Thánh Âu-tinh, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh.

Đăng lúc: Thứ hai - 28/08/2017 01:25 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

 

Thánh Âu-tinh, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.

"Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ dẫn đường đui mù".

 

Thánh nhân sinh năm 354 tại Ta-gát, châu Phi. Người đã trải qua giai đoạn thanh xuân đầy náo động cả về đạo lý lẫn cách sống cho tới khi được thánh Am-rô-xi-ô thanh tẩy cho năm 387.

Người trở về quê hương và sống một cuộc đời khắc khổ. Rồi người được chọn làm giám mục giáo phận Híp-pôn.

Trong suốt ba mươi bốn năm làm giám mục, người đã tận tụy chăm sóc đoàn chiên. Nhưng đáng kể nhất là tư tưởng và chứng tá đời sống của người đã lan tỏa. Người đã sống một cuộc đời hoàn toàn lo tìm kiếm Thiên Chúa và phục vụ Hội Thánh. Đối với người, Hội Thánh là cộng đoàn tín hữu Híp-pôn và đồng thời cũng là Thân Thể Chúa Kitô trải rộng khắp thế giới. Người qua đời năm 430.

 

Lời Chúa: Mt 23, 13-22

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đóng cửa nước trời không cho người ta vào: vì các ngươi không vào, mà kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào.

"Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đọc kinh cho dài để nuốt tài sản của các bà goá, bởi thế, các ngươi sẽ chịu phán xét nặng hơn.

"Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi rảo khắp biển khơi và lục địa, để tìm cho được một người tòng giáo, nhưng khi đã cho người đó tòng giáo, các ngươi làm cho nó trở thành con cái hoả ngục gấp hai lần các ngươi.

"Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ dẫn đường đui mù! Vì các ngươi nói rằng: Ai lấy đền thờ mà thề, thì không có giá trị gì, nhưng ai lấy vàng trong đền thờ mà thề, thì mắc lời thề. Hỡi kẻ ngu ngốc và đui mù, chớ thì vàng hay là đền thờ thánh hoá vàng, cái nào trọng hơn? Các ngươi còn bảo rằng: Ai lấy bàn thờ mà thề, thì không giá trị gì, nhưng ai lấy của lễ để trên bàn thờ mà thề, thì mắc lời thề. Hỡi những kẻ đui mù, chớ thì của lễ hay là bàn thờ thánh hoá của lễ, cái nào trọng hơn?

"Vậy ai lấy bàn thờ mà thề, thì lấy cả bàn thờ và mọi sự để trên bàn thờ mà thề. Kẻ nào lấy đền thờ mà thề, thì lấy cả đền thờ và Ðấng ngự trong đền thờ mà thề. Và kẻ nào lấy trời mà thề, thì lấy ngai toà Thiên Chúa và Ðấng ngự trên ngai toà ấy mà thề".

 

 

 

SUY NIỆM 1: Kết Án Tội Mù Quáng

Toàn chương 23 Phúc Âm thánh Mátthêu ghi lại những lời kết án của Chúa Giêsu đối với các Luật sĩ và Biệt phái. Nhưng trước khi công bố 7 lời kết án đó, tác giả Mátthêu ghi lại nhận định chung của Chúa Giêsu (c.1-12). Chúa Giêsu, Ngài đề ra luật sống mới cho tất cả những ai muốn theo Ngài, Ngài là vị thầy duy nhất thay thế Môsê và các vị thầy nhân loại khác, Ngài muốn cho các môn đệ đừng rơi vào thái độ của những Luật sĩ và Biệt phái: mù quáng, giả hình, vụ hình thức, chú trọng đến cái phụ thuộc mà bỏ quên giáo lý làm linh hồn cho những hình thức bên ngoài.

Ba lời lên án của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay có cùng một điểm chung là sự mù quáng. Vì mù quáng, các Luật sĩ và Biệt phái chẳng những không được vào Nước Trời, mà còn cản trở những ai muốn vào đó; vì mù quáng, họ chỉ muốn khoe khoang lòng nhiệt thành tông đồ của họ, chứ không thực sự nhằm đến ơn cứu rỗi của những người họ muốn đưa về cùng Chúa; vì mù quáng, họ thay đổi luật Chúa theo ý riêng để có lợi cho cá nhân, chứ không thực sự màng đến luật Chúa.

Ðó là ba lời kết án của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã tự ví mình như người chăn chiên nhân lành đi tìm chiên lạc, như thầy thuốc cần cho bệnh nhân, như một Vị Thiên Chúa quyền năng sẵn sàng tha thứ và giải phóng con người tội lỗi. Thế nhưng, Ngài đã không sợ đưa ra những lời kết án mạnh mẽ, thẳng thắn: "Khốn cho các ngươi", không phải vì Ngài không còn lòng nhân từ và tha thứ, nhưng vì sự cứng lòng chai đá của con người đã đến mức tột cùng; không hoán cải khỏi thái độ giả hình, mù quáng, lạm dụng tôn giáo, con người không thể hưởng được tình yêu thương nhân từ của Thiên Chúa.

Ước gì Lời Chúa hôm nay thức tỉnh chúng ta khỏi thái độ mù quáng, khép kín, tư lợi, và cho chúng ta biết sống khiêm tốn, chân thành trước mặt Chúa và đối với anh em, để chúng ta xứng đáng hưởng chúc lành của Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 2: Lắng Nghe Tiếng Nói Của Lương Tri (Mt 23,13-22)

Những lời "khốn cho các ngươi" được lập lại nhiều lần tương ứng với những điều chướng tai gai mắt cũng là những tội của các kinh sư và biệt phái. Họ đã cố tình làm những điều phi lý, khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào, nuốt hết tài sản của các bà góa, rảo khắp các biển cả đất liền rủ cho được một người theo đạo, nhưng khi họ theo rồi thì lại làm cho họ đáng xuống hỏa ngục hơn. Chúa Giêsu đã gọi các kinh sư và biệt phái là những người sống mù quáng. Ðiều đáng nói ở đây là các kinh sư và biệt phái cố tình chia lìa trong lỗi lầm của mình, họ thích danh vọng và chạy theo những bả vinh hoa, vì vậy họ cố gắng tìm mọi cách để đạt đến nó bằng bất cứ cách nào. Có thể nói đây là những người chủ trương lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện. Cứu cánh của họ đã không công minh, chính trực và phương tiện lại còn đê hèn hơn, nên họ đã lợi dụng những dân đen, là những người thấp cổ bé họng, không có khả năng tự bảo vệ mình.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy lắng nghe tiếng nói của lương tri, là lời của Chúa muốn dạy chúng ta cách cụ thể trong từng trường hợp của đời sống ta.

Lạy Chúa,

Xin Chúa ban cho mỗi chúng con luôn biết xa tránh những điều xấu xa và tìm đến nguồn mạch ân sủng là Lời Chúa, nhờ đó lương tâm của chúng con mãi trong sáng để rọi lên hình ảnh sống động của Chúa và thánh ý Ngài trong mỗi giây phút của cuộc sống chúng con.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 3: Khốn cho kẻ giả hình.

Đức Giêsu nói: “Khốn cho các ngươi, những kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! các ngươi khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng không để họ vào.” (Mt. 23, 13)

Nếu có ai hỏi sao một người hiền lành, dịu ngọt nhất như Đức Giêsu lại có những lời như xẻ cưa, lửa đốt như vậy trong Tin Mừng của Người khi Người khiển trách những kẻ giả hình và những kẻ làm gương mù? Vì lợi ích tương lai của công trình Người, Người phải lột mặt nạ tập đoàn kinh sư lợi dụng quyền thế tách rời Người ra khỏi những người thường dân bé nhỏ. Hôm nay, Người nói rõ sự thật về họ một cách trịnh trọng:

Những kẻ giả hình xưa:

Tiếng kêu: “Khốn cho” kẻ giả hình, họ giả hình vì chỉ thực hành những nghi thức tôn giáo hoàn toàn hình thức bên ngoài, khác xa với lòng đạo đức chân thực sống động bên trong con người. Kẻ giả hình luôn lợi dụng việc thờ phượng Thiên Chúa hằng sống để thượng tôn pháp luật và nghi lễ bên ngoài một cách xảo quyệt. Chính ra việc phụng sự Thiên Chúa phải thành thực và sống động bởi lòng yêu mến chân chính.

Những lời khiển trách của Chúa còn tới chúng ta ngày nay không?

Kẻ giả hình ngày nay.

Chúng ta có là kẻ giả hình không? Không nên khóc thương những kẻ giả hình khốn khổ xưa, cũng không xét đoán ai. Nhưng chính mình chúng ta có sống chân thật không? Trong đời sống chúng ta? trong lúc hành đạo? có thể chúng ta có nhiều thái độ giả hình được biện minh nhân danh phục vụ, cần cho hợp thời dựa vào sự đổi mới của Công đồng Va-ti-can 2 hay liệng bỏ lời Giáo Hội là Thầy dạy.

Chúng ta giầu và phong phú lắm. Phải, đúng là chúng ta rất phong phú về lễ nghi. Nhưng chúng ta có biết tự hạ mình xuống giúp những kẻ không có gì chăng? có lẽ chúng ta cầu nguyện nhiều, nhưng có vừa đủ để cho người khác cầu nguyện không? và có khi họ cầu nguyện còn thành thực hơn chúng ta nhiều.

Cs

 

Suy niệm 4:

Trong Bài Giảng trên núi, Đức Giêsu đã nói đến Các Mối Phúc. 
Ngài chúc mừng những ai thuộc về Nước Trời bằng các lời Phúc cho. 
Còn trong chương 23 của Tin Mừng Mátthêu, 
Đức Giêsu lại 7 lần dùng lối nói Khốn cho, 
khi nói với giới lãnh đạo Do Thái giáo là các kinh sư và nhóm Pharisêu. 
Đức Giêsu không phải là người đầu tiên dùng lối nói khó chịu này. 
Các ngôn sứ thời xưa như Amốt hay Isaia (Am 6, 1; Is 5, 8-24) 
cũng đã lắm khi dùng lối nói này để tố cáo những người quyền thế. 
Mục đích của các ngôn sứ là vạch trần những sai phạm của họ, 
và cảnh báo cho mọi người biết mà tránh xa. 
Đức Giêsu đã nói như một vị ngôn sứ. 
Khi nói khốn cho, Ngài không có ý nguyền rủa hay kết án ai, 
cho bằng nói lên sự đau xót, thậm chí giận dữ đến độ trách phạt. 
“Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin! khốn cho ngươi, hỡi Bétsaiđa!” 
Đức Giêsu đã nói như thế với các thành phố từ chối Ngài (Mt 11, 21). 
“Khốn cho kẻ nào nộp Con Người, thà nó đừng sinh ra thì hơn” (Mt 26, 24). 
Đây không phải là một lời chúc dữ cho Giuđa, 
hay kết án anh phải đời đời hư mất. 
Đúng hơn đây diễn tả một tiếc nuối xót xa về tội của người môn đệ. 
Vào thời thánh Mátthêu viết sách Tin Mừng, từ sau năm 70, 
có một sự xung đột nghiêm trọng giữa các Kitô hữu gốc Do Thái 
với những nhà lãnh đạo Do Thái giáo lúc bấy giờ. 
Bài Tin Mừng hôm nay phản ánh sự căng thẳng đó. 
Các vị kinh sư và những người pharisêu đầy quyền lực 
không muốn đồng bào của mình tin vào một ông Giêsu bị đóng đinh. 
Ai tin sẽ bị trục xuất khỏi hội đường (x. Ga 9, 22). 
Như thế họ đã khóa cửa Nước Trời để chẳng ai vào được, kể cả họ (c. 13). 
Các vị kinh sư và nhóm Pharisêu hăng say trong việc truyền giáo. 
Họ muốn làm cho dân ngoại trở thành Dân Chúa. 
Tiếc thay, sau khi đã vào đạo rồi, những người tân tòng này 
có thể trở nên cứng nhắc vì nệ luật, và rơi vào thói giả hình. 
Họ “trở thành con cái của hỏa ngục gấp đôi các ông” (c. 15). 
Đức Giêsu cũng tố cáo sự phân biệt quá chi li về giá trị những lời thề. 
Đối với Ngài, thề nhân danh Đền thờ hay vàng trong Đền thờ, 
nhân danh bàn thờ hay lễ vật trên bàn thờ (cc. 16-20), 
thì cũng chẳng khác gì thề nhân danh chính Thiên Chúa (cc. 21-22). 
Tất cả lời thề đều phải được giữ như nhau, đều ràng buộc như nhau. 
Những lời tố giác của Đức Giêsu đối với giới lãnh đạo Do Thái giáo 
vẫn đặt câu hỏi cho chúng ta thời nay. 
Làm sao để tôn giáo mở đường cho con người gặp gỡ Thiên Chúa, 
chứ không khép lại hay gây cản trở? 
Làm sao để người tân tòng thực sự trở thành con cái Nước Trời? 
Làm sao để chúng ta khỏi sa vào những chi li thái quá của luật lệ? 
Những lời của Đức Giêsu mời gọi chúng ta nhìn lại mình và thay đổi. 

Cầu nguyện :

Lạy Chúa Giêsu, 
khi đến với nhau, 
chúng con thường mang những mặt nạ. 
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình. 
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt 
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối. 
Khi đến với Chúa, 
chúng con cũng thường mang mặt nạ. 
Có những hành vi đạo đức bên ngoài 
để che giấu cái trống rỗng bên trong. 
Có những lời kinh đọc trên môi, 
nhưng không có chỗ trong tâm hồn, 
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế. 
Lạy Chúa Giêsu, 
chúng con cũng thường ngắm mình trong gương, 
tự ru ngủ và đánh lừa mình, 
mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn. 
Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ, 
đã ăn sâu vào da thịt chúng con, 
để chúng con thôi đánh lừa nhau, 
đánh lừa Chúa và chính mình. 
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành, 
để chúng con được lớn lên trong bình an. 

 

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

 

SUY NIỆM:

1. “Khốn cho các ngươi”

Trong chương 23 của sách Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, Đức Giê-su nói tới bảy lần “Khốn cho các ngươi…” (c. 13.15.16.23.27 và 29): bài Tin Mừng hôm qua ba lần, bài Tin Mừng hôm nay hai lần và bài Tin Mừng ngày mai hai lần còn lại.

Khi nói “khốn cho các người”, Đức Giê-su có vẻ rất nặng lời, nếu chúng ta hiểu đó lời chúc dữ hay nguyền rủa, theo đó những người này, với cách hành xử như thế, sẽ chuốc lấy án phạt nặng nề hay sẽ gặp nhiều tai họa. Tuy nhiên, đó đúng hơn là những lời ta thán, có giá trị mặc khải căn bệnh người ta đang có nhưng không nhận ra; và bệnh tình tự nó đó có những hậu quả tiêu cực cho mình và cho người khác rồi. Tương tự như những “bất hạnh” mà ngôn sứ Isaia đã công bố (x. Is 5, 8-24 và 10, 1-11, trong những câu này, vị ngôn sứ nói “Than ơi!” đến 8 lần). Đức Giê-su không bao giờ nguyền rủa hay chúc dữ con người; bởi lẽ sứ mạng của Người chẳng phải là cứu thoát chúng ta khỏi những lời chúc dữ đó sao? Như Người đã nói: “Thầy đến không phải kêu gọi những người công chính, nhưng là những người tội lỗi” (9, 13)?

Con người ban đầu có thể từ chối Đức Giê-su, nhưng sau đó, lại hối hận, cho dù là thật trễ, và tuyên xưng: “Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa” (c. 39); tương tự như người con thứ nhất ban đầu từ chối lời mời gọi đi làm vườn nho, trong dụ ngôn người cha có hai người con, “nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi” (Mt 21, 29). Trong lời nói của các ngôn sứ, nếu lời hứa cứu độ đã được công bố tiếp theo sau những lời đe dọa về những tai họa sẽ đến (Os 2, 8.11.16 hoặc Is 6, 13), thì cũng vậy, trong sách Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, câu cuối cùng này của chương 23: “Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa” trồi hiện lên như là niềm hi vọng rạng ngời bao bọc toàn bộ bảy lời than trách.

2. Bệnh “đạo đức giả”

Trong bẩy câu nói “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu”, Đức Giê-su đều nói rằng, họ những người “đạo đức giả”, trừ lần thứ ba (c. 6):
Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu đạo đức giả!
Có thể nói, đó là bệnh “đạo đức giả” mà Đức Giê-su muốn cho các kinh sư và người Pha-ri-sêu, và qua họ, cho con người thuộc mọi thời, trong đó có mỗi người chúng ta hôm nay, nhận ra. Và khi nhận ra, người ta đã bắt đầu bước vào hành trình chữa lành rồi.

“Đạo đức giả” mà Đức Giê-su nói tới không theo nghĩa chúng ta thường hiểu, nhưng là một thứ bệnh có nhiều biểu hiện phức tạp, khó nhận ra:
Biểu hiện thứ nhất. Đức Giê-su nói: “Các ngươi khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào” (c. 13). Người “đạo đức giả” là những người làm cho người khác không nhận ra hành động của Thiên Chúa trong lịch sử loài người và trong lịch sử đời mình, đó là từ chối tin nhận Đức Giê-su là đường dẫn đưa con người đến với Thiên Chúa.

Biểu hiện thứ hai. Người “đạo đức giả” là những nhọc công để làm cho một người theo đạo, nhưng sau đó, lại biến người này thành “con cái của hỏa ngục” (c. 15). Đó là hoán cải con người, không phải về với Thiện Chúa đích thật, nhưng là qui về nhưng quan niệm, hệ thống lí thuyết và thực hành của loài người hay của riêng mình.

Biểu hiện thứ ba. Người “đạo đức giả” là những người mù quáng (c. 16-22), khi dẫn người ta vào con đường phân biệt chi li về vấn đề lời thề, khi mà bất cứ lời nào được thốt ra cũng phải luôn luôn là chân thật trước mặt Thiên Chúa (x. 5, 33-37).

Biểu hiện thứ tư. Những người “đạo đức giả” là những người làm tròn bổn phận nộp mọi thứ thuế, nhưng lại bỏ qua công lý và lòng nhân, nghĩa là tương quan với tha nhân, bỏ qua lòng thành tín, nghĩa là tương quan với Thiên Chúa. Như thế, họ chỉ làm tròn những bổn phận đem lại cho mình vinh quang, danh dự, tiếng tốt với nhưng người có quyền có thế. Trong khi tâm điểm và ý nghĩa của Lề Luật là mến Chúa và yêu người, thì họ không quan tâm. Sống lệ thuộc vào lời khen tiếng chê, như chúng ta đều biết, quả là một bất hạnh.

Biểu hiện thứ năm. Những người “đạo đức giả” là những người « rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ ». Đức Giê-su không chống lại những nghi thức thanh tẩy, nhưng chống lại thái độ duy nghi thức, chỉ dừng lại ở việc thanh tẩy bên ngoài, ở vẻ đẹp bên ngoài. Như thế, đối với Đức Giê-su, các nghi thức không tự động làm cho người trở nên thanh sạch ; nhưng ngược lại, những nghi thức này trở nên vô nghĩa và trống rỗng nếu không diễn tả sự thanh sạch và vẻ đẹp của tâm hồn, hay nói như Đức Giê-su, diễn tả một lối sống với Thiên Chúa và tha nhân.

3. Chữa lành

Qua những lời, có thể nói, thật “đắng” như thuốc chữa bệnh, Đức Giê-su muốn mặc khải cho những người Pha-ri-sêu và những nhà thông luật, rằng lối suy nghĩ và hành động của họ, là một thứ bệnh; và vì là bệnh, giống như bệnh thể lý, phải có người khám bệnh và cho biết đó là bệnh gì; ngoài ra, như chúng ta đều biết và đôi khi có kinh nghiệm, bệnh tật, tự nó là một bất hạnh. Hiểu theo nghĩa này, chúng ta có thể diễn đạt lại lời của Đức Giê-su như sau: “bất hạnh cho các người”. Nếu là như thế, ở mức độ nào đó, chúng ta cũng phải được đánh động bởi những lời này của Đức Giê-su, và nhất là để cho mình bị đụng chạm !

Nhưng Đức Giêsu, với tư cách là thầy thuốc, Ngài không chỉ chuẩn bệnh, nhưng con chữa bệnh. Ngài chữa lành căn bệnh của chúng ta không chỉ bằng lời mặc khải, nhưng còn bằng chính cách sống của Ngài với con người và Thiên Chúa Cha. Như con rắn đồng xưa (x. Ds 21, 4-9), ai nhìn lên Đấng chịu đóng đinh trên Thánh Giá, thì sẽ được chữa lành (x. Ga 3, 17-19):

  • Căn bệnh ghen tị: điều tốt, là Nước Trời và là chính ngôi vị Đức Giê-su, mình không có, thì người khác không được quyền có.
  • Căn bệnh coi mình, những kinh nghiệm, những quan niệm, những hệ tư tưởng, những lí thuyết, những nguyên tắc của mình là tuyệt đối.
  • Căn bệnh lệ luật, nghĩa là coi sự công chính của con người đến từ việc giữ luật thật chi li, thay vì đến từ tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, được thể hiện nơi Đức Giê-su Ki-tô; lệ luật còn là coi luật trọng hơn sự sống, trong khi luật được ban là để phục vụ cho sự sống.
  • Căn bệnh danh lợi, nghĩa là chỉ thi những luật mang lại cho mình vinh quang, danh dự, tiếng tốt với nhưng người có quyền có thế, nhưng lại bỏ qua công lý và lòng nhân.
  • Căn bệnh hình thức, nghĩa là thi hành thật chặt chẽ những nghi thức thanh tẩy, nhưng đàng khác, trong lòng « đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ » !

Thập Giá vừa làm cho những căn bệnh này hiện ra nguyên hình và những hậu quả khủng khiếp của chúng, và vừa mặc khải cho chúng ta khuôn mặt rạng người của Thiên Chúa là tình yêu và lòng thương xót, và con đường dẫn đến với Thiên Chúa, chính là con đường hiền lành và khiêm nhường của Đức Giê-su Ki-tô.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc

 

 

SUY NIỆM LỜI CHÚA MỖI NGÀY SONG NGỮ

 

Monday (August 28): Do not close the door to God’s kingdom

 

Scripture:  Matthew 23:13-22  

13 “But woe to you, scribes and Pharisees, hypocrites! because you shut the kingdom of heaven against men; for you neither enter yourselves, nor allow those who would enter to go in. 15 Woe to you, scribes and Pharisees, hypocrites! for you traverse sea and land to make a single proselyte, and when he becomes a proselyte, you  make him twice as much a child of hell as yourselves. 16 “Woe to you, blind guides, who say, `If any one swears by the temple, it is nothing; but if any one swears by the gold of the temple, he is  bound by his oath.’ 17 You blind fools! For which is greater, the gold or the temple that has made the gold sacred? 18 And you say, `If any one swears by the altar, it is nothing; but if any one swears by the gift that is on the altar, he is bound by his oath.’ 19 You blind men! For which is greater, the gift or the altar that makes the gift sacred? 20 So he who swears by the altar, swears by it and by everything on it; 21 and he who swears by the temple, swears by it and by him who dwells in it; 22 and he who swears by heaven, swears by the throne of God and by him who sits upon it.

Thứ Hai    28-8           Đừng đóng cửa trước vương quốc của Thiên Chúa  

 

Mt 23,13-22

13 “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người cũng không để họ vào. (14 Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ, cho nên các người sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn).15“Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người.16“Khốn cho các người, những kẻ dẫn đường mù quáng! Các người bảo: “Ai chỉ Đền Thờ mà thề, thì có thề cũng như không; còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc.”17 Đồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn?18Các người còn nói: “Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có thề cũng như không; nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề, thì bị ràng buộc.”19 Đồ mù quáng! Thế thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên của thánh, cái nào trọng hơn?20 Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề, là chỉ bàn thờ và mọi sự trên bàn thờ mà thề.21 Và ai chỉ Đền Thờ mà thề, là chỉ Đền Thờ và Đấng ngự ở đó mà thề.22Và ai chỉ trời mà thề, là chỉ ngai Thiên Chúa và cả Thiên Chúa ngự trên đó mà thề.

Meditation: When the Lord Jesus knocks on the door of your heart are you ready to answer and receive him (Revelations 3:20)? The Lord offers each one of us an open door to the kingdom of God, but we can shut ourselves out if we ignore or reject his offer. What is the door to the kingdom of heaven? When Jacob fled from his brother Essau, who wanted to kill him for stealing his birthright (Genesis 27:41), Jacob sought refuge in the wilderness. There God pursued him and gave him a vision that both changed his life and the life of his people. As Jacob slept on a star-lit hillside God showed him a great ladder or stairway that extended from earth to heaven. This stairway was filled with a multitude of angels ascending and descending before the throne of God. 

 

An open door to the throne of God

God opened heaven to Jacob, not only to give him a place of refuge and peace, but to offer him the blessing of dwelling in intimate friendship with the living God. God spoke to Jacob and renewed the promises which he had made to his grandfather Abraham and his father Isaac, and now to Jacob and his descendants. God promised not only to bless and protect Jacob, but to make him and his descendants a blessing to all the nations as well. When Jacob awoke he exclaimed:  “How awesome is this place! This is none other than the house of God and this is the gate of heaven” (Genesis 28:17). God opened a door for Jacob that brought him and his people into a new relationship with the living God.

Jesus is the door to God’s kingdom

Jesus proclaimed to his disciples that he came to fulfill the prophetic dream of Jacob in his very own person: “You will see heaven opened, and the angels of God ascending and descending upon the Son of man” (John 1:51). Jesus proclaimed that he is the door (John 10:8-9) and the way (John 14:6) that makes it possible for us to access heaven and God’s very throne. But Jesus woefully warned the religious leaders and successors of  Jacob that they were shutting the door of God’s kingdom not only on themselves but on others as well. The word woe expresses sorrowful pity as well as grief and sadness.Why did Jesus lament and issue such a stern rebuke? 

Don’t be misled by wrong-headed teachers

Jesus was angry with the religious leaders because they failed to listen to God’s word and they misled the people they were supposed to teach and lead in the ways of God. They were blindly leading people to “pharisaism”- to their own ideas, rules, and practices which God did not intend or require – rather than to God’s intention and way of life for his people. Jesus also chastised them for their hyprocisy – a hypocrite is an actor or imposter who says one thing but does the opposite. Jesus gave some examples to show how misguided they were in their thinking and practices. 

In their zeal to win converts, the religious leaders required unnecessary and burdensome rules and practices which obscured the more important matters of religion, such as love of God and love of neighbor.  And at the same time they made exceptions for themselves by devising clever ways to evade binding oaths and solemn promises which they had made to God. The Jews treated an oath made to God as a binding obligation that must not be broken under any circumstance, but the Pharisees found clever ways to evade their obligations when inconvenience got in the way. They forgot that God hears every word we utter (especially our oaths and promises) and he sees the intentions of our heart even before we speak or act.

God’s ways and thoughts are different from ours

The scribes and Pharisees preferred their idea of religion to God’s idea. They failed to lead others to God because they listened to their own ideas of what is true religion and they failed to understand the true meaning and intention of God’s word. Through their own pride and prejudice they blindly shut the door of their own hearts and minds to the truth of God’s kingdom.

The prophets of the Old Testament had repeatedly warned God’s people to seek the Lord and to put aside their own thoughts and ideas of religion in order to hear and understand God’s mind and intentions for his people. The prophet Isaiah wrote,

“Seek the Lord while he may be found, call upon him while he is near; let the wicked forsake his way, and the unrighteous man his thoughts… For my thoughts are not your thoughts, neither are your ways my ways, says the Lord. For as the heavens are higher than the earth, so are my ways higher than your ways and my thoughts than your thoughts” (Isaiah 55:6-9).

 

Seek God’s kingdom first
How can we shut the door of God’s kingdom in our own personal lives? We close it through stubborn pride, disobedience, and ignorance. Do you submit your mind to God’s word or do you cling to your own thoughts and ideas of what is right, true, and good for you? Do you allow the world’s way of thinking to form the way you think, act, and speak – or do you allow God’s word of truth to form the way you think, act, and speak? Do you ignore God’s word through indifference or lack of reflection on his word? 

The Lord Jesus wants to speak to us each and every day – to help us grow in our knowledge and understanding of his love and truth. The Lord is knocking at the door of your heart – are you receptive and ready to listen to his voice as he speaks through his life-giving Word?  God’s kingdom is always present to those who seek him with a humble mind and a willing heart. The Lord invites us to pray daily, “May your kingdom come and your will be done on earth as it is in heaven” (Matthew 6:10).

“Lord Jesus, your word is life for me. May I never shut the door to your heavenly kingdom through my stubborn pride or disbelief. Help me to listen to your voice attentively and to conform my life more fully to your word.”

Suy niệm:  Khi Chúa gõ cửa nhà bạn, bạn có sẵn sàng để Người vào nhà mình không (Kh 3,20)? Thiên Chúa để cửa mở cho tất cả chúng ta vào vương quốc của Người, nhưng chúng ta có thể tự nhốt mình ở ngoài, nếu chúng ta chống lại lời mời gọi của Người. Cửa Trời là gì? Khi Giacóp chạy trốn anh mình là Êsau, người muốn giết chết ông vì đã cướp mất quyền trưởng nam (St 27,41), ông đã chạy trốn trong nơi hoang vắng. Nơi đó, Thiên Chúa theo đuổi Giacóp và cho ông thấy một thị kiến làm thay đổi cuộc đời ông và dân tộc ông. Khi Giacóp ngủ trên sườn đồi đầy sao, Thiên Chúa đã cho ông thấy một cái thang trải dài từ trời xuống đất. Cái thang này có rất nhiều thiên thần lên lên xuống xuống trước ngai tòa Thiên Chúa.

 

Cửa mở cho ngai tòa Thiên Chúa

Thiên Chúa mở cửa Trời cho Giacóp, không chỉ ban cho ông một nơi trú ẩn an toàn, nhưng còn ban cho ông phúc lành được ở trong mối tình bằng hữu với Thiên Chúa hằng sống. Thiên Chúa chuyện trò với Giacóp và lập lại những lời hứa mà Người đã thiết lập với tổ tiên ông là Abraham và cha của ông là Isaac, mà giờ đây cũng được thiết lập với ông và hậu duệ của ông. Thiên Chúa đã hứa không chỉ chúc lành và bảo vệ Giacóp, mà còn chúc lành cho con cháu ông, và cho tất cả mọi dân tộc. Khi Giacóp thức dậy, ông kêu lớn: “Nơi này thật thánh thiêng biết bao! Chính nơi này là nhà của Chúa, và đây chính là cửa Trời” (St 28,17). Thiên Chúa mở cửa cho Giacóp để đem ông và dân tộc ông vào trong một mối tương quan mới với Thiên Chúa hằng sống.

Đức Giêsu là cửa vào vương quốc Thiên Chúa

Đức Giêsu tuyên bố với các môn đệ rằng Người sẽ thực hiện giấc mơ của Giacóp trong con người mới thật sự của Người: “Các người sẽ thấy Trời mở ra, và các thiên thần của Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người” (Ga 1,51). Đức Giêsu nói rằng Người là Cửa (Ga 10,8-9) và là Đường (Ga 14,6) để giúp chúng ta tiến tới nước Trời và ngai tòa Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu buồn rầu cảnh báo những người lãnh đạo tôn giáo và những miêu duệ của Giacóp rằng chính họ đang đóng cửa nước Trời, không chỉ cho chính họ mà còn cho người khác nữa. Hạn từ khốn diễn tả sự trắc ẩn và quan tâm lo lắng, cũng như nỗi buồn và đau đớn vô hạn. Tại sao Đức Giêsu xót xa và nói ra lời khiển trách nghiêm khắc như vậy?

Đừng bị các thầy dạy ương ngạnh làm mê muội

Đức Giêsu giận dữ với những người lãnh đạo tôn giáo vì họ không chịu lắng nghe lời Chúa và họ làm cho người ta bị lầm lạc, mà lý ra họ phải dạy dỗ và hướng dẫn theo những đường lối của Thiên Chúa. Họ dẫn dắt người ta theo con đường “giả hình” cách mù quáng – theo quan điểm, lề luật, và các việc thực hành mà Thiên Chúa không muốn hay đòi hỏi – hơn là theo ý định của Thiên Chúa và cách sống dành cho dân của Người. Đức Giêsu cũng trừng phạt họ vì thói giả hình của họ – giả hình là người diễn viên hay kẻ lừa đảo, kẻ nói một đàng nhưng làm một nẻo. Đức Giêsu đưa ra một loạt dẫn chứng để chỉ họ đã hướng dẫn lầm lạc thế nào trong cách suy nghĩ và thực hành của họ.

Trong sự nhiệt thành của họ để làm cho người ta hoán cải, họ đòi hỏi những luật lệ không cần thiết và nặng nề, những thứ luật lệ làm lu mờ những lề luật quan trọng hơn của đạo thánh Chúa, như mến Chúa và yêu người. Nhưng đồng thời họ lại đưa ra những miễn chuẩn cho chính họ bằng việc nghĩ ra những cách thức khôn khéo để tránh né những lời thề hứa ràng buộc và long trọng mà họ đã thực hiện với Thiên Chúa. Người Do thái coi lời thề hứa với Thiên Chúa là một phận sự bắt buộc không được phá vỡ dưới bất kỳ hình thức nào, nhưng những người Phariseu đã tìm ra những đường lối khéo léo để tránh né những ràng buộc của họ khi sự phiền phức xảy ra. Họ quên rằng Thiên Chúa lắng nghe mọi lời của chúng ta (đặc biệt những lời thề hứa) và Người nhìn thấy những ý định của lòng chúng ta thậm chí trước khi chúng ta nói hay hành động.

Đường lối và suy nghĩ của TC khác với chúng ta

Những người luật sĩ và Pharisêu đề cao quan điểm của họ hơn quan điểm của Thiên Chúa. Với tư cách là những người lãnh đạo tôn giáo, họ đã không dạy người ta đường lối của nước Chúa, vì họ không chịu lắng nghe và hiểu ý định của lời Chúa. Qua sự kiêu căng và thành kiến của họ, họ đã mù quáng đóng cửa lòng trí của chính họ trước sự sự thật của vương quốc Thiên Chúa.

Các ngôn sứ của Cựu ước đã lập đi lập lại lời cảnh báo của Thiên Chúa với dân Người để họ tìm kiếm Chúa và gạt bỏ những suy nghĩ và ý riêng của họ về tôn giáo để lắng nghe và hiểu được tư tưởng và ý định của Thiên Chúa dành cho dân. Ngôn sứ Isaia viết:

“Hãy tìm ĐỨC CHÚA khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người ở kề bên. Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có … vì tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55,6-9).

Hãy tìm nước Thiên Chúa trước

Chúng ta đóng cửa nước Trời trong cuộc sống mình như thế nào? Chúng ta đóng nó lại qua sự kiêu ngạo bướng bỉnh, bất tuân, và ngu dốt. Bạn có quy phục tâm trí mình trước lời Chúa hay bạn hướng theo những tư tưởng và ý riêng của bạn về những gì đúng đắn, chân thật, và tốt lành cho bạn không? Bạn có cho phép cách suy nghĩ của thế gian hình thành đường lối suy nghĩ, hành động, và lời nói của mình – hay bạn có cho phép lời chân lý của Thiên Chúa hình thành cách bạn suy nghĩ, hành động, và nói năng không? Bạn có bỏ qua lời Chúa qua sự thờ ơ hay thiếu suy gẫm lời của Người không?

Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta mỗi ngày và mọi ngày – để giúp chúng ta lớn lên trong sự hiểu biết và thấu suốt tình yêu và chân lý của Người. Chúa đang gõ cửa lòng chúng ta – bạn có đón tiếp và sẵn sàng lắng nghe tiếng của Người khi Người nói qua lời ban sự sống của Người không? Nước Chúa thể hiện trong tất cả những ai tìm kiếm Người và những ai thực hiện thánh ý Người. Bạn có cầu nguyện như Đức Giêsu đã dạy: “Xin cho nước Chúa trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời” không? (Mt 6,10).

Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa là sức sống của con. Ước gì con không bao giờ ngăn chận Nước Trời qua việc vô tín, thờ ơ, và bất tuân. Xin Chúa giúp con biết lắng nghe lời Chúa và để làm cho đời sống của con luôn thích ứng với lời Chúa.”

Tác giả: Don Schwager
(http://dailyscripture.servantsoftheword.org/readings/)
Bro. Paul Thanh Vu – chuyển ngữ

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận