Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng CN III Mùa Vọng B

Đăng lúc: Thứ năm - 11/12/2014 02:42 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng

Chúa Nhật III Mùa Vọng – năm B

Lời Chúa:
 
Is 61,1-2a.10-11; 1 Tx 5,16-24; Ga 1,6-8.19-28

***************

MỤC LỤC

1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm Inhaxio Hồ Thông

2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm PX Vũ Phan Long, ofm: Ông Gioan, người làm chứng
3. Chú giải của Noel Quesson

4. Anh em hãy vui lên (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
5. Tiếng Vạc kêu sương (Trầm Thiên Thu)
6. Gía trị của Lễ Chúa Giáng Sinh (Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
7. Chứng nhân của ánh sáng (JM. Lam Thy ĐVD.)
8. Dấu chỉ Đấng Messia (Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
9. Trút bỏ hư danh để được rót đầy ân sủng (Lm. Trần Ngà)
10. Vui mừng và hy vọng
11. Hãy vui lên (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
12. Làm chứng về ánh sáng (Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
13. Làm chứng về ánh sáng
14. Con tim rung nhịp với chân lý (Thomas Nguyễn Văn Hiệp)
15. Có một người ở giữa anh em (An Phong)
16. Niềm vui đang đến (Lm Lu-y Nguyễn Quang Vinh)
17. Tin mừng giải phóng (Như Hạ, OP)
18. Đơn giản là như thế (G. Nguyễn Cao Luật)
19. Chứng nhân của ánh sáng (ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
20. Chứng nhân ánh sáng trung thực (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
21. Làm chứng
22. Những lời chứng
23. Làm thế nào để nhận ra Đức Giêsu và Thiên Chúa? (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
24. Có một vị đang ở giữa các ông (Fx Đỗ Công Minh)
25. Tiếng kêu trong hoang mạc (AM Trần Bình An)

 

CN3MVB

A. BẢN VĂN

Bài đọc I (Is 61, 1-2a. 10-11)

Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.

Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi, vì Người đã mặc cho tôi áo phần rỗi, và choàng áo công chính cho tôi, như tân lang đầu đội triều thiên, như tân nương trang sức bằng ngọc bảo. Như đất đâm chồi, như vườn nảy lộc, Chúa cũng làm phát sinh công chính và lời ca tụng trước mặt muôn dân.

Bài đọc II (1 Tx 5, 16-24)

Anh em thân mến, anh em hãy vui mừng luôn. Hãy cầu nguyện không ngừng. Trong mọi việc, hãy cảm tạ Chúa. Vì đó là thánh ý Thiên Chúa về tất cả anh em trong Chúa Giêsu Kitô. Đừng dập tắt Thánh Thần; đừng khinh khi các lời tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự, điều gì tốt hãy giữ lại. Hãy tránh xa sự dữ dưới mọi hình thức.

Xin chính Thiên Chúa bình an thánh hoá anh em toàn diện, để thần trí, linh hồn và thể xác anh em được gìn giữ toàn vẹn trong ngày Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta ngự đến. Đấng đã kêu gọi anh em, chính Người là Đấng Trung Tín. Chính Người sẽ thực hiện.

Tin Mừng (Ga 1, 6-8. 19-28)

Có người đã được Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến như chứng nhân để làm chứng về sự sáng, hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là sự sáng, nhưng ông chỉ làm chứng về sự sáng. Và đây là chứng của Gioan, khi những người Do-thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế và các thầy Lêvi đến hỏi ông: “Ông là ai?” Ông liền tuyên xưng, ông không chối, ông tuyên xưng rằng: “Tôi không phải là Đấng Kitô”. Họ liền hỏi: “Thế là gì? Ông có phải là Elia chăng?” Gioan trả lời: “Tôi không phải là Elia”. – “Hay ông là một đấng tiên tri?” Gioan đáp: “Không phải”.

Họ liền bảo: “Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời cho những người sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?” Gioan đáp: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo”.

Và có những người thuộc nhóm biệt phái cũng được sai đến. Họ hỏi Gioan rằng: “Nếu ông không phải là Đức Kitô, cũng không phải là Elia hay một tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa?” Gioan trả lời: “Tôi làm phép rửa trong nước; nhưng giữa các ngươi, có Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Đấng ấy đã có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người”. Việc này xảy ra tại Bêtania, bên kia sống Giođan, nơi Gioan làm phép rửa.

[Mục Lục]

 

khoangcah2

B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI VÀ SUY NIỆM

Bài 1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm Inhaxio Hồ Thông

Tin Mừng tường thuật chứng từ của Gioan Tẩy giả, thánh nhân khẳng định rằng Đấng mà muôn dân mong đợi hiện đang ở giữa anh em.

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Mùa Vọng đều ngân vang cùng một sứ điệp mời gọi các tín hữu: “Hãy vui lên, Chúa sắp đến gần rồi”.

Is 61: 1-2a, 10-11

Bài Đọc I loan báo Tin Mừng cho những ai nghèo khổ, bất hạnh, bị giam cầm…biết rằng năm hồng ân của Chúa sắp đến rồi.

1Th 5: 16-24

Thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca hãy vui luôn mãi và không ngừng tạ ơn Chúa vì những thiên ân mà họ đã lãnh nhận được.

Ga 1: 6-8, 19-28

Tin Mừng tường thuật chứng từ của Gioan Tẩy giả, thánh nhân khẳng định rằng Đấng mà muôn dân mong đợi hiện đang ở giữa anh em.

BÀI ĐỌC I (Is 61: 1-2a, 10-11)

Bài Đọc I được hình thành bởi hai đoạn trích khác nhau từ chương 61 của sách I-sai-a. Đoạn trích thứ nhất (61: 1-2a) là phần mở và đoạn trích thứ hai (61: 10-11) là phần kết của một bài thánh thi. Đây là bài Thánh Thi Chúc Tụng được cộng đoàn xướng đáp.

  1. Đoạn trích thứ nhất (61: 1-2a):

Chúng ta nhận ra đoạn trích thứ nhất này mà vào một ngày sa-bát, trong hội đường Na-da-rét, Đức Giê-su công bố trước cộng đoàn (Lc 4: 18-20). Sau khi công bố xong, Ngài ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Ngài. Ngài bắt đầu ngỏ lời với họ:“Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh qu‎ý vị vừa nghe”. Như vậy Đức Giê-su áp dụng cho chính mình lời loan báo này: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi để loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…”. Đây cũng là đoạn trích mà Đức Giê-su cũng sẽ viện dẫn để trả lời cho những sứ giả mà Gioan Tẩy giả đang bị giam trong tù phái đến để hỏi Ngài:“Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn đợi ai khác?”(Lc 7: 19).

Vì thế, vị ngôn sứ nầy là ai mà Đức Giê-su quy chiếu đến hai lần? Và sứ điệp của ông ngỏ lời với ai?

  1. Tác giả

Những sự kiện được định vị vài năm sau năm 538 trước Công Nguyên, năm những đoàn người lưu đày ở Ba-by-lon lần đầu tiên được hồi hương trở về quê cha đất tổ. Tác giả của bài thánh thi nầy là một vị ngôn sứ nặc danh sống ở giữa những người hồi hương tại Giê-ru-sa-lem. Ông thường được các nhà chuyên môn gọi biệt danh là I-sai-a đệ tam, hay I-sai-a thời hậu lưu đày (Is 56-66) để phân biệt với hai vị tiền nhiệm của ông là vị ngôn sứ nặc danh khác thời lưu đày được gọi biệt danh là I-sai-a đệ nhị (Is 40-55) và ngôn sứ I-sai-a đệ nhất, vị ngôn sứ thời tiền lưu đày (Is 1-39).

Vào Chúa Nhật I Mùa Vọng, chúng ta đã đọc lời khẩn nguyện của vị ngôn sứ thời hậu lưu đày nầy. Bài thánh thi được trích dẫn hôm nay, xét về niên biểu, có trước lời khẩn nguyện. Trong bài thánh thi nầy, vị ngôn sứ biện minh sứ mạng của mình: ông đã được Thần Khí Chúa xức dầu tấn phong. Đây là cuộc xức dầu tấn phong thiêng liêng bởi vì không có nghi thức xức dầu tấn phong cho các ngôn sứ. Chính Thiên Chúa đã chọn các ngôn sứ của Ngài và ủy quyền cho họ nói thay cho Ngài.

  1. Sứ điệp

Vị ngôn sứ có sứ mạng là loan báo “Tin Mừng” (ông lấy lại diễn ngữ của vị tiền nhiệm của mình là I-sai-a đệ nhị được trích trong Bài Đọc I của Chúa Nhật II Mùa Vọng). Tin Mừng nầy có thể được tóm lược như sau: “Phúc thay những người nghèo khổ!”, âm vang một trong những mối phúc thật của Đức Giê-su.

Những người hồi hương thật sự vỡ mộng trước thực trạng muôn vàn khó khăn trong công cuộc tái thiết quê hương. Họ là những người nghèo hèn với tấm lòng tan nát. Vị ngôn sứ gọi họ là những “người bị giam giữ” cho dù hiện nay họ đã được phóng thích. Qua những từ ngữ đó, ông muốn nhấn mạnh nỗi cùng cực khốn khổ của họ mà hình ảnh sau đó được giải thích rõ hơn: “công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa”, nghĩa là năm mà những người nô lệ được phóng thích, mọi nợ nần được tha bổng, đất đai được phân phối lại. “Năm hồng ân”được cử hành cứ năm mươi năm một lần. Năm Hồng Ân này thật ra khai triển “năm sa-bát”, năm được cử hành cứ bảy năm một lần (Năm Hồng Ân là năm thứ 50 của 7 x 7 = 49). Năm hồng ân biểu tượng một lý tưởng công bình xã hội.

Đây là diện mạo của những “người nghèo Đức Chúa”, những người mà Kinh Thánh gọi là“anawin”. Chữ “anawin” không thể dịch được, nó bao hàm sự nghèo khổ vật chất, đức khiêm hạ và niềm tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Đặc ngữ này mang một nét nghĩa căn bản là “còng lưng xuống”, còng lưng xuống dưới gánh nặng của sự nghèo khó, của sự nhục nhã, nhưng cũng “sấp mình xuống” vì thái độ tôn giáo của họ, niềm tin tưởng phó thác hoàn toàn vào lượng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Đây là một khái niệm căn bản của Cựu Ước cũng như Tân Ước. Chính những kẻ bé mọn nầy mà Đức Giê-su sẽ ưu đãi. Một trăm năm sau đó, một vị ngôn sứ khác, Xô-phô-ni-a, đã tiên báo cuộc thăng tiến của những người nghèo nầy:

“Ngày ấy, ngươi sẽ không còn phải hổ thẹn vì mọi hành vi ngang trái chống lại Ta. Bấy giờ, Ta sẽ đuổi cho khuất mắt ngươi những kẻ kiêu căng đắc thắng, và ngươi sẽ không nghêng ngang trên núi thánh của Ta nữa. Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ; chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh Đức Chúa. Số dân Ít-ra-en còn sót lại sẽ không làm chuyện tàn ác bất công, cũng không ăn gian nói dối và miệng lưỡi chúng sẽ không còn phỉnh gạt. Nhưng chúng sẽ được chăn dắt và nghỉ ngơi mà không còn bị ai làm cho khiếp sợ nữa” (Xp 3: 11-13).

  1. Đoạn trích thứ hai (61: 10-11)

Được Thiên Chúa an ủi như vậy, cộng đoàn xướng lên những lời chúc tụng: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Thiên Chúa, vâng nhờ Người, tôi hớn hở biết bao”. Những lời hoan ca nầy được diễn tả qua hai hình ảnh. Hình ảnh thứ nhất là “trang phục”: Giê-ru-sa-lem được mặc hồng ân cứu độ, được khoắc áo choàng công chính như chàng rể chỉnh tề khăn đóng, tựa nàng dâu lộng lẫy điểm trang. Hình ảnh thứ hai là “khu vườn”: Giê-ru-sa-lem được sánh ví với khu vườn được Thiên Chúa chăm sóc tận tình để “trở hoa công chính và vinh quang trước mặt muôn dân”.

  1. Ý nghĩa của việc nối kết hai đoạn trích nầy

Khi đặt hai đoạn trích đầu và cuối bài thánh thi nầy bên cạnh nhau, Phụng Vụ mời gọi chúng ta hãy gẫm suy về mối liên hệ sâu xa giữa “ơn cứu độ” mà Đấng Mê-si-a hứa ban và“vẽ đẹp lộng lẫy” của Giê-ru-sa-lem được nhân cách hóa nơi dân Thiên Chúa. Sách Khải Huyền lấy lại hình ảnh Giê-ru-sa-lem thiên quốc như Tân Nương được điểm trang lộng lẫy nhờ máu Con Chiên.

Một viễn cảnh như thế không thể là viễn cảnh của vị ngôn sứ thuộc thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên. Tuy nhiên, cách thức tiếp cận lịch sử như vậy có thể hiểu được nhờ những đau khổ của nhóm nhỏ trung thành còn sót lại, những “người nghèo hèn” nầy mà nỗi khốn khổ của họ lôi kéo lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Và chính qua họ mà lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa trải dài cho đến tận cùng thế giới.

BÀI ĐỌC II (1Th 5: 16-24)

Thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Thê-xa lô-ni-ca là bản văn cổ xưa nhất của văn chương Ki-tô giáo. Bức thư nầy được viết vào mùa đông năm 50-51. Thánh Phao-lô đã thiết lập giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca vào mùa hè năm 50, nhưng ngài đã phải vội vàng trốn chạy khỏi thành phố vì người Do thái phẩn nộ tìm cách giết ngài: lời rao giảng của thánh nhân khiến nhiều người Ít-ra-en lẫn lương dân ăn năn trở lại. Vì thế, thánh nhân thật sự bận lòng đến cộng đoàn non trẻ bị hăm dọa nầy. Sau nầy, cộng tác viên của ngài là ông Ti-mô-thê quay trở lại Thê-xa-lô-ni-ca và thuật lại cho thánh nhân những tin tốt lành: dù bị người Do thái đe dọa và quấy nhiễu, cộng đoàn Thê-xa-lô-ni-ca non trẻ nầy vẫn kiên vững trong niềm tin của mình. Thế nên, thánh Phao-lô viết bức thư nầy gởi đến cho họ với cung giọng nồng nàn chan chứa niềm hân hoan và cảm tạ. Đoạn trích thư hôm nay được định vị vào cuối thư bao gồm những lời khuyên bảo và khích lệ.

  1. Vui mừng, cầu nguyện và tạ ơn

Thánh nhân khuyên ba điều quan trọng: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”.

Trước hết, “Anh em hãy vui mừng luôn mãi”. Thánh Phao-lô thường nhấn mạnh niềm vui Ki-tô giáo. Niềm vui là hoa quả của Thần Khí, Đấng hằng ở với người Ki-tô hữu ngay cả trong gian nan thử thách. Chính thánh nhân luôn “chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó” (2Cr 7: 4). Niềm vui này phát xuất từ niềm xác tín là được dự phần vào vương quốc Thiên Chúa ngay từ cõi thế nầy.

Tiếp đó, “Hãy cầu nguyện không ngừng”. Thánh nhân hầu như luôn luôn khuyên cầu nguyện “không ngừng”“mọi lúc”“đêm cũng như ngày”. Chung chung, thánh nhân cầu nguyện với Chúa Cha, qua Chúa Ki-tô, nhờ Chúa Thánh Thần. Hiếm khi thánh nhân cầu nguyện trực tiếp với Chúa Ki-tô. Thánh nhân nói, chính nhờ Thần Khí mà chúng ta mới có thể thân thương với Thiên Chúa là “Cha”.

Sau cùng, “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”. Tạ ơn là một cấu tố của lời cầu nguyện, xoay quanh lời chúc tụng. Truyền thống Do thái dành một chỗ đặc biệt cho tâm tình cảm tạ tri ân. Bài ca “Chúc Tụng” (Benedictus) là bài ca cảm tạ tri ân: “Chúc tụng Thiên Chúa…”. Thánh Phao-lô hầu như luôn luôn bắt đầu bức thư của mình với lời chúc tụng Thiên Chúa.

  1. Ân ban Thần Khí

Đây là lời khuyên thứ hai. Các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca coi nhẹ những ân ban Thần Khí. Họ nghi ngại những người được ơn ban Thần Khí. Có lẽ họ là những người Hy lạp phương bắc, ít sôi nổi như những người Cô-rin-tô… Quả thật, thánh Phao-lô viết từ Cô-rin-tô ở đó những ân ban Thần Khí nhiều vô kể. Thánh nhân khuyên các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca: “Anh em chớ dập tắt Thần Khí”. Cứ để mỗi người nói lên những ân ban mà mình nhận được, ngay cả ơn nói tiên tri. Điều quan trọng là phải biết “cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ lấy; còn tất cả những gì xấu thì lánh cho xa”.

  1. Ơn thánh hóa

Đây là đề tài rất tâm đắc với thánh Phao-lô. Sau này, thánh nhân sẽ khai triển sâu xa hơn: chúng ta được thánh hóa nhờ tác động của Thiên Chúa chứ không do nổ lực cá nhân của mình.

Việc kể con người được phân chia thành ba phần: thần trí, tâm hồn và thân xác, không gặp thấy bất cứ nơi nào khác trong các thư của thánh Phao-lô. Đây không là cách diễn tả con người được phân chia thành ba phần. Người Hy lạp cũng như người Do thái đều không quan niệm con người theo cách phân chia như thế. Ở đây, thánh Phao-lô chỉ muốn nói đến toàn diện con người. Theo thói quen của mình, thánh nhân khai triển chữ “toàn diện” đi trước và tô đậm chữ “thần trí” theo sau. Chữ “thần trí” này mang lấy ý nghĩa Ki-tô giáo: chính thần trí con người rộng mở trước tác động của Thần Khí.

TIN MỪNG (Ga 1: 6-8, 19-28)

Tin Mừng hôm nay được trích từ hai đoạn văn khác nhau, một được trích từ Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan (1: 1-18) giới thiệu “chức năng chứng nhân” của Gioan Tẩy giả (1: 6-8) và một khác được trích từ Phần Mở Đầu của Tin Mừng Gioan (1: 19-2: 12) trình bày“lời chứng” của Gioan Tẩy giả (1: 19-28).

  1. Chức năng chứng nhân của Gioan Tẩy giả (1: 6-8)

Tựa Ngôn là một bài thánh thi về “Ngôi Lời” bị ngắt nhịp hai lần để giới thiệu Gioan Tẩy giả là chứng nhân của Đức Ki-tô (1: 6-8 và 15). Lần ngắt nhịp thứ nhất được trích dẫn ở đây như phần mở đầu của đoạn Tin Mừng hôm nay.

Trong phần mở đầu nầy, tác giả Tin Mừng thứ tư không đề cập đến sứ điệp của Gioan Tẩy giả cũng như ‎ý nghĩa phép rửa của thánh nhân, nhưng tô đậm chức năng “chứng nhân” của thánh nhân. Đối với Tin Mừng Gioan, “chứng nhân” là chức năng quan trọng bậc nhất như tác giả nhấn mạnh trong thư thứ nhất của mình: “Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống…Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa…” (1Ga 1: 1-4).

  1. Lời chứng của Gioan Tẩy giả (1: 19-28)

Sau khi giới thiệu chức năng chứng nhân của Gioan Tẩy giả, tác giả Tin Mừng Gioan trình bày lời chứng của Gioan Tẩy giả.

Gioan Tẩy giả phủ nhận tất cả những gì người ta nghĩ tưởng về ông để chỉ tập trung lời chứng của mình vào sự hiện diện của Đấng đến sau ông và hiện có mặt ở đây rồi. Ông không phải là Đấng Mê-si-a mà dân chúng đang mong đợi. Ông cũng không phải là Ê-li-a mà truyền thống truyền tụng rằng vị ngôn sứ này được rước lên trời và sẽ trở lại trần thế để chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a. Ông cũng không phải là ngôn sứ vĩ đại mà Đức Chúa hứa với ông Mô-sê trong sách Đệ Nhị Luật: “Từ giữa anh em, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng…” (Đnl 18: 18).

Sau khi đã phủ nhận tất cả những nhân vật nổi tiếng mà người ta nghĩ tưởng về mình, Gioan Tẩy giả công bố sứ điệp: “Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Có thể ở đây ám chỉ đến niềm tin dân gian vào một đấng mê-si-a ẩn mình. Thật vậy, sách Tin Mừng thứ tư nhấn mạnh hơn các sách Tin Mừng khác lời loan báo về Đấng Mê-si-a hiện ở giữa họ rồi mà họ không nhận ra.

Tại sao lời chứng của Gioan Tẩy giả vừa phủ nhận về mình vừa khẳng định về Đức Ki-tô mặc lấy một tầm mức quan trọng đến như thế? Để có thể lĩnh hội được Tin Mừng Gioan, chúng ta cần phải giải mã những ẩn ý nầy. Tin Mừng Gioan vốn giàu có biểu tượng nên luôn luôn hàm chứa hai nghĩa: nghĩa trực tiếp và nghĩa ẩn dụ.

  1. Nghĩa trực tiếp

Theo nghĩa trực tiếp, chúng ta có thể gặp thấy chìa khóa ở nơi việc dàn dựng Phần Mở Đầu cuộc đời công khai của Đức Giê-su thành một tuần lễ, được gọi “Tuần Lễ Khai Mạc” song đối với “Tuần Lễ Cuối Đời” của Đức Giê-su ở thành thánh Giê-ru-sa-lem. Tuần Lễ Khai Mạc được trình bày thành bảy ngày: ngày thứ hai, thứ ba và thứ tư được phân định với biểu thức thời gian “Hôm sau” (1: 29, 35, 43), riêng ba ngày sau cùng được bắt đầu với biểu thức“Ngày thứ ba” (2: 1).

Ngày thứ nhất: Gioan Tẩy giả làm chứng về chính mình và về Đức Ki-tô trước những chất vấn của các tư tế và các thầy Lê-vi được phái đến từ Giê-ru-sa-lem (1: 19-28).

Ngày thứ hai: Gioan Tẩy giả làm chứng Đức Giê-su là “Chiên Thiên Chúa” và là Đấng mà Thần Khí ngự xuống vào lúc Ngài chịu phép rửa (1: 29-34).

Ngày thứ ba: ông An-rê và người môn đệ nặc danh đi theo Đức Giê-su; đoạn ông An-rê rũ em mình là Phê-rô cùng nhập bọn với mình (1: 35-42).

Ngày thứ tư: Phi-líp-phê và Na-tha-na-en nhập đoàn với các môn đệ đầu tiên (1: 43-51).

Ngày thứ năm và thứ sáu: hành trình về miền Ga-li-lê.

- Ngày thứ bảy: tiệc cưới Ca-na, ở đó các môn đệ đã “chứng kiến vinh quang của Ngài” và đã “tin vào Ngài”.

Khi trình bày Phần Mở Đầu cuộc sống công khai của Đức Giê-su như thế, thánh ký thiết lập sự song đối với bảy ngày của Công Trình Sáng Tạo, qua đó thánh ký muốn nói rằng Đức Ki-tô giáng trần để thực hiện một cuộc tạo dựng mới, hay đúng hơn, một cuộc tái tạo.

  1. Nghĩa ẩn dụ

Lời chứng của Gioan tẩy giả được trích dẫn trong Tin Mừng hôm nay được định vị vào ngày thứ nhất trong Tuần Lễ Khai Mạc. Trong công trình sáng tạo thế giới, ngày thứ nhất được đánh dấu bởi việc phân tách Ánh Sáng ra khỏi bóng tối.

Do đó, tất cả ‎ý nghĩa sâu xa của đoạn Tin Mừng nầy chính là Gioan Tẩy giả đến để làm chứng về ánh sáng. Trái lại, các tư tế và các thầy Lê-vi được cử đến và trở về Giê-ru-sa-lem mà không đón nhận phép rửa tỏ bày sự sám hối, vì thế, không rộng mở lòng mình ra để đón nhận ánh sáng. Tuy nhiên, họ đã được loan báo cho biết: “Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (động từ “biết” theo nền văn hóa Do thái không chỉ nói lên một sự hiểu biết thuần túy trên mặt trí tuệ nhưng đặc biệt còn cả trọn tấm lòng nữa). Như vậy, giáo quyền Do thái, ngay từ đầu, vẫn đắm mình trong bóng tối. Sự kiện nầy sẽ chi phối cách hành xử sau cùng của họ đối với Đức Ki-tô.

Việc đối lập của cặp tương phản giữa ánh sáng và bóng tối nầy hình thành nên một trong những đề tài chủ đạo của Tin Mừng Gioan. Việc đối lập nầy đã được minh chứng rồi ngay từ trong Tựa Ngôn.

[Mục Lục]

Bài 2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm PX Vũ Phan Long, ofm: ÔNG GIOAN, NGƯỜI LÀM CHỨNG1. Ngữ cảnh

Tin Mừng IV có một Mở đầu trong đó có Lời Tựa là một bài suy niệm cao sâu về mầu nhiệm Ngôi Lời (Ga 1,1-18), và Các chứng từ về Đức Giêsu, do Gioan Tẩy Giả, Anrê và Nathanaen nêu ra (1,19-51). Bản văn được đọc trong Phụng vụ hôm nay gồm một đoạn nhỏ trích từ Lời Tựa (1,6-8) và đoạn đầu trích từ Các chứng từ (1,19-28).

  1. Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Gioan là người làm chứng (1,6-8);

2) Gioan làm chứng (1,19-28):

  1. a) Làm chứng cho phái đoàn sứ giả (1,19-23),
  2. b) Làm chứng cho người Pharisêu (1,24-28).
  3. Vài điểm chú giải

- lời chứng (19): Điểm đáng lưu ý nhất, đó là tác giả đã chọn ra từ trong ngôn ngữ thuộc ngành tư pháp từ ngữ “lời chứng/làm chứng” (martyria: 14 lần trong Ga)[1], và đã dùng từ đó mà mở ra hoạt cảnh này, cùng với động từ tương ứng là “làm chứng” (martyreô: 33 lần trong Ga; 2 lần trong TMNL). Cũng ghi nhận rằng các từ ngữ martyria và martyreinxuất hiện trong đa số các chương của TM IV ngoại trừ các chương 6, 9, 11, 14, 16, 17 và 20; tuy thế, các chương này cũng nói đến “làm chứng”. Các TMNL ưa dùng các từ như “công bố” (kêryssô) hoặc “loan báo Tin Mừng” (euangelizomai. Rất có thể tác giả TM IV đã dùng ngôn ngữ tư pháp do hoàn cảnh trong đó ngài viết Tin Mừng (giữa hoặc cuối những năm 90 [?], lúc mà quan hệ giữa người Do Thái và các Kitô hữu đã trở nên khá căng thẳng: x. Ga 9,22; 12,42; 15,26–16,2).

- người Do Thái từ Giêrusalem (19): Bởi vì họ có thể cử các tư tế và các thầy Lêvi đi, hẳn “người Do Thái từ Giêrusalem” chính là giới lãnh đạo Do Thái giáo.

- ông tuyên bố thẳng thắn (20): dịch sát là “ông không chối”.

- vị ngôn sứ (21): Đây chính là dung mạo ngôn sứ được hứa trong Đnl 18,18.

- cởi quai dép (27): Đây là công việc của một nô lệ. Khi chủ nhà đi thăm bạn, người nô lệ đi theo. Trước khi chủ bước vào nhà bạn, người nô lệ cúi xuống cởi quai dép cho chủ, và đứng cầm hai chiếc dép chờ chủ.

  1. Ý nghĩa của bản văn

* Gioan là người làm chứng (6-8)

“Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan” (Ga 1,6). TM IV đã giới thiệu Gioan bằng một câu như thế ngay giữa Lời Tựa. Đối diện với Ngôi Lời, ngôi vị Thiên Chúa toàn năng luôn luôn “có” từ muôn thuở đến muôn đời muôn kiếp (1,1-5), đây là Gioan, một con người tầm thường xuất hiện, đi từ hư vô ra cuộc sống. Sau khi đã nêu bật sự cao vời vô biên của Đức Kitô, tác giả mau mắn xác định sự cao cả của Gioan: ông được Thiên Chúa sai phái và có sứ mạng làm chứng cho ánh sáng: “Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng” (1,7).

Sau Lời Tựa, tác giả bắt đầu bài tường thuật cách trang trọng, và cũng bằng một câu nói về Gioan: “Và đây là lời chứng của ông Gioan” (1,19). Chúng ta sẽ suy ngẫm về tư cách và công việc làm chứng của Gioan.

* Gioan làm chứng (19-28)

² Ga 1,19-23

Vừa nghe câu mở này, chúng ta có cảm tưởng là mình được gợi ý nhìn vào một cảnh trong phòng xử án. Ấn tượng này dường như có cơ sở. Ngay tức khắc, tác giả giới thiệu Gioan như người đang bị thẩm vấn. Bản văn nói, “người Do Thái”, hẳn đây là giới lãnh đạo Do Thái giáo, đã gửi một phái đoàn đến đặt các câu hỏi cho Gioan. Phái đoàn đó gồm có các tư tế và mấy thầy Lêvi, tức đây là giới chức trách có nhiệm vụ chăm sóc Đền Thờ Giêrusalem. Câu hỏi thứ nhất họ đặt ra có vẻ nhẹ nhàng, không có gì thâm độc: “Ông là ai?”, câu hỏi bật ra như một kiểm tra về lý lịch. Tuy nhiên, câu trả lời của Gioan thì lại có gì đó trầm trọng. Thay vì khai lý lịch, ông lại trả lời trang trọng, hầu như là nói lên một lời thề, rằng ông không phải là người nào đó. Ông tuyên xưng rằng ông không phải là Đấng Kitô.

Thế là phái đoàn chính thức thúc ép ông tiếp, để có thể trả lời hết các câu hỏi nhằm điều tra lý lịch của ông. Các câu hỏi tuôn ra thật nhanh. “Ông có phải là ông Êlia không?” và “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?”. Với cả hai câu hỏi này, vị chứng nhân vẫn cứ trả lời “Không!”. Đến đây dường như đã cảm thấy bực bội khó chịu, phái đoàn hỏi: “Thế ông là ai?”. Tuy bị thúc bách như thế, nhưng với giọng hẳn là nhẹ nhàng và vẫn trang trọng mà nghe ra thì có vẻ khôi hài nữa, vị chứng nhân đáp bằng những lời lẽ trích từ sách Isaia: “Tôi là tiếng người hô [= tiếng nói của người hô] trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi” (x. Is40,3).

Trong các cuộc xử án, việc xác minh lý lịch của người chứng chỉ là một chuyện thủ tục được thực hiện nhanh chóng, nhưng ở đây, lại không phải là như thế với vị chứng nhân tên là Gioan. Ông cứ toàn lo trả lời là ông không phải là ai thôi – như một kiểu xác minh lý lịch tiêu cực – chứ không nói ông là ai. Cuối cùng, khi ông xác minh về ông, bản lý lịch tự khai của ông lại cho biết ông là “tiếng người hô” (tiếng nói, phônê).

Hình ảnh vị chứng nhân cứ tránh né nêu lý lịch góp phần làm cho tấn bi kịch được triển khai. Óc tò mò của chúng ta bị kích thích. Các câu hỏi phát sinh: Đấng Kitô là ai mà Gioan nói ông không phải là Người? Và nếu Gioan chỉ là một tiếng nói, thì ông phải nói gì?

Hoạt cảnh cuộc thẩm vấn vừa rồi không có trong các TMNL. Tuy nhiên, những suy diễn về Đấng Mêsia thì đã quá quen thuộc tại Paléttina vào thế kỷ I. Lúc đó người ta đang chờ đợi một số gương mặt trở lại. Trong TM Lc, ta thấy dân chúng rất tín nhiệm Gioan (x. Lc 3,15); rồi có chuyện vua Hêrôđê băn khoăn về cái chết của Gioan (Lc 9,7-9). Những tin đồn và suy đoán như thế là bối cảnh cho câu hỏi Đức Giêsu đặt ra cho các môn đệ Gioan khi họ đến gặp Đức Giêsu theo ý ông (x. Mt 11,2-6; Lc 7,18-23) cũng như cho các câu trả lời các môn đệ đã nêu ra khi Đức Giêsu hỏi người ta bảo Người là ai (Mt 16,13-16; Mc 8,27-29; Lc 9,18-20). Dù sao, Đấng Kitô sẽ là vị vua lý tưởng như Đavít; Người sẽ khôi phục quyền tự chủ trên đất nước và quy tụ người Do Thái đang tản mác lại. Người cũng có thể là như ngôn sứ Êlia, mà truyền thống tin là sẽ trở lại vào Ngày của Chúa (x. Ml3,23). Người cũng có thể là chính Môsê trở lại. Gioan đã thề là ông không phải là bất cứ dung mạo trứ danh nào như thế, những dung mạo đang được mong chờ tha thiết. Ông chỉ là “tiếng nói”.

² Ga 1,24-28

Tuy nhiên, cuộc thẩm vấn vẫn tiếp tục. Người ta hỏi thế thì tại sao ông lại làm phép rửa. Tác giả ghi nhận là trong nhóm được cử đi, có những người thuộc phái Pharisêu, tức những người Do Thái giữ thật nghiêm nhặt Luật Môsê. Như thế, Gioan vừa mạnh mẽ từ chối đồng hóa mình với bất cứ dung mạo cánh chung nào đang được dân chúng chờ đợi, vừa làm chứng trước những đại biểu của toàn thể thế giới Do Thái.

Không có một chi tiết nào trong các nguồn văn chương Do Thái nói rằng Đấng Kitô, Êlia hoặc Môsê, hoặc vị ngôn sứ nào sẽ làm phép rửa. Như thế câu hỏi đăt ra cho Gioan là câu hỏi về quyền. Do quyền nào mà ông làm phép rửa? Một lần nữa, dường như Gioan lại né tránh câu hỏi. Ông chỉ trả lời theo cách bí ẩn. “Tiếng nói” chỉ nhìn nhận rằng ông làm phép rửa trong nước. Nhưng rồi ông nói rằng “có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1,26-27).

Dường như ở đây Gioan quy chiếu về một truyền thống Do Thái nói rằng Đấng Mêsia sẽ cứ ở trong tình trạng tăm tối cho tới khi Người được Êlia giới thiệu cho Israel. Lời ông nói, “Tôi thì tôi không phải là Đấng Kitô” hàm ý là Đấng Kitô đã có mặt đâu đây, nhưng đang còn ẩn mình, và tuy ẩn mình, Người rất vĩ đại.

Tác giả TM IV không nhấn mạnh về vai trò của Gioan là làm phép rửa cho Đức Giêsu như các TMNL (Mt 3,1-17; Mc 1,2-11; Lc 3,1-20); do đó ngài không gọi Gioan là “Tẩy Giả” (Mt3,1) hay “người làm phép rửa” (Mc 1,4). Nếu ngài có nói đến phép rửa ấy chỉ là để đưa đến cuộc tra hỏi thôi. TM IV cũng không giới thiệu Gioan là như một dung mạo ngôn sứ kêu gọi người ta mau mau hoán cải vì Nước Thiên Chúa đã đến gần. Ngài chỉ quan tâm xác định chân tính của Gioan là “tiếng nói” thôi; ông phải nói điều gì đó. Thật ra cả bốn TM đều vận dụng bản văn Is 40,3 (Mt 3,3; Mc 1,3; Lc 3,4), nhưng trong TM IV, chính Gioan lại gán cho mình vai trò làm tiếng nói: tác giả muốn nhân vật Gioan của mình “nói cho chính mình”. Trong khi các TMNL trích Is 40,3 như là một lời bình về Gioan, câu này lại được Ga 1,23 trích như là lời của chính Gioan.

Truyện về Gioan trong TM IV là truyện của riêng tác giả. Ngài có cách thức riêng cũng như ngôn ngữ và văn phong riêng mà miêu tả Gioan, mà chia sẻ cái nhìn của ngài về ông. Ở đây hoạt cảnh đúng là như một cuộc xử án gồm hai giai đoạn thẩm vấn Gioan. Ngôn ngữ của chương 1 (và của cả TM IV) phù hợp với bầu khí của phòng xử án: Ngài viết về lời chứng (martyria, c. 19), lời tuyên xưng (homologeô, 2 lần trong c. 20), và việc chối (arneomai, c. 20); ngài cũng viết về việc hỏi (erôtaô, cc. 19.21.25) và trả lời (apokrinomai, cc. 21;apokrisis, c. 22) và về những người đã được cử đi (apostellô, cc. 19.22.24)[2].

+ Kết luận

Từ phân đoạn Ga 1,6-8, ta thấy Gioan không phải là đại sứ đặc mệnh toàn quyền; ông được Thiên Chúa sai đến với một mục tiêu rõ rệt: “làm chứng về ánh sáng” (cc. 7.8). Sứ mạng của ông phải được nhìn trong viễn tượng vũ trụ, siêu lịch sử, nhưng vai trò của ông là chứng nhân và chỉ là chứng nhân mà thôi. Nhiệm vụ của ông tập trung vào việc làm cho Israel nhận biết Đức Giêsu. Tuy nhiên, tác giả cũng muốn nói một điều quan trọng hơn khi tinh tế đặt đối lập dung mạo Gioan, người được Thiên Chúa sai đến (1,6), với các tư tế và các thầy Lêvi được người Do Tháigửi đến từ Giêrusalem (1,19). Cuộc thẩm vấn có thật, nhưng đây chỉ là cuộc đụng chạm giữa hai đoàn tiền quân.

  1. Gợi ý suy niệm
  2. Sứ mạng của Gioan là làm chứng cho Đức Giêsu. Sứ mạng này quan trọng đến nỗi trong Lời Tựa, ông được nhắc đến hai lần: mộtlần như là “chứng nhân” (Ga1,6) và lần kia thì nhắc lại lời chứng của ông (1,15). Do đó, cứ theo TM IV, hẳn là ông phải được gọi là “Gioan người làm chứng”. Danh hiệu mà Hội Thánh Đông phương gán cho ông, “Gioan vị Tiền Hô”, mở ra hai sứ mạng của ông, làm phép rửa và làm chứng.
  3. Gioan là chứng nhân của ánh sáng (1,6-8). Điều nghịch lý là ánh sáng lại cần đến mộtchứng nhân. Ánh sáng thật đang rạng soi cho mọi người (x. 1,9), thế mà không phải là loài người đang tự nhiên sống dưới ánh huy hoàng của ánh sáng này. Như mộtkho báu được chôn giấu, trước tiên ánh sáng này cần được khám phá; chỉ sau đó ánh sáng mới tỏa rạng và mọi người có thể thực sự thấy được. Đặc điểm của Đức Giêsu là thực tại chân thật của Người không chỉ thấy được ở bề mặt, và không phải bất cứ ai cũng có thể tiếp cận Người. Người không tỏ mình ra với cung cách áp đảo, Người không ép buộc bất cứ ai; người ta luôn luôn có thể tránh Người và sống không cần Người. Đức Giêsu là ánh sáng đòi hỏi tự do quyết định của con người. Chính vì Người ở trong tình trạng ẩn mình, Đức Giêsu cần có những chứng nhân. Gioan là chứng nhân đầu tiên của Người, giúp cho người ta có thể đến với Người để nhận được ánh sáng. Nhưng cả lời chứng của Gioan cũng không phải là một bằng cớ bó buộc: mọi người phải tin nhờ ông (1,7). Chỉ ai nhờ ông mà tin thì mới đến được với Đức Giêsu là ánh sáng.
  4. Gioan nói như chứng nhân và khẳng định tính khả tín của chính ông. Ông nói thẳng ra ông không phải là ai (1,19-21) và ông là ai (1,22-23) và ai sẽ đến sau ông (1,25-27). Ngay trong Lời Tựa, tác giả TMđã cho biết: “Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (1,8). Trước tiên ông nói ông không là ai, như để tránh che mất Đấng ông phải làm chứng cho, nếu như ông lo khẳng định về bản thân. Rồi khi phải nói ông là ai, thì ông cho biết ông chỉ là tiếng của người hô trong hoang địa: hoạt động của ông có tầm quan trọng đặc biệt vì được chính Kinh Thánhloan báo, được Thiên Chúa quy định, nhưng chỉ là một tiếng nói loan báo rằng Chúa đang đến và khuyến khích người ta dọn lòng đón tiếp Người.
  5. Về nhân vật cao trọng mà ông làm chứng cho, Gioan chỉ khẳng định hai điều: Người đang ở giữa họ, nhưng họ không nhận biết Người; Người cao trọng đến mức chính Gioan cũng không xứng đáng phục vụ Người theo cách thức của mộtnô lệ. Ẩn mình và cao trọng vẫn là hai nét tiêu biểu của Đức Giêsu. Người là ánh sáng tỏa rạng trong tình trạng ẩn tàng đồng thời là ánh sáng chân thật duy nhất.
  6. Bất cứ Kitô hữu nào hôm nay cũng cần thấy mình là một chứng nhân nhưGioan. Họ biết mình không là gì cả khi sánh với Đấng họ phải làm chứng cho. Tuy nhiên, chính Đấng ấy lại muốn chọn họ để tỏ mình ra cho thế giới. Tình trạng cao cả mà thật ra thấp hèn, thấp hèn nhưng cũng cao cả, đã là tư cách của Gioan, thì cũng là thân phận của mọi Kitô hữu.

[1] Từ ngữ martyria được dùng 4 lần trong TMNL (Mc 14,55.56.59 và Lc 22,71), cả 4 lần này đều thuộc về cuộc xử án Đức Giêsu.

[2] Câu truyện được đặt trong một tác phẩm trong đó các từ ngữ rõ ràng mang màu sắc pháp lý, như kết án (katêgoreô, 5,45; 8,6), và thuyết phục (elenchô, 3,20; 8,46; 16,8), bảo vệ (paraklêtos, 14,16.26; 15,26; 16,7), án xử (krisis, 3,19; 5,22.24.27.29.30; 7,24; 8,16; 12,31; 16,8.11) và xét xử (krinô, 3,17.18 (2x); 5,22.30; 7,24 (2x).51; 8,15 (2x).16.26.50; 12,47 (2x).48 (2x); 16,11; 18,31).

[Mục Lục]

Bài 3. Chú giải của Noel Quesson

Có một người được Thiên Chúa sai đến, đó là Gioan. Ông đến để làm chứng…

Cùng với Đức Maria, Gioan Tẩy Giả là khuôn mặt lớn xuất hiện trong Mùa Vọng. Mỗi năm, Phụng vụ đều dành trọn Chúa nhật II và III Mùa Vọng nói về Gioan.

Một bài ca diễn Tin Mừng (bài hát được sáng tác từ nội dung Tin Mừng) đã ca tụng tuyệt vời vai trò duy nhất của Gioan: “Là vị Ngôn sứ cuối cùng, là chứng nhân đầu tiên cua Đức Giêsu Kitô, là tiếng kêu trong hoang địa, thế mà ông đã khiêm tốn tự xóa nhòa đời mình trước Đấng mà ông loan báo: Lạy Ngài, đó là sự cao cả, niềm vui của Ngài giờ đây đã nên trọn vẹn. Hỡi vị chứng nhân của ánh sáng, xin hãy nói cho chúng tôi hay, Đấng Mê-si-a sẽ đến với chúng tôi bằng con đường nào!”. Và những câu chuyện tiếp của bài ca đã lập lại một số lời của Gioan.

Thực sự, không ai tiêu biểu hơn Gioan trong Mùa Vọng. Ông là vị ngôn sứ cuối cùng và cao cả của Cựu ước (Lc 1,76; Mt 11,9): Do đó ông là con người nối kết giữa quá vãng và tương lai, giữa điều có trước và cái đến sau.

Lạy Chúa, xin giúp con biết trung thành với nguồn góc của chúng con trong quá khứ, nhưng cũng luôn mơ tới mọi cái mới mẻ mà Chúa muốn chúng con thiết lập Hôm Nay.

Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng.

Chứng nhân của ánh sáng! Tước hiệu đẹp biết bao! Gioan là người chứng tá!

Ba Tin Mừng kia đều giới thiệu cho ta, Gioan Tẩy Giả như “người rao giảng lòng sám hối” chỉ có Tin Mừng thứ tư cho ta hay, ông được coi như “chứng nhân của ánh sáng”… “người chứng thứ nhất của Đức Giêsu Kitô”. Ta đừng quên rằng, từ chứng nhân, được sử dụng trong tiếng Hy Lạp, ở thuộc ánh “Martyros”, và trên thực tế, Gioan đã là vị “chứng nhân đầu tiên” của Đức Giêsu. Tin Mừng Thánh Gioan luôn lặp lại tư tưởng này: Thế gian “lên án” Đức Giêsu. Người ta phủ nhận và tố cáo Người. Cuộc kết án này chỉ nhằm đến một vấn nạn: “Nhưng ông ta là ai?” Khi đó các chứng nhân mới xuất hiện và làm chứng cho kẻ bị tố cáo. Từ “chứng tá” được sử dụng 14 lần, và động từ “làm chứng” được dùng tới 33 lần. Người chứng đầu tiên đã xuất hiện, đó là Gioan Tẩy giả: “ông đến để làm chứng về ánh sáng”. Liệu tôi có dám quyết định theo Đức Giêsu, khi người ta tố cáo Người không?

Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi người Do Thái đến hỏi ông: “Ông là ai? Tại sao ông làm phép rửa?”

Những câu hỏi trên cũng mời gọi ta tự vấn về vai trò chứng nhân của mình. Mọi Kitô hữu đều phải trở nên nhân chứng cho Đức Kitô. Do đó ta hãy nhìn coi, chính cách sống của Gioan đã đặt vấn đề cho những người đồng thời với ông. Người ta thắc mắc về lai lịch của ông. Chúng ta có trở thành vấn đề cho những người nhìn ngắm chúng ta sống không? Trong cung cách đối xử của ta có điều gì kích thích người khác phải suy nghĩ không? Lạy Chúa, xin giúp chúng con sống cách nào để những người sống chung quanh chúng con, các bạn đồng sự, những người quen biết đều tự hối về “bí quyết” chúng con đang sống. Vậy ông là ai?

Tôi không phải là Đấng Kitô… cũng không phải là vị Ngôn sứ… tôi là một “Tiếng kêu”.

Vậy là sau lời hạch hỏi về lai lịch của Gioan, người chứng, lại đến lý lịch của Đức Giêsu mà người ta muốn tìm biết. Vấn nạn thực sự đang gây nóng bỏng trên môi miệng những kẻ thăm dò, đó là: “ông có nhận mình là Đức Kitô không?”. Rồi một câu hỏi khác lại được gợi lên: “Thôi được, vậy ông ấy là ai? ông có biết ông ta không?”

Câu trả lời của Gioan đáp ứng cả hai: ông khiêm tốn chậm rãi nói, ông không phải là Đấng Kitô… Rồi ông nói thêm, ông chỉ muốn là một “tiếng kêu, tiếng kêu về một người khác! Hôm Nay, Giáo Hội và mỗi Kitô hữu, cần phải lập lại chứng tá can trường của Gioan: “Hỡi Giáo Hội, Giáo Hội có thể nói gì về chính mình? Giáo Hội coi mình là ai? Hỡi Kitô hữu, bạn có thể nói gì về chính mình? Bạn coi mình là ai?”. Không, tôi không phải là Đức Kitô. Tôi chỉ là tiếng vang vọng của Đức Kitô. Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi những tự phụ coi mình như chiếm hữu chân lý, như những “kẻ độc quyền thừa hưởng” Đức Giêsu Kitô.

Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.

Đấng Kitô không hiện diện ở một nơi duy nhất? Tôi tin rằng Đấng Kitô mà các ông đang kiếm tìm đó, đã ở giữa các ông, ở giữa những hy vọng, những cuộc giao chiến, những tình yêu nhân loại của các ông! Tính ưu việt duy nhất của Giáo Hội, của người Kitô hữu, là “nhận biết” và gọi tên ” Đấng mà con người đang mong đợi và dò dẫm tìm kiếm, Đấng đang hiện diện trong cuộc đời họ, chẳng hạn, vào ngày 10-12-1948, khi Liên Hiệp Quốc công bố bản Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, thì chúng ta nhận ngay ra rằng, đó là một sự hiện diện “của Đấng đang” ở giữa cho dù Người chưa được người ta nhận biết. “Ta đói các ngươi đã nhận ra quyền sống của ta… Ta ở tù, bị ngược đãi bị tra tấn, các ngươi đã nhận ra quyền được bảo vệ nhân phẩm cuả ta….Nỗi khát vọng lớn lao của nhân loại là được sống công bình hơn, thì đó là sự hiện diện của Đấng hoàn toàn công chính. Biết bao người thuộc mọi tôn giáo các vị lãnh đạo các quốc gia thuộc mọi ý thức hệ, đã có thể công bố một văn kiện như thế, thì đó không phải là một dấu chỉ thời đại sao? ở giữa các ông vẫn có một vị nào đó… cho dù các ông chưa gọi được tên Người. Dù là Kitô hữu nhưng có thể chúng ta đã miễn cương phải chấp nhận phong trào đề cao nhân quyền trên đây, bởi vì ta cũng thuộc vào số người thường nhạo báng những quyền đó, mỗi lần ta khinh miệt một người anh em. Nhưng làm sao ta lại không vui mừng trước yêu cầu phải tôn trọng mọi người đang lớn dần trong nhân loại. Hôm Nay, khi ta biết rằng, Thiên Chúa đã làm người, và trong Đức Kitô mà ban tính con người đã được nâng lên tới một phẩm giá siêu việt và điều đó không phải chỉ có giá trị cho các kẻ tin Đức Kitô, nhưng đúng ra cho mọi người thiện chí, được ơn Thánh hoạt động cách vô hình trong tâm hồn…”, như Công đồng Vatican II đã quả quyết rõ ràng (G.S 22).

Vị mà các ông không biết… Người sẽ đến…

Suốt cuộc đời Đức Giêsu đã không được người đời nhận biết. Thiên Chúa không đến trong tiếng kèn thổi, trong sấm sét bão giông. Thiên Chúa không phải là “kẻ chà đạp” hay “thống trị”. Người như “tiếng gió thì thầm mà ta không biết đâu đến và sẽ thổi tới đâu”. (Ga 3,8). Thiên Chúa là “Đấng tự để cho người ta chà đạp, đóng đinh, buộc tội”. Như thế có ngược đời không? Không đâu! Đó là sự thật về Thiên Chúa, Đấng chỉ có thể là “Thiên Chúa dấu ẩn”, ta không thể nắm bắt được “Bản thể ” của Người. Và về căn tính của Đức Giêsu “(Vậy ông là ai’), tất cả mọi dò tìm của lý trí cũng đều bất lực. Người thực sư là “Thiên Chúa không thể biết được”, là “Thiên Chúa dấu ẩn”!

Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra Chúa, ngay tại nơi Chúa ẩn dấu, con đang kiếm tìm Chúa trong sức khỏe, trong thành công, trong tình thân hữu, trong hạnh phúc được sống (và Chúa vẫn ở đó!). Thế mà con chỉ thấy bệnh tật, thất bại trong cuộc sống vợ chồng, bà con hay nghề nghiệp, và nghèo đói. Lạy Chúa, xin giúp con đừng bỏ qua mà không nhận ra sự hiện diện đáng bị che dấu của Chúa.

Này bạn, nếu bạn khám phá ra Tôi đang dấu ẩn, nhưng luôn hiện diện, thì bạn đã tìm được một nguồn vui sướng mà không ai, không gì có thể làm say mê bạn hơn được, niềm vui Magnificat của những người nghèo, niềm vui của Gioan Tẩy Giả khi ông thấy mình nhỏ bé đi, còn niềm vui của Người “bây giờ đã trọn vẹn” (Ga 3,29-30).

Tôi không đáng cởi quai dép cho Người…

Gioan Tẩy Giả là con người “khiêm tốn xóa bỏ đời mình trước Đấng ông loan báo” Gioan Tẩy Giả, đó là chứng nhân đúng nghĩa nhất. Ông chỉ hiện diện nhằm quy chiếu về một Đấng khác. ông từ chối tước hiệu Kitô (Ga 1,20). ông mong ước được ‘biến đi” để Người “lớn lên” (Ga 3,30). Ông không phải là ánh Sáng, nhưng chỉ là một cây đèn nhỏ đốt sáng trong đêm tối (Ga 5,35). Ông là người “tôi tớ” không xứng đáng cởi quai dép cho chủ (Ga 1,27). Ông chỉ là bạn hữu của chàng rể, đứng xa xa, bị xóa mờ (Ga 3,29). Ông đã hết sức hoàn tất “tác vụ ” của mình, bằng cách tự đình chỉ công việc của mình để làm ‘lợi ích cho Đức Giêsu, bằng cách hy sinh mọi môn đệ của mình để gđi họ đến theo một Đấng khác” (Ga 1,35-39). Cuối cùng ông đã chết trước khi thấy vinh quang của Đấng Phục sinh, trong cảnh hoàn toàn mù tối của nghi ngờ: “Thầy có phải là Đấng Thiên Chúa sai đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác ” (Mt. 11,2). Như thế Gioan Tẩy Giả không những là một chứng nhân” tuyệt hảo, mà cũng là “mẫu tín hữu” tiêu biểu: “Kẻ không thấy nhưng vẫn tin “ (Ga 20,29).

Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin cầu cho chúng con.

Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin ban cho chúng con có khả năng tự xóa mờ và sống khiêm tốn như Ngài.

Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin ban cho chúng con “tình yêu điên cuồng” đó, biết hy sinh cho kẻ khác để niềm vui chúng con được trọn vẹn…

Tôi đây làm phép rửa bằng nước.

Đó là những chuyên viên “thanh tẩy”, các tư tế và trợ tế chính thức, được giấy tờ công nhặn hẳn hoi (Ga 1,19), đến kiểm chứng tư cách chính. thức của kẻ ngoại cuộc này, mà hoạt động “tha tội” (Mc l,4) của ông ta đáng bị tôn giáo tinh tuyền, tôn giáo của Giêrusalem ngần ngại và cấm đoán (Ga 1, 1 9 ). Bởi vì những kẻ đến hạch hỏi Gioan, chính là nhóm người pharisêu, những kẻ “sạch”, những “Peruoushim”, biết trọn vẹn lề luật, các quy định, những điều được phép hay cấm đoán… (Ga 1,24). Nhưng than ôi, những người Pharisêu trung hậu này, khi chăm chú đến những nghi thức đúng thực, lạy bỏ qua Đấng duy nhất có quyền tha tội. Phần lớn số người trong nhóm họ sẽ từ chối Ngài. Bởi vì chính Gioan Tẩy giả biết rõ Đấng đó: Không phải ông, người thừa tác và tôi tớ hèn mọn tha tội… vì ông chỉ làm phép rửa bằng nước… nhưng sau ông, sau cử chỉ làm phép rửa có tính nghi thức của ông, thì “chiên xóa bỏ tội trần gian” sẽ đến (Ga l,29).

Lạy Chúa, càng tới gần lễ Noen, xin giúp chúng con mau mau tới gần Chúa, vì chỉ mình Chúa mới xóa bỏ được tội lỗi.

Các việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan.

Họ đã từ Giêrusalem đến… từ thành thánh, trung tâm thế giới để phổ biến và giám sát lời Chúa. Thế mà, Thiên Chúa lại tỏ mình ra trên một miền đất lạ,, bên kia sông Giođan. Vị thánh sử rất tin vào tầm quan trọng của khung cảnh địa lý này, khiến ông nhấn mạch tới hai lần (Ga 1,28 và 10 40). Lạy Chúa, xin gúp chúng con trở nên nhưng “thừa sai”, không đóng khung mình trong ranh giới hạn hẹp của chúng con. Xin mở rộng lòng chúng con nhận ra sự hiện diện kỳ diệu của Chúa… trên bờ sông bên kia.

[Mục Lục]

Bài 4. Anh em hãy vui lên
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Bước vào Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, Lời Chúa mời gọi chúng ta : “Hãy tỉnh thức” (Mt 24, 44). Sang Chúa nhật thứ II, tiếng hô lớn của Gioan Tẩy Giả vọng vang : “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” (Is 40, 3). Chúa nhật thứ III hôm nay, Phụng vụ Giáo hội đang màu tím chuyển sang hồng như Chúa nhật IV Mùa Chay, nhằm đánh dấu một giai đoạn sám hối, nay nghỉ một chút để nhìn lại chặng đường đã qua với niềm vui vì những gì đã đạt được, và lấy thêm đà mới chuẩn bị mừng (Chúa Giáng Sinh), nên Giáo hội mời gọi con cái mình “Gaudete – Hãy vui lên”.

Vui lên “Gaudete” là chủ đề của Chúa nhật này. Vui lên như Isaia:“Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi” (Is 61, 10). Lời nguyện nhập lễ hôm nay đưa chúng ta vào chính niềm vui thiêng thánh ấy: “Lạy Chúa, xin đoái xem, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề” (Lời nguyện nhập lễ Cn III Mùa Vọng).

Với những lời trên làm tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên, dẫn chúng ta bước vào mầu nhiệm của niềm vui ơn cứu độ. Làm sao không thể không vui khi nghe những lời loan báo đầy niềm vui của Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa” (Is 61, 1-2). Và làm sao không thể không mừng “vì Người đã mặc cho tôi áo phần rỗi, và choàng áo công chính cho tôi, như tân lang đầu đội triều thiên, như tân nương trang sức bằng ngọc bảo. Như đất đâm chồi, như vườn nảy lộc, Chúa cũng làm phát sinh công chính và lời ca tụng trước mặt muôn dân” (Is 61, 10-11).

Đọc Trang Tin Mừng (Ga 1, 6-8. 19-28), chúng ta bắt gặp một nhân vật có vai trò đặc biệt trong việc chuẩn bị mừng Chúa Giêsu giáng sinh đến với nhân loại là Gioan Tẩy Giả. Ngài xuất hiện trong tư cách là vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, là hy vọng cuối cùng của một dân tuyệt vọng. Chúng ta đang vui sẵn, sự xuất hiện của ngài làm cho chúng ta vui thêm, vì lời hứa được thành hiện thực.

Gioan rút lui vào hoang địa để sống một cuộc sống rất khổ hạnh, và qua cuộc sống của mình, ông mời gọi dân chúng hoán cải; ông làm phép rửa trong nước, một nghi thức thống hối đặc biệt, khác với nhiều nghi thức thanh tẩy bên ngoài của các giáo phái thời đó, khiến những người Do thái từ Giêrusalem phải sai các vị tư tế và các thầy Lêvi đến hỏi xem : “Ông là ai?” Chúng ta phải cám ơn họ, vì nhờ họ mà chúng ta biết được Gioan là ai?

Câu trả lời của thánh nhân thật là khiêm tốn lạ thường, ông không phải là Ðức Messia, không phải là ánh sáng. Không phải là Elia trở lại trái đất, cũng không phải là một vị đại ngôn sứ đang được chờ đợi. Ông là vị tiền hô, một chứng nhân, hoàn toàn tùng phục Ðấng mà ông rao giảng, ông là một tiếng kêu trong hoang địa.

Thế giới cần tiếng kêu của chúng ta : Chúng ta đang sống trong một thế giới, thu hẹp hơn là một đất nước với chủ nghĩa vô thần, phủ nhận Thiên Chúa, sống như thể không có Thiên Chúa, và chúng ta cũng cảm thấy vắng bóng Thiên Chúa. Người kitô hữu có bổn phận phải cất lên những tiếng kêu vang vọng khắp bốn phương trời rằng : “Có Thiên Chúa hiện hữu, Chúa luôn ở gần kề, cả khi Thiên Chúa có vẻ vắng bóng“.

Gioan là một tiếng kêu trong hoang địa, là một chứng nhân của ánh sáng. Ðó chính là sứ mạng của Mùa Vọng: tức là trở thành những chứng nhân của Ánh Sáng và chúng ta chỉ có thể là chứng nhân như vậy nếu chúng ta mang ánh sáng trong mình, nếu chúng ta không những xác tín là có ánh sáng, nhưng cả chúng ta cũng thấy một chút ánh sáng. Và trong Giáo Hội, trong Lời Chúa, chúng ta cử hành các bí tích, trong bí tích giải tội, với sự tha thứ mà chúng ta nhận lãnh, trong việc cử hành Thánh Lễ qua đó Chúa hiến mình trong tay và trong tâm hồn chúng ta, chúng ta chạm đến ánh sáng và nhận lãnh sứ mạng này là trở thành những chứng nhân, chứng tỏ có ánh sáng và mang ánh sáng vào trong thời đại chúng ta”.

Trong mùa vọng này, chúng ta hãy củng cố xác tín Chúa đã đến giữa chúng ta và chúng ta hãy tín thác nơi Chúa; như thánh Augustinô cũng đã quả quyết, do kinh nghiệm của ngài: “Chúa gần chúng ta hơn chúng ta gần chính mình” (Le Confessioni, III, 6,11).

Chúng ta hãy phó thác hành trình của chúng ta cho Ðức Maria, thần trí của Mẹ đã vui mừng trong Chúa là Ðấng Cứu Thế. Xin Mẹ hướng dẫn tâm hồn chúng ta trong sự vui mừng chờ đợi Chúa Giêsu đến, một sự chờ đợi đầy kinh nguyện và việc lành. Amen.

[Mục Lục]

Bài 5. Tiếng Vạc kêu sương
Trầm Thiên Thu

Loài Vạc (Nycticorax), có người gọi là Hạc, là động vật có cánh, một loài chim thuộc họ Diệc, kiếm ăn ban đêm và có tiếng kêu buồn thảm. Tiếng Vạc kêu sương (*) nghe buồn thảm vì là tiếng lòng của kẻ lẻ bạn, đơn độc, một mình bay đi kiếm ăn ban đêm nhưng lòng vẫn thương nhớ khôn nguôi về người bạn tình phương xa. Não nề lắm! Tiếng Vạc kêu trong đêm vắng, kêu trong làn sương lạnh lùng, sao lại không buồn?

Cố NS Trịnh Công Sơn đã ví mình “Như Cánh Vạc Bay” với niềm trăn trở: “Nơi em về ngày vui không em, nơi em về trời xanh không em? Ta nghe từng giọt lệ, rớt xuống thành hồ nước long lanh”. Mình buồn thì buồn nhưng vẫn mong cho người hưởng trọn niềm vui. Cao thượng lắm!

Tương tự, ngày xưa Thánh Gioan Tẩy Giả cũng đã ví mình là “Tiếng Kêu Trong Sa Mạc”. Cũng buồn. Cũng lạc loài. Nhưng nỗi buồn của Ngôn sứ này không ảo não như “tiếng kêu” của đời thường. Vâng, có lẽ vì vậy mà Chúa Nhật III Mùa Vọng có màu Tím nhưng mang sắc Hồng, bâng khuâng mong chờ nhưng vẫn hân hoan hy vọng – gọi là Chúa Nhật Vui (Gaudete Sundae), còn Mùa Chay có Chúa Nhật IV là Chúa Nhật Mừng (Laetare Sundae).

Thiết tưởng cũng nên biết rằng Vòng Nến Mùa Vọng (Adventkranz) bắt đầu xuất hiện cách nay khoảng 150 năm, do sáng kiến của mục sư Tin Lành Johann Heinrich Wichern ở Hamburg (Đức).

Bốn ngọn nến tượng trưng cho [1] Hòa Bình, [2] Niềm Tin, [3] Tình Yêu, và [4] Hy Vọng. Thế giới hiếm khi không có chiến tranh, giữa người với người cũng vẫn thiếu sự hòa thuận, dù là những người trong cùng một gia đình. Ngọn nến Hòa Bình cứ mờ dần, chỉ còn leo lét, rồi… tắt. Cũng vậy, thế giới ngày nay đang mất dần niềm tin, coi niềm tin tôn giáo là xa xỉ phẩm, thậm chí còn bị phỉ báng hoặc bị bách hại. Ngọn nến Niềm Tin cứ tắt dần, tỏa ra làn khói trắng luyến tiếc. Tương tự, người ta cũng không cần ngọn nến Tình Yêu nên không muốn thắp sáng ngọn nến này nữa. Những người thân ruột thịt với nhau mà còn thổi tắt ngọn nến này thì nó làm sao tỏa sáng? Ba ngọn nến kia tắt hết, chỉ còn ngọn nến Hy Vọng vẫn sáng, dù ánh sáng yếu ớt, le lói…!

Ít ra cũng còn ngọn nến Hy Vọng. Cuộc sống này luôn cần ngọn nến này, dù các ngọn nến Hòa Bình, Niềm Tin và Tình Yêu đã tắt. Tại sao? Ngọn nến cần thiết vì chính ngọn nến Hy Vọng (đức Cậy) sẽ đủ sức thắp sáng ba ngọn nến kia. Vâng đó cũng là triết lý sống của Mùa Vọng, mùa đợi trông Đấng Cứu Thế. Hãy cố gắng ghi nhớ và thực hành theo lời khuyên của Thánh LM Don Bosco: “Càng khốn khó thì càng phải tin cậy vào Thiên Chúa”.

Ai biết tin cậy vào Ngài là biết hạ mình, tự nhận mình bé nhỏ, chắc chắn Ngài sẽ xót thương và cứu vớt. Ngôn sứ Isaia nói: “Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta” (Is 61:1-2). Công lý rất cần được tôn trọng, vì có công lý thì mới có hòa bình đích thực. Và rồi thế cờ hoàn toàn đảo ngược.

Niềm vui nối tiếp nỗi mừng, tăng vọt bất ngờ khi có Thiên Chúa. Ngôn sứ Isaia cho biết:“Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao! Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh, như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang. Như đất đai làm đâm chồi nẩy lộc, như vườn tược cho nở hạt sinh mầm, Đức Chúa là Chúa Thượng cũng sẽ làm trổ hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân” (Is 61:10-11). Không trang phục nào quý giá bằng chiếc áo Hồng-Ân-Cứu-Độ và áo choàng Chính-Trực-Công-Minh.

Đức Maria là một thôn nữ đơn nghèo, là một nữ tỳ khiêm hạ, nhưng lại trở nên một con người vĩ đại nhất. sau khi Bà Chị Êlidabét chúc mừng Cô Em Maria được làm Mẹ Thiên Chúa, Thôn Nữ Maria đã không thể trì hoãn cái sự sung sướng hạnh phúc thánh đức đó, nên đã đã thốt lên bài Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1:46-50).

Thiên Chúa chí minh luôn bảo vệ công lý, và Ngài cũng luôn có cách hành động khác hẳn so với phàm nhân: “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1:53). Tuyệt vời quá, từ bi quá!

Cuộc đời chúng ta là Mùa Vọng kéo dài, không ai biết mình đang ở “tuần” thứ mấy của Mùa-Vọng-Cuộc-Đời, nhưng có lúc chúng ta cảm thấy vui mừng như tâm tình của Chúa Nhật hôm nay, vui mừng vì chúng ta sắp về đích. Thánh Phaolô khuyên: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu. Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ, còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa” (1 Tx 5:16-22).

Được vậy thì sẽ được Thiên Chúa chúc lành như ước mong của Thánh Phaolô: “Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó” (1 Tx 5:23-24). Ước gì chúng ta xứng đáng lãnh nhận ơn phúc như vậy!

Mùa Vọng là mùa mong đợi, bao hàm ý nghĩa “đến” của Chúa Giêsu – Adventus. Trước khi Chúa Giêsu đến, có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến làm chứng về ánh sáng để mọi người nhờ ông mà tin. Tin Mừng hôm nay nói tới “Lời Chứng” của ông Gioan (Ga 1:6-8,19-28; tương đương ở Mt 3:1-12; Mc 1:1-8; Lc 3:1-18).

Khi người Do-thái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi xem ông là ai. Ông tuyên bố thẳng thắn và nói ngay: “Tôi không phải là Đấng Kitô”. Nhưng họ không tin, và họ lại hỏi ông như thế là thế nào, có phải Gioan là Êlia không. Ngớ ngẩn hết sức. Gioan mà sao lại là Êlia? Ông Gioan một mức xác nhận là “không phải”. Họ lại hỏi ông có phải là vị ngôn sứ hay không. Ông dứt khoát là “không”. Họ cứ lải nhải hỏi mãi, dai nhách như đỉa đói, vì họ có nhiệm vụ đi dò la tin tức để về báo cáo với cấp trên. Động thái của những người có ác ý đó nhắc nhở chúng ta về động thái cố chấp, thấy nhãn tiền mà vẫn không muốn tin. Hãy coi chừng: Không tin thì nhẹ tội hơn không muốn tin!

Họ nài ép ông Gioan nói về chính mình, ông không hề ấp úng: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói”. Hôm đó, trong số họ có mấy người thuộc phái Pharisêu, những kẻ chuyên “thọc gậy bánh xe”. Họ đặt vấn đề với ông Gioan rằng nếu ông không phải là Đấng Kitô, không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ thì sao lại làm phép rửa. Ông Gioan lắc đầu vì chán cái đầu bã đậu của tụi này, rồi ông cười: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Một ngôn sứ lớn, “nhịp cầu” nối Cựu Ước và Tân Ước, nhưng lại khiêm nhường quá. Điều này gợi nhớ câu nói khác của Thánh “trưởng lão” Gioan: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3:30). Câu này chỉ có Tin Mừng theo Thánh Gioan ghi lại, còn các Phúc Âm nhất lãm không ghi. Câu này quen “thu gọn” cho dễ nhớ: “Người phải lớn lên, tôi phải nhỏ lại”.

Kinh Thánh cho biết địa điểm đã xảy ra vụ này ở tại Bêtania, bên kia sông Giođan, chính nơi ông Gioan đã làm phép rửa cho Chúa Giêsu. Thảo nào bè lũ Pharisêu và Sađốc quỷ quyệt thật, muốn “gài bẫy” người khác ngay nơi xảy ra sự việc. Chúng ta cũng có những lần đã từng ma mãnh như vậy vì muốn “hạ gục” người khác đấy. Tuy nhiên, mọi chứng cớ gian xảo đều không thể nào “bóp méo” sự thật!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết “thu nhỏ” trước người khác, chấp nhận là cánh vạc kêu sương vì Danh Đức Giêsu Kitô, vì sự thiện, vì công lý, vì sự thật, vì lợi ích của tha nhân. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

(*) Điển tích: Thôi Hộ là danh sĩ đời Trung Ðường, diện mạo khôi ngô, thích làm bạn với sách vở. Trên đường lên kinh ứng thí giữa tiết Thanh Minh, mọi người đang vui hội Ðạp Thanh (giẫm lên bãi cỏ xanh). Khi đi ngang qua vườn hoa đào tuyệt đẹp, chàng dừng lại ngắm và xin nước uống, một mỹ nhân duyên dáng ra mở cửa. Nàng mời trà, chàng đón nhận. Ðôi tay vô tình chạm nhau, nàng thẹn thùng cúi mặt, má ửng hồng, chàng cũng bồi hồi, ngượng nghịu. Gặp nhau không lâu nhưng cả hai thấy tâm đầu ý hợp, quyến luyến nhau. Thôi Hộ phải đi vì công danh sự nghiệp, Phụng Trinh đứng dưới gốc đào ngơ ngẩn nhìn theo…

Năm sau, vào ngày hội du xuân, chàng nho sinh nhớ người con gái đã khiến chàng dệt bao mộng đẹp. Chàng tìm đến vườn đào để thăm. Bước vội vã hân hoan của chàng khựng lại khi thấy cửa đóng then cài, cảnh cũ còn mà người xưa vắng bóng. Chàng buồn bã nhìn hoa đào nở tươi trong gió xuân mà bùi ngùi niềm cô quạnh. Chàng thờ thẫn đau lòng khi nghĩ nàng đã theo chồng. Quá thất vọng, chàng thảo bốn câu thơ trên cửa cổng, ghi lại tâm tư sầu nhớ ngậm ngùi của mình.

Chiều đến, nàng cùng cha trở về, chợt nhìn lên cổng thấy bốn câu thơ, nét chữ tinh xảo, ý thơ dồi dào, nàng xúc động khi biết rõ tình cảm nhớ mong của chàng ẩn chứa trong đó. Nàng buồn bã hối tiếc không về kịp để gặp lại chàng. Ngày qua ngày nàng tựa gốc đào tha thiết mong đợi và hy vọng nho sĩ phong nhã năm xưa trở lại. Thời gian cứ trôi, cánh chim bạt gió cất tiếng kêu thảm thiết não nùng vì lẻ bạn khiến lòng nàng tê tái. Cứ hết hè lại thu sang, đông qua rồi xuân về, nỗi nhớ nhung nung nấu khiến lệ trào khóe mắt, bóng chàng vẫn biền biệt. Nàng tuyệt vọng, bỏ ăn, bỏ ngủ, thân xác tiều tụy, dung nhan võ vàng.

Người cha lo tìm thầy giỏi chữa trị cho nàng. Làm gì có thuốc trị bệnh tương tư! Biết mình kiệt sức không sống được, nàng đành thuật lại tâm sự của mình cho cha nghe và xin cha tha tội bất hiếu. Người cha xúc động thương cho phận bạc của con gái. Nhìn con nằm lịm trên giường bệnh chờ đợi tử thần, ông nóng lòng đứng ngồi không yên. Ông nghĩ đến chàng thư sinh, chỉ có người ấy mới có thể cứu sống con gái. Vừa ra khỏi cổng, ông găp ngay một chàng thư sinh tuấn tú. Thấy ông già đi như chạy, chàng vội thăm hỏi. Ông kể lể sự tình…

Nhận ra nhau, hai người vội chạy vào nhà, nhưng cũng là lúc Phụng Trinh trút hơi thở cuối cùng. Chàng xúc động quỳ xuống, cầm tay nàng, úp mặt vào mặt nàng vừa khóc nức nở vừa kêu tên nàng thảm thiết. Tiếng kêu bi thương như lay hồn nàng thức tỉnh, và những giọt nước mắt nóng hổi của tình yêu nhỏ xuống mặt nàng khiến nàng hồi sinh. Nàng mở mắt nhìn chàng và nở một nụ cười sung sướng. Ðào Bạch Phụng bằng lòng cho Phụng Trinh và Thôi Hộ nên duyên cầm sắt.

[Mục Lục]

Bài 6. GIÁ TRỊ CỦA LỄ CHÚA GIÁNG SINH
Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT

Chúa nhật thứ III Mùa Vọng gợi lên cho chúng ta hai hình ảnh thật ấn tượng, hai tư tưởng thật quí hóa : một là tư tưởng vui mừng, hân hoan, phấn khởi vì thời cứu độ đầy khích lệ, đầy an ủi đã gần kề chúng ta; hai là hình ảnh kham khổ, khiêm tốn của Gioan Tẩy Giả, khiến nhiều người đồng thời thắc mắc, tự đặt vấn đề Gioan Tiền Hô là ai vậy ?

Cuộc đời của các Kitô hữu là cuộc hành trình tiến về Nước Trời, do đó, con người vẫn còn lo âu, vẫn còn thử thách, vẫn còn tội lỗi. Chúa không miễn trừ cho con người những điều khó khăn ấy, nhưng trong mọi hoàn cảnh, Chúa nói chúng ta hãy vui lên. Bởi vì Chúa đang ở giữa chúng ta để chia sẻ nỗi lo âu và hy vọng, làm cho những đau khổ, cũng như niềm vui của chúng ta có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Tuy nhiên, sự an bình chỉ có được nơi người mộn đệ có niềm tin, lòng khiêm tốn cậy dựa, tín thác vào Chúa. Gioan Tẩy Giả đã nêu gương cho chúng ta, cho mọi người về đức tin sống động, sự khiêm tốn tuyệt hảo, nên Ông đã trở nên Đấng Tiền Hô và trở nên cao trọng trong Nước Thiên Chúa. Chúa nhật III Mùa Vọng được gọi là Chúa Nhật hồng, khởi đầu bằng câu hát “ Mừng vui lên” , mời gọi chúng ta đón nhận niềm vui, tỉnh thức trong hớn hở vui tươi.

Thời gian là một thực tại mà tất cả mọi người sống trong lịch sử đều kinh nghiệm. Dòng đời luôn trôi qua, thời gian, bốn mùa thời tiết cứ tiếp tục xoay vần, luân chuyển.Tuy nhiên, thời gian lại là một cái gì đó con người khó lòng định nghĩa, khó lòng xác định. Con người chỉ biết được mình được sinh ra tại một nơi chốn, trong một đất nước, trong một thời giờ và thời gian nhất định. Chỉ có một mình Thiên Chúa là thoát ra ngoài những ràng buộc, những ấn định của thời gian, Ngài sống ngoài những giới hạn của thời gian, bởi vì Ngài sống trong cõi đời đời, không có quá khứ và tương lai. Ngài luôn ở trong cõi vĩnh cửu…Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, muôn loài muôn vật và con người. Chính trong khoảnh khắc của thời gian hay ngày giờ mà Thiên Chúa dựng nên thế giới này, thời gian đã trở thành một thực tại không ai có thể chối cãi được. Do đó, chúng ta nhận ra rằng với lời mời gọi của Abraham đi tới vùng Đất Hứa vào một ngày đặc biệt trong thời gian, lịch sử cứu độ của con người, của thế giới bắt đầu. Thiên Chúa đã ban cho Abraham qua lời hứa của Ngài mà Đấng Cứu Thế đã sinh ra bởi dòng tộc Vua Đavít trong một nơi chốn và trong một thời gian nhất định:” Gioan Tẩy Giả là Vị Tiền Hô của Đấng Cứu Độ và nhờ Gioan mà nhân loại nhận ra Ngài khi Ngài đến”.

Thánh Gioan trong chương 1,6-8 đã viết :” Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng “. Sự Sáng là Đấng Cứu Độ mà Gioan chính là người được diễm phúc làm chứng cho Chúa, Gioan đã là chứng nhân trung thành nhất, kiên trì và hoàn hảo nhất cho Đấng Cứu Thế.Gioan Tiền Hô làm chứng cho Đấng Cứu Thế bằng lời nói, bằng gương sáng và bằng hành động của Người. Gioan đã sống đời sống hết sức khổ hạnh, Người đã rao giảng sự sám hối, ăn năn, và qua việc làm chứng của Người :” Tôi là tiếng kêu trong hoang địa : Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi “ ( Ga 1, 23 ). Gioan Tẩy Giả chỉ là Đấng Tiền Hô và báo trước ngày, thời gian Chúa xuất hiện, sau đó Người rút lui vào bóng tối:” Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại “. Gioan chính là người nô bộc của Đấng Cứu Thế và Đức Kitô là chủ, là Chúa và là Thầy.

Như thánh Gioan Tiền Hô, mỗi Kitô hữu cũng phải là chứng nhân cho Đức Kitô trong cuộc sống của mình. Bởi vì, Chúa Cứu Thế đã tới trần gian như thánh Gioan viết:” Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người “ ( Ga 1, 9 ). Con Thiên Chúa đã thực sự làm người và ở giữa thế gian:” Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người “( Ga 1, 10 ). Chính vì thế gian không nhận biết Người mà nhân loại và mỗi Kitô hữu chúng ta phải làm chứng cho sự hiện của Người. Chúng ta phải như Gioan Tiền Hô minh chứng chính Đấng Cứu Thế là Con Thiên Chúa và Đức Kitô đang sống với, sống vì, sống cho chúng ta, sống cho nhân loại. Và cũng như các Tông Đồ xưa, chúng ta phải làm chứng :” Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật “( Ga 1, 14 ). Các Tông Đồ đã nhìn thấy vinh quang của Đức Kitô ở một vài thời điểm trong cuộc đời trần thế của Người ( Ga 2, 11 và Lc 9, 32 ). Chính các Tông Đồ đã nhìn thấy vinh quang trong cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Đức Kitô. Các Ngài đã làm chứng cho Đức Kitô Nagiarét chết và phục sinh, cũng như Gioan Tẩy Giả đã làm chứng cho chúa Giêsu khi Ngài đến và xuất hiện giữa trần gian, chún

Xin được mượn lời của Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI để kết thúc bài chia sẻ này:” …Ai đã gặp gỡ Đức Kitô trong đời mình rồi thì cảm thấy trong lòng

Một niềm thanh thản và hân hoan mà không ai, cũng không tình huống nào có thể xóa đi được.Thánh Augustinô đã hiểu rõ điều ấy trong cuộc đi tìm chân lý, bình an, niềm vui : sau khi đã tìm kiếm trong đủ mọi thứ một cách vô vọng, Ngài kết luận bằng câu nổi tiếng rằng trái tim con người vẫn khắc khoải, không tìm đâu ra sự thanh thản và bình an bao lâu nó chưa được nghỉ ngơi trong Thiên Chúa. Niềm vui đích thực là một ân huệ, phát sinh từ cuộc gặp gỡ với người sống động là Đức Giêsu, từ chỗ đứng chúng ta dành cho Người nơi mình, từ thái độ chúng ta đón tiếp Thánh Thần là Đấng hướng dẫn đời mình “.

Lạy Chúa Giêsu, xin mau đến ! Maranatha, Lạy Chúa xin hãy đến ! Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con nhận ra Chúa đang hiện diện giữa Hội Thánh, nơi mỗi người chúng con tiếp xúc hằng ngày. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA CHIA SẺ :

  1. Chúa nhật III Mùa Vọng nói lên điều gì ?
  2. Gioan Tẩy Giả là ai ?
  3. Ai đã giới thiệu Chúa Giêsu cho nhiều người bên dòng sông Giorđăng ?
  4. Chúa Nhật III Mùa Vọng gọi là Chúa nhật gì ? Tại sao ?
  5. [Mục Lục]

Bài 7. CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG
Lam Thy ĐVD.

Bài Tin Mừng hôm nay (CN III/MV-B – Ga 1, 6-8.19-28) trình thuật: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.” (Ga 1, 6-8). Mới thoạt nghe Tin Mừng, tự nhiên nảy sinh thắc mắc: Bình thường khi một người làm chứng thì chỉ có thể làm chứng về một sự việc có thật xảy ra (trong đó người hay vật chứng phải là người thật, vật thật). Ánh sáng không phải là một vật thể, lại càng không phải là một người thật, mà chỉ là sự phát sáng từ một vật thể khác, vậy thì làm sao để có thể “làm chứng về ánh sáng”? Vấn đề cần phải được hiểu như thế nào?

Lời Chúa được các thánh sử trình thuật đều nằm trong giới hạn của “nghĩa chiểu tự và nghĩa thiêng liêng” (nghĩa đen và nghĩa bóng), mà Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini” (số 27) đã giải thích: “Về phương diện này, người ta có thể nhắc tới 2 câu thơ trung cổ diễn tả mối tương quan giữa các nghĩa khác nhau của Sách Thánh: “Littera gesta docet, quid credas allegoria, Moralis quid agas, quo tendas anagogia” (Chữ đen nói tới việc làm; ẩn dụ nói về đức tin; Luân lý nói tới hành động; loại suy nói về số phận ta)”. Như vậy là thánh sử Gio-an đã dùng từ “ánh sáng” theo nghĩa “ẩn dụ” – nghĩa thiêng liêng – để chỉ về Đức Giê-su Ngôi Lời nhập thể. Ngay từ Lời mở đầu trong sách Tin Mừng, thánh nhân đã viết: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.” (Ga 1, 1-5). Ấy là chưa kể chính Đức Giê-su cũng phán dạy: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối. Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian.” (Ga 12, 46-47).

Rõ ràng thánh sử Gio-an đã giới thiệu thánh Gio-an Tẩy Giả là người “làm chứng về ánh sáng” với ngụ ý là một “chứng nhân của chân lý Cứu Độ”. Mà chân lý Cứu Độ là “điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống.” (1Ga 1, 1). Lời Sự Sống ấy chính là Đức Giê-su Ki-tô mà ở phần kết luận sách Tin Mừng, thánh sử đã xác quyết: “Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực. Còn có nhiều điều khác Đức Giê-su đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.” (Ga 21, 24-25). Cuối cùng, khi viết “Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực” thì thánh sử Gio-an lại là một nhân chứng của “người làm chứng về ánh sáng” .

Không những thế, Người được làm chứng (là Đức Giê-su Ki-tô) cũng làm chứng về nhân chứng độc đáo ấy: “tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến. Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả.” (Mt 11, 9-11); “Phần tôi, tôi không cần lời chứng của một phàm nhân, nhưng tôi nói ra những điều này để các ông được cứu độ. Ông Gio-an là ngọn đèn cháy sáng, và các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng của ông trong một thời gian.” (Ga 5, 34-35). Quả thực, không còn một lời chứng nào sáng tỏ và thuyết phục hơn về CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG: GIO-AN BAO-TI-XI-TA.

Người làm chứng phải là người có kinh nghiệm thật sự về điều mình làm chứng: hoặc thấy tận mắt sự việc, hoặc cảm nghiệm được sự việc cách thấu đáo. Người làm chứng (chủ thể) chỉ có thể làm chứng về một người khác (khách thể), chớ không ai lại làm chứng về bản thân mình. Chính Đức Giê-su đã giải thích rõ ràng: “Nếu tôi làm chứng về chính mình, thì lời chứng của tôi không thật. Có Đấng khác làm chứng về tôi, và tôi biết: lời người làm chứng về tôi là lời chứng thật. Chính các ông đã cử người đến gặp ông Gio-an, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật.” (Ga 5, 31-33). Tuy được chính Đấng Ki-tô làm chứng về mình, nhưng khi bị một số Tư-tế và thầy Lê-si vặn hỏi, thánh Gio-an Tẩy Giả vẫn một mực khẳng định ngài “không phải là Đấng Ki-tô, không phải là Ê-li-a, không phải là ngôn sứ”, mà chỉ khỉêm nhường tự nhận “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói.” (Ga 1, 19-23).

Đức tính tuyệt đối khiêm nhường cộng với những hành vi công minh chính trực đã khiến thánh Gio-an Tiền Hô từ một người “làm chứng về ánh sáng” lại trở nên “ngọn đèn cháy sáng” (Ga 5, 35) đã toả ra các làn ánh sáng sau đây:

* Ánh sáng của sự tự nguyện sống khổ hạnh, hãm mình ép xác. Thánh Kinh đã ghi nhận: “Cậu bé Gio-an càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân It-ra-en.” (Lc 1, 80). Hoang địa là sa mạc hoang vu, cô tịch, đầy thú dữ, thời tiết lại khắc nghiệt (ngày thì nắng cháy da, đêm thì lạnh cóng ruột). Ngay từ nhỏ, Thánh nhân đã chấp nhận sống trong hoang địa với cách ăn mặc đơn sơ, đạm bạc (“Ông mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng” – Mc 1, 4-6), chứng tỏ ngài đã chấp nhận sống khổ hạnh để theo đuổi lý tưởng “làm chứng cho chân lý”. Vì thế, tự nơi ngài đã tỏa sáng tinh thần “làm tôi Thiên Chúa hơn là làm tôi của cải vật chất”.

* Ánh sáng của sự công minh chính trực, sẵn sàng hy sinh “cái tôi” cho chân lý: Đức tính cương trực của thánh Gio-an Tẩy Giả đã bộc lộ ngay khi ngài bắt đầu rao giảng Tin Mừng, làm Phép Rửa cho dân chúng tại sông Gio-đan: “Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? (Mt 3, 7). Phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc là những phe phái quyền lực trong Do-thái giáo thời đó, vậy mà Thánh nhân cũng không chút e ngại khi nói họ là “nòi rắn độc”. Đến như vua Do-thái là Hê-rô-đê đã lấy bà Hê-rô-đi-a, vợ của người anh là Phi-líp-phê, thánh nhân cũng nói thẳng: “Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài!” (Mt 14, 3-12), và vì thế mới bị Hê-rô-đê trảm quyết.

* Nhưng bao trùm lên tất cả là: Ánh sáng của sự khiêm nhu tự hạ, quên mình trong phục vụ chân lý: Thánh Gio-an Tẩy Giả đã không dám nhận mình là Đấng Ki-tô, là ngôn sứ, mà khẳng định: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói.” (Ga 1, 23). Không những thế, ngài còn nói về Đấng mà ngài làm chứng: “Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi dây dép cho Người (Ga 1, 27); “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi.” (Ga 3, 30). Chính đức tính khiêm nhường, quên mình đi để thi hảnh sứ vụ “rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” đã khiến cho “Mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan.” (Mc 1, 4-5).

Tất cả những ưu điểm nổi bật nêu trên phải chăng là ân sủng của Thiên Chúa đã ban cho thánh Gio-an Tẩy Giả? Đúng là như vậy, bởi vì ngay từ khi được hình thành trong cung lòng bà Ê-li-da-bet, thiên sứ đã truyền cho ông Da-ca-ri-a đặt tên cho thánh nhân là Gio-an (Gioan hay Giokhanan tiếng Do-thái có nghĩa là “Thiên Chúa thương xót”). Quả thực thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta đã được Thiên Chúa đoái thương, tiền định từ trước, nên ngài là một chứng nhân tuyệt hảo. Thánh nhân đã tự hạ mình xuống để Chúa được nổi bật lên; đã ẩn mình trong bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng; đã tự huỷ mình đi để Chúa được nhận biết. Ngài đúng là người đi dọn đường, sửa lối tâm linh con người để mừng đón Ánh Sáng Chúa Ki-tô. Ngài thực là chứng nhân của ánh sáng.

Chúa nhật III/MV Giáo Hội cho phép các chủ tế trong Thánh lễ được dùng lễ phục màu hồng và kêu gọi tín hữu “hãy vui lên” vì ngày Chúa quang lâm đã cận kề. Ấy cũng bởi vì chính “người làm chứng về ánh sáng” đã khẳng định: “Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi.” (Ga 3, 30). Người Ki-tô hữu ngày hôm nay hãy vui mừng, vì không chỉ có “người làm chứng về ánh sáng” là “ngọn đèn cháy sáng”, mà chính mình cũng được Ngôi Lời phán dạy “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5, 14). Hãy học theo thánh Gio-an Tiền Hô chiếu tỏa ánh sáng “khổ hạnh, trung thực, quên mình và nhất là khiêm nhường chịu lụy” của bản thân ra môi trường xung quanh (từ gia đình lan tỏa ra cộng đoàn xã hội), ngõ hầu dọn đường đón Chúa quang lâm. Ước được như vậy.

Ôi! “Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Ðấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới, mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN III/MV).

[Mục Lục]

Bài 8. Dấu chỉ Đấng Messia
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Nhân loại qua mọi thời đại luôn ngưỡng mộ những con người sống phục vụ, sống dấn thân vì lợi ích đồng loại, nhưng đáng tiếc lại rất ít người dám cúi mình phục vụ tha nhân. Bản tính con người thường ham sướng sợ khổ. Con người luôn thích lánh nặng tìm nhẹ. Người ta sợ hy sinh. Người ta tìm hưởng thụ và sự an nhàn cho bản thân nên có mấy ai dám hiến dâng cuộc đời cho hạnh phúc tha nhân.

Dầu vậy, thế giới ngày hôm qua cũng như ngày hôm nay vẫn còn đó những con chim én đang tìm đàn để tạo nên muà xuân tô thắm cho nhân loại. Đâu đó vẫn còn đó những người đơn độc một mình nhặt những cái đinh đang rải rác trên đường do bọn đinh tặc mất tính người rải ra. Đâu đó vẫn còn đó những người đang âm thầm đi đến phục vụ những bệnh nhân đang nằm thoi thóp trên giường bệnh mà thiếu người thân chăm sóc. Đâu đó vẫn còn đó những con người tình nguyện đem ánh sáng văn hoá cho các trẻ em nông thôn vùng miền núi xa xôi. Và đâu đó vẫn còn đó những con người đang cúi mình tắm rửa cho các bệnh nhân Sida hay các bệnh nhân tại các trại phong…

Tất cả những con người đó đang làm cho thế giới này đẹp hơn về tình người, ấm áp hơn tình đồng loại. Người ta kể rằng: có một cha già cố cả đời sống thanh bần để lo cho giáo dân. Ngài chẳng giữ lại cho mình cái gì. Ngài luôn cho đi tất cả. Ngài luôn chia sẻ cho người nghèo trong xứ cái ăn, cái mặc mà quên đi cả bản thân. Cho tới ngày ngài nhắm mắt xuôi tay, người ta muốn tìm một bộ đồ đẹp để thay cho ngài nhưng không tìm thấy. Lúc đó, người giúp việc bên ngài mới kể lại: Cha già đã cho đi tất cả, chỉ còn một bộ mặc trên mình và một số đồ cũ kỹ mà thôi. Đây chính là một mẫu gương sống đơn sơ và nghèo khó. Đây là một dấu chỉ của cuộc sống người môn đệ của Chúa. Một cuộc sống yêu thương, hiến dâng. Một cuộc sống không cần lo cho bản thân. Vì “cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có nơi gối đầu”.

Đức Giêsu khi tỏ dấu hiệu cho muôn dân nhận thấy Ngài là Đấng Messia, Ngài đã tỏ mình ra trong thân phận một người tôi tớ phục vụ. Ngài đến trần gian trong thân phận một hài nhi yếu đuối. Ngài đã sống một cuộc đời nghèo nàn trong thân phận bác thợ mộc làng quê Nagiaret. Dấu chỉ duy nhất mà Ngài đã tỏ bày về thân phận Đấng Messia chính là: “Cho kẻ mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi lành lặn, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”.

Cuộc đời chúng ta là một mùa vọng. Ngày nào Chúa cũng có thể đến với chúng ta. Lúc nào Chúa cũng có thể ngỏ lời cùng chúng ta. Vì vậy, hãy tỉnh thức. Vì Chúa sẽ không đến trong một biến cố kinh thiên động địa. Chúa không có những pha biểu diễn ngoạn mục. Chúa không đến trong những thành công rực rỡ. Chúa không đến trong uy tín hay quyền lực. Chúa sẽ chỉ đến rất âm thầm, bé nhỏ nhưng đầm ấm tình người. Chúa sẽ đến trong một bàn tay kín đáo nâng đỡ. Chúa sẽ đến trong một ánh mắt cảm thông. Chúa sẽ đến trong một nụ cười khích lệ. Chúa sẽ đến trong một cái bắt tay thân ái. Hãy tạ ơn Chúa qua những con người đang sống với chúng ta, đang hy sinh vì chúng ta. Hãy tạ ơn Chúa vì chúng ta luôn được sống trong tình nghĩa thằm thiết của những người thân bên cạnh chúng ta. Họ chính là hiện thân của Chúa để yêu thương và phục vụ chúng ta.

Bên cạnh đó, Chúa cũng mời gọi chúng ta cũng trở nên dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa. Đó chính là lòng bác ái, là tình yêu thương. Đây là hiệu kỳ của người ky-tô hữu, là căn tính của người môn đệ Chúa Kitô, vì “người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy. Đó là các con hãy thương yêu nhau”. Đặc biệt trong mùa này, mùa tình yêu, mùa của chia sẻ và trao ban. Vâng, lễ giáng sinh chính là lễ của tình yêu. Thiên Chúa mang lấy thân phận một hài nhi yếu đuối đang cần chúng ta chăm sóc. Ngài đang cần chúng ta tái diễn tình yêu của Ngài cho những người đau khổ, nghèo đói, tật nguyền. Ngài đang cần đôi tay của chúng ta để Ngài băng bó vết thương cho trần thế. Ngài đang cần đôi chân chúng ta để Ngài lại có thể ra đi đến với những ai đang thất vọng sầu khổ. Và Ngài cũng cần trái tim của chúng ta để Ngài lại có thể cảm thông, chia sẻ với những ai bất hạnh đang mang nặng gánh đau thương. Đây cũng là phương thế để chúng ta dọn đường cho Chúa đến với nhân thế hôm nay.

Xin Chúa chúc lành cho những dự định, ước mơ và công việc của chúng ta ngõ hầu người ta sẽ nhận biết chúng ta là môn đệ Thầy Chí Thánh Giêsu. Amen.

[Mục Lục]

Bài 9. Trút bỏ hư danh để được rót đầy ân sủng
Lm. Trần Ngà

Vào thời Minh Trị thiên hoàng tại Nhật Bản (1860-1912), Nan-in, một thiền sư Nhật, tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về thiền.

Nan-in mời trà. Ông châm trà đầy tách của khách nhưng vẫn tiếp tục rót thêm như một người đãng trí.

Vị giáo sư ngồi nhìn nước trong tách tràn ra cả mặt bàn nên không kìm mình được nữa, liền thưa: “Thưa Thầy, đầy tràn cả rồi. Xin đừng rót nữa”.

Thiền sư Nan-in thản nhiên đáp: “Giống như tách trà nầy, đầu óc ông cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tưởng. Làm sao tôi có thể giải bày thiền cho ông được, trừ khi ông cạn cái tách của ông trước.” (Trích: Góp nhặt cát đá của thiền sư Muju, Đỗ Đình Đồng dịch, Lá Bối xuất bản).

Một chiếc ly đã đầy tràn thì không thể rót gì thêm được. Một cái thùng đầy cát thì không thể đổ thêm gạo, bắp hay bất cứ thứ gì. Cũng thế, một tâm hồn đầy kiêu căng, tự mãn, tham lam… thì đâu còn chỗ trống cho Thiên Chúa rót thêm ân sủng vào.

Trang Tin Mừng hôm nay mời chúng ta hãy hướng về một nhân vật quan trọng của mùa vọng là Gioan Tẩy Giả, một con người sẵn sàng trút bỏ mọi tham vọng và hư danh, trở thành tách trà rỗng không; nhờ đó, ông đã được Thiên Chúa rót đầy.

Người đời bị cuốn hút bởi lợi danh và cố làm gia tăng giá trị mình bằng những lớp vỏ bên ngoài.

Tiêu biểu cho hạng người nầy là những biệt phái thời Chúa Giêsu. “Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong các hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”. (Mt 23, 5-6).

Còn người thời nay thì tìm cách làm gia tăng giá trị của mình bằng những đồ trang sức đắt giá, bằng xe hơi sang trọng, bằng dinh thự nguy nga.

Trong khi đó, Gioan chê bỏ những “lớp vỏ” hào nhoáng của người đời. Người chỉ cần cào cào châu chấu trong hoang mạc làm thức ăn; chỉ cần tấm da thú thô sơ làm áo mặc. (Mt 3,4).

Người đời khát khao danh vọng, muốn khoác cho mình nhiều danh hiệu cao sang; còn Gioan thì trái lại, ông tước bỏ hết mọi danh hiệu cao quý mà người đời khoác cho ngài.

Thời bấy giờ Gioan là người tiếng tăm lỗi lạc. Có luồng dư luận cho rằng ông là Đức Kitô, một tước hiệu cao cả đầy vinh dự. Gioan trả lời với các tư tế và các thầy Lê-vi từ Giê-ru-sa-lem rằng ông chẳng phải là Đấng Kitô. Ông đã không nhận vơ cho mình một danh hiệu rất cao quý.

Thế rồi có dư luận cho rằng ông là ngôn sứ Ê-li-a vĩ đại giáng lâm, vì theo kinh thánh thì vị ngôn sứ nầy phải đến trước để dọn đường cho Đấng Cứu Thế; Gioan cũng từ chối tước hiệu nầy. Thế là ông lại trút bỏ thêm một vinh dự thứ hai.

Có một số khác nghĩ rằng nếu ông không là Đấng Kitô, không là ngôn sứ Ê-li-a, ít nữa thì ông cũng là một vị ngôn sứ cao cả nào đó. (Ga 1, 21b). Gioan cũng từ khước luôn cả danh hiệu nầy.

Và đang khi nhiều người coi trọng phép rửa của Gioan, đã tuôn đến với ông đông đảo, xin ông làm phép rửa cho mình, thì Gioan khiêm tốn nói rằng phép rửa của ông chỉ là phần chuẩn bị cho một phép rửa khác quan trọng hơn, do một Đấng rất cao cả cử hành mà ông chẳng đáng cởi quai dép cho Đấng ấy: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” (Ga 1, 26-27).

Và đang khi danh tiếng của Gioan vang dội, còn Chúa Giêsu chưa được nhiều người biết đến, thì Gioan đã tự xoá mình đi, để cho Chúa Giêsu được tỏa sáng. Gioan nói: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi.” (Ga 3,30).

Thế là Gioan đã trút bỏ hết mọi vinh dự người ta gán cho mình, chỉ nhận mình là tiếng kêu trong sa mạc hoang vu. (Ga 1, 23).

Gioan đã hạ mình xuống, nên đã được Thiên Chúa nâng lên. Gioan đã trút bỏ mọi thứ vinh quang và của cải, trở thành trần trụi rỗng không, nên Thiên Chúa đã đổ đầy ân sủng cho người. Nhờ đó, Gioan trở nên vị ngôn sứ rất cao cả. Chính Chúa Giêsu đã xác nhận sự cao cả của ông. “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt 11, 11)

Gioan đã tự xoá mình đi nhưng người đã sáng bừng lên như một ngôi sao trên bầu trời Hội Thánh. Gioan luôn hạ mình xuống nhưng Giáo Hội vẫn hằng ngưỡng mộ người suốt dòng thời gian. Cuộc đời khiêm hạ của thánh nhân mãi mãi là tấm gương sáng ngời cho bao thế hệ nối tiếp.

Lạy Chúa Giêsu,

Chiếc ly đời con chất chứa đầy tự mãn, kiêu căng, tham lam, ích kỷ và chúng con vẫn quyến luyến gắn bó với chúng cho đến mãn đời.

Xin thương giúp chúng con có đủ nghị lực và quyết tâm trút bỏ những thứ cặn bã đáng ghét đó đi cho tâm hồn được rỗng không.

Có làm được như thế, chúng con mới trở thành ống sáo rỗng để Chúa tấu lên những khúc hoan ca.

Chỉ khi đó, chúng con mới trở nên một chiếc ly, chiếc bình trống không để cho Chúa rót đầy tình yêu và ân sủng.

[Mục Lục]

Bài 10. Vui mừng và hy vọng

Hôm nay bước vào tuần thứ ba mùa vọng, Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy vui mừng và hy vọng, lời mời gọi này có thừa không khi, nhìn từ bên ngoài xã hội chúng ta đang sống đã có qua nhiều các hình thức và tụ điểm vui chơi, phương tiện giải trí? Mọi người mọi tầng lớp đều có những điểm gọi là “điểm vui chơi”. Người có nhiều tiền thì vui chơi theo kiểu cao cấp quý tộc, người bình dân vui chơi theo kiểu bình dân, người lớn vui chơi theo kiểu của người lớn, trẻ em và thanh niên vui chơi theo kiểu thanh thiếu niên, ví dụ quán bar, quán bia, caraoke, caphe… là nơi người ta đến để giải sầu, tìm vui, nghèo hơn nữa thì vài lít rượu với mấy quả ổi, con mực cũng được gọi là lai rai cho vui. Vui cũng uống, buồn cũng uống và không buồn không vui cũng uống. Bên cạnh đó, người ta còn tạo ra đủ mọi thứ lể hội để đem niềm vui cho mọi người

Thưa quý OBACE, như vậy, cuộc sống và xã hội này có thực sự đem đến cho chúng ta niềm vui hay không, nếu thực sự có, thì tại sao khi trở về nhà, họ lại cảm thấy buồn bã và trống rỗng, và họ vẫn cứ phải tìm kiếm một nơi nào đó để vui, để giải sầu mà càng “uống chén tiêu sầu càng sầu thêm”!

Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới vô thần, là một thế giới người ta đang muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi xã hội và khỏi tâm hồn con người, mà một thế giới, một tâm hồn không có Thiên Chúa là một thế giới bất an, một thế giới lo âu khắc khoải không niềm vui. Nơi nào, tâm hồn nào không có Thiên Chúa thì nơi ây, tâm hồn ấy chỉ còn là hỏa ngục, buồn bã và thất vọng, và không có gì ở thế gian này có thể đem lại niềm vui cho những tâm hồn ấy được.

Lời Chúa hôm nay đem đến và mời gọi chúng ta hãy tận hưởng một niềm vui và hy vọng hoàn toàn khác với các niềm vui trống rỗng của thế gian, đây là niềm vui thực sự phát xuất từ trong tâm hồn được thể hiện ra bên ngoài qua nét mặt qua cuộc sống, đó là niềm vui có Chúa và niềm vui của Chúa.

Niềm vui ấy trước hết là niềm vui được giải thoát, được đổi mới. Tiên tri Isaia đã mở ra cho chúng ta một tương lai hy vọng, như ánh sáng bừng lên trong bóng tối, vì thời của Đấng Cứu thế đến, Ngài không chỉ chữa lành những đau đớn bệnh tật thể xác, mà Ngài còn chữa lành những bênh tật trong tâm hồn và lấp đầy những khát vọng buồn chán trong tâm hồn con người, Ngài giải thoát con người khỏi nô lệ của tội lỗi, sự tù đày của dục vọng: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Ngài đã xức dầu cho tôi, sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương dập nát, giải phóng cho kẻ bị giam cầm, tuyên bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Niềm vui Đấng cứu thế còn là niềm vui của hy vọng và hân hoan, như niềm vui của cô dâu và chú rể, và như niềm vui của đất đai đâm chồi nảy lộc, niềm vui vì được đổi mới. Niềm vui này con người thế gian không thể mang lại, chỉ có Thiên chúa mới có thể đem đến cho chúng ta.

Kế đến đó là niềm vui trong cầu nguyện gặp gỡ Thiên Chúa. Sự trống rỗng hời hợt của nhiều người và kể cả của nhiều Kitô hữu hôm nay đó là vì họ không có Chúa trong tâm hồn, bởi vì họ để mình bị cuốn trôi theo dòng chảy của xã hội của cơm áo gạo tiền, bởi những thú vui bên ngòai, họ sống một cách hời hợt không chiều sâu, không mục đích. Trong khi đó Thánh Phaolô khuyên tín hữu Thesalônica: Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh… đừng dập tắt Thần khí, chớ khinh thường ơn nói tiên tri, hãy cân nhắc mọi sự điều gì tốt thì giữ và điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì tránh cho xa. Khi sống như thế, Thánh Phaolô khẳng định thiên Chúa là nguồn mạch niềm vui và bình an sẽ gìn giữ anh em.

Bài Tin mừng giới thệu cho chúng ta một niềm vui khác, đó là niềm vui vì nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời mình. Gioan Tiên Hô là người đã có kinh nghiệm này. Lúc bắt đầu sứ mạng rao giảng, Gioan đã rất thành công vì ông đã thu hút được rất nhiều người, mọi người kính trọng và đến với ông, thậm chí ông còn trở thành một dấu hỏi lớn đối với họ. Vì thế Những người Do Thái đã cử một số thày Tư tế và Lêvi đến hỏi Gioan: Ông là ai? Ông có phải là đấng Cứu thế không? Gioan mặc dù đang rất thành công, nhưng ông không nhận điều không có về cho mình, mà ông đã rõ ràng dứt khoát từ chối: Tôi không phải là Đấng Kitô, Tôi không là Elia mà ông chỉ nhận mình: Tôi là tiếng kêu trong hoang địa, hảy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi. Tức là Gioan vui với sứ mạng của mình là người dọn đương cho Đấng cứu thế, Đấng ây ông biết rất rõ Ngài đang ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết, còn Gioan đã biết và đã nhận ra Ngài và còn nhận ra uy quyền tối cao của Ngài, mà ông khiêm tốn cho rằng mình không đáng cúi xuống cởi dây dép cho Ngài.

Gioan không buồn vì mình phải lui bước, cũng không sợ mất ảnh hưởng, không níu kéo vinh quang uy tín về cho mình, trái lại ông vui vì ông đã chu tòan sứ mạng, ông ý thức rằng ông phải nhỏ đi để Người được lớn lên; ông đến để làm chứng về ánh sánh để mọi người nhờ ông mà tin, chứ ông không phải là ánh sáng, và mọi người, để đón nhận được niềm vui từ Đấng Cứu Thế cần có một thái độ tiên quyết đó là có lòng sám hối, thay đổi đời sống, được biểu lộ ra bên ngoài bằng việc lãnh phép rửa mà ông đang thực hiện, phép rửa của ông chì là một dấu hiệu bày tỏ lòng sám hối, vì ông biết việc ông làm không có sức tha tội, chỉ có Đấng đến sau ông sẽ tẩy rửa tôi lỗi nhân loại bằng Thánh Thần, và ai chấp nhận để cho Thiên Chúa tẩy rửa và uốn nắn, người ấy sẽ có được niềm vui, hoặc đúng hơn chính Đấng ấy sẽ ban tặng cho họ niềm vui vì được làm con cái Chúa.

Thưa quý OBACE, chúng ta đang vui hay chúng ta đang buồn? Chúng ta có thực sự cảm nhận được niềm vui Chúa đem đến cho chúng ta hay không? Ngoài đường phố đã rộn ràng những bài thánh ca, những trang trí giáng sinh, ở trong siêu thị và các nhà hàng cũng tưng bừng với các chương trình cho mùa Giáng sinh mà họ gọi là mùa Noel. Vâng! Có thể người kitô hữu chúng ta cũng sẽ chỉ vui một cách hời hợt ở bên ngoài, nếu chúng ta chỉ chú ý đến những trang trí bên ngoài mà không chuẩn bị để có được niềm vui đón Chúa đến trong tâm hồn. Nhiều người nhiều gia đình lo chuẩn bị những chương trình, đi chơi hay ăn uống trong đêm Giáng sinh sắp tới mà không chuẩn bị cho Chúa có một chổ nhỏ ấm áp trong tâm hồn trong gia đình mình.

Khi chúng ta đã để cho bao thứ lo toan ràng buộc trong cuộc sống chiếm hết thời gian và tâm hồn khiến cà ngày sống chúng ta cứ cảm thấy mình trống rỗng và lao vào tìm kiếm mà không biết mình tìm kiếm điều gì. Chúng ta sẽ không thể nào vui khi chúng ta không dám để cho Chúa gỡ bỏ những gánh năng của cuộc đời, không dám để cho Chúa chia sẻ với nhữ lo toan nhọc nhằn của chúng ta như Chúa hằng mong muốn: Hãy đến với ta hỡi những ai vất vả nặng nề- ta sẽ nâng đỡ bổ sứ cho.

Chúng ta sẽ không vui và sẽ cảm thấy trống rỗng khi chúng ta không dám dừng lại, khi không dám sống trong sự thinh lặng, vì chúng ta sợ phải đối diện với chính mình và đối diện với Thiên Chúa; Chúng ta sẽ không thể vui khi trong lòng còn những bận vướng với anh em. Chúng ta sẽ không thể cảm nhận được niềm vui và hy vọng khi chúng chúng ta không có giờ cho việc cầu nguyện gặp gỡ Thiên chúa, cầu nguyên riêng tư một mình với Chúa, hoặc cầu nguyện chung trong gia đình, hay khi chúng ta cùng họp nhau nơi đây để cử hành thánh lễ, chính là lúc chúng ta được gặp Chúa, được lấp đầy những khoảng trống trong tâm hồn và tìm được niềm vui sâu xa.

Sau cùng, chúng ta chỉ thực sư vui khi chúng ta sống và làm việc trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn hiện diện trong cuộc đời chúng ta, ở bên chúng ta, trong Bí tich Thánh Thể, nơi những người anh em, có điều là chúng ta có nhận ra sự hiện diện yêu thương nâng đỡ của Ngài hay không? Chỉ khi nhận ra và làm việc trong sự hiện diện của Ngài chúng ta sẽ tìm được niềm vui và bình an. Điều cũng cần lưu ý, là Thiên Chúa chỉ hiện diện trong một tâm hồn sạch tội, một tâm hồn khiêm nhường hối cải, một tâm hồn không chất chứa sư thù oán ghen tị giận hờn… khi thực lòng thanh tẩy và sửa chữa những sai lầm nhờ Bí tích giải tội, ơn tha thứ sẽ được ban cho chúng ta và chắc chắn mỗi người sẽ cảm nhận được niềm vui và sự bình an vì biết mình được yêu thương tha thứ.

Xin cho mỗi người không chỉ chuẩn bị bên ngoài cho ngày lễ Giáng sinh, mà còn biết chuẩn bị tâm hồn để niềm vui và ân phúc của mủa Giáng sinh được trọn vẹn nơi mỗi người. Amen.

[Mục Lục]

Bài 11. Hãy vui lên
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Theo truyền thống dân tộc Do Thái, năm đại xá của Đức Chúa, là năm đại phúc cho người nghèo, cho người bị tù đầy. Năm đó, có nợ ai bao nhiêu, cũng được xóa; có đang bị ở tù, cũng được trả tự do. Đức Yêsu là Đấng đến để công bố năm toàn xá cho toàn thể nhân loại. Vì thế, hãy vui lên, hỡi nhân trần.

  1. Tin Mừng Cho Người Nghèo

Con người sống trên trần gian này cảm nghiệm bao nhiêu nỗi khổ: nỗi khổ vật chất và tinh thần. Ai càng coi trọng tiền bạc và vật chất, càng cảm thấy khổ nhiều. Tuy nhiên, đôi khi người nghèo không cảm thấy khổ, mà những người đặt nặng giá trị vật chất lại cho rằng họ khổ.

Người nghèo cũng có niềm vui riêng của họ, trời xanh, khí mát trong lành, đất trời đẹp tuyệt vời và vô tận. Tuy vậy, nếu người nghèo không thanh thoát vượt lên được cái bình thường, thì cái nghèo, và đặc biệt là tình trạng bần cùng, ảnh hưởng thê thảm trên con người. Nàng Kiều bán mình chuộc cha cung là một thí dụ. Và từ cái khổ này dẫn tới cái khổ khác; đến độ người ta thấy “đời là bể khổ.” Nghèo, tù, tội, là những điều gây cho bao người đau khổ dằn vặt.

Hôm nay, tin mừng đã được công bố: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi vì Đức Chúa đã xức dầu cho tôi. Ngài sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn tan vỡ, loan báo ơn giải thoát cho những kẻ bị bắt, tự do cho kẻ tù đày, và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa.” Chính Thiên Chúa giải phóng con người, cho con người tìm được sự giải phóng, tự do, niềm vui và hạnh phúc.

  1. Đấng Đến Sau Tôi

Cái nghèo vẫn còn tiếp tục. Cái nghèo như gắn chặt với cuộc đời của một số người như hình với bóng. Con người vẫn khổ, vẫn miệt mài đi tìm miếng cơm manh áo. Những người đã có miếng cơm áo thì lại muốn có nhiều hơn nữa. Con người vẫn không thoát khỏi cảnh khổ. Nỗi khổ do nghèo vật chất dường như giúp con người thấy nỗi khổ của nghèo tinh thần. Dường như khổ vật chất không làm con người khổ, mà nghèo tinh thần làm con người khổ.

Yoan Tẩy Giả sống đơn sơ trong cảnh nghèo. Ngài như một lời chứng cho nỗi khổ vì nghèo tinh thần, vì không thấy được ánh sáng sự thật, chứ không phải vì nghèo vật chất. Hơn nữa, Yoan Tẩy Giả còn làm chứng cho một Đấng khác nữa: “Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, và tôi không đáng cởi dây giầy cho Ngài. Tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng Đấng đó sẽ làm phép rửa cho anh em với Thánh Thần và lửa.” Đấng đó là Đấng mà mọi người phải mong chờ, cho dù lúc đó người ta và cả Yoan Tẩy Giả cũng chưa biết người đó là ai.

Đức Yêsu như tất cả mọi người đã sống cái nghèo đến tận cùng: sinh trong hang chiên cừu, ăn uống mặc như người nghèo, làm nghề của những người nghèo, ngay cả khi đi rao giảng vẫn nghèo, có lúc đi tìm trái vả ăn cho đỡ đói cũng không có (Mt.21, 18-19). Tuy vậy, Đức Yêsu là người làm trọn lời tiên tri trong sách Isaya, Ngài công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, Ngài tới để làm cho người mù được thấy, người tù được trả tự do, băng bó những tâm hồn tan vỡ. Đức Yêsu mang lại cho người ta thấu hiểu sự thật, và sự thật sẽ giải phóng con người khỏi mọi phiền não, tù tội ràng buộc tinh thần. Ngài giúp con người vươn lên, vươn lên tới Thiên Chúa là đỉnh bình an hạnh phúc. Hãy vui lên vì với Đức Yêsu, chúng ta biết con đường giải thoát và hạnh phúc đích thực.

  1. Hãy Vui Mọi Lúc

Như một người đã được giải phóng, thánh Phaolô viết cho dân thành Thessalônica: “hãy vui hạnh phúc mọi lúc.” Một người rao giảng tin mừng Đức Yêsu phục sinh, luôn bị phản đối, rượt đuổi và bắt bớ, mà khuyên người ta hãy sống vui và hạnh phúc được sao? Nếu đúng, người đó phải sống vui và hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh, trong mọi thời điểm.

Tại sao Phaolô lại được như vậy? Vì Ngài đã đạt đạo, đã chọn Thiên Chúa trên hết, đã chấp nhận Đức Yêsu như lý tưởng và Chúa của mình. Ngài đã thấy được trần gian chóng qua, chỉ có thực tại bền vững là chính Thiên Chúa, và cũng là bình an và hạnh phúc của Ngài. Với quan niệm sống và chọn lựa như vậy, Ngài sống vui và hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh, trong mọi thời điểm.

Chỉ khi nào con người chọn Thiên Chúa trên hết, phó thác tất cả cho Thiên Chúa, thì con người mới sống chấp nhận thực tại và thanh thản trước mọi biến cố và nghịch cảnh. Thiên Chúa đang thực hiện việc giải phóng con người qua Đức Yêsu, qua việc cho con người thấy cách sống giúp con người bình an hạnh phúc. Cách sống đó chính là cách sống của Đức Yêsu. Đức Yêsu cũng không được miễn trừ khỏi bao cám dỗ, nhưng Ngài đã vượt qua và vẫn trông cậy vào Thiên Chúa ngay cả khi không thấy dấu chỉ cho thấy như vậy. Biến cố Đức Yêsu kêu trời “lạy Cha, lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” là một bằng chứng. Ngay cả như vậy, chúng ta tin rằng, Ngài vẫn bình an và phó thác.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. “Hãy bình an hạnh phúc mọi lúc.” Liệu điều này có thể xảy ra không?
  2. Làm sao để có thể bình an hạnh phúc trong mọi nơi mọi lúc?
  3. Bạn có thể gặp được Đức Yêsu không? Xin đưa lý lẽ cho câu trả lời của bạn?
  4. [Mục Lục]

Bài 12. Làm chứng về ánh sáng
Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến

Tin mừng chúa nhật nầy gồm hai đoạn 1:6-8 và 1:19-28 thuộc 2 văn mạch khác nhau, tuy nhiên đều nói về Gioan, là chứng nhân của Chúa Giêsu Kitô. Đoạn 1:6-8 nằm trong văn mạch của 1:1-13, nói về Ngôi Lời là ánh sáng (1:1-5) và Ngôi Lời đã đi vào lịch sử (1:6-13). Đoạn 1:19-28 nói về Gioan và công việc của ông.

Trong tin mừng Gioan, làm chứng là sứ mạng chính của Gioan, không phải là làm phép rửa (1:7[2].8.15.19.32). Để làm chứng, Gioan phải là một con người và được Thiên Chúa sai đến (c.6). Là con người, để Gioan có thể nói cho con người điều ông đã thấy và đã tin. “Được Thiên Chúa sai đến”, vì sứ mạng của ông là làm chứng cho Con Thiên Chúa (3:27). Bởi đó, Gioan không làm chứng cho một điều, mà cho một người. Mục đích của Gioan là làm cho mọi người tin vào Chúa Giêsu (c.7), để họ được làm con Thiên Chúa (1:12) và không còn thuộc về bóng tối nữa (1:5; 11:10; 12:35).

Chúa Giêsu là ánh sáng của trần gian (1:4; 9:5; 11:9; 12:35.36.46). Ánh sáng ấy là sự sống (1:4;8:12[2x]) và cũng là sự thật (1:9; 3:21). Gioan làm chứng cho ánh sáng, có nghĩa là làm chứng cho một sự sống Chúa Giêsu đang mang đến (1:15-16; 6:41.48.51) và một sự thật: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa (1:32.35; 5:33). Đón nhận chứng từ của Gioan, nghĩa là tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là sự thật và sự sống (14:6) để được trở nên con cái Thiên Chúa (1:12). Khước từ chứng từ của Gioan là khước từ Chúa Giêsu và tiếp tục sống trong bóng tối (1:5; 8:12).

Gioan là chứng nhân, không phải là ánh sáng (1:8). Bởi đó, Gioan từ chối nhận mình là Đấng Kitô hay là Êlia. Ông nhận mình không xứng đáng cởi quai dép cho Đấng đang đến. Thành ngữ egò ouk eimi “Tôi không là” mà Gioan dùng cho mình (c.20.21.27; 3:28) đối nghịch với egò eimi “Tôi là”, được dùng độc nhất cho Chúa Giêsu: “Tôi là tôi” (4:26; 6:20; 13:19; 18:5.6.8), “Tôi là bánh ban sự sống” (6:41.48.51), “Tôi là ánh sáng trần gian” (8:12; 9:5), “Tôi là…” (10:9.11.14; 11:25; 14:6; 15:1.5; 18:37). Chính cách nói nầy cho thấy Chúa Giêsu, là ánh sáng, ngày mỗi tỏa sáng lên, còn Gioan, như là chứng nhân của ánh sáng, ngày mỗi tan biến dần (3:30). Gioan giới thiệu Chúa Giêsu cho hai môn đệ của mình, và họ đã trở thành môn đệ của Chúa Giêsu (1:35-42), dân chúng đến với Chúa Giêsu thay vì đến với Gioan (3:26) và cuối cùng chết âm thầm trong ngục tối (3:24). Gioan, một chứng nhân chân thật và khiêm tốn vô hạn (10:41).

Gioan không là chứng nhân duy nhất của Chúa Giêsu. Chúa Cha (5:32.37; 8:18), Kinh Thánh (5:39), công việc của Chúa Giêsu (5:36; 10:25), chính Chúa Giêsu (8:14.18), Thánh Linh (15:26) và các môn đệ (15:27) tất cả đều làm chứng một điều: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Đến trần gian, Chúa Giêsu cần chứng nhân, vì không dễ tin Người là Con Thiên Chúa. Nếu tin, sẽ được làm con cái của Thiên Chúa. Nếu được làm con cái của Thiên Chúa, tất phải sống như con cái của Người.

[Mục Lục]

Bài 13. Làm chứng về ánh sáng
Gioan: Không phải là ánh sáng

Trong đoạn mở đầu Phúc Âm, Thánh Gioan Thánh sử đã nói về Đức Kitô, Người là Thiên Chúa, là Nguồn Sáng, là Ánh Sáng đến trần gian.

“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.”(Ga.1,9).

Khi người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy Thầy Lê-vi đến hỏi Gioan Tẩy giả: “Ông là ai?” Ông tuyên bố thẳng thắn: “Tôi không phải là Đấng Kitô.” Đúng như lời thánh Gioan Thánh sử đã viết về Gioan Tẩy Giả: “Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.” (Ga.1,6-7).

Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong bối cảnh người Do Thái đang trông chờ một Vị Cứu Tinh cho dân tộc, người sẽ khôi phục Israel và đem về cho Israel một thuở huy hoàng nay đã mất dưới gót giầy đè bẹp của đế quốc La Mã.

Giấc mơ ấy hạn hẹp trong ý tưởng con người, vì Vị Cứu Tinh sẽ đến không phải để phục hồi lại những gì đã tổn thương trong Israel, mà tái tạo lại một “trời mới đất mới” cho cả vũ hoàn.

Vị Cứu Tinh ấy là Chúa Kitô, ánh sáng cho trần gian.

“Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối sẽ không diệt được ánh sáng”. (Ga.1,5).

Gioan Tẩy Giả xuất hiện để “làm chứng” cho Chúa Kitô, làm chứng về ánh sáng.

Gioan: Làm chứng về ánh sáng

Ánh sáng ở đây là chính Thiên Chúa – “Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta”.

“Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người”. ( Ga 1,10).

Và Gioan Tẩy Giả mang sứ mạng làm cho mọi người nhận biết Người – nhận biết Đức Kitô – nhận biết Ánh Sáng.

“Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” (Ga.1,17).

Gioan Tẩy giả dành trọn cuộc đời mình chỉ với một mục đích trung thành với lời tuyên bố: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian.” (Ga.1,29-34).

Ý nghĩa cuộc đời: Ánh Sáng Chúa Kitô

Đức Giêsu lại nói với người Do-thái: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga.8,12).

Gioan Tẩy Giả đã sống một cuộc đời có ý nghĩa, hoàn thành sứ mạng của mình trong ánh sáng chân lý.

Không ai thuộc về bóng tối lại có thể làm chứng về ánh sáng!

Chỉ trong ánh sáng Chúa Kitô, con người mới nhận ra giá trị đích thực của chính mình, vị trí của chính mình. Trong ánh sáng Chúa Kitô, Gioan nhận ra mình bé nhỏ.

Trong bóng tối, con người ngủ mê trong ảo ảnh. Con người hiểu biết được bao nhiêu và làm được điều gì lớn lao đến thế nào để có thể kiêu căng đến mức muốn thay thế Thiên Chúa?

Một cách nào đó, nhiều người tự xem mình như Đấng Cứu Thế. Nhiều kẻ muốn thay thế Lời Chúa bằng những “giáo điều” triết học và ý thức hệ chính trị nghe rất hấp dẫn và thu hút được nhiều người. Thực tế, những dòng tư tưởng đó đã đem thế giới đến chỗ tan nát vì chia rẻ và thù hận.

“Sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: ‘Chính ta đây’, và: ‘Thời kỳ đã đến gần’” (Lc 21: 8).

Với Niềm tin Kitô hữu, đời ta chỉ có một mục đích duy nhất là “làm chứng về ánh sáng”.

Gioan Tẩy Giả là tấm gương để tiến bước. Hoặc là sống trong ánh sáng, hoặc là sống trong tăm tối, phải chọn một, và chỉ chọn một, không có sự chọn lựa nào khác.

Quê tôi là một xóm làng dân cư đông đúc, khi cúp điện, cả ngàn hộ dân chìm trong tăm tối, thôn xóm đông người mà vắng lặng đến đáng sợ. Khi có điện trở lại, nghe vang lên những tiếng reo hò vui sướng: “Có điện rồi! Có điện rồi!”. Tiếng em bé reo vui, tiếng người cười cười nói nói, tiếng nhạc, tiếng TV… vang lên đó đây, xóm làng vui tươi, nhộn nhịp hẳn lên…

Không ai có tìm thấy hạnh phúc trong vùng tăm tối. Người từ chối ánh sáng là người đã hoàn toàn mất đi niềm hy vọng và sống một cuộc sống buông xuôi vô nghĩa.

Hạnh phúc là được tìm về ánh sáng. Mang hạnh phúc đến cho người khác là thắp lên cho họ ánh sáng hy vọng.

Một ngày kia Mẹ Têrêsa Calcutta đến Melbourne, Australia. Mẹ đi thăm một người nghèo không ai biết đến. Ông sống trong một căn phòng rất tồi tệ, đồ đạc dơ bẩn ngổn ngang. Phòng không có cửa sổ mà cũng chẳng có lấy một bóng đèn.

Mẹ Têrêsa bắt tay vào thu dọn đồ đạc. Ông gắt lên: “Cứ để yên mọi thứ cho tôi”. Nhưng Mẹ cứ tiếp tục. Sau khi mọi thứ đã ngăn nắp, Mẹ Têrêxa tìm thấy một chiếc đèn trong một góc phòng. Đèn bám đầy bụi, chứng tỏ lâu lắm rồi không ai đụng đến. Mẹ lau chùi sạch sẽ rồi hỏi:

- Sao lâu nay ông không thắp đèn lên?

- Thắp làm chi. Có ai đến thăm tôi đâu. Tôi đâu cần thấy mặt ai.

- Thế ông có hứa sẽ thắp đèn lên khi một nữ tu của tôi đến thăm ông không?

- Vâng, nếu tôi nghe có tiếng ai đến thì tôi sẽ thắp đèn lên.

Từ đó, mỗi ngày, hai nữ tu của Mẹ Têrêxa đều đến thăm ông và giúp đỡ ông. Một hôm ông nói với một trong hai nữ tu ấy:

- Bây giờ tự tôi đã biết thu dọn phòng tôi rồi. Nhưng xin làm ơn về nói với nữ tu đầu tiên rằng ngọn đèn mà Bà đã thắp lên đến nay vẫn sáng.

Hãy thắp lên Ánh sáng Tình Yêu Thiên Chúa – Ánh sáng Chúa Kitô – Ánh sáng Lời Chúa – Ánh sáng Giới luật yêu thương.

Thế giới chỉ có thể tồn tại trong ánh sáng tình yêu – “Ánh sáng đem lại sự sống”. Có thể nào Thế giới tìm thấy bình an và hạnh phúc trong thế giới tối tăm sao?

Lạy Chúa,

Xin thắp lên trong con,

ánh sáng Tình Yêu Chúa,

để từ tận thẳm sâu lòng con,

biết nói lên và thực hiện,

Những điều Chân Thiện.

Đó là lúc con biết

làm chứng về ánh sáng,

Ý nghĩa của đời con. Amen.

[Mục Lục]

Bài 14. Con tim rung nhịp với chân lý
Thomas Nguyễn Văn Hiệp

Tiếp nối hai bài suy niệm “Đừng Vô Cảm” và “Tỉnh Thức Con Tim” của hai chúa nhật I & II mùa vọng, hôm nay chúa nhật III mùa vọng, xin được chia sẻ đề tài: con tim rung nhịp với chân lý.

Mấy ngày gần đây, video clip về sự thờ ơ của người qua đường đối với cô gái bị đâm 28 nhát dao đang tạo sự quan tâm của dân cư mạng và gây xôn xao dư luận Trung Quốc. Đoạn video có tên “Ngang nhiên giết người trên phố” đã được phát tán với tốc độ chóng mặt trên các mạng xã hội Trung Quốc. Video này cho thấy, vào lúc 9h sáng ngày 30/11, một người đàn ông chừng 25 tuổi đã xông vào tấn công một cô gái qua đường. Hắn ta giật, lôi và giằng lấy giỏ xách của cô gái. Cô gái đã gắng sức giữ chặt giỏ của mình. Sau gần 10 giây giằng co, người đàn ông hung hãn đã rút dao trong người đâm tới tấp cô gái 4 nhát liền, khiến cô ngã lăn ra đất. Ngay khi đó có hai người qua đường (có lẽ là 2 người đàn ông) đứng yên gần bên quan sát sự việc; ở len đường bên cạnh có ít nhất 1 chiếc taxi và 2 chiếc môtô tấp vào lề (chắc là vì tò mò); cách đó không xa là một nhóm người rất đông (có lẽ đi ra từ khách sạn). Chẳng ai có một phản ứng gì! Người đàn ông say máu cuồng lên, hắn tiếp tục dùng dao đâm cô gái thêm mấy nhát nữa. Nạn nhân dồn chút sức tàn gượng dậy kêu cứu, nhưng hai người đàn ông qua đường vẫn thản nhiên không hề can thiệp hay báo cảnh sát mà lẳng lặng rời khỏi hiện trường. Kẻ côn đồ tiếp tục đâm cô gái mười mấy nhát nữa cho đến khi cô nằm im trên vũng máu. Sau cùng, hắn dùng chân đạp hơn 10 cái trên thi thể nạn nhân bê bết máu rồi lạnh lùng bỏ đi.

Vụ án mạng được xác định xảy ra ở huyện Hoài Nhơn, tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc). Vụ giết người dã man đã khiến cư dân mạng đã vô cùng kinh ngạc về hành động gian ác mất tính người của hung thủ và thương xót cho cô gái xấu số. Được biết nạn nhân đã tử vong sau khi đưa tới bệnh viện do mất quá nhiều máu. Họ cũng bày tỏ sự phẫn nộ với thái độ dửng dưng và bàng quan của những người qua đường không ai chịu ra tay can ngăn hay báo cảnh sát. Cho dù địa điểm xảy ra án mạng cách đồn cảnh sát không xa, nhưng hơn 10 phút sau vẫn không thấy cảnh sát đâu cả. Nhiều người cho rằng hành động của người đàn ông khiến người ta ghê tởm. Nhưng sự thờ ơ, lạnh lùng, vô cảm của những người qua đường thấy chết mà không cứu giúp còn tàn nhẫn hơn!

Xem đoạn video clip xong, người viết bỗng nhớ đến bộ phim tài liệu “Chuyện Tử Tế” vang tiếng một thời của đạo diễn – NSND Trần Văn Thủy. Bộ phim được bấm máy năm 1985, bị cấm chiếu trong nước, nhưng lại gây tiếng vang ở nước ngoài. Bộ phim đoạt giải Bồ câu bạc Liên hoan phim Quốc tế Leipzig, được báo chí nước ngoài ví như “Quả bom đến từ Việt Nam nổ tung ở thành phố Leipzig” (Đức), được nhiều đài truyền hình nổi tiếng mua bản quyền phát sóng, được lọt trong top 10 bộ phim tài liệu hay nhất được thế giới bình chọn năm 1992.

Có lẽ vì biết trước số phận “long đong” của “Chuyện Tử Tế” trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam 1985 mà Trần Văn Thủy đã dán tấm bùa hộ mệnh ở đầu và kết cho bộ phim là câu nói của Karl Marx: “… Tất nhiên, chỉ có loài súc vật mới có thể quay lưng lại nỗi đau khổ của con người, và chăm lo riêng cho bộ da của mình …”.

“Chuyện Tử Tế” được liền mạch bởi những câu hỏi mang tính nhân sinh: thế nào là Nhân dân? Là Vĩ đại? là Hạnh phúc? Là Tử tế? … Nhưng tất cả được gói gém trong lời mời gọi: “Hãy sống tử tế với nhau”. Nhưng đâu là nền tảng, là cội nguồn để con người sống tử tế? Dường như chính đời sống tận hiến phục vụ vô vị lợi của các Soeurs tại trại phong Quy Hòa (Quy Nhơn) là đáp án cho vấn nạn. Xin được lược ghi lại lời thoại và lời bình trong phim:

Khởi đi từ lời của cô gái: “Ăn ở với nhau tử tế là lẽ thường, là niềm an ủi của người đời. Chỉ có đồ hủi mới ăn ở với nhau chẳng ra gì!”.

Lời cô gái như là cái cớ để đoàn làm phim đi đến Trại phong ở Quy Hòa. Tại đây, họ gặp mặt đông đảo các thầy thuốc và đặt câu hỏi:

- Thưa các thầy thuốc, ở đây ai là người tận tâm chạy chữa, chia sẻ với người hủi?

- Các bà soeurs! Chuyện đó phải kể đến các bà soeurs.

Các thầy thuốc, trong đó có các thầy thuốc từ khi rời ghế trường Y, cho đến bây giờ đã hai thứ tóc, làm việc ở các trại hủi, đều trả lời như vậy …

Những người làm phim hỏi: -Thưa, đâu là nơi bắt đầu để các soeurs yên tâm, tận tụy phục vụ người mắc bệnh hủi?

- Dạ, chỗ bắt đầu của chúng tôi và đồng nghiệp là lòng Tin.

Vâng! Nếu không có lòng tin thì con người không thể sống với con người được. Con người đã từ lòng tin thần thánh, lòng tin tôn giáo mà đến với lòng tin có chứng cứ, tin vào những cái đích thật.

Người biên tập bộ phim này cho biết: “Từ rất xa xưa, cha bác có dạy rằng tử tế có trong mỗi con người, mỗi nhà, mỗi dòng họ, mỗi dân tộc. Hãy bền bỉ đánh thức nó, đặt nó lên bàn thờ tổ tiên hay trên lễ đài của quốc gia. Bởi thiếu nó, một cộng đồng dù có nổ lực tột bậc và chí hướng cao xa đến mấy thì cũng chỉ là những điều vớ vẩn. Hãy hướng con trẻ và cả người lớn đầu tiên vào việc học làm người – người tử tế – trước khi mong muốn và chăn dắt họ trở thành người có quyền hành, giỏi giang hoặc siêu phàm”.

Đọc đến đây có lẽ mọi người sẽ cho rằng người viết quá sa đà nơi phần dẫn nhập. Nhưng có xem đi xem lại hai đoạn phim kể trên nhiều lần và nghiền ngẫm nó thì ta mới thấy bừng sáng lời mời gọi của đoạn Tin Mừng hôm nay.

Bài Tin mừng hôm nay (Ga 1,6-8.19-28) giới thiệu sứ mạng của Gioan Tẩy Giả. Ông là người làm chứng. Người làm chứng về Đức Giêsu là Ánh sáng, là Ân sủng, là Sự thật. Người làm chứng có “Con tim rung nhịp với chân lý” là Đức Giêsu, cho dẫu người đương thời khướt từ Ngài. Vì có “con tim rung nhịp với chân lý” nên mạnh mẽ tuyên bố trong khiêm hạ: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi … Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.”

Người làm chứng trong đoạn video clip có tên “Ngang nhiên giết người trên phố” là hai người đi đường, là những người trên 2 chiếc môtô và taxi, là đám đông trước khách sạn … đã vô cảm với chân lý, với lòng trắc ẩn yêu thương mà Thiên đã đặt để trong trái tim mỗi người. Họ vô cảm, dửng dưng, bàng quang, lạnh lùng, vô trách nhiệm trước cái ác, trước chân lý bị chà đạm miễn sao không phiền lụy đến bản thân. Đó là hệ quả của một xã hội đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa Tình Yêu, Đấng là nguồn cội muôn loài; một xã hội chỉ chạy theo vật chất tạm bợ trần gian.

Người làm chứng trong phim tài liệu “Chuyện Tử Tế” cũng rất nhiều và cũng rất đáng sợ. Đáng sợ đến nỗi mà khi công chiếu những người lãnh đạo đương thời phải thẹn với sự thật đau lòng mà cấm chiếu bộ phim. Tuy nhiên trong muôn vàn người thích làm chứng giả hay tránh né sự thật ấy vẫn còn có những con người có “con tim rung nhịp với chân lý”. Họ sống, hành xử theo niềm tin vào Thiên Chúa là nguồn cội của Tình yêu và Sự thật để đến với tha nhân bằng sự đồng cảm, yêu thương, chia sẻ … Những con người ấy được điển hình hóa qua các nhân vật trong phim là các nữ tu tại trại phong Quy Hòa.

Người làm chứng trong bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay cũng có nhiều: là phần đông dân chúng, là một số Tư tế và thầy Lêvi, là Gioan Tẩy Giả. Dân chúng thời Chúa Giêsu thì im lặng không đón nhận: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1, 11). Một số Tư tế và thầy Lêvi thì nghi ngờ và dửng dưng đi kiểm chứng. Chỉ có Gioan Tẩy Giả thì xác tín, con tim luôn rung nhịp với Chân lý là Con Thiên Chúa làm người nên khiêm tốn, sẵn sằng làm tất cả mọi sự vì Chúa Giêsu, vì chương trình cứu độ của Ngài. “Con tim rung nhịp với chân lý” của Gioan Tẩy Giả vẫn bền bĩ kiên trung rung nhịp theo Tin Mừng của Chúa Giêsu đến hơi thở cuối cùng dưới lưỡi gươm gian trá và thâm độc của Hêrôđê.

Bộ phim “Chuyện Tử Tế” được kết bằng ba biểu tượng: Thiên thần Gabriel thắng quỷ dữ, hai ngọn đèn cầy leo lét trước gió và cuối cùng là ngọn sóng bạc đầu dâng cao gào thét như thét gọi mọi người đừng vô cảm, hãy tỉnh thức con tim, để rung nhịp với chân lý, với sự thật, với nỗi đau của tha nhân.

Lời dạy của Tin Mừng hôm nay được thể hiện qua đời sống chứng tá cho Chân lý của Gioan Tẩy giả là lời mời gọi tất cả chúng ta phải có “con tim rung nhịp với chân lý” để làm chứng cho Thiên Chúa Tình Yêu, để sống “tử tế” với nhau, khướt từ mọi đam mê quyến rũ, mọi tham lam ích kỷ vụ lợi cá nhân.

Hình tượng Gioan Tẩy Giả trong Tin Mừng càng thôi thúc mỗi người kitô hữu chúng ta hơn nữa: Hãy khiêm tốn sửa đổi chính mình để đón mừng Hài Nhi Giêsu ngự đến.

[Mục Lục]

Bài 15. Có một người ở giữa anh em
An Phong

Trong mùa Vọng, ba nhân vật vẫn được nói đến luôn, đó là: Đức Maria, ngôn sứ Isaia và Gioan – người làm phép Rửa. Bài Tin mừng hôm nay đề cập đến nhân vật thứ ba vừa nói ở trên, với một chứng từ rõ ràng về con người sa mạc ấy. Gioan loan báo Đấng đang đến, Gioan chỉ cho thấy Đấng ấy chính là Đức Giêsu; và một hệ luận tất nhiên: Gioan nhận ra mình không xứng đáng cởi xăng-đan cho Người.

Cùng với Gioan, mùa Vọng hẳn là mùa loan báo và là mùa chỉ cho thấy; đồng thời mùa Vọng là mùa nhận ra mình không xứng đáng.

Thiên Chúa vốn là một vị Thiên Chúa ẩn giấu. Người ta đã hao tổn biết bao giấy mực để cố khám phá vị Thiên Chúa ẩn giấu này. Gần 2000 năm lịch sử trước Chúa Giáng sinh, người ta mặc sức hình dung Ngài với những dung mạo khác nhau. Với Abraham, Ngài không có tên; Ngài là “sự sợ hãi của Isaác” (St 31,42), là “Đấng Tối Cao của Giacóp” (St 49,24)… Với Isaia, Ngài là “Người Tôi Tớ đau khổ”…

Như thế, Ngài luôn luôn và vẫn là một vị Thiên Chúa cần được loan báo và cần được chỉ cho thấy. Đôi lúc người ta phác họa chân dung một Thiên Chúa sai lạc, hoặc chỉ dò ý tưởng riêng của mình. Hẳn lúc đó, nguời ta sẽ nhận được một câu trả lời “tôi không phải như là các bạn nghĩ đâu”; hoặc “có một người ở giữa anh em mà anh em không nhận ra”.

Như thế, cùng với Gioan, chúng ta hẳn phải loan báo và chỉ cho người khác thấy một vị Thiên Chúa tình yêu; Loan báo và chỉ cho thấy Thiên Chúa đang đến. Ngài đang ẩn giấu nơi người nghèo, người đau khổ, những phụ nữ “đứng đường”… bởi Ngài là tình yêu, là niềm cảm thông sâu xa thân phận con người.

Như Gioan, nhận ra mình không xứng đáng, đó là một sự không xứng đáng trước vị Thiên Chúa tình yêu bao la; ta đấm ngực “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”, nghĩa là dám nhận ra mình còn “những điều thiếu sót”, chưa làm những điều phải làm để gia tăng tình yêu. Victor Hugo đã có lần lên tiếng cảnh tỉnh: Ngày nào chúng ta không thắp lên ngọn lửa sưởi ấm, ngọn lửa tình yêu, chắc chắn sẽ có người chết rét”.

Như thế, cùng với Gioan, chúng ta cất tiếng cao rao tình yêu Thiên Chúa bao la và cố gắng sống bác ái với mọi người.

Lạy Chúa Giêsu,

Hẳn cũng có lần con đấm ngực, dằn vặt tâm hồn

và tha thiết mong Chúa giải thoát nỗi khốn cùng của con.

Hẳn cũng bao lần con đứng trước hang đá, cầu xin Chúa mau đến;

Nhưng hình như con chưa dám “đóng vai Chúa”

để đến với những người nghèo khó,

khổ đau chung quanh con.

Và hình như con chưa nhận ra Chúa là tình yêu,

Chúa đang mời gọi tình yêu nơi chính tâm hồn của con.

Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài trở nên tình yêu trong con

và đốt nóng tâm hồn của con bằng tình yêu của Chúa.

[Mục Lục]

Bài 16. Niềm vui đang đến
Lm Lu-y Nguyễn Quang Vinh

Phụng vụ Chúa nhật thứ ba mùa Vọng ghi đậm nét vui tươi. Tiên tri Isaia sống trước Chúa Cứu Thế sáu trăm năm, loan báo tin mừng hồi hương cho dân đang bị lưu đày ở Babylon: “Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa … Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa. Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ cứu độ” (x. Bài Đọc 1. Is 61, 1-2a.10-11). Đây là niềm vui giải phóng, niềm vui hồi hương.

Tin vui cứu độ được Đức Maria cảm nghiệm cụ thể khi lời sấm của ngôn sứ Isaia trở thành hiện thực nơi cung lòng Mẹ, khi Mẹ thưa với sứ thần truyền tin “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”(Lc 1,38) và Mẹ diễn tả niềm vui sung mãn đó trong Kinh Linh Hồn Tôi Ngợi Khen Chúa (Kinh Magnificat). Mẹ lên tiếng ca tụng Thiên Chúa đã đoái thương thân phận mọn hèn của Mẹ, niềm vui cá nhân của riêng Mẹ được tuyển chọn làm mẹ Thiên Chúa; và niềm vui của cộng đồng Do thái được cứu độ theo như Lời Chúa đã hứa từ ngàn xưa. Niềm vui hoàn vũ nầy này vọng lại trong thư thánh Phaolô gửi cho tín hữu Thêxalônica đang chờ mong Chúa Cứu Thế trở lại: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng” (x. Bài Đọc 2. 1Tx 5, 16-24). “Vì đã có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng về ánh sáng” (x. Bài Tin Mừng. Ga 1, 6-8.19-28), làm chứng cho niềm vui cứu độ đã xuất hiện trên trần gian, đó là Chúa Giêsu. Đây là khởi đầu niềm vui Chúa Cứu Thế thực hiện bằng con đường nhập thể và nhập thế đi vào giữa nhân loại. Niềm vui Thiên Chúa làm người, định cư giữa nhân loại, để nhân loại biết đường về trời.

Niềm vui cảm nghiệm mình được Thiên Chúa cứu chuộc được tiên báo qua nụ cười của bà Sara, vợ ông Ápraham, khi được báo tin con đầu lòng Ixáac sẽ ra đời, cho đến sự nhảy mừng của thánh Gioan khi còn trong lòng bà Isave. Tất cả cho thấy niềm vui của buổi phụng vụ hôm nay như tô đậm nét sự hân hoan mà bà Isave cảm nghiệm khi đứa con thân yêu nhảy lên trong dạ mẹ, niềm sung sướng tràn trề của vị tiên tri cuối cùng Cựu Ước gặp được Chúa Cứu Thế thời Tân Ước. Niềm vui vỡ bờ hoành tráng hoàn vũ.

Niềm vui vĩ đại đòi cung cách diễn tả hòanh tráng. Tiền hô hậu ủng là phong cách nhân lọai của bất cứ đại vương nào khi hạ cố thăm thần dân của mình. Sự long trọng của người tiền hô càng làm sáng tỏ uy quyền cao cả của nhân vật chính yếu đến sau. Đây là cung cách của vị tiền hô: Lối sống tu rừng khắc khổ và đơn sơ, cách ăn mặc kỳ dị và mộc mạc, lời rao giảng nghiêm khắc và cứng rắn của vị tiền hô Gioan gây thắc mắc cho những người thời bấy giờ đến phỏng vấn ông. Tuy nhiên đứng trước niềm vui to lớn này vị tiền hô xóa mình đi. Ông khiêm hạ thẳng thắn khẳng định mình không phải là Đấng Kitô, không phải là Êlia, không phải là ngôn sứ mà truyền thống Do thái mong đợi. Ông khẳng định mình là tiếng kêu trong sa mạc, có sứ mạng dọn đường tâm linh, chỉnh đốn tâm đạo cho ngay thẳng để đón tiếp một nhân vật cao trọng âm thầm đang đến một cách bí bí ẩn: “ Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người đến sau tôi, tôi không đáng cởi quai dép cho người” (x. Bài Tin Mừng).

Con người bí ẩn đó là Chúa Giêsu, mà cho đến hôm nay, đối với các Kitô hữu, Người vẫn còn y nguyên là một mầu nhiệm cực lớn, đòi liên tục khám phá trong đời sống. Tất cả những gì diễn tả về Người đều là mầu nhiệm đòi khám phá, sự hiện hữu của Người, quyền năng vô biên của Người, tình yêu cứu chuộc của Người đối với nhân loại, sự đồng hóa của Người nơi anh em hèn mọn, cả đến sự chết và sự phục sinh vinh hiển của Người đều là bí ẩn đòi khám phá không ngừng trong cuộc sống.

Thật vậy mỗi ngày người Kitô phải liên tục khám phá niềm vui trong gặp gỡ tha nhân để phát hiện con người bí ẩn đó, vì “Ngài ở giữa các ông mà các ông không biết”. Không những khám phá niềm vui mà thôi, người Kitô hữu còn phải là tiền hô cho Chúa Cứu Thế nữa, sống vui tươi xây dựng xã hội trần thế, bởi vì Kitô hữu là người mang tin vui đến cho mọi người. Tuy nhiên Người mang tin vui mà chính mình không vui là phi lý, là phản tác dụng, là phản bội sứ điệp loan báo Tin mừng.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết khám phá con người bí ẩn mà thánh Gioan nói đến: “Ngài ở giữa anh em mà anh em không biết”, con người đó có thể là láng giềng khó tánh, là người đồng nghiệp gặp họan nạn, là bệnh nhân cần giúp đỡ, là người xa Chúa lâu ngày cần trở lại. Amen.

[Mục Lục]

Bài 17. Tin mừng giải phóng
Như Hạ, OP

TIN MỪNG đem lại niềm vui cho toàn thể vũ trụ. Nghe lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ hiểu tại sao Kitô giáo là một đạo Tin Mừng, đem niềm vui đến cho toàn thể nhân loại. Đức Giêsu đã xuống trần gian để mạc khải tình Cha yêu thương hết mọi người, không trừ ai. Đúng hơn, “Ngôi Lời hằng hữu đời đời đã nhập thể làm người Á châu,” (ĐGH Gioan Phaolô II: VietCatholic- 8/12/1999) để đem TIN MỪNG giải phóng đến cho miền đầy cơ chế bất công nhất thế giới.

Dọn Đường Cho Chúa Đi

Cho đến hôm nay, Đức Giêsu vẫn còn là một bóng mờ trên miền đất bao la đó. Hơn khi nào, cần phải nhìn Đức Phật, Khổng Tử, Lão tử v.v. như những sứ giả dọn đường cho Chúa đến với dân Người. Nhưng hơn ai hết, Gioan Tẩy giả là vị tiền hô lớn nhất. Hôm nay “ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin” (Ga 1:7). Lời chứng Gioan Tẩy giả thật là hùng hồn và ảnh hưởng. Ông ý thức rất rõ sứ mệnh và vai trò của mình. Ông chỉ là trung gian giới thiệu Đức Giêsu cho muôn dân, chứ không phải là người muôn dân trông đợi. Bởi vậy khi bị những người thuộc phái Pharisêu bắt bí, ông đã khẳng định: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn đường cho thẳng để Đức Chúa đi” (Ga 1:23; Is 40:3). Những người Pharisêu “cứ gặng hỏi xem Gioan Tẩy giả là ai, nhưng Gioan lại muốn cho họ biết Đức Giêsu là ai” (Life Application Study Bible:1991).

Dọn đường cho Chúa đi vào lòng người. Chúa là nguồn bình an và hoan lạc sẽ đem đến cho nhân loại một mùa xuân rực rỡ. Mấy ai phát hiện được mùa hồng ân đang đến ? Bởi vậy Gioan mới nhắc nhở mọi người: “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (Ga 1:26). Chính vì thế, vai trò Gioan cực kỳ quan trọng. Ngoài Gioan, không ai có thể thấy được Đức Giêsu là “Con Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian.” (Ga 1:29) Ông đã đến như một chứng nhân TIN MỪNG. Chính ông đã chỉ cho các môn đệ thấy TIN MỪNG đích thực là Đức Giêsu.

“Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (Ga 1:8). Chính khi làm chứng như thế, ông mới giữ trọn được niềm vui cho mình và các môn đệ. Đức Giêsu đã không hề “dập tắt thần khí” (1Tx 5:19) nơi chứng từ Gioan Tẩy giả, ngay cả khi ông hoài nghi về sứ vụ của Người (Mt 11:2-6; Lc 7:18-23). Trái lại, nhiều lần Người còn ca ngợi ông cao trọng “hơn cả ngôn sứ” (Mt 11:9) và bất cứ “phàm nhân” nào (x. c.11). Dầu vậy, ông chỉ tự nhận như một tên nô lệ bất xứng: “Tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1:27).

Đúng thế. Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa.”Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành” (Ga 1:3), trong đó có Gioan Tẩy giả. Một tạo vật làm sao có thể so sánh với Đấng Tạo hóa ?! Nhưng “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (c.14). Nghĩa là “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (c. 11). Chính vì thế mới cần đến lời chứng Gioan Tẩy giả. Ông đã tìm được niềm vui trong sứ vụ làm chứng. Ông đã thành công rực rỡ tới mức đổ máu vì sự công chính, một nhân tố làm nên Nước Trời.

Nhận Diện

TIN MỪNG đã bắt đầu vang lên với chứng từ Gioan Tẩy giả. Nhưng TIN MỪNG chỉ thực sự có hiệu lực từ lúc Đức Giêsu xuất hiện trong quyền năng Thánh Linh, một sức mạnh giải thoát. Thực vậy chính Chúa đã công khai xác nhận “hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh” (Lc 4:21): “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, Để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố Cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, Cho người mù biết họ được sáng mắt, Trả lại tự do cho người bị áp bức, Công bố một năm hồng ân của Chúa.” (c.18-19; Is 61:1-2).

Từ nay TIN MỪNG đã trả lại cho tất cả những người cùng khổ nhất tất cả niềm vui ơn cứu độ. Như thế xã hội đã được Phúc Âm hóa. Không hiểu tại sao có người không đồng ý với việc “Phúc Âm hóa Á châu” trong thông điệp “Giáo hội tại Á châu” của Đức Giáo Hoàng ? Nếu Phúc Âm hóa chỉ là đổ mấy giọt nước rửa tội trên đầu, quả thực Giáo hội đang đi ngược dòng. Nhưng nếu chỉ nhằm đem lại cho xã hội đời sống “công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14:17), Giáo hội đáp ứng những gì các dân tộc Á châu đang mong đợi nhất. “Giáo hội xác tín rằng trong lòng dân chúng, văn hóa và tôn giáo tại Á Châu, có một cơn khát “Nước Hằng sống” (x.Ga 4:10-15), một cơn khát chính Thần Khí đã tạo ra và chỉ có mình Chúa Giêsu Cứu thế mới có thể thỏa mãn đầy đủ” (Giáo hội tại Á châu:1999). Cơn khát vọng này lớn hơn nỗi mong chờ Đấng Messia của dân Do thái. Cơn khát vọng đó kéo dài cả mấy ngàn năm rồi. Giáo hội đã nêu lên được lý tưởng cao cả nhất của công cuộc Phúc Âm hóa. Giáo hội chỉ muốn phục vụ, chứ không muốn khống chế con người.

Thế nhưng, cho tới nay vẫn có những “chuyên viên” Phúc Âm hóa “lẫn lộn sứ vụ rao giảng Tin Mừng với khát vọng truyền bá các giá trị văn hóa và lối ứng xử kiểu Âu châu” (Cuộc tọa đàm về truyền giáo đại kết tại Hồng Kông, VietCatholic 8/12/1999). Lối khống chế đó đã làm cho công cuộc Phúc Âm hóa Á châu trì trệ và thất bại.

Tuy thế, vẫn chưa đến nỗi thất vọng. Thực tế “Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động trên Á châu trong thời các Tổ Phụ và ngôn sứ, và hoạt động còn mãnh liệt hơn nữa trong thời Chúa Giêsu và Giáo hội lúc đầu, bây giờ vẫn hoạt động ở giữa các người Kitô hữu Á Châu, tăng cường bằng chứng đức tin của họ giữa các dân tộc, các nền văn hóa và tôn giáo của lục địa” (Giáo hội tại Á châu:1999). Chỉ có Thánh Linh mới thấu hiểu và đáp ứng nổi tất cả những khát vọng lớn lao của các dân tộc.

Vậy các dân tộc Á châu đang mơ ước những gì ? Chắc chắn sống dưới nhiều cơ chế bất công khác nhau, họ muốn thấy công lý ngự trị. Đây là một cơ hội lớn xây dựng Nước Chúa tại Á châu. Hơn lúc nào hết, chúng ta cố gắng “thiết lập lại công bằng và làm cho công bằng được triển nở ở mọi cấp bực xã hội” (ĐGH Gioan Phaolo II: VietCatholic- 8/12/1999). Nhưng muốn thực hiện được công cuộc đó, xin khắc tâm khắc cốt lý tưởng Kitô hữu sau đây:

TÌNH YÊU phục vụ tha nhân,

Sống là TIẾN BỘ, dấn thân suốt đời.

TÍN THÀNH sống đạo làm người,

Hồng ân thắp sáng bầu trời TỰ DO.

Hai vai TRÁCH NHIỆM ‘tiền hô':

TIN MỪNG cứu độ, điểm tô Nước Trời.

Lý tưởng đó đã được Thần Khí khơi dậy nơi Kitô hữu. Nhưng bao lần lý tưởng tuổi trẻ đã bị vùi dập. Bởi vậy, thánh Phaolô cảnh cáo: “Anh em đừng dặp tắt Thần Khí.” (1 Tx 5:19) Đặc biệt, nơi giáo xứ Thần Khí đang hoạt động như “trung tâm đời sống phụng vụ” (ĐGH Gioan Phaolô II: CWNews 25/11/2002) và trung tâm đào luyện giáo lý và luân lý cho giới trẻ Kitô hữu. ĐGH cho thấy giáo xứ là tụ điểm quan trọng để giáo dân “uống tận nguồn suối Lời Chúa và truyền thống. Người cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của bí tích Thánh Thể trong việc nuôi dưỡng đức tin, “bảo vệ chúng ta khỏi tội lỗi, kiện cường chúng ta trong tình thân ái, và duy trì nỗ lực chúng ta trên cuộc hành trình dương thế.” (CWNews 25/11/2002) Không có sức mạnh đó, tuổi trẻ không thể chống lại những ảnh hưởng văn hoá trần tục. Muốn tìm được hứng thú cho cuộc sống, giới trẻ “cần phải tiếp tục cuộc hành trình, khởi sự từ Đức Kitô, nghĩa là từ bí tích Thánh Thể.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 25/11/2002) Hôm nay, Giáo hội cần giáo dân “ý thức về ơn gọi rao giảng Tin Mừng” và sẵn sàng đem sứ điệp Tin Mừng vào trần gian. Muốn “làm chứng về ánh sáng”(Ga 1:7.8) là Đức Kitô giữa thế giới chìm đắm trong bóng tối hôm nay, họ cần giáo xứ hỗ trợ mạnh mẽ (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 25/11/2002) và trang bị đầy đủ sức mạnh Tin Mừng.

[Mục Lục]

Bài 18. Đơn giản là như thế
Nguyễn Cao Luật

Tôi chẳng phải là ai cả

Câu chuyện xảy ra tại một địa điểm ở phía Bắc Biển Chết, có lẽ cũng là nơi xưa kia dân Do-thái đã vượt qua sông Gio-đan để tiến vào Đất Hứa. Ông Gioan Tẩy Giả đang có mặt tại đó và làm phép rửa bằng nước. Chỉ một nghi thức sám hối này cũng đủ để phân biệt phép rửa của ông với những cách thức thanh tẩy khác nhau vốn đang thịnh hành trong các nhóm thời bấy giờ. Con người này là ai vậy mà biết bao người đang ùn ùn kéo đến với ông để lãnh nhận phép rửa ? Con người này có sứ mạng gì mà lời rao giảng của ông có âm giọng như tiếng kêu của các vị ngôn sứ, tính cho đến lúc này, đã im vắng được ba thế kỷ ?

Người Do-thái, hay chính xác hơn, một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đã muốn xác định xem ông là ai. Họ đặt câu hỏi và muốn xếp ông vào một trong số những hiểu biết của mình. Họ muốn kiểm chứng, họ muốn tin chắc vào hiểu biết của mình.

Trước hết, họ muốn biết có phải là Đấng Mê-si-a không. Trong giai đoạn căng thẳng lúc bấy giờ, có rất nhiều người mong chờ vị sứ giả của Thiên Chúa đến. Họ đã mường tượng ra dung mạo của vị sứ giả, nhưng là một thứ hình ảnh cứng ngắc. Trong thực tế, họ đã có nhiều hình ảnh mẫu, tuỳ theo thái độ chờ đợi, tuỳ theo khát vọng của mỗi người. Trong khi đó, các vị lãnh đạo dân đang cố gắng kiểm chứng danh tính của những người đang có ảnh hưởng trên dân chúng. Chính họ cũng có quan niệm về dung mạo của con người phải đến. Do đó, họ đã nêu vấn đề với ông Gioan khi thấy đám đông kéo đến với ông để nghe giảng và đón nhận phép rửa.

Ông có phải là ngôn sứ Ê-li-a không ? Một nhân vật khác được nêu lên sau khi ông Gioan đã tuyên bố ông không phải là Đấng Mê-si-a. Từ trước đến nay, người Do-thái vẫn công nhận ngôn sứ Ê-li-a là một chứng nhân vĩ đại về lòng tin. Ông đã được cất lên trời cách lạ lùng (2 V 2), và ông sẽ trở lại để dọn đường cho Đấng Mê-si-a đích thực. Lúc sinh thời, ngôn sứ Ê-li-a đã bị mọi người loại bỏ. Nhưng giờ đây, người ta đã biết ông là ai. Con người xưa kia bị bách hại, nhưng giờ đây lại được tôn phong.

Người ta vẫn dựa trên những hình ảnh quá khứ để nhận định về hiện tại. Nhưng mỗi người có vai trò riêng của mình, và ông Gioan Tẩy Giả là một trường hợp rất đặc biệt.

Đơn giản là một chứng nhân

Câu trả lời của ông Gioan cho thấy một thái độ khiêm tốn cần ngạc nhiên.

Ông tuyên bố ông không phải là Đấng Mê-si-a, không phải là Ánh Sáng. Ông không phải là ngôn sứ Ê-li-a trở lại, cũng không phải là vị Ngôn Sứ vĩ đại như người ta vẫn chờ đợi.

Ông chỉ là vị tiền hô, đơn giản là một chứng nhân, có vai trò hoàn toàn tuỳ thuộc vào Đấng ông loan báo. Ông là ngọn đèn do Thiên Chúa thắp lên để soi đường cho Đức Ki-tô đến, là tiếng nói của Thiên Chúa. Đơn giản chỉ có thế. Tất cả chỉ có thế. Ngọn đèn để soi sáng, tiếng nói để cung cấp lời.

Cách trả lời của ông Gioan Tẩy Giả cho thấy ông không để cho người ta xác định về mình. Ông không lặp lại quá khứ, nhưng mở ra tương lai. Vì vậy, ông là người của bất ngờ. Người ta không thể đóng khung vào một loại nào. Ông khước từ quan niệm coi ông là điểm dừng, ông chỉ muốn mình là điểm cần đi qua. Ông làm chứng về ánh sáng, một loại ánh sáng luôn vuột khỏi tầm với con người, nhưng lại soi chiếu cho họ trên con đường của mình. Ông Gioan chỉ muốn mình là người chỉ đường và không muốn người ta chăm chú vào mình. Một thái độ tuyệt vời và chính điều này làm ông trở nên cao cả. Đây cũng là đặc tính của mọi ngôn sứ Ít-ra-en.

Đàng khác, câu trả lời của Gioan là một thứ tuyên bố về lý lịch cá nhân, nhưng hoàn toàn tiêu cực, làm cho những người chất vấn chưng hửng, thêm thắc mắc. Người ta không thể xác định về ông, nhưng ông vẫn rất cần thiết và quý giá để chỉ cho mọi người thấy rằng: có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”.

Tuy vậy, phải nói rằng chính ông Gioan Tẩy Giả cũng không biết rõ về Đức Giêsu. Đang khi ông dìm người khác trong nước để thức tỉnh và thanh tẩy họ, thì chính ông lại sống trong nghi nan. Ông biết rằng ông có sứ mạng dọn đường cho Đấng Mê-si-a đến. Ông cũng biết rằng Đấng Mê-si-a cao cả hơn ông nhiều: “Người đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” ; “có người đến sau tôi nhưng trỗi hơn tôi, vì có trước tôi” ; ông cũng cảm thấy một sự đứt đoạn, nhưng ông chưa thấy Người đến. Ông cũng không biết rằng Vị Sứ giả của Thiên Chúa, mà ông là người dọn đường, lại chẳng là ai khác hơn là người bà con của ông tại làng Na-da-rét, là ông Giêsu người thợ mộc.

Ông chỉ biết rằng chính ông không phải là Đấng Mê-si-a, và chỉ là kẻ dọn đường. Ông biết điều này rất rõ và ông sống đến tận cùng. Ông dấn thân trọn vẹn để thi hành sứ mạng ngôn sứ, giới thiệu Đức Ki-tô khi tới thời gian đã được ấn định. Ông biết rằng ông không phải là ánh sáng, nhưng ông có mặt để làm chứng về Ánh Sáng. Rồi đây, ông sẽ đưa tay ra để chỉ vào Đấng phải đến. Người là Đức Giêsu, Người đến và đem lại cho Thiên Chúa vô hình, Thiên Chúa không thể đụng chạm tới được một dung mạo, một thân thể.

Về một Thiên Chúa đã biết và chưa biết

Không ai thấy Thiên Chúa, không ai nghe được Thiên Chúa, và cũng không ai đụng chạm được Thiên Chúa.

Làm thế nào bây giờ trước một Thiên Chúa được gọi là Ánh Sáng nhưng không ai nhìn thấy được ? Đấng tự nhận mình là Chân Lý tinh tuyền nhưng lại xuất hiện dưới khuôn mặt không thực, Người là ai ? Đấng hiện diện ở khắp nơi nhưng dường như lại vắng mặt, Người là ai ?

Các nhà thần học luôn tìm ra những lý luận rất hay, nào là Thiên Chúa ẩn mình để tôn trọng sự tự do của chúng ta, hay để tạo cho chúng ta nỗi ngạc nhiên khi chúng ta chết, v.v… Tuy vậy, chúng ta cảm thấy không thoả mãn với những giải thích như thế, và chúng ta có cảm tưởng rằng những giải thích này cũng chẳng làm cho những người đã đề ra chúng được thoả mãn.

Thiên Chúa là Đấng không thể hiểu thấu: chúng ta phải chấp nhận sự kiện đó, một sự kiện không thể khác được. Chấp nhận không phải để buông xuôi, nhưng là để nhìn rõ chỗ đứng của chúng ta và nhất là để đặt Thiên Chúa vào đúng chỗ của Người, tức là Người có mặt ở khắp nơi, ở bất cứ nơi nào chúng ta đang chờ đợi Người.

Như vậy, nếu Thiên Chúa không để cho cảm giác và lý luận của chúng ta đụng chạm tới Người, nếu Thiên Chúa không để cho chính lòng tin của chúng ta nắm bắt được Người, thế thì phải chăng chúng ta bị kết án phải tìm đến Người trong bóng đêm mịt mù ? Phải chăng chúng ta đang có nguy cơ đi lạc đường hay là chỉ chạy theo một ảo ảnh ?

Những câu hỏi như thế vẫn được đặt ra cho chúng ta và có lẽ không bao giờ chúng ta có được câu trả lời đầy đủ. Thiên Chúa vẫn luôn ở phía trước và mở ra những chân trời rộng lớn hơn. Người mời gọi chúng ta bước vào và trở thành nhân chứng cho Người.

Như ông Gioan Tẩy Giả, mỗi chúng ta cũng được mời gọi trở thành người loan báo về một Thiên Chúa đang ẩn mình nhưng vẫn đang đến. Mỗi chúng ta đang được mời gọi đóng vai trò rất khiêm tốn nhưng không thể thiếu: giới thiệu về Thiên Chúa đang đến. Nói một cách khác, chúng ta được trao phó trách nhiệm lôi kéo thêm nhiều người cùng gia nhập vào cộng đoàn những người tìm kiếm Thiên Chúa, tìm kiếm Chân Lý và Ánh Sáng, đang khi chính chúng ta phải trở thành ngọn đèn, thành tiếng nói. Đơn giản là như thế. Tất cả chỉ có thế.

Thiên Chúa của tôi vượt hẳn mọi thứ suy luận và mọi thứ đo lường.

Thiên Chúa của tôi là thế này: kỳ diệu, độc đáo và gây sững sờ.

Người là hữu thể, nhưng lại là chuyển biến,

Người là những gì đã có, hiện có và sẽ có,

Người là tất cả, nhưng không có gì là Người,

Chúa tôi gây sững sờ

là Đấng người ta tin nhưng không thấy,

người ta yêu mến nhưng không sờ được,

người ta trông chờ nhưng không nghe theo,

người ta chiếm hữu, nhưng không đáng được như thế.

(Juan Arias – Thiên Chúa mà tôi không tin, trang 32)

[Mục Lục]

Bài 19. CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Trên đời có nhiều thứ ánh sáng: ánh sáng vật lý, ánh sáng văn hoá, ánh sáng khoa học, ánh sáng tâm linh. Để nhìn ra ánh sáng, cần có một khả năng nào đó. Để thấy ánh sáng vật lý, chỉ cần có đôi mắt bình thường. Nhưng để nhìn thấy ánh sáng khoa học, phải có một số vốn kiến thức cần thiết. Để thấy ánh sáng văn hoá, cần được khai tâm mở trí. Và để thấy được ánh sáng tâm linh, cần có các chứng nhân chiếu dọi. Thánh Gioan Baotixita là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của ngài. Nhìn vào cuộc đời ngài, ta thấy toả ra các làn ánh sáng sau đây:

Làn ánh sáng thứ nhất mà ta thấy nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự khiêm nhường. Ngài khước từ mọi vinh quang người ta phủ quanh ngài. Ngài thành thực nhận mình không phải là Đấng Cứu Thế toàn dân mong chờ, không phải là Êlia vĩ đại, cũng không phải là một tiên tri cao cả. Ngài tự nhận mình chỉ là một “tiếng kêu trong sa mạc”. Ngài khiêm nhường nói rằng ngài không xứng đáng xách giày cho Đẫng Cứu Thế. Thật là khiêm nhường tự hạ. Đức khiêm nhường ấy chiếu lên dung mạo ngài một làn ánh sáng. ánh sáng ấy khiến cho lời chứng của ngài càng có sức thuyết phục. ánh sáng ấy phản chiếu dung mạo đích thực của Đấng Cứu Thế, Đấng tuyệt đối khiêm nhường.

Làn ánh sáng thứ hai ta thấy nơi cuộc đời của thánh nhân là làn ánh sáng của sự khổ hạnh. Phần lớn đời ngài ẩn dật trong sa mạc. Sống trong sa mạc đồng nghĩa với sống khổ hạnh. Ngoài sự khắc nghiệt của thời tiết, sự hoang vu cô tịch, sự đe doạ của thú dữ, thánh Gioan Baotixita còn tự nguyện sống khó nghèo, đơn sơ, đạm bạc. Y phục của ngài chỉ là mảnh da thú quấn quanh thân thể. Thức ăn của ngài là châu chấu và mật ong rừng. Sự khổ hạnh không chỉ loé sáng lên một ý chí mạnh mẽ biết vượt thắng chính bản thân mình, mà còn chiếu ánh sáng hy vọng vào tương lai. Người lệ thuộc vào vật chất là người bị trói buộc trong hiện tại. Người khổ hạnh là người đặt niểm hy vọng ở tương lai. Niềm hy vọng ấy chiếu sáng vào cuộc đời hiện tại vì làm cho cuộc sống có một ý nghĩa cao đẹp và sâu xa. Tương lai tươi sáng mà thánh Gioan Baotixita chờ đón chính là Đức Giêsu Kitô mà ngài loan báo.

Làn ánh sáng thứ ba nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự trung thực. Trung thực trong những lời nói về chính mình, nên ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm Ngài có. Ngài chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình. Trung thực với lòng mình, nên ngài sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong những phán đoán về người khác, nên ngài đã thẳng thắn khuyên vua Hê-rô-đê không đựơc phép lấy chị dâu. Chính sự trung thực này đã phải trả giá bằng cái chết chẳng toàn thây. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Làn ánh sáng ấy cho ta thoáng thấy ánh sáng đích thực của Đấng là Sự Thật, là chính Đức Giêsu Kitô.

Làn ánh sáng thứ tư nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự quên mình. Biết mình chỉ là người đưa tin, thánh nhân luôn xoá mình đi, để cho Đấng là chính Tin Mừng được nổi bật. Biết mình chỉ là người mở đường, thánh nhân luôn tự hạ để cho Đấng là Đường được mọi người nhận biết. Làm chứng cho sự thật, thánh nhân đã tự nguyện hy sinh để cho Đấng là Sự Thật được trân trọng. Khi mọi người tuốn đến với Ngài, Ngài đã không giữ lại cho mình, nhưng đã giới thiệu họ đến với Đức Giêsu, nên ngài nói: “Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi dây giầy cho Người” (Ga 1,27). Nhiều môn đệ đã theo Ngài, nhưng Ngài giới thiệu để họ theo làm môn đệ Đức Giêsu. Khi thấy đám đông đã bỏ ngài để đi theo Đức Giêsu, ngài hài lòng vì thấy nhiệm vụ đã hoàn tất, nên ngài nói: “Chúa phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3, 30).

Thánh Gioan Baotixita thật là một chứng nhân tuyệt hảo. Ngài đã biết tự hạ mình xuống để Chúa được nổi bật lên. Ngài đã biết ẩn mình trong bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng. Ngài đã biết tự huỷ mình đi để Chúa được nhận biết. Ngài đúng là người đi mở đường cho Chúa. Ngài thực là chứng nhân của ánh sáng.

Mùa Vọng này, mọi người đang chờ đón Chúa đến. Chúa muốn tôi hãy đi mở đường cho Chúa. Chúa muốn tôi làm chứng cho Chúa. Chúa muốn tôi giới thiệu Chúa cho anh em. Nhưng rất nhiều khi, thay vì mở đường cho Chúa, tôi chỉ lo mở đường cho tôi. Rất nhiều khi thay vì làm chứng cho Chúa, tôi chỉ lo làm chứng cho tôi. Rất nhiều khi thay vì giới thiệu Chúa, tôi chỉ giới thiệu bản thân mình.

Hôm nay, Chúa mời gọi tôi hãy soi mình vào tấm gương của thánh Gioan Baotixita để biết cách dọn đường cho Chúa ngự đến.

Xin thánh Gioan Baotixita giúp chúng con sống trong sáng để trở nên chứng nhân của ánh sáng.

[Mục Lục]

Bài 20. Chứng nhân ánh sáng trung thực
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Gioan Tẩy Giả, có lẽ, là vị Thánh Công Giáo đi vào hội họa nhiều nhất. Có vô số tranh vẽ về ông với đề tài khá đa dạng, hướng đến những giá trị tư tưởng khác nhau. Gần như hầu hết các họa sĩ nổi tiếng nhất trong lịch sử nghệ thuật Công giáo, từ Leonardo da Vinci, Titian, Caravaggio đến Rubens…đều tìm thấy trong cuộc đời của ông một chi tiết nào đó làm nguồn cảm hứng sáng tác cho mình. Riêng Caravaggio, đã vẽ đến hàng chục tác phẩm về Gioan Tẩy giả…

Không chỉ nhiều, Gioan Tẩy Giả có lẽ cũng là vị Thánh đi vào hội họa sớm nhất.

Icon thể hiện hình ảnh Thánh lâu đời nhất được tìm thấy, là icon về Gioan Tẩy Giả, được vẽ vào khoảng cuối thế kỷ thứ V đầu thế kỷ thứ VI, có nguồn gốc Palestine. Dưới đây là ảnh tác phẩm. Bức tranh đã bị hư hại nhiều, không thể nhận biết hai hàng chữ viết hai bên chuyển tải thông điệp gì. Ở trên cùng, dễ nhận biết, bên trái, là hình ảnh Chúa Giêsu, và bên phải, là hình ảnh Đức Mẹ Maria.

Giữa vô số tranh vẽ Thánh Gioan tẩy giả, chiếm số lượng nhiều nhất, và có nhiều tác phẩm xuất sắc nhất, là ở mảng chủ đề: “Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết”.

Dưới đây là icon thể hiện chủ đề “Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết” được cho là lâu đời nhất được vẽ vào khoảng đầu thế kỷ thứ VII, thuộc truyền thống Byzantium.

Đứng chính giữa, là Thánh Gioan Tẩy Giả. Ông đang nói: “Tôi không phải là ánh sáng, nhưng tôi đến để làm chứng cho ánh sáng”. Phía sau là dòng sông, nơi ông thực hiện phép Rửa cho Chúa Giêsu. Bên trái, là đầu của ông, đã bị chặt lìa, nhưng vẫn như đang hướng nhìn về phía chúng ta. Bên phải: ở dưới là con chiên tượng trưng cho Dân Chúa như đang suy ngẫm về những gì Thánh Gioan Tẩy giả nói trong sự tôn kính, và bên trên là cây tượng trưng cho sự sống.

Bức tranh như vậy, theo một số học giả, là sự khái quát trọn vẹn cuộc đời và sứ mệnh của Thánh Gioan Tẩy Giả: “là nhà tiên tri cuối cùng, là người dọn đường cho sự ra đời của Chúa”. (Nguyên Hưng).

  1. Chứng nhân ánh sáng trung thực

Khởi đầu Phúc Âm Thánh Gioan đã viết: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin.” (Ga 1,6-7).Thánh Gioan là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của mình. Ngài là chứng nhân ánh sáng của sự trung thực.

Chúa Giêsu đã nói về Gioan: “Đây còn hơn cả ngôn sứ nữa” (Mt 11, 9). Và Chúa còn nói thêm về Gioan: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy giả” (Mt 11,11). Nhưng so sánh với Chúa Giêsu, Gioan nhận ra mình thật nhỏ bé. Thấp kém đến nỗi “không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người”. Gioan trung thực nói lên một sự thật. Đó là mình kém xa vì Gioan chỉ là một thụ tạo yếu đuối mỏng dòn.Trong khi đó, Đức Kitô là Thiên Chúa, là Chúa của Gioan và là chủ tể của mọi loài. So sánh với Chúa Giêsu, Gioan chỉ là một giọt nước giữa lòng biển cả mênh mông, chỉ là một cây nhỏ trong đại ngàn trùng điệp, chỉ là một hạt cát giữa sa mạc bao la.

Khi thấy Gioan xuất hiện, rao giảng phép rửa thống hối, dân chúng tự hỏi xem có phải ông là Đấng Cứu Thế không? Gioan phủ nhận địa vị mà họ gán cho ông (Ga 1,20; Cv 13,25). Gioan tự xóa mình trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước bao nhiêu người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần.Gioan trung thực trong những lời nói về chính mình. Ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm ngài có. Gioan chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình mà thôi.

Trung thực với lòng mình, nên Gioan sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong sứ vụ nên Gioan chẳng nể vì kiêng cữ ai. Những luật sĩ thông thái phái Pharisiêu, những bậc vị vọng có nhiều ảnh hưởng lớn trong xã hội thuộc phái Sađucêô, những thầy cả tư tế đạo cao chức trọng, tất cả đều bị Gioan cảnh cáo nặng lời. Gioan gọi họ là loài “rắn độc” (Mt 3,7). Ngay cả vua Hêrôđê, Gioan cũng thẳng thắn cảnh cáo vì vua muốn chiếm vợ của anh mình (Mt 14, 3-12). Vua Hêrôđê vẫn nể sợ Gioan vì biết ông là người công chính, thánh thiện (Mc 6,20). Chính vì trung thực trong sứ mạng ngôn sứ mà Gioan phải trả giá bằng ngục tù và bị chém đầu. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Ánh sáng trung thực khiến cho lời chứng của Gioan càng có sức thuyết phục.

Gioan đã làm chứng nhân ánh sáng trung thực nên đã sống một cuộc đời thật đẹp và đã chết hào hùng.

  1. Thánh Gioan sống rất đẹp

Gioan sống đẹp vì dám từ bỏ đời sống dễ dãi tiện nghi của gia đình và xã hội, rút vào trong sa mạc hoang vắng để sống gắn bó với Thiên Chúa, lắng nghe và thực hiện ý Ngài.

Gioan sống đẹp khi có được một số môn đệ theo mình, nhưng ngài cũng không ngần ngại giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa cho họ (Ga 1,36) để họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu, một bậc Thầy cao cả hơn.

Gioan sống đẹp khi ngài thu phục được đám đông dân chúng, được dân chúng ngưỡng mộ, xem ngài như một tiên tri cao cả, nhưng Gioan lại chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà ngài không đáng cởi quai dép cho Người (Ga 1,27) để cho dân chúng thôi ngưỡng mộ mình mà quay sang ngưỡng mộ Chúa Giêsu.

Gioan sống đẹp khi chủ trương rằng: “Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”.(Ga 3,30)

  1. Thánh Gioan chết cũng rất đẹp, rất hào hùng.

Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương,bị đế quốc Roma cai trị hà khắc,nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn,dân chúng lầm than. Gioan mang nặng những ưu tư, những trăn trở yêu nước thương dân.

Vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân. Lương tâm ngôn sứ thúc đẩy, Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua, kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay.Vì thế, Gioan đã bị vua chém đầu. Cái đầu vị ngôn sứ đổi bằng bữa tiệc và điệu múa vũ nữ. Hêrôđê tàn bạo, Hêrôđiađê lăng loàn và thủ đoạn. Cái chết của Gioan cao đẹp và hào hùng vô cùng.

Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ngài không hoàn thành,bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù. Ngôn sứ, chứng nhân của sự thật thời nào cũng phải trả giá. Điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống.Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.

Người theo Đạo Hồi giáo Islam sùng kính Thánh Gioan Tiền Hô ở giáo đường bên Syria. Theo sự tin tưởng và tương truyền, trong ngôi đền thờ Hồi giáo Omajjden bên Syria có nấm mộ chôn đầu bị chém của Thánh Gioan Tiền Hô. Người Hồi giáo Syria gọi thánh nhân bằng tên Yaya Ben Zakariyah. Năm 2001, Đức Chân Phước Gioan Phaolo II đã đến hành hương kính viếng cầu nguyện trước ngôi mộ Thánh nhân tại ngôi đền thờ này với mọi người Hồi giáo tại đó. Một vị Thánh sống tôn trọng và rao giảng sự trung thực, sự ăn năn sám hối. Từ đó cho tới nay, người Hồi giáo vẫn luôn luôn sùng kính mộ mến thủ cấp của vị ngôn sứ chứng nhân sự thật.

  1. Theo gương Thánh Gioan, sống chứng nhân trung thực

Nói sự thật có thể bất lợi cho mình hoặc cho người khác. Gioan đã dám nói sự thật, dù phải chết. Gioan không sợ quyền lực, không hùa theo kẻ có quyền lực. Trước điều sai trái, ngài không im lặng để được an toàn bản thân, để được xã hội ưu đãi. Gioan lên tiếng làm chứng cho lẽ phải, ngài không thể nói ngược lại lương tâm mình. Không thể nói điều sai trái là đúng, hay nói điều đúng là sai trái.

Có lẽ chưa bao giờ người dân Việt Nam lại ngao ngán trước những tiêu cực, tệ nạn, bất công, gian dối đầy dẫy trong xã hội như ngày hôm nay. Người dân phải chấp nhận sống chung với gian dối, tiêu cực, tệ nạn như người miền Tây, miền Trung được khuyên tập sống chung với lũ vậy.Ông Trần Quốc Thuận, văn phòng Quốc Hội Việt Nam tuyên bố: “Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống. Nói dối hằng ngày nên thành thói quen. Thói quen đó lập lại nhiều lần thành ‘đạo đức’, mà cái ‘đạo đức’ đó là mất đạo đức.”. Gian dối trở thành tập quán xã hội, một bản tính thứ hai, một nền “đạo đức” của con người, như vậy thì tương lai của dân tộc Việt Nam sẽ đi về đâu?

Giáo sư Hoàng Tụy nhận định: Sự giả dối hiện nay đang có nguy cơ trở thành nỗi nhục trong khi truyền thống dân tộc Việt Nam không phải là dân tộc giả dối. Ngành giáo dục càng không thể là ngành giả dối. Thế nhưng, đã có hơn một nhà khoa học nước ngoài nói thẳng với tôi rằng, điều thất vọng lớn nhất mà ông ta cảm thấy là sự giả dối đang bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội ở các tầng nấc… Trung thực thế nào được khi mà người ta hàng ngày phải sống trong một môi trường giả dối mà minh chứng rõ nhất là tiền lương công chức. Chẳng ai sống nổi bằng lương nhưng rồi ai cũng sống đàng hoàng, dư giả. (x.Báo Khuyến học & Dân trí, Thứ sáu, 28/11/2008).

Lm Nguyễn Hồng Giáo nhận định: Xã hội ta thì xưa nay đã quá quen với việc làm dối, nói dối, báo cáo láo đến nỗi dường như không còn coi đó là một điều xấu nữa. Chúng ta còn nhớ một khẩu hiệu được tung ra thời đầu đổi mới là “Nói thẳng, nói thật”. Có chủ trương như thế là vì có tình trạng quanh co, gian dối. Một bài thơ châm biếm đăng trên Sài Gòn Giải phóng ngày 18. 5. 1990 có nhan đề đáng để ý.

Thôi xài chữ giả

Chữ nghĩa du di chả mấy hồi

Đói không nói đói, “thiếu ăn” thôi!

Học hành “hạn chế”: y chang dốt

Báo cáo “tuy nhiên”: ắt hẳn… tồi.

“Vượt mức chỉ tiêu”? Nên bớt nửa,

“Có phần sơ sót”? Hãy nhân đôi…

Mực đen gấy trắng đòi trung thực

Chữ giả xài lâu hỏng lắm rồi. (Long Vân)

Các nhà nghiên cứu đã phân tích và nêu lên nhiều nguyên nhân của tình trạng thiếu trung thực tràn lan. Nhưng tôi thiển nghĩ rằng, ta còn có thể nghĩ tới một nguyên nhân sâu xa mà hình như chưa ai đề cập tới cách thẳng thắn. Đó là liệu tình trạng này có liên quan cách nào đó chăng tới nhân sinh quan chính thức của xã hội ta hay ít nhất là tới một cách làm, cách nghĩ lâu đời đã ăn quá sâu vào trong tâm thức của giới cầm quyền và nhân dân? Tôi không dám khẳng định mà chỉ nêu câu hỏi như một “giả thuyết làm việc”, như người ta quen nói trong phạm vi nghiên cứu khoa học (hypothèse de travail)… Tôi thiển nghĩ, muốn cải tổ giáo dục theo chiều hướng trung thực, cần phải có một sự cải tổ sâu hơn về não trạng và về quan niệm đạo đức, tựu trung là về nhân sinh quan. (x. Giả dối lan tràn, tại sao? Lm Nguyễn Hồng Giáo, OFM).

Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa Trung Tín (1 Tx 5,24). Ngài là “đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Ngài đã tin tưởng và gọi chúng ta là môn đệ của Ngài (Mt 25,22), và trao cho chúng ta những trách nhiệm lớn (Mt 25,21; Mt 28,19). Vì thế, chúng ta phải là chứng nhân trung thực của sự thật và trung tín giữa một xã hội mà sự gian dối đã trở thành “đạo đức”.

Thiết nghĩ, bài học về lòng trung thực phải là bài học đầu đời cho các bộ óc trẻ trung đang còn trong trắng tuổi học sinh.

Theo gương Thánh Gioan chứng nhân ánh sáng trung thực, với tư cách ngôn sứ, chúng ta cần sống chứng nhân cho chân lý và tình yêu. Sống chân chính ngay thẳng theo lương tâm Kitô giáo, chúng ta góp phần mở đường dọn lối cho Chúa đến.

[Mục Lục]

Bài 21. Làm chứng

Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đã đưa ra những câu hỏi để truy tìm tông tích, lý lịch, dung mạo và vai trò của Gioan tiền hô, nhưng thực ra là truy tìm chính Đức Kitô, Đấng Cứu Thế.

Bấy giờ, mọi người ở Giêrusalem đã bị khuấy động bởi những chuyện khác thường. Thế nhưng, những câu hỏi nêu lên lại không đi ra ngoài những khuôn mẫu sẵn có: là Elia, là tiên tri? Và Gioan đã chỉ có thể trả lời không. Bao lâu người ta còn loanh quanh trong những cái có sẵn, người ta không thể nhận ra Ngài. Sự hiện diện của Ngài đã là một sự độc đáo. Gioan đã phải vất vả để dứt cái nhìn của đám đông ra khỏi con người của ông để hướng về chính Đấng họ đang tìm kiếm. Và Đấng ấy đang ở giữa họ, nhưng họ chưa nhận ra. Gioan quả đã là người chứng đích thực vì ông đã không ngăn cản ánh sáng chiếu tới họ.

Muôn ngàn những bận rộn trong ngày chuẩn bị lễ Giáng sinh của chúng ta cũng có thể được coi là những câu hỏi về dung mạo của Đấng chúng ta đang chờ đợi và tìm kiếm. Những cuộc vui chơi với bè bạn. Những chiếc hang đá xinh xinh và gợi cảm. Những món quà đắt giá, những chiếc bánh truyền thống, những bài hát thơ mộng, những ánh đèn muôn màu và rồi những buổi lễ long trọng. Lễ Giáng sinh có thể được làm nên bởi những thứ đó, nhưng tất cả những thứ đó được lặp lại hàng năm, có phải là giáng sinh? Có phải đó là lễ giáng sinh của ngày hôm nay? Chúng ta chỉ có thể trả lời: Không phải và không thể.

Bởi lẽ giáng sinh là một con người, con người ở giữa chúng ta trước khi là một ngày lễ. Con người ấy được nhận diện không phải bằng những lời giới thiệu, những bài giảng hay bằng các nghi lễ, mà trước tiên bằng chính việc làm. Không phải những việc làm thuộc loại gây chấn động trong thiên hạ, gây kin ngạc và thán phục, những việc làm ngoạn mục xuất chúng.

Bài đọc hai đã kê khai những việc làm của Đấng được xức dầu, tức là Đức Kitô: Loan báo Tin Mừng cho kẻ khó nghèo, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên bố việc ân xá cho những bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Và Đức Kitô đã khẳng định: Chính Ngài là người đã thực hiện những việc làm này, và chính Ngài cũng đã từng trả lời với những ai đang thắc mắc về Ngài: Hãy nhìn những việc làm để nhận ra Ngài là ai. Ngài quả là Đức Kitô, vì Ngài đã làm những việc của người đã được Thiên Chúa xức dầu. Đức Kitô đã chết và đã được tôn vinh, nhưng Ngài vẫn hiện diện giữa con người. Theo ánh sáng của lòng tin, chúng ta biết được Ngài hiện diện ở đâu có những nỗ lực và hành động giải phóng, đưa con người bị vùi dập bạc đãi, bị kỳ thị, bị tước mất quyền làm người. Mỗi người chúng ta có bổn phận phải làm chứng. Làm chứng không phải chỉ bằng lời nói mà chủ yếu bằng việc làm. Những việc làm của chính Đức Kitô, Đấng được xức dầu.

Thế nhưng nhiều khi chúng ta chuẩn bị mừng lễ giáng sinh bằng sự phô trương chính mình thay vì là một chứng tá sống động về sự hiện diện của Đức Kitô, Đấng mà mọi người đang mong đợi và tìm kiếm.

[Mục Lục]

Bài 22. Những lời chứng

Thánh Gioan Tẩy giả đóng một vai trò trung tâm trong việc Đấng Cứu Độ sẽ đến. Theo bài Tin mừng hôm nay, vai trò của ngài là “chứng nhân để nói về ánh sáng”. Ánh sáng đó chính là Đức Giêsu.

Thánh Gioan đã chứng tỏ mình là một chứng nhân can đảm và có hiệu quả. Ngài có nhân cách mạnh mẽ và là người sống theo nguyên tắc. Ngài không sống theo một lối sống thoải mái, không sống trong cung điện, nhưng sống nơi sa mạc. Lối sống của ngài, cũng như sự chính trực của cá nhân ngài, đã bổ sung thêm niềm tin tưởng cho những lời nói của ngài, đã bổ sung thêm niềm tin tưởng cho những lời nói của ngài. Ngài là một gương mẫu sống động cho điều mà ngài rao giảng. Và khi đã hoàn tất nhiệm vụ của mình, ngài bước sang một bên để nhường lối cho Đức Giêsu.

Đức Giêsu vẫn cần đến những lời chứng. May thay, vẫn còn những người trung thành làm chứng cho Người, và coi bản thân mình như không có giá trị gì.

Một vị linh mục nói với tôi về cuộc thăm viếng của ông tại Trung quốc cách đây vài năm. Trong thời gian ở đó, ông đã gặp hai vợ chồng già, cả hai đều là bác sĩ. Họ học chung tại trường y, yêu nhau và kết hôn với nhau, bà là người Công giáo, còn ông thì ngoại đạo. Bà mong muốn thuyết phục ông nên gia nhập Giáo Hội, nhưng ông không muốn chịu phép rửa tội. Một thời gian ngắn sau, họ có một đứa con.

Suốt thời gian diễn ra một trong những phong trào chính trị ở Trung quốc, cùng với một số nhà trí thức khác, người chồng bị bắt đi làm việc trong quân đội. Sự xa cách gây ra rất nhiều khó khăn cho người vợ, do bà vừa phải cả ngày làm việc nhiều giờ tại bệnh viện, vừa phải làm ban đêm chăm sóc đứa con trai. Ngoài nỗi cô đơn ra, người vợ còn phải chịu sức ép từ phía chính phủ, hối thúc bà li dị với chồng và bỏ đạo, để đạt được những lợi thế về mặt chính trị. Nhưng bà đã từ chối. Mỗi đêm, sau khi trở về nhà, bà và con trai đều quì gối cầu nguyện, xin Thiên Chúa ban sức mạnh để chịu đựng những khó khăn.

Vào cuối thập niên 1970, bà nghe nói rằng chồng bà và một số nhà trí thức khác được phép trở về nhà. Khi đến ngày đó, bà và con trai ra sân ga, họ là những thành viên trong gia đình duy nhất có mặt ở sân ga để đón tiếp những người đàn ông, bởi vì tất cả những người phụ nữ khác đều đã li dị và tái kết hôn, do không chịu đựng được cảnh chia ly lâu dài. Do cảm động sâu sắc, chồng bà đã chịu đi học đạo và lãnh nhận phép rửa tội.

Người phụ nữ đó đã thực sự mang lời chứng cho ánh sáng, giống như thánh Gioan Tẩy giả đã thực hiện. Bây giờ, đến lượt chúng ta. Đối với nhiều người trong thế giới ngày nay, Đức Kitô đã trở nên một khuôn mặt rất mờ nhạt và xa cách. Những lời trong bài Tin mừng hôm nay đúng từng chữ một “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Đức Kitô vẫn còn cần đến những chứng nhân, đó là những người có thể làm cho Người hiện diện đối với người khác một cách có hiệu quả.

Chúng ta không thể làm chứng cho ánh sáng, nếu chúng ta sống trong tối tăm. Chúng ta phải sống trong ánh sáng. Một đời sống tốt đẹp là một lời chứng mạnh mẽ và có hiệu quả, và tự thân, đó là một lời loan báo Tin mừng. Khi người ta không còn thực hành đạo trong cuộc sống nữa, thì họ đã đánh mất đi một yếu tố quan trọng. Nhưng khi việc thực hành đạo đưa dẫn đến những hành động cụ thể, thì người ta đã thực hành được một lời chứng rất có hiệu quả. Không có một lời chứng nào đến được với những người cùng thời của chúng ta một cách đầy sức thuyết phục, cho bằng lời chứng của những người thực hiện những lời giảng dạy của Đức Giêsu.

Nếu không có lời chứng của các Kitô hữu, thì gương mặt của Đức Kitô, vốn đã bị mờ nhạt, sẽ tiếp tục lu mờ trong thế giới của chúng ta. Người sẽ tiếp tục ở giữa chúng ta, dù chúng ta không biết và không nhận ra, và tâm hồn con người vẫn sẽ bị tan nát, người ta sẽ còn bị cầm tù trong cảnh tối tăm, và Tin mừng sẽ không được rao giảng cho người nghèo.

Đây không phải là một trách nhiệm chỉ dành cho cá nhân người Kitô hữu, mà còn dành cho toàn thể cộng đồng Kitô hữu nữa. Khi là thành viên của một cộng đồng nâng đỡ nhau, thì việc làm chứng cho Đức Kitô sẽ dễ dàng hơn.

[Mục Lục]

Bài 23. LÀM THẾ NÀO ĐỂ NHẬN RA ĐỨC GIÊ-SU VÀ THIÊN CHÚA?
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

  1. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

Giới lãnh đạo Do-thái giáo đã phải vất vả mà không sao nhận ra Đấng Mêsia mà Thiên Chúa đã hứa ban cho dân riêng Người là Đức Giêsu Na-da-rét. Họ cử người đến gặp và hạch hỏi Gioan Tẩy giả đủ điều mà không có kết quả. Lý do là họ bị mù quáng và thành kiến trong suy nghĩ và nhận thức hẹp hòi của mình.

Còn chúng ta ngày nay, chúng ta có nhận ra Đức Giêsu Ki-tô và Thiên Chúa không? Mỗi người phải cố gắng trả lời được câu hỏi ấy.

Trong các bài Sách Thánh của Phụng Vụ Chúa nhật III Mùa Vọng hôm nay chúng ta được Ngôn sứ Isaia, Thánh Gioan Baotixita và Thánh Phaolô Tông đồ dân ngoại, chia sẻ kinh nghiệm của họ về cách họ nhận ra Thiên Chúa và Đức Giê-su Kitô.

  1. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

2.1 Trong bài đọc 1 (Is 61,1-2a.10-11): Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa.

2.2 Trong bài đọc 2 (1 Tx 5, 16-24): Thần trí, tâm hồn và than xác anh em phải được giữ gìn vẹn toàn trong ngày Chúa quang lâm.

2.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 1,6-8.19-28): Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH

3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong 3 Bài Sách hôm nay chúng ta biết Thiên Chúa nhờ/qua ba tôi tớ lỗi lạc của Người là ngôn sứ I-sai-a, Thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta và Thánh Phao-lô, Tông Đồ Dân Ngoại:

(1) Thiên Chúa mà ngôn sứ I-sai-a làm chứng là Đức Chúa đã xức dầu tấn phong cho sứ giả của Người là Đức Giê-su Na-da-rét. Thiên Chúa đổ tràn Thần Khí trên Người để Người thực thi sứ mạng được giao là loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân và năm hồng ân của Thiên Chúa. Sau này chính Đức Giê-su đã xác định sứ vụ của Người khi long trọng tuyên bố trong hội đường Na-da-rét: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe.” (Lc 4,21). Lời Kinh Thánh ấy là câu 1 và 2 trong Chương 61 của Sách Ngôn sứ I-sai-a ở trên.

(2) Thiên Chúa mà Gio-an Tiền Hô làm chứng là Đấng đang ở giữa dân mà người ta không nhận ra Người. Người làm Phép Rửa trong Thánh Thần trong khi Gio-an Tẩy Giả chỉ làm phép rửa trong nước. Người cao trọng vượt xa Gio-an đến độ Gio-an không xứng được cởi quai dép cho Người. Chính Người mới là ánh sáng trong khi sứ mạng của Gio-an chỉ là làm chứng về ánh sáng, chỉ là dọn đường cho Người mà thôi.

(3) Thiên Chúa mà Thánh Phao-lô Tông đồ cảm nghiệm là Thiên Chúa rộng lòng rộng tay ban phát muôn hồng ân, nhất là Thần Khí cùng với ơn nói tiên tri, ơn khôn ngoan và ơn thẩm định (tốt/xấu) cho người tín hữu. Thiên Chúa còn là nguồn mạch bình an và là Đấng thánh hóa toàn diện con người. Vì thế Người đáng được chúng ta đón rước với tâm tình biết ơn và lời cảm tạ.

3.2 Giáo Huấn của Thiên Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?) Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là chúng ta hãy vui mừng và cất tiếng tạ ơn vì THIÊN CHÚA ĐÃ BAN CON CỦA NGƯỜI CHO CHÚNG TA! Đó chính là Đức Giê-su Na-da-rét, Vị Sứ Giả của Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa của chúng ta. Người đã đến trần gian cách đây hơn hai ngàn năm và Người vẫn ở lại giữa loài người, vẫn ở bên và ở trong chúng ta.

  1. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI

4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn sống với Đấng ban ơn, như tạo vật sống với Đấng Tạo Hóa, như ngôn sứ I-sai-a, như Thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta và như Thánh Phao-lô tông đồ dân ngoại đã và đang sống với Thiên Chúa.

4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa

gồm 3 phần hay ba việc sau:

- Thứ nhất là chúng ta vui mừng cảm tạ Thiên Chúa giầu lòng thương đã ban cho chúng ta Con của Người là Đức Giê-su Na-da-rét,

- Thứ hai là chúng ta đón rước Chúa Giê-su Ki-tô vào trong tâm hồn và đời sống của chúng ta.

- Thứ ba là chúng ta cộng tác với Chúa Giê-su trong sứ vụ loan báo Tin Mừng cho người nghèo và cứu chữa những người đau yếu, bệnh tật, tù tội, bị gạt ra ngoài lề xã hội.

  1. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH

5.1 «Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa.» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu cho các dân tộc và các nhóm người đang phải sống trong đau khổ, bất công, đàn áp để các dân tộc và nhóm người ấy sớm đón nhận Tin Mừng và nhận ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương và giải thoát.

X. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Đ. Xin Chúa nhận lời chúng con.

5.2 «Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri.» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu cho mọi thành phần Dân Chúa, nhất là cho các vị lãnh đạo trong hàng giáo phẩm và giáo sĩ, để mọi Ki-tô hữu sống đúng như lời giáo huấn của Thánh Phao-lô Tông Đồ Dân Ngoại.

5.3 «Ông Gio-an đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu cho các tín hữu và các gia đình thuộc giáo xứ chúng ta để mọi người, mọi nhà làm chứng cho ánh sáng là Chúa Ki-tô trong gia đình và khu xóm của mình.

5.4 «Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ; còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa.»Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu cho những người trẻ đang gặp khó khăn trong cuộc sống và nhiều lúc không biết phải làm gì, để các bạn ấy biết cân nhắc, phân định và chọn lựa cho đúng với lương tâm và phẩm giá làm người và làm con Chúa.

[Mục Lục]

Bài 24. Có một vị đang ở giữa các ông
Fx Đỗ Công Minh

Mùa Vọng, mùa trông đợi đã trở về với nhân lọai chúng con. Tuần này đã là tuần thứ ba của mùa Vọng. Đó đây trong khuôn viên các nhà thờ đã có đèn sao nhấp nháy trên những cây thông xinh xắn. Những hang đá máng cỏ đang được dựng lên chuẩn bị cho ngày đại lễ. Trên những xóm ngõ của các xứ đạo, người người chăng đèn kết sao. Những hàng chữ MERRY CHRISTMAS bên những Ông già Noel vai đeo túi quà tươi cười vẫy chào. Không khí ngày lễ đang tràn về trên phố phường khiến mọi người có thêm niềm vui.

Lạy Chúa,

Con cũng đang chuẩn bị cho ngày đại lễ, con dọn lại nhà cửa, sắp xếp cho Chúa một chỗ nhỏ trong căn phòng khách. Nơi đó sẽ có một cây thông nhỏ, có bộ tượng be bé xinh xinh, có những dây đèn điện, những quả cầu trang trí, những dây kim tuyến đủ màu. Nhìn vào là thấy một bầu khí ấm cúng của đêm Chúa ra đời, thay cho một đêm đông giá rét ngòai đồng vắng không người qua lại, chỉ có những chú mục đồng nghèo nàn trong các căn chòi tá túc hơn 2000 năm trước đây. Con dọn chỗ đón Chúa bằng những hình thức quả có trang trọng, đẹp đẽ trong nhà của con với những thứ bên ngòai, như mọi người trên thế giới này. Như thế có đầy đủ ?

Bài tin mừng hôm nay giới thiệu: “Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan, ông đến để làm chứng”. Ông xác định mình: “Tôi không phải là Đức Kytô “, cũng không nhận mình là Ông Êlia hay một vị Ngôn sứ. “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như Ngôn sứ Isaia đã nói. Lời Chúa cho con nhận ra rằng chuẩn bị cho ngày lễ bằng những hình thức bên ngòai không có gì sai, nhưng quả thật là chưa đủ. Con còn phải sửa con đường tâm linh cho thẳng để Chúa đi và để con đón Chúa đến. Ông Gioan, một vị sứ giả của Thiên Chúa, ông cũng rao giảng, nhưng không phải nói về ông, đề cao mình là một Rabbi trong dân Israel, mặc dầu có rất nhiều người ngưỡng mộ. Thậm chí có nhiều người đến xin làm môn đệ. Ông chỉ nhận mình là người giới thiệu: “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”.

Chúa đến trần gian này để con người được chia sẻ hạnh phúc là con Thiên Chúa. Được hưởng niềm vui Chúa trao, đó là sự bình an. Con người không còn sống trong tội lỗi, không còn tranh chấp, khinh chê lẫn nhau, áp bức nhau. Sẵn sàng coi nhau là anh em con một Cha, sẵn sàng đến với nhau, giúp nhau cùng thăng tiến. Và để có được những điều ấy con phải mở lòng đón tiếp Chúa, dọn cho Chúa một con đường đi vào nhà Linh hồn con. Con đường ấy không thể lồi lên những thói xấu, những ích kỷ. Không lõm xuống nhửng đam mê dục vọng.

Những núi đồi kiêu căng, tự mãn, coi rẻ người khác nơi con phải được bạt đi cho phẳng. Những khúc quanh dối trá, lươn lẹo của con phải được uốn nắn lại theo sự công chính và ngay thẳng . Con có dám làm những điều ấy ? Con có xứng đáng là người loan báo Chúa cho những anh chị em con chưa nhận biết Người ? Con có nói về Chúa, sống làm gương ngay trong gia đình, để giới thiệu Chúa cho con cái, người thân của con ? Lời Chúa vẫn đang tra vấn con.. .

Nếu con vẫn sống như con đang sống hôm nay, và mỗi năm, mùa Vọng về, vẫn dọn nhà cửa, trang trí trong ngòai căn nhà vật chất này thôi, thì nhà con, tâm hồn con đâu có chỗ cho Người ngự vào .

Xin cho con nhân những ngày này biết dọn lòng đón Chúa vào gia đình, vào linh hồn con, biết thay đổi cách sống của mình. Bây giờ con còn tội lỗi, vấp phạm thì nhờ ơn Chúa, con sẽ đứng lên và đến với Chúa xin ơn tha thứ. Xin Chúa giúp con. Chúa ơi!

[Mục Lục]

Bài 25. Tiếng kêu trong hoang mạc
AM Trần Bình An

Mẹ Têrêsa có dịp qua Việt Nam hai lần, năm 1994 và năm 1995, và hai lần đó, tôi được may mắn tiếp kiến mỗi lần gần một giờ. Lạ lùng thay, hình ảnh Mẹ để lại trong tôi không có gì là của một vĩ nhân cả, mà của một người khiêm nhường đến độ quên đi bản thân mình. Điểm đầu tiên gây ấn tượng là cảm thức về Thiên Chúa nơi Mẹ. Khi đến Việt Nam, Mẹ tạm trú trên lầu 3, tại 38 Tú Xương. Người ta dành một phòng cho Mẹ và một phòng cho ba nữ tu theo Mẹ (trong số đó có vị Bề Trên tổng quyền hiện nay là Sr Nirmala Joshi). Thế nhưng Mẹ đã biến phòng của mình thành nhà nguyện với sự hiện diện của Mình Thánh Chúa, rồi cùng chia sẻ với ba chị em phòng còn lại. Mẹ đã hẹn anh chị Soi và tôi đến gặp Mẹ lúc 11 giờ trưa.

Đúng hẹn, chúng tôi lên lầu 3. Vì không có chỗ tiếp khách, Sr. Nirmala mời chúng tôi ngồi ở hành lang và Mẹ ra tiếp chúng tôi tại đấy. Sau nụ cười chào đáp, Mẹ chỉ ngay vào nhà nguyện và bảo: “Chúa kìa,”với một thái độ tự nhiên, giống như một bà mẹ bảo con mình chào ông ngoại khi đi đâu về. Mẹ vào quì trước Thánh Thể với chúng tôi một vài phút, trước khi bắt đầu câu chuyện. Và cuối buổi nói chuyện, Mẹ cũng chỉ vào nhà nguyện bảo chúng tôi chào Chúa trước khi ra về. Thái độ Mẹ đơn sơ như thể Chúa luôn có mặt bằng xương bằng thịt ở bên Mẹ. Cái cảm thức về Chúa nơi Mẹ rõ rệt đến độ tôi có cảm giác rằng nó hùng biện hơn bất cứ bài giảng nào của bất cứ ai nói về sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể. Điểm thứ hai gây ấn tượng là cách nói chuyện của Mẹ. Mẹ không nói chuyện với ba người, mà nói với từng người một. Mẹ cúi mình xuống và nhìn lên với cái nhìn thật trân trọng, cứ như là Mẹ muốn tiếp thu một bài học nào đó từ người đối thoại mà quên mất mình là ai. Nói chuyện với Mẹ mà trong đầu tôi cứ lờn vờn hình ảnh của Chúa Giêsu quì xuống rửa chân cho môn đệ mình. Qua thái độ lắng nghe và ánh mắt, Mẹ đã cho người đối thoại thấy rằng mình vô cùng giá trị… (Trần Duy Nhiên, Hình ảnh Mẹ Têrêsa đối với tôi)

Bước vào Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng, còn gọi là Chúa Nhật Vui (Gaudete Sundae), hay Chúa Nhật Hồng, vì Thánh Gioan Tiền Hô đem niềm vui cứu độ đến nhân loại. Ngài là chứng nhân của Ánh Sáng, cũng như Mẹ Têrêsa gần đây là chứng nhân hiện đại của Đức Giêsu.

Chứng nhân Gioan đã làm gì để thuyết phục dân chúng tuôn đến nghe rao giảng và ăn năn sám hối? Nếu không phải là ngài đã dám nói thật, sống thật và chết cho sự thật.

Nói thật

Thánh Gioan liên tiếp ba lần thưa “Không,” khi các tư tế và các thầy Lêvi xét hỏi, điều tra về nhân thân. Ngài quyết liệt phủ nhận những danh xưng ngộ nhận. Nói thẳng, nói thật, nói đúng lúc, nói chính xác, là đức tính cần thiết và tiên quyết của người chứng. Danh chính, ngôn thuận, sự tất thành.

Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải nói thật, huống chi chứng nhân: “Có” thì nói “có”, “không” thì nói “không.” Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.” (Mt 5, 37) Thánh Giacôbê lập lại lời Chúa dạy và khuyên nhủ:“Nhưng hễ “có” thì phải nói “có’, “không” thì phải nói “không,” như thế anh em sẽ không bị xét xử.” (Gc 5, 12)

Chứng nhân Gioan không hề lợi khẩu, bẻo mép, xảo ngôn, ngụy biện hòng mê hoặc, hay mị dân như xưa nay người ta quen ứng xử. Ngài không bạc nhược, nể nang, sợ hãi, cũng chẳng ấm ớ hội tề, rằng, thì, là, mà, cũng như không hề giấu diếm nỗi bất bình, khi chỉ tận tay, day tận mặt nhiều người thuộc phái Pharisiêu và Sađốc đến với ngài, chịu phép rửa: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” (Mt 3, 7)

Sống thật

Ngôn hành hợp nhất, nói sao làm thế, chứng nhân Gioan sống hoàn toàn chay tịnh, đơn giản từ cái ăn đến cái mặc, vô gia cư, vô sản chuyên chính nghiêm minh, chẳng hề môi mép, vờ vịt, giả vờ nghèo khó.“Rượu lạt, rượu nồng em sẽ đều không uống.” (Lc 1, 17) Nếp sống thanh bần tận cùng đã lay động lòng người, cảm hóa, thuyết phục mọi người vội vã tìm đến nghe giảng dạy, ăn năn sám hối và chịu phép rửa.

Khổ tu với thái độ khiêm nhường, hãm mình, chuyên tâm cầu nguyện và thực hiện hoàn hảo Thánh Ý Chúa, Thánh Gioan chỉ dám đơn sơ nhận mình là tiếng kêu trong hoang địa, đánh động lòng người quay về đường ngay nẻo chính. Đức Giêsu ngợi khen thánh Gioan: “Tôi nói cho anh em biết: đây còn hơn cả ngôn sứ nữa….Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gioan.” (Lc 7, 26-28)

Chết cho Sự Thật

Không những sống theo lời chứng, thánh Gioan còn sẵn sàng chịu chết cho Sự Thật, khi công khai can ngăn vua Hêrôđê lấy chị dâu làm vợ. “Ngài không được phép lấy bà ấy.” (Mt 14, 4) Không hề run sợ trước bạo quyền, Ngài không hèn nhác tránh né nhiệm vụ ngôn sứ. Cũng chẳng làm ngơ, giả mù sa mưa trước gương mù, gương xấu của nhà lãnh đạo, sẵn sàng đánh cược mạng sống để bảo vệ luân lý, đạo đức và Sự Thật.

Thời nay càng khẩn thiết cần đến chứng nhân trung tín, nhiệt thành và dám hy sinh trọn vẹn, như Thánh Gioan Tiền Hô. ĐTC Phaolô VI đã thao thức trong Tông Huấn Evangelii Nuntiandi: “Ngày nay người ta cần chứng nhân hơn thầy dạy.” Bởi vì Giáo Hội quá dư thừa thầy dạy, thầy giảng, thầy lý thuyết, mà quá thiếu thốn chứng nhân hợp nhất ngôn hành.

“Thủy thủ lặn dưới đáy biển, phi hành gia bay trên phi thuyền đều dấn thân mạo hiểm vì khoa học. Ngày nào con bỏ tất cả và bất cứ giây phút nào cũng sẵn sàng liều mình vì Chúa, người ta mới tin đời nội tâm con.” (Đường Hy Vọng, số 84)

Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi, cải hóa tâm hồn chúng con, loại bỏ tất cả những gì thuộc về cái tôi, bản ngã, tất cả những đam mê thế gian, trần tục, của cải, danh vọng, chức tước, quyền lực, ham muốn, để xứng đáng đón Chúa ngự vào.

Lạy Mẹ Maria, mẫu gương khiêm nhường và dấn thân xả kỷ, xin giúp chúng con thoát tục tòng thiên, biết ưu tiên chọn Chúa, theo Chúa và sống Lời Chúa luôn. Amen.

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận