Thứ Tư tuần 2 Phục Sinh.

Đăng lúc: Thứ ba - 25/04/2017 23:50 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

 

Thứ Tư tuần 2 Phục Sinh.

"Thiên Chúa đã sai Chúa Con đến để thế gian nhờ Người mà được cứu độ".

 

Lời Chúa: Ga 3, 16-21

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ.

Ai tin Người Con ấy, thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa và đây là án luận phạt: là sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách, nhưng ai hành động trong sự thật, thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ, là họ đã hành động trong Thiên Chúa.

 

 

 

SUY NIỆM 1: Đi rao giảng Tin Mừng

Câu đầu tiên của đoạn Phúc Âm hôm nay nhắc cho chúng ta nhớ lại tình trạng tinh thần của các tông đồ lúc Chúa Giêsu Phục Sinh hiện đến và trao cho họ sứ mạng làm chứng cho Chúa. Tình trạng đó là tinh thần của nhóm mười một trước và liền sau biến cố Vượt Qua. Các ông chậm hiểu hay chưa hiểu gì về mầu nhiệm Vượt Qua, mầu nhiệm chết và sống lại của Chúa Giêsu.

Hơn nữa, sau khi Chúa đã sống lại và đã hiện ra cho một số đồ đệ để những người này loan báo tin vui Chúa sống lại cho các ông, thì các ông còn cứng lòng không tin, đến độ bị Chúa khiển trách. Phúc Âm ghi lại cho chúng ta như sau: "Sau cùng, Chúa Giêsu Phục Sinh tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng. Bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người phục sinh". Các tông đồ còn có thái độ tiêu cực như vậy. Mặc dù đã theo Chúa ngay từ đầu và đã được Chúa huấn luyện đặc biệt hơn dân chúng trong suốt thời gian sống bên cạnh Chúa.

Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã không thất vọng, không bỏ đi chương trình cứu rỗi nhân loại, không rút lại những gì Chúa muốn các ngài thực hiện, vì thế, Chúa ra lệnh cho các tông đồ và cho những ai tiếp tục sứ mạng của Ngài trong dòng thời gian:

"Hãy ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Hãy làm chứng cho Chúa khắp nơi", đây là sứ mạng quan trọng nhất liên quan đến tương lai của Giáo Hội Chúa trong lịch sử nhân loại. Sứ mạng được cô đọng lời Chúa Giêsu cho các tông đồ như sau: "Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ. Còn ai không tin thì sẽ bị kết án". Chúa Giêsu Phục Sinh đã không ngần ngại trao phó cho những con người bất toàn một sứ mạng rất cao cả. Chúa tỏ cho thấy Người cần đến sự cộng tác của con người phàm trần, có và còn rất nhiều khuyết điểm để thực hiện sứ mạng cứu rỗi. Những khuyết điểm của những con người đã được tuyển chọn, không thể làm hư chương trình của Người.

Nơi các Phúc Âm khác, chúng ta biết thêm là Chúa ban Thánh Thần xuống trên các tông đồ để biến đổi các ông thành những con người mới, xứng đáng hơn với sứ mạng. "Các con sẽ lãnh nhận Chúa Thánh Thần và sẽ làm chứng cho Thầy". Phần thánh sử Marcô, thì ngài tóm gọn thái độ đáp trả của các tông đồ nơi câu cuối cùng của sách Phúc Âm của ngài như sau: "Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng".

Hiện tại và tương lai của Giáo Hội Chúa được xây dựng trên kinh nghiệm sống căn bản trên. Chúa luôn hoạt động với các ông, với những ai Người đã chọn và trao cho sứ mạng. Chúng ta hãy tin tưởng, vâng phục và ra đi chu toàn sứ mạng theo Lời Chúa dạy.

Lạy Chúa, nhờ lời khẩn cầu của thánh sử Marcô mà Giáo Hội mừng lễ hôm nay, xin thương biến đổi mỗi người chúng con trở thành những tông đồ, những cộng tác viên xứng đáng và trung thành của Chúa trong mọi hoàn cảnh.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 2: Án xử của Thiên Chúa

Cách đây 2.400 năm, triết gia Hy Lạp là Socrate đã bị mang ra toà và bị kết án phải uống thuốc độc vì hai tội: làm sa đoạ giới trẻ bằng những lý thuyết viển vông và tuyên truyền cho các thần minh mới. Bồi thẩm đoàn xét xử Socrate gồm 501 người được tuyển lựa trong số 6000 công dân Athène. Đây là vụ án nổi tiếng nhất của thế kỷ 4.

Vụ án nổi tiếng nhất cuả thế kỷ 20 hẳn phải là vụ án của Hosê Simon, một cầu thủ bầu dục trở thành tài tử kiêm phóng viên truyền hình về thể thao tại Hoa Kỳ. Simson là một người da đen bị cáo buộc đã giết vợ và bạn trai của cô ta. Đã có quá nhiều chứng cớ hiển nhiên, nhưng sau nhiều tháng xét xử, toà vẫn chưa đưa ra được một phán quyết nào. Nhiều người cho rằng với một bồi thẩm đoàn gồm đa số người da đen và nhất là với những luật sư nổi tiếng mà Simson đã bỏ tiền ra thuê, rồi ra anh ta có thể được trắng án. Và quả thực tin giờ chót vừa cho hay toà tuyên bố Simson vô tội và anh được tha bổng.

Nhà hiền triết bị kết án, kẻ sát nhân được tha bổng, bao nhiêu người vô tội bị đầy ải trong các nhà tù. Công lý của con người vốn bất toàn là thế. Chính vì vậy ở thời đại nào, nỗi khao khát công lý trong lòng người vẫn không bao giờ được toả mãn. Người Do Thái thời Chúa Giêsu cũng khao khát công lý: Đấng Cứu Thế mà họ mong đợi sẽ là một quan toà khôn ngoan, có khả năng xoá bỏ bất công, trừng trị kẻ gian ác và tái lập công lý. Các tín hữu tiên khởi phát xuất từ Do thái giáo cũng tiếp tục nuôi dưỡng một niềm mong đợi đó.

Nhưng một cuộc phán xử như thế đã không diễn ra khi Chúa Giêsu đến. Thay cho một quan toà nghiêm khắc, người ta chỉ thấy một vị mục tử tốt lành. Thay cho những phán quyết thẳng thừng, người ta chỉ nghe được những lời tha thứ dịu ngọt. Quả thật như Chúa Giêsu đã giải thích cho Nicôđêmô: Thiên Chúa sai Con Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của ngài mà được cứu độ. Chúa Giêsu không xét xử và luận phạt con người. Chính con người tự xét xử mình bằng cách chọn lựa hay khước từ Chúa Giêsu. Mỗi hành động xấu tự nó đã là một bản án cho con người. Sự phán xét do đó không là một biến cố bên ngoài con người, mà chính là thái độ đáp trả của con người với lời mời gọi của Chúa Giêsu. Nếu tôi bước đi trong ánh sáng của Chúa Giêsu, tôi được bình an thư thái; trái lại, khi tôi chọn lựa bóng tối của ích kỷ, thì tôi đã tự ký bản án, tự đày đoạ chính mình rồi.

Thiên đàng, hoả ngục, ngày chung thẩm vốn được thêu dệt bởi biết bao hình ảnh thần thoại. Đó là những thực tại vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta. Tuy nhiên, có điều chắc chắn là Thiên đàng, hoả ngục, ngày chung thẩm đều gắn liền với cuộc sống tại thế này. Con người có thể hưởng nếm Thiên đàng ngay từ cuộc sống này khi nó bước đi trong ánh sáng chân lý của Chúa Giêsu. Cũng ngay trong cuộc sống này, mỗi khước từ đối với Ngài đã là một thứ hoả ngục mà con người tự giam mình vào, và ngày chung thẩm cũng đã diễn ra trong con người qua từng chọn lựa của mình.

“Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một Ngài. Ngài sai Con Một Ngài đến thế gian không phải để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”. Đó phải là niềm xác tín thúc đẩy chúng ta luôn sống tin tưởng và yêu thương.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 3: Yêu? Phán xét? Án phạt?

Thiên Chúa đã yêu thế gian

Đến nỗi đã ban Con Một,

Để ai tin vào Con của Người

Thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.

Quả vậy, Thiên Chúa đã sai Con của Người đến thế gian

Không phải để lên án thế gian,

Nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người

Mà được cứu độ. (Ga. 3, 16-17)

Giáo lý dạy chúng ta biết rằng: Những ưu phẩm của Thiên Chúa là tốt lành vô cùng, đáng mến vô cùng, toàn thiện vô cùng, thương xót vô cùng, công bằng vô cùng … Nhưng những ý niệm đó đôi khi có vẻ mâu thuẫn nhau: Làm sao Thiên Chúa thương xót và đáng mến vô cùng lại ra án phạt người ta?

Bài Tin mừng hôm nay cho biết: tình yêu phán xét, hình phạt, cứu độ. Chúng ta hãy chú ý đến lời Chúa Giêsu nói như thế nào.

Điều quả quyết thứ nhất của Đức Giêsu là Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Bằng chứng của tình yêu này là hiến Con Một Ngài cho chúng ta. Không phải ơn ban thụ động, mà ơn ban một con người sống động đến thực hiện cho loài người điều này là ban cho mỗi người sống đời đời. Trong thái độ Thiên Chúa ưu đãi chúng ta, có tình yêu và sự tốt lành vô cùng là Con Một Ngài đã không đến để ra án phạt.

Nhưng tuy nhiên, như thánh Gio-an trưng dẫn quả quyết của Đức Giêsu là chính người ta tự phán xét và tự kết án mình. Người ta tự loại mình khỏi ơn cứu độ khi họ từ chối Đức Kitô, từ chối ảnh hưởng của Ngài, vì họ không tin Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế.

Nhưng chúng ta lại đặt vấn đề này: Người ta là kẻ tội lỗi vì từ chối Chúa, có phải là Thiên Chúa đã không ban đức tin cho họ sao? Câu hỏi này thuộc phạm vi thần học, không thuộc chương trình của Đức Kitô. Người chỉ nói đến vấn đề hành động chối bỏ của người ta như sau: “Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, sợ rằng các việc họ làm sẽ lên án chê trách họ”.

Người ta rất khôn khéo đổ tội từ chối Đức Kitô đó cho Thiên Chúa vì sợ lời Người tố giác, chỉ có sự phán xét do Thiên Chúa, hệ tại ở chỗ Thiên Chúa nhận biết hoàn cảnh người ta làm và tôn trọng sự lựa chọn của người ta.

C.G

Suy niệm 3:

Khi nghĩ về Thiên Chúa, người ta hình dung ra Ngài với nhiều khuôn mặt. 
Có khi Thiên Chúa giống một ông cảnh sát, luôn để ý theo dõi để trừng phạt, 
hay như một quan tòa cứ theo pháp luật mà kết án nghiêm minh. 
Có khi Thiên Chúa giống một nhà buôn, tính toán sòng phẳng, 
chỉ ban ơn khi nhận được một lợi lộc nào đó, có qua có lại. 
Có khi Thiên Chúa giống một nhà độc tài, áp đặt quyền lực trên con người, 
không cho con người được tự do, bắt con người phải theo một định mệnh có sẵn. 
Có khi Thiên Chúa như một thứ ô dù để người ấu trĩ dựa dẫm trong lúc khó khăn, 
hay như một sản phẩm của người bị áp bức tự ru ngủ mình. 
Có bao nhiêu hình ảnh méo mó về Thiên Chúa như vậy. 
May mắn đó không phải là khuôn mặt Thiên Chúa của các Kitô hữu. 
Ngài chẳng phải là cảnh sát hay quan tòa, là nhà buôn hay nhà độc tài. 
Ngài cũng chẳng phải là người cha độc đoán không muốn cho con mình khôn lớn. 
Đơn giản Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4, 8). 
Và Tình Yêu vô lượng ấy được thể hiện bằng hành động: 
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” (c. 16). 
Tình yêu của Thiên Chúa Cha ôm lấy thế gian, dù nó nghiêng chiều về sự dữ. 
Như Abraham yêu quý đứa con một là Isaac, và đã chịu sát tế con cho Chúa, 
Thiên Chúa Cha cũng yêu quý người Con Một của Ngài là Đức Giêsu, 
và đã trao ban người Con ấy cho thế gian. 
Cha trao ban Con khi sai Con vào đời mang thân phận xác phàm (Ga 1, 14). 
Cha còn trao ban Con cho thế gian qua cái chết của Con trên thập giá. 
Nơi máng cỏ Bêlem hay nơi đồi Sọ, 
ta thấy Cha đưa hai tay ra để trao món quà tình yêu quý giá nhất cho loài người. 
Và Cha chờ con người đáp lại bằng cách đưa hai tay đón nhận. 
Con người vẫn có tự do để đón nhận hay từ chối món quà ấy 
qua việc tin hay không tin Đức Giêsu. 
Đứng trước Đức Giêsu, Con Một Thiên Chúa, 
là đứng trước một chọn lựa nghiêm chỉnh có liên quan đến vận mệnh con người. 
Ai tin vào Ngài thì có ánh sáng, ơn cứu độ và sự sống vĩnh cửu (cc. 16.17.19). 
Tiếc thay có kẻ ghét ánh sáng và thích bóng tối hơn ánh sáng. 
Hãy từ bỏ những việc làm tối tăm, dối trá, xấu xa, 
bạn sẽ dễ dàng đến cùng ánh sáng Giêsu. 

Cầu nguyện :

Lạy Chúa Giêsu, 
ánh sáng và bóng tối thì dễ phân biệt, 
còn bóng mờ thì khó nhận ra hơn. 
Con đã mạnh dạn khước từ bóng tối 
nhưng khi nhìn thật sâu vào lòng mình, 
con vẫn thấy có nhiều bóng mờ tác động. 
Con an tâm ở lại trong bóng mờ, 
vì thấy đó chưa phải là một tội. 
Nhưng con cũng áy náy 
vì biết rằng bóng mờ là nơi 
ánh sáng Chúa chưa thấm nhập trọn vẹn. 
Con không muốn bóng mờ thành ánh sáng, 
vì con vẫn muốn giữ lại 
một điều gì đó rất quý đối với con. 
Xin giải phóng con khỏi những tình cảm lệch lạc 
để con được tự do yêu mến và phụng sự Chúa hơn. 
Xin chinh phục những bóng mờ trong lòng con 
để con được thuộc trọn về Chúa. 
Xin kéo con ra khỏi thái độ lấp lửng, nước đôi, 
để dứt khoát đặt Chúa trên mọi sự. 
Ước gì con có đủ can đảm để dám nhìn thẳng 
vào những bóng mờ trong đời con. 
Và ước gì con được trở nên trong suốt 
nhờ để ánh sáng Chúa 
tràn ngập mọi vùng mờ tối nơi con. Amen. 

 

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

 

SUY NIỆM:

Chúng ta được mời gọi đọc Lời Chúa được nói cho chúng ta trong phần Cựu Ước của Kinh Thánh, kể về lịch sử cứu độ, để hiểu và cảm nếm sự tương hợp với Đức Ki-tô, nghĩa là lịch sử cứu độ loan báo Đức Ki-tô và Đức Ki-tô hoàn tất lịch sử cứu độ. 
Và những lời của Người trong bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay sẽ dẫn chúng ta vào tâm điểm của sự tương hợp, bởi vì không ai giúp chúng ta hiểu và cảm nếm sự tương hợp hơn là chính Người.

1. Tình yêu Thiên Chúa

Sự sống là một ơn, nhưng cũng đầy thử thách thuộc về thân phận và số phận con người. Thử thách lớn đến độ, tương quan với Thiên Chúa trở nên không dễ dàng, và như chúng ta đã có thể nhận ra khi đọc các bản văn Cựu Ước. Con người bị sự dữ chi phối ở ngay trong nội tâm, vốn là nguồn của mọi hành động: thay vì tín thác nơi tình thương và kế hoạch truyền thông sự sống viên mãn của Thiên Chúa, thì con người nghi ngờ Thiên Chúa. Trình thuật Tội Nguyên Tổ và kinh nghiệm của Dân Chúa trong sa mạc mặc khải cho chúng ta sự thật này, một sự thật có ở nơi mọi người trong mọi thời.
Chính vì thế, Thiên Chúa ban Con Một của Ngài cho chúng ta, để thay đổi, để điều chỉnh hình ảnh lệch lạc con người chúng ta có về Thiên Chúa: nơi Đức Ki-tô, Thiên Chúa muốn bày tỏ tình yêu đến cùng của Ngài cho con người. Và tình yêu đến cùng được ban một cách thật quảng đại và nhưng không: chúng ta được mời gọi tin vào Đức Ki-tô, Con của Người, để có thể sống sự sống của Thiên Chúa, không chỉ ở đời sau, mà ngay hôm nay, với ân huệ Thánh Thần, làm cho chúng ta được tái sinh, sống bằng sự hiện diện, sức mạnh, sức sống mới của Đức Ki-tô phục sinh.
Tại sao Thiên Chúa lại hành động như thế, lại yêu con người đến thế? Đơn giản là vì Ngài sinh ra nhân loại. Giống như cha mẹ sinh con, con nó nên người thì vui, nó hư đốn thì buồn, nhưng luôn luôn yêu con, dù nó như thế nào. Vì thế Lời này của Đức Giêsu thật dịu dàng như lời của người Mẹ Hiền, an ủi vỗ về chúng ta, và nhất là làm cho chúng ta có can đảm trở về với Thiên Chúa. Có thể nói, đây là một trong những lời của Đức Giêsu, nói cho chúng ta rõ nhất về khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa, về con tim của Thiên Chúa, về cõi lòng của Thiên Chúa:

Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một,
để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết,
nhưng được sống muôn đời.(c. 16)

2. Lòng tin

Cuộc Thương Khó của Đức Kitô mà chúng ta đã tưởng niệm cách trọng thể vào Tuần Thánh, bí tích rửa tội, bí tích hòa giải và nhất là bí tích Thánh Thể, tỏ bày cho chúng ta tình yêu cho đi chính Con Một, chính bản thân mình của Thiên Chúa. Vấn đế là chúng ta có chịu tin hay không?
Tin có nghĩa đón nhận, đón nhận tình yêu Thiên Chúa, đón nhận Đức Giêsu Con Thiên Chúa vào cuộc đời mình với những may rủi, với những thuận lợi cũng như khó khăn, với những biến cố vui buồn, những thành công và thất bại; tin vào Con Thiên Chúa, là đón nhận ánh sáng của Ngài vào ơn gọi của mình, ơn gọi hôn nhân hay tu trì, vào hướng đi của mình, vào cách sống của mình; tin vào Con Thiên Chúa là để cho Lời của Ngài hướng dẫn những lựa chọn lớn trong cuộc đời của chúng ta, cũng như những lựa chọn nho nhỏ hằng ngày. 
Tin vào Con Thiên Chúa như thế, chúng ta sẽ sống sung mãn, sống bình an, sống hạnh phúc thực sự, không phải ở đời sau, nhưng ngay hôm nay.

3. “Không bị lên án”

Vì thế, chúng ta cần ghi lòng tạc dạ lời này của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa: “Thiên Chúa yêu thế gian…”; chúng ta đừng bao giờ nghi hoặc, hay đừng để cho bất cứ ai hay lời nói hoặc lời dạy nào làm cho chúng ta nghi hoặc tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, bày tỏ ra cho chúng ta nơi Đức Kitô, và nhất là Đức Kitô chịu đóng đinh.
Khi chúng ta nghi ngờ tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, đó là lúc chúng ta bị rắn độc cắn. Bị rắn độc cắn, thì đương nhiên là chết, không cần phải ai bắt mình ra xét xử, lên án và thi hành án phạt. Như chính Đức Giêsu nói:
“Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa”.
(c. 17-18)

Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc

 

 

Suy niệm Lời Chúa mỗi ngày Song ngữ

youmustbebornagain1

 Monday (April 24): “Unless one is born anew”

 

Scripture: John 3:1-8  

1 Now there was a man of the Pharisees, named Nicodemus, a ruler of the Jews. 2 This man came to Jesus by night and said to him, “Rabbi, we know that you are a teacher come from God; for no one can do these signs that you do, unless God is with him.” 3 Jesus answered him, “Truly, truly, I say to you, unless one is born anew, he cannot see the kingdom of God.” 4 Nicodemus said to him, “How can a man be born when he is old? Can he enter a second time into his mother’s womb and be born?” 5 Jesus answered, “Truly, truly, I say to you, unless one is born of water and the Spirit, he cannot enter the kingdom of God. 6 That which is born of the flesh is flesh, and that which is born of the Spirit is spirit. 7 Do not marvel that I said to you, `You must be born anew.’ 8 The wind blows where it wills, and you hear the sound of it, but you do not know whence it comes or whither it goes; so it is with every one who is born of the Spirit.

Thứ Hai     28-4                Trừ khi người ta được tái sinh

 

Ga 3,1-8

1 Trong nhóm Pha-ri-sêu, có một người tên là Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh của người Do-thái.2Ông đến gặp Đức Giê-su ban đêm. Ông nói với Người: “Thưa Thầy, chúng tôi biết: Thầy là một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến. Quả vậy, chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy.”3 Đức Giê-su trả lời: “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên.”4 Ông Ni-cô-đê-mô thưa: “Một người đã già rồi, làm sao có thể sinh ra được? Chẳng lẽ người đó có thể trở vào lòng mẹ lần thứ hai để sinh ra sao? “5 Đức Giê-su đáp: “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí.6 Cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí.7 Ông đừng ngạc nhiên vì tôi đã nói: các ông cần phải được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên.8 Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy.”

Meditation: Do you nourish your faith with prayerful reflection of the word of God? When Nicodemus heard about Jesus’ miracles and extraordinary teaching, he decided to meet with him privately, away from the crowds and the public spotlight. Nicodemus was no ordinary Jew. He was a religious ruler and member of the Sanhedrin, which was the supreme court of the Jews, and a teacher of Israel (John 3:10). He was a devout Pharisee who sought to perfectly follow the law of Moses, as prescribed in the Five Books of Moses (Genesis, Exodus, Deuteronomy, Leviticus, and Numbers) and further elaborated in the numerous scribal laws, recorded in the Mishnah and the Talmud.

 

Nicodemus decided to meet with Jesus at night, possibly for two reasons. He may have been cautious and  not ready to publicly associate himself with Jesus since many Pharisees opposed Jesus’ teaching and called him a Sabbath breaker. It is also likely that Nicodemus chose the night as the best time for seeking a private and undisturbed conversation with Jesus. The rabbis declared that the best time to study the law was at night after the day’s work was completed and the household was at rest. When Nicodemus saw Jesus he addressed him as rabbi (a teacher of God’s word and law) and acknowledged that Jesus’ teaching came from God.

 

How can one get right with God and enter his kingdom?

Jesus’ conversation with Nicodemus went to the very heart of the Mosaic law – how can one get right with God and enter God’s kingdom? Jesus’ answer was brief and startling: “Unless one is born anew, he cannot see God.” The new birth which Jesus spoke about was not a physical birth but the beginning of a spiritual birth which is something completely new and radical, and from above, namely from God himself. Jesus said that this rebirth was necessary if one was to enter God’s kingdom. Nicodemus thought that to be born again, even spiritually, was impossible. He probably knew too well from experience that anyone who wants to be changed from within, can’t accomplish this by oneself. Jesus explained that this change could only come about through the work and action of the Holy Spirit. This rebirth in the Spirit is very real and experiential, like the wind which can be felt and heard while it is visibly unseen to the naked eye.

 

Rebirth to new life in the power of the Holy Spirit 

What does it mean to be reborn in the Spirit? The new birth which Jesus speaks of is a spiritual birth to a life which is transformed through the power of God. This new life brings us into an experiential relationship with God as his adopted sons and daughters (Romans 6:4; 8:10-11). This new birth is made possible when one is baptized into Christ and receives the gift of the Holy Spirit. God wants to renew all of his people in the gift of new life in his Holy Spirit. This new life in the Spirit brings us into God’s kingdom of righteousness, peace, and joy (Romans 14:17).

What is the kingdom of God – which is also called the kingdom of heaven? God’s kingdom – his reign and blessing as King over us – is the abundant everlasting life and power from heaven which God shares with those who accept him as the Eternal Father and Author of Life and Ruler of All he has created. Jesus explains in the prayer he gave to his disciples, what we call the Lord’s Prayer or the Our Father, that God’s kingdom is that society of men and women who acknowledge God as their Lord and Ruler and who obey his word and live according to his will on earth as it is in heaven (Matthew 6:10).

We are sons and daughters of God and citizens of his kingdom

To be reborn in the Spirit is to enter that society in which God is honored and obeyed. Those who willingly accept God’s rule in their lives become citizens of God’s heavenly kingdom and members of God’s family – his adopted sons and daughters. And they enter into possession of the life which comes from God himself, an everlasting life of love, peace, joy, and freedom from sin, oppression, and corruption. Do you know the joy and freedom of the new birth and abundant life which Jesus Christ has won for you?

“Lord Jesus Christ, you offer us abundant new life and power to live as sons and daughters of our Father in heaven. Renew in me the gift of faith to accept and obey your life-giving word and to cooperate with the transforming power of your Holy Spirit who changes us into your likeness. May your kingdom come and your will be done in my life today, tomorrow, and always.”

Suy niệm: Bạn có nuôi dưỡng đức tin của mình với sự suy niệm và cầu nguyện về Lời Chúa không? Khi Nicôđêmô nghe về những dấu lạ và giáo huấn kỳ diệu của Ðức Giêsu, ông đã quyết định gặp gỡ Người cách kín đáo, xa cách đám đông và nơi công cộng. Nicôđêmô không phải là người Dothái bình thường. Ông là vị lãnh đạo tôn giáo và là thành phần của Thượng hội đồng, là tòa án tối cao của người Dothái, và là thầy dạy của dân Israel (Ga 3,10). Ông là người Pharisêu nhiệt thành, tìm cách sống theo luật Môisen cách hoàn hảo, như được trình bày trong năm quyển sách của Môisen (Sáng thế, Xuất hành, Đệ nhị luật, Lêvi, và Dân số) và được trình bày tỉ mỉ trong nhiều lề luật của các kinh sư, được chép lại trong sách Mishnah và sách Talmud.

 

Nicôđêmô quyết định gặp gỡ Ðức Giêsu vào buổi tối có thể vì hai lý do. Ông có thể bị chú ý và chưa sẵn sàng kết giao công khai với Ðức Giêsu bởi vì nhiều người Pharisêu chống đối giáo huấn Ðức Giêsu và gọi Người là người vi phạm ngày Sabát. Cũng có thể là Nicôđêmô chọn buổi tối như thời gian tốt nhất cho việc tìm kiếm một cuộc đối thoại kín đáo và không bị ai quấy rầy với Ðức Giêsu. Các thầy Rabi tuyên bố rằng thời gian tốt nhất để nghiên cứu lề luật là buổi tối, sau khi công việc trong ngày đã hoàn tất và mọi người được nghỉ ngơi. Khi Nicôđêmô gặp gỡ Ðức Giêsu, ông gọi Người làRabbi ( thầy dạy Lời Chúa và lề luật của Chúa) và nhận thức rằng giáo huấn của Ðức Giêsu đến từ Thiên Chúa.

Làm thế nào người ta có thể làm hòa với Thiên Chúa và vào được vương quốc của Người?

Cuộc đàm thoại của Ðức Giêsu với Nicôđêmô đi vào trọng tâm của luật Môisen – Làm thế nào người ta có thể xứng đáng với Thiên Chúa và được vào Nước Thiên Chúa? Câu trả lời của Ðức Giêsu rất ngắn gọn và ấn tượng: “Nếu người ta không tái sinh, họ không thể nhìn thấy Thiên Chúa.” Sự tái sinh mà Ðức Giêsu nói tới không phải là sự sinh ra theo thể lý, nhưng là sự khởi đầu của sự sinh ra thiêng liêng, là một điều hoàn toàn mới mẻ và căn bản, đến từ trên cao, nghĩa là từ chính Thiên Chúa. Ðức Giêsu nói rằng sự tái sinh này rất cần thiết nếu người ta muốn vào Nước Thiên Chúa. Nicôđêmô nghĩ rằng để sinh ra nữa, thậm chí cách thiêng liêng, là điều không thể được. Có lẽ ông cũng biết rõ từ kinh nghiệm rằng bất cứ ai muốn được thay đổi, không thể tự mình thay đổi. Ðức Giêsu giải thích rằng sự thay đổi này chỉ có thể đến ngang qua tác động của Chúa Thánh Thần. Sự tái sinh này trong Thần Khí thì rất thật và có thể cảm nghiệm được, giống như gió có thể cảm nhận và nghe được mặc dù nó không thể nhìn thấy bằng mắt thường.

Sự tái sinh vào sự sống mới trong quyền năng của Chúa Thánh Thần

Tái sinh trong Thần Khí nghĩa là gì? Sự tái sinh mà Ðức Giêsu nói tới là sự sinh ra cách thiêng liêng cho một cuộc sống, được biến đổi ngang qua quyền năng của Thiên Chúa. Sự sống mới này đưa chúng ta vào mối quan hệ trong sự cảm nghiệm với Thiên Chúa như những người con cái (Rm 6,4; 8,10-11). Sự tái sinh này trở nên khả thi khi người ta được rửa tội trong Đức Kitô và đón nhận hồng ân của Chúa Thánh Thần. Thiên Chúa muốn tái tạo mọi người trong hồng ân của sự sống mới trong Thánh Thần của Người. Sự sống mới trong Thần Khí này đem chúng ta vào vương quốc công chính, bình an, và niềm vui của Thiên Chúa (Rm 14,17).

Nước Thiên Chúa – hay còn gọi là Nước Trờilà gì? Nước Thiên Chúa – triều đại và phúc lành của Người là Vua của chúng ta – là sự sống vĩnh cửu sung mãn và sức mạnh siêu việt mà Thiên Chúa chia sẻ với những ai tiếp nhận Người là Cha hằng hữu và là Tác giả của sự sống và là Đấng cai trị mọi loài Người đã dựng nên. Đức Giêsu giải thích trong lời kinh Người ban cho các môn đệ, kinh mà chúng ta gọi là Kinh của Chúa hay Lạy Cha, tức là nước Thiên Chúa là cộng đồng của những người nhận biết Thiên Chúa là Chúa và là Đấng cai trị của họ và những ai vâng nghe lời Người và sống theo ý Người dưới đất cũng như trên trời (Mt 6,10).

Chúng ta là con cái của Thiên Chúa và là công dân vương quốc của Người

Ðược tái sinh là để bước vào cộng đồng đó, trong đó Thiên Chúa được tôn vinh và vâng phục, để sống như những công dân của Nước Trời và là những phần tử của gia đình Thiên Chúa – những người con của Người, và bước vào sự chiếm hữu sự sống đó, sự sống đến từ chính Thiên Chúa, một sự sống yêu thương, bình an, vui mừng vô tận, và sự giải thoát khỏi tội lỗi và sự sợ hãi cái chết. Bạn có biết niềm vui và sự giải thoát của sự sống mới và sung mãn mà Đức Giêsu Kitô đem lại cho bạn không?

Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa ban cho chúng con sự sống mới và sức mạnh để sống như những người con. Xin tái tạo trong con hồng ân đức tin và sự sống mới trong Thánh Thần của Chúa. Xin giúp con đến gần Chúa và tin tưởng vào Lời ban sự sống của Chúa. Chớ gì vương quốc của Chúa trị đến và chớ gì ý Chúa được thực hiện trong cuộc đời con hôm nay, ngày mai, và mãi mãi.

Tác giả: Don Schwager
(http://dailyscripture.servantsoftheword.org/readings/)
Bro. Paul Thanh Vu – chuyển ngữ

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận