu rừng khắc khổ và đơn sơ, cách ăn mặc kỳ dị và mộc mạc, lời rao giảng nghiêm khắc và cứng rắn của vị tiền hô Gioan gây thắc mắc cho những người thời bấy giờ đến phỏng vấn ông. Tuy nhiên đứng trước niềm vui to lớn này vị tiền hô xóa mình đi. Ông khiêm hạ thẳng thắn khẳng định mình không phải là Đấng Kitô, không phải là Êlia, không phải là ngôn sứ mà truyền thống Do thái mong đợi. Ông khẳng định mình là tiếng kêu trong sa mạc, có sứ mạng dọn đường tâm linh, chỉnh đốn tâm đạo cho ngay thẳng để đón tiếp một nhân vật cao trọng âm thầm đang đến một cách bí bí ẩn: “ Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người đến sau tôi, tôi không đáng cởi quai dép cho người” (x. Bài Tin Mừng).

Con người bí ẩn đó là Chúa Giêsu, mà cho đến hôm nay, đối với các Kitô hữu, Người vẫn còn y nguyên là một mầu nhiệm cực lớn, đòi liên tục khám phá trong đời sống. Tất cả những gì diễn tả về Người đều là mầu nhiệm đòi khám phá, sự hiện hữu của Người, quyền năng vô biên của Người, tình yêu cứu chuộc của Người đối với nhân loại, sự đồng hóa của Người nơi anh em hèn mọn, cả đến sự chết và sự phục sinh vinh hiển của Người đều là bí ẩn đòi khám phá không ngừng trong cuộc sống.

Thật vậy mỗi ngày người Kitô phải liên tục khám phá niềm vui trong gặp gỡ tha nhân để phát hiện con người bí ẩn đó, vì “Ngài ở giữa các ông mà các ông không biết”. Không những khám phá niềm vui mà thôi, người Kitô hữu còn phải là tiền hô cho Chúa Cứu Thế nữa, sống vui tươi xây dựng xã hội trần thế, bởi vì Kitô hữu là người mang tin vui đến cho mọi người. Tuy nhiên Người mang tin vui mà chính mình không vui là phi lý, là phản tác dụng, là phản bội sứ điệp loan báo Tin mừng.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết khám phá con người bí ẩn mà thánh Gioan nói đến: “Ngài ở giữa anh em mà anh em không biết”, con người đó có thể là láng giềng khó tánh, là người đồng nghiệp gặp họan nạn, là bệnh nhân cần giúp đỡ, là người xa Chúa lâu ngày cần trở lại. Amen.

Về mục lục

.

HỌC SỐNG TRUNG THỰC VỚI GIOAN TẨY GIẢ

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Ai cũng muốn tôn mình lên

Sống ở đời, ai cũng muốn tôn mình lên, ai cũng muốn nổi bật, muốn đứng lên “bệ cao”, để cho người khác nhận thấy mình cao lớn hơn, vĩ đại hơn, vinh quang hơn con người thật sự của mình.

Cầu thủ thì muốn nổi bật bằng những đường banh điêu luyện; Ca sĩ thì muốn nổi bật bằng lời ca tiếng hát làm rung động tâm hồn người nghe; Một số thanh niên muốn nổi bật bằng cách sắm những siêu xe đắt giá…

Nói chung, người ta đua nhau tìm kiếm và cố đứng trên những “bệ cao” đủ loại để tỏ cho người khác thấy mình có giá trị và đáng được trọng nể. Đối với người nầy, “bệ cao” có thể là những món trang sức xa hoa đắt giá; đối với người kia, “bệ cao” có thể là những biệt thự xa hoa, sang trọng … Và để có được những thứ “bệ cao” nầy, nhiều người sẵn sàng bán rẻ lương tâm, phẩm giá, danh dự của mình hoặc làm thiệt hại nặng nề cho người khác.

Ông Gioan tẩy giả, một mẫu người rất  trung thực

Trong khi đó, Gioan tẩy giả từ khước mọi thứ “bệ cao”. Thay vì vui sống chốn phồn hoa đô hội thì ông lại thu mình vào nơi hoang địa khô cằn; Thay vì ăn mặc lụa là gấm vóc như các người quyền quý thì ông lại khoác bộ da thú lên người làm áo che thân; Thay vì ngày ngày thưởng thức cao lương mỹ vị thì ông chấp nhận ăn uống đạm bạc qua ngày bằng những thứ cào cào, châu chấu…

Gioan tẩy giả luôn luôn trung thực, trung thực với chính mình và với mọi người, có sao nói vậy và không cần bất cứ một thứ “bệ cao” nào để tôn mình lên.

Thời bấy giờ, danh tiếng của Gioan đang lên. Có luồng dư luận cho rằng ông là Đức Ki-tô; Có những người khác tưởng lầm ông là ngôn sứ Ê-li-a vĩ đại giáng thế; Có người nghĩ rằng với tầm cỡ của ông,  ít ra ông phải là một vị ngôn sứ cao cả nào đó…

Thế mà khi những người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử các thầy tư tế và Lê-vi đến hỏi cho biết ông là ai, ông không nhận vơ cho mình những danh hiệu cao đẹp mà người đương thời gán cho ông như là đấng Ki-tô, là ngôn sứ Ê-li-a… Ông thẳng thắn xác nhận: “Tôi không phải là đấng Kitô, tôi không phải là ngôn sứ Ê-li-a, tôi cũng chẳng phải là một ngôn sứ nào cả” (Gioan 1, 19-20).

Vậy họ hỏi ông: “Vậy ông là ai? Ông hãy trả lời cho chúng tôi biết ông là ai để chúng tôi còn phải tâu trình lại cho người người đã sai chúng tôi đến đây.” Bị ép quá, Gioan mới trả lời rằng: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa.” Đó là một phát biểu rất trung thực và cũng rất khiêm tốn về bản thân mình (Gioan 1, 22-23).

Bấy giờ, đang khi nhiều người nghĩ rằng phép rửa của Gioan thiêng lắm, quan trọng lắm nên đổ xô đến cùng ông và nhận phép rửa bởi tay ông, thì chính Gioan lại cho rằng phép rửa ông cử hành chỉ là phần chuẩn bị cho một phép rửa khác quan trọng hơn, do một Đấng cao cả sẽ đến cử hành. Ông nói: “Tôi đây chỉ làm phép rửa bằng nước. Nhưng có một đấng đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Ngài sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài” (Gioan 1, 26-27). Người ấy sẽ rửa các ông trong Thánh Thần.

Như thế, khiêm nhường và trung thực là hai đức tính nổi bật của Gioan đáng cho chúng ta học hỏi và noi theo.

Lạy Chúa Giê-su, xin cho con biết học với thánh Gioan tẩy giả để sống trung thực với mình và nhất là đừng cố tìm cho mình những thứ “bệ cao” phù phiếm đến nỗi phải bán rẻ danh dự, lương tâm.

Xin cho con hiểu rằng muốn trở nên cao cả thực sự, thì không phải là tìm cách đứng lên những chiếc “bệ” thật cao nhưng là trau dồi các nhân đức và đào luyện cho mình có những phẩm chất cao đẹp.

Về mục lục

.

NIỀM VUI CỦA CHỨNG NHÂN

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Có câu chuyện kể rằng, một nhóm tông đồ trẻ thuộc nhiều quốc tịch đang bàn nhau làm thế nào để phổ biến Tin Mừng cách rộng rãi, hiệu quả nhất. Có người bảo dùng đài phát thanh, truyền hình và internet, có người bảo dùng báo chí. v.v. Một cô gái Châu Phi lên tiếng: “Ở xứ chúng tôi, khi muốn loan báo Tin Mừng tới một nơi nào thì chúng tôi gởi đến đấy một gia đình Kitô hữu tốt để gia đình này sống giữa những người khác”.

Thưa anh chị em, câu chuyện trên đây cũng diễn tả cho chúng ta thấy được mẫu gương sáng chói của các ngôn sứ đã được Chúa sai đến qua các trình thuật hôm nay. Trước hết, khuôn mặt sáng chói của Isaia. Sau khi thay mặt toàn dân kêu van Thiên Chúa dủ lòng thương đến cứu giúp dân Chúa, trong giờ phút khó khăn hiện tại bị lưu đày ở Babylon suốt 70 năm, Isaia đã xuất hiện rao truyền sứ điệp cứu rỗi: “Hỡi dân ta, hãy an tâm, thời nô lệ đã chấm dứt, tội lỗi đã được ân xá”. Ông còn xác tín rằng: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa”. Thời nô lệ của Israel đã chấm dứt và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, nghĩa là trong năm toàn xá này, mọi nô lệ được phóng thích, mọi của cải ruộng đất bị cầm cố hoặc bán đi sẽ được trả lại, mọi người được hoàn toàn nghỉ ngơi trong năm đó. Isaia được Thiên Chúa tuyển chọn, xức dầu và sai đi công bố hồng ân cứu độ của Thiên Chúa cho muôn dân. Công bố hồng ân này quả là một tin vui, tin mừng cứu độ mà Isaia phải thốt lên: “Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa”.

Tuy nhiên, tin vui, tin mừng này mới chỉ là hình ảnh, công bố một tin vui trọn vẹn và lớn lao đã được tiếp nối nơi khuôn mặt sáng chói của Gioan Tẩy Giả, và được thực hiện nơi Chúa Kitô. Gioan Tẩy Giả đã xác tín vào ơn giải thoát từ Chúa Kitô nên ông đã vui mừng làm chứng về Người: “Tôi không phải là Đấng Kitô, không phải là Elia, cũng không là một đấng tiên tri”. Ông dõng dạc tuyên bố: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo”. Ông còn nhấn mạnh thêm: “Giữa giữa các ngươi, có Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Đấng ấy đã có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người”. Gioan Tẩy Giả quả thật đã làm chứng cho Chúa Kitô; ‘ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng cho ánh sáng’. Cụm từ “làm chứng” được dùng đến bốn lần cho thấy lẽ sống của Gioan là làm chứng. Gioan không làm chứng cho mình hay về mình, bởi lẽ ông ý thức mình không phải là ánh sáng mà chỉ là ngọn đèn giúp mọi người tin vào ánh sáng thật là Chúa Kitô.

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Gioan Tẩy Giả là một mẫu gương của Mùa Vọng đã được Chúa sai đến cho chúng ta, vì ông đã dọn đường cho Chúa đến bằng lời rao giảng, và bằng đời sống khổ hạnh. Chúng ta hãy chiêm ngắm và học hỏi đời sống dấn thân phục vụ của Gioan cho chương trình của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được mời gọi làm chứng cho Chúa không chỉ bằng lời nói, mà còn làm bằng chứng cả cuộc sống của mình. Biết vận dụng mọi tài năng, hoàn cảnh để loan truyền niềm vui của tin mừng cứu độ như lời khuyên của Thánh Phaolô: “anh em hãy vui mừng luôn. Hãy cầu nguyện không ngừng. Trong mọi việc, hãy cảm tạ Chúa. Vì đó là thánh ý Thiên Chúa về tất cả anh em trong Chúa Giêsu Kitô”. Gioan Tẩy Giả đã sống một cuộc đời có ý nghĩa, hoàn thành sứ mạng của mình trong ánh sáng chân lý.

Nguyện xin ánh sáng tình yêu của Chúa Kitô chiếu giải vào tâm hồn chúng ta, để tâm hồn chúng ta tràn ngập niềm vui cứu độ và trở nên chứng nhân của ánh sáng. Amen.

Về mục lục

.

ÁNH SÁNG

Lm Vũdình Tường

Để làm chứng cho sự thất người đó cần phải thành tâm nếu không thì khó mà biết lờikhai đó là sự thật hay do tưởng tượng mà ra. Sự thật rất cần thiết cho người chánh án bởi người chánh án cần đến sự thật đ63 đưa ra bản án chính xác. Thiếu chất chính xác này sẽ gây thiệt hại cho người khác. Để bảo toàn lời khai là sự thật quan toà thường bắt các nhân chứng thề trước toà là họ nói sự thật, hoàn toàn thật, và đó là điều quan toà có thể đòi hỏi nơi các nhân chứng.

Thánh Gioan Tẩy Giả đến trong thế gian với sứ mạng làm chứng cho sự thật. Thánh nhân tuyên bố công khai, rõ ràng Ngài đến thế gian để làm chứng về sự thật. Làm chứng cho sự thật là bước đầu trong việc rao giảng Tin Mừng của Thánh Gioan. Nhiệm vụ kế tiếp quan trọng hơn nhiều và đó là nhiệm vụ chính yếu của Ngài đó rao giảng và làm chứng về Ánh Sáng. Như thế nhiệm vụ của Thánh Gioan là rao giảng về Ánh Sáng và làm chứng về Ánh Sáng. Khi không có đủ bằng chứng toà án thường cho mời nhân chứng đến với hy vọng có thêm bằng chứng chính xác giúp cho việc kết án công bằng hơn. Nhân chứng chỉ có thể nói những điều họ nghe biết hoặc nhìn thấy và đó là điều họ có thể làm. Thánh Gioan tuyên bố Ngài có hai nhiệm vụ, một là nói sự thật về Ánh Sáng và hai là làm chứng về Ánh Sáng. Ánh sáng dù nhỏ mấy chăng nữa cũng có khả năng soi sáng màn đêm u tối. Khi toả sáng ánh sáng còn tạo nhiệt sưởi ấm chung quanh ánh sáng và làm cho ánh sáng lan toả rộng hơn. Người ta có thể che dấu sự thật hay chỉ nói về một phần sự thật. Rất khó để che dấu một phần ánh sáng bởi che sáng đã vậy còn phải che cả sức nóng nhiệt toả ra. Ánh sáng mang lại niềm vui cho mắt nhìn và làm cho con tim rạo rực niềm vui vì thế khi cắm trại người ta thích ngồi quanh lửa trại tạm quyên cảnh tịch mịch của màn đêm và hướng tâm trí vào lửa trại. Lửa thường không xâm chiếm lửa khác nhưng lửa thiêu rụi, làm sạch dơ bẩn, những gì trên đường lửa đi.

Thánh Gioan dùng hình ảnh ánh lửa để nói về Ánh Sáng thật là chính Đức Kitô, Người là sự thật và là ÁnhSáng thật. Khi Ánh Sáng thật và sự thật đi chung sẽ không có gì ngăn cản, che dấu được bởi chính Ánh Sáng làm sáng tỏ sự thật. Vì thế nơi đâu có Ánh Sáng thật thì sự thật được tỏ lộ. Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng thánh Gioan kêu gọi sửa đường lối cho Đức Kitô và Chúa Nhật này thánh Gioan tuyên bố Ngài nói về sự thật và làm chứng về Ánh Sáng. Những ai thành tâm đón nhận Ánh Sáng Sự Thật s4 nhìn thấy chân trời mới, sức sống mới bùng lên trong tâm hồn họ và dẫn họ tiến thêm bước nữa để nhận ra Đức Kitô là Ánh Sáng Sụ Thật, Đấng Cứu Độ và soi sáng trần gian. Những ai từ chối tin vào lời rao giảng của Gioan họ đi ngược lại lịch sử tìm về tiên đoán nơi các tiên tri. Nhóm lãnh đạo Đền Thờ sai các Tư Tế và các thầy Lê Vi đến chất vấn Gioan xem Ngài là ai bởi có người cho rằng ông là tiên tri Elijah tái sinh. Kẻ khác lại nói ông là Đức Kitô hay một trong các tiên tri tái sinh. Gioan không nhận bất cứ danh xưng nào ngoài việc tái xác định ông là

Tiếng kêu trong hoang địa, dọn đường cho Đấng Cứu Thế Jn 1,23

Không đáp ứng điều họ mong muốn họ lại chất vấn Gioan tại sao ông lại làm phép rửa và Gioan cho họ biết

Phép rửa do Ngài ban trong nước nhưng có Đấng ở giữa các ông mà các ông không nhận ra, không biết, tôi không xứng cởi giây dầy cho Ngài Jn 1,26-27

Học từ thánh Gioan làm chứng và rao giảng về Ánh Sáng Sự Thật là Đức Kitô. Để làm được việc đó có hiệu quả cần làm trong tinh thần cầu nguyện, mừng vui và lắng nghe hướng dẫn của Thán Thàn Chúa luôn cùng đồng hành với ta.

Về mục lục

.

Từ khóa:

hôm nay

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận