Sức mạnh của lời nói

Đăng lúc: Thứ bảy - 16/09/2017 20:41 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

 

 

SỨC MẠNH CỦA LỜI NÓI (1)

 

“Ai là người thiết tha được sống và ước ao hưởng chuỗi ngày hạnh phúc, thì phải giữ mồm giữ miệng, đừng nói lời gian ác điêu ngoa.” (1Pr 3, 10)

Ý niệm

Cũng như tư tưởng là một sức mạnh tạo nên những hệ quả lớn lao, thì lời nói cũng có một tác dụng khôn lường trên đời sống con người. Tư tưởng thì thai nghén, còn lời nói thì sản sinh. Tư tưởng xấu thì còn có thể ngăn chặn kịp, nhưng lời nói xấu thì không không thể thu hồi (x. Cn 25, 11). Tư tưởng chỉ tác động trên chính mình, lời nói cũng thế, nhưng nó còn xâm nhập vào không gian và thời gian, tác động đến biết bao người, nên tục ngữ có câu: “Trăm năm bia đá cũng mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”.

Do đó, những gì ta phải nói thì hãy nói với tất cả niềm tin tưởng trước cuộc sống của mình cũng như của người khác. Niềm tin ấy không phát xuất một cách ngây ngô, mơ hồ, nhưng dựa vào chính Thiên Chúa, Đấng đã khởi đầu cuộc sống mỗi người chúng ta. Chính Ngài đang tiến hành và bảo lãnh cuộc đời ta giữa muôn vàn thế sự. Trong niềm tin vào Ngài, những lời nói của ta có một giá trị sâu rộng và sức mạnh sáng tạo phi thường. Khoảnh khắc mà ta nói ra một điều gì đó là ta đã sinh ra nó. Đây là một nguyên tắc thiêng liêng, và nó sẽ thực hiện những gì mà ta đang nói dù điều đó tốt hay xấu, cách tích cực hay tiêu cực.

Sự tung hoành của miệng lưỡi

Cổ nhân có nói: “Bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất”: Bệnh do miệng mà vào, họa do miệng mà ra. Nếu không biết kềm chế miệng lưỡi thì nó sẽ gây ra muôn vàn điều ác hại. Chúng ta có thực sự đạo đức hay không, điều đó được biểu hiện rõ ràng nhất trên miệng lưỡi. Thánh Giacôbê đã cả quyết như sau: “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi, là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão.” (Gc 1, 26 ).

Chúng ta hãy đọc lại đoạn Kinh Thánh sau đây để thấy được sự tung hoành của miệng lưỡi kinh khủng như thế nào:

“Nếu ta tra hàm thiếc vào miệng ngựa để bắt chúng vâng lời, thì ta điều khiển được toàn thân chúng. Anh em cũng hãy nhìn xem tàu bè: dù nó có to lớn, và có bị cuồng phong đẩy mạnh thế nào đi nữa, thì cũng chỉ cần một bánh lái rất nhỏ để điều khiển theo ý của người lái. Cái lưỡi cũng vậy: nó là một bộ phận nhỏ bé của thân thể, mà lại huênh hoang làm được những chuyện to lớn. Cứ xem tia lửa nhỏ bé dường nào, mà làm bốc cháy đám rừng to lớn biết bao! Cái lưỡi cũng là một ngọn lửa, là cả một thế giới của sự ác. Cái lưỡi có một vị trí giữa các bộ phận của thân thể chúng ta, nó làm cho toàn thân bị ô nhiễm, đốt cháy bánh xe cuộc đời, vì chính nó bị lửa hoả ngục đốt cháy. Thật thế, mọi loài thú vật và chim chóc, loài bò sát và cá biển, thì loài người đều có thể chế ngự và đã chế ngự được. Nhưng cái lưỡi thì không ai chế ngự được: nó là một sự dữ không bao giờ ở yên, vì nó chứa đầy nọc độc giết người.” (Gc 3, 3-8).

         Ý thức được sự nguy hiểm của miệng lưỡi, nên tác giả Thánh vịnh đã thốt lên; “Xin canh giữ miệng con, lạy Chúa, và trông chừng lưỡi con.” (Tv 141,3). Chính vì sự khó trị của cái lưỡi như vậy, mà Thánh Giacôbê đã dám nói lên rằng:  “Ai không vấp ngã về lời nói, ấy là người hoàn hảo, có khả năng kềm chế toàn thân.” (Gc 3, 2).

Hãy cẩn trọng với những gì mình nói

“Người ta có đủ thời giờ để lựa lời, nhưng không có cơ hội để rút lại” (S. Maugham). Biết được những đại họa có thể gây ra do miệng lưỡi, ta phải cẩn trọng về những gì mình nói, nhất là khi gặp những điều trái ý, gây bực tức và cản trở, ta càng dễ dàng bung ra những lời nói bất chấp thì lại càng thêm hư hại. Lời nói là một khí cụ sắc bén có thể làm chuyển đổi mọi tình trạng, nhưng nếu không cẩn trọng ta sẽ đả thương chính mình hoặc người khác: “Lời nói bừa bãi khác nào mũi gươm đâm.” (Cn 12, 18). Lời nói quả thực lợi hại vô cùng, với ba tấc lưỡi người ta có thể lập nên cơ đồ, nhưng cũng có thể làm tiêu tan cơ nghiệp; có thể xây dựng tất cả, nhưng cũng có thể phá đổ tất cả. Sự sống và sự chết đều là sức mạnh của cái lưỡi, “Vinh hay nhục đều ở lời nói cả” (Hc 5, 13).

Nói cách khác, ta tạo nên môi trường tốt hay xấu, thuận lợi hay bất lợi, là do chính lời nói của ta. Nếu cứ luôn phàn nàn, và hay nói những điều mình bực bội về  người khác hoặc về những tồi tệ đang xảy ra cho mình, thì ta cứ sống mãi trong thế giới khốn khổ và buồn chán của mình. Ta muốn thoát ra, nhưng rồi lại cứ vùi mình vào đó bằng những lời lẽ đen tối. Cũng một lời nói làm bế tắc đời sống, mà cũng một lời nói làm đả thông cuộc sống, tại sao ta không biết cẩn trọng và sáng suốt để chọn lựa một lối thoát để làm thay đổi tình trạng của mình. Thật ra, tình trạng nào cũng là do tâm trạng mà ra, nhưng khi tâm trạng đang bị phủ lấp thì phải dùng phương thế lời nói để kích hoạt lên. Đừng nói về những vấn đề, nhưng hãy nói về những tiến bước; đừng nói về những cản trở, nhưng hãy nói đến những quyết tâm; đừng nói về những tệ trạng, nhưng hãy nói về những hoạch định mới đầy tươi sáng.

Những rào cản chúng ta có thể là một cơn bệnh, một sự nghèo túng, một quan hệ xấu, một trắc trở, một sự nguy hại, một thất bại, một sự xúc phạm... nhưng hãy để cho mình được tự do vượt lên trên những điều đó bằng những lời nói thanh cao, lạc quan, hy vọng, tin tưởng, vững vàng. Những lời đó sẽ tạo nên trong ta một tâm trạng mới đầy phấn khởi, một bản lãnh cương nghị, để vươn lên sau những thất thoát, dù rằng do mình, do người khác hay do hoàn cảnh cũng vậy. Đó là điều mà Thánh Phaolô đã nói: “Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”. (2Cor 12, 10).

Đặt vào hoàn cảnh và tâm trạng của Thánh Phaolô, đáng lý ta phải than phiền về những hoàn cảnh xui rủi hay ác ý của người đời cứ đổ dồn lên mình; đáng lẽ ta phải cảm thấy buồn tủi, chán ngán vì những gian nan thất bại cứ liên tiếp xảy đến. Đáng buồn hơn nữa là đang khi hết lòng sống cho mọi người, thì dường như bị mọi người phủ nhận; đang hết lòng phụng sự Chúa thì dường như bị Chúa quên đi. Thánh Phaolô không suy luận và phát ngôn một cách tiêu cực, bi quan như thế, đó là lề thói tầm thường của người đời. Bằng lời nói, Ngài cho thấy tính cách hoàn toàn mới mẻ của hoàn cảnh dưới cái nhìn đức tin:

- Thay vì cảm thấy buồn thương trước tình đời đen bạc, thì Ngài lại “cảm thấy vui sướng” vì Đức Kitô.

- Thay vì bi quan trước sự yếu đuối của mình thì lại cảm thấy “chính là lúc tôi mạnh” trong quyền năng Chúa.

Dưới cái nhìn đức tin và quen sống cận kề bên Chúa, ta sẽ học biết cách minh giải những sự việc xẩy ra nặng nề một cách nhẹ nhàng, và giải tỏa những tình cảnh trái ngang một cách vui thỏa như Thánh Phaolô, để trong những khi đen tối ta vẫn tìm ra con đường ánh sáng chan hòa cho đời mình. Đừng nguyền rủa bóng tối nhưng hãy cất lời ca ngợi cho ánh sáng đến. Đó là phép lạ nơi miệng lưỡi của ta. Nếu muốn thay đổi thế giới chung quanh ta, thì hãy bắt đầu thay đổi lời ăn tiếng nói của ta sao cho phù hợp với tâm tình và ý muốn tốt lành của Chúa. (x. 1Tm 4, 12).

Tác dụng của những ngôn từ mà ta hay sử dụng

Những ngôn từ nào mà ta thường dùng, sẽ làm nên một lối sống như vậy. Đừng bao giờ dùng những từ ngữ tiêu cực như: “chán quá”, “sợ quá”, “chắc không thể”, “không hy vọng gì”, “chẳng thấy điều gì tốt xảy ra cho tôi”, “mơ ước cũng chỉ là ước mơ...” hoặc những lời buồn nản, than thân trách phận. Những lời nói đại loại như thế sẽ thao túng tâm hồn, làm mất đi nghị lực và nhuệ khí của mình, ngăn bước ta tiến về phía trước. Con sâu của sự chán nản và bi quan thất vọng lúc nào cũng chực sẵn để gặm nhấm tâm hồn ta bằng những lời nói thụ động, tiêu cực dù vô tình hay cố ý, nhưng lại có một âm hưởng quyết liệt về lâu về dài trên đời sống ta, và có thể gây suy nhược tinh thần như một chứng bệnh kinh niên. Một cách nào đó, nhiều lần chính ta là kẻ thù xấu nhất của mình. Ta coi thường mọi người và những điều khác, nhưng sự thật là ta bị đầu độc bởi những lời do miệng lưỡi mình phát ra. Chính trong tình trạng đó mà Kinh thánh nói rằng: “Cái lưỡi chính là mối hoạ cho con người.” (Hc 5, 13).

Chúa không bao giờ muốn ta cứ lải nhải về những bất trắc và đau khổ của mình. Ngài không muốn ta đi quanh quẩn để tranh luận hoặc miêu tả về những hoàn cảnh tiêu cực của mình với những người khác. Thay vào đó, Chúa muốn ta hãy dùng những lời nói mang tính cách xây dựng và thay đổi hoàn cảnh của mình. Hãy biết nhìn thấy sự nhân lành của Chúa trong mọi hoàn cảnh để vững tin và ứng dụng vào lời nói của mình. Thiên Chúa là sự nhân lành, ở nơi Ngài chỉ có những sự tốt lành cho ta mà thôi. Mọi tình trạng xấu xảy ra là do con người, nhưng nó nằm trong kế hoạch của Ngài trong từng bước thay đổi và ổn định dần dần. Vì liên đới với mọi người, nên ta phải biết chấp nhận hoàn cảnh chung trong từng giai đoạn, đồng thời phải biết kiên trì và ý thức vươn lên không ngừng. Trong cùng một lúc, người muốn mưa, kẻ muốn nắng thì Chúa phải làm thế nào đây ?

Vì thế, hãy biết dùng những lời nói đầy tự tin và tích cực như: “mạnh dạn lên”, “can trường lên”, “cố lên”, “phấn khởi lên”, “chẳng có gì phải sợ”, “hãy vững tâm và kiên cường”, “cứ nhìn về phía trước”, “cứ bắt đầu lại”, “cứ nổ lực phấn đấu và hy vọng vào tương lai... ”. Những lời như thế sẽ gây phấn chấn tâm hồn, tăng thêm sinh lực và sáng tạo trong mọi hoàn cảnh. Tự nhủ mình như thế nào thì hệ quả sẽ ra thế ấy. Tự nhủ mình bằng những lời tốt đẹp thì sẽ đưa đến hiệu quả tốt đẹp. Dù có khi không như ý mình muốn, nhưng lại như ý Chúa muốn, “gặp thời thế, thế thời phải thế”, và chỉ có Chúa mới thấy điều gì thật sự tốt đẹp cho mình trong từng giai đoạn và hoàn cảnh.

Điều quan trọng là dù thế nào đi nữa nhưng tâm hồn ta vẫn thản nhiên, vẫn an vui, vẫn yêu người yêu đời, thấy nhân cách và đức tin của mình lớn lên qua từng thử thách trong đời, không bị nao núng và rối loạn; có thể không thành thân, nhưng thành nhân, đó mới là điều cao quí mà Chúa muốn cho ta hơn hết trong mọi tình huống.

Dùng lời nói như phương thế hữu hiệu cho đời mình

Hãy dùng lời nói như phương thế hữu hiệu để chuyển hướng tiến tới trong cuộc sống, để mang cuộc sống đến những điều lớn lao mà Thiên Chúa đang để dành cho ta. Thánh Phaolô nói rằng: “Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ.” (Rm 10,10).

Đó là nguyên tắc có thể áp dụng vào mọi lãnh vực khác. Khi ta tin vào Chúa, vào lời Ngài hứa cho những ai trung thành, thì ta có thể an tâm và vững vàng nói lên những điều tốt đẹp cho cuộc sống mình giữa những cảnh đời xáo trộn và nhiễu nhương. Hãy luôn tự nhủ mình bằng phương pháp tự kỷ ám thị về những điều tốt đẹp sẽ xẩy ra. Mỗi ngày hãy chọn lấy cho mình một câu lời Chúa hay một lời nguyện vắn tắt để luôn thì thầm trong mọi lúc, theo từng hoàn cảnh. Sống với Chúa là như thế, ở với Chúa là như vậy, để rồi lời Chúa trở thành lời mình, tính cách của Chúa trở thành tính cách của mình, bởi vì đời mình đang được tác thành bởi Chúa và do Chúa mà thôi. Hãy thật sự sống như thế để cảm thấy đời mình được hân hoan trong mọi lúc, và an vui trong mọi sự, để mình luôn có thể thốt ra những lời tốt đẹp ở mọi nơi, và luôn là những lời ân phúc cho mọi người.

Có điều cần để ý là không nên nói nhiều về mình. Triết gia Aristote khuyên rằng: “Hoặc hay hoặc dở cũng đừng bao giờ nói chuyện về mình”. Có nói thì nói điều tốt người ta làm cho mình, chứ đừng nói điều tốt mình làm cho người. Trẻ nít bao giờ nó cũng nói về nó, luôn khoe những điều nó có và đã làm được. Nó không cần biết đến người khác, và cũng chẳng cần biết đến mối dây liên hệ. Người trưởng thành thì trái lại, luôn biết hướng đến người khác để xác lập mối tương giao mỗi ngày sâu rộng hơn.

Trách nhiệm và hệ quả của lời ta nói trên đời sống người khác

 Mỗi người chúng ta đều nhận chịu những ảnh hưởng từ một số người nào đó như: ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn hữu... Cũng vậy, tùy theo vị thế của mình trong gia đình và xã hội, ta cũng sẽ gây những ảnh hưởng nhất định nào đó trên đời sống của những người thân thích và chung quanh một cách tương tự như vậy. Do đó, ta có một trách nhiệm rất nặng nề trước những gì mình nói đối với họ. Đời sống họ ra sao cũng một phần do lời nói của chúng ta làm nên. Có những lời nói của ta làm họ ghi nhớ suốt đời: lời nói tích cực làm cho họ an vui và phấn khởi xây dựng cuộc sống; lời nói tiêu cực nếu nặng nề sẽ làm cho họ bị thương tâm, mặc cảm và oán hận mãi.

Hơn nữa nó còn phá hoại những khả năng và ân sủng của Chúa đã được ban cho họ. Có ai thấy được hết được những hậu quả tàn hại mà do lời nói tiêu cực của ta gây ra cho người khác. Thật ra, hậu quả người khác phải gánh chịu vì lời nói ta, cũng chính là hậu quả ta phải gánh chịu không trước thì sau: “Thương nhân chi ngữ, hoàn thị tự thương, hàm huyết phún nhân tiên ô tự khẩu” (Văn Công): những lời nói hại người là tự hại mình, chẳng khác chi ngậm máu phun người thì dơ miệng mình trước.

Chúa ban cho chúng ta miệng lưỡi, trước tiên là để biết ca ngợi lòng thương xót Chúa trên đời sống của nhân loại, để biết cảm tạ tôn vinh Chúa trong mọi hoàn cảnh. Đó là lý do mà Thánh Giacôbê phản bác lại những lời nói gây xúc phạm đến đồng loại: “Ta dùng lưỡi mà chúc tụng Chúa là Cha chúng ta, ta cũng dùng lưỡi mà nguyền rủa những con người đã được làm ra theo hình ảnh Thiên Chúa. Từ cùng một cái miệng, phát xuất lời chúc tụng và lời nguyền rủa. Thưa anh em, như vậy thì không được. Chẳng lẽ một mạch nước lại có thể phun ra, từ một nguồn, cả nước ngọt lẫn nước chua sao? Thưa anh em, làm sao cây vả lại có thể sinh ra trái ô-liu, hoặc cây nho sinh trái vả? Nước mặn cũng không thể sinh ra nước ngọt.” (Gc 3, 3-10)

  Từ tính cách đó mà ta thấy cốt yếu của lời nói với nhau là “để xây dựng, để khích lệ và an ủi.” (1Cor 14, 3).“Lời nói mà không chủ ý làm cho cuộc đời tốt đẹp hơn lên là lời nói hư không” (Roland Dorgeles). Chúa Giêsu còn cho thấy mệnh hệ sau cùng của những lời ta nói: “Tôi nói cho các người hay: đến Ngày phán xét, người ta sẽ phải trả lời về mọi điều vô ích mình đã nói. Vì nhờ lời nói của anh mà anh sẽ được trắng án; và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án.” (Mt 12, 36-37).

Nhận thức được hậu quả đáng sợ như trên, ta phải biết dùng lời nói mình như một lời yêu thương đem đến phúc lành cho người khác, như Isaac xưa khi cất lời chúc lành cho Giacóp (x. St 27, 29). Giacóp nhận biết rằng, những lời tốt lành mà Cha nói sẽ ảnh hưởng tốt đẹp suốt quãng đời còn lại của ông. Do đó, dù ta biết hay không thì những lời nói của ta có ảnh hưởng rất lớn đến tương lai của những người thân thích theo hướng tốt hay xấu. Những lời ta nói có sức mạnh như những lời của Isaac vậy.

Nhiều khi không được như ý mình muốn, hoặc vì thiển cận, hoặc vì đã quen thô bạo, mà ta dễ buông lời lẽ nặng nề mang tính ngạo mạng, khinh khi. Những lời như vậy làm cho người khác mất hứng khởi, nhụt chí, năng lực bị tan biến, làm tan nát cõi lòng, tạo nên những vết thương sâu thẳm trong tâm hồn không biết bao giờ nguôi. Còn hơn thế nữa, những lời nói mang tính cách hạ bệ, khinh miệt, làm cho người khác mất ý thức về những giá trị mà Thiên Chúa đặt để trong họ, và bào mòn khả năng đóng góp của họ cho gia đình cũng như xã hội.

Lạy Chúa, Chúa ban cho con người có một khả năng ngôn ngữ tuyệt diệu để biết ca ngợi quyền năng Chúa trên vũ trụ, và là một phương tiện hữu hiệu cho sự thông giao và diễn đạt chân lý, để làm triển nở và tươi đẹp cho cuộc sống làm người.

Nhưng rồi nhiều khi con đã sai lạc trong mục đích này, nên đưa đến nhiều thảm hại cho con, cho người. Con chẳng thể nào đền bồi được những hư hại mà con đã gây ra cho anh chị em con qua những lời lẽ nặng nề, khích bác, tiêu cực... Con muốn vui lòng nhận chịu những khốn khó để xin Chúa bù đắp lại cho họ bằng những ân thiêng cao cả, để họ có thể đạt tới một cuộc sống rạng ngời niềm vui và hạnh phúc.

Lời Thiên Chúa là Lời sáng tạo và cứu độ trong Đức Giêsu Kitô Ngôi Lời. Chúa không chỉ nhập thể trong thế gian, nhưng còn nhập thể trong chính thâm tâm con. Xin cho con biết đón nhận và thấm nhập làm một với Ngôi Lời Chúa,  để trong Chúa lời con cũng được trở nên lời sáng tạo và là lời cứu độ cho sự sống của anh chị em con. Amen.

 

Lm. Thái Nguyên

 

 

SỨC MẠNH CỦA LỜI NÓI ( P2)

 

“Lời nói của anh em phải luôn mặn mà dễ thương

để anh em biết đối đáp sao cho phải với mọi người” (Cl 4,6).

 

Nói ít hay ít nói, điều nào tốt hơn? Tùy bản tính mỗi người, nhưng nói ít, rõ ràng, gọn nhẹ vẫn tốt hơn. Nói ít không phải là ít nói, mà là nói vừa đủ cho từng vấn đề.

 

 

Khổng Tử viết :“Ngôn bất thuận tắc sự bất thành”. Không những “sự bất thành”, mà còn đưa đến cho bản thân những điều bất trắc. Lời nói bất thuận thường gây ra bất đồng, bất ổn, bất hòa, khiến người khác phản ứng cách bất nhã, bất dung. Khi bị chỉ trích hay nhục mạ, người ta càng phản kháng, dễ đưa đến bất nhân, bất nghĩa. Cần xét đến nguyên do và tính chất của lời nói, để ta biết cách tạo nên một sinh khí mới cho mình và những người chung quanh, làm biến chuyển tình thế và thay đổi hoàn cảnh bên ngoài.

 

1. Lời nói phát xuất từ bên trong

Lời nói thể hiện con người : “Xem quả thì biết vườn cây, nghe lời miệng nói biết ngay lòng người.” (Hc 27, 6). Nguyên nhân sâu thẳm của lời nói phát xuất từ bên trong, do tâm ý mà có. Những gì ô nhơ ngoài cửa miệng, là vì đã ô uế trong cõi lòng : “Còn những cái gì từ miệng xuất ra, là phát xuất tự lòng, chính những cái ấy mới làm cho con người ra ô uế. Vì tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống.” (Mt 15,18-20)

Lòng đã xấu thì không thể phát ra điều tốt. Chính vì nhận thấy điều gian ác nơi lòng những người Pharisêu, nên Chúa Giêsu không ngần ngại vạch trần con người họ : “Loài rắn độc kia, xấu như các người, thì làm sao nói điều tốt được? Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra. Người tốt thì rút cái tốt từ kho tàng tốt của mình ; kẻ xấu thì rút cái xấu từ kho tàng xấu của mình.” (Mt 12,34-35 ).

Do lòng ganh tị và ghen ghét ít nhiều đã “nằm vùng” trong tâm hồn mỗi người, nên ta dễ bị cám dỗ phát ra những lời dèm pha, xuyên tạc, bất chính với một ai đó, làm hư hại thanh danh và đời sống tinh thần của họ. Để có khả năng nói những gì tốt lành và hữu ích, cũng là để xây dựng cho mình một tính cách đẹp hơn, đòi ta phải chỉnh sửa và thanh lọc từ bên trong của lòng mình. Muốn như vậy, phải đào luyện cho mình có được tấm lòng yêu thương. Khi có tấm lòng biết thương yêu và trân trọng mọi người, tự nhiên người ta biết cách phải nói như thế nào cho thích hợp và hiệu quả. Lời nói ẩn chứa yêu thương sẽ được đón nhận nồng hậu với lòng biết ơn, phát sinh tình nghĩa mặn mà.

Khi nặng lời phê phán tiêu cực, ta chứng tỏ mình không có tình thương. Phê phán tiêu cực là một hình thức tìm cách bôi xóa tên người khác để thay thế tên mình. Điều đó nói lên sự đố kỵ và ý đồ muốn chiếm đoạt cách bất công và bất nghĩa. Quả là một cách thế bần tiện, nhưng rồi đó vẫn là điều xảy ra hằng ngày trong đời sống xã hội và cộng đoàn. Lề thói vô tâm này là điều oan trái nhất : “Vì Thiên Chúa không thương xót khi xét xử kẻ không biết thương xót.” (Gc 2, 13).

 

2. Nói xấu, nói tốt

Cơ bản trong tình yêu thương là muốn sự tốt, sự lành cho người khác. Ai cũng muốn thấy mình tốt ở giữa mọi người, nhưng khi nói xấu thì mình không còn tốt. Làm sao ta có thể nói xấu người khác, nếu bên trong ta muốn yêu thương và làm điều tốt cho họ. Sự mâu thuẫn này cho thấy một tâm trạng đang bị phân rẽ. Hơn nữa, khi nói xấu người khác là ta muốn xét đoán họ, và muốn chiếm đoạt quyền hành của Thiên Chúa. Thánh Giacôbê quả quyết : “Ai nói xấu hoặc xét đoán anh em mình là nói xấu và xét đoán Lề Luật… Chỉ có một Đấng ra Lề Luật và xét xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Anh là ai mà dám xét đoán người thân cận?”  (Gc 4, 12).

Sách Thánh đã từng lên án : “Đáng nguyền rủa thay kẻ nói xấu.” (Hc 28, 13). Nếu ta không cảnh giác và quyết liệt ngăn chặn bằng mọi cách, thì nói xấu trở thành một căn bệnh mãn tính : “Người đã quen nói những lời nhục mạ thì suốt đời không ai sửa dạy nổi.” (Hc 23, 15).

Nói xấu người khác thường lãnh lấy tai hại cho mình. Hãy nhớ lại câu chuyện Mariam nói xấu ông Môsê (x. Ds 12, 4-15), sau đó Chúa đã phạt Mariam bị cùi và bị liệt giường luôn 7 ngày, nhờ Môsê kêu xin, nên Chúa mới tha thứ.

Khi nói về người khác, nếu nói tốt được cho họ thì hãy nói, nếu không thì hãy kềm giữ miệng lưỡi lại, kẻo danh dự người khác bị hư hao, mà danh nghĩa mình cũng bị hư hại. Nói xấu người khác là muốn chứng tỏ mình tốt, nhưng người tốt thì lại không nói xấu. Ta thường vô tình phóng chiếu tâm trạng ngặt nghèo của mình lên người khác mà không ý thức.

Mọi lời nói cũng chỉ là cách thức phô diễn nội tâm của mình. Khi tâm hồn an vui, hạnh phúc, ta sẽ có những lời tốt đẹp cho người khác. Trái lại, khi bực dọc, bất an, buồn hận, ganh ghét, ta dễ dàng trút lên người khác cho hả dạ. Cách riêng, những lời nói mang tính dối trá, tự đại, ghen tị, càng làm lộ ra tính chất yếu nhược của ta. Đức Phật đã nói rõ như sau :

  “Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá.

   Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại

   Bi ai lớn nhất của đời người là ghen tị”.

 

3. Nói ít, nói nhiều

Nói ít hay ít nói, điều nào tốt hơn? Tùy bản tính mỗi người, nhưng nói ít, rõ ràng, gọn nhẹ vẫn tốt hơn. Nói ít không phải là ít nói, mà là nói vừa đủ cho từng vấn đề. Đang khi đó, ít nói có nhiều khi khiến người khác khó hiểu mình, hoặc hiểu lầm. Đành rằng, người ta tin ở việc làm chứ không tin ở lời nói, nhưng ít nói quá dễ mất đi sự thông giao và bầu khí cởi mở cần phải có.

Điều đáng ngại là nói nhiều. Sách Châm ngôn cho thấy : “Người năng nói năng lỗi, ai dè giữ lời nói mới là người khôn.” (Cn 10, 19). Thật vậy, “Nói hay đến đâu mặc lòng, khi nói nhiều bao giờ cũng đâm ra nói bậy.” (Dumas Père).

Chúng ta có hai tai mà chỉ có một lưỡi, để chúng ta nghe nhiều hơn là nói. Cũng vậy, “Không phải câu hỏi nào cũng đáng được trả lời”. Phải hiểu rõ được tâm ý người muốn hỏi, hỏi chân thành hay muốn khiêu khích, muốn tìm hiểu hay muốn bắt bẻ, hoặc hỏi để mà hỏi thế thôi. Có những câu hỏi mà Chúa Giêsu không hề trả lời (x. Mt 27, 14) ; hoặc trả lời cách khác (x. Ga 8, 4-8) ; hoặc hỏi lại kẻ hỏi Ngài (x. Mt 21, 21-24).

Đan sĩ Isaac Nineveh, người Siria xác quyết như sau:“Bất kỳ ai ham thích nói nhiều, cho dù nói toàn những lời tốt lành đi nữa, thì lòng họ cũng trống rỗng”.

Mục đích của mọi lời nói là đạt đến sự thông giao, để hiểu biết lẫn nhau, để tìm đến chân lý và đưa đến sự hòa hợp trong một cuộc sống an vui. Điều quan trọng và bổ ích không phải là số lượng lời nói, mà là chất lượng của những gì mình nói, đồng thời cũng phải biết cân nhắc liều lượng cho vừa đủ, thích hợp trong từng hoàn cảnh và thích ứng với từng con người.

 

4. Lời khen, tiếng chê

Nhiều khi ta quá dè sẻn và keo kiệt khi phải mở lời động viên, khuyến khích và khen lao người khác, nhưng lại quá lạm dụng và phung phí những lời chê bai, khiến họ dễ sờn lòng nản chí, không còn hứng thú phát triển khả năng và sáng tạo trong công việc. Những kẻ thích chê bai chứng tỏ tâm hồn mình nông cạn và nghèo nàn. Vì nông cạn nên hời hợt trong nhận định, không thấy được cái tốt của người khác để khen ; vì nghèo nàn nên chẳng có gì để cho, ngoại trừ những lời rách rưới.

Không phải ta không thể thấy điều hay lẽ phải và những cái sáng giá nơi anh chị em mình, nhưng rồi có khi vì háo danh và đố kỵ đã che mờ mắt ta, không còn thấy hoặc không muốn thấy. Thậm chí, còn phạm vào điều tối kỵ là moi móc chuyện riêng tư quá khứ của người khác để phê bình, chỉ trích... Như vậy chẳng phải là tự hạ bệ và hủy diệt nhân cách của mình sao? 

Ngoài ra, đừng nghĩ rằng, dùng những lời mạnh bạo, gắt gao mà người khác có thể nghe theo ta. Những lời nói càng mạnh bạo, chua cay, gắt gỏng, càng chứng tỏ một lý lẽ yếu đuối và thái độ thấp kém, không có sức thuyết phục. Vì vậy, “Lời nhã nhặn, lời ôn tồn, tựu trung là lời mãnh liệt nhất.” (Glodden).

Thánh Phaolô khuyên nhủ chúng ta : “Lời nói của anh em phải luôn luôn mặn mà dễ thương...” (Cl 4, 6). Sách Châm ngôn cũng nói : “Câu đáp dịu dàng khiến cơn giận tiêu tan, lời nói khiêu khích làm nổi cơn thịnh nộ.” (Cn 15,1).

Đứng trước những lời khen hay tiếng chê, nói tốt hay nói xấu về mình, ta cần phải phải tập cho mình thái độ bình thản : không háo hức vì lời khen, cũng không buồn bực vì tiếng chê ; không vui mừng hớn hở khi nghe người khác nói tốt, mà cũng chẳng buồn phiền nản chí khi người ta nói xấu. Những lời khen, chê, tốt, xấu của người khác cũng chỉ là tương đối thôi. Không phải vì người khác nói tốt mà mình tốt, nói xấu mà mình xấu. Tốt xấu tự chúng ta biết. Đừng để cho sự đàm tiếu hoặc bưng bít của người khác thao túng tâm hồn mình : lời khen dễ làm cho ta bị ảo tưởng ; tiếng chê dễ làm ta bị lầm tưởng.  Hãy coi lời khen như một sự động viên ; tiếng chê như một điều cảnh báo.

Tuy nhiên, cũng phải thận trọng suy xét trước lời khen, chê. Khổng Tử nói rằng : “Kẻ khen ta mà khen sai là kẻ thù của ta, kẻ chê ta mà chê đúng là thầy ta”.

Đừng sợ nghe những lời trách móc, cũng đừng ham những lời khen ngợi : “Có những điều trách móc là khen ngợi, và có những điều khen ngợi là phỉ báng.” (La Rochefoucauld).

Thật ra, nhiều lúc người ta chê mình cũng đúng, và nói xấu mình cũng đáng. Bản thân mình vẫn có những cái yếu kém, chứ đâu phải thần thánh gì. Vì thế, tất cả mọi giọng điệu của người khác đều phải được đón nhận và thanh lọc từ phía mình. Tuyệt đối không nên phát sinh những phản ứng tiêu cực, vì như vậy là lựa chọn một thái độ thấp kém. Hãy xem những lời lẽ gay gắt, nặng nề, như một thách đố để vượt qua chính mình. Đó mới là thái độ chân chính của con người biết tự trọng, và tôn trọng những giá trị bản thân, như một tiếng gọi vươn lên khỏi những tầm thường.

 

5. Kẻ nói, người nghe

“Kẻ nói tức là gieo, kẻ nghe tức là gặt” (Plutaroue). Gieo thì phải biết mình gieo cái gì, giống tốt hay giống xấu. Gặt cũng phải biết mình gặt cái gì, gặt cỏ hay gặt lúa? Biết cái xấu mà vẫn gieo là hạng ác nhân, biết cỏ mà vẫn gặt là người dại dột.

Sự cố ý gieo tin độc địa của người nói, và sự ham thích những điều càn dở của người nghe, là một sự đồng tình và đồng lõa với sự dữ, tạo thêm sự hỗn loạn trong đời sống con người. Đang khi Chúa muốn qui tụ và hợp nhất mọi người, thì lại có những hạng người gây chia rẽ, đó là những người “sống theo tính tự nhiên, không có Thần Khí.” (Gđ 1, 19). Đang khi Chúa muốn ngọn lửa tình yêu mang xuống từ trời được cháy lên, thì lại có những người tệ rạc hùa nhau dập tắt, đó là những người đã quen sống theo tác động của ác thần.

Khi nói về người khác thì cũng là một cách nói về mình, một cách phơi trần bản thân mình. Mọi cái trong thâm tâm đều được hiển lộ trong lời nói qua ngôn từ, giọng điệu, bộ dạng, kiểu cách, cho người khác một đánh giá khá chính xác về tâm hồn mình. Dĩ nhiên cũng có những tay “cáo già” có thể lòe bịp và qua mắt được thiên hạ, nhưng rồi thời gian vẫn là phương cách hữu hiệu để nắm bắt những điều cơ bản nơi một con người.  

Khi nói, cũng phải biết mình đang nói với ai, nói về ai, đáng nói hay không. Đức Khổng Tử khuyên rằng : “Khả dữ ngôn nhi bất dữ chi ngôn, thất nhân. Bất khả dữ ngôn nhi dữ chi ngôn, thất ngôn” (Người nào đáng nói mà mình không nói thì mất người. Người nào không đáng nói mà mình lại nói thì mất lời).

Mất cái nào cũng đáng tiếc, nhưng đáng tiếc hơn cả là mất chính mình, khi nói những điều không cần nói, những cái không nên nói và không được phép nói, hoặc nói không đúng lúc, đúng thời, đúng nơi, đúng người. Sách Châm Ngôn viết rằng : “Lời nói ra đúng lúc đúng thời khác chi táo vàng trên đĩa bạc chạm trổ.” (Cn 25, 11).

Người nghe cũng vậy, phải rất thận trọng, không phải cái gì cũng nghe, và biết mình đang nghe cái gì. Ta chỉ nghe những gì đáng nghe và loại bỏ những gì không cần nghe. Nghe điều gì, bao giờ chúng ta cũng phải xét lại, không thể hùa theo dư luận hay đồng tình theo đám đông, cũng không xu hướng theo những người có thế giá. “Thế giá” nhiều khi cũng chỉ là “dàn giá” bề ngoài. Phải để cho mình luôn có sự cân nhắc và phân định thực hư. Hơn nữa, ta phải lắng nghe bằng cả lý trí và con tim chứ không chỉ bằng lỗ tai. Lỗ tai chỉ là đường vào, còn sự thật thế nào thì phải để đôi mắt kiểm chứng, lý trí sàng lọc, và con tim cảm nhận một cách trung thực.

Có những người nói rất hay, nhưng hãy coi chừng! Khổng Tử viết: “Hữu đức giả tất hữu ngôn, hữu ngôn giả bất tất hữu đức” (Người có đức ắt có tài ngôn ngữ, người có tài ngôn ngữ chưa chắc là có đức).

Trong quan hệ với mọi người, dù là người thân thích đi nữa, thì nghe không bao giờ đi liền với tin, nhập nhằng hai điều này thành một dễ thành kẻ dại dột, dễ bị lợi dụng. Đành rằng, sống với nhau thì phải tin nhau, nhưng không có nghĩa là nhắm mắt tin hết mọi sự, vì tâm hồn con người dễ bị giao động và nhiều khi tâm lý biến chuyển rất phức tạp. Người khác nói cho ta nghe sự thật, nhưng nhiều khi sự thật đã bị bóp méo ít nhiều, đã bị thổi phồng hoặc co rút lại do cảm xúc chủ quan hay thành kiến có sẵn. Đó là chưa nói đến chuyện bịa tạc hay suy diễn từ thái độ của những người mình không ưa.

Hơn nữa, để hiểu sâu xa điều người khác nói, không phải chỉ hiểu ngôn từ, lý lẽ hay biện luận của họ, mà phải hiểu tâm ý của họ. Những kẻ gian trá thì thường lại rất khôn ranh trong những điều họ nói, để dụ dỗ hay lôi kéo ta về phía họ, và luôn có những cái bẫy ngầm làm cho người nghe dễ mắc vào. Chính Chúa Giêsu cũng đã từng bị giăng bẫy qua những lời đạo đức và ngon ngọt của đối phương (x. Mt 22, 19-22 ; Lc 11, 54).

Thánh Phaolô cũng cảnh giác chúng ta như sau : “Hãy coi chừng chớ để ai gài bẫy anh em bằng mồi triết lý và những tư tưởng giả dối rỗng tuếch theo truyền thống người phàm và theo những yếu tố của vũ trụ chứ không theo Đức Kitô.” (Cl 2, 8).

Có điều oan khiên là nhiều khi lời nói mưu mô, tà ý và vô tâm của người khác lại phù hợp với những định kiến và dục vọng của lòng mình, nên ta không còn khả năng kiểm chứng nữa, thậm chí thêm cuồng tín, và những đối tượng bị nói đến lại càng hứng chịu bất công một cách nghiệt ngã hơn. 

 

6. Nhìn về Chúa Giêsu

Những ai phải hứng chịu những bất công do những lời nói xấu xa của người khác, thì “Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn không phải hổ ngươi bẽ mặt.” (Tv 34, 6). Hãy nhìn về Đức Giêsu, Chúa chúng ta, Đấng phải chịu biết bao lời sỉ nhục, nguyền rủa và vu khống của con người. Chúa còn như vậy nữa, huống chi chúng ta. Điều đó cho thấy sự tệ rạc của con người nhân loại chúng ta trong cách cư xử với nhau. Nhưng rồi trên thập giá, Chúa vẫn nói lời yêu thương tha thứ.

Vì thế, khi phải chịu những nỗi oan khiên, đắng cay do lời nói người khác gây ra, hãy nhớ là Chúa đã chịu thay cho ta ,và đang cùng chịu với chúng ta, để khi phải nói, ta cũng nói lời yêu thương tha thứ cho mọi người như Chúa trên thập giá. Cũng đừng quên rằng, bản thân ta vẫn luôn mỏng giòn và yếu đuối, nên có nhiều khi người khác phải chịu những lời thóa mạ của ta hơn là ta chịu vì họ. Vì thế, bù qua sớt lại cũng khó mà cân lượng.

Tóm lại, hãy nên giống như Chúa Giêsu, bằng cách đào luyện cho mình khả năng biết dùng lời nói để làm dịu nhẹ những cơn giận dữ, để tha thứ cho những ai xúc phạm, để cảm thông với ai lầm lỗi, để an ủi những ai sầu khổ, để nâng cao tinh thần người yếu đuối, để khen thưởng người thành công, để dạy bảo người non kém. Mọi cách thế của lời nói phải được bày tỏ bằng thái độ chân thành, khiêm tốn và tình yêu thương nồng hậu.

 

Lời nguyện

Lạy Chúa, chỉ khi nào con biết dùng những lời nói chân thật, khiêm tốn và khoan dung để đem lại an vui thuận hòa, để yêu thương và tha thứ, để bênh vực và che chở, để quan tâm nâng đỡ và khích lệ, đồng thời dám để cho người khác trổi vượt hơn con thì tâm hồn con mới thực sự trong sáng và cao đẹp.

Khi biết dùng những lời lẽ tốt lành con mới biết mình là người sống trong Chúa và Chúa sống trong con.

Xin cho con biết tha thiết sống hiệp nhất với Chúa và khao khát lắng nghe tiếng Chúa nói trong thâm tâm con, để tiếng Chúa nói trong thâm tâm trở thành lời con nói ra ngoài miệng.

Đó chính là những lời nói gieo rắc mầm sống của ơn cứu độ, mà Chúa muốn mời gọi con góp phần để xây dựng một trời mới đất mới, nơi Chúa đang kiến tạo cho nhân loại chúng con. Amen.

 

Lm. Thái Nguyên

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 9 trong 3 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận