Tìm Hiểu Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo

Đăng lúc: Thứ ba - 08/03/2016 13:57 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
TÌM HIỂU SÁCH GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

ĐHY Christoph Schönborn
http://www.hdgmvietnam.org/
 
TẢI VỀ TRỌN BỘ:
TÌM HIỂU SÁCH GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO
 
 
TÌM HIỂU SÁCH GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO - PHẦN I
 
TÌM HIỂU SÁCH GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO  PHẦN II
 
TÌM HIỂU SÁCH GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO  PHẦN III (1-28)
 
Phần III: ĐỜI SỐNG MỚI TRONG ĐỨC KITÔ (Bài 29-52)
 
 
Bài 29. MƯỜI ĐIỀU RĂN
Bài 30. TIN VÀO MỘT THIÊN CHÚA
Bài 31. TÔN GIÁO KHÔNG PHẢI LÀ CHUYỆN RIÊNG TƯ
Bài 32. NGƯƠI KHÔNG ĐƯỢC LÀM CHO MÌNH BẤT CỨ HÌNH TƯỢNG NÀO VỀ THIÊN CHÚA
Bài 33. DANH CHÚA LÀ THÁNH
Bài 34. GIỮ NGÀY THÁNH, NGÀY CỦA CHÚA
Bài 35. HÃY THỜ CHA KÍNH MẸ
Bài 36. GIA ĐÌNH
Bài 37. QUYỀN BÍNH TRONG XÃ HỘI DÂN SỰ
Bài 38. GIÁO HỘI VÀ NHÀ NƯỚC
Bài 39. NGƯƠI KHÔNG ĐƯỢC GIẾT NGƯỜI
Bài 40. BẢO VỆ SỰ SỐNG
Bài 41. ÁN TỬ HÌNH?
Bài 42. CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH
Bài 43. ĐIỀU RĂN THỨ SÁU
Bài 44. MỞ RA VỚI SỰ SỐNG
Bài 45. ĐIỀU RĂN THỨ BẢY
Bài 46. TRỘM CẮP
Bài 47. TRÁCH NHIỆM ĐỐI VỚI TẠO THÀNH
Bài 48. SỰ TRUNG THỰC
Bài 49. ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THÔNG
Bài 50. NGHỆ THUẬT, CHÂN LÝ VÀ CÁI ĐẸP
Bài 52. KHÁT VỌNG CỦA TÂM HỒN
 

Bài 29. MƯỜI ĐIỀU RĂN

 
Sách Giáo Lý lấy Mười Điều Răn như cái khung để trình bày luân lý Kitô giáo. Một vài người chống đối điều này, cho rằng chúng ta sống trong thời Tân Ước, không còn bị bó buộc bởi Mười Điều Răn là luật của Cựu Ước nữa, nhưng chỉ cần sống theo “điều răn mới” là điều răn yêu thương thôi. Những người khác lại cho rằng trong Kitô giáo, chúng ta nên chọn Đức Tin, Cậy, Mến, làm nền tảng cho đời sống Kitô hữu. Thế nhưng, Mười Điều Răn (mười lời) dứt khoát được chọn để trình bày những đòi hỏi cụ thể cho đời sống làm người và làm Kitô hữu đúng đắn.
 
Có những lý do chính đáng cho việc chọn lựa này. Chính Chúa Giêsu thường xuyên quy chiếu về Mười Điều Răn: “Nếu con muốn có sự sống, hãy giữ các điều răn” (Mt 19,17). Mười Điều Răn là những huấn thị dẫn đến sự sống, và thật sai lầm khi dựa vào công thức “Ngươi không được làm thế này, làm thế kia” để kết luận rằng đây chỉ là danh sách liệt kê những cấm đoán. Không phải thế, Mười Điều Răn chỉ cho chúng ta đường sự sống và giữ chúng ta xa tránh đường dẫn đến sự chết. Trên nguyên tắc, những gì Mười Điều Răn đòi hỏi cũng như cảnh giác chúng ta đều là những điều mà mọi người hiểu được bằng ánh sáng của lý trí.
 
C.S. Lewis, trong cuốn Sự Hủy Diệt Con Người, đã đóng vai một ngôn sứ khi tiên báo những hậu quả phát xuất từ sự chối từ những chuẩn mực khách quan và vững chắc về chân lý và luân lý. Khi chối từ như thế, cách nào đó, con người hủy diệt chính mình. Khi cái thiện và cái ác, cái thật và cái giả, chỉ còn là vấn đề sở thích cá nhân, tùy theo khẩu vị mỗi người, thì không những nó sẽ dẫn đến sự hủy diệt cộng đoàn mà còn hủy diệt chính nhân tính. Để khẳng định sự vững chắc phổ quát của Mười Điều Răn, C.S. Lewis đã liệt kê rất nhiều ví dụ cụ thể từ nhiều nền văn hóa và tôn giáo khác nhau, cho thấy sự nhìn nhận chung đối với luật tự nhiên. Ông cũng giải thích rằng trật tự nền tảng được diễn tả trong Mười Điều Răn là một trật tự vững chắc, không phải vì khắp nơi trên thế giới nhìn nhận như thế, nhưng trước hết là vì nó đúng và thật. Chính vì thế Mười Điều Răn là sự bó buộc đối với mọi người ở mọi nơi và mọi thời (GLHTCG số 2072).
Nếu Mười Điều Răn đã được viết sẵn trong trái tim con người và là điều hiển nhiên đối với lý trí, vậy tại sao Thiên Chúa lại phải mặc khải Mười Điều Răn long trọng như thế? Thưa, “giữ các điều răn” như con đường sự sống, điều này không chỉ là “sống cho hợp lý”. Trước hết, đây là sự sống trong giao ước, trong mối hiệp thông với Thiên Chúa. Những điều răn của Chúa thường được bắt đầu bằng câu: “Ta là Chúa, Thiên Chúa của ngươi…” rồi sau đó mới nêu ra mệnh lệnh: “Ngươi phải…”. Giữ Mười Điều Răn chính là đáp lại sự thánh thiện của Thiên Chúa (số 2062). Vì chúng ta đã được đón nhận vào giao ước, nên toàn bộ cuộc sống chúng ta phải được đóng dấu bằng sự trung thành với Thiên Chúa. Giữ các điều răn chính là gắn bó với Chúa bằng tất cả tâm hồn. Chính vì thế sống điều răn yêu thương (với Chúa và với tha nhân) là sự chu toàn lề luật (số 2055).
 
Chúa Giêsu nói với người thanh niên giàu có: “Nếu con muốn nên hoàn thiện… hãy theo Thầy” (Mt 19,21). Sống phù hợp với Mười Điều Răn là tốt, đó là nẻo đường dẫn đến sự sống. Nhưng Đức Kitô còn muốn hơn thế nữa. Tám Mối Phúc dẫn ta đi xa hơn. Bài Giảng Trên Núi đòi hỏi nhiều hơn, không chỉ là đừng giết người nhưng còn là yêu thương cả kẻ thù (số 2054). Khi chúng ta bước theo Chúa Giêsu, chính Ngài trở thành bản hướng dẫn cách ứng xử của chúng ta; chính Ngài sống và yêu thương trong chúng ta (số 2074).

 Bài 30. TIN VÀO MỘT THIÊN CHÚA

“Ta là Chúa, Thiên Chúa của ngươi” – điều răn thứ nhất truyền lại cho chúng ta được bắt đầu bằng công thức giáo lý như thế. “Ngươi không được có thần nào khác trước mặt Ta” – đây là nguyên văn những lời trong cả hai văn bản Cựu ước (Xuất hành 20 và Đệ nhị luật 5). Hàm ẩn bên trong lệnh cấm này là lời mời gọi tích cực phải yêu mến một mình Thiên Chúa mà thôi, và yêu mến Ngài với hết sức lực của con người.
Điều răn thứ nhất là điều răn nền tảng, trong đó chứa đựng mọi điều răn khác (như trong một nguyên tử), tương tự như trong Kinh Tin Kính, lời tuyên xưng đầu tiên chứa đựng những hệ luận khác: “Tôi tin kính một Thiên Chúa” (GLHTCG số 199): “Vì bất cứ ai muốn đến gần Thiên Chúa thì phải tin rằng Ngài hiện hữu và Ngài thưởng công cho những kẻ kiếm tìm Ngài” (Dt 11,6). Tin vào Thiên Chúa là đòi hỏi đầu tiên cho một đời sống tốt lành về mặt đạo đức cũng như cho những tình cảm và suy tư đúng đắn. Dieu premier servir, Phục vụ Thiên Chúa trước hết, đó là châm ngôn của thánh nữ Jeanne d’Arc. Bằng châm ngôn đó, thánh nữ tóm tắt điều răn thứ nhất cách rõ ràng và cô đọng. Vì Thiên Chúa là Đấng duy nhất và trên hết, vì chúng ta mắc nợ Chúa về tất cả những gì mình đang có và đang là, cho nên thái độ thích hợp nhất đối với con người là tin vào Chúa. Tin vào Thiên Chúa có nghĩa là quy phục Thiên Chúa hoàn toàn, hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn (số 143). “Ngươi phải thờ phượng Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và chỉ thờ phượng một mình Người mà thôi”, Chúa Giêsu đã trả lời Satan như thế (Mt 4,10).
Không có thái độ nào thích hợp hơn thế đối với con người. Không có gì làm cho chúng ta được tự do hơn là thờ phượng Thiên Chúa. Bởi lẽ không ai xứng đáng để chúng ta hoàn toàn tín thác, không ai có thể là tảng đá và nền tảng không lay chuyển cho niềm hy vọng của ta. Chỉ một mình Thiên Chúa mới xứng đáng. Không có gì là nô lệ cả khi thờ phượng Thiên Chúa; đúng hơn, đó là tình yêu chan chứa dành cho Đấng đã yêu thương chúng ta trước (số 2083): “Ta là Chúa, Thiên Chúa của ngươi, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi Ai Cập, miền đất nô lệ” (Xh 20,2).
Càng suy niệm chân lý này và để cho chân lý ấy thấm vào tâm hồn, thì toàn bộ đời sống chúng ta càng có hướng đi, ý nghĩa, và sự vững chắc (số 222-227). Càng xác tín vào chân lý “Thiên Chúa hiện hữu” thì tình yêu chúng ta dành cho Chúa càng trở nên mạnh mẽ hơn, biến đổi toàn bộ cách suy nghĩ và hành động của chúng ta. Chính vì thế mọi công việc của một người đạo đức là sự nhìn nhận Thiên Chúa, còn mọi công việc của kẻ gian ác là sự xúc phạm đến sự thánh thiện của Thiên Chúa.
Tin, Cậy, Mến, là lời đáp thích hợp nhất đối với Đấng Thiên Chúa đã tự tỏ mình cho chúng ta (số 2086). Nếu trước hết chúng ta tìm kiếm điều duy nhất cần thiết là chính Thiên Chúa, thì chắc chắn cảm thức của chúng ta về điều thiện phải làm và cái ác phải tránh sẽ tăng tiến và trưởng thành. Khi đó chúng ta sẽ nhận ra rằng tuân giữ Mười Điều Răn chẳng là gì khác hơn yêu mến Thiên Chúa bằng con tim nồng nàn và gắn bó.
 

Bài 31. TÔN GIÁO KHÔNG PHẢI LÀ CHUYỆN RIÊNG TƯ

Điều răn thứ nhất đòi buộc chúng ta phải thờ phượng Chúa như Ngài xứng đáng. Trong tiếng La tinh, thái độ và nhân đức này được gọi là Religio và dịch sang tiếng Việt là Tôn giáo. Tôn giáo được biểu lộ qua những hành vi thờ phượng, bên trong cũng như bên ngoài. Những hành vi đó thể hiện sự lệ thuộc của chúng ta vào Thiên Chúa, làm sống động mối liên hệ của chúng ta với Chúa, và diễn tả lòng biết ơn của chúng ta với Ngài.
Thái độ nền tảng của tôn giáo là thờ lạy, tận hiến chính mình cho Thiên Chúa. Qua thái độ này, chúng ta nhìn nhận tính hư không của mình, đón nhận mọi sự từ Chúa (GLHTCG số 2097).
Cầu nguyện là cách diễn tả hồn nhiên và rõ ràng tâm tình thờ phượng, là nơi bày tỏ lòng đạo. Không có cầu nguyện, tính tôn giáo nơi con người sẽ chết và mối quan hệ với Thiên Chúa sẽ nhạt nhòa.
Cũng thế, hy lễ là cách diễn tả tâm tình tôn giáo, dấu chỉ lòng đạo. Để là hy lễ đích thực, điều quan trọng là hy lễ bên ngoài phải phù hợp với tâm tình bên trong (số 2100).
Tôn giáo và những hình thức diễn tả là thái độ của con người toàn diện, xác và hồn. Đây không phải là chuyện riêng tư, vì chúng ta là những hữu thể xã hội. Tiếng thưa “Vâng” hoặc “Không” của chúng ta với Thiên Chúa đều có ảnh hưởng đến đời sống công cộng, kể cả khi chúng ta cầu nguyện nơi kín đáo.
Thế kỷ 20 cho thấy chủ thuyết vô thần cá nhân đã đem lại những hậu quả nào khi nó trở thành hệ tư tưởng chính thức của Nhà nước (số 2023). Khi đó người ta không chấp nhận tôn giáo, kể cả như chuyện riêng tư, và một hành vi thờ phượng cũng có thể bị coi là tội phạm chính trị. Thế nhưng chính điều đó cho thấy rõ ràng là ngay cả việc cá nhân thi hành bổn phận tôn giáo cũng có ý nghĩa công cộng. Tôn giáo mang tính cá nhân nhưng không phải là chuyện riêng tư, vì tôn giáo được diễn tả qua những hành động hữu hình và có ảnh hưởng đến đời sống cộng đồng.
Như thế, phải chăng xã hội và Nhà nước bị bó buộc phải thực hành tôn giáo? Trong những xã hội đa nguyên ngày nay, ý tưởng về quốc giáo đã là chuyện lỗi thời. Vậy phải chăng Nhà nước phải dẹp bỏ mọi tôn giáo? Nhà nước không thể hủy diệt tôn giáo vì như thế là hủy diệt cả nền tảng của đời sống cộng đồng. Kinh nghiệm 80 năm Cộng sản ở Liên Xô cũ đã cho thấy. Vậy phải chăng Nhà nước nên dùng mọi phương tiện có thể để thúc đẩy người ta đón nhận tôn giáo chân chính là Kitô giáo? Công đồng Vatican II đã bác bỏ cách nhìn này và đã trình bày quan điểm về tự do tôn giáo.
Trong giới hạn chính đáng (số 2109), Nhà nước phải tôn trọng và bảo vệ tự do của các cá nhân cũng như hiệp hội, khi họ sống và hành động phù hợp với lương tâm của họ, nhất là trong các vấn đề tôn giáo, cũng như khi họ truyền đạo mà không dùng áp lực hoặc cưỡng ép bất cứ ai.
Sự kiện những giáo phái đang lan rộng trên khắp thế giới ngày nay đang đặt ra vấn đề là: tự do tôn giáo có thể đi xa tới mức nào để không gây tổn hại cho công ích? Những hiệp hội nào đáng được gọi là Giáo hội và Tôn giáo, và được chính thức nhìn nhận? Chính những câu hỏi đó lại cho thấy tôn giáo không hề là chuyện riêng tư.
 

Bài 32. NGƯƠI KHÔNG ĐƯỢC LÀM CHO MÌNH BẤT CỨ HÌNH TƯỢNG NÀO VỀ THIÊN CHÚA

Xem ra điều răn thứ nhất cấm mọi loại hình ảnh: không những về Thiên Chúa là Đấng “không thể diễn tả, bất khả đạt thấu, vô hình, không thể nắm bắt” (GLHTCG số 42), mà cả mọi sinh vật “trên trời cao cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước dưới mặt đất” (Xh 20,4). Phải chăng Hội Thánh đã coi thường lệnh cấm này, vì Hội Thánh không những cho phép mà còn giới thiệu và tôn kính những ảnh tượng? Hội Thánh đã bị cáo buộc như thế suốt từ thế kỷ VIII cho tới thời Cải Cách ở thế kỷ XVI, nhất là Calvin. Nhiều người (như Martin Luther) cho phép ảnh tượng tôn giáo với mục đích giáo huấn, nhưng không chấp nhận việc tôn kính ảnh tượng trong phụng vụ hoặc khi làm việc đạo đức riêng.
Hội Thánh không rũ bỏ điều răn thứ nhất; đúng hơn, Hội Thánh chỉ giải thích điều răn đó trong ánh sáng của Tân Ước và kinh nghiệm đức tin trải qua nhiều thế kỷ. Ý nghĩa tích cực của điều răn thứ nhất là: “Ta là Chúa, Thiên Chúa của ngươi, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai Cập” (Xh 20,2). Vì chỉ một mình Chúa là Thiên Chúa, nên “ngươi không được có thần nào khác trước mặt ngươi” (Xh 20,3). Lệnh cấm ảnh tượng là bức tường thành chống lại việc thờ các ngẫu tượng. Chẳng có gì mà chúng ta làm ra – từ ảnh tượng các thần thánh đến con người – được phép trở thành ngẫu tượng cho chúng ta và thay thế Thiên Chúa. Lệnh cấm ảnh tượng là cấm những ngẫu tượng, đừng để mình thành nô lệ cho những ảnh tượng do con người làm ra. Lệnh cấm này vẫn mãi có hiệu lực, ngay trong thời đại đầy những “ngẫu tượng” như ngày nay.
Vậy sẽ ra sao khi chính Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta những hình ảnh mà chúng ta không tự mình sáng chế nhưng chỉ lãnh nhận? Thiên Chúa cấm Israel tự làm ra những hình ảnh về Ngài, vì dân mà Ngài đã chọn là dân “được tiền định nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài” (Rm 8,29). Thiên Chúa cấm con người tự làm ra những hình ảnh ngẫu tượng, vì Ngài muốn xây nhịp cầu Nhập Thể để nối kết con người với Thiên Chúa. Hình ảnh đích thực của Thiên Chúa phải là chính Thiên Chúa, Đấng đã làm người để tôn vinh tất cả nhân loại.
Bởi vì nơi Chúa Giêsu Kitô, “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình”, chính Thiên Chúa đã ban cho chúng ta hình ảnh về Ngài, nên chúng ta được phép có những bản sao của hình ảnh này. Thế nên ngay từ rất sớm, đã có những ảnh tượng về Đức Kitô. Tôn kính những ảnh tượng này không hề là tôn thờ ngẫu tượng. Chúng ta không tôn thờ chất liệu làm thành ảnh tượng, nhưng tôn thờ chính vị được phác họa trong ảnh tượng (số 2132).
Khi một bà mẹ chỉ vào bức ảnh Đức Mẹ và bảo đứa con nhỏ: “Đức Mẹ đó con”, bà không hề lẫn lộn giữa Đức Mẹ và bức ảnh về Đức Mẹ. Điều quan trọng ở đây là sự tôn kính và lòng yêu mến của người tín hữu. Ảnh tượng chỉ là “cửa sổ” để qua đó, chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu và các thánh. Là những con người có hồn lẫn xác, chúng ta cần đến những “cửa sổ” này, để qua đó, Đức Kitô, Mẹ Maria và các thánh chiếu soi ánh sáng vào cuộc đời chúng ta.
 

Bài 33. DANH CHÚA LÀ THÁNH

 
Tên gọi là chính con người. Tặng cho ai một tên gọi xấu là tấn công người ta. Vinh danh một tên gọi là vinh danh chính người mang tên gọi đó. Đường phố, quảng trường, dinh thự mang tên của những nhân vật là để vinh danh chính những nhân vật đó.
Điều răn thứ hai dạy chúng ta tôn kính Danh của Thiên Chúa. Điều răn đó cấm chúng ta sử dụng Danh Thiên Chúa cách bất xứng dưới bất cứ hình thức nào. Nhìn rộng hơn, điều răn thứ hai còn liên quan đến sự tôn kính tất cả những gì là linh thánh (GLHTCG số 2142).
Thiên Chúa đã mặc khải Danh của Ngài, nghĩa là Ngài thông ban chính mình: “Thiên Chúa có một tên gọi. Ngài không phải là một sức mạnh vô danh. Cho biết tên gọi của mình là cho những người khác nhận biết mình, một cách nào đó là tự trao mình, để người ta có thể tiếp xúc với mình, có thể hiểu biết mình cách thân mật hơn, và thật sự có thể gọi mình cách cá vị” (số 203).
Trong Tân Ước, chúng ta thấy ý nghĩa phong phú của việc mặc khải Danh Thiên Chúa và mối hiệp thông với Ngài. Chúa Giêsu nhìn sứ vụ của Người là làm cho chúng ta nhận biết Danh của Chúa Cha: “Con đã tỏ Danh Cha cho những người mà Cha đã ban cho Con từ giữa thế gian” (Ga 17,6). Hơn thế nữa, Chúa Giêsu mặc khải rằng chính Người “mang Danh thánh của Thiên Chúa” (số 211). Chính vì thế chúng ta tôn kính Danh Giêsu như tôn kính Danh thánh. Thánh Phaolô nói rằng mọi đầu gối trên trời, dưới đất, và dưới lòng đất, phải quỳ xuống khi nghe Danh thánh GIÊSU (Phil 2,10).
“Vì tôn kính sự thánh thiện của Thiên Chúa, dân Israel không gọi Danh của Ngài” (số 209). Chúng ta học được rất nhiều từ sự sợ hãi thánh thiện này, và phải cẩn trọng khi nhắc đến Danh Chúa. Nhiều người nhắc đến Danh Chúa quá dễ dàng, trong những hoàn cảnh không thích hợp (số 2155).
Đàng khác, trong Danh Chúa Giêsu, sự hiện diện của Thiên Chúa chạm đến chiều sâu tâm hồn ta. Lòng yêu mến Danh Thánh để lại dấu ấn sâu sắc trong toàn bộ lịch sử đức tin Kitô giáo. Trong kinh Kính Mừng, Danh Chúa Giêsu chiếm vị trí trung tâm (số 2676), cũng giống như trong Kinh Giêsu của Giáo Hội Đông phương (số 435).
Điều răn thứ hai cũng cấm thề gian. Thề gian là kêu cầu Thiên Chúa làm chứng cho sự dối trá. Vì thế, loại trừ thói thề gian là một bổn phận đối với Thiên Chúa, Đấng là Chân Lý và là quy luật của mọi chân lý.
Bội thề là dùng lời thề để hứa một điều gì, nhưng không có ý chu toàn lời đã hứa, hoặc sau khi đã dùng lời thề để hứa, lại không giữ lời hứa. Chúa Giêsu dạy mọi lời thề đều bao hàm mối tương quan với Thiên Chúa (x. Mt 5,33-37), do đó trong mọi lời nói, phải tôn trọng sự hiện diện của Thiên Chúa và chân lý của Ngài. “Đừng thề nhân danh Đấng Tạo Hóa, cũng đừng thề nhân danh thụ tạo, trừ khi hội đủ ba điều này: ta nói lên sự thật, vì nhu cầu, và với lòng kính trọng” (Thánh Inhaxiô Loyola).
 

Bài 34. GIỮ NGÀY THÁNH, NGÀY CỦA CHÚA

Kitô hữu ngày nay có còn phải giữ luật ngày sabbat không? Cũng giống như lệnh cấm vẽ hình tạc tượng trong Cựu Ước, câu hỏi đặt ra ngày nay là phải chăng ngày sabbat đã thành “lỗi thời” trong trật tự tạo dựng mới? Đức Kitô đã sống lại vào “ngày thứ nhất trong tuần”, và các Kitô hữu cử hành ngày này như Ngày của Chúa (dies dominica, Chúa nhật); liệu chúng ta có thể chuyển luật giữ ngày sabbat thành luật giữ ngày Chúa nhật không?
Trước hết, như Sách Giáo Lý đã làm, chúng ta hãy nhìn vào luật giữ ngày sabbat. Mục đích đầu tiên của ngày sabbat là quy hướng tất cả công trình tạo dựng về Thiên Chúa (GLHTCG số 347). Thế giới này tự nó không phải là cùng đích, nó phải tìm ý nghĩa nơi ngày sabbat của Thiên Chúa. Chúng ta được dựng nên cho Chúa và chỉ nơi Chúa, tâm hồn chúng ta mới tìm được sự nghỉ ngơi (số 30). Điều răn giữ ngày sabbat không chỉ là lề luật bên ngoài (như vẫn bị hiểu lầm), nhưng đúng hơn, điều răn đó giúp chúng ta thoát khỏi sự nô lệ công việc và tôn thờ tiền của. Chính Thiên Chúa đã nghỉ ngơi trong ngày sabbat (Xh 31,17), thì con người cũng phải nghỉ việc và để cho người khác, nhất là các nô lệ và ngoại kiều, được nghỉ ngơi (Xh 23,12). Ngày sabbat nhắc nhở chúng ta rằng con người không chỉ đơn thuần là một con vật mang gánh nặng nên cần nghỉ một chút để thở, nhưng vì con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và hướng đến hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài, hạnh phúc mà chúng ta được nếm thử trong phụng vụ và sự nghỉ ngơi ngày sabbat (số 347).
Tất cả những gì đã trình bày ở trên đều đúng với ngày Chúa nhật. Hơn thế nữa, ý nghĩa sâu xa nhất của ngày sabbat nay được sáng tỏ nhờ ngày Chúa nhật, tức là: thế giới này được hoàn thiện trong công trình tạo dựng mới, đã bắt đầu với sự phục sinh của Đức Kitô và hiện diện trong cử hành Thánh Thể (số 2175).
Hơn bao giờ hết, các Kitô hữu ngày nay cần phải giữ ngày Chúa nhật cách ý thức, không những giữa người Công giáo với nhau, nhưng còn cho đời sống công cộng. Ý thức này bắt đầu bằng việc sử dụng từ ngữ: thay vì chúc nhau “ngày nghỉ cuối tuần” (nice weekend) thì hãy chúc nhau “Chúa nhật tốt lành”. Hình như chúng ta đã quên rằng Chúa nhật là ngày thứ nhất trong tuần, chứ không phải ngày cuối cùng, có lẽ vì phải đi làm vào thứ Hai nên cứ nghĩ thứ Hai mới là ngày thứ nhất trong tuần! Thật tốt đẹp khi chúng ta bắt đầu và kết thúc một tuần lễ bằng Ngày của Chúa.
Ngày nay, để tuân giữ ngày Chúa nhật, phải chống lại nhiều thứ trào lưu: đời sống gia đình bị cắt mảnh, khuynh hướng làm việc cả Chúa nhật, khuynh hướng đi du lịch vào Chúa nhật…
Việc cử hành Thánh Lễ Chúa nhật mang lại ý nghĩa chính yếu cho ngày Chúa nhật (số 2181). Thật đáng ước mong khi có nhiều người tham dự Thánh Lễ vào sáng Chúa nhật. Mỗi chúng ta nên giữ luật ngày Chúa nhật không chỉ như sự bó buộc bên ngoài, nhưng như nhu cầu gặp gỡ Đấng Phục Sinh trong bí tích Thánh Thể, đồng thời gặp gỡ hàng xóm láng giềng, nhất là những người già cả, đau yếu, các trẻ em, là những người cần đến thời giờ và tình yêu thương của chúng ta. Như thế, sự nghỉ ngơi ngày Chúa nhật lại làm cho cuộc sống chúng ta thêm phẩm chất và ý nghĩa.
 

Bài 35. HÃY THỜ CHA KÍNH MẸ

 
Với điều răn thứ tư, chúng ta bắt đầu bước vào phần hai của Mười Điều Răn (GLHTCG số 2197). Đây là điều răn đầu tiên về việc yêu thương người lân cận. Sau Thiên Chúa, chúng ta phải tôn kính cha mẹ. Các ngài nhắc cho chúng ta nhớ rằng chúng ta không tự làm nên chính mình, nhưng sự sống này là do chúng ta đón nhận, vì thế không có quyền sử dụng sự sống cách tự do ích kỷ. Do đó, tôn kính cha mẹ cũng có nghĩa là nhìn nhận vị trí thụ tạo của mình trước mặt Thiên Chúa và tha nhân.
Sở dĩ điều răn tôn kính cha mẹ được đặt ở hàng đầu trong phần hai, là vì một lý do khác nữa: ai tôn kính cha mẹ thì cũng có được thái độ đúng đắn trong những mối tương quan khác của đời sống. Người đó sẽ trân trọng sự sống (điều răn thứ năm), tôn trọng trật tự đúng đắn của tính dục (điều răn thứ sáu) cũng như của cải (điều răn thứ bảy); người đó sẽ nói năng cách có trách nhiệm (điều răn thứ tám). Như thế điều răn thứ tư là nền tảng cho việc thực hành tình yêu thương người lân cận. Đây là điều răn duy nhất có lời hứa kèm theo: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ để được sống lâu dài trên đất mà Chúa ban cho ngươi” (Eph 6,3; Xh 20,12). Phúc lợi của xã hội loài người, cũng như của mỗi cá nhân, tùy thuộc vào sự tốt đẹp của tương quan đầu tiên này, vì nó đặt nền móng cho mọi tương quan khác trong cuộc đời.
Điều răn thứ tư bảo vệ gia đình xét như là tế bào căn bản của xã hội (số 2207). Chính vì thế, việc bảo vệ gia đình như Hội Thánh hiểu, phải chiếm vị trí ưu tiên. Trước khi bàn chi tiết hơn về chủ đề gia đình, nên quan tâm đến hai ý kiến chống đối.
Tại sao điều răn thứ tư chỉ nói đến bổn phận con cái phải tôn kính cha mẹ? Ngày nay chúng ta quen nói đến quyền của con cái, và nếu nói đến bổn phận thì cũng nói đến bổn phận của cha mẹ trước. Tôi cho rằng Kinh Thánh nói đến bổn phận của con cái với cha mẹ trước, vì mọi người trước hết đều là một người con, con của Chúa và con của cha mẹ mình. Thế nên chúng ta là người con trước khi trở thành người cha hay người mẹ, và dù có là người cha, mẹ đi nữa, thì cũng đừng quên rằng mình là con của Chúa và con của cha mẹ đã sinh ra mình. Trật tự tự nhiên này càng sâu sắc hơn khi Đức Kitô dạy rằng chúng ta chỉ có thể vào Nước Trời – nghĩa là đạt đến mục đích của đời sống – nếu chúng ta “trở nên như trẻ nhỏ” (Mt 18,3).
Ý kiến chống đối thứ hai là: Phải chăng Chúa Giêsu đã không “tương đối hóa” điều răn thứ tư sao? “Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,37). Ở nơi khác, Chúa còn nói mạnh hơn: “Ai không ghét cha mẹ mình… thì không thể là môn đệ Thầy” (Lc 14,26). Ở đây, “ghét” không có nghĩa là khinh bỉ, nhưng đúng hơn, câu này muốn diễn tả rằng tiếng gọi của Chúa quan trọng hơn mọi liên hệ gia đình. Thiên Chúa không gạt bỏ bổn phận đối với cha mẹ (x. Mc 7,8-13), nhưng lời kêu gọi hãy bỏ mọi sự lại đằng sau cũng có nghĩa là hãy bước theo Đức Kitô, điều đó quan trọng hơn mọi thứ khác. Chính Chúa Giêsu hằng vâng lời cha mẹ Người (Lc 2,51), tuy nhiên Người cũng làm cho cha mẹ đau khổ khi Người phải vâng theo thánh ý của Cha trên trời (Lc 2,49).
 

Bài 36. GIA ĐÌNH

 
Các nhà xã hội học chỉ ra cách đúng đắn rằng “gia đình” đã trải qua rất nhiều thay đổi theo dòng lịch sử. Gia đình nhỏ, gia đình hạt nhân như chúng ta biết ngày nay không phải là hình thức duy nhất của “gia đình”. Cách nay 3 hoặc 4 thế hệ, chuẩn mực vẫn là gia đình lớn, nhất là trong các vùng nông thôn, nghĩa là gia đình đông con và ít là 3 thế hệ cùng chung sống (tứ đại đồng đường). Thời xưa – kể cả ngày nay tại nhiều vùng ở châu Phi vẫn giữ truyền thống – gia đình còn rộng lớn hơn nữa: gia đình bao gồm bộ tộc, bộ lạc, nghĩa là mạng lưới rộng lớn của những người bà con họ hàng, trong đó các cá nhân và gia đình nhỏ gắn kết chặt chẽ với nhau.
Từ đó người ta có thể kết luận rằng gia đình chỉ là một trong nhiều hình thức sống chung, và hình thức gia đình có thể thay đổi theo từng hoàn cảnh của thời đại. Thế nhưng Hội Thánh xác tín rằng gia đình là “tế bào nguyên thủy của đời sống xã hội” (GLHTCG số 2007). Gia đình có trước những hình thức khác của cộng đồng. Gia đình có trước cả Nhà nước và xã hội (số 2002), và vì thế, công quyền không chỉ đơn thuần là kiểm soát các gia đình nhưng có bổn phận bảo vệ và thăng tiến gia đình: “Chính quyền dân sự phải coi đây là một bổn phận quan trọng, là nhận biết, bảo vệ và củng cố phẩm chất đích thực của hôn nhân và gia đình, bảo vệ nền luân lý công cộng và sự thịnh vượng của gia đình” (số 2210). Đã nhiều lần các thể chế chính trị nghĩ đến việc loại bỏ gia đình, “giải phóng” con người khỏi những “ràng buộc gia đình”, trẻ em không cần được cha mẹ giáo dục nhưng đã có tập thể lo; người ta làm tất cả những gì có thể để nới lỏng mối dây hôn phối giữa vợ chồng. Những thử nghiệm đó đã dẫn đến những hậu quả bi thảm cho cá nhân và xã hội.
Tuy nhiên cũng có những dấu chỉ cho thấy suy tư nghiêm túc về giá trị của gia đình. Những gì mà đứa trẻ không học được nơi gia đình vốn là tế bào nguyên thủy của đời sống xã hội, thì các đơn vị xã hội như trường học hoặc nhóm bạn phải làm thay, thế nhưng rất khó khăn. “Nơi nào các gia đình không đủ khả năng chu toàn các nhiệm vụ của mình, thì các tổ chức xã hội khác có bổn phận trợ giúp các gia đình đó và nâng đỡ thể chế gia đình” (số 2009). Đìều này đặc biệt đúng cho những hoàn cảnh khá thông thường ngày nay ở châu Âu, tức là những gia đình của cha mẹ đơn thân, gia đình đổ vỡ, gia đình bất hạnh. Lời kêu gọi “thăm viếng cô nhi quả phụ đang gặp khó khăn” vẫn còn rất cụ thể cho ngày nay. Vì thế người Kitô hữu cần ưu tiên cho việc nâng đỡ và đáp ứng nhu cầu của các gia đình.
Gia đình là mẫu mực nguyên thủy của quan hệ nhân sinh. Không phải vô lý khi chúng ta ca tụng bầu khí gia đình trong một giáo xứ hoặc nơi làm việc. Diễn ngữ “gia đình nhân loại” chỉ có ý nghĩa nếu tất cả chúng ta nhìn nhau không chỉ như những cá nhân, nhưng như con cái của Người Cha duy nhất, và như thế là anh chị em với nhau: “Anh chị em ruột là con cái của cha mẹ chúng ta; anh chị em họ là con cháu của tổ tiên chúng ta; đồng bào là con cái của tổ quốc chúng ta; những người đã chịu Phép Rửa là con cái của Mẹ Hội Thánh; mỗi người đều là con trai hoặc con gái của Đấng muốn chúng ta gọi Ngài là “Cha của chúng con” (số 2212).

Bài 37. QUYỀN BÍNH TRONG XÃ HỘI DÂN SỰ

 
“Điều răn thứ tư cũng truyền dạy chúng ta phải tôn trọng tất cả những ai đã đón nhận từ Thiên Chúa một quyền bính trong xã hội để mưu ích cho chúng ta” (GLHTCG số 2234). Đây là điều ngày nay ít nghe nói tới. Đã có một thời việc kính trọng những người có quyền bính xã hội được cho là lẽ đương nhiên, thế nhưng thái độ này đã thay đổi rất nhanh, một phần do cuộc “cách mạng văn hoá” ở thập niên 1960, phần khác là do sự lạm dụng quyền bính quá nhiều trong các chế độ độc tài. Sự kính trọng những người có quyền bính bị phê phán là “thái độ nô lệ”, còn “quyền bính” nói chung bị nghi ngờ và nhiều khi muốn dẹp bỏ.
Những phê phán trên cũng có phần giá trị, tuy nhiên nó cũng phá hủy nhiều điều tốt và đúng. Ngày nay người ta khám phá ra rằng những điều bị cho là “đức tính tiểu tư sản” lại là những gì cần thiết trong đời sống xã hội. Chỉ khi những đức tính này bị mất đi, chỉ khi quá nhiều người có quyền bính trong xã hội rơi vào tình trạng tham nhũng, ham mê quyền lực, chỉ tìm tư lợi, hành xử độc đoán… chúng ta mới thấy cần thiết và đáng quý biết bao cho một đất nước nếu có được những viên chức lương thiện, cần mẫn, nhiệt tình phục vụ, ngay thẳng, trong sạch, trung thành.
Về phía người dân, “Bổn phận của các công dân là cộng tác với chính quyền dân sự để mưu ích cho xã hội trong tinh thần tôn trọng chân lý, công bằng, tình liên đới và sự tự do” (số 2239). Cả hai, người cầm quyền cũng như dân thường, đều phải ý thức rằng họ có bổn phận chung là hướng đến điều gì đó lớn lao hơn, tức là công ích (số 1905). Đây không phải là cái gì trừu tượng nhưng là bổn phận cụ thể. Tình yêu tổ quốc đòi hỏi chúng ta những nỗ lực cụ thể để bảo vệ hoà bình, công lý, và phát triển những tương quan nhân sinh. Chính vì vậy, chúng ta mang món nợ biết ơn những người đã sống và hy sinh cho công ích (số 2239).
Khi chính trị bị coi là chuyện “dơ bẩn” và làm chính trị bị nhìn như việc xấu xa, thì khi đó, công ích bị đe doạ. Chính vì thế người Kitô hữu có bổn phận phải cầu nguyện cho những người cầm quyền, “để chúng ta được an cư lạc nghiệp, sống đạo đức và nghiêm chỉnh” (1Tim 2,2).
Thế nhưng, sự vâng phục cũng có những giới hạn của nó. Khi công quyền ra lệnh cho người dân làm những điều bất công, vô luân, hoặc đi ngược phẩm giá con người, thì chúng ta bị buộc theo lương tâm, phải từ chối vâng phục: “Khi công quyền vượt quá quyền hạn của mình mà đàn áp các công dân, thì chính các công dân đừng từ chối những gì công ích đòi hỏi cách khách quan. Họ được phép bảo vệ các quyền lợi của mình và của đồng bào mình, chống lại sự lạm dụng của quyền bính này, với sự trân trọng các giới hạn mà Luật tự nhiên và Luật Tin Mừng đã vạch ra” (số 2242).
Đòi hỏi này được áp dụng trong quan hệ con cái với cha mẹ cũng như người dân với chính quyền: “Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng phục người ta” (Cv 5,29). Điều này có nghĩa là chống lại khuynh hướng của chính quyền muốn biến Nhà nước thành quyền lực tuyệt đối; là can thiệp để bảo vệ sự sống của những người dân yếu thế trước sự đàn áp của công quyền; là tranh đấu cho quyền cư trú của người nước ngoài bị đàn áp. Như thế, qua sự liên đới và cộng tác, chúng ta nhắc nhở chính quyền về bổn phận đối với những thành phần yếu thế trong cộng đồng xã hội.
 

Bài 38. GIÁO HỘI VÀ NHÀ NƯỚC

 
Cách nào đó, mối tương quan giữa Giáo Hội và Nhà Nước cũng nằm trong khuôn khổ của điều răn thứ tư (GLHTCG số 2244-2246). Các tín hữu trong Giáo Hội cũng là những công dân trong các cộng đồng trần thế, cách riêng Nhà Nước có một vai trò quan trọng. Cũng như mỗi người đều thuộc một gia đình, có cha có mẹ, có tổ tiên và bà con họ hàng, thì sự gắn kết của một người với quốc gia cũng được coi như “thuộc bản tính con người” (số 1882). Và cũng như một người cảm nhận sự mất mát nghiêm trọng khi gia đình mình bị đổ vỡ hoặc tan nát, thì mỗi cá nhân, các gia đình và những mối tương quan cũng bị mất mát nghiêm trọng khi Nhà Nước rơi vào khủng hoảng, cơ chế lung lay, khi tham nhũng và hỗn mang, quản lý sai lầm và lạm dụng quyền lực thống trị đời sống xã hội.
Nhiệm vụ đầu tiên của Giáo Hội – xét như cộng đồng các tín hữu đang sống trong một quốc gia – là tích cực cộng tác để xây dựng và duy trì công ích. Ngày nay người ta có khuynh hướng đòi hỏi Nhà Nước rất nhiều mà ít nghĩ đến trách nhiệm của mình. Các Kitô hữu không nên đặt quyền lợi riêng của mình lên trên hết và đòi hỏi phải thoả mãn bằng mọi giá.
Trong điều răn thứ tư, huấn lệnh tôn kính cha mẹ gắn với lời hứa sẽ được sống lâu dài và thịnh vượng. Tương tự như thế, lời hứa này cũng được gửi đến những công dân biết chia sẻ trách nhiệm và dấn thân phục vụ.
Trong mối tương quan với Nhà Nước, Giáo Hội không nên chỉ quan tâm đến những đặc quyền đặc lợi; dĩ nhiên Giáo Hội có quyền sống và làm việc cách tự do xét như một cộng đồng tôn giáo (số 2106).
“Mọi thể chế đều, ít là cách mặc nhiên, được gợi hứng bởi một tầm nhìn nào đó về con người và vận mệnh của con người; từ đó thể chế rút ra điểm quy chiếu cho các phán đoán của mình, bậc thang giá trị và quy tắc hành động của mình” (số 2244). Vậy thế giới quan nào đang hướng dẫn những quyết định chính trị lớn, nhỏ? “Giáo Hội mời gọi các chính quyền quy chiếu các phán đoán và quyết định của mình trên nền các chân lý được linh hứng về Thiên Chúa và con người” (số 2244). Làm như thế, Giáo Hội không có ý can thiệp trực tiếp vào đời sống chính trị hoặc đòi hỏi bất cứ quyền lực chính trị nào; đúng hơn, Giáo Hội muốn các Kitô hữu trở thành “men” trong xã hội: “Bằng cách không ngừng loan báo Tin Mừng cho con người, Giáo Hội cố gắng làm sao để họ đem tinh thần Kitô giáo vào trong tâm trí, phong tục, luật lệ và cơ cấu của cộng đoàn nơi họ sống” (số 2105).
Khi bảo vệ phẩm giá của mọi người, dù là thai nhi hoặc người già yếu, ngoại kiều hay khuyết tật, Giáo Hội cũng giúp Nhà Nước mang tính thân thiện và nhân văn hơn. Tuy nhiên, trong ánh sáng của mặc khải, Giáo Hội cũng biết rằng Nhà Nước, Giáo Hội và mỗi cá nhân chỉ có thể bước đi trên con đường hẹp của công lý nếu chúng ta thường xuyên canh tân những nỗ lực của mình, dứt bỏ những gì xấu xa và hướng đời sống về với Thiên Chúa, sẵn sàng thưa “vâng” với những gì tốt lành.
 

Bài 39. NGƯƠI KHÔNG ĐƯỢC GIẾT NGƯỜI

 
Một trong những thông điệp quan trọng nhất của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II là thông điệp Tin Mừng sự sống(Evangelium vitae). Ngài nói đến sự sống nào? Ngài công bố Tin Mừng nào về sự sống? Chúa Giêsu hứa ban sự sống nào? Điều răn thứ năm bảo vệ sự sống nào?
Chúa Giêsu hứa ban sự sống đời đời, tức là sự hiệp thông với Thiên Chúa, và chính Chúa Giêsu đã đến để ban tặng cho chúng ta. Để đạt tới sự sống này, phải chấp nhận mất sự sống của mình (Mc 8,35). Chúng ta được nhắc nhớ rằng sự sống trần thế không phải là mục đích tối hậu và giá trị cao cả nhất. Thà hy sinh sự sống này còn hơn là đánh mất sự sống linh hồn (Mt 10,28).
Các vị tử đạo đã làm chứng cho chân lý này. Vì danh Chúa Kitô, các ngài đã sống theo lương tâm, chống lại những dối trá và bất công, sẵn sàng hy sinh mạng sống trần gian chứ không chịu mất sự sống linh hồn (GLHTCG số 2473). “Nếu hạt lúa rơi xuống lòng đất mà không chết đi, nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, nó mới sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai ghét sự sống mình ở đời này, sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời” (Ga 12,24-25).
Vậy phải chăng có thể tước đoạt sự sống con người cách độc đoán? Điều răn thứ năm rõ ràng đặt toàn bộ sự sống con người, cả xác lẫn hồn, dưới sự che chở đặc biệt của Thiên Chúa: “Chỉ một mình Thiên Chúa là Chủ của sự sống ngay từ khởi đầu đến khi kết thúc. Trong bất cứ trường hợp nào, không ai được dành cho mình quyền trực tiếp tiêu diệt một người vô tội” (số 2258).
Sự sống mang tính thánh thiêng vì Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và bảo tồn sự sống, là Đấng Thánh. Một xã hội trong đó cảm thức về Thiên Chúa bị lu mờ, thì việc tôn trọng sự sống cũng nhanh chóng mất đi. Trong sách Didache (Giáo huấn của các Tông đồ), chúng ta đọc được giáo huấn này rất rõ ràng ngay từ thuở đầu của Kitô giáo, chống lại việc khinh thường sự sống trong thế giới ngoại giáo lúc đó: “Không được giết người… Không được giết một bào thai bằng cách phá thai hoặc giết trẻ con… Đường của sự chết là thế này… Đó là đường của những kẻ không biết thương người nghèo, không quan tâm đến người bị áp bức, không nhận biết Đấng Tạo Hoá. Đó là đường của những kẻ giết trẻ thơ, huỷ diệt những hình ảnh của Chúa. Đó là đường của những kẻ quay mặt đi trước nhu cầu của tha nhân, áp bức người cùng khổ, xét xử người nghèo cách bất công. Tắt một lời, đó là đường của những kẻ lún sâu trong tội lỗi. Hởi các con, hãy giữ mình khỏi những điều đó”.
Ngày nay, trong một thế giới ngày càng mang tính ngoại giáo, Đức Thánh Cha không ngừng nói về “văn hoá sự sống”, vốn đang bị đe doạ bởi nền văn hoá sự chết, nhưng cũng là phương thế duy nhất để chống lại nó. Thánh Gioan Phaolô II cũng nhìn thấy những dấu hiệu hy vọng của nền văn hoá sự sống khắp nơi, dù ngài than phiền rằng “thật khó để thấy và nhận ra những dấu chỉ tích cực này, có lẽ vì các phương tiện truyền thông không quan tâm tới cho đủ”.
Điều răn thứ năm chỉ ra giới hạn tối thiểu mà ta không được vượt qua. Hiểu cách tích cực, điều răn đó trình bày sự tôn trọng tuyệt đối với sự sống con người, vì sự sống đó được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, và vì thế sự sống đó thật thánh thiêng.
 

Bài 40. BẢO VỆ SỰ SỐNG

 
Điều răn thứ năm đặt sự sống con người – trong mọi giai đoạn và mọi chiều kích – dưới sự che chở đặc biệt của Thiên Chúa. Điều đó bao gồm việc bảo vệ sự sống thân xác cũng như linh hồn. Chính vì thế, khi trình bày điều răn thứ năm, Sách GLHTCG bàn đến “gương xấu” như là sự xúc phạm đến việc “tôn trọng linh hồn tha nhân” (số 2284).
Dẫn người khác đến chỗ làm điều xấu là giết chết linh hồn người ta. Chính vì thế Chúa Giêsu nguyền rủa những kẻ làm gương xấu cho “một trong những người bé mọn tin vào Ta” (Mt 18,6). Gương xấu có thể phát xuất từ ứng xử cá nhân, nhưng cũng còn từ những lề luật thúc đẩy gương xấu hoặc không chống lại gương xấu cho đủ mạnh, cũng như từ những người lèo lái dư luận, gây hậu quả tai hại và tàn phá sự sống linh hồn. Mối nguy hiểm cho sự sống thân xác không đáng sợ bằng những đe doạ sự sống linh hồn. Cho dù ngày nay nhiều người không còn coi việc “cứu linh hồn” là mục đích tối thượng, nhưng lời cảnh cáo của Chúa Giêsu vẫn còn nguyên giá trị: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích chi (Mt 16,26)?
Do đó, việc bảo vệ sự sống con người được bắt đầu từ chỗ kính trọng linh hồn của tha nhân. Nếu sự kính trọng này không đủ mạnh thì sự kính trọng thân xác người khác cũng sẽ bị lụi tàn. Cũng vì thế, “nền văn hoá sự sống” đòi hỏi việc “vun đắp linh hồn”. Nền văn hoá sự sống chỉ phát triển khi sự sống linh hồn – mối tương quan sống động với Thiên Chúa – được vun trồng. Việc tôn trọng sự sống thân xác cũng như linh hồn của tha nhân sẽ lớn mạnh cùng với mức độ chúng ta tin vào sự chăm sóc của Thiên Chúa đối với con người, khi chúng ta hiểu được rằng mình quý giá dường nào trước mặt Chúa, và Chúa Giêsu phải trả giá đắt thế nào để cứu độ chúng ta.
“Mọi người, từ trong lòng mẹ, đã thuộc về Chúa là Đấng tìm kiếm và biết họ… Đấng dõi theo họ ngay từ khi họ mới chỉ là những phôi chưa thành hình dạng, đã nhìn thấy nơi họ những con người của tương lai với năm tháng ngày giờ, và ơn gọi của họ đã được viết trong Sách sự sống” (Tin Mừng sự sống, số 61). Đây là lý do Hội Thánh cương quyết trả lời KHÔNG đối với việc phá thai, đồng thời cố gắng đồng hành và nâng đỡ các bậc cha mẹ đang gặp khó khăn để họ chống lại cơn cám dỗ phá thai.
An tử (euthanasia) cũng là một chủ trương đe doạ sự sống con người. Một đàng, “việc ngưng các phương tiện y khoa quá tốn kém và mạo hiểm, ngoại thường hoặc không tương xứng với những kết quả mong muốn, có thể là hợp pháp” (số 2278); đàng khác, ngày càng có nhiều tiếng nói cho rằng cuộc sống của người khuyết tật, bại liệt, mắc bệnh nan y, là “những cuộc đời không đáng sống” và đòi được phép giết những người đó. Tương tự như thế, những nỗ lực đòi coi việc tự tử là chuyện bình thường, hơn nữa còn muốn tôn vinh nó, tất cả là thành phần của thứ văn hoá sự chết (số 2282).
Ngoài ra, chủ trương tôn thờ thân xác (số 2289) thật ra cũng đang cổ võ cho thứ văn hoá thù nghịch sự sống: “Mặc dù luân lý đòi phải tôn trọng sự sống thể xác, nhưng luân lý không dành cho nó một giá trị tuyệt đối”. Nếu cho rằng chỉ có những thân xác khỏe mạnh và hấp dẫn mới đáng sống, thì vô tình hay hữu ý, xã hội không còn chỗ cho người đau yếu, tật nguyền và lệ thuộc người khác. Việc tôn trọng và bảo vệ sự sống đích thực phải được khơi dậy từ nhận thức rằng mọi sự sống con người – không loại trừ ai – đều quý giá trước mặt Thiên Chúa và ở dưới sự che chở của Ngài.
 

Bài 41. ÁN TỬ HÌNH?

 
 
Kể từ khi ra mắt Sách GLHTCG, không có vấn đề nào gây nhiều cảm xúc cho bằng vấn đề án tử hình. Điều răn thứ năm lại chẳng cấm giết người đó sao? Thế còn chuyện tự vệ thì sao? “Ai bảo vệ mạng sống mình thì không mắc tội giết người, kể cả khi bó buộc phải giáng một ngọn đòn chí tử vào kẻ tấn công” (số 2264). Theo thánh Tôma Aquinô, “Nếu ai bảo vệ mạng sống mình mà sử dụng bạo lực quá mức cần thiết, thì hành vi này là bất hợp pháp. Còn nếu người đó đẩy lui bạo lực cách chừng mực, thì đó là tự vệ hợp pháp”.
Sự bảo vệ hợp pháp như thế, trong trường hợp liên quan đến gia đình mình hoặc công ích của quốc gia, thì “không những là một quyền, mà còn là bổn phận quan trọng của người có trách nhiệm về sự sống của những người khác” (số 2265). Điều này có thể dẫn đến cả việc “bảo vệ hợp pháp bằng sức mạnh quân sự” (số 2309).
Vậy, việc bảo vệ công ích có thể đi xa đến mức thiết lập án tử hình không? Đó là điều mà Sách Giáo Lý nói tới: “Giáo huấn truyền thống của Hội Thánh, sau khi đã xác minh đầy đủ căn tính và trách nhiệm của phạm nhân, không loại trừ việc kết án tử hình, nếu đây là con đường khả thi duy nhất để bảo vệ hữu hiệu mạng sống con người khỏi bị xâm phạm cách bất công” (số 2267). Tuy nhiên, đừng quên rằng ngay sau khẳng định này, Sách Giáo Lý viết: “Nếu các phương tiện không đổ máu đã đủ để bảo vệ… thì nhà cầm quyền chỉ nên dùng những phương tiện này, vì chúng đáp ứng tốt hơn cho những hoàn cảnh cụ thể của công ích và phù hợp hơn với phẩm giá của nhân vị” (số 2267).
Trong thông điệp Tin Mừng sự sống, thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II còn đi xa hơn, và Sách Giáo Lý cũng lấy lại lập trường của ngài: “Trong thời đại chúng ta, vì Nhà Nước có nhiều khả năng để chế ngự tội ác cách hữu hiệu, làm cho kẻ đã phạm tội không còn khả năng tác hại, mà không tước đoạt cách vĩnh viễn khả năng chuộc tội của họ, nên những trường hợp tuyệt đối cần thiết phải khử trừ phạm nhân, từ nay sẽ rất hiếm, nếu không muốn nói là trong thực tế không còn nữa” (số 2267). Thánh Gioan Phaolô II còn viết thêm: “Về vấn đề này, cả trong Giáo Hội cũng như ngoài xã hội dân sự, ngày càng gia tăng khuynh hướng yêu cầu giới hạn án tử hình, kể cả bãi bỏ hoàn toàn” (Tin Mừng sự sống, số 56).
Phải chăng đó là tiếng nói phủ nhận dứt khoát án tử hình? Trong ấn bản La Tinh của Sách Giáo Lý, xuất bản vào ngày 8 tháng 9 năm 1997, những ghi nhận của Thánh Gioan Phaolô II đã được thêm vào. Trong thực tế, nhiều lần Thánh Gioan Phaolô II công khai chống lại việc áp dụng án tử hình, và xin tha cho những người bị kết án tử. Hội Thánh biết rằng tội ác sẽ còn xảy ra bao lâu người ta lấy bạo lực đáp lại bạo lực và bao lâu tình yêu tha nhân – nhất là yêu thương kẻ thù – chưa được thực hiện. Trong ánh sáng của Tin Mừng, Hội Thánh sẽ tiếp tục loan báo tình yêu thương kẻ thù như Chúa Giêsu đã dạy, và nói “Không” với án tử hình.
 

 Bài 42. CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

 
Điều răn thứ năm bảo vệ sự sống con người khỏi những sức mạnh chết chóc. Do đó, điều răn này kêu gọi chúng ta phải chiến đấu chống lại những cội rễ sâu xa của chiến tranh và giết chóc. Tâm hồn con người là nguồn cội của những tư tưởng xấu, dẫn đến những hành động xấu (Mc 7,14-23). Chính vì thế Chúa Giêsu công bố: “Phúc cho những ai xây dựng hoà bình” (Mt 5,9). Để xây dựng hoà bình, chúng ta phải có được hoà bình nơi chính bản thân. Dĩ nhiên điều đó đòi hỏi cuộc đấu tranh gian khổ, chống lại những tư tưởng và đam mê xấu nơi chính mình.
Không những Chúa Giêsu nhắc nhở về điều răn thứ năm, nhưng xem ra Người còn nghiêm khắc hơn. Kể cả giận dữ với tha nhân và anh em cũng đáng bị Thiên Chúa xét xử rồi (Mt 5,22). Quả là không dễ dàng khi phải vượt lên trên những phản ứng tự nhiên của tâm hồn và đam mê, chúng ta chỉ làm được điều đó nhờ ân sủng của Đức Kitô, Đấng đã “chấm dứt sự thù hận” (Eph 2,16) trong chính thân thể Người. Nếu muốn biết chúng ta đã đạt đến điều đó chưa, hãy nhìn vào thái độ của mình đối với kẻ thù. Chúa Giêsu dạy phải yêu thương kẻ thù (Mt 5,44-45), và điều này chỉ thành hiện thực nơi những ai làm chủ được ước muốn trả thù trong tâm hồn mình. Vậy ai trong chúng ta có thể tuyên bố chắc chắn là mình đã có được sự bình an theo nghĩa sâu xa này? Phải nói đây là cuộc chiến đấu liên lỉ, nhờ sự trợ giúp của ân sủng: “Hãy tránh xa điều ác và hãy làm lành; hãy tìm kiếm và theo đuổi bình an” (Tv 34,14).
Hoà bình trong xã hội và đất nước, hoà bình giữa các nhóm người và các dân tộc, tất cả cũng đều bắt nguồn từ trái tim con người. Tuy nhiên cũng cần có những điều kiện bên ngoài: “Hoà bình không thể có được trên trái đất, nếu không có sự bảo vệ của cải của các nhân vị, không có sự truyền thông tự do giữa con người, không có sự tôn trọng phẩm giá con người và các dân tộc, không có sự chuyên chăm thực thi tình huynh đệ” (GLHTCG số 2304). Người ta thường chỉ nhận ra sự cao quý của hoà bình khi hoà bình bị đe doạ hoặc mất đi. Chính vì thế Hội Thánh không ngừng cầu nguyện cho hoà bình.
Chiến tranh không phải là “cha đẻ mọi sự” như người ta thường nói. Ngược lại, kinh nghiệm đau thương trong lịch sử nhân loại cho thấy chiến tranh là một trong những điều tồi tệ nhất, “vì mọi cuộc chiến đều kéo theo những tai hoạ và bất công”. Cũng vì thế, “Chúng ta phải làm bất cứ điều gì có thể cách hữu lý để tránh chiến tranh. Hội Thánh cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cứu chúng con kỏi ôn dịch, nạn đói và chiến tranh” (số 2307, 2327).
Ở mức độ nào đó, chẳng bao giờ có thứ “chiến tranh chính đáng”. Tuy nhiên, có những hoàn cảnh trong đó việc tự vệ bằng sức mạnh quân sự được coi là hợp pháp về mặt luân lý (số 2309). Với sức tàn phá khủng khiếp của những vũ khí hiện đại, cần phải đánh giá thật kỹ những điều kiện cho phép sử dụng vũ khí cách hợp pháp về mặt luân lý.
Chiến tranh không dẹp bỏ luật luân lý. Kể cả trong chiến tranh, những nguyên tắc đạo đức vẫn có giá trị: “Không phải vì chẳng may chiến tranh đã diễn ra, mà các phía đối nghịch nhau được phép muốn làm gì thì làm” (số 2312). Cho nên, “phải tôn trọng và đối xử cách nhân đạo với thường dân, thương binh và tù binh” (số 2313).
Phương thế hiệu quả để chống lại nguy cơ chiến tranh là hãy hành động cho công lý và công bằng giữa con người, nhóm người, các dân tộc. Vì chưa vào thiên đàng nên chúng ta phải luôn cảnh giác trước những nguy cơ đe doạ hoà bình. Điều đó có nghĩa là cần có sự bảo vệ quốc gia cách thích hợp cũng như chính sách khôn ngoan để bảo vệ an ninh và trật tự xã hội công bằng và hoà bình.
 

Bài 43. ĐIỀU RĂN THỨ SÁU

 
Xin nói ngay, đây là điều răn thứ sáu chứ không phải điều răn thứ nhất. Đôi lúc bạn có cảm tưởng đây là điều răn hàng đầu vì người ta nói đến nó nhiều quá. Người ta thường trách cứ Hội Thánh đã nhấn mạnh quá nhiều đến điều răn này, cứ như thể mọi sự khác đều xoay quanh điều răn này. Không thể phủ nhận rằng đã có lúc chúng ta nhấn mạnh quá đáng như thế. Ngày nay, ngược lại, chúng ta thấy tính dục lại trở thành câu chuyện dẫn đường trên các phương tiện truyền thông cũng như trong công chúng, bị khai thác bằng mọi cách. Vậy, ý định nguyên thủy của điều răn thứ sáu là gì? “Ngươi không được ngoại tình” (Xh 20,14). Các điều răn ở bảng hai (GLHTCG số 2067) nhắm đến môi trường sống của gia đình nhân loại, liên quan đến việc “phải tôn trọng cách đặc biệt sự sống, hôn nhân, của cải trần thế và lời nói” (số 2198).
 
Điều răn thứ sáu trước hết nhằm bảo vệ tình yêu hôn nhân. Trong cách nhìn của Kinh Thánh, tính dục “quy hướng tới tình yêu phu phụ giữa người nam và người nữ” (số 2360). Xác tín nền tảng này cũng dẫn đến tầm nhìn rộng lớn và bao quát hơn về điều răn thứ sáu, liên quan đến cách sống đúng đắn của những người không kết hôn, sống độc thân, cũng như người trưởng thành, trong vấn đề tính dục.
 
Không giống như nhiều thần thoại khác, Kinh Thánh nhìn tính dục nơi con người như một thực tại do Thiên Chúa muốn. Tính dục không phải là một tai hoạ hoặc tai nạn. Chính Thiên Chúa đã tạo dựng con người có nam có nữ, và như thế, tính dục nơi người nam và người nữ là do Thiên Chúa muốn và có ý nghĩa tích cực. Chính vì thế trong các sách làm nên bộ Kinh Thánh, có sách Diễm Ca với những bài ca tuyệt vời ca tụng tình yêu giữa người nam và người nữ (số 1611). Như sách Diễm Ca diễn tả, tình yêu với tất cả những sắc mầu và niềm vui, luôn luôn là điều đáng trông mong và tìm kiếm, kể cả ngày nay.
 
Tuy nhiên, Kinh Thánh cũng nói đến sự rối loạn mà tình dục đã gây nên kể từ sau tội nguyên tổ, khi con người xa lìa Thiên Chúa và tự biến mình thành mục tiêu tối hậu (số 398). Kể từ đó, sự hài hoà nội tại nơi con người bị đảo lộn: thân xác và linh hồn thường xuyên kình chống nhau, đam mê không còn tuân theo lý trí và ý chí, tương quan giữa những người khác phái trở nên căng thẳng và xung đột (số 400). Kể từ đó, con người phải đấu tranh vất vả để kềm chế năng lực tính dục mà Đấng Tạo Hoá đã đặt vào con người họ, sao cho nó đừng tự biến mình thành cùng đích tối hậu, nhưng thay vào đó, phải nhân hoá, trật tự hoá và toàn diện hoá nó (số 2337). Do đó điều răn thứ sáu trước hết không phải là bảng liệt kê những điều cấm đoán, đúng hơn, đó là bảng chỉ đường giúp chúng ta học yêu thương và ứng xử cho đúng đắn với tính dục. Truyền thống gọi đó là nhân đức khiết tịnh và tự chủ.
 
Sách Giáo lý nhấn mạnh đây là “một công việc bền bỉ và lâu dài, không bao giờ được coi như đã đạt tới một lần là xong” (số 2342). Đồng thời Sách Giáo lý cũng cho biết sự tự chủ này được thực hiện “qua những giai đoạn tăng trưởng, phải trải qua những bất toàn và rất thường là tội lỗi nữa” (số 2343). Đây cũng không chỉ là vấn đề nỗ lực cá nhân, nhưng còn bao hàm “nỗ lực về văn hoá”, vì “sự thăng tiến của nhân vị và sự phát triển của chính xã hội lệ thuộc lẫn nhau” (số 2344). Cuối cùng, tuy khiết tịnh là một nhân đức luân lý nhưng đó cũng là hồng ân của Thiên Chúa, là ân sủng, là hoa trái của Thánh Thần; vì thế chúng ta phải cầu xin Chúa trợ giúp để có thể sống khiết tịnh cách trọn vẹn.
 

Bài 44. MỞ RA VỚI SỰ SỐNG

 
Điều răn thứ sáu bảo vệ hôn nhân. Theo nghĩa rộng hơn, điều răn đó cũng liên quan đến toàn thể trật tự của tính dục nơi con người, bởi lẽ trong tầm nhìn của Kinh Thánh và Kitô giáo, “tính dục quy hướng về tình yêu phu phụ giữa người nam và người nữ” (GLHTCG số 2360). Hiếm có điểm nào trong luân lý Kitô giáo lại bị chỉ trích dữ dội, đồng thời người ta lại thiếu hiểu biết như thế cho bằng vấn đề điều răn thứ sáu.
 
Chúng ta tự hỏi, phải chăng đời sống hôn nhân không quan trọng cho bằng sự kiện hai con người yêu nhau, dù họ ở trong hoàn cảnh nào, dù có kết hôn hay không, dù khác phái hay đồng tính? Phải chăng hôn nhân chỉ còn là cơ hội giết chết tình yêu? Cuộc “cách mạng tình dục” ở thập niên 1960 đã cắt đứt hoàn toàn mối liên hệ giữa tính dục và sinh sản, đồng thời cổ võ lối sống lý tưởng, trong đó mỗi cá nhân hoàn toàn tự quyết, không chấp nhận bất cứ giới hạn nào dựa trên luật tự nhiên.
 
Dĩ nhiên lối sống trong đó con người tự đặt ra những chuẩn mực và luật lệ cho mình, lối sống đó ngày càng rơi vào khủng hoảng. Cú “sốc” đầu tiên xuất hiện tương tự như hậu quả của cuộc khủng hoảng dầu lửa, nghĩa là nhiều người nhận ra rằng có những giới hạn cho sự tăng trưởng trong nền kinh tế và sự thịnh vượng của chúng ta, dù vẫn có người tìm mọi cách phủ nhận. Cú “sốc” kế tiếp tương tự như cuộc khủng hoảng về môi trường. Cách sống hiện nay của chúng ta đang hủy diệt những nền tảng cho sự sống của những thế hệ tương lai. Nhiều người cho rằng chúng ta cần phải cư xử với môi trường thiên nhiên một cách hợp với tự nhiên hơn. Nhiều người khác đang lo sợ về những hậu quả không lường được khi người ta thao túng hệ thống gien.
 
Thế nhưng cái gọi là “tự nhiên” có nghĩa gì? Ý niệm nào về “tự nhiên” đang dẫn lối cho chúng ta? Phải chăng “văn hoá-culture” không phải là đặc tính của con người, và văn hoá là gì nếu không phải là vun trồng, tạo hình cho tự nhiên? Một môi sinh tự nhiên mà cứ để nguyên như thế thì con người không thể sống được. Nhiệm vụ canh tác đất đai và tạo hình cho nó là nhiệm vụ đã được trao cho con người cũng như nhiệm vụ sinh sản: “Hãy sinh sôi và nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất” (St 1,28). Điều đó hàm nghĩa con người có trách nhiệm trong việc lưu truyền sự sống và thống trị trái đất. Vậy chuẩn mực cho trách nhiệm này là gì? Theo Kinh Thánh, chuẩn mực đó là sự cộng tác của con người với Thiên Chúa Tạo Hoá: “Đôi vợ chồng nên nhìn việc lưu truyền sự sống con người và giáo dục con cái như sứ vụ riêng của họ; do đó họ phải nhận ra họ đang cộng tác với tình yêu của Thiên Chúa Tạo Hoá, và theo ý nghĩa nào đó, họ là những người diễn đạt tình yêu đó” (số 2367).
 
Kể từ khi Đức Phaolô VI ban hành thông điệp Sự sống con người (Humanae vitae), vấn đề sinh con có trách nhiệm đã trở thành đề tài tranh luận sôi nổi. Tôi nhìn thông điệp này như một tiếng nói mang tính tiên tri. Năm 1968, bằng một quyết định hết sức khó khăn, chỉ đạt được sau thời gian nghiên cứu lâu, Đức Phaolô VI đã nói KHÔNG với thuốc ngừa thai và nói VÂNG với sự sống. Vào thời điểm đó, chỉ một số ít người có thể thấy được những thử nghiệm thao túng sự sống sẽ dẫn người ta đi xa tới đâu. Tôi tin rằng vào thời điểm đó, Đức Phaolô VI muốn nói rằng: Hãy coi chừng. Sự sống rất thánh thiêng, sự sống được trao cho chúng ta và chúng ta đừng thao túng cách độc đoán.
Bước đi trên nẻo đường “tự nhiên” có nghĩa là mở ra với sự sống, sự sống mà chính chúng ta đã lãnh nhận, và trao ban sự sống cho những con người mới chính là sự cộng tác đẹp đẽ nhất mà con người có thể có với công trình tạo dựng của Thiên Chúa.
 

Bài 45. ĐIỀU RĂN THỨ BẢY

 
“Ngươi không được trộm cắp” (Xh 20,15), điều răn thứ bảy dạy như thế. Điều răn này cấm “lấy hoặc giữ của cải của người khác cách bất công, hoặc làm thiệt hại của cải của họ bằng bất cứ cách nào” (GLHTCG số 2401).
 
Thế nhưng liệu có cái gọi là “quyền tư hữu chính đáng” không? Chủ nghĩa Marx và sự thể hiện của nó là Cộng sản đặt vấn đề về chính nền tảng của “quyền tư hữu chính đáng”. Thật vậy, họ phủ nhận quyền này; theo đó, tất cả tư hữu đều được “tập thể hoá”, nghĩa là tước đoạt rồi trao cho sở hữu tập thể. Dĩ nhiên, hậu quả thực tế của hệ ý thức này là bởi vì mọi sự thuộc về mọi người, cho nên mọi người đều ráng bòn rút cho mình. Trong nền kinh tế kiệt quệ như trong các nước Cộng sản, trộm cắp trở thành một nhu cầu và một kỹ năng để sinh tồn. Đương nhiên lối sống này về lâu về dài sẽ tàn phá ý thức luân lý nơi người dân.
 
Ở một thái cực khác là thứ chủ nghĩa tư bản chủ trương muốn làm gì thì làm, thứ tư bản bị Thánh Gioan Phaolô II gọi là chủ nghĩa tư bản rừng rú, người ta coi tư hữu là tuyệt đối và cố gắng tách nó khỏi bất cứ bó buộc xã hội nào. Lợi nhuận trở thành tiêu chuẩn tối hậu, không quan tâm gì đến đặc tính cộng đồng của của cải, vật chất cũng như trí thức.
 
Giáo huấn xã hội Công giáo, vốn được phát triển như sự đáp ứng cuộc cách mạng kỹ nghệ, rõ ràng đã phủ nhận cả hai lập trường trên. Giáo huấn Công giáo bảo vệ quyền tự nhiên của con người là được có sở hữu riêng; nhưng giáo huấn đó cũng nhắc nhở rằng sở hữu của cải riêng không phải là quyền tuyệt đối, đúng hơn, nó có những giới hạn nội tại do chính bản tính của nó. Làm thế nào có thể nối kết hai quan điểm này: quyền tư hữu cá nhân, đồng thời bó buộc phải trả lại những của cải này cho cộng đồng?
 
Hướng giải quyết phát xuất từ một cội nguồn chung, đó là niềm tin vào Đấng Tạo Hoá. Ngài là cội nguồn của mọi sự (số 2402). Của cải trên trái đất được dành cho tất cả mọi người. Ngày nay chúng ta càng nhận thức rõ hơn về điều này vì ý thức rằng tất cả trái đất cùng chung một vận mệnh về môi trường. Không khí, nước uống, môi trường sống và môi sinh thiên nhiên, tất cả đều thuộc về mọi người và được trao phó cho mọi người. Hủy diệt hoặc làm ô nhiễm môi trường sẽ ảnh hưởng lên tất cả mọi người. Do đó giáo huấn xã hội Công giáo nói đến “quyền chung hưởng của cải”: “Quyền chung hưởng của cải vẫn đứng hàng đầu, mặc dầu sự thăng tiến của công ích đòi hỏi phải tôn trọng sự tư hữu, quyền tư hữu và việc thực thi quyền này” (số 2403).
 
Quyền tư hữu không chống lại điều này như Thánh Gioan Phaolô II nói: “Trái đất không trổ sinh hoa trái nếu không có sự cộng tác của con người với quà tặng của Thiên Chúa, nghĩa là nếu con người không làm việc. Chính qua lao động mà con người, bằng cách sử dụng trí tuệ và tự do của mình, đã thành công trong việc thống trị trái đất và làm cho nó trở thành ngôi nhà thích hợp. Bằng cách đó, con người biến một phần trái đất thành của mình, hiển nhiên là phần mà họ có được nhờ lao động; đây chính là nguồn cội của tư hữu cá nhân”. Tư hữu đó giúp cho mỗi người đáp ứng nhu cầu căn bản của mình cũng như chăm sóc cho gia đình mình, cho cộng đồng, cho những người cần giúp đỡ. Bất cứ điều gì tôi có được cách hợp pháp đều “thuộc về tôi”, nhưng điều đó cũng được ban cho tôi như một quà tặng. Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta không phải là người sở hữu nhưng là quản lý. Và hi vọng chúng ta sẽ là những quản lý trung tín.
 

Bài 46. TRỘM CẮP

 
Sách Giáo lý xưa, khi bàn đến điều răn thứ bảy, thường nói đến việc cấm trộm cắp của cải vật chất và là trộm cắp của cá nhân. Còn ngày nay, chúng ta lại thường giới hạn vào những luật kinh tế và xã hội, tức là những điều được Giáo huấn xã hội bàn đến (GLHTCG số 2419-2442). Dĩ nhiên cả hai điều này liên hệ chặt chẽ với nhau: cá nhân không tôn trọng của cải của người khác, thì cũng coi thường của cải chung. Đàng khác, ứng xử cá nhân luôn mang lại những hậu quả xã hội, cũng như những điều kiện xã hội quá tệ khiến cho cá nhân khó lòng tuân giữ những điều răn của Thiên Chúa.
Trộm cắp là “chiếm đoạt của cải tha nhân trái với ý muốn hợp lý của sở hữu chủ” (số 2408). Hơn nữa, nếu việc trộm cắp này được thực hiện bằng vũ lực, thì chúng ta gọi là “ăn cướp”. Một người có nhu cầu cấp thiết, cho nên lấy và sử dụng của cải của người khác để sinh tồn, thì không phải là trộm cắp. Ngược lại, không phải cứ tuân theo luật lệ của Nhà nước là đủ. Có nhiều điều không nằm trong tầm ngắm của dân luật nhưng vẫn là tội trộm cắp. Trong cuốn Tự Thuật, thánh Augustinô kể chuyện hồi nhỏ, cùng với những đứa trẻ khác, ngài đã trộm những trái táo của nhà hàng xóm, không phải vì nhu cầu mà chỉ để thoả mãn cái cảm giác làm những điều bị cấm. Có lẽ chuyện này chẳng có nghĩa gì theo luật dân sự, chỉ là trò nghịch ngợm trẻ con. Thế nhưng khi nhớ lại, thánh Augustinô lại xem việc làm này như sự diễn tả ra bên ngoài khuynh hướng tội lỗi trong tâm hồn, nơi đó Thiên Chúa đã ghi khắc điều răn của Ngài. Lương tâm chứng thực điều đó, “điều mà kể cả tội lỗi cũng không dập tắt được”. Mười Điều Răn không xuất hiện do loài người thoả thuận với nhau; đúng hơn, Mười Điều Răn đã được ghi sâu trong trái tim con người, điều mà thánh Augustinô khẳng định bằng kinh nghiệm của ngài.
Sự kiện thánh Augustinô vẫn áy náy khi nhớ lại hành vi trộm cắp thời thơ ấu cho thấy lương tâm ngài nhạy bén ra sao đối với chuyện trộm cắp. “Mọi cách lấy hoặc giữ cách bất công của cải của tha nhân, mặc dầu không nghịch với quy định của dân luật, vẫn nghịch với điều răn thứ bảy. Chẳng hạn cố tình giữ lại của cải đã mượn hoặc của rơi; gian lận trong việc buôn bán; trả lương bất công; lợi dụng sự không biết hoặc nhu cầu của tha nhân để tăng giá kiếm lời” (số 2409). Lương tâm ngay thẳng không chấp nhận những điều này, còn nếu lương tâm không thấy áy náy gì, thì nó đang có nguy cơ trở thành câm điếc.
Trộm cắp còn có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức khác: đầu cơ, hối lộ, chiếm đoạt của công; trốn thuế, làm việc cẩu thả (số 2409).
Trong những vi phạm này, điều nổi bật đi ngược lại điều răn thứ bảy là chúng hủy hoại sự tin tưởng giữa con người với nhau. Do đó, những hành động này là phi lý, cho dù ngày nay nhiều kẻ ăn cắp tự cho mình là “khôn ngoan”. Nền tảng của đời sống chung và của mọi quan hệ thương mãi là chữ tín, nghĩa là phải có sự tín nhiệm lẫn nhau: “Các lời hứa phải được giữ và các hợp đồng phải được tuân thủ nghiêm túc” (số 2410).
Xa hơn nữa, ai không tôn trọng của cải của tha nhân, thì dần dần cũng coi thường chính phẩm giá của tha nhân và sẽ khai thác tha nhân để kiếm lời cho mình: “Điều răn thứ bảy cấm các hành vi và sáng kiến dẫn tới việc nô lệ hoá con người, không nhìn nhận nhân phẩm của họ, mua bán hoặc trao đổi họ như hàng hoá” (số 2414). Như thế, cũng như các điều răn khác, điều răn thứ bảy có mục đích là bảo vệ phẩm giá của con người.
 

Bài 47. TRÁCH NHIỆM ĐỐI VỚI TẠO THÀNH

 
Điều răn thứ bảy còn bàn đến cả cách ứng xử của chúng ta với môi trường. Nếu tài nguyên trên trái đất được trao cho tất cả mọi người để quản lý và hưởng dùng, thì điều này cũng hàm chứa trách nhiệm đối với những thế hệ tương lai. “Những tội về môi trường” là “tội trộm cắp” đối với những thế hệ sẽ đến sau chúng ta. Bằng cách phung phí những tài nguyên trên trái đất, gây tổn hại nặng nề cho môi trường, ngày nay chúng ta đang làm giảm thiểu chất lượng sống của hậu duệ. Những can thiệp vào chính trật tự của sự sống (kỹ thuật sinh học, thao túng gien) là những sự liều lĩnh mà chúng ta hầu như không thể đánh giá hết được những tác hại của nó.
Tuy nhiên, “đạo đức môi trường” không chỉ phát xuất từ ý tưởng về trách nhiệm đối với những hậu quả có thể trong tương lai, mà trước hết còn phát xuất từ sự tôn trọng và kính trọng sự toàn vẹn của công trình tạo dựng (GLHTCG số 2415). Chúng ta đang ứng xử thế nào với các nguồn tài nguyên khoáng chất, thực vật và động vật? Khoa học về môi trường phải dựa vào những tiêu chuẩn nào? Thế nào là sử dụng đúng đắn các tài nguyên thiên nhiên, thực vật và động vật, và khi nào thì là lạm dụng?
Trong Sách Giáo Lý, phần bàn đến tính luân lý trong cách ứng xử với loài vật (2416-2418) đã bị chỉ trích dữ dội và liên tục, nhất là từ phía những người hoạt động bảo vệ quyền của loài vật. Trong những chỉ trích này, người ta thường bóp méo ý nghĩa đích thực của Sách Giáo Lý, chẳng hạn cho rằng Sách Giáo Lý cấm yêu thương loài vật, và cho phép làm bất cứ thí nghiệm nào trên loài vật.
Sứ điệp căn bản của Sách Giáo Lý về vấn đề này là: Hãy tôn trọng tạo thành! Mọi sự trên trái đất – tài nguyên thiên nhiên, cây cối, động vật – tất cả phải được nhìn như công trình được Thiên Chúa tạo dựng và yêu mến: “Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên” (Kng 11,24-26).
“Thú vật là những thụ tạo của Thiên Chúa. Ngài ân cần quan phòng chăm sóc chúng. Chỉ bằng sự hiện hữu của mình, chúng đã ca tụng và tôn vinh Ngài” (số 2416). Nhưng thú vật không phải là con người. Chúng ta nên yêu thương loài vật: “Con người phải đối xử tử tế với chúng. Phải nhắc lại rằng các thánh như Phanxicô Assisi hoặc Philipphê Nêri đã đối xử dịu hiền với thú vật như thế nào” (số 2416). Tuy nhiên, tình yêu có những ưu tiên của nó: “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó” (Mt 7,27). Sẽ là điều không đúng đắn nếu yêu con chó hơn cả con cái mình: “Chi phí những số tiền quá đáng cho thú vật, mà lẽ ra phải ưu tiên làm giảm bớt sự khốn cùng của con người, là một việc bất xứng” (số 2418). Nhưng cũng không đúng nếu hành hạ loài vật và bắt nó chịu những đau khổ không cần thiết.
Chúa Giêsu ra lệnh cho Phêrô tung lưới bắt cá và như thế, cá sẽ bị giết. Kinh Thánh không cấm con người sử dụng thú vật làm lương thực (St 9,3) và y phục (St 3,21). Dù vậy, điều đó không biện minh cho việc ứng xử cách độc ác và dã man đối với thú vật: “Hành hạ thú vật và phung phí mạng sống của chúng cách vô ích là nghịch với phẩm giá con người… Những thí nghiệm y học và khoa học trên thú vật có thể chấp nhận được về mặt luân lý, miễn là ở trong những giới hạn hợp lý và góp phần vào việc chữa bệnh hoặc cứu lấy mạng sống con người” (số 2417).
Tôn trọng tạo thành và nhận biết rằng chính chúng ta cũng là thụ tạo, điều đó sẽ giúp chúng ta có được sự quân bình cần thiết.
 

Bài 48. SỰ TRUNG THỰC

 
Mọi điều răn đều tương ứng với một nhân đức. Mọi lệnh truyền “Ngươi không được…” đều có nền tảng là một thái độ tích cực. Các điều răn không chỉ là những ranh giới xác định đâu là điều không được phép làm, nhưng trước hết, các điều răn giới thiệu những thái độ căn bản, giúp chúng ta làm điều lành và tránh điều xấu một cách hồn nhiên, từ sự thúc đẩy nội tâm và từ những thói quen tốt.
Với điều răn thứ tám là điều răn “cấm xuyên tạc sự thật trong những tương quan với tha nhân” (GLHTCG số 2464), thì nhân đức tương ứng ở đây là sự trung thực. Đây là nhân đức có tầm quan trọng nền tảng trong đời sống của cộng đồng. Thánh Tôma nói: “Con người không thể sống chung với nhau nếu họ không tin tưởng rằng họ trung thực với nhau” (số 2469).
Dối trá hủy diệt sự tin tưởng này và đầu độc bầu khí của những tương quan liên vị. Liên Xô trong thế kỷ 20 cung cấp một minh hoạ điển hình, cho thấy điều gì xảy ra khi chế độc độc tài nâng dối trá lên thành chính sách: mọi người nghi ngờ nhau; sự thật và gian dối bị trộn lẫn; dối trá là khí cụ để chiếm lĩnh quyền lực; sợ hãi và đe doạ là hậu quả. Chủ nghĩa Cộng sản của Liên Xô cũ không sợ điều gì khác ngoài sự thật, và không có gì đẩy chế độ đó suy sụp nhanh cho bằng sự can đảm của những cá nhân dám bẻ gẫy dối trá và cất lên tiếng nói của sự thật, kể cả phải hi sinh mạng sống. Alexander Solzhenitsyn, trong cuốn Quần đảo Gulag, tác phẩm đồ sộ về những trại cải tạo của Cộng sản, đã cất lên tiếng nói giải thoát của sự thật.
Nhân đức trung thực hết sức quan trọng cho chúng ta vì tâm trí chúng ta cần sự thật như thân xác cần của ăn. Ngay cả một đứa trẻ cũng muốn biết và nó hỏi liên tục. Muốn biết mọi sự diễn ra thế nào, muốn hiểu chúng ta là ai và các sự kiện có ý nghĩa gì, đó là nhu cầu căn bản của con người, nhưng cũng là sự bó buộc về mặt luân lý đòi hỏi cố gắng và hi sinh. Khuynh hướng tốt hướng về điều lành phải chống lại thói quen xấu, tự hài lòng với những định kiến thiếu suy nghĩ và cách nhìn hời hợt. Niềm vui chúng ta có được khi sống trong sự thật, trong hiểu biết, trong chính trực, niềm vui đó thêm sức mạnh cho chúng ta để sống trung thực và để cảnh giác trước “lối sống hai mặt, dối trá và đạo đức giả” (số 2468).
Các bậc thầy ngày xưa đã nói: “Nhân đức nằm ở giữa”, nghĩa là nhân đức giữ được sự quân bình giữa hai thái cực, hoặc quá nhiều hoặc quá ít. “Chân lý giữ sự trung dung chính đáng giữa điều phải được nói ra với điều bí mật phải giữ kín; chân lý bao gồm sự thành thật và sự kín đáo” (số 2469). Trung thực không có nghĩa là nói hết mọi sự cho hết mọi người. Có những điều buộc chúng ta phải giữ kín, điều này tuyệt đối đúng và cần thiết trong bí tích Giải Tội (số 2490), cả trong những bí mật nghề nghiệp nữa. Phải nói những gì trong đời sống thường ngày và phải giữ kín điều gì, chính tình yêu tha nhân hướng dẫn chọn lựa của chúng ta: “Trong những trường hợp cụ thể, điều răn yêu thương đòi hỏi phải cân nhắc cẩn thận xem có phải tỏ bày sự thật hay không cho người yêu cầu” (số 2488). Đức Ái là thước đo mọi nhân đức. Chỉ qua đức ái mà hành động của chúng ta mới thật là tốt hay xấu. Chính vì thế chúng ta phải “thực thi chân lý trong yêu thương” và “yêu thương trong chân lý”.
 

Bài 49. ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THÔNG

 
“Tôn trọng sự thật và truyền thông cách trung thực là những mệnh lệnh lớn nhất đối với báo chí”. Đây là nguyên tắc đầu tiên được xác định trong Luật báo chí của Đức quốc. Huấn thị mục vụ của Toà Thánh về các phương tiện truyền thông xã hội còn trình bày bao quát hơn: “Mọi việc truyền thông phải tuân theo những đòi hỏi thiết yếu, là chân thành, liêm chính, và trung thực” (Communio et progressio, viết tắt CP, số 17).
Thế nhưng những yêu cầu này về truyền thông đã được thực hiện ra sao? Giới giáo sĩ thường có cái nhìn tiêu cực về ngành truyền thông. Dân gian vẫn nói “Nhà báo nói láo ăn tiền”, câu nói đó cũng diễn tả kinh nghiệm tiêu cực nói chung của người dân với báo chí, và nhận xét này đã có từ lâu trước khi xuất hiện những phương tiện truyền thông hiện đại. Càng hiện đại về phương tiện, xem ra ngành truyền thông lại càng xa rời những chuẩn mực đạo đức, nhất là trình bày toàn những chuyện tiêu cực về Hội Thánh Công giáo, chẳng trách người ta có cái nhìn nghi ngại về truyền thông.
Dĩ nhiên, nếu đọc những tài liệu của Hội Thánh về truyền thông, người ta phải ngạc nhiên vì cung giọng hết sức tích cực. Với Đức Piô XII, Hội Thánh coi những phương tiện truyền thông là “quà tặng của Chúa” (CP 2) vì những phương tiện đó đem đến những điều thiết yếu cho con người, tức là sự hiệp thông và trao đổi: “Các phương tiện truyền thông xã hội làm gia tăng những tiếp xúc trong xã hội và đào sâu ý thức xã hội… Phương tiện truyền thông có thể góp phần rất lớn vào sự hiệp nhất nhân loại” (CP 8-9). Thế giới của chúng ta ngày càng trở thành một mạng truyền thông vĩ đại; các phương tiện truyền thông quy tụ mọi người khắp thế giới lại, như thể “ngồi quanh bàn tròn” (CP 19). “Do đó, các phương tiện truyền thông cung cấp một số phương thế hữu hiệu nhất để vun trồng tình bác ái giữa con người với nhau, vốn là nguyên do và cách diễn tả tình hiệp thông” (CP 12). Phải chăng bức tranh trên quá lạc quan, toàn mầu hồng?
Trên khắp thế giới, Hội Thánh sẵn sàng hợp tác với các ngành truyền thông ngoài đời cũng như sử dụng những phương tiện truyền thông để đến với mọi người. Vì thế cần có cái nhìn phê phán để nhận ra những mối nguy hiểm mới trong thời đại truyền thông hiện đại. Đó là mối nguy của cơn cám dỗ tìm cách “thu hút quần chúng” (CP 21); đang khi đó người tiêu thụ lại quá thụ động, “thiếu cảnh giác đối với những thông tin và hình ảnh được phổ biến” (GLHTCG 2496); tốc độ quá nhanh của truyền thông khiến người ta ít có thời giờ để suy gẫm và kiếm tìm sự thật; khuynh hướng giảm thiểu những sự thật phức tạp thành khẩu hiệu “mì ăn liền”; sự vội vã tung tin nóng để hút khách (CP 36-40).
Dù khó khăn đến đâu, các ngành truyền thông vẫn phải tuân thủ những nguyên tắc đạo đức căn bản, là sự tôn trọng phẩm giá con người, quan tâm đến công ích, bảo vệ con người khỏi sự thao túng và lạm dụng quyền lực. Do đó Hội Thánh mời gọi người tiếp nhận thông tin nên “giữ điều độ và kỷ luật đối với các phương tiện truyền thông đại chúng, phải tạo cho mình một lương tâm sáng suốt và ngay thẳng, nhờ đó có thể chống lại những ảnh hưởng thiếu lương thiện cách dễ dàng hơn” (số 2496). Đối với những người phổ biến thông tin, phải ý thức về “nghĩa vụ phục vụ chân lý và không được xúc phạm đến đức ái. Họ phải cố gắng để vừa tôn trọng bản chất các sự kiện, vừa tôn trọng những giới hạn trong việc phê phán các nhân vị. Họ phải tránh phỉ báng” (số 2497).
 

Bài 50. NGHỆ THUẬT, CHÂN LÝ VÀ CÁI ĐẸP

 
Như triết học kinh điển vẫn nói, Chân-Thiện-Mỹ nối kết và hoà quyện chặt chẽ với nhau. Có thể nói cả ba tạo nên những thành tố nền tảng của hiện hữu. Tất cả những gì hiện hữu đều mang trong nó sự thật, sự thiện và vẻ đẹp. Đây là xác tín lâu đời, không thay đổi. Không ít dân tộc coi Chân-Thiện-Mỹ như mục tiêu cao nhất của giáo dục. Thế nhưng ngày nay quan niệm này đang bị thay đổi. Thế hệ hiện đại cười nhạo quan niệm trên và coi như nó thuộc về quá khứ rồi; tuy nhiên, họ lại chẳng tìm được điều gì để thay thế.
Sách Giáo Lý bàn về vấn đề nghệ thuật khi nói đến điều răn thứ tám, nghĩa là nhìn nghệ thuật trong mối tương quan với ánh huy hoàng của chân lý (GLHTCG số 2500). Liệu quan niệm đó có quá đơn sơ không? Phải chăng nghệ thuật chỉ liên quan đến chân lý theo nghĩa là nó trình bày thứ chân lý trần trụi, kể cả những mặt đau đớn và thiếu hấp dẫn của chân lý? Cảm nhận về đau khổ và cùng khốn, thảm kịch của cái ác và tội lỗi, tất cả lại chẳng phải là một trong những thành tố chính của nghệ thuật trong Kitô giáo đó sao? Những tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng của Kitô giáo lại chẳng trình bày một cái nhìn về thảm kịch tội lỗi sao? Một Đức Kitô bị tra tấn và bầm dập trong tác phẩm của Matthias Grunewald chẳng còn gì là đẹp đẽ cả; tất cả những gì còn lại chỉ là khổ đau và cơn hấp hối mà chúng ta – những kẻ tội lỗi – đã chất lên vai Người. Thế nhưng, bức tranh đó không những diễn tả thực tế mà còn hàm chứa vẻ đẹp sâu xa.
Niềm hi vọng được khơi lên từ đó. Gioan Tẩy giả chỉ vào Đấng chịu đóng đinh mà nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian”. Những bệnh nhân nằm trong các bệnh viện có gắn tượng Thánh Giá, họ có thể nhìn lên Thánh Giá và gặp gỡ Đấng đã nên giống như họ trong đau khổ. Và như thế, Thánh Giá cũng như hình ảnh Chúa chịu nạn lại làm bừng sáng sự thiện là lòng nhân hậu của Đấng Cứu độ, sự thật về những đau khổ Người phải chịu, và cái đẹp của niềm hi vọng.
Hiểu như thế, nghệ thuật không chỉ liên quan đến cái đẹp đẽ và hài hoà ở bên ngoài, mặc dù đây được coi là mục đích chính của nghệ thuật (số 2501). Ở đây còn phải nói đến cái đẹp tinh thần: “Nghệ thuật là sự đầy tràn chan chứa và sự giàu sang nội tâm của con người… Niềm vui tinh thần và vẻ đẹp luân lý đi đôi với việc thực thi điều thiện. Cũng vậy, chân lý mang lại niềm vui và ánh huy hoàng của vẻ đẹp tinh thần” (số 2500).
Cũng ở đây, phải nói đến nghệ thuật thánh, nhằm diễn tả vẻ đẹp vô biên của Thiên Chúa, được cảm nghiệm cách nào đó qua những tác phẩm của con người: “Nghệ thuật thánh sẽ thật và đẹp khi bằng những hình thức thích hợp, nó đáp ứng ơn gọi riêng của mình là gợi lên và tôn vinh mầu nhiệm siêu việt của Thiên Chúa, vẻ đẹp siêu phàm vô hình của chân lý và của tình yêu” (số 2502). Vẻ đẹp đó được thể hiện trọn vẹn nơi Đức Kitô, là “phản ánh vẻ huy hoàng và là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa” (Dt 1,3). Đồng thời, vẻ đẹp đó cũng chiếu toả nơi Đức Trinh Nữ Maria, các Thiên thần và các Thánh.
Do đó, bổn phận của các mục tử trong Hội Thánh là phải “loại trừ khỏi phụng vụ và những nơi thờ phượng mọi điều không phù hợp với chân lý đức tin và với vẻ đẹp đích thực của nghệ thuật thánh”. Đồng thời, các ngài phải “lưu tâm cổ võ nghệ thuật thánh, cổ truyền cũng như hiện đại, trong mọi hình thức” (số 2503).
 

Bài 52. KHÁT VỌNG CỦA TÂM HỒN

 
Những bài suy niệm suốt những tuần qua đều tập trung vào những nẻo đường của luân lý Kitô giáo, và hôm nay là bài cuối cùng, bàn đến điều răn thứ mười.
Những nẻo đường đó từ đâu đến và dẫn đi đâu, chúng ta đã biết ngay từ câu đầu tiên trong Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo: “Thiên Chúa, tự bản thể là Đấng vô cùng hoàn hảo và hạnh phúc” (số 1). Mọi công trình của Thiên Chúa không có mục đích nào khác hơn là để tạo thành được chia sẻ sự sống hạnh phúc của Ngài (số 1; 257). Được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Thiên Chúa (số 355), con người được kêu gọi hãy dùng tự do của mình mà quyết định bước đi trên con đường dẫn đến sự sống và khước từ con đường dẫn đến diệt vong (số 1696; 1730).
Mười Điều Răn là những bảng chỉ đường tới sự sống hạnh phúc. Cho dù hầu hết những điều răn được ban bố dưới hình thức những luật cấm, nhưng mục đích chính là để chỉ đường về sự sống, và vì thế nên mới cảnh giác chúng ta về những con đường đưa đến tàn lụi. Sự chọn lựa đường nào để đi là chọn lựa diễn ra trong tâm hồn con người: “Kho tàng các ngươi ở đâu, lòng các ngươi ở đó” (Mt 6,21). Vậy, kho tàng của chúng ta ở đâu? Điều gì là quý giá nhất đối với chúng ta? Con tim chúng ta khao khát điều gì?
“Điều răn thứ mười nhắm đến ý hướng của trái tim. Cùng với điều răn thứ chín, điều răn thứ mười tóm kết tất cả các điều răn của Lề luật” (số 2534). Những điều răn này kêu gọi chúng ta chiến đấu chống lại tính vô trật tự trong những ham muốn tự nhiên, và mở lòng ra với những khao khát sâu thẳm của tâm hồn.
Tham lam và ganh tị là những hình thái chính của sự ham muốn không đúng đắn. Tham lam là “ước muốn sở hữu của cải trần thế cách vô chừng mực” (số 2536). Ganh tị chỉ “sự buồn bực khi thấy kẻ khác có của cải, và sự ước ao vô độ muốn lấy của cải đó làm của mình, thậm chí bằng cách bất chính” (số 2539).
Làm thế nào để chống lại những ham muốn đang gây tổn hại cho linh hồn? Trong Tám Mối Phúc, Chúa Giêsu chỉ ra con đường đầu tiên: “Phúc thay những ai có tinh thần nghèo khó” (Mt 5,3). Khi chúng ta không xây dựng đời mình dựa trên sức mạnh, của cải, tài năng riêng mình nữa; khi chúng ta khám phá ra sự khó nghèo của thụ tạo trước nhan Thiên Chúa, thì của cải và quyền lực không còn sức thu hút của nó nữa. Chúng ta không còn trông mong được an ủi và hạnh phúc nhờ nó nữa. Chúng ta trở nên những người sống “tinh thần nghèo khó” khi biết cậy dựa vào sự quan phòng của Cha trên trời. Sự phó thác đó cũng giải thoát chúng ta khỏi những âu lo về ngày mai (số 2547).
Sẽ không thể có sự siêu thoát đó nếu không chấp nhận chia sẻ thập giá của Đức Kitô, cũng như chấp nhận những lao nhọc khi sống theo Thần Khí, nhờ đó “con người mới” được sinh ra: “Để sở hữu và chiêm ngắm Thiên Chúa, các Kitô hữu phải chế ngự các ham muốn của mình, và nhờ ân sủng Thiên Chúa, vượt thắng được các quyến rũ của thú vui và quyền lực” (số 2549).
Phúc thay những tâm hồn biết nhường bước cho những “thúc đẩy của Thần Khí”. Chính Ngài sẽ dẫn chúng ta đến miền đất trường sinh, trong sự hiệp thông hồng phúc với Thiên Chúa Ba Ngôi.
 
- HẾT -
 
ĐHY Christoph Schönborn
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận