Thứ năm tuần 11 thường niên.

Đăng lúc: Thứ năm - 18/06/2015 02:17 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
THỨ NĂM TUẦN 11 THƯỜNG NIÊN.

"Vậy các ngươi hãy cầu nguyện như thế này".

 

Lời Chúa: Mt 6, 7-15

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi cầu nguyện, các con đừng nhiều lời như dân ngoại: họ nghĩ là phải nói nhiều mới được chấp nhận. Ðừng làm như họ, vì Cha các con biết rõ điều các con cần, ngay cả trước khi các con xin. Vậy các con hãy cầu nguyện như thế này:

"Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.

"Vì nếu các con có tha thứ cho người ta những lầm lỗi của họ, thì Cha các con, Ðấng ngự trên trời, mới tha thứ cho các con. Nếu các con không tha thứ cho người ta, thì Cha các con cũng chẳng tha thứ lỗi lầm cho các con".

 

Suy Niệm 1: Kinh Lạy Cha

Kinh Lạy Cha là một kinh quan trọng đối với đời sống người Kitô hữu, vì đó là kinh do chính Chúa Giêsu đặt ra, là kinh được Giáo Hội đọc nhiều hơn cả trong các cử hành phụng vụ và các cử hành khác, là kinh tóm gọn tất cả những gì phải làm trong khi cầu nguyện.

Chúng ta cần cầu nguyện với Chúa Cha để sống và hoạt động tông đồ đắc lực, khi cầu nguyện như thế, chúng ta cậy nhờ Chúa Giêsu và nhờ chính lời cầu nguyện của Ngài. Có một điểm Chúa Giêsu căn dặn là trong khi cầu nguyện đừng có thái độ thuyết phục Thiên Chúa theo ý muốn của mình bằng những lời khéo léo dài dòng như những người ngoại giáo đối với các thần minh của họ. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng làm như thế, bởi vì "Cha các con đã biết rõ các con cần gì, trước khi các con cầu xin". Nói khác đi, khi cầu nguyện, chúng ta chỉ cần đơn sơ khiêm tốn nhìn nhận mình hèn mọn thiếu thốn, vạch rõ con người của chúng ta trước mặt Thiên Chúa, rồi vững dạ cậy trông tin tưởng. Thiên Chúa chẳng những sẽ lấp đầy cái trống rỗng của chúng ta, mà còn dằn lắc, còn ban cho chúng ta nhiều ơn hơn chúng ta khấn xin.

Kinh Lạy Cha là kiểu mẫu cho tất cả việc cầu nguyện. Theo thánh Luca, Kinh Lạy Cha có 5 lời nguyện, trong khi đó ở Phúc Âm Matthêu có 7 lời nguyện: 3 lời cầu đầu tiên nói về Thiên Chúa, Ðấng mà Chúa Giêsu dạy chúng ta gọi là Cha: Cha chúng con ở trên trời, sau đó chúng ta xin cho Danh Thánh Cha được hiển vinh, nước Cha được lan rộng trên thế gian, nhất là trong tâm hồn con người, và xin cho thánh ý Cha được thực hiện dưới đất cũng như trên trời. Trong phần hai, có 4 lời nguyện: xin lương thực hàng ngày, nghĩa là xin cơm bánh nuôi thân xác và của ăn nuôi hồn, tức là Lời Chúa và Mình Chúa; xin tha thứ các tội xúc phạm đến Thiên Chúa, nhưng để được tha thứ, chúng ta cũng phải tha thứ lỗi lầm của anh em; xin ơn kiên trì để lướt thắng cám dỗ hàng ngày, nhất là trong cơn thử thách sau cùng trước sức tấn công của tà thần muốn đưa chúng ta xa lìa Chúa; xin ơn thoát khỏi mọi sự dữ để có thể phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân mọi ngày trong đời sống chúng ta.

Chúng ta hãy dốc quyết không bao giờ bỏ đọc Kinh quan trọng và hiệu nghiệm này trong đời sống cá nhân, gia đình và cộng đoàn chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 2: Ta thường cầu xin ngược lại

“Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin. Vậy anh em hãy nguyện như thế này:

“Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời,

xin cho danh thánh Cha vinh hiển,” (Mt. 6, 7-9)

Mẫu kinh tuyệt hảo

Chúa Giêsu đã ban cho ta một mẫu cầu nguyện là Kinh Lạy Cha. Không có lời kinh nào tuyệt hảo và quân bình hơn kinh Lạy Cha. Vậy để cầu nguyện nên, ta phải cảm hứng từ kinh Lạy Cha, để có được những tâm tình và ý hướng xứng hợp.

Mặc dầu người ta đã nói nhiều về kinh này, nhưng nhắc lại một lần nữa ở đây, thiết tưởng cũng là điều tốt. Kinh Lạy Cha gồm hai phần. Trong phần đầu ta lo đến những sự thuộc về Chúa. Ta cầu xin cho điều Chúa muốn được thực hiện: “Nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Từ phần thứ hai của kinh, ta mới quan tâm đến những chuyện thuộc về ta: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, xin chớ để chúng con xa chước cám dỗ …”.

Muốn cầu ngụyện nên, phải cầu nguyện theo cách này. Việc của Chúa phải được đặt lên hàng đầu. Việc của ta phải ở hàng thứ yếu. Nếu ta đặt những lợi ích của ta lên trên và trước những lợi ích của Chúa, nếu ta nghĩ đến ta trước khi nghĩ đến Chúa, là ta cầu xin điều trái ngược. Và Thiên Chúa không ưa điều gì làm trái ngược.

Hãy đứng ở vị trí thứ hai

Vậy mà ta vẫn thường cầu xin ngược lại như thế. Ta vẫn luôn làm như vậy, mỗi khi ta không cần đến kinh Lạy Cha, mà dùng lời lẽ riêng của mình để bày tỏ điều ta muốn. Điều đầu tiên nảy ra trong đầu óc ta thường là cầu xin Chúa ban cho ta được những ơn lành; nào là xin cho được mạnh khỏe, xin cho những người thân của ta, xin cho qua khỏi cơn bối rối v.v…

Ta phải học cho biết cầu nguyện đúng chỗ. Cầu nguyện đúng chỗ, là quan tâm trước hết đến Chúa, là dành cho Người địa vị hàng đầu, còn ta đứng hàng thứ yếu. Nếu ta không có khả năng làm được như vậy, thà rằng chú ý và thành tâm đọc kinh Lạy Cha nhiều lần còn tốt hơn.

 

Suy Niệm 3: Thân phận đích thực của con người

Kinh “Lạy Cha” là một lời kinh giản dị, phong phú, qui tụ vào cái chính yếu, đầy sức sống, phản ánh một nếp sống tôn giáo sâu đậm vào bậc nhất. Những đức tính này rất đáng lưu ý, nếu chúng ta nghĩ đến sự kiện là kinh này chỉ được biên soạn khoảng bốn mươi hay năm mươi năm sau khi Chúa Giêsu đã giảng dạy. Điều này có nghĩa là trong khoảng thời gian đó các cộng đoàn Kitô hữu, ngược lại với điều người ta lo sợ, đã không kéo dài kinh đó ra, đã không chất thêm vào, cũng như đã không diễn giải sâu rộng. Ngay từ đầu, các môn đệ đã nhận ra trong Kinh Lạy Cha một Kinh Nguyện chính yếu và họ đã gìn giữ nó nguyên vẹn. Cái dấu tích trung thực này càng làm cho lời kinh quý giá hơn.

Khi dạy kinh Lạy Cha, không những Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện, nhưng Ngài còn muốn cho chúng ta ý thức địa vị của con người chúng ta. Ngài nói rằng: sự viên mãn của thân phận chúng ta, và của hạnh phúc chúng ta là ở chỗ tự vượt lên khỏi mình nơi Thiên Chúa, trong ý muốn và trong Nước Ngài; nhưng để đến đó, chúng ta có thể tin cậy ở nơi Ngài. Đàng khác ngay từ bây giờ, chúng ta phải thực thi sự hòa giải với nhau giữa con người, hòa giải mà Thiên Chúa ban cho qua mối tương quan giữa chúng ta với Chúa. Địa vị con người đặt chúng ta trong hai mối tương quan mà thực ra chỉ là hai nhịp điệu của cùng một đời sống duy nhất. Đối với Thiên Chúa, tương quan của chúng ta là tương quan con thảo; đối với con người lại là tương quan huynh đệ.

Đâu là địa vị, chỗ đứng của tôi trước mặt Thiên Chúa? Tôi có phải là đứa con hoang đàng mà người Cha chờ đợi và tiếp đón mỗi ngày? Tôi là con người mà thân phận được thể hiện trong ý muốn và Nước của Đấng vì tình yêu mà tạo dựng và phân phát sự sống Ngài chăng? Ước chi Chúa gìn giữ tôi khỏi làm người anh cả trong dụ ngôn, nổi giận vì người ta mừng ngày trở lại của người em; người anh mà đối với em mình không có những tâm tình như người Cha.

Tôi có xin Chúa Giêsu dạy tôi biết cách cầu nguyện kinh Lạy Cha không?

 

Suy Niệm 4: Hãy cầu nguyện như thế này

Nhắc đến cuộc đời của thánh Gioan M. Vianey, cha sở họ Art. Người ta không thể quên câu chuyện sau đây về một nông dân xứ Art: Mỗi ngày trước khi ra đồng, anh đều ghé vào nhà thờ cầu nguyện giây lát rồi mới ra đồng. Khi trở về nhà anh cũng ghé vào nhà thờ để cầu nguyện như vậy. Trong xứ ai cũng nể và kính phục. Một hôm có người hỏi: “Ngày ngày ông ghé vào nhà thờ mấy lần để làm gì thế?”. Anh nông dân trả lời: “Tôi bàn chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện với tôi”.

“Tôi bàn chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện với tôi”. Câu trả lời trên của anh nông dân xứ Art diễn tả được tận gốc tủy của việc cầu nguyện. Hoạt động không cầu nguyện là vô ích trước mặt Thiên Chúa. Máy móc tự động có thể làm hơn con. Cầu nguyện là nền tảng của đời sống thiêng liêng, vì lúc cầu nguyện con nối liền sự kết hợp với Thiên Chúa. Bí quyết nuôi dưỡng đời sống Kitô hữu là cầu nguyện. Không cầu nguyện dù có làm phép lạ con cũng đừng tin. Các tông đồ đã thưa với Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy xin dạy chúng con cầu nguyện”. Chúa Giêsu đáp: “Khi các con cầu nguyện hãy nói: Lạy Cha chúng con ở trên trời”.

Chúa đã dạy đọc kinh để giúp chúng con cầu nguyện, nhưng điểm chính là gặp gỡ, là nói chuyện giữa Chúa và con. Khi con cầu nguyện đừng lo phải nói gì, chỉ vào phòng đóng cửa mà cầu nguyện với Cha của con một cách kín đáo, chắc chắn Ngài sẽ nhận lời con. Không cần hình thức, chỉ cần tâm tình phụ tử.

Những chia sẻ trên của tác giả “Đường Hy Vọng” hướng dẫn chúng ta hiểu sâu hơn ý nghĩa của đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe. Giờ đây chúng ta hãy chia sẻ với nhau những ý nghĩa sâu xa của lời kinh Lạy Cha mà Chúa Giêsu đã truyền dạy cho các tông đồ. Trong vài phút suy niệm này, chúng ta hãy chú ý đến tinh thần phải có khi cầu nguyện.

Trong đoạn Phúc Âm trên, Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ lời kinh Lạy Cha, như những lời dạy nói về tinh thần phải có khi cầu nguyện. Đó là tinh thần tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình, và tinh thần đơn sơ khiêm tốn nhằm gặp gỡ thân tình với Chúa hơn là nói nhiều lời ngoài môi miệng: “Khi anh cầu nguyện, thì đừng nhiều lời như những kẻ ngoại giáo, vì họ nghĩ rằng nói nhiều thì được nhiều”. Vì suốt ngày mỏi mệt rao giảng Tin Mừng, nên mỗi khi đêm về quỳ gối trước Chúa Giêsu Thánh Thể, thánh Phanxicô có những lúc quá mệt mỏi phải ngủ gục bên bàn thờ. Lúc ấy ngài thường cầu nguyện với Chúa một cách đơn sơ như sau: “Lạy Chúa, nếu linh hồn con không tỉnh thức được với Chúa, thì ít nữa xác con đây muốn ở gần Chúa”.

Cầu nguyện là giờ tâm sự với Chúa là Cha, chứ không phải là giờ làm bài. Giờ cầu nguyện là giờ của quả tim, chứ không phải là giờ của luận lý. Đừng nặn óc bóp trán để trình bày với Chúa. Khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta không cô độc lẻ loi một mình. Thánh Phaolô tông đồ giãi bày như sau: “Chúng ta không biết phải cầu nguyện như thế nào cho phải, nhưng Chúa Thánh Thần cầu nguyện cho chúng ta với những lời kêu van không thể diễn tả được” (Rm 8,26)

Nhờ bí tích Rửa tội mà ta đã lãnh nhận, mỗi người Kitô hữu sẽ được kết hợp với Chúa Giêsu Kitô và được lãnh nhận hồng ân Chúa Thánh Thần. Chúng ta hãy cố gắng sống trong Chúa Thánh Thần, để phát triển đời sống con người trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Nếu ta không phải là người cầu nguyện thì không ai tin ta làm việc vì Chúa. Nếu muốn biết công việc tông đồ của ai như thế nào, thì hãy xem người đó có cầu nguyện hay không, và cầu nguyện ra sao?

Lạy Chúa, xin hãy thương ban cho chúng con được tràn đầy Chúa Thánh Thần để canh tân chính mình và anh chị em trong môi trường chúng con sống. Amen.
 

 SUY NIỆM 5

Trong sách Tin Mừng thánh Mát-thêu, Bài Giảng Trên Núi là bài giảng đầu tiên của Đức Giê-su, vì thế, có tầm quan trọng đặc biệt. Trong bài giảng này, Đức Giê-su mời gọi những người đi theo Ngài “kiện toàn” Lề Luật, bằng cách đặt nền tảng cuộc sống của chúng ta, cá nhân, nhóm, gia đình và cộng đoàn, không phải trên chữ viết của Luật, nhưng trên lời nói của Ngài, vốn là một Ngôi Vị luôn sống động ở giữa chúng ta và muốn đi vào tương quan thiết thân với chúng ta. 
Trong phẩn tiếp theo của Bài Giảng Trên Núi, mà Giáo Hội mời gọi chúng ta lắng nghe hôm nay và ngày mai, Đức Giê-su mời gọi các môn đệ “kiện toàn” không chỉ Lề Luật, nhưng “kiện toàn” mọi việc có liên quan đến người khác, đến Thiên Chúa và đến chính bản thân, ngang qua ba việc đạo đức căn bản trong đời sống đức tin: bố thí, cầu nguyện và ăn chay.
Trong đời sống đức tin, chúng ta được mời gọi, ở cấp độ cá nhân và cộng đoàn, bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Tuy nhiên, lời của Đức Giêsu không nhấn mạnh đến số lượng, nghĩa là phải bố thí bao nhiêu, phải cầu nguyện bao lâu và phải ăn chay như thế nào và bao nhiêu lần (vốn là chức năng của Lề Luật), nhưng đến cách thức chúng ta thực hành ba việc đạo đức căn bản này.

1. “Đừng như những người giả hình”

Bố thí, cầu nguyện và ăn chay là ba việc đạo đức căn bản không chỉ của Do Thái giáo, nhưng trong mọi tôn giáo, trong đó có Kitô giáo của chúng ta.

- Bố thí diễn tả tương quan của chúng ta với tha nhân.

- Cầu nguyện diễn tả tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.

- Ăn chay diễn tả tương quan của chúng ta với chính mình.

Trong cả ba việc đạo đức này, Đức Giêsu mời gọi chúng ta một cách thật mạnh mẽ:

Anh em đừng bố thí, cầu nguyện và ăn chay như những người giả hình. (c. 2.5.16)

Trong mọi tôn giáo và thuộc mọi thời, những người giả hình là những người thường thực hiện những việc đạo đức một cách phô trương, nghĩa là làm vì người khác và tìm sự chú ý và khen ngợi của người khác. Việc làm của họ không có chiều kích “thiêng liêng”, hay rộng hơn, không có chiều kích nội tâm, nghĩa là được định hướng bởi tâm tình vì Thiên Chúa, cho Thiên Chúa và trong Thiên Chúa, nhưng chỉ có vẻ bề ngoài mà thôi.

Thay vì phô trương, Đức Giêsu mời gọi chúng ta thực hành các việc đạo đức một cách kín đáo. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu dùng tới sáu lần từ “kín đáo”, trong đó 5 lần được dùng để nói về Thiên Chúa Cha: “Cha của anh hiện diện nơi kín đáo”; “Cha của anh thấy trong kín đáo”. Như thế, Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu là “Đấng kín đáo” và Ngài mời gọi chúng ta cũng trở nên “những người con kín đáo” như Cha của mình. Không phải để thi thố sự khiêm nhường, nhưng để trở nên giống Cha của mình là Thiên Chúa, Đấng hiện diện nơi kín đáo và hành động một cách kín đáo. Vì thế, những người kín đáo (như các Ma Sơ, các Dì các bà và các cô) dễ trở nên giống Thiên Chúa hơn!

Thật vậy, chúng ta cứ nghiệm lại mà xem: Thiên Chúa hiện diện và hành động kín đáo biết bao trong sáng tạo, trong lịch sử loài người, nơi cuộc đời chúng ta và nhất là nơi bí tích Thánh Thể, được hoàn tất nơi mầu nhiệm Thập Giá của Đức Giê-su. Chúng ta phải có ngũ quan biết chiêm niệm, như các tác giả Thánh Vịnh (x. Tv 8; 19; 139..), mới nhận ra Thiên Chúa hiện diện, lên tiếng và hành động được.

2. “Đừng như những người ngoại”

Trong ba việc đạo đức, Đức Giêsu nói về cầu nguyện cách đặc biệt nhất: trước hết, việc cầu nguyện có vị trí trung tâm, không chỉ ở trung tâm của bộ ba bố thí, cầu nguyện và ăn chay, nhưng còn ở trung tâm của toàn bộ “Bài Giảng Trên Núi”; và ngoài ra, Đức Giêsu nói về cầu nguyện dài nhất, trong đó có lời nguyện “Lạy Cha của chúng con”, vang lên trên môi miệng của chúng ta nhiều lần trong ngày (bài Tin Mừng của Lễ Tro lược đi phần Kinh Lạy Cha (c. 7-15).

Lời dạy của Đức Giêsu về cầu nguyện còn có một điểm đặc biệt nữa, đó là Ngài không chỉ nói: “khi anh em cầu nguyện, đừng trở nên như những người giả hình” (c. 5), nhưng còn nói: “anh em đừng lải nhải như dân ngoại!” (c. 7) Thực vậy, lời nguyện của chúng ta không được trở thành những lời lải nhải chỉ qui về mình, nghĩa là nhằm thỏa mãn nhu cầu, hoặc như những âm thanh vô hồn, nhưng phải là một lời ca tụng dựa trên tương quan thiết thân Cha-Con. Vì thế, trong lời nguyện “Lạy Cha của chúng con”:

- Chúng ta được mời gọi ra khỏi mình để đi vào tương quan phụ-tử với Thiên Chúa, là Cha của chúng ta.

- Ra khỏi mình để quan tâm trước hết đến Danh của Cha, đến Nước của Cha, đến Ý của Cha.

- Và sau đó mới quan tâm đến sự sống của mình, nhưng không phải sự sống mà mình muốn, nhưng là sự sống đích thật mà Thiên Chúa muốn: đó là sự sống được xây dựng trên những ơn huệ: ơn huệ lương thực, ơn huệ giải thoát khỏi sự dữ và ơn huệ thứ tha.

Và Đức Giêsu đặc biệt nhất mạnh đến ơn tha thứ, vì con người không thể sống nếu không có ơn tha thứ: tha thứ của Cha nhân hậu và sự tha thứ mà chúng ta trao ban cho nhau.

3. “Hãy tha thứ cho nhau”

Sau khi dạy những lời chúng ta cần ngỏ với Chúa Cha (c. 9-13), Đức Giêsu nhắc lại một điểm đã được nêu trong những lời này, đó là sự tha thứ: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta…” Như thế, sự tha thứ có tầm quan trọng đặc biệt. Chúng ta không thể sống với nhau nếu không tha thứ cho nhau (kinh nghiệm được bố mẹ và các anh các chị tha thứ khi chúng ta còn bé), và chúng ta cũng không thể “sống với” Chúa, nếu không được Ngài tha thứ. Nếu ơn huệ (don) là nguồn gốc và nền tảng của mọi tương quan, thì ơn tha thứ là “ơn huệ hoàn hảo” (par-don), giúp tái tạo và làm cho đạt tới mức viên mãn ơn huệ ban đầu. Ơn huệ (don) và ơn tha thứ (pardon) tương ứng với ơn sáng tạo (creation) và cứu chuộc (salvation).

Lời Đức Giêsu nhấn mạnh đặc biệt đến việc chúng ta cần tha thứ cho nhau, đến độ, tha thứ cho nhau là “điều kiện” cho ơn tha thứ của Thiên Chúa. Ngài nói về điều này hai lần, một lần xác định và một lần phủ định: “Nếu…”.

Tuy nhiên, theo lời nguyện “Lạy Cha” ơn tha thứ của Thiên Chúa không “tự động” rơi xuống trên chúng ta một khi chúng ta đã tha thứ cho nhau. Chúng ta vẫn phải xin: “Xin tha tội cho chúng con, như chính chúng con đã tha thứ (động từ ở thì quá khứ) cho những người có lỗi với chúng con”. Bởi lẽ ơn tha thứ không bao giờ là “tự động”, ơn tha thứ chỉ có thể được trao ban trong một tương quan nhìn nhận nhau, đón nhận nhau (x. dụ ngôn Người Con Hoang Đàng; và bí tích hòa giải cũng diễn tả tương quan này). Ơn tha thứ là một ơn huệ, và hơn cả ơn huệ (par-don). Hơn nữa, nợ người ta mắc với chúng ta thì ít, còn nợ của chúng ta mắc với Thiên Chúa thì quá lớn (x. dụ ngôn nhỏ trong Lc 7, 41-42). Tuy nhiên, chúng ta không thể xin Thiên Chúa tha thứ, trong khi mình đã không tha thứ hay sẵn sàng tha thứ cho người khác.

* * *

Nhưng ai trong chúng ta cũng cảm thấy khó tha thứ cho nhau. Vì thế, kinh nghiệm lòng thương xót, sự bao dung và sự tha thứ của Thiên Chúa nơi bản thân mình chính là nguồn sức mạnh để chúng ta có thể tha thứ cho nhau. Bởi vì, ngang qua lời mời gọi yêu mến nhau và tha thứ cho nhau của Chúa, chúng ta nhận ra rằng Chúa chính là “yêu mến và tha thứ”. Và điều này được “chứng thực” nơi mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô.

 

Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

Từ khóa:

con ở, thể hiện

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận