Thứ Tư tuần 4 Phục Sinh

Đăng lúc: Thứ tư - 25/04/2018 02:04 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

 

Thứ Tư tuần 4 Phục Sinh – THÁNH MÁCCÔ, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG. Lễ kính.

"Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng".

 

Thánh Marcô là cháu của thánh Barnaba. Người đã đi theo thánh tông đồ Phaolô trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất, và theo đến tận Rôma.

Người cũng là môn đệ của thánh Phêrô và là thông ngôn của thánh Phêrô, đã soạn lời giảng của thánh Phêrô thành sách Tin Mừng. Truyền thống cho rằng người đã sáng lập giáo đoàn Alexandria.

 

Lời Chúa: Mc 16, 15-20

Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh".

Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.

 

 

 

SUY NIỆM 1: Loan báo Tin Mừng

Suy niệm :

Hôm nay Giáo Hội mừng lễ thánh Marcô, tác giả sách Tin Mừng.

Ngài thường được coi là người viết cuốn sách Tin Mừng đầu tiên.

Ngài đã thu tập những tài liệu có trước, rồi sắp xếp lại thành một câu chuyện.

Marcô muốn kể một câu chuyện lý thú về Đức Giêsu.

Dù khả năng viết tiếng Hy lạp của ngài không thuộc loại giỏi,

nhưng bù lại, ngài là một nhà kể chuyện có tài.

Ngài cho chúng ta một khuôn mặt Đức Giêsu rất sống động và rất người.

Đức Giêsu ấy biết giận dữ, biết xao xuyến, biết ngạc nhiên như người khác.

Marcô đã cầm bút viết tác phẩm của mình về Thầy Giêsu

trong một giai đoạn đen tối của Giáo hội sơ khai.

Vào năm 64, bạo chúa Nêrô đốt thành Rôma và đổ tội cho các kitô hữu.

Cuộc bách hại dữ dội bắt đầu tại Rôma.

Vậy mà tại nơi ấy, giữa thời điểm căng thẳng ấy, Marcô viết sách Tin Mừng

dành cho những kitô hữu không phải là người Do Thái.

“Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (Mc 1,1):

Marcô đã bắt đầu tác phẩm của mình như thế.

Sách này thật là Tin Mừng nâng đỡ các tín hữu bị chao đảo bởi bách hại.

Đức Giêsu vác thánh giá mời gọi người ta trung tín bước theo Ngài.

Ngài đã chết nhưng hẹn gặp lại các môn đệ ở Galilê sau khi Ngài phục sinh.

Bài Tin Mừng hôm nay, tuy không phải do thánh Marcô soạn thảo,

nhưng lại hợp với ngày lễ mừng thánh nhân.

Đấng sống lại kêu gọi nhóm Mười Một đi khắp thế giới để rao giảng Tin Mừng.

Đó là Tin Mừng về Đức Giêsu bị đóng đinh nhưng nay được phục sinh,

được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa (c. 19).

Các tông đồ đã vâng lời, đi rao giảng khắp nơi.

Chúa lên trời nhưng Ngài vẫn cùng làm việc với họ như xưa.

Ngài giúp họ có khả năng trừ quỷ, chữa bệnh, nói những thứ tiếng mới.

Ngài bảo vệ họ khỏi những hiểm nguy do rắn rít hay thuốc độc (cc.17-18).

Giáo Hội hôm nay cần nhiều kitô hữu say mê rao giảng Tin Mừng.

Trên quê hương vẫn còn nhiều nơi vắng tiếng chuông nhà thờ buổi sáng.

Marcô đã kể chuyện về Giêsu bằng ngòi bút, viết trên giấy da hay giấy cói.

Chúng ta có nhiều phương tiện nhanh hơn, rộng hơn, để kể chuyện về Giêsu.

Làm sao để Giêsu đến gặp con người qua internet, sách báo, phim ảnh…?

Làm sao để cuộc đời chúng ta trở thành một cuốn sách Tin Mừng

để ai đọc cũng gặp được Giêsu?

 

Cầu nguyện :

Lạy Cha,

Cha muốn cho mọi người được cứu độ

và nhận biết chân lý,

chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.

Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người

chưa nhận biết Đức Giêsu,

họ cũng là những người đã được cứu chuộc.

Xin Cha thôi thúc nơi chúng con

khát vọng truyền giáo,

khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,

niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,

và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.

Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực

trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất

để loan báo Tin Mừng.

Chúng con chỉ xin đến

với những người bạn gần bên,

giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,

qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.

Chúng con cũng cầu nguyện

cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.

Xin Cha cho những cố gắng của chúng con

sinh nhiều hoa trái. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

SUY NIỆM 2: Sư Tử Có Ðôi Cánh

Khách du lịch đến thưởng ngoạn Venezia, một thành phố mơ mộng nằm trên sông nước và được làm tăng thêm vẻ đẹp bằng những công trình kiến trúc độc đáo cũng như bằng những tác phẩm nghệ thuật thời danh nằm ở mạn đông bắc Italia, không thể bỏ qua công trường Marcô, công trình mang tên của vị thánh bổn mạng của thành phố Venezia và cũng là vị thánh Giáo hội mừng kính hôm nay.

Trên con đường tiến gần đến công trường Marcô, du khách nhìn thấy một con sư tử có đôi cánh đứng sừng sững trên một ngọn tháp cao. Hình sư tử này nhắc đến sự nghiệp viết sách Phúc Âm đầu tiên của thánh Marcô, như chứng từ của sử gia Papias, sinh sống vào cuối thế kỷ thứ hai viết như sau:

"Marcô, người thông ngôn của Phêrô, đã viết ra đúng những gì nhớ được, tuy không theo thứ tự, về những điều Ðức Kitô đã nói và đã làm. Marcô không trực tiếp nghe Chúa giảng, cũng không phải là môn đệ của Ngài. Nhưng ông đã tháp tùng Phêrô, người đã giảng dạy theo những gì ông cảm thấy cần thiết, chứ không phải chủ tâm thuật lại lời Chúa một cách có hệ thống".

Marcô là người thông ngôn và lãnh trách nhiệm chép lại những lời Phêrô giảng, vì thế không lạ gì ở cuối bức thư thứ nhất, Phêrô gọi ông là "Marcô, người con của tôi".

Ngoài sự gần gũi với thánh Phêrô, Marcô cũng tiếp xúc lân cận với Phaolô, bắt đầu vào lần gặp gỡ đầu tiên vào năm 44, khi Phaolô và Barnaba đưa về Giêrusalem số tiền cộng đoàn Antiokia quyên được để trợ giúp cộng đoàn Mẹ. Khi trở về, Barnaba đem theo Marcô, là cháu của ông.

Sau đó, trong khi đồng hành với Phaolô và Barnaba để hoạt động truyền giáo ở đảo Cypre, vì một sự bất đồng ý kiến nào đó, Marcô đã bỏ về Giêrusalem. Vì lý do này, trong chuyến truyền giáo thứ hai, Phaolô đã nhất quyết không cho Marcô theo, mặc dù Barnaba tha thiết yêu cầu. Sự kiện này đã gây đổ vỡ đến sự cộng tác giữa Phaolô và Barnaba.

Nhưng trong những ngày cuối đời, khi chờ đợi ngày hành quyết, Phaolô đã viết thư nhắn với Timôthê: "Hãy đem cả Marcô đến nữa, vì tôi cần sự giúp đỡ của anh ấy lắm". Bạn bè người ta muốn gặp trong những ngày cuối đời phải là những người đồng sinh đồng tử!

Những chi tiết khác nhau đó của cuộc đời của thánh Marcô không lấy gì làm chắc. Có tài liệu cho là thánh nhân chết tự nhiên. Tài liệu khác lại cho là thánh nhân được phúc tử đạo. Vương cung thánh đường tại công trường Marcô ở Venezia tự hào là còn giữ lại hài cốt của Ngài.

Trong cuộc sống, Marcô đã chu toàn bổn phận mà mọi người Kitô được kêu gọi phải thực thi: Ðó là rao giảng Tin Mừng và làm chứng về Ðức Kitô. Marcô đã thực hiện công việc này đặc biệt qua công tác viết sách Phúc Âm, những người Kitô khác qua kịch nghệ, âm nhạc, thơ phú hay qua việc dạy đạo cho con em quanh bàn ăn của gia đình hoặc qua cuộc sống chứng tá trong những sinh hoạt và nếp sống hằng ngày.

(Trích trong ‘Lẽ Sống’ – Radio Veritas Asia)

 

SUY NIỆM 3: Thánh Sử Marcô

Người ta không chắc chắn Mác-cô là tác giả sách Tin Mừng thứ hai, nhưng người ta rất đồng ý về đời sống của Ngài là một phần tử thực hiện lệnh truyền đi rao giảng Tin Mừng của Đức Giê-su Ki-tô cho mọi dân tộc không phân biệt ranh giới không gian và thời gian. Sách Công Vụ Tông Đồ (13, 13, 15, 38) đã cho chúng ta thấy Mác-cô còn trẻ người non dạ, vì Thánh Phaolô đã thất vọng từ chối không nhận  Mác-cô trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ hai của Ngài. Tuy nhiên khi trở về Giê-ru-sa-lem quê nhà cha mẹ, Mác-cô đã có nhiều điểm tốt phụng vụ cộng đồng Ki-tô hữu tiên khởi. (Cv. 12,12). Rồi Ngài đi với cậu mình là Bêrnabê đi truyền giáo ở đảo Síp.(Chypre), sau đó đến Rôma nhập đoàn với Thánh Phaolô đang bị tù, và Ngài đã giúp Thánh Phêrô như là một thông dịch viên, có lẽ nhờ công việc này, đã xuất bản cuốn Tin Mừng Mác-cô, rất tượng hình, rất gần kinh nghiệm của Phêrô sống với Đức Giê-su; người ta còn nói Ngài còn là Giám Mục tiên khởi Hội Thánh ở Alexandria, và sau cùng ở Venise, nên Tin Mừng của Ngài có biểu tượng nổi tiếng là con sư tử.

Chúng ta hãy trở lại Tin Mừng của Ngài. Người ta tin tác phẩm Tin Mừng là của Ngài đã để lại một tâm sự trong đoạn 14, 51-52  kể lại: “Trong khi đó có một cậu thanh niên đi theo Người, mình khoác vỏn vẹn chỉ một tấm vải gai. Họ túm lấy anh. Anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng”. Đây cũng là dấu chỉ sự sống lại trong những người được sai đi rao giảng Tin Mừng và cũng đủ trả lời khá rõ ràng về tác giả Tin Mừng là của Thánh Mác-cô, một Tin Mừng có một có một sức mạnh rất cụ thể sống động chống lại sức mạnh của quỉ dữ muốn làm hại Đức Giê-su. Ngày nay người ta khá coi thường một thứ Tin Mừng có nhiều phép lạ, nó lôi kéo chú ý về những kỳ lạ hơn về sứ điệp thứ tha và giải tháot của Tin Mừng; may thay bản văn vẫn ưu tiên dành cho lời Chúa. Hãy suy nghĩ đến sức mạnh tâm hồn của các vị truyền giáo, đến những ân huệ các Ngài đã mang đến cho một thế giới trong lầm than được nghe loan báo về Đấng Cứu Thế đã toàn thắng, đã đoạt được vinh quang của ngai tòa Thiên Chúa. Như Mác-cô, khiêm tốn nhưng hăng say, chính Ngài đã tiếp tục theo chân những người nghèo khó nói những lời định mệnh cho đến tận thế để nối đất của chúng ta với trời.

L.P

 

SUY NIỆM 4: Thánh Marcô, Thánh sử

Marcô là ai ? Chắc chắn Ngài không phải là một trong 12 tông đồ. Nhưng một người tên Marcô đã được các cộng đoàn Kitô giáo sơ khai biết đến, nhiều như là người bạn đồng hành của thánh Phaolô và như người bạn thân ái của thánh Phêrô ở Roma (Cl 4,10; 1Pr 5,13; 2Tim 4,11). Sách Công vụ ba lần nói tới một "Gioan cũng gọi là Marcô" (Cv 12,12; 25,15.17) là bạn thiết của thánh Barnaba.

Các học giả thường đồng ý rằng: Marcô đã được nói tới trong các thánh thư, Gioan tên Marcô trong sách công vụ và tác giả Phúc âm thứ II đều chỉ là một người. Đồng ý với sự đồng hóa trên, chúng ta có thể phác họa hình ảnh của thánh sử như sau:

- Ngài là con của Maria. Một góa phụ giàu có ở Giêrusalem có một người giúp việc và căn nhà rộng rãi làm nơi tụ họp các tín hữu.

Năm 43, sau khi thoát khỏi ngục tù, thánh Phêrô đã chọn nhà này làm nơi trú ngụ (Cv 12,12-17). Như thế, Marcô sớm quen thuộc với những ghi nhận của thánh Phêrô. Hai năm sau, tức là năm 45, chúng ta thấy Marcô và thánh Barnaba cùng đi trong cuộc hành trình thứ nhất của Phaolô. Nhưng khi đoàn truyền giáo đi về hướng bắc, Marcô đã từ giã để trở về Giêrusalem (Cv 13,13). Phaolô bất bình và không muốn nhận cho Marcô đi theo trong cuộc hành trình thứ hai. Năm 50, như Barnaba đề nghị, Barnaba về phe với Marcô, và đáp tàu về Cyprus là quê hương của Barnaba (Cv 15,36-39).

Chúng ta không thấy nói gì đến Marcô nữa cho tới năm 61 khi Ngài ở Roma với Phaolô (Cl. 4,10), ba năm sau tức là năm 64 thánh nhân vẫn có mặt ở Roma vì Phêrô có nhắc tới tên Người trong các lời chào của mình (1Pr 5,13). Đây là năm thánh Phêrô chịu tử đạo. Ít lâu sau đó có lẽ thánh Marcô đã bắt đầu viết sách Phúc âm ở Roma, dầu một số tác giả mới đây cho rằng ở Alexandri. Năm 67, thánh sử ở Ephesô vì một ít tháng trước khi qua đời, thánh Phaolô dặn dò Timothêô đưa theo Marcô đến Roma (2Tm 4,14). Mối bất hòa xưa đã được hàn gắn hoàn toàn.

Từ đây, chúng ta phải dựa vào truyền thống để tìm hiểu về Marcô. Có lẽ sau khi thánh Phêrô qua đời, Marcô đi rao giảng ở Alaexandria thành lập và làm giám mục giáo đoàn này. Sự kiện không được chắc vì các bậc tiến sĩ của Alexandria như Clêmente (200), và Origênê (203) không nhắc nhở gì đến.

Cuốn Chronicon-Pascale không mấy có thế giá cho rằng: Marcô đã làm giám mục ở Alexandrie và bị thiêu sống dưới thời Trajanô (năm 98 - 117).

Dựa vào bút pháp của Marcô, chúng ta cố gắng tìm hiểu tính khí của Ngài. Tính chất sống động của Phúc âm thứ II biểu lộ rõ chứng tích mục kiến của Phêrô, chứ không phải của Marcô, dầu có thể là Marcô đã chứng kiến việc bắt bớ Chúa Giêsu vì các nhà chú giải đồng hóa Ngài với người thanh niên vô danh bỏ chạy mình trần (Mc 14,50-52). Dầu vậy, thánh Marcô không phải là một máy ghi âm diễn lại lời của Phêrô, Ngài là tác giả ghi lại ký ức của Phêrô với bút pháp riêng. Ngài là người ít lời (673 câu so với 1068 câu nơi Matthêu) và có giọng văn không chải chuốt.

Người ta có thể cho rằng: Ngài không có đau khả năng viết văn cho duyên dáng. Nhưng với những khiếm khuyết này, Marcô lại tỏ ra rất chân thành, Ngài đã ương ngạnh từ chối việc bỏ bớt những sự kiện vụng về hay là giải thích chúng. Chẳng hạn không thánh sử nào giấu giếm sự chậm hiểu của các thánh tông đồ, nhưng ở Marcô nhấn mạnh: "Lòng họ ra như chai lại" ( Mc 6,51). Marcô cũng không che dấu tham vọng không thể tin nổi của họ (Mc 9,34). Chính Phêrô cũng rất thẳng thắn: "Ông không biết phải đáp ứng làm sao" (Mc 9,6). Có lẽ chứng cớ hùng hồn nhất nói lên sự lương thiện của Marcô là Ngài đã liều tỏ ra mâu thuẫn với chính mình.

Chẳng hạn đối với Ngài Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa với ý nghĩa đầy đủ nhất của từ ngữ "vượt các thiên thần" (3,32) "có quyền tha tội" (2,10). Nhưng rồi Ngài không ngần ngại viết rằng: "Ở Nazareth Người đã không làm được phép lạ nào" (6,5) Ngài cũng không dấu diếm sự kiện bà con Chúa Giêsu nghi ngờ Người thiếu khôn ngoan (3,21) hay sự kiện Chúa Giêsu thất vọng với cây vả không trái (11,13). Những chi tiết loại này khiến cho tựa đề của Marcô được nguyên vẹn (Phúc âm Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa) nhưng lại mang dáng vẻ khó hiểu vì Ngài đã không thèm dấu giếm gì hết. Với một sử gia tài danh như vậy, chúng ta rất an tâm.

Tại đền thờ thánh Marcô người ta nói có chôn dưới bàn thờ thánh nhân do các thương gia mang từ Alexandria về vào thế kỷ IX. Thánh sử được biểu trưng bằng hình con sư tử vì Phúc âm của Ngài mở dầu bằng tiếng nói oai hùng của Gioan tẩy giả từ trong sa mạc. Đọc Phúc âm theo thánh Marcô, chúng ta như có thể nghe tiếng nói thô sơ của thánh sử "Đừng nhìn tôi, hãy nhìn Người".

(Trích ‘Hạnh Tích Các Thánh’)

 

SUY NIỆM 5: Thánh Marcô, Thánh sử

Thánh Marcô, mặc dù mang tên Roma, nhưng lại là người Do Thái, và còn được gọi theo tên Do Thái là Gioan. Tuy không thuộc nhóm Mười Hai Tông Đồ, nhưng rất có thể ngài đã quen biết Chúa Giêsu. Nhiều văn gia Giáo Hội phát hiện ra chữ ký kín ẩn của thánh Marcô trong Phúc Âm của ngài, trong trình thuật người thanh niên bỏ chạy với một mảnh vải trên người, khi Chúa Giêsu bị bắt trong vườn Cây Dầu: ý nghĩa ở đây là chỉ có mình thánh Marcô đề cập đến chi tiết ấy. Điều này còn trùng hợp với một chi tiết khác: Marcô là con trai bà Maria, một góa phụ giàu có, sở hữu ngôi nhà, nơi các tín hữu Jerusalem tiên khởi thường tụ họp. Theo một truyền thống cổ xưa, ngôi nhà này chính là ngôi nhà có phòng Tiệc Ly, nơi Chúa Giêsu đã ăn bữa Tiệc Ly và thiết lập bí tích Thánh Thể.

Marcô có bà con với thánh Barnabas; ngài đã đồng hành với thánh Phaolô trong cuộc truyền giáo lần thứ nhất, và ở bên cạnh vị Tông Đồ dân ngoại trong những ngày cuối đời của ngài. Tại Roma, Marcô còn làm môn đệ của thánh Phêrô. Trong Phúc Âm của ngài, với ơn linh hứng Chúa Thánh Thần, thánh Marcô đã trung thành trình bày giáo huấn của vị Tông Đồ trưởng. Theo một truyền thống cổ xưa được thánh Jerome kể lại, sau khi hai thánh Phêrô và Phaolô chịu tử đạo, thánh Marcô đã sang Alexandria, giảng đạo, thành lập giáo đoàn và trở thành giám mục tiên khởi ở đó. Vào năm 825, thánh tích của ngài được dời từ Alexandria về Venice, thành phố hiện nay nhận ngài làm quan thầy.

1. Marcô, người phụ tá của thánh Phêrô.

Ngay từ khi còn rất trẻ, Marcô đã thuộc vào nhóm các tín hữu tiên khởi ở Jerusalem, những người quen biết và được sống bên cạnh Đức Mẹ và các Tông Đồ. Mẹ của ngài là một trong những phụ nữ đã lấy tài sản chu cấp cho Chúa Giêsu và mười hai Tông Đồ. Marcô cũng có bà con với thánh Barnabas, một trong những nhân vật chính yếu trong thời kỳ đầu, và là người đầu tiên dìu dắt ngài trong công cuộc rao giảng Phúc Âm. Marcô đồng hành với thánh Phaolô và thánh Barnabas trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất,1 nhưng khi đến đảo Cyprus, Marcô cảm thấy không thể tiếp tục được nữa nên đã từ giã và trở về Jerusalem.2 Thánh Phaolô dường như rất thất vọng về tính thay đổi của Marcô. Về sau, khi trù định cho hành trình truyền giáo lần thứ hai, thánh Barnabas muốn đem theo Marcô, nhưng thánh Phaolô nhất định không chịu vì nhớ lại sự việc trước đó. Cuộc tranh luận giữa thánh Phaolô và thánh Barnabas căng thẳng đến nỗi sau cùng hai vị đã chia tay, mỗi người tiến hành chương trình của riêng mình.

Khoảng mười năm sau, chúng ta lại thấy Marcô tại Roma, lần này ngài giúp đỡ thánh Phêrô. Lời thánh Phêrô đã viết trong thư: con tôi là Marcô,3 minh chứng mối liên hệ lâu bền và gần gũi giữa hai vị. Thời gian ấy, Marcô là thông dịch viên cho vị Tông Đồ trưởng, việc này đem lại một lợi điểm mà chúng ta nhận ra trong Phúc Âm được ngài viết sau đó ít năm. Mặc dù không ghi lại một bài giáo huấn dài nào của Chúa, nhưng bù lại, thánh Marcô đã mô tả rất sinh động về những biến cố trong cuộc sống của Chúa Giêsu với các Tông Đồ. Trong các trình thuật của ngài, chúng ta thấy hiện lên những thị trấn nhỏ ven bờ biển Galilê; chúng ta cảm nhận được những lời bàn tán của đám đông đi theo Chúa Giêsu, chúng ta như thể tiếp xúc với những cư dân của các địa phương ấy, nhìn thấy những việc kỳ diệu của Chúa Giêsu, và những phản ứng tự phát của nhóm Mười Hai. Tóm lại, chúng ta thấy mình như giữa đám đông dân chúng, được chứng kiến các biến cố Phúc Âm. Qua những mô tả sinh động, thánh Marcô đã in đậm vào linh hồn chúng ta một hấp lực dịu dàng nhưng không sao cưỡng lại của Chúa Giêsu mà dân chúng và các Tông Đồ đã cảm nghiệm được trong cuộc sống với Thầy Chí Thánh. Thánh Marcô đã trung thành ghi lại những hồi tưởng thân mật của thánh Phêrô với Thầy Chí Thánh: những ký ức ấy không phai nhòa theo năm tháng, nhưng càng ngày càng sâu đậm và sinh động hơn, càng thấm thía và hứng thú hơn. Có thể nói Phúc Âm thánh Marcô là tấm gương sinh động về giáo huấn của thánh Phêrô.4

Thánh Jerome cho chúng ta biết, theo thỉnh nguyện của các tín hữu Roma, Marcô, môn đệ và thông ngôn của thánh Phêrô, đã viết Phúc Âm theo những gì ngài đã được nghe thánh Phêrô giảng dạy. Và chính thánh Phêrô, sau khi đã duyệt bản Phúc Âm ấy, đã dùng quyền bính chấp thuận cho sử dụng trong Giáo Hội.5 Đây thực sự là sứ mệnh chính trong cuộc đời thánh Marcô: trung thành ghi lại những lời giảng của thánh Phêrô. Ngài đã để lại cho hậu thế biết bao ích lợi! Ngày nay, chúng ta thực sự phải mang ơn thánh Marcô vì nhiệt tâm ngài đã đặt vào công việc và lòng trung thành với ơn linh hứng của Chúa Thánh Thần! Ngày lễ kính thánh Marcô là dịp để chúng ta xét lại việc hằng ngày chúng ta đọc Phúc Âm, lời Chúa nói trực tiếp với chúng ta, như thế nào. Chúng ta có thể tự hỏi đã bao lần chúng ta đã sống như người con hoang đàng, hoặc áp dụng cho mình lời cầu khẩn của anh mù Bartimaeus: Lạy Chúa, xin cho con được nhìn thấy – Domine, ut videam! Hoặc lời thỉnh nguyện của người cùi: Lạy Thầy, nếu Thầy muốn, xin cho tôi được sạch – Domine, si vis, potes me mundare! Bao lần chúng ta cảm thấy tận đáy lòng rằng Chúa Kitô đang nhìn và mời gọi chúng ta hãy sát bước theo Người, kêu gọi chúng ta hãy vượt thắng một thói xấu nào đó làm chúng ta xa cách Người, hoặc như các môn đệ trung thành, hãy sống nhân ái hơn nữa với những người khó hòa hợp với chúng ta?

2. Là khí cụ của Chúa, chúng ta phải luôn sẵn sàng thực hiện một cuộc khởi đầu mới.

Thánh Marcô đã giúp đỡ thánh Phêrô nhiều năm tại Roma, ở đó, chúng ta còn thấy ngài phụ giúp thánh Phaolô nữa.6 Quả thế, con người mà thánh Phaolô thấy không thể sử dụng trong hành trình truyền giáo lần thứ hai thì nay lại là một niềm an ủi7 và một người bạn trung thành. Vào khoảng năm 66, thánh Tông Đồ đã viết cho Timothy: Con hãy đem Marcô đi với con, vì anh ấy rất hữu ích cho công việc phục vụ của cha.8 Sự kiện đảo Cyprus một thời hết sức ảm đạm, thì nay dường như đã bị quên lãng hoàn toàn. Giờ đây, thánh Phaolô và thánh Marcô là bạn hữu và đồng sự của nhau trong công cuộc quan trọng là mở rộng vương quốc Chúa Kitô. Thực sự đây là một tấm gương lớn lao và cũng là một bài học tuyệt vời cho chúng ta học biết: đừng bao giờ kết luận dứt khoát về một ai, khi nào cần thiết một ai, chúng ta hãy biết cách nối lại mối dây thân hữu mà đã có lúc xem như đã tan rã hoàn toàn!

Giáo Hội hôm nay nêu lên mẫu gương thánh Marcô. Thật là một hy vọng và ủi an khi chiêm ngưỡng đời sống vị sử gia thánh thiện này. Mặc dù có những yếu đuối, nhưng chúng ta vẫn có thể như ngài, tin tưởng vào ơn Chúa và sự phù trợ của Mẹ Giáo Hội. Những thất bại và những hành vi nhát đảm của chúng ta, dù lớn hoặc nhỏ, phải làm chúng ta khiêm tốn hơn, liên kết chúng ta mật thiết hơn với Chúa Giêsu, và kín múc từ nơi Chúa nguồn sức mạnh mà chúng ta đang thiếu thốn.

Chúng ta đừng để những bất toàn nên cớ làm chúng ta xa cách Chúa hoặc từ bỏ sứ mạng tông đồ, mặc dù đôi khi chúng ta đã không đáp ứng đúng mức với ơn Chúa, hoặc chúng ta đã ngần ngại khi được nhờ cậy. Những hoàn cảnh như thế, nếu có khi nào xảy ra, chúng ta không nên ngạc nhiên, bởi vì như lời thánh Phanxicô Salê đã nói, Không có gì phải ngạc nhiên vì bệnh tật là bệnh tật, yếu đuối là yếu đuối, và gian ác là giac ác. Tuy nhiên, hãy hết sức gớm ghét điều bạn đã xúc phạm đến Chúa, và với lòng tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa, hãy quảng đại quay lại con đường mà bạn đã từ bỏ.9

Những thất bại và những hành vi nhát đảm rất quan trọng. Chúng khiến chúng ta trở về bên Chúa để nài xin ơn tha thứ và trợ giúp của Người. Nhưng Chúa vẫn tin tưởng chúng ta, và chúng ta vẫn cậy trông ơn Chúa, nên chúng ta hãy lập tức làm lại và quyết tâm trung thành hơn trong tương lai. Với ơn phù trợ của Đức Mẹ, chúng ta sẽ biết cách rút ra điều hữu ích từ những yếu đuối, nhất là khi kẻ thù, những kẻ không bao giờ nghỉ ngơi, ra sức làm chúng ta thất đảm và từ bỏ cuộc chiến. Chúa Giêsu muốn chúng ta thuộc về Người mặc dù chúng ta đã có một lịch sử yếu đuối với những sai phạm.

3. Sứ vụ tông đồ.

Hãy đi khắp thế gian và rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo.10 Hôm nay, chúng ta đọc những lời này trong Ca Nhập Lễ. Đây là sứ vụ tông đồ Chúa đã ban và thánh Marcô đã ghi lại. Về sau, được ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy, thánh nhân đã minh chứng lệnh truyền ấy đã được thực hiện khi ngài chép Phúc Âm: Các tông đồ ra đi và rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố tin mừng bằng những phép lạ kèm theo.11 Đó là những lời thánh Marcô kết thúc Phúc Âm của ngài.

Thánh Marcô đã trung thành với sứ vụ tông đồ mà ngài đã nghe qua lời giảng của thánh Phêrô: Hãy đi khắp thế gian. Chính thánh Marcô và Phúc Âm của ngài đã là một thứ men hiệu quả cho thời đại ngài. Chúng ta cũng phải trở nên một thứ men tốt cho thời đại chúng ta. Nếu sau lần nhát đảm, thánh nhân đã không khiêm nhượng và dũng cảm làm lại, có lẽ giờ đây chúng ta không có những kho tàng lời giảng và việc làm của Chúa Giêsu để thường xuyên suy gẫm, và nhiều người, nếu không nhờ ngài, chắc cũng chẳng bao giờ biết được Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ của nhân loại.

Sứ mạng của thánh Marcô - cũng như của các Tông Đồ, của các nhà truyền giáo, của các tín hữu tốt lành luôn ra sức sống đúng với ơn gọi của mình - chắc chắn không phải là một sứ mạng dễ dàng. Chúng ta biết ngài đã chịu tử đạo. Ắt hẳn thánh nhân đã trải qua kinh nghiệm chịu bách hại, mệt mỏi, và hiểm nguy trong việc theo bước Chúa.

Chúng ta hãy cám tạ Thiên Chúa, cũng như các tín hữu thời các Tông Đồ, vì sức mạnh và niềm vui Chúa Kitô đã được truyền lại đến ngày nay cho chúng ta. Mọi thế hệ Kitô hữu, mọi cá nhân đều được mời gọi lãnh nhận sứ điệp Phúc Âm và truyền thụ lại cho người khác. Ơn Chúa không bao giờ thiếu: Non est abbreviata manus Domini – Cánh tay Chúa không bị thu ngắn.12 Người tín hữu biết Chúa đã thực hiện các phép lạ từ nhiều thế kỷ trước kia, và hiện nay Người vẫn đang thực hiện.13 Với ơn Chúa giúp, mỗi người chúng ta cũng sẽ thực hiện những phép lạ nơi tâm hồn thân nhân, bạn bè, và những người quen biết, nếu chúng ta sống trong mối kết hợp với Chúa Kitô qua lời cầu nguyện.

(Trích ‘dongcong.net’)

 

 

SUY NIỆM

Bản văn Tin Mừng có thể chia làm ba phần như sau:

(A) Nghe lời chứng (c. 9-13)

(B) Kinh nghiệm gặp gỡ Đức Ki-tô phục sinh (c. 14)

(A’) Đi làm chứng (c. 15-18)

1. Nghe lời chứng (c. 9-13)

Chúng ta hãy lắng nghe và đi vào tâm tình của những người đã từng sống với Đức Giê-su đang buồn bã khóc lóc (x. Mc 16, 9). Chắc chắn, Đức Ki-tô phục sinh cũng cảm thông với họ, như đã cảm thông với bà Maria Magdala và hai môn đệ trên đường Emmau.

Nhưng tại sao họ lại buồn bã khóc lóc ? Giống như bà Maria và hai môn đệ trước khi gặp gỡ Đức Ki-tô phục sinh, họ chỉ nhìn vào các biến một cách khách quan và cục bộ : là chết rồi, là thất bại, là ngõ cụt, là thất vọng, là không khởi đi từ đâu và cũng không dẫn tới đâu. Vì thế, họ buồn rầu khóc lóc, không thấy hướng đi, ý nghĩa cuộc đời, “ngũ quan” khép kín, bị ngăn chặn không nhớ lại ơn huệ sáng tạo, lịch sử cứu độ và nhất là không nhớ lại lời dạy của Đức Giê-su về mầu nhiệm Vượt Qua; vì không nhớ lại, nên họ cũng không thể mở ra với lời chứng của các chứng nhân, với sự hiện diện vô hình của Đấng Phục Sinh, với sự sống sau sự chết.

Chúng ta hãy lắng nghe các chứng nhân chia sẻ kinh nghiệm gặp gỡ Đức Ki-tô phục sinh, với tất cả niềm xác tín, niềm vui và niềm hi vọng. Chúng ta có thể nhớ lại kinh nghiệm cầu nguyện của chúng ta với hai biến cố :

– Biến cố Đức Ki-tô phục sinh tỏ mình ra cho bà Maria Magdala (Mc 19, 9)

– Biến cố Đức Ki-tô phục sinh tỏ mình ra cho môn đệ trên đường Emmau (Mc 16, 12).

Chúng ta hãy lắng nghe và đi vào tâm tình của các chứng nhân chia sẻ kinh nghiệm gặp gỡ Đức Ki-tô phục sinh : hai môn đệ đã chia sẻ với tất cả niềm xác tín và niềm vui như thế nào ? Và các ông đã ước ao thông truyền kinh nghiệm của mình như thế nào ? Nhưng rốt cuộc, các ông đã “hụt hẫng” như thế nào, khi những người nghe không tiếp nhận chứng từ của họ ? Và chúng ta đã có kinh nghiệm làm chứng nhân chưa ? Phải chuẩn bị mình thế nào để làm chứng ; và khi người nghe không tin, lúc đó, sẽ phải phản ứng ra sao ? Chúng ta có thể tự hỏi tại sao những người nghe lại không tin ?

Các môn đệ đóng kín cửa phòng, hình ảnh của việc đóng kín tâm hồn, không chịu ra khỏi mình để nhớ lại lời loan báo của Đức Ki-tô, và nhất là lời loan báo của Kinh Thánh, và đọc các biến cố Đức Ki-tô và những biến cố liên quan đến đời mình dưới ánh sáng của lời Kinh Thánh. Đức tin và ơn gọi của chúng ta dựa trên lời chứng của Giáo Hội và của rất nhiều người xa gần. Chúng ta đã từng ở trong tình trạng không tin như thế chưa ?

2. Đích thân gặp gỡ Đức Ki-tô phục sinh (c. 14)

Đức Giê-su tỏ mình ra đang khi các ông dùng bữa. Tại sao Đức Giê-su lại chọn lúc này, chứ không vào lúc khác, chẳng hạn đang cầu nguyện, đang hội họp, hay như chúng ta, đang đọc kinh hay chầu Thánh Thể ? Lắng nghe lời khiển trách của Đức Giê-su : không tin và cứng lòng, đối với các chứng nhân.

Sau cùng, Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy. (c. 14)

Chúa coi trọng việc chúng ta làm chứng cho nhau biết bao : lời của của người khác dành cho chúng ta, lời chứng của chúng ta dành cho người khác. Tại sao Chúa coi trọng lời chứng như thế ? Đức Ki-tô mời gọi chúng ta, trước khi trở thành chứng nhân, chúng ta được mời gọi mở lòng ra để lắng nghe các chứng nhân. Và điều này phải làm chúng ta ngặc nhiên : kinh nghiệm này cũng phải có, ngay cả đối với các tông đồ, vốn là các chứng nhân ưu tuyển ! Thật vậy, trước khi trở thành chứng nhân, chính các tông đồ cũng đã phải trải qua kinh nghiệm lắng nghe các chứng nhân khác, vốn đã được ban ơn nhận ra Đức Ki-tô phục sinh trước. Đó là chứng từ của bà Maria Magdala (Mc 16, 11 và Ga 20, 18), chính vì thế bà được Truyền Thống Giáo Hội tặng ban tước hiệu “Tông đồ của các Tông Đồ” ; và đó cũng là chứng từ của hai môn đệ từ Emmau trở về :

Bấy giờ, hai môn đệ từ Emmau trở về, thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh. (Lc 24, 35)

Tuy nhiên, để trở thành chứng nhân, lắng nghe lời chứng vẫn chưa đủ, bởi vì đó mới chỉ là lời mời gọi hướng đến, chứ không thay thế được, kinh nghiệm đích thân nhận ra sự hiện diện sống động của Đức Ki-tô phục sinh ; nhưng niềm tin mà chúng ta đặt để lời chứng của các chứng nhân là điều kiện không thể thiếu dẫn chúng ta đi vào kinh nghiệm đích thân gặp gỡ Đấng Phục Sinh.

3. Đi làm chứng (c. 15-18)

Đức Ki-tô phục sinh vẫn tin tưởng các môn đệ của mình, ngang qua việc trao sứ mạng. Chúng ta hãy dừng lại suy gẫm từng lời của Đức Ki-tô:

– “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. Như thế, Tin Mừng của Đức Giê-su Ki-tô có tầm mức sáng tạo, bởi vì sứ điệp của Tin Mừng và sứ điệp của sáng tạo là một, vì cả hai đều có cùng một nguồn gốc là Ngôi Lời Thiên Chúa. Để hiểu điều này chúng ta có thể đọc Rm 10, 18 dưới ánh sáng của Tv 19, 5.

– “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án”. Khi không tin, người ta đã tự kết án chính mình, như Đức Giê-su nói trong Tin Mừng theo thánh Gio-an : “kẻ không tin, thì bị kết án rồi” (Ga 3, 18). Và thực tế cuộc sống cho thấy, khi không tin vào sự sống, người ta sẽ chẳng mấy chốc làm việc cho sự chết, sống cho sự chết và thuộc về sự chết, bởi vì đối với họ chết là mạnh nhất, là cùng đích. Ngược lại, lòng tin mang lại cứu độ, như Đức Giê-su hay tuyên bố : “lòng tin của con đã cứu con”.

– “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.”

Thế hệ đầu tiên đã được ơn đặc biệt như thế, để khai sinh ra Giáo Hội. Còn chúng ta, những ơn này bây giờ vẫn được ban, nhưng dưới những hình thức khác, tuy không ngoạn mục, nhưng sâu xa và bền vững hơn :

– Nhận định thần loại, nghĩa là phân biệt và nhận ra cách hành động của Chúa và các hành động của Sự Dữ, dưới ánh sáng của Lời Chúa, và nhất là ngôi vị của Đức Ki-tô trong mầu nhiệm Vượt Qua.

– Thông truyền đức tin và kinh nghiệm, cho dù có rất nhiều khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa… (kinh nghiệm của các nhà truyền giáo)

– Con rắn, thuốc độc, biểu tượng của sự dữ và bạo lực. Chúng ta có thể chiến thắng nhờ Thập Giá Đức Ki-tô ; như lời Tv 8 : “Chúa cho miệng con thơ trẻ nhỏ, cất tiếng ngợi khen đối lại địch thù, khiến kẻ thù quân nghịch phải tiêu tan”.

– Hiện diện, quan tâm chăm sóc bệnh nhân, là điều không thể thiếu bên cạnh các biện pháp chữa trị y khoa, và sẽ là điều còn lại sau cùng giúp người bệnh tín thác vào tình yêu Thiên Chúa ngay trong thử thách bệnh tật và sự chết.

Nhưng trên hết là, chúng ta được mời gọi thi hành sứ mạng “nhân danh Đức Ki-tô”, chúng ta chỉ là tôi tớ, là nữ tì ; và vì thế, phải để cho Chúa hành động.

Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

 

 

Suy niệm Lời Chúa mỗi ngày Song ngữ
Hãy đi khắp thế giới và rao giảng Tin Mừng cho toàn thể thụ tạo

 

Wednesday (April 25): “Go and preach the Gospel to the whole creation”

 

Scripture: Mark 16:15-20

15 And he said to them, “Go into all the world and preach the Gospel to the whole creation. 16 He who believes and is baptized will be saved; but he who does not believe will be condemned. 17 And these signs will accompany those who believe: in my name they will cast out demons; they will speak in new tongues; 18 they will pick up serpents, and if they drink any deadly thing, it will not hurt them; they will lay their hands on the sick, and they will  recover.” 19 So then the Lord Jesus, after he had spoken to them, was taken up into heaven, and sat down at the right hand of God. 20 And they went forth and preached everywhere, while the Lord worked with them and confirmed the message by the signs that attended it. Amen.

Thứ Tư     25-4    Hãy đi khắp thế giới và rao giảng Tin Mừng cho toàn thể thụ tạo

 

Mc 16,15-20

15 Người nói với các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.16 Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án.17 Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ.18 Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.”19 Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.20 Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.

Meditation:  In many churches in the East and West, Mark the Evangelist is honored today. Each of the four Gospel accounts gives us a portrait of Jesus, his life, teaching, mission, and his death and resurrection. Each is different in style, length, and emphasis. But they all have a common thread and purpose – the proclamation of the good news of Jesus Christ, the Savior of the world. Among the four Gospels, Mark’s account is unique in many ways. It is the shortest account and seems to be the earliest. Mark the Evangelist was an associate of the apostle Peter and likely wrote his Gospel in Rome where Peter was based. Mark wrote it in Greek. It was likely written for Gentile (non-Jewish) readers in general, and for the Christians at Rome in particular. 

 

It is significant that Mark, as well as Luke, was chosen by the Holy Spirit to write the Gospel account even though he wasn’t one of the twelve apostles. Augustine of Hippo, explains: “The Holy Spirit willed to choose for the writing of the Gospel two [Mark and Luke] who were not even from those who made up the Twelve [Apostles], so that it might not be thought that the grace of evangelization had come only to the apostles and that in them the fountain of grace had dried up” (Sermon 239.1).

All must hear the Gospel of Jesus Christ until he comes again

Mark ends his Gospel account with Jesus’ last appearance to the apostles before his ascension into heaven. Jesus’ departure and ascension was both an end and a beginning for his disciples. While it was the end of Jesus’ physical presence with his beloved disciples, it marked the beginning of Jesus’ presence with them in a new way. Jesus promised that he would be with them always to the end of time. Now as the glorified and risen Lord and Savior, ascended to the right hand of the Father in heaven, Jesus promised to send them the Holy Spirit who would anoint them with power on the Feast of Pentecost, just as Jesus was anointed for his ministry at the River Jordan. When the Lord Jesus departed physically from the apostles, they were not left in sorrow or grief. Instead, they were filled with joy and with great anticipation for the coming of the Holy Spirit.

Jesus’ last words to his apostles point to his saving mission and to their mission to be witnesses of his atoning death for sin and his glorious resurrection to new life for all who will believe in Jesus, God’s beloved Son. Their task is to proclaim the good news of salvation, not only to the people of Israel, but to all the nations. God’s love and gift of salvation is not just for a few, or for a nation, but it is for the whole world – for all who will accept it. The Gospel is the power of God, the power to forgive sins, to heal, to deliver from evil and oppression, and to restore life. Do you believe in the power of the Gospel?

 

Christ calls every believer to be his ambassador of Good News (the Gospel message)

This is the great commission which the risen Christ gives to the whole church – the people of God. All believers have been given a share in this task – to be heralds of the good news (the Gospel message) and ambassadors for Jesus Christ, the only savior of the world. We have not been left alone in this task, for the risen Lord works in and through us by the power of his Holy Spirit. Today we witness a new Pentecost as the Lord pours out his Holy Spirit upon his people to renew and strengthen the body of Christ and to equip it for effective ministry and mission world-wide. Do you witness to others the joy of the Gospel and the hope of the resurrection?

“Lord Jesus, through the gift of your Holy Spirit, you fill us with an indomitable spirit of praise and joy which no earthly trial can subdue. Fill me with your resurrection joy and help me to live a life of praise and thanksgiving for your glory. May I witness to those around me the joy of the Gospel and the reality of your victory over the grave and gift of everlasting life.”

Suy niệm: Ngày nay, trong nhiều thánh đường ở Tây và Đông Phương, thánh sử Máccô được người ta tôn kính. Mỗi câu chuyện torng bốn Tin mừng cho chúng ta chân dung của Đức Giêsu, cuộc đời, sứ mạng, và việc giảng dạy của của Ngài. Mỗi câu chuyện đều khác biệt trong phong cách, tình tiết và điểm nhấn. Nhưng tất cả đều có chung một sợi chỉ và một mục đích – loan báo Tin mừng của Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế. Trong bốn Tin mừng, Tin mừng của Máccô là kỳ lạ trong nhiều cách. Nó là Tin mừng ngắn nhất và xem ra có sớm nhất. Thánh sử Máccô là người cộng sự của Phêrô và xem ra đã viết Tin mừng của mình ở Rôma, nơi Phêrô ở. Máccô viết nó bằng tiếng Hylạp. Có lẽ nó được viết cho các độc giả dân ngoại (không phải Dothái) nói chung, và cho các tín hữu ở Rôma nói riêng.

 

 

Có dấu hiệu chứng tỏ rằng Máccô, cũng như Luca, được Chúa Thánh Thần tuyển chọn để viết Tin mừng, mặc dù ngài không phải là một trong số 12 tông đồ. Thánh Augustine thành Hippo giải thích: “Chúa Thánh Thần đã muốn chọn hai người (Máccô và Luca) cho việc viết sách Tin mừng, thậm chí họ không từ nhóm 12, để không ai nghĩ rằng ơn sủng loan báo Tin mừng không chỉ đến với các tông đồ, và nơi các ngài, nguồn mạch ơn sủng đã khô cạn” (bài giảng 239.1).

Tất cả mọi người phải nghe Tin mừng của Đức Giêsu Kitô cho tới khi Người lại đến

Máccô kết thúc Tin mừng của mình với sự xuất hiện cuối cùng của Đức Giêsu với các tông đồ trước khi Ngài về trời. Sự ra đi và lên trời của Đức Giêsu, cả hai đều là sự kết thúc và là sự khởi đầu cho các môn đệ. Trong khi nó là sự kết thúc của sự hiện diện hữu hình của Đức Giêsu với các môn đệ yêu dấu, nó lại đánh dấu sự khởi đầu của sự hiện diện của Đức Giêsu với họ trong một cách thức mới mẻ. Đức Giêsu hứa rằng Người sẽ ở với họ cho tới ngày tận thế. Giờ đây, với tư cách là Đức Chúa và Đấng cứu thế đã vinh quang và phục sinh, đã ngự bên hữu Chúa Cha trên Thiên đàng, Đức Giêsu hứa sẽ gởi Thánh Thần đến với họ, Đấng sẽ xức dầu tấn phong họ với sức mạnh vào ngày Lễ Ngũ Tuần, cũng như Đức Giêsu được xức dầu tấn phong cho sứ mệnh của mình ở sông Giođan. Khi Đức Giêsu rời khỏi các tông đồ cách hữu hình, họ không còn buồn phiền hay đau khổ nữa. Thay vào đó, họ tràn đầy niềm vui và tích cực tham dự vào việc Chúa Thánh Thần ngự đến.

Những lời cuối cùng của Đức Giêsu với các môn đệ nói tới sứ mệnh cứu độ của Người và sứ mệnh làm chứng tá của họ về sự chết cứu chuộc và việc phục sinh vinh quang và công bố Tin mừng cứu độ cho toàn thể thế giới. Công việc của họ là loan truyền Tin mừng cứu độ, không chỉ riêng cho người Israel, nhưng cho tất cả toàn thế giới. Tình yêu Thiên Chúa và ơn cứu độ không chỉ dành riêng cho một số ít người, không chỉ cho một quốc gia, nhưng cho toàn thể thế giới – cho tất cả những ai đón nhận Tin mừng. Tin mừng là quyền năng của Thiên Chúa, quyền năng tha thứ tội lỗi, chữa lành, giải thoát khỏi sự dữ và áp lực, và phục hồi sự sống. Bạn có tin tưởng vào sức mạnh của Tin mừng không?

Đức Kitô mời gọi mọi tín hữu trở nên sứ giả Tin mừng của Người (sứ điệp Tin mừng)

Đây là nhiệm vụ cao cả mà Đức Giêsu Kitô phục sinh ban cho toàn thể Giáo hội. Tất cả các tín hữu đều được chia sẻ sứ mạng này – trở thành những sứ giả của Tin mừng (sứ điệp Tin mừng) và đại diện cho Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ duy nhất của thế giới. Chúng ta không bị đơn chiếc trong nhiệm vụ này, vì Chúa phục sinh cùng làm việc trong và qua chúng ta bởi quyền năng của Thánh Thần. Ngày nay, chúng ta làm chứng một lễ Hiện xuống mới khi Thiên Chúa đỗ Thánh Thần Chúa xuống trên dân Người để canh tân và củng cố thân thể của Đức Giêsu Kitô, và để trang bị cho nó về mục vụ và sứ mệnh hiệu quả cho các quốc gia và các dân tộc. Bạn có làm chứng cho người khác về niềm vui Tin mừng và niềm hy vọng phục sinh không?

Lạy Chúa Giêsu, qua hồng ân Chúa Thánh Thần, Chúa lấp đầy lòng con một tinh thần ca ngợi và vui mừng bất khuất, mà không có thử thách trên trần gian này có thể khuất phục được. Xin Chúa lấp đầy lòng con niềm vui phục sinh của Chúa, và xin giúp con sống cuộc đời ca ngợi và cảm tạ cho vinh quang của Chúa. Chớ gì con làm chứng cho những người sống xung quanh con về niềm vui Tin mừng và thực tại sự phục sinh của Chúa.”

Tác giả: Don Schwager
(http://dailyscripture.servantsoftheword.org/readings/)
Bro. Paul Thanh Vu – chuyển ngữ

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận