Năm cột trụ của đời sống thiêng liêng

Đăng lúc: Thứ tư - 17/02/2016 21:01 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
NĂM CỘT TRỤ CỦA ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG 1
Julian Elizaldé, SJ
 
Cột trụ một: Phép Thánh Thể
Cột trụ hai: Đời sống cầu nguyện
Cột trụ ba: Các Mối Phúc Thật
Cột trụ bốn: Mở trái tim cho Thần Khí
Cột trụ năm: Chiêm niệm trong hoạt động
 
Theo ơn gọi mà Thiên Chúa dành cho mỗi Giêsu hữu, chúng ta có thể vừa dấn thân phục vụ vừa nhìn ngắm tình yêu bao la và vô điều kiện của Thiên Chúa. Thực sự, khi nhìn ngắm tình yêu Thiên Chúa, chúng ta mới hăng hái dấn thân và hết lòng vâng phục Ngài. Như vậy, muốn vun trồng cái "nhìn ngắm đầy hứa hẹn" và xây dựng một đời sống thiêng liêng đầy tràn sức sống, chúng ta nên làm gì? Con người thiêng liêng theo linh đạo I-nhã có năm cột trụ chính:
1. Phép Thánhh Thể
2. Đời sống cầu nguyện
3. Các mối phúc thật
4. Mở lòng cho Thần Khí đích thực, và
5. Duy trì lòng nghiền ngẫm liên lì

Nguồn gốc và cùng đích cuộc sống loài người là tình yêu bao la và vô điều kiện mà Thiên Chúa dành cho mỗi người. Đức Giêsu dạy chúng ta kêu Thiên Chúa một cách thân mật: "Abba", "Bố". Đối với môn đệ của Thầy Giêsu, cách xưng hô này quá thân mật! Ai dám tự xưng là con cưng của Thiên Chúa như vậy? Đức Giêsu là người đầu tiên dám kêu Thiên Chúa là "bố". Đối với Ngài "bố thân yêu" là tâm điểm giáo lý loan báo và là nền tảng cuộc sống làm "con yêu dấu" của Thiên Chúa.
Trong dụ ngôn người cha nhân hậu (Lc 15, 11-32), chúng ta thấy người 'bố' này là ai và đối xử với loài người như thế nào. Trong bài "Ngu để yêu" một ứng sinh nhận thấy: "Con nghĩ là người con thứ là một cậu nhóc mới tốt nghiệp 12 xong. Cậu háo thắng, ngông nghênh, ta đây, nhưng thực chất thì thiếu kinh nghiệm và kém suy tư quá trời luôn? Đáng ra, biết gia đình mình khá giả thì phải tính chuyện du học hoặc ít là học hành cho có nghề có nghiệp chứ. Chẳng có tài cán gì như cậu, khi thất thế đi chăn heo là đúng rồi. Ngu thật! Đằng sau sự ngông nghênh, coi trời bằng vung kia là cả một lỗ hổng to lớn về nhân cách. Cậu cứ đơn sơ sống theo con người tự nhiên của mình. Sẵn tiền, thừa cơ hội, cậu 'lăn xả' vào chốn phong lưu đầy phồn hoa, hào nhoáng, sắc màu. Dại hết sức! Một đấng nam nhi mà vừa kém tài, vừa kém chí như thế thì làm ăn gì được. Thất bại của cậu là lẽ dĩ nhiên. Con thấy tội nghiệp cho cậu.
Nhưng càng thương cảm cho cậu bao nhiêu, con lại càng giận người cha bấy nhiêu. Sao ông chẳng dạy dỗ, trang bị gì cho người con nhỏ dại của ông, trong suốt mười mấy năm qua, để đến giờ này nó sụp đổ dễ dành như vậy? Rồi thêm nữa, chắc ông chẳng quan tâm gì đến con cái, đến độ chia tài sản cho con mà không cần toan tính chi cả, mặc dầu con ông còn ngu khờ lắm. Đã vậy, trước khi nó ra đi cũng chẳng một lời nhắn nhủ. Ông cũng không có một phương thế nào để liên lạc với nó. Sống chết mặc bay. Tình cha con chỉ có vậy thôi sao? Buồn!
Một người cha vô tâm và thiếu tính toán như vậy mất con là đúng? Nếu dụ ngôn chỉ dừng lại ở câu 16 này thôi thì con hụt hẫng quá. May thay, còn đoạn trở về từ câu 20 đến câu 24 đã giúp con hiểu được tất cả. Thầy hay quá!
Chiêm ngắm thái độ trông ngóng, mỏi mòn chờ mong rồi òa mừng rỡ, khi đứa con trở về của người cha, con không còn dám trách ông nữa. Ông sâu sắc hơn trí hiểu của con nhiều. Té ra, ông biết rõ tính tình ngang ngược, ương bướng của đứa con thơ trẻ. Chắc ông đã từng nhiều đêm trăn trở không biết nói sao, dạy dỗ cách nào cho nó nhận nhiều được tình trạng của nó. Nó còn quá mu muội và ngu dốt. Chuyện nó bỏ nhà đi hoang chắc ông cũng lường trước rồi, nên mới hành xử nhanh như vậy. Ông chấp nhận ngu như thằng con để cứu nó. Ông chấp nhận mu muội như nó để hy vọng nó quay về với ông khi nó nhận hiểu. Gỉa như ông không chia tiền cho nó, gỉa như ông cấm đoán nó, gỉa như ông "tù" thằng con vô đạo? thì nó vẫn cứ đi. Nó đi mà không có ngày về. Nó đi luôn vì cách hành xử của ông cho nó biết ông cần danh dự, tiền tài hơn là nó. Vì yêu nên ông ngu. Vì yêu nên ông hóa ngu muội". 2
Nếu Thiên Chúa là người cha trong dụ ngôn, chúng ta phải công nhận rằng tình thương Ngài dành cho con người là tình yêu vô điều kiện. Tình yêu của Đức Kitô khi chịu nạn chịu chết và ban Phép Thánh Thể là bằng chứng tình yêu Thiên Chúa dành cho mỗi người.
Thiên Chúa quan phòng mỗi người với một tình yêu vô điều kiện, là nền tảng và là cùng đích cuộc sống loài người. Những biến đổi trong đời sống thiêng liêng cũng chỉ là những biến cố, những cố gắng, những tiến triển hay rút lui trên đường tìm hiểu, tin tưởng và đáp lại tình yêu vô điều kiện đó. Ngày càng biết và tin chắc vào tình thương Ngài là hoa quả đời sống thiêng liêng. Chẳng có gì quan trọng hơn là nhìn ngắm, hấp thụ và đáp lại tình yêu đó.
• • •
1. Bắt hứng từ Robert Spitzer, SJ. - Five Pillars of the Spiritual Life, Ignatius 20008
2. Bảo Ân, "Ngu để yêu", tr. 18-20 Ánh Dương, Nội San Bạn Đường, 2008
 

Cột trụ một: Phép Thánh Thể

Phép Thánh Thể là tâm điểm cuộc sống Kitô hữu. Đức Kitô đến và ở lại với chúng ta để thương mến, chữa lành, biến đổi, quy tụ và mang bình an cho chúng ta. Khi thành lập Phép Thánh Thể, Ngài nói: "Đây là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con". 'Mình' bao gồm thể xác lẫn tâm hồn, nghĩa là 'cả người'. Ngài dâng hiến cả người mình, kể cả tình yêu, là tình yêu vô điều kiện. Khi ban 'chén máu', lại xác nhận rằng Ngài đổ máu thay thế cho máu con cừu để ký kết giao ước mới giữa con người và Thiên Chúa; là máu Tân Ước và vĩnh cửu hứa cho chúng ta tình yêu và sức sống vĩnh viễn.
Tình yêu vô điều kiện của Đức Kitô trong thập giá
Đức Kitô đã tận hiến mình cho Chúa Cha trong cuộc sống thường ngày, nhưng chính lúc Ngài chết trên thập giá là lúc Ngài hoàn toàn dâng hiến mình cho Chúa Cha. Sự hy sinh trên thập giá là hành động thể hiện rõ nhất lòng vâng phục của người con cho Chúa Cha. Khi nhận lãnh sự chết Đức Giêsu đã bày tỏ sự tận hiến hoàn toàn cho Chúa Cha với lòng hiếu thảo của một người con. Đức Giêsu biết, tin tưởng và thán phục Chúa Cha. Ngài biết khôn ngoan và tình thương của Chúa Cha vượt xa những gì con người có thể hiểu được.
Sự tận hiếân của Đức Kitô trên thập giá là bằng chứng tình yêu và lòng vâng phục đối với Chúa Cha, là hành động cao quý nhất của quyền tự do nhân loại, là khuôn mẫu cho những đáp trả của con người đối với Thiên Chúa, và là sự chấp nhận tuyệt đối Thiên Chúa là Thiên Chúa. Khi con người vâng phục Thiên Chúa với lòng hiếu thảo của một người con, như Đức Giêsu đã làm khi chết trên thập giá, thì Thiên Chúa được vinh quang mà con người đã từ chối khi bất phục tùng.
Tình yêu vô điều kiện của Chúa Cha trong thập giá và Phục Sinh của Đức Kitô
Chúa Cha khi nộp Người Con duy nhất trong tay kẻ tội lỗi, cảm thấy đau lòng như các cha mẹ khi nhìn thấy người con đau khổ. Làm như vậy Ngài bày tỏ tình thương vô bờ bến dành cho mỗi người chúng ta. Cảm động vì lòng hiếu thảo và vâng phục của Đức Giêsu, Chúa Cha ban vinh hiển cho Ngài. Và đây chính là vinh quang mà Đức Giêsu, tư tế của nhân loại, muốn chia sẻ với con người. Khi sống lại, Đức Giêsu nâng chúng ta lên chia sẻ vinh quang của Ngài. Đức Giêsu Phục Sinh sai Thần Khí của Ngài đến với con người, và chính Thần Khí này gợi lên nơi con người lòng hiếu thảo và vâng phục của người con. Ngày tận thế Ngài sẽ ban cho chúng ta vinh quang của Ngài: "Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con... Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con" (Ga 17, 22-24).
Tình yêu vô điều kiện của Chúa Cha và của Đức Kitô trong Bữa Tiệc Thánh
Thánh Lễ là tâm điểm cuộc sống Kitô hữu. Khi cử hành phép Thánh Thể chúng ta tưởng niệm và làm sống lại món quà Chúa Cha ban cho chúng ta lúc Chúa Kitô chịu nạn, chịu chết và phục sinh. Chúa Cha ưa thích thể hiện cùng với chúng ta món quà này trong suốt cuộc sống của chúng ta, và nhờ đó chúng ta khám phá tình thương của Ngài và lãnh nhận những hồøng ân cứu thoát chúng ta. Phép Thánh Thể cũng là món quà của Đức Kitô dành cho Chúa Cha suốt cuộc sống và đặc biệt lúc chịu nạn chịu chết. Chúa Kitô là con chiên của Tân ước đã nộp mạng sống mình để lập giao ước mới và vĩnh viễn giữa Thiên Chúa với nhân loại và giữa anh chị em với nhau. Khi chúng ta tiến đến bàn thánh tham dự bữa tiệc Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta nhận lãnh món quà cao quý Chúa Cha ban tặng cho nhân loại là Con Yêu Dấu của Ngài; khi rước Mình Máu Đức Kitô, chúng ta kết hợp cùng với Ngài dâng hiến mình cho Chúa Cha với lòng vâng phục và hiếu thảo; chúng ta đồng cảm với tất cả anh chị em, nhất là những người chúng ta nhớ một cách đặc biệt trong Thánh Lễ đó. Đây là tâm điểm của một cuộc sống ngày càng giống cuộc sống Đức Giêsu là thượng tế nhân loại.
Khi tận hiến mình, Đức Kitô mang bình an, sự biến đổi và thống nhất đến cho chúng ta. Bình an lúc bối rối, lo sợ, bị đau khổ. Bối rối vì nguy hiểm hay vì phải đương đầu với khủng hoảng tinh thần hay thể xác. Rước Lễ xong, chúng ta thấy Ngài hiện diện và đồng hành với chúng ta trong giây phút thử thách đó. Dự Lễ hằng ngày, chúng ta nhận ra những sự biến đổi lạ lùng nơi chúng ta. Mỗi lần dâng Thánh Lễ, chúng ta thoát ra thế giới nhỏ bé của cá nhân mình để cảm thông và sống gần gũi với hết thảy anh em.
Trong Phép Thánh Thể chúng ta cầu nguyện cho cả thế giới
Theo thánh ý Đức Kitô, Thánh Thể là ân huệ cho cả thế giới. Tất cả chúng ta là nhiệm thể của Đức Kitô: "Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể" (1 Cor 10, 16-17).
Ảnh hưởng của Phép Thánh Thể thật sâu xa trong cuộc sống cá nhân mình. Nhưng, Thánh Thể không bị giới hạn vào cuộc sống của từng cá nhân. "Bởi vì Bánh chúng ta ăn là Bánh bởi trời, mang sức sống cho thế gian" (Ga 6, 33). Thiên Chúa thương yêu tất cả mọi người một cách vô điều kiện. "Ngài không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất" (Mt 18, 14). Vì quan tâm về cuộc sống tinh thần lẫn vật chất của mỗi người, Thiên Chúa tác động Hội Thánh để tiếp tục mang sức sống cho cả thế gian. Qua Hội Thánh, Thiên Chúa giơ tay nâng đỡ cả thế gian.
Lễ tế của Đức Kitô là hy lễ độc nhất và vĩnh viễn nối kết Thiên Chúa với loài người. Vì lý do đó Đức Giêsu là thượng tế duy nhất và vĩnh viễn của nhân loại. Đã chịu Phép Rửa Tội, không chỉ linh mục và tu sĩ mà cả giáo dân nữa, đều chia sẻ sứ vụ Tư Tế của Ngài. Ý thức mình chia sẻ sứ vụ tư tế của Đức Kitô, các Kitô hữu dâng hiến cuộc sống thường ngày của mình cho Chúa Cha, và Thánh Lễ là lúc dâng hiến mình để lập giao ước giữa Thiên Chúa với nhân loại và giữa anh chị em với nhau.  Như Vatican II nói: "Nếu giáo dân chu toàn trong Thánh Thần mọi hoạt động, kinh nguyện và công cuộc tông đồ, đời sống hôn nhân và gia đình, công ăn việc làm thường ngày, việc nghỉ ngơi thể xác và tinh thần, cũng như những thử thách của cuộc sống, tất cả đều trở nên hiến lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô và được thành kinh dâng lên Chúa Cha cùng với Mình Thánh Chúa khi cử hành Thánh Lễ. Như thế, giáo dân thánh hiến thế giới này cho Thiên Chúa nhờ biết phụng thờ Ngài bằng hành động thánh thiện khắp nơi". (Lumen Gentium n.34)
Trong cuộc sống, có những lúc lời nói và việc làm của chúng ta chẳng có công hiệu là bao nhiêu.  Bệnh thể xác hay nỗi đau khổ về tinh thần không còn tránh được nữa.  Đây chính là lúc chúng ta đồng tâm nhất trí với sứ vụ tư tế của Đức Kitô lúc chịu nạn chịu chết, nâng tâm hồn lên Chúa Cha và học được thế nào là vâng phục Chúa Cha với lòng hiếu thảo của một người con, "Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài" (Dt 10, 9).
Cuộc sống và chính thể xác chúng ta biến thành bàn thờ, hy lễ và tư tế trong Đức Kitô. Sứ vụ này được thể hiện một cách trọn vẹn lúc dâng Thánh Lễ. Lúc dâng lễ Giáo Hội dùng lời nguyện đặc biệt xin Chúa Cha sai Thánh Thần của Ngài để dâng hiến mình cho Ngài trong Đức Kitô: "Thánh Thần liên kết chúng con nên một khi chúng con dự tiệc Mình Máu Đức Kitô" (II), "Xin cho chúng con nên một thân thể và một tinh thần trong Đức Kitô" (III), "chúng con được Chúa Thánh Thần liên kết thành một thân thể, và trở nên hy lễ sống động trong Đức Kitô để ca tụng Cha vinh hiển" (IV).
Là chi thể của Giáo Hội, trong Thánh Lễ chúng ta cầu nguyện hiệp thông với cộng đoàn địa phương, cũng như với toàn thể Giáo Hội. Đây là 'Chiên Thiên Chúa xóa bỏ tội trần gian'. Trên thập giá, Đức Kitô nộp mình và phó mạng sống cho cả thế giới, mang tin mừng cho tất cả kẻ nghèo khó. Khi Rước Mình Thánh Chúa, nhận lãnh bình an và sức biến đổi cá nhân, chúng ta cũng dâng hiến Đức Kitô cho cả thế gian, đặc biệt cho những ai đang gặp khó khăn tinh thần hay thể xác. Thiên Chúa rất ưa thích nghe những lời nguyện và dâng hiến đó.
Phép Thánh Thể và Phụng vụ
Trong Bữa Tiệc Ly, Đức Kitô phán những lời đơn sơ, làm những hành động giản dị. Tuy nhiên, ý nghĩa sâu xa của những lời và hành động đó đã soi sáng cuộc sống phụng vụ của Giáo Hội mãi đến bây giờ. Có nhiều cách khác nhau để cử hành Thánh Lễ, trong nhà thờ chính tòa sáng láng hay tại nhà giam nghèo nàn, trên đỉnh núi với đám thanh niên hay tại nhà dưỡng lão, trong đám cưới vui vẻ hay lúc thân nhân qua đời. Phụng vụ diễn tả ý nghĩa khác nhau và sâu xa của mỗi Thánh Lễ qua nghi thức, thánh ca và lời nguyện thích hợp với mỗi hoàn cảnh.
Trong phần Thống Hối, chúng ta nêu lên sức thanh tẩy, biến đổi và mang bình an của Thánh Thể. Lúc phụng vụ Lời Chúa, chúng ta hy vọng thấu hiểu rõ hơn tin mừng chúng ta sẽ mang đến thế gian. Khi Dâng Lễ và cử hành Phép Thánh Thể, chúng ta nhắc đến cuộc thương khó và Phục Sinh của Đức Kitô. Khi Rước Lễ chúng ta hiệp thông không chỉ với Đức Kitô, mà còn với cả gia đình của Chúa Cha.
Cách mỗi người cử hành Thánh Lễ mang ánh sắng và ý nghĩa cho các nghi thức, và khi thật lòng tham gia mầu nhiệm thánh, mỗi cá nhân đóng góp cho lòng sốt sắng của cộng đoàn. Cộng đoàn được thêm sốt sắng nhờ sự đóng góp của mỗi cá nhân. Mỗi cá nhân được thêm sốt sáng nhờ sự đóng góp của cộng đoàn. 
Kết luận
Phép Thánh Thể là sức lực hiệp nhất, là bí tích chính trong bảy bí tích, là trái tim của Giáo Hội. Vậy là chân lý căn bản của Phép Thánh Thể là tình yêu vô điều kiện của Đức Kitô tận hiến mình trên thập giá để mang hòa bình, ơn tha thứ và hòa giải cho nhân loại, để chữa lành và biến đổi chúng ta đến cuộc sống muôn đời; là Đức Kitô, Con Chiên Vượt Qua, là Máu Khế Ước mới, là Con Thiên Chúa nộp mình để ban sự sống cho thế gian. Mầu nhiệm Thánh Thể thật sâu sắc! Tình yêu Đức Kitô thật bao la! Vì lý do đó, Phép Thánh Thể là cột trụ chính trong đời sống thiêng liêng của Kitô hữu. 
Để cầu nguyện riêng:  Gioan 6, 32-71 
Câu hỏi để cầu nguyện và chia sẻ:
1. Khi cử hành Phép Thánh Thể, thường thường những ý nghĩa nào đánh động tôi?
2. Phép Thánh Thể thường giúp tôi đổi mới mối tương quan với Chúa và với anh em như thế nào?
3. Phép Thánh Thể biểu lộ tình yêu của Chúa Cha và của Đức Kitô bằng cách nào?
4. Trong Lễ Vượt Qua, người Do Thái tưởng nhớ những biến cố nào? Đức Giêsu đã ứng nghiệm những biến cố đó ra sao?
5. Phép Thánh Thể mời gọi chúng ta tiếp tục sứ mạng nào của Đức Kitô?
• • •
 

Cột trụ hai: Đời sống cầu nguyện

Cầu nguyện là bước vào tâm tình của Thiên Chúa và mở lòng để Thiên Chúa bước vào tâm tình của chúng ta. Trong cầu nguyện chúng ta để Thiên Chúa làm chủ con tim của chúng ta, và để Thần Khí cầu nguyện trong lòng của chúng ta. Trong cuộc hành trình này, đừng nghĩ rằng chúng ta lên đường để tìm Thiên Chúa, nhưng khiêm nhường ý thức rằng Thiên Chúa đã khởi hành đi tìm chúng ta và cả nhân loại ngay từ thủa tạo thiên lập địa (St 3,9) khi con người sa ngã. Hãy ý thức rằng cầu nguyện là lúc Thiên Chúa nhẹ nhàng tác động tâm hồn chúng ta. Và khi chúng ta “cầu nguyện” là khi chúng ta đáp lại lòng mơ ước của Chúa để Thần Khí tác động, để hai tâm tình trở nên một.
Cầu nguyện là sự hiệp nhất và thông hiệp giữa Thiên Chúa và con người. Có thể nói khi chúng ta cầu nguyện chân thành là lúc chúng ta cử hành một bí tích.
Mỗi Kitô hữu đều có thể thân mật cầu nguyện với Thiên Chúa. Thánh I-nhã tin rằng mỗi người đều có thể cảm nhận và kết thân với Thiên Chúa. Theo Karl Rahner: sự đóng góp quan trong nhất của I-nhã cho Hội Thánh là ngài tin chắc rằng mỗi Kitô hữu có thể trực tiếp cảm nhận Thiên Chúa một cách thuần tuý; và Thiên Chúa để dành hồng ân này cho mỗi Kitô hữu. Nói một cách khác: Chúa muốn nói với tất cả chúng ta và mong chúng ta có thể hiểu Ngài.
• • •
Các Hình Thức Cầu Nguyện Một Mình 1
Có nhiều hình thức cầu nguyện một mình. Mỗi hình thức thích hợp với một hạng người. Bằng cách thực tập nhiều lần các phương pháp khác nhau chúng ta trở nên giỏi dang khi sử dụng hình thức thích hợp cho đoạn Thánh Kinh và hòa hợp với nhu cầu cá nhân và cá tính của chúng ta. Có các hình thức sau đây:
1. Suy Niệm
Khi suy niệm chúng ta đến với đoạn Thánh Kinh như với một lá thư tình; hình thức này rất hữu ích khi cầu nguyện với những đoạn thơ như Thánh Vịnh.
Phương Pháp
  • Đọc đoạn Thánh Kinh thật chậm, lớn tiếng hay thì thầm, để cho các chữ bao trùm lên bạn, và nghiền ngẫm từng chữ.
  • Dừng lại ở những chữ đặc biệt làm bạn chú ý; hấp thụ chúng như người khát mong uống nước mưa trời.
  • Lập lại một chữ hay một câu nhiều lần, nhận thức những cảm giác đang được đánh thức dậy. Đọc, và đọc lại đoạn Thánh Kinh nhiều lần một cách trìu mến, y như đọc một lá thư tình, hay như khi bạn hát nhẹ nhàng điệp khúc của một bài ca.
2. Chiêm Niệm
Khi chiêm niệm, chúng ta bước vào một biến cố hay một đoạn kể chuyện trong Thánh Kinh. Chúng ta bước vào đoạn này bằng sự tưởng tượng, và sử dụng tất cả các cảm quan của chúng ta.
Các nhà thần học dạy rằng qua chiêm niệm, chúng ta có thể "nhớ lại và hiện diện trong những mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Kitô".
Thần Khí Chúa Giê-su hiện diện trong chúng ta qua phép rửa tội, dạy dỗ chúng ta y như Chúa Giê-su đã dạy dỗ các tông đồ. Thần Khí gợi lại và làm sống động các mầu nhiệm chúng ta bước vào qua việc cầu nguyện. Cũng như ở trong Thánh Thể, Chúa Giê-su lên trời đã làm hiện diện mầu nhiệm Phục Sinh, trong việc chiêm niệm, Thánh thần đem tới biến cố đặc biệt mà chúng ta chiêm niệm và Thánh thần mở tâm hồn chúng ta thấu hiểu mầu nhiệm ấy.
Phương Pháp
Trong khi chiêm niệm, chúng ta bước vào câu chuyện y như chính chúng ta có mặt ở đó:
Quan sát những gì xảy ra; lắng nghe những gì đã được nói. Trở nên một thành phần của mầu nhiệm; lãnh vai trò cuả một nhân vật. Nhìn từng nhân vật; nhân vật đó đang có kinh nghiệm gì? Nhân vật đó đang nói với ai? Nếu tôi nghe được lời Chúa nói với tôi trong đoạn Thánh Kinh đó thì có ảnh hưởng gì đến đời sống của tôi, gia đình tôi, xã hội tôi?
Trong câu chuyện Thánh Kinh, chúng ta bước vào một cuộc đối thoại với Chúa Giê-su:
  • Nhập bối cảnh: có mặt ở đó với Chúa và vì Chúa.
  • Nhìn, nghe, quan sát các nhân vật, nhất là Đức Giê-su, ước muốn Chúa, thèm khát Chúa.
  • Mở lòng cho Chúa đang hiện diện trong lòng tôi, bây giờ. Lắng nghe Chúa.
3. Cầu Nguyện Tập Trung
"Trong khi cầu nguyện tập trung, chúng ta vượt qua các ý tưởng và hình ảnh, vượt qua các cảm quan, và vượt qua trí óc lý luận tới trung tâm của tâm hồn chúng ta nơi Chúa đang làm những việc lạ lùng".
Cầu nguyện tập trung là một hình thức cầu nguyện rất giản dị, rất trong sáng, thường thì không ra lời; đó là cách mở trái tim chúng ta cho Thánh Thần đến ngự trị trong chúng ta.
Trong cầu nguyện tập trung, chúng ta tuột dốc xoáy ốc để đi sâu xuống vào tận đáy tâm hồn chúng ta. Đó là điểm yên tĩnh trong ta nơi đa số chúng ta cảm nghiệm đã được cấu tạo bởi một Thiên Chúa thương yêu đã thổi hơi thở cho chúng ta được sống. Muốn bước vào sự cầu nguyện tập trung, chúng ta phải tuyên xưng sự phụ thuộc của chúng ta vào Chúa và đầu hàng trước tinh thần yêu thương của Ngài.
"... Thánh Thần cũng đến để giúp đỡ chúng ta những lúc yếu đuối. Thánh Thần trình bày những lời cầu xin của chúng ta dưới những hình thức không thể diễn tả bằng lời..."(Rm 8:26)
Thánh thần của Chúa Giêsu kêu lớn trong chúng ta "Ab-ba, Lạy Cha" (Rm 8:15).
Phương Pháp
"Dừng lại một lát và nhận biết Ta là Thiên Chúa" (Tv 46:10).
  • Ngồi yên lặng, thoải mái và dễ chịu.
  • An nghỉ trong mong muốn và ao ước Chúa.
  • Di chuyển vào trung tâm sâu xa của bản thể chúng ta. Sự di chuyển này có thể dễ dàng nếu tưởng tượng như khi chúng ta đang tụt xuống trong một cầu thang máy, hay khi đang bước xuống một cầu thang dài, hay khi đang leo xuống một triền núi, hay lặn sâu xuống một hồ nước.
  • Trong sự yên tĩnh, cố nhận thức được sự hiện diện của Chúa; hấp thụ tình yêu Chúa một cách an bình.
4. Lời Nguyện Lặp Lại
Một hình thức cầu nguyện tập trung khác là sử dụng lời nguyện lặp lại. Lời nguyện lặp lại có thể là một chữ hay một câu. Có thể là một chữ trong đoạn Thánh Kinh, hay một chữ được xuất phát tự đáy tim chúng ta. Chữ hay câu này biểu tượng cho ta sự hiện hữu đầy đủ của Chúa.
Một hình thức thay đổi của lời nguyện lặp lại có thể bao gồm tên "Giêsu" hay hình thức đã được mệnh danh là "Kinh Giêsu", "Lạy Chúa Giêsu, Con của Chúa Trời hằng sống, xin đoái thương đến con, là kẻ có tội."
Phương Pháp
Chữ hay câu được lặp lại nhẹ nhàng, bên trong tâm hồn để cho hòa hợp với hơi thở. Thí dụ, phân nửa đầu của Kinh Giêsu được đọc trong khi hít vào, và phân nửa sau được đọc khi thở ra.
5. Đọc Chiêm Niệm
"Tôi há miệng ra; Người ban cho tôi cuốn Thánh Thư để ăn và nói,‘hãy ăn đi và cảm thấy no đủ về cuốn Thánh Thư ta cho con'. Tôi đã ăn và Thánh Thư có vị ngọt như mật ong" (Ed 3:2-3).
Một cách cầu nguyện là chiêm niệm khi đọc một đoạn Thánh Kinh hay các bài văn viết về linh thao khác.
Đọc như vậy luôn luôn giúp cho đời sống cầu nguyện của chúng ta được phong phú hơn. Phương pháp được mô tả sau đây đặc biệt có ích khi chúng ta cảm thấy khô khan nguội lạnh.
Phương Pháp
Đọc một cách chậm rãi, ngưng lại nhiều lần để cho các chữ các câu xâm nhập vào cơ thể chúng ta. Khi một tư tưởng vang động sâu xa, dừng lại ở đó, để cho ý nghĩa đầy đủ của chúng xâm nhập tâm hồn chúng ta. Tận hưởng những chữ đã cảm nhận được. Đáp trả một cách tự nhiên y như khi đối thoại.
6. Viết Nhật Ký
"Nếu các bạn đọc các dòng chữ của tôi, các bạn sẽ có một khái niệm về chiều sâu tôi đã cảm nhận được trong mầu nhiệm của Chúa Kitô" (Ep 3:4).
Viết nhật ký là một hình thức viết trong chiêm niệm. Khi chúng ta đặt bút trên giấy, linh hồn và thân thể hỗ trở để giải tỏa bản thể thật sự của chúng ta.
Có sự khác biệt giữa hình thức cầu nguyện này với cách chúng ta viết nhật ký hàng ngày.
Cầu nguyện bằng nhật ký là cảm nhận trong ánh sáng mỗi khi các hình ảnh mới được phát xuất từ tiềm thức của chúng ta được ban cho những ý nghĩa mới. Cầu nguyện bằng nhật ký đòi hỏi phải bỏ sang một bên những thành kiến và những sự kiềm chế đã có sẵn.
Viết trong chiêm niệm giống như viết thư cho một người yêu. Các kỷ niệm được gợi lại, các niềm tin được làm cho sáng tỏ và tình cảm nổi giậy mãnh liệt trong chúng ta. Trong khi viết xuống chúng ta có thể khám phá rằng các cảm xúc được tăng cường và kéo dài. Vì thế viết nhật ký có thể giúp cho chúng ta nhận định được các cảm xúc bị che dấu, bị đè nén, như tức giận, sợ hãi và thù hận.
Cuối cùng, cầu nguyện bằng nhật ký có thể giúp chúng ta tôn trọng hơn những chữ những câu đã được viết trong Thánh Kinh.
Phương Pháp
Có nhiều hình thức khác nhau khi cầu nguyện bằng nhật ký:
  • Viết một lá thư cho Chúa.
  • Viết một cuộc đối thoại giữa chúng ta và người khác; người khác có thể là Giêsu, hay một người nào quan trọng. Cuộc đối thoại có thể được ghép theo một biến cố, một kinh nghiệm hay một giá trị. Thí dụ, sự chết, sự chia ly, sự khôn ngoan, một tài năng; và được tưởng tượng ra y như đang nói chuyện với người ấy.
  • Viết câu trả lời cho một câu hỏi, chẳng hạn "Con muốn Ta làm gì cho con?" (Mc 10:51) hay "Tại sao con khóc?" (Ga 20:15).
  • Để cho Giêsu hay một nhân vật khác trong Thánh Kinh nói với chúng ta qua ngòi bút của chúng ta.
7. Lặp Lại
"Tôi sẽ tiếp tục chiêm niệm về điểm trong đó tôi đã khám phá ra điều tôi mong ước, và không muốn đi xa thêm trước khi tôi hoàn toàn hài lòng." - Thánh I-nhã.
Lặp lại là việc trở về một thời gian cầu nguyện trước đó với mục đích để cho những hoạt động của Chúa ăn sâu trong trái tim chúng ta.
Qua sự lặp lại, chúng ta tô điểm cho sự nhạy cảm của chúng ta đối với Chúa và đối với cách thức Chúa nói với chúng ta qua việc cầu nguyện và trong những hoàn cảnh của cuộc đời chúng ta. Cầu nguyện lặp lại giúp cho kinh nghiệm của sự tổng hợp điều chúng ta là ai với điều Chúa đang bày tỏ cho chúng ta biết Chúa là ai.
Lặp lại là một cách để tôn kính Lời Chúa nói với chúng ta trong các buổi cầu nguyện trước. Đó là nhớ lại và suy nghĩ về một cuộc đối thoại trước đây của chúng ta với một người chúng ta yêu mến. Cũng giống như khi chúng ta nói với Chúa, "Lạy Chúa xin hãy nói lại với con điều ấy; con đã nghe thấy Chúa nói gì với con?"
Trong cuộc đối thoại tiếp theo hay lặp lại này, chúng ta mở lòng cho sự hiện diện chữa lành thông thường có mãnh lực để biến cải những sự đau buồn và bối rối chúng ta đã cảm nhận được trong các buổi cầu nguyện trước đó.
Khi lặp lại, không những các sự an ủi (vui sướng, ấm áp, bình an) được mạnh mẽ hơn, mà các sự thất vọng (đau khổ, buồn bã, và bối rối) thường đưa tới một trình độ mới để thấu hiểu và chấp nhận kế hoạch Chúa dành cho chúng ta.
Phương Pháp
Giai đoạn cầu nguyện chúng ta lựa chọn để lặp lại là buổi cầu nguyện trong đó chúng ta đã kinh nghiệm một xúc động đáng kể về vui mừng, buồn khổ hay bối rối. Cũng có thể là một giai đoạn trong đó không có gì xảy ra, có lẽ vì chúng ta thiếu chuẩn bị.
  • Nhớ lại những cảm xúc của lần trước.
  • Sử dụng để làm một điểm khởi đầu, một khung cảnh, môt câu chữ, hay một cảm xúc đáng kể trong lần trước.
Để cho Thánh Thần hướng dẫn các động tác nội tâm của trái tim trong buổi cầu nguyện này.
• • •
Giản dị hóa đời sống cầu nguyện 2
Tuy nhiên, đôi khi chúng ta không cầu nguyện được với một đoạn Kinh Thánh hay sách thiêng liêng nào cả. Rất có thể rằng lúc đó chúng ta cần một lối cầu nguyện tự do, giản dị và nghiền ngẫm hơn. Nhận xét đầu tiên về đời sống cầu nguyện theo I-nhã là, nếu áp dụng đúng phương pháp, đời sống cầu nguyện sẽ ngày càng giản dị, có tính cách chiêm niệm và thinh lặng. Còn nếu sau vài năm cầu nguyện theo một phương pháp nào đó, đời sống cầu nguyện chẳng có gì thay đổi, chúng ta cần xét lại lối cầu nguyện đó hoặc cách áp dụng phương pháp.
Muốn giản dị hoá đời sống cầu nguyện, điều quan trọng là biết tìm và hưởng những giây phút thinh lặng nghiền ngẫm, nhất là biết hiện diện trước mặt Thiên Chúa đang hiện diện trong lòng chúng ta. Muốn kết hiệp với Chúa như vậy, chúng ta cần ý thức mình đang sống như thế nào, sống cho ai, mình mong muốn gì. Sống ý thức và thành thật với chính mình là điều kiện cần thiết để hiện diện và kết hiệp với Chúa. (Phút Hồi Tâm có thể giúp chúng ta tiến lên trên đường này)
Khi cầu nguyện chúng ta nhắm mục đích gì? Nếu có sự biến đổi trong đời sống cầu nguyện, thì cũng có sự biến đổi trong mục đích chúng ta mong ước đạt tới. Lúc đầu, khi chúng ta muốn tìm kiếm Thiên Chúa và tâm tình với Ngài, thì có lẽ chúng ta chưa quen với tiếng nói của Ngài và chưa biết nhận ra những tác động trong tâm hồn mình. Thánh Gioan Thánh Giá nói: Thiên Chúa nói với chúng ta qua tác động trong tâm hồn. Sau một thời gian, chúng ta không cầu nguyện để tìm kiếm Thiên Chúa: Ngài đã tìm ra chúng ta rồi! Chúng ta cầu nguyện để Thiên Chúa ngày càng hiện diện trong cuộc sống chúng ta và chính chúng ta lại hiện diện nơi Ngài trong suốt cuộc sống và sinh hoạt hằng ngày. Từ từ chúng ta biết cầm lòng cầm trí để nghiền ngẫm, có một tâm hồn tự do, trong suốt, biết tôn trọng nội tâm của mỗi người, không ép ai theo một phương pháp cầu nguyện quy tắc.
Tại sao thánh I-nhã cho rằng: trong một trăm người thường xuyên cầu nguyện, thì có chín mươi người theo ảo tưởng?
Dù đều đều và trung thành để dành thời giờ cầu nguyện, chưa chắc chúng ta đang kết hiệp với Chúa Hằng Sống. Chính sự trung thành với phương pháp lại có thể biến thành mục đích của cầu nguyện. Làm như vậy, chúng ta trung thành một cách cứng nhắc. Sở dĩ cứng nhắc có lẽ là vì chúng ta chưa tin tưởng đủ là Thiên Chúa thương mến và ưa thích chúng ta.
Trung thành với Thần Khí. Đức Kitô trung thành và đều đều cầu nguyện vì Ngài luôn mở lòng cho Thần Khí và tìm những gì đẹp lòng Chúa Cha. Cha muốn con làm gì? I-nhã cũng vậy: Spiritum ducentem sequebatur, non praeibat (I-nhã dõi theo sự hướng dẫn của Thần khí, chứ không đi trước). Chúng ta không nên đi trước Thần Khí. Ngài đóng vai trò chủ động khi chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Sự đóng góp chính của chúng ta là mang mọi phạm vi của cuộc sống đặt dưới ảnh hưởng của Thần Khí.
Vai trò của Thần Khí là nối kết chúng ta với Chúa Cha, với Đức Kitô và với anh em trong tình yêu. Chính Thần Khí là tình yêu, và tình yêu biến đổi những ai được nối kết. Việc thánh hóa con người là những biến đổi mà Thần Khí tình yêu luôn luôn mang đến khi nối kết chúng ta với Thiên Chúa và anh em trong tình yêu. Thánh I-nhã có một sư phạm riêng để giúp con người mở lòng cho Thần Khí. Đặc biệt trong Linh Thao ngài:
  • cung cấp một nguyên lý nền tảng và chỉ rõ giá trị của lòng bình tâm,
  • dẫn đến ăn năn hối cải qua lòng thướng xót của Chúa,
  • mời kết thân với Đức Kitô với tình bạn thân thiết,
  • chỉ dẫn cách chiêm niệm các mầu nhiệm cuộc sống Đức Kitô,
  • ý thức sự khác nhau giữa cạm bẫy của ma quỷ và chiến thuật của Đức Kitô (Hai cờ hiệu),
  • đo lường tình yêu qua các trình độ khiêm nhường (Ba trình độ Khiêm Nhường),
  • mời chúng ta đối diện v?i các đam mê còn đang ràng buộc trái tim mình (Ba loại người) ...
Điều quan trọng là chúng ta hỏi: Chúa muốn con làm gì? và để Thần Khí mở mắt tâm hồn và thúc đẩy chúng ta đi từng bước một cách thoải mái, vui vẻ, tự do, thật thà và biết ơn Chúa. I-nhã chú trọng đặc biệt đến lòng biết ơn. Ngài đã vượt qua lòng tham vọng và các nết xấu khác, nhất là qua lòng biết ơn.
Bằng chứng chắc chắn chúng ta cầu nguyện với Chúa Hằng Sống là chính đời sống thường ngày. Đức Kitô nói: Qua hoa trái chúng ta biết cây. Chúng ta muốn tìm kiếm và nhận ra Thiên Chúa ? khắp mọi nơi. Chúng ta thực sự đang kết thân với Chúa qua cách chúng ta tiếp xúc với anh em, làm trọn bổn phận và biết sử dụng thời gian ngày càng vui vẻ và tràn đầy tình yêu.
Như vậy chúng ta nên cầu nguyện bao lâu? Năm 1554, cha Nadal báo cáo cho I-nhã ý muốn của tỉnh Tây Ban Nha muốn tăng thêm thời gian cho các thầy cầu nguyện. Cha I-nhã tha thiết đáp lại một người thực sự đang từ bỏ mình chỉ cần mười lăm phút để kết thân với Chúa trong cầu nguyện." 3  Mỗi người cần để dành nhiều thời giờ cầu nguyện hay ít tuỳ mình và tuỳ hoàn cảnh đang sống. Đôi khi cần 30 phút, khi khác nhiều thời giờ hơn. Điều quan trọng là suốt ngày và đều đều chúng ta 'ngưng và lắng nghe Thần Khí'. Làm như vậy Ngài sẽ biến đổi tận đáy lòng của mình nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, ngày càng đồng tâm nhất trí với Thánh Ý Chúa Cha.
• • •
Khó Khăn Trong Cầu Nguyện 4
Nếu các bạn trằn trọc không ngủ được, hoặc suy tư ngay trong giấc ngủ làm cách nào giúp các bạn mình cầu nguyện, nghe Chúa, các bạn đang có cùng tâm tình với thánh I Nhã. Bắt đầu hứng khởi vì đi gặp Chúa, nhưng rồi dần dần gặp trở ngại, khô khan thì chán nản và bỏ cuộc
a) Một vài lý do:
- Quan niệm sai lầm
- CN là phải nói nhiều nói giỏi, có lời hay ý đẹp; vài ngày sau cạn ý bắt đầu chán, trong khi đó CN đơn giản là một mối liên hệ mật thiết với Chúa.
- Mong đợi được rút một ích lợi nào đó.
- Cách thức CN. Phải có khuôn mẫu để cầu nguyện. Phải làm như các vị tu kín.
- Không xứng đáng
- Thiếu chuẩn bị: Nơi chốn và thời gian, tâm tình [suốt ngày]
- Trong cầu nguyện: - Không biết phải làm gì - chưa hiểu sâu xa, - Chia trí
b) Những phương cách giúp
- Giải thích những hiểu lầm 
- nguyên tắc đầu tiên: đến với Chúa một cách ngay thẳng, chân thật - do đó nhấn mạnh sự hiện diện trước mặt Chúa.
-  Có khi nào đến cầu nguyện làm đủ mọi thứ ... suy nghĩ 1 lúc một vài tư tưởng đẹp, ý hay rồi xong! 
- Mong ích lợi, ơn muốn xin, chờ đợi 
- Mỗi người có một cá tính riêng và gặp Chúa cách khác nhau. Hoa hồng, hoa cúc phản chiếu một cách khác nhau. Môi trường hoàn cảnh khác nhau: I nhã, Têrêsa Avila, Têrêsa Hài Đồng:
   Abraham: lắng nghe, tự do trong lòng và tin tưởng
   Môi sen: thích lên núi, rồi chiến đấu với ơn gọi và sứ vụ Chúa giao phó
   Giêrêmia: thẳng thắn với Chúa; nói lên nỗi bực dọc, kháng cự
   Judith: khuyên mọi người tin tưởng, phó thác
   Mẹ Maria: suy đi nghĩ lại trong lòng mọi biến cố
- Cảm tưởng không xứng đáng là người có hình ảnh sai về Thiên Chúa. Một Thiên Chúa khắt khe. [có người đến cầu nguyện, thử rồi thấy sợ, cho rằng mình không đủ sức, không đạo đức đủ]
Thiếu chuẩn bị
- Tìm Chúa trong mọi lúc; giữ một lòng hướng về Chúa luôn trong ngày
- Nơi chốn và thời gian có thể làm trở ngại nếu có những điều dễ làm chia trí, lo ra
- Cần thu xếp để có một lối sống đều hòa
Trong cầu nguyện
Khi thấy khó cầu nguyện, không biết phải làm gì
Cần giúp hiểu thêm về cầu nguyện là gặp gỡõ, tiếp xúc với Chúa. Xưa kia khi chưa có KinhThánh các tổ phụ cầu nguyện thế nào? Họ gặp Chúa qua lịch sử và các biến cố của cuộc sống, qua thiên nhiên. Maria nhớ trong lòng 

Đó là những lúc dễ nghe tiếng Chúa - Chúa ở trong trái tim. In touch with the feelings - Mary reflects các biến cố xảy ra.
Chia trí, distractions:
Thomas Merton nói: "If you have never had any distraction, you don't know how to pray" (Nếu chưa bao giờ có chia trí, anh không biết cầu nguyện)
Đầu óc chúng ta luôn luôn bị bao vây bởi những suy nghĩ lặt vặt suốt ngày. Không xua đuổi được, chỉ có thể làm giảm bớt. Điều nguy hại hơn là cảm thấy khó chịu, lo lắng, nản lòng. Nên thử:
  • công nhận là đang chia trí, biết rằng đó là tự nhiên và không có gì nguy hiểm
  • dùng ‘mantra’, chú ý nghe hơi thở
  • đổi 1 chút trong cầu nguyện: đọc lạ bài KT, một vài kinh
  • nếu không có cách nào khác: nói với Chúa về sự lo ra
Thái độ:
  • Kiên nhẫn, sẵn sàng phí thời giờ, waste time
  • Trung thành, dù có kẹt vài ngày không bỏ dở chương trình
Trong cơn sầu não, sầu khổ thiêng liêng
Đối với 1 người đã có kinh nghiệm Linh Thao, Nguyên Tắc Phân Biệt Thần Loại giúp hiểu:
  • Vì chúng ta sống nguội lạnh nên khó cầu nguyện
  • Chúa cho phép những khó khăn để thử xem chúng ta qúy mến Ngài hay qúy điều gì Ngài ban. Xem chúng ta có trung thành với Ngài dù gặp gian nan
  • Chúng ta hiểu sự nghèo nàn và bất lực của mình
Đối với người linh hướng: chính linh hướng cũng cần phải có một đời sống cầu nguyện
  • vai trò của LH: chúng ta chỉ là những người dọn đường cho Chúa
  • Kiên nhẫn - Nhiều khi mình nóng lòng muốn họ nhận ra Ơn Xin và ép buộc. Điều này có thể mình làm cản trở với Chúa Thánh Thần, vì có thể họ cần thời gian nhiều hơn.
  • Không cần học hỏi nhiều tài liệu Non Multa sed multum - . Cho ít nhưng giúp họ ý thức những gì xảy ra trong lòng
  • khuyến khích nhưng không gò bó, giúp họ có lối cầu nguyện thích hợp
  • giúp họ có ước muốn
  • Để ý, lắng nghe nếu họ trong desolation thì cần khuyến khích nâng đỡ an ủi
  • giúp họ hiểu nguyên tắc Phân biệt Thần Loại
  • Lắng nghe và để ý những lệch lạc họ có. Giúp họ ý thức vì chính những lệch lạc có khi còn nguy hiểm hơn tội lỗi
Từ từ và theo những chuyển động trong cuộc sống:
- Lúc đầu cần nói nhiều, càng về sau càng cần ít lời khi người ta bắt đầu hiểu nhau rồi; điều này gọi là: di chuyển từ thái độ chủ động đến thái độ thụ động, đây là một biến đổi. Thánh Gioan Thánh Giá đề cập nhiều đến vấn đề này, khuyên bảo:
  • bớt chủ động, thêm thụ động lúc nguyện ngắm
  • thinh lặng hơn, biết nhìn nhau trong tình thương,
  • mình cảm thấy hơi lo, lạc lõng, tự hỏi đang cầu nguyện ra sao ...
Lúc đầu chúng ta điều khiển, kế tiếp Thần Khí điều khiển chúng ta, ngày càng đào sâu con người nội tâm. Đây là lúc chúng ta bình tĩnh phó thác ... Đây là lúc chiêm ngẫm.
Tóm lại: LH là một dụng cụ của Chúa giúp anh em, hiện diện như một bí tích
• • •

Cầu Nguyện
Thầy Quân sj
Cách đây không lâu, tôi có gửi đến bạn một suy tư nho nhỏ về Tuổi Già và Sự Chết. Bài suy niệm đó, nếu tôi nhớ không lầm thì được khởi đi từ ý tưởng của phúc âm Luca đoạn 2, câu 22 đến câu 28, diễn tả lại chuyện cụ già Simeon ca bài ca An Bình Ra Đi. Hôm nay, xin phép bạn cho tôi dùng một đoạn phúc âm khác của Matthew nói về biến cố Chúa Giêsu biến hình để gửi đến bạn một suy tư quan trọng của mùa chay: Cầu Nguyện.
Hẳn các bạn cũng đồng ý với tôi ở một điểm: biến cố Chúa biến hình cho chúng ta một hình ảnh sinh động về Thiên Chúa. Có một cái gì đó liên hệ giữa Giêsu hôm qua và chúng ta hôm nay. Bạn và tôi, thật khó mà tưởng tượng nổi sự 'biến hình' của bản thân, nhưng một lẽ nào đó, chúng ta ước mơ nó xảy đến, phải không? Ta muốn nhìn, muốn cảm thấy và trở nên một con người khác hơn cái tôi của hiện hữu. Vô số những tín hiệu ta nhận được từ thế giới quanh ta đã như là nguồn thôi thúc sự đổi thay, sự biến dạng. Dáng vẻ bề ngoài, những gì ta có, và nhất là kẻ bàng quang nghĩ gì về ta, thấy gì nơi ta.
Nỗi ám ảnh về việc thiên hạ nhìn ta dưới nhãn quang nào đã thậm chí đưa chúng ta tới một lắng lo: hình dạng ta sẽ ra sao trước mặt Thiên Chúa. Đây thật là điều nực cười vì ta cứ làm như thể Chúa chẳng thấu rõ ta là ai: trong lẫn ngoài. Có phải đó cũng chính là nguyên nhân làm ta không muốn cầu nguyện bởi vì ta sợ rằng một khi ta tâm tình với Chúa, Ngài sẽ hiểu nết xấu của ta hơn; hoặc như là ta chưa ở trong sự tuyệt hảo cần thiết? Ta nghĩ là ta cần phải sẵn sàng khi Chúa đến. Điều này đúng thôi nhưng có đôi khi ta đi xa hơn đến độ tưởng rằng ta có thể tiên đoán ngày và giờ ấy. Và rất có thể ta cũng tưởng mình sẵn sàng được theo kiểu của Phêrô, Giacôbê, Gioan hôm nay: "chúng con sẵn sàng, xin cho chúng con lập 3 lều . . ."
Tôi còn nhớ những câu chuyện của 30 ngày tĩnh tâm dài. Trong khi chiêm niệm, tôi luôn tưởng đời tôi cũng như một căn nhà ấm cúng. Tôi cứ mải miết dọn dẹp, lau rửa mỗi ngày. Cửa trước được trang hoàng kỹ lưỡng chờ Ngài đến. Mà thật, tôi chờ và khao khát Ngài. Thế nhưng hình bóng của Giêsu chưa bao giờ xuất hiện từ ngưỡng cửa đầy hoa và thảm đỏ. Ngài đã đến trong đời tôi mà không qua ngưỡng cửa ấy, bởi lúc thì Ngài vào cửa sau, khi thì chui qua ống khói, và thậm chí có lần Ngài trèo cửa sổ mà vào.
Trong lúc ta bận rộn tô vẽ cho đời mình trông cho đẹp mắt, gọn ghẽ và tuyệt hảo trước Nhan Thánh, thì lời nhắn gửi của Giêsu hôm nay lại là sự quan trọng của những biến đổi đích thực rất người. Biến đổi là công việc của Thiên Chúa, không phải là việc của ta. Thường lắm khi ta cứ bỏ lỡ một chi tiết quan trọng (như các Tông Đồ ngày xưa cũng phạm phải) là viễn tượng của sự đẹp đẽ, sự tuyệt hảo luôn được theo sau bằng những tiên đoán của Chúa Giêsu về chính những đau khổ và sự chết.
Vậy thì làm sao chúng ta có thể thực thi những điều này? Tôi muốn đề nghị hôm nay về nhiệm vụ của ta trong sự 'biến hình' cho bản thân: mở lòng ra cho quyền năng của Thiên Chúa được thực thi. Và theo kinh nghiệm truyền thống thì còn gì có giá trị hơn khi ta để cho năng lực của Ngài tràn vào qua việc cầu nguyện? Bởi đó, tôi muốn chia sẻ với các bạn về đời cầu nguyện, về sự quan trọng trong cách nhìn Thiên Chúa của ta, về những lý do khiến ta bỏ lơ nguyện ngắm, những nguy cơ gặp phải khi cầu nguyện, về sự thực hành cầu nguyện trong đời sống và những hoa trái tiềm ẩn từ nó.
Trong quyển sách "Clinging", Emilie Griffin đã nói rằng cầu nguyện chẳng phải là những chi ta làm, mà là chính Chúa Kitô làm trong ta. Theo bà, cầu nguyện giúp ta 'cling' (bám chặt) vào Thiên Chúa, và giải phóng ta khỏi tư tưởng 'tự làm lấy', 'không lệ thuộc', những tư tưởng đẩy ta xa Ngài. Clinging không phải là những tư tưởng hay phương thức của cầu nguyện mà chỉ là những bước dọ dẫm, những kinh nghiệm của nó mà thôi. Bởi thế mà ngay cả Thiên Chúa khi muốn phá tan khỏi ta những bức tường ngăn cách, thì Ngài cũng đi rất từ tốn, nhẹ nhàng mà chẳng làm ta sợ hãi hay thậm chí đe dọa sự tự do của ta.
Karl Rahner đã viết: "Chẳng phải con vồ lấy Cha, nhưng chính Cha chộp lấy con". Mà Thiên Chúa này là ai mà lại chộp lấy ta trong cầu nguyện? Ta nhìn Chúa dưới nhãn quang nào?
Ta đã cầu nguyện với một Thiên Chúa, Đấng chỉ dùng quyền năng để cho đi hay giữ lại những điều tốt, để cân đo đong đếm sự thưởng phạt, hay để gửi đến ta bao khó khăn, đau khổ hầu thử thách ta, xem ta có xứng đáng vào hưởng cuộc sống thần thánh mai hậu? Hay ta cầu nguyện với một Thiên Chúa, Đấng dắt ta ra khỏi những khó khăn do chính ta và anh em tạo nên?
Chúng ta cần xét lại về cách nhìn Thiên Chúa thật cẩn thận để xem xem nó có thực sự giống với Thiên Chúa của Tạo Thành, của xuất hành, của Giêsu cứu đời, của Thánh Thần trong ngày Hiện Xuống, của sự huyền nhiệm, của các tiên tri những kẻ rao giảng công bình qua các thời đại - một Thiên Chúa luôn yêu thương. Nói theo kiểu Griffin: "Chúng ta được Ngài yêu chẳng phải vì ta đạo đức mà vì qua tình yêu ấy, Ngài sẽ làm ta nên đạo đức hơn".
Những lý do khiến ta ngại cầu nguyện. Khi tôi cầu nguyện, tôi chẳng có cảm giác gì hết. Sự vô cảm này lắm khi lại do chính sự thờ ơ, tự thu mình trong hệ thống phòng thủ tiềm ẩn trong lòng tôi - những thứ bảo vệ tôi khỏi cái mà tôi sợ nhất: sự chối từ. Hơn nữa, nếu tôi cầu nguyện mà không có cảm giác gì hết thì điều này đã nói gì cho tôi hay về cảm giác của Thiên Chúa lúc đó đối với tôi?
Lý do khác: khi tôi cầu nguyện, tôi không tập trung vào cái mà Thiên Chúa ban cho nhưng mà vào thứ mà Ngài còn cất dấu cứ như thể Ngài là Thiên Chúa kiểu ông già Noel, mang trong mình một danh sách dài và xét năm lần bẩy lượt xem ta làm tốt hay xấu.
Lý do thứ ba: cầu nguyện là một việc quá hiển nhiên, tìm một lối về, một ngã rẽ khi tôi chạm trán với tham vọng của đời thường. Griffin đã gọi "cầu nguyện là một manh mối còn ẩn nấp trong đồng cỏ bao la". Hay nói khác đi, cầu hoài mà chả được. Sự nhận xét này thường khởi phát từ những con người chả bao giờ cầu nguyện hoặc từ kẻ muốn biết, muốn tìm một khởi phát cho những lối thoát. Điều cần nhớ là Thiên Chúa biết cách đáp trả lời cầu của ta hơn ta tưởng, ta suy.
Đã từ lâu, tôi bỏ đi việc cầu nguyện cho người khác một cách chi tiết mà thay vào đó là xin Chúa ban cho họ những chi mà họ thực sự cần. Dĩ nhiên, khi họ gặp hoạn nạn, khổ đau về tinh thần, vật chất hay tâm lý, tôi đã xin Ngài an ủi, thêm sức và ban cho họ cảm nhận về sự hiện hữu của Ngài trong những đau khổ ấy.
Lý do chót: ta cầu nguyện mà lòng thấy khô khan vô tả. Tôi đề nghị một cách nhìn khác hơn cho cảm giác khô khan và trống rỗng của ta khi cầu nguyện. Đó là thay vì nhìn thấy sự trống rỗng, ta nhận ra cái mênh mang của lòng ta đang khao khát chờ Ngài đong đầy và dằn lắc. Há chẳng phải khi đói và lúc khát thì thức ăn và nước uống trở nên ngon hơn sao? Đây cũng chính là một trong những lý do của chay tịnh hầu giúp ta gọt dũa cho sắc khao khát được có Ngài.
Thông thường tim ta cũng giống như đầu, tay và bao tử cứ đầy ắp những thứ đẩu đâu làm ta chẳng còn chỗ chứa. Qua cầu nguyện, ta có cơ hội trỗng rỗng đủ để Ngài thực sự được chào đón. Có lẽ ngáng trở lớn nhất khi cầu nguyện là sự sợ phải im lặng. Thứ im lặng mà qua nó, ta cảm thấy cái ham muốn gần gũi, nhưng đồng thời cũng là những dằn vặt của tiến hay lui, khao khát hay chối từ. Nói một cách khác đi, cầu nguyện là nguy cơ. Mà nó là nguy cơ thật bạn ạ. Nguy cơ rằng Thiên Chúa sẽ biến đổi ta, thay cách nhìn của ta, sự hiểu biết của ta, giá trị, ưu tiên ... và tệ hơn nữa biến ta thành một kẻ mà ta chẳng thể chấp nhận. Chúng ta có thể sẽ bắt đầu quan tâm đến giá trị khác hay anh em đồng loại theo cách làm ta không mấy thoải mái; hoặc ta ngừng quan tâm đến một số giá trị ưu tiên của riêng mình.
Hồi còn trong tập viện, một lần ngồi nói chuyện với Cha Giám Tập Pat Lee, Cha đã hỏi tôi: "Phải chăng con sợ Chúa biến đổi mình vì rất có thể Ngài sẽ đưa con đến một mẫu người mà con không chấp nhận?" Có lẽ Cha nói đúng. Mặt khác, qua cầu nguyện, ta có cơ may cảnh giác với những ấn tượng sai, những mặt nạ của đời ta và thậm chí ta có thể quên đi mà dâng hiến cái ưu tư, sợ hãi và phiền muộn của ta cho Ngài.
Như Griffin nói: "Đồng bạc duy nhất mà ta có thể dâng là chính con người của ta." Và nếu như ta keo kiệt ở điểm này thì ta chỉ cách ly mình ra khỏi cái tôi thật của ta mà thôi. Thậm chí nếu ta miễn cưỡng với Thiên Chúa thì như một bài thơ nào đã viết: "Nếu bạn chẳng thành tâm khi cầu nguyện mà chỉ dâng những tâm tư khô cạn, kiêu căng, hồ nghi cho Chúa, thì trong tình yêu bao la của Ngài, bạn nhận được đồng bạc xấu xí làm phần thưởng đã là may lắm thay."
Các bạn mến, khi chúng ta dâng Ngài thời giờ quý báu, tất cả những kiểu cách, kế hoạch, phương thức được quét sạch đi và có lẽ lần đầu tiên trong đời, ta sẽ nghe Ngài nói với ta trong chỗ lặng lẽ nhất của trái tim. Và điều Chúa nói là tên gọi của chính ta. Chỉ trong tiếng gọi và lắng nghe ấy, ta biết rằng ta thuộc về Người. Nhìn một người bạn, ta có thể nói người đó có đời sống cầu nguyện sâu sắc. Bởi họ sống rất nhân hậu, vị tha, khiêm tốn, nhẫn nại, cởi mở, bình tĩnh trước khó khăn. Vì khi cầu nguyện, đời sống nội tâm đã phủ lấp cái ngoại hình ồn ào đáng ghét.
Thế nên bạn ơi, khi cầu nguyện, đừng lo lắng cho việc nên đứng hay ngồi, quỳ hay nằm. Đừng ưu tư về việc nên đọc kinh Lạy Cha cách chậm rãi, hay đọc một đoạn Phúc Âm, cầu nguyện với nét nhạc, với Thánh Tích hay dùng Kinh Mân Côi. Phương thức luôn thay đổi mà đề tài thường dễ thương thuyết. Cầu nguyện thực sự là im lặng trước Thánh Nhan và thả hồn trong tình yêu của Thượng Đế.
Cầu nguyện tự nó không phải là thành công hay thất bại mà là đưa cái tôi của ta vào lòng Ngài, vì Thiên Chúa luôn luôn yêu ta, nhất là lúc ta trở về từ những vấp ngã. "Con muốn ở nơi những bước chân Ngài đi, bởi trước khi bước đi, Ngài đã nhìn xuống lòng đất, và qua đó Ngài thấy con mà chúc lành cho". Vâng, hãy cầu nguyện luôn vì Thiên Chúa muốn chúc lành và biến đổi con người yếu đuối của ta.
• • •
Cách thức cầu nguyện một mình 5
CÔNG THỨC 4 P + 1R CHO GIỜ CẦU NGUYỆN RIÊNG
 P1: Presence of GodCảm nhận sự hiện diện của Chúa
  • Tìm địa điểm yên tĩnh và tư thế thoải mái.
  • Để cho tâm hồn và thể xác hoà nhịp với nhau.
  • Đặt mình trước sự hiện diện của Chúa.
  • Làm một cử chỉ tỏ lòng tôn kính Chúa.
P2: Petition for Grace: Xin ơn cho giờ cầu nguyện
  • Trong mỗi bài thao luyện có một Ơn Xin được trình bày ngay trong đoạn đầu tiên dưới tiêu đề “Tôi muốn gì.”
  •  Suốt tuần dù khi cầu nguyện với những đoạn Kinh Thánh khác nhau, chúng ta vẫn nguyện xin cùng một Ơn Xin này.
 P3: Passage of Scripture: Cầu nguyện với Kinh Thánh
 Phương pháp tổng quát:
  • Trong giờ cầu nguyện này, người thao luyện mấp máy môi đọc thầm đoạn Kinh Thánh mình cần cầu nguyện;
  • Dừng lại ở những chữ hay câu văn làm mình phải suy nghĩ, thắc mắc vì khó hiểu, hay vì thấy tâm đắc;
  • Trao đổi với Chúa và lắng nghe Ngài giảng giải, mời gọi.
  • Thử hỏi xem Chúa muốn nói gì với mình qua đoạn Kinh Thánh này?
  • Tôi sẽ áp dụng thế nào những gì Chúa muốn nói với tôi trong giờ cầu nguyện này?
Phương pháp chuyên biệt:
  • TLV có thể cầu nguyện theo một trong ba cách: Suy niệm (meditation), chiêm niệm (contemplation) và cầu nguyện bằng xem và xét ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh (prayer of consideration).
P4: Prayer: Trò chuyện, tâm sự với Chúa
  • Bằng những lời chúc tụng Chúa.
  • Hoặc bằng nài xin Chúa Ơn Xin của bài cầu nguyện này.
  • Hoặc bằng xin ơn để đáp trả lại mời gọi của Chúa trong giờ cầu nguyện này
  • Hoặc bằng phó thác tương lai cho Chúa.
  • Rồi kết thúc giờ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha.
1 R: Review: Kiểm Điểm Giờ Cầu Nguyện
            Nhìn lại giờ cầu nguyện vừa qua với các câu hỏi sau:
  • Cách mình vừa cầu nguyện [thời giờ, nơi chốn, phương pháp] có giúp ích không?
  • Mình đã nhận được ơn gì?
  • Cảm nghiệm của mình như thế nào? Vui hay buồn? Được an ủi hay sầu khổ? v.v…
  • Ghi chép những điều mình kiểm điểm trên vào nhật ký cầu nguyện.
• • •
Lectio Divina 6
Là một phương pháp cầu nguyện bắt nguồn từ các đan viện xưa, hiện tại Lectio Divina được phổ biến trong các cộng đoàn tín hữu. Trên nguyên tắc, thì trong phương pháp cầu nguyện này chúng ta diễn tiến theo ba bước, nhưng trong thực tế, khó mà phân biệt ba giai đoạn. Song, phân chia như thế giúp ích hơn cho người muốn làm quen với phương pháp đọc Kinh Thánh này:
1.- Đọc bản văn (Lectio). Trước tiên tôi hỏi: 'Bản văn này nói gì? Tôi chú ý đọc từng chủ từ và động từ để tìm hiểu một bản văn được viết dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Tuy đôi khi đoạn Kinh Thánh quá quen thuộc, tôi đọc đi đọc lại để đi sâu vào ý nghĩa thật của nó. Tôi đọc bản văn với một thái độ tích cực chú ý, như khi đến gần một th?ng cảnh, lúc ban đầu xem ra là một thung lũng san bằng, nhưng nơi đó từ từ xuất hiện đồi núi, suối nước, chỗ đầy ánh sáng, chỗ nằm trong bóng râm. Tôi nguyện xin Thần Khí mở mắt cho tôi thấy được ý nghĩa sâu xa của bản văn. 
Bước đầu 'đọc' (lectio) mở đường cho bước sắp tới 'suy niệm' (meditatio), chứ chưa phải là mục tiêu cuối cùng. Bước đầu tiên này được kéo dài nhiều hay ít tuỳ nhu cầu: ngắn quá thì suy niệm sẽ chẳng có kết quả, lâu quá thì không còn thì giờ suy và chiêm niệm.

2.- Suy niệm (Meditatio) về những giá trị được bản văn nêu lên. Đây là cách mới nghiền ngẫm bản văn là tìm ý nghĩa của nó cho cuộc sống cá nhân và cộng đoàn. 'Bản văn mang đến những giá trị nào về cách suy nghĩ và hành động của người kitô hữu?': 'Bản văn này nói với tôi điều gì?' Tôi suy niệm không chỉ với đầu óc mà còn bằng trái tim, bởi vì những giá trị đó có thể đánh động lòng tôi. Ý nghĩa sâu xa của những lời này là gì? Qua bản văn này, Đức Giê-su mời tôi sống như thế nào? Lời Chúa biến thành một cách sống.

Tuy nhiên, tôi không nên kéo dài phần suy niệm nhiều, kẻo tôi cảm thấy mãn nguyện vì đã hiểu ý nghĩa sâu và rộng của bản văn cùng liên hệ nó với cuộc sống. Thấu hiểu chưa chắc là áp dụng cho cuộc sống. Khi cầu nguyện, Chúa mở mắt và soi sáng tôi, nhưng Ngài muốn dẫn tôi xa hơn, là 'thực thi công bình, quý yêu nhân nghĩa và khiêm nhường bước đi với Thiên Chúa' (Mk 6,8).

3.- Chiêm niệm (contemplatio) dẫn tôi đến cách cầu nguyện là thờ phượng Chúa trong 'thần khí và sự thật' (Ga 4,24). Tôi nghiền ngẫm Đức Giê-su đã thực hiện các giá trị trong cách đối xử với Chúa Cha và với tha nhân. Tôi không chỉ trao đổi ý kiến với Chúa. Tôi thờ phượng và mến yêu Đức Giê-su, dấn thân theo, hối hận xin lỗi, ngợi khen lòng nhân từ Chúa, khẩn cầu cho chính mình, cho nhân loại, cho Hội Thánh. Căn cứ vào bản văn này tôi đang cảm thấy gì: một sức lôi cuốn dịu dàng, niềm thích thú đối với một lối sống như vậy, một năng lực nội tâm và niềm hy vọng, một nỗi sợ hãi, kháng cự, muốn trốn tránh chăng? Tôi đang tìm thánh nhan Chúa và tin mừng của Ngài. Tâm hồn tôi đang kết hiệp với Thần khí Chúa. Tôi đang gặp gỡ, nói chuyện và tâm tình với chính Chúa đang kêu mời tôi. Đây chính là tâm điểm cầu nguyện.

Đây là cuộc gặp gỡ giữa Đấng Tạo Hoá và thụ tạo, giữa hai Cha con, giữa hai anh em, giữa lòng tự do của Chúa và lòng tự do của tôi. Đối tượng của chiêm niệm luôn luôn là Đức Giê-su, là Ngôi Lời Chúa Cha. Đây là lúc thuận tiện để tôi hiệp nhất với Thần Khí Chúa và mở lòng lãnh nhận đức bác ái Ngài ban cho.

Khi chiêm niệm, tôi 'tích cực' thờ phượng và mở lòng mến yêu, nhưng đây cũng là lúc tôi 'thụ động' nhận lãnh, để nhờ Thần Khí, tôi thờ phượng, ngợi khen và làm vinh hiển Chúa Cha. Đây là lúc tôi nhường chỗ trong trái tim tôi cho Thần Khí. Đây là một cuộc 'ăn năn trở về' tận gốc, bởi vì Chính Thần Khí soi sáng, tác động và yêu mến Cha trong chúng ta.
• • •
Cầu Nguyện Tự Phát 7
Lời nguyện tự phát là những phương cách ngắn gọn, hữu hiệu và dễ nhớ để mở lòng cho những hồng ân cần thiết trong cuộc sống, nhất là lúc gặp gian khổ, bị cám dỗ, cần được tha thứ hoặc phải tha thứ cho người khác. Chúng ta đề nghị bốn kiểu lời nguyện dành bốn hoàn cảnh thường xảy ra trong cuộc sống:
I.- Lúc chúng ta gặp thử thách, bệnh tật hoặc vấn đề làm cho mình lo âu. Lúc đó lời bộc phát tự nhiên là: Lạy Chúa, xin cứu giúp con!. Khi chúng ta chạy đến Chúa như vậy và khiêm nhường nguyện xin ơn trên, Ngài ban sức lực chịu đựng, bình an nội tâm làm cho chúng ta có thể chịu đựng một biến cố nguy hiểm, một thất bại cay đắng hay một đêm dài trên giường bệnh viện.
Có người không cầu xin vì tưởng lầm mình phải 'ráng chịu' một mình, hay là Thiên Chúa không lưu ý đến những biến cố nhỏ bé như vậy. Thực sự, Thiên Chúa thương yêu con người vô điều kiện, không chỉ nghe lời khẩn cầu mà còn muốn nâng đỡ, ủi an và đồng hành với ta lúc gian truân. Có nhiều cách khẩn cầu:
* Lần chuỗi. Kinh Kính Mừng mang những đặc tính của một bài giảng hoàn hảo và ngắn gọn. 'Kính mừng Maria, Thiên Chúa ở cùng bà,'Con lòng Bà có phúc', Bà được Thiên Chúa chúc phúc. 'Bây giờ' là thời điểm của phút hiện tại trong cuộc hành trình tại thế. Hiện tại là thời gian trong đó chúng ta phải sống còn, mà hoàn toàn không biết phải chờ Nước Chúa cho đến bao giờ. 'Trong giờ lâm tử, thời điểm cuối cùng của đời sống thể xác là cái chết. 'Cầu cho chúng con khi này và trong giờ lâm tử'.
Chuỗi mân côi rất phong phú về Thần Học. Tuy nhiên, khi lần chuỗi ít khi chúng ta nghĩ tới bản chất Thần học đó. Chúng ta tạo ra một sự thinh lặng trong tâm trí mà l?p đi l?p lại cũng chừng ấy từ ngữ. Một bình an, một sự sung sướng tuôn tràn làm ta thốt lên những từ được l?p lại. Khi lần chuỗi, chúng ta nếm nhắp những lời Thiên Thần ngỏ với mỗi người chúng ta: Thiên Chúa ở cùng người mà ban cho ta thêm sức và óc sáng suốt trong giây phút đó. Khi lần chuỗi chúng ta nhắc đến tình yêu của Đức Mẹ cảm thương và khẩn cầu cho các con đang lâm nguy, xin Thiên Chúa tìm cách, như trong tiệc cưới Cana, khi hai tân lang nghèo muốn chia sẻ niềm hân hoan với mọi người nhưng không còn rượu.
* Lạy Chúa, xin Chúa rút ích lợi nào đó từ nỗi đau khổ này! Cách đây mười lăm năm, ông Brendan là trưởng nhóm CLC, bị bệnh lạ lùng làm cho ông hoàn toàn tê liệt. Trong cơn bệnh, rất nhiều người viết thư chia buồn và hứa lời nguyện. Chỉ có cộng đoàn Đài Loan viết thư yêu cầu ông cầu nguyện và dâng hiến nỗi đau khổ cho những vấn đề và nhu cầu cộng đoàn đang có. Theo ông thuật lại, lá thư 'yêu cầu' này an ủi ông hơn tất cả các lá thư 'thông cảm' kia vì đã mang một ý nghĩa cho tình trạng bế tắc của mình .
Thực sự, những cơn đau khổ có thể làm cho chúng ta nản lòng và chán nản, nếu không thấy một ý nghĩa, một mục đích cho ai. Còn nếu những đau khổ của mình có một ý nghĩa, mang ích lợi cho ai, cho nhiệm thể Đức Kitô, chúng ta được nâng đỡ rất nhiều. Lạy Chúa, xin Chúa rút ích lợi nào đó từ nổi đau khổ này! Ước chi không một phần nào trong các nỗi đau khổ này bị phí phạm! Xin rút ích lợi cho con (cho con được thanh tẩy và thuộc về Chúa), cho anh em (được cảm thương với họ, mang hồng ân Chúa cho họ). Xin cho con nhận ra và biết ơn Chúa (và anh em đang coi sóc con) cũng như những hồng ân khác con được hưởng.
* Dâng hiến lên. Một trong những mầu nhiệm cuộc sống Kitô hữu là Thánh Ý Chúa mời chúng ta chia sẻ sứ vụ tư tế của Đức Kitô, tức là nối kết nhân loại và Thiên Chúa trong tình thương, trong niềm tin và trong lòng vâng phục. Đức Kitô đã tận hiến mình cho Chúa Cha trong cuộc sống thường ngày, nhưng chính lúc Ngài chết trên thập giá là lúc Ngài hoàn toàn dâng hiến mình cho Chúa Cha. Sự hy sinh trên thập giá là hành động thể hiện rõ nhất lòng vâng phục của con người cho Chúa Cha. Khi nhận lãnh sự chết Đức Giêsu đã bày tỏ sự tận hiến hoàn toàn cho Chúa Cha với lòng hiếu thảo của một người con. Trong cuộc sống có những lúc lời nói và việc làm của chúng ta chẳng có công hiệu là bao nhiêu. Bệnh thể xác hay nỗi đau khổ về tinh thần không còn tránh được nữa. Đây chính là lúc chúng ta đồng tâm nhất trí với sứ vụ tư tế của Đức Kitô lúc chịu nạn chịu chết, nâng tâm hồn lên Chúa Cha và học được thế nào là vâng phục Chúa Cha với lòng hiếu thảo của một người con, Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài (Dt 10, 9).
Cuộc sống và chính thể xác chúng ta biến thành trong Đức Kitô bàn thờ, hy lễ và tư tế. Sứ vụ này được thể hiện một cách trọn vẹn lúc dâng Thánh Lễ. Thánh Thần liên kết chúng con nên một khi chúng con dự tiệc Mình Máu Đức Kitô (II), Xin cho chúng con nên một thân thể và một tinh thần trong Đức Kitô (III).
II.- Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Trong dụ ngôn người Biệt Phái và người Thu Thuế, người thu thuế chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi (Lc 18,13). Theo Đức Giê-su người này trở về nhà, thì đã được nên công chính rồi.
Lòng nhân từ của Thiên Chúa thật lạ lùng và bất ngờ. Như Giáo Hội ca tụng khi Chúa thương xót và thứ tha, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách tỏ tường hơn cả (Chúa Nhật 26). Hai lời nguyện tự phát có thể giúp chúng ta mở lòng cho hồng ân nhân từ của Chúa: Con xin nhận ơn tha thứ của Chúa, Xin Chúa chữa lành và hàn gắn lại những vết thương con có thể đã gây cho người khác.
* Con xin nhận ơn tha thứ của Chúa. Hơn nữa! Con xin phó thác cho Chúa lòng yếu đuối, lệch lạc và hay phạm tội của con. Vì chúng ta tin rằng tình yêu vô điều kiện của Chúa đang thanh tẩy và thánh hóa chúng ta. Trước khi chúng ta ăn năn hối cải, Thiên Chúa đánh động tâm hồn và thúc đẩy chúng ta trở về với Ngài. Chỉ có Chúa mới có sức giải thoát và biến đổi tâm hồn đuối sức và hay phản bội. Chúng ta không giấu nhược điểm được, cũng chẳng có thể tự cứu chuộc nổi mình. Như người thu thuế, chúng ta phó thác mình trong lòng thương xót của Chúa. Ngài sẽ công chính hóa chúng ta.
* Xin Chúa chữa lành và hàn gắn lại những vết thương có lẽ con đã gây cho người khác. Thiên Chúa nhân từ không chỉ tha thứ và biến đổi chúng ta, mà còn chữa lành và hàn gắn lại những vết thương chúng ta gây cho nhau. Chúng ta cũng nên xin họ tha thứ cho mình. Lòng khiêm nhường khi xin lỗi có thể điều chỉnh lại những hậu quả tai hại của hành động sai lầm đó. Đồng thời cho anh em cơ hội tha thứ cho chúng ta. Trong trường hợp họ từ chối, vì chưa sẵn sàng tha thứ, ít nhất, đã thành thật xin lỗi, chúng ta có thể lãnh nhận lòng thương xót và thứ tha của Chúa.
Nhiều khi chúng ta chẳng biết mình đã làm mất lòng, làm gương xấu, gây vết thương nơi anh em. Lúc đó có một lời nguyện sẽ mở đường cho hồng ân Chúa: Lạy Chúa, xin bù đắp, hàn gắn lại và điều chỉnh lại những thiệt hại có lẽ con đã gây ra cho anh em.
III.- Xin tha thứ cho anh em
* Lạy Chúa, là Đấng công chính, xin xử cho chúng con. Đức Giê-su tha thiết mời chúng ta tha thứ cho nhau bảy mười lần bảy, như Chúa Cha đã từng tha thứ cho chúng ta. Ngài nhắc đi nhắc lại lời này nhiều nhất. Tại sao? Vì sự dữ gây sự dữ, bạo lực gây bạo lực, hận thù gây hận thù và trả thù gây trả thù. Là nạn nhân của ác ý bất công, mỗi lần chúng ta nhớ biến cố đó, lòng chúng ta nổi giận lại, mỗi lần thêm mạnh. Một lời nguyện tự phát rất hữu ích là: Lạy Chúa, là Đấng công chính, xin xử cho chúng con. Chúa biết trái tim mỗi người, Chúa biết quá khứ cũng như hiện tại của chúng con. Chúa xử và lo cho cả vụ này. Con xin phó thác mọi sự trong bàn tay Chúa. Làm như vậy thường thường Chúa ban cho tâm hồn chúng ta một bình an sâu xa, thoải mái và vui vẻ rất đặc biệt.
* Cầu nguyện cho kẻ thù. Chúa nói: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em (Mt 5,44). Chúng ta nên thử tuân theo lời Ngài trong thực tế khi gặp người không ưa mình, có ác cảm và đôi khi muốn hại mình. Cầu nguyện thường xuyên cho họ, xin Chúa vào trái tim họ, biểu lộ tình yêu cho họ, kéo họ đến với Chúa; và chờ xem kết quả! Chúng ta sẽ lấy làm ngạc nhiên thấy 'kẻ thù' của mình đã bớt căng thẳng và ác cảm với mình, nhưng lại bắt đầu thông cảm dễ dàng hơn.
IV.- Ý Cha thể hiện dưới đất như trên trời.
Đây là lời nguyện quan trọng nhất, bao gồm tất cả những lời nguyện khác. Tại sao? Bởi vì Thiên Chúa có một kế hoạch đầy khôn ngoan và tình yêu dành cho mỗi người, mỗi tập thể: là ban sự sống và vinh quang cho chúng ta. Ngài còn mời chúng ta cộng tác với Ngài và giúp anh em sống thực sự theo kế hoạch Ngài dành cho mỗi người. Chẳng có lời nguyện nào quý báu hơn. Trong mọi hoàn cảnh: thành công hay thất bại, khỏe hay đau, khi bị cám dỗ hay lúc gặp nghịch cảnh, chúng ta tâm tình với Ngài, phơi bày các biến cố và nguyện xin: con xin vâng theo Ý Cha, xin cho Ý Cha thể hiện. Chỉ cần lưu ý một điểm: là tránh hình ảnh và thái độ sai lầm trước mặt Thiên Chúa. Nếu chúng ta quên rằng Ngài là người cha nhân hậu và khôn ngoan, tràn đầy tình yêu vô điều kiện, và coi Ngài như kẻ muốn thử thách, sửa phạt chúng ta vì tội lỗi ngày xưa, thì Thánh Ý biến thành một sự đe dọa trên đầu mình. Thay vì xin vâng theo Ý Ngài, chúng ta chỉ muốn tránh và xin Ngài để chúng ta yên trong một cuôc sống bình thường, an toàn vừa ý chúng ta. Nhưng, nếu chúng ta tin tưởng Thiên Chúa là cha nhân từ, là cha của Đức Kitô, thì chúng ta hài lòng và tin tưởng cầu nguyện thường xuyên Xin Thánh Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

--------------
1. Bài của Cộng Đoàn Đồng Hành
2. Bài của Eli Thành
3. Lần đầu tiên Cha Nadal đại diện Thánh I-nhã đi Tây Ban Nha vào năm 1553. Vài Giêsu hữu nói với ngài về cách cầu nguyện trong Dòng Tên, than phiền về thời gian quá ngắn chúng ta dành cho sinh hoạt thánh thiện này. Theo ý kiến của họ, bao lâu không tăng thêm thời giờ, Hội Dòng không có thể tồn tại; ngòai ra, họ lấy làm xấu hổ khi người ta hỏi và phải trả lời rằng suốt ngày chỉ có một giờ cầu nguyện. Nghe những ý kiến trên cha Nadal trở về Rôme có vẻ đồng ý với họ. Ngày 22 tháng 11 năm 1554, lễ thánh Cêcilia, cha Nadal phúc trình cho cha I-nhã về tình trạng Tây Ban Nha, ngài cũng trình bày những lời than phiền đó cùng ý kiến của mình nên tăng thêm thời gian cầu nguyện, ít nhất trong tỉnh đó. Cha I-nhã đang nằm trên giường và tôi hiện diện tại đó. Đến điểm này cha I-nhã đáp lại với khuôn mặt và lời nói bất đồng ý và tha thiết làm tôi ngạc nhiên; ngài rầy la và sửa lại cha Nadal một cách khắt khe đến nỗi tôi phải phục lòng kiên nhẫn của cha Nadal, mặc dầu tôi đã biết mức đạo đức của ngài. Rút cuộc cha I-nhã kết luận: một người thực sự đang từ bỏ mình chỉ cần mười lăm phút để kết thân với Chúa trong cầu nguyện. Và tôi không chắc có phải là lúc đó ngài nói thêm nhận xét tôi đã từng nghe những lần khác rằng: trong một trăm người thường xuyên cầu nguyện, chín mươi người theo ảo tưởng. Về nhận xét này tôi nhớ rất rõ, tôi chỉ nghi ngờ không nhớ chắc chắn là ngài nói chín mươi hay là chín mươi chín. (Memoral de Luis Gonçalves da Camara, n.196)

4 .Bài của Cộng Đoàn Đồng Hành
5. Bài của Cộng Đoàn Đồng Hành
6. Bài của Eli Thành
7. Bài của Eli Thành bắt hứng từ Robert Spitzer, sj "Five Pillars of the Spiritual Life" 2008

 Cột trụ ba: Các Mối Phúc Thật

Đức Kitô cho chúng ta biết rằng mỗi người là một tác phẩm quý báu của Chúa Cha. Tuy còn dở dang, nhưng mỗi người có một giá trị cao quý trước mặt Thiên Chúa và là một thế giới đầy mầu nhiệm đáng tìm hiểu và quý mến. Theo Đức Kitô, thương yêu anh em là biết đồng cảm với họ, luôn để ý đến ưu điểm và những gì đáng quý mến hơn là thiếu sót và những gì dễ ghét của họ. Thương yêu như Đức Kitô là giúp anh em trở thành tốt đẹp hơn, theo kế hoạch Thiên Chúa dành cho mỗi người.
Trong các Mối Phúc Thật, Đức Kitô mô tả các điều kiện, thái độ và hoa quả của tình thương mới mà Ngài mang đến cho nhân loại. Sáu mối phúc thật mô tả thái độ căn bản của tình thương này, còn ba mối kia mô tả những hoàn cảnh Thiên Chúa sẽ ủi an, chữa lành và thánh hóa. 
Thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. 
Người mở miệng dạy họ rằng:
"Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa.
Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.
Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5, 1-12). 
• • •
1.- “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”.
Đức Kitô muốn nói về những ai không tự cậy dựa vào sức mình, mà nương tựa vào lòng nhân từ và sức lực của Thiên Chúa. Có tâm hồn nghèo khó là những ai đặt niềm hy vọng nơi Thiên Chúa. Nghèo như vậy tức là có lòng khiêm nhường, biết vị trí của mình đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa là tâm điểm cuộc sống họ.
Đây cũng là những người lựa chọn anh em là tâm điểm cuộc sống và mong muốn dùng khả năng, nghị lực và thời gian để giúp anh em nên người theo Thánh Ý Thiên Chúa. Tại các môi trường sống và làm việc, họ luôn luôn tự hỏi: "Tôi có thể làm gì cho ông?", "Tôi có thể giúp như thế nào để bà sống khá hơn theo kế hoạch Thiên Chúa?" Đối với người khiêm nhường, những gì làm được cho tha nhân biến thành mục đích của cuộc sống.
Như vậy, thật là 'vô phúc' cho những ai chỉ mong ước an cư lạc nghiệp, được hưởng nhiều tiện nghi, ăn uống và giải trí như ý, tạo cho mình địa vị và quyền thế cao, mà quên nội tâm mình khô khan, nông cạn, nghèo lòng nhân từ, nghèo đức tin và nghèo niềm hy vọng.
Một tâm hồn khiêm nhường là nền tảng của tất cả các thái độ nội tâm và là hoa quả của hai yếu tố: 1) Biết vị trí của mình trong kế hoạch tổng quát của Thiên Chúa. 2) Đặt nhu cầu của tha nhân trên nhu cầu cá nhân.
Tuy nhiên, vốn dĩ ai ai cũng vị kỷ, tham lam và tham vọng, mong muốn tạo ra cho mình một địa vị, một uy tín. Nếu vì Đức Kitô mà đã từ bỏ của cải và địa vị thế gian, thì bây giờ lại được Chúa cho nhiều người quý mến và ái mộ. Nếu không tự giác, phản ứng tự nhiên là để tâm nơi �của cải và địa vị linh thiêng' mới, thần tượng hóa chính mình và biến thành kiêu ngạo và ích kỷ hơn trước.
Muốn duy trì tâm hồn nghèo và khiêm nhường, mỗi ngày chúng ta cần từ bỏ mình đi, nhìn ngắm tình yêu vô điều kiện của Đức Kitô nghèo và khiêm nhường và bước theo Ngài.
Câu hỏi gợi ý cầu nguyện:
1.  Phản ứng như thế nào khi phải chịu đựng hậu quả nho nhỏ của cuộc sống khó nghèo?
2.  Hiện tại tôi đang có những cơ hội nào để khiêm nhường phục vụ anh em?
3.  Trong các văn phòng, nhà hàng, khi người ta không phục vụ tôi như ý, tôi phản ứng ra sao?
• • • 
2.- “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp”.
Lòng hiền lành bắt nguồn từ lòng khiêm nhường, biết quý mến anh em hết thảy và muốn phục vụ họ nên người theo Thánh Ý Thiên Chúa. Quý trọng anh em như vậy chúng ta mới kiên nhẫn và hiền lành với họ.
Người tự nhiên, có lúc bực mình, nổi nóng và sốt ruột, muốn dùng bạo lực và quyền thế với kẻ vi phạm mình. Người hiền lành biết giữ lòng bình tĩnh, sáng suốt, tôn trọng mầu nhiệm tự do của mồi người, bắt chước Cha Quan Phòng, luôn luôn tôn trọng mọi người và không dùng võ lực để dẫn dắt họ đến tình yêu và lòng vâng phục. Lòng hiền lành là hoa quả của lòng khiêm nhường đối với anh em. Gương mẫu về lòng hiền lành là Đức Kitô vì Ngài luôn luôn tỏ ra lòng hiền lành và khiêm nhường phục vụ.
Câu hỏi gợi ý cầu nguyện:
1.  Khi bàn cãi, nhất là nếu bất đồng ý kiến, thường thường tôi góp ý bằng cách nào?
2.  Khi bị tổn thương và đụng chạm, thay vì trả ác với ác, tôi phản ứng ra sao?
• • • 
3.- “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng”.
Ai khát khao nên người công chính, trước tiên là người muốn lãnh nhận đức công chính của Thiên Chúa. Tức là muốn được Thiên Chúa cứu rỗi và 'công chính hóa' theo kế hoạch và Thánh Ý Ngài. Kế tiếp họ mong muốn lãnh nhận đức công chính loài người, tức là muốn trở thành người công chính bởi hành động ngay lành, làm việc phúc đức, tuân theo các điều răn, vâng phục Thánh Ý Chúa. Sau cùng, họ mong muốn lãnh nhận đức công chính xã hội, tức là tôn trọng những đòi hỏi của đức công bằng trong các mối tương quan với tha nhân bởi vì Thiên Chúa dạy chúng ta quý trọng mọi người, nhất là kẻ nghèo hèn.
Ba thái độ trên có liên quan với nhau như rễ, thân cây và hoa trái. Đức công chính của Thiên Chúa là 'gốc rễ', bởi vì các hồng ân của Ngài giúp chúng ta nên người công chính. 'Thân cây' là hành động ngay lành, đúng theo Thánh Ý Chúa. 'Hoa trái' là đức công chính xã hội, tinh thần liên đới, lòng bác ái, bởi vì chúng ta không đặt nhu cầu và ích lợi riêng trên hết. Nhờ ơn trên, chúng ta quý trọng sự sống của anh em nghèo hèn trên và hơn ích lợi riêng.
'Khát khao' nên người công chính, tức là không chỉ mong ước 'hoa trái' và 'thân cây' của đức công chính, mà trên hết muốn tuân theo Thánh Ý Chúa. Lương thực chúng ta không hẳn là ý muốn của mình mà là Thánh Ý Chúa. Chúng ta khao khát chính Thiên Chúa, chúng ta tin tưởng Ngài, Ngài là nguồn vui của chúng ta.
Câu hỏi gợi ý cầu nguyện:
1.  Đức Kitô đã diễn tả lòng khát khao về cả ba loại đức công chính bằng cách nào?
2.  Trong môi trường nào, tôi muốn được thêm khao khát đức công chính xã hội?
• • • 
4.- “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”.
Các mối Phúc Thật, và tất cả những lời giảng dạy của Đức Kitô nói chung, nhắm đến trái tim con người. Ai có lòng xót thương sẽ để ý đến những ai cô đơn, thiếu thốn, bị bỏ rơi và bị xã hội loại ra ngoài, và sẽ cố gắng giúp một tay.
Đối với Đức Kitô lòng xót thương rất quan trọng. Ít khi Ngài nói đến hình phạt vĩnh viễn. Vậy mà Ngài kể hai dụ ngôn rất mạnh về số phận của những kẻ thiếu lòng nhân từ: Lc 16,19-31 "Lazarô và người giàu có", Mt 25,31-46 "Con cừu và con dê". Ngài e rằng ai không mở lòng xót thương đối với kẻ đói khát, thì cũng chẳng mở lòng cho tha nhân. Ai không mở lòng cho tha nhân, thì cũng chẳng mở lòng cho Thiên Chúa; và không mở lòng cho Thiên Chúa, thì sẽ chẳng lãnh nhận tình yêu xót thương của Ngài. Đức Kitô 'đe dọa' để đánh thức chúng ta mỗi khi, vì mãn nguyện trong đời sống, ta làm lơ trước anh em thiếu thốn và cô đơn.
Ai xót thương, thì cũng dễ tha thứ. Thiên Chúa là Đấng hay xót thương và luôn luôn sẵn sàng tha thứ. Ngài là Đấng thành tín, không bao giờ ngưng thương yêu và đi kiếm chiên lạc. Do đó các con của Ngài không bao giờ ngưng mến yêu, dứt lời hay đoạn tuyệt với anh em. Nhìn ngắm trái tim Đức Kitô bị đâm thâu qua, chúng ta mong ước luôn luôn biết mở lòng và bỏ qua lỗi lầm của anh em đối với mình. Bắt chước lòng thương xót hay thứ tha của Ngài, chúng ta sẵn sàng hàn gắn lại các mối tương quan và vui vẻ mở lòng kết thân lại với mọi anh em.
Câu hỏi gợi ý cầu nguyện:
1.  Vì động lực nào tôi mới sẵn sàng 'tha kẻ có nợ' với mình?
2.  Tôi có thể làm gì để Thần Khí tăng thêm lòng xót thương cho tôi?
• • • 
5.- “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”.
Thế nào là một tâm hồn trong sạch? Là một tâm hồn ngay thẳng, không có ẩn ý, không nhằm mục đích thứ hai, trước mặt Thiên Chúa và trước mặt loài người; là một tâm hồn không bị ô uế bởi tội lỗi nào cả, nhưng cũng là tâm hồn, nhờ hồng ân Thiên Chúa, đã được thanh tẩy và tái thiết.
Hơn nữa: trong sạch là tâm hồn chấp nhận Thánh Ý Chúa đối với mình một cách chân thật, rõ ràng, vui vẻ và trung thành; là một tâm hồn tìm Nước Thiên Chúa trên tất cả; là tâm hồn của một người đã thống nhất cuộc sống và đức tin, cầu nguyện và hoạt động, vui vẻ cử hành Thánh Lễ và làm trọn bổn phận trong cuộc sống.
Đây là mối Phúc Thật then chốt, là mục đích và là hoa quả của cuộc sống 'chiêm niêm trong hoạt động'."Kho tàng ở đâu, trái tim của con ở đó" (Mt 6,21). Đức Kitô biết rằng giữa ước muốn và trái tim có một liên hệ mật thiết. Muốn hiểu lời Đức Kitô về 'tâm hồn trong sạch', chúng ta nên chú ý đến các ước muốn. Các ước muốn là tâm điểm của đời sống thiêng liêng, là nguồn ý nghĩa và đường hướng cuộc sống của mỗi người. Trái tim chiều theo các ước ao sâu xa nhất.
Vì lý do đo,ù chúng ta có thể diễn tả mối Phút Thật này như sau: "Phúc thay ai ước muốn Thiên Chúa và Thánh Ý Ngài một cách rõ ràng và mãnh liệt đến nỗi họ hân hạnh định hướng lại tất cả những ước muốn khác cho nó thích hợp với ước muốn của Chúa". Khi Thiên Chúa và Thánh Ý Ngài là đối tượng rõ ràng và mãnh liệt của ước muốn, chúng ta mới có thể thoát ra các đam mê xác thịt, coi nhẹ những gì trước đây làm chủ trái tim mình, chịu đựng thử thách và tuân theo các điều răn cũng như những đòi hỏi của các lời khấn.
Tâm hồn trong sạch là căn bản của tất cả các Mối Phúc Thật bởi vì khi chúng ta chỉ ước muốn Thiên Chúa và Thánh Ý của Ngài, lòng chúng ta sẽ khiêm nhường, hiền lành, hay thương xót và dễ thứ tha.
Câu hỏi gợi ý cầu nguyện:
Tôi có kinh nghiệm nào về tình yêu Thiên Chúa và mến thương anh em là động lực chính thanh tẩy và thống nhất trái tim tôi?
 • • •
6.- “Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”.
Đối với Đức Kitô, 'xây dựng hòa bình' không chỉ là 'giải quyết xích mích'. 'Shalom' đối với người Do thái có một ý nghĩa sâu và phong phú: bình an, hòa thuận, kết hợp với Thiên Chúa, được mãn nguyện nơi Ngài. Xây dựng hòa bình là giúp người ta kết thân với Thiên Chúa, được mãn nguyện ở với Ngài.
Ý muốn nguyên thủy của Thiên Chúa khi dựng nên trời đất là sống đồng tâm nhất trí với loài người. Hậu quả nguy hại nhất của tội ác là tách rời và chia rẽ loài người với Thiên Chúa, loài người với nhau, và chính con người trong nội tâm của mình. Đã tách rời, thì cả hai bên sẽ phải chịu đau khổ mới nên một trở lại. Nhưng loài người đã được cứu thoát vì Thiên Chúa quả quyết kết hợp lại với loài người, bất chấp những đau khổ Đức Kitô và chính Ngài sẽ trải qua.
Đức Kitô đến để quy tụ con cái Thiên Chúa vì tội lỗi tản mác khắp nơi về một mối (Ga 11,52). Ngài thực hiện Thánh Ý Cha khi sai Thần Khí tình yêu đến thế gian. Nhiệm vụ của Thần Khí là nối kết Thiên Chúa và chúng ta, và khi nối kết lại biến đổi tận gốc chúng ta và cả thế giới. Đó chính là nhiệm vụ của Hội Thánh: �Hòa giải loài người với Thiên Chúa và với nhau theo kế hoạch nguyên thủy của Ngài�.
Theo TH 35, sứ mạng chính của chúng ta là đóng góp cho sự hòa giải:
-  Với Thiên Chúa, thực thi sứ mạng chung của Giáo Hội, tái trình bày Thiên Chúa cho thế giới, cá vị hóa kinh nghiệm thiêng liêng cho các tín hữu. 
-  Với nhau: nhìn cục diện thế giới từ phía người nghèo, làm trung gian giữa các thành phần xã hội.
-  Với thụ tạo: xây dựng một quan niệm đúng đắn về thụ tạo và cách xử dụng tài nguyên thiên nhiên.
Câu hỏi gợi ý cầu nguyện:
1.  Những lời nói, hành động nào gây chia rẽ nhất trong các gia đình/cộng đoàn tôi quen biết?
2.  Chúng ta có thể làm gì hữu hiệu nhất để mang hòa bình cho gia đình/cộng đoàn trở lại?
• • •
7.- “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an”.
Đang 'sầu khổ' những ai vừa mới mất người thân, kẻ túng thiếu, tù nhân, nô lệ, và nói chung: kẻ gặp biến cố làm cho mình đau đớn, u buồn, tủi thân, chán nản. Chẳng ai muốn và lựa chọn sống 'sầu khổ'. Chúng ta bất đắc dĩ ở trong tình trạng sầu khổ. Các biến cố đó thường nằm ngoài bàn tay chúng ta. Vì lý do đó phải hỏi: Làm sao những gì đề nặng tâm hồn có thể là nguồn vui và hạnh phúc? Khi sầu khổ, chúng ta nên cắn răng chịu đựng hay có cách nào tìm ý nghĩa tích cực trong những lúc u buồn và chảy nước mắt đó?
Đức Kitô chúc phúc cho chúng ta, lúc sầu khổ biết nhìn ngắm mầu nhiệm vô bờ bến của Thiên Chúa và đồng cảm với nhân loại yếu đuối, cảm thông với bao nhiêu nạn nhân của những bất công và gian ác hiện tại và trước đây. Thì chúng ta sẽ được phúc thay vì Thiên Chúa sẽ ủi an. Sự an ủi của Chúa là niềm vui và phấn khởi, sưởi ấm tâm hồn và lau sạch nước mắt, phá tan mọi u buồn và sầu khổ.
 • • •
8.- Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.
9.- Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa.
Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế
Hai mối Phúc Thật cuối cùng nhấn mạnh cùng một ý tưởng: bị bách hại vì sống công chính, bị bách hại vì Đức Giêsu. Tức là kẻ sống theo những đòi hỏi của đức công chính, hoặc bước theo Đức Kitô và đặt niềm tin nơi Thiên Chúa; đây là những kẻ liều bị thiệt hại khi đóng góp cho Nước Chúa. Đối với họ, được người ta đồng ý và vỗ tay khen ngợi không phải quan trọng nhất.
Đương nhiên, bị bách hại là điều đáng tiếc, chứ không phải là điều tốt chúng ta mong ước xảy ra. Nhưng chúng ta nhận thấy rằng, trong lịch sử Giáo Hội các Kitô hữu đã từng bị bách hại. Và Chúa Thánh Thần có thể ban cho các Giêsu hữu lòng can đảm để chịu đựng và tin tưởng ngay trong thử thách.
• • • 
Kết luận
Các mối phúc thật, có liên quan mật thiết với nhau: quan trọng nhất là tâm hồn nghèo và khiêm nhường. Tâm hồn trong sạch (chỉ mong muốn tuân theo Ý Thiên Chúa) mở đường cho tâm hồn khát khao nên người công chính. Ai khát khao nên người công chính sẽ thoát ra khỏi những ước ao trái nghịch với Thánh Ý Chúa, thì mới được tâm hồn nghèo và khiêm nhường (Thiên Chúa là tâm điểm cuộc sống và anh em được quý mến như chính mình). Một tâm hồn khiêm nhường sẽ hiền lành, biết tha thứ và xây dựng hòa bình.
Các Mối Phúc Thật mô tả các nét và thái độ nội tâm của Đức Kitô. Ngài là hình ảnh trọn vẹn của Chúa Cha, thì Thiên Chúa có một Thần Khí khiêm nhường, trong sạch, hiền lành và nhân từ.
Được kêu mời nên 'đồng hình đồng dạng' với Đức Kitô, các mối phúc là ơn gọi Thiên Chúa dành cho chúng ta. Nhưng, làm sao chúng ta có thể có một tâm hồn trong sạch, cao thượng và can đảm thế? Chúng ta cần được huấn cải tận gốc mới có thể sống theo các mối phúc thật. Tự sức chúng ta chắc chắn sẽ không bao giờ sống như vậy được. Chiêm ngắm tình yêu vô điều kiện của Đức Kitô, chúng ta mới sẵn sàng hoạt động như vậy.
"Chiêm niệm trong hoạt động". Các mối phúc thật chỉ cho chúng ta những kinh nghiệm cuộc sống chúng ta cần mang vào cầu nguyện và những phạm vi cụ thể để chúng ta mang kết quả cầu nguyện áp dụng vào cuộc sống.
 
Câu hỏi gợi ý cầu nguyện và trao đổi:
1.  Mối phúc thật nào đánh động tôi nhiều nhất? Tại sao?
2.  Mối nào khó hơn đối với tôi? Tại sao?
3.  Chúng ta nên làm gì để ngày càng tiến bộ trên lối sống này? •
 
1. Bắt hứng từ Robert Spitzer, SJ. - Five Pillars of the Spiritual Life, Ignatius 20008,
    Carlo Maria Martini sj “Le Beatitudini” In dialogo, 1995
 

Cột trụ bốn: Mở trái tim cho Thần Khí

Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận. Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh. Rồi Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa. Đức Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe". Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người. Người nói với họ: "Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!" Người nói tiếp: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình. "Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Ít-ra-en; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi". Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành -thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi. (Lc 4,15-30)
Thần Khí là cách Chúa Cha và Chúa Con hiện diện cho nhau; là tình yêu nối kết hai Cha Con nên một. Thiên Chúa ban cho chúng ta một ân huệ lạ lùng: Thần Khí của Ngài. Bởi vì Thần Khí là tình yêu nối kết hai Cha Con nên một, cho nên ảnh hưởng chính của Thần khí là nối kết chúng ta với Chúa Cha và với Đức Kitô trong tình yêu, làm cho chúng ta trở thành người con của Chúa Cha và đồng thừa kế với Đức Kitô.
Ngoài sự sống mới làm con Thiên Chúa, Ngài còn muốn biến đổi chúng ta tận gốc và ban cho chúng ta rất nhiều hồng ân để xây dựng Hội Thánh hiệp nhất. Trong Cựu Ước, dấu chỉ Thần Khí hiện diện trong một người là xuất thân và những hành động phi thường, nhưng trong Tân Ước là những biến đổi nhẹ nhàng của trái tim, nhất là qua tình yêu. Chúng ta liệt kê ba loại hồng ân đặc biệt:
1.Hưởng bình an vượt quá sự hiểu biết,
2.Linh hứng và chỉ dẫn để nối kết người với người và xây dựng Hội Thánh
3.Biến đổi chúng ta nên 'đồng hình đồng dạng' với Đức Kitô
• • •
1.- Hưởng bình an vượt quá sự hiểu biết
Bình an bởi Thần Khí không chỉ là một cảm giác thoải mái, mạnh khỏe, đỡ lo âu. Được bình an do Thần Khí, chúng ta cảm thấy đang 'như ở nhà' trong cuộc sống, và cuộc sống là nhà ở của Thiên Chúa. Được biết Thiên Chúa là cha, chúng ta cảm thấy an tâm. Đây là một dấu chỉ đáng chú ý của bình an mà Thần Khí ban cho: đó là cảm giác mình thuộc về thế giới này, cuộc sống hiện tại là chỗ ở rất thích hợp với mình, kèm theo lòng hăng hái, nhẹ nhàng, bất chấp những u tối, xấu xa chung quanh. Tức là trong môi trường này chúng ta nhận thấy đang hiệp nhất với Thiên Chúa và có một nhiệm vụ theo kế hoạch của Ngài.
Nhờ bình an này, chúng ta được Thần Khí an ủi và ban hồng ân: a) xóa dịu những đau khổ, b) củng cố niềm tin ngay trong khi gặp thử thách, c) ban tâm hồn sáng suốt và khôn ngoan để quyết định và lựa chọn.
a) Thần khí xóa dịu những đau khổ. Đây là kinh nghiệm quý báu chúng ta đã từng có: tuy đang đương đầu với nhiều vấn đề, nhờ ơn Thần Khí chúng ta vẫn cảm thấy bình tĩnh và tin chắc rằng mọi sự sẽ tốt đẹp.
Đôi khi chúng ta chưa nhận ra đó là hồng ân của Thần Khí và tự nhủ: làm sao tôi có thể cảm thấy bình tĩnh như vậy ngay lúc một người thân mới qua đời, một người bạn đang lâm nguy? Hay là tôi không thương họ đủ? Và chúng ta đâm ra bị mặc cảm lỗi lầm nào đó. Sau nhiều kinh nghiệm tương tự, chúng ta nhận ra rằng: �ơn bình an ngay giữa nỗi đau khổ� là hồng ân của Thần Khí đang hiện diện và đồng hành với tôi, và đồng hành với tất cả anh em lúc trải qua các cơn đau buồn. Ngài an ủi và hứa với chúng ta rằng, một ngày gần đây, những nỗi đau khổ đó, nhờ quyền năng và tình yêu của Ngài, sẽ mang lại hoa trái tốt đẹp.
b) Thần Khí củng cố niềm tin ngay lúc chúng ta bị bắt bớ và hành hạ. Có bao giờ chúng ta cảm thấy lạc lõng và bị đe dọa vì là kitô hữu, hay là bị hiểu lầm và xét đoán, phải giải quyết một hoàn cảnh phúc tạp chăng? Thường thường lúc đó, cảm giác tự nhiên là lo sợ và bối rối vì những nguy cơ và trực trặc có thể xảy ra với mình và cho người khác. Đêm đó chúng ta lại mất ngủ!
Đức Kitô nói: "Khi người ta điệu anh em đi nộp, thì anh em đừng lo trước phải nói gì, nhưng trong giờ đó, Thiên Chúa cho anh em biết điều gì, thì hãy nói điều ấy: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thánh Thần nói" (Mc 13,11).
Thần Khí ban bình an khi chúng ta phó thác mình cho Ngài và để Ngài dìu dắt và gợi ý phải làm gì, nói gì. Đôi khi hai giờ sáng, chúng ta tỉnh lại, thấy rõ ràng phải nói gì, làm gì trong hoàn cảnh khó xử đó. Nhiều khi những lời đó thuyết phục người ta và chiếu một ánh sáng mới, đánh động các tâm hồn và củng cố sự đồng tâm nhất trí giữa anh em.
Có thể chính chúng ta không hiểu được tại sao trong một nghịch cảnh vượt quá khả năng của mình chúng ta có thể giữ lòng bình tĩnh, và đôi khi giúp người khác một tay. Đây là bình an của Thần Khí, là Đấng an ủi dịu dàng và che chở mà Đức Kitô hứa cho chúng ta. Thật là một diễm phúc khi Ngài dùng mình như khí cụ tình yêu và bình an. "Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính" (Mt 5, 10).
c) Thần Khí ban sự sáng suốt và khôn ngoan lúc chúng ta phải quyết định và lựa chọn. Muốn có những suy xét sáng suốt và khôn ngoan, chúng ta cần bình an nội tâm. Trong nhiều hoàn cảnh, sức thông minh không đủ; cần một trực giác về những gì chúng ta nên nói, nên làm. Một trực giác là hoa quả của nhiều kinh nghiệm chúng ta đã gặp phải trong quá khứ. Nhưng, thiếu bình an, trực giác của chúng ta có thể 'lệch lạc' và mở đường cho những quyết định chẳng có ích lợi cho ai, có thể gây thiệt hại cho nhiều người.
Mỗi khi bị đụng chạm tự ái, chẳng hạn, phản ứng tự nhiên là gợi lại tất cả những lần chúng ta đã bị đụng chạm như vậy, lấy làm buồn vì những lời và hành động bất công, thiếu bác ái của người khác đối với mình. Chúng ta đâm ra chán nản, u buồn, muốn phá phách hoặc rút lui không cộng tác với họ nữa.
Lúc đó Thần Khí vẫn gõ cửa trái tim để xoa dịu vết thương, khuyên bảo và chỉ cách đương đầu với nghịch cảnh và tránh những nguy hại mà chính chúng ta có thể gây nên. Chưa chắc chúng ta nghe Ngài! Mỗi lần không nghe Thần Khí và đã để miệng phát ra những lời nóng nảy thể hiện từ một tâm hồn đau buồn và tủi thân, chúng ta đã chứng kiến hậu quả đáng tiếc xảy ra. 
 • • •
2.- Linh hứng và chỉ dẵn để nối kết người với người và xây dựng Hội Thánh
Thần Khí không chỉ ban cho chúng ta bình an để bảo vệ trái tim mà còn soi sáng đầu óc để biết suy nghĩ và quyết định những gì có ích lợi cho Nước Chúa. Trong những hoạt động của Ngài, chúng ta sẽ để ý đến ba phạm vi đặc biệt: a) Khuyên bảo và dẫn dắt người khác, b) suy tưởng đúng theo các tín điều của Hội Thánh, và c) khôn ngoan quyết định và lựa chọn.
a) Khuyên bảo và dẫn dắt người khác. Có nhiều hình thức, nhiều cách trao đổi và dẫn dắt người khác. Tùy hoàn cảnh, có lẽ chúng ta gặp riêng một người, trao đổi kinh nghiệm hoặc trình bày một đề tài cho một tập thể. Chúng ta có thể là cha mẹ, là thầy cô, là bạn bè hay là anh em với nhau. Chúng ta đang gặp một hoàn cảnh khó xử hay là cộng tác trong một chương trình học hỏi và huấn luyện.
Sự hiện diện của Thần Khí thường xảy đến một cách bất ngờ. Đã thành thật nghe và tìm hiểu nhu cầu hay ước ao của họ, sau khi học hỏi đề tài, một ý tưởng, một nhận xét chính đến đầu óc mình. Ý tưởng và nhận xét đó xem ra hữu ích nhất. Từ từ có nhiều ý tưởng khác bổ túc điểm đó với những trường hợp, kinh nghiệm và hình ảnh để đào sâu, tìm hiểu và rút kết quả hữu ích. Những lời khuyên bảo và hướng dẫn xuất hiện một cách rõ ràng và đương nhiên. Có phải là do Thần Khí soi sáng và gợi ý chăng?
Xem ra đó chỉ là lối suy luận tự nhiên và là kết quả của nhiều kinh nghiệm khác. Nhưng, hồi tâm lại về một cuộc gặp gỡ và trao đổi thật hữu ích, đọc lại bài viết, chúng ta nhận thấy rằng kết quả đó vượt quá khả năng và khôn ngoan của mình.
Một điểm đáng chú ý nữa là những giây phút sáng suốt đó chỉ xảy ra khi chúng ta tận tâm muốn giúp đỡ một người, một hội đoàn. Thường thường Thần Khí hoạt động khi chúng ta thành thật muốn phục vụ và dẫn dắt anh em theo Thánh Ý Chúa. Về phần chúng ta, chỉ cần tin tưởng, chiều ý theo và diễn tả một cách rõ ràng và dễ hiểu những lời Thần Khí gợi lên trong đầu óc chúng ta. Các lời nói đến môi miệng một cách nhẹ nhàng và dễ dàng. Có thể là những lời rất bình thường hay cao đẹp, đơn sơ và ngay thẳng hay đầy hình ảnh tưởng tượng, nhưng nếu do Thần Khí, những lời đó có sức lực đánh động tâm hồn và thúc đẩy họ theo nẻo đường của tình yêu, hiệp nhất và sự sống.
b) Suy tưởng đúng theo các tín điều của Hội Thánh
"Thực vậy, nhờ cảm thức về đức tin được Thánh Thần chân lý khơi dậy và duy trì, dưới sự hướng dẫn và giáo huấn thần linh của Giáo Hội mà họ trung thành tuân theo, Dân Thiên Chúa nhận lãnh không còn là lời nói của loài người nhưng thực sự là lời của Thiên Chúa (1 Th 2,13); họ gắn bó hoàn toàn "với đức tin chỉ một lần được ban bố cho các thánh" (Gda 3), họ tiến sâu hơn trong đức tin nhờ phán đoán đứng đắn và sống đức tin cách hoàn hảo hơn" (Lumen Gentium n.12)
Thần Khí nâng đỡ "cảm thức" về đức tin và soi sáng chúng ta hiểu biết những chân lý có sức tác động, soi sáng và biến đổi cuộc sống. Có khi đọc một tác phẩm, nghe một bài thuyết trình, chúng ta có một linh cảm về nội dung sách đó, bài diễn thuyết đó không đúng theo chân lý. Trong khi đó, đọc tác phẩm một vị thánh (như Tô-ma, như I-nhã chẳng hạn), tuy khó hiểu nhưng chúng ta cảm thấy thực sự gần gũi Chúa, đang được dẫn dắt vào mầu nhiệm của Thiên Chúa và lấy làm thích thú, thoải mái, muốn hiểu thêm chân lý của Chúa và tiến gần. Chính Ngài là chân lý.
Chúng ta tin rằng Thần Khí sự thật lúc đó đang soi sáng, nâng đỡ và đổ tràn đầy lòng chúng ta ánh sáng và niềm vui. Ngài sẽ không để chúng ta bị lừa gạt bởi những sai lầm về các tín điều, bao lâu chúng ta mở lòng cho ánh sáng, bình an và niềm vui thánh thiện của Ngài.
c) Khôn ngoan quyết định và lựa chọn, nhất là những quyết định có ảnh hưởng lớn trong cuộc sống. Ai ai cũng mong rằng những quyết định của mình mang ích lợi cho bản thân hay cho người khác. Tuy nhiên, chúng ta đã từng có kinh nghiệm đi đến một lựa chọn, có lẽ theo lời khuyên bảo của gia đình, mà ngay lập tức chúng ta cảm thấy không ổn, làm cho chúng ta tự hỏi có phải đó là một quyết định đúng và thực sự khôn ngoan chăng? Có phải Thần Khí đang đánh thức, muốn dìu dắt mình đó chăng! Đương nhiên, tác động của Thần Khí khác hẳn những bối rối do mặc cảm thiếu tự tin, lo xa và hay đâm ra suy tư. Làm sao biết được những tác động bởi Thấn Khí?
Bằng cách vừa theo ánh sáng suy luận khôn ngoan vừa để tâm hồn lắng nghe các tác động nội tâm. Cả hai đều cần thiết: coi thường ánh sáng của suy luận, thì chúng ta có thể bị dừng chân tại chỗ bởi cảm xúc tiêu cực. Quên tác động của Thần Khí, thì chúng ta có thể đi đến những lựa chọn sai vì ngụy biện và lý luận một chiều. Thần Khí không muốn chúng ta coi thường ánh sáng của suy luận. Chúng ta không nên quên rằng óc suy nghĩ và khôn ngoan cũng bắt nguồn từ Thần Khí.
Thần Khí tác động và thúc đẩy chúng ta hoạt động bằng những cảm xúc bình an, hăng hái và nhiệt tình. Tự nhiên một cơ hội hiện ra trước mắt mình, một cửa mở ra thu hút mình một cách êm ái, đáng tin tưởng và đầy hứa hẹn. Đi vài bước qua cửa đó, những cửa khác lại tự nhiên mở ra tiếp và cứ như vậy theo từng bước. Không phải kế hoạch nào mà diễn tiến như vậy cũng là của Thần Khí. Đặc tính của những kế hoạch do Thần Khí soi giục là lúc ban đầu chưa chắc chúng ta biết rõ kết quả cuối cùng, vậy mà sau vài năm mầm nhân sẽ triển nở và sinh hoa trái dồi dào và rất hữu ích đối với nhiều người.
Thần Khí muốn dìu dắt chúng ta theo những kế hoạch lâu dài của bậc sống và ơn gọi mình, bởi vì Thánh Ý Chúa Cha là chúng ta 'sinh hoa trái dồi dào, và hoa trái đó tồn tại' (Ga 15,16). Thường thường Thần Khí dẫn chúng ta từng bước:
  - một cơ hội mới để cùng nhau đóng góp cho Nước Chúa mở ra trước mắt chúng ta,
  - mơ ước đó 'lây sang' một số người khác và ngày càng nhiều người 'mơ ước cùng nhau',
  - bắt tay thực hiện ước mơ, mọi người chia sẻ lòng hăng hái và quảng đại, bất chấp các khó khăn,
  - gặp ngăn trở, thử thách, mọi người cùng nhau đương đầu và cố gắng vượt qua.
  
3.- Biến đổi chúng ta nên 'đồng hình đồng dạng' với Đức Kitô
Thần Khí Chúa không chỉ an ủi và dìu dắt mà còn muốn biến đổi chúng ta nữa. Là tình yêu chân thật và vô vị lợi, Thần Khí nối kết chúng ta với Thiên Chúa và với anh em và khi nối kết lại biến đổi chúng ta tận gốc. Nhờ Thần Khí, chúng ta ngày càng nên 'đồng hình đồng dạng' với Đức Kitô. Theo Thánh Ý Chúa Cha, Đức Kitô sai Thần Khí đến với chúng ta với hai mục đích: 1) Uốn nắn các tập thể (gia đình, xứ đạo, hội dòng, quốc gia?) theo kế hoạch Ngài dành cho mỗi tập thể, 2) Uốn nắn, triển nở và biến đổi từng cá nhân một theo kế hoạch Ngài dành cho mỗi người. Cả hai loại kế hoạch này tùy thuộc và ảnh hưởng lẫn nhau: các tập thể được đổi mới nhờ anh em nghe và vâng theo tác động của Thần Khí. Các anh em được Thần Khí uốn nắn và rèn luyện qua kinh nghiệm vui buồn khi phục vụ tập thể, đặc biệt qua thử thách và đau khổ. Những đau khổ và thử thách không phải do Thần Khí mà có. Những đau khổ chúng ta phải chịu đựng có nhiều nguyên do: tự nhiên hay do con người gây ra. Khi đau khổ đến, chúng ta có thể:
   1.  tự cô lập hóa trong thế giới khép kín, cay đắng và tủi thân, hoặc cởi mở tìm ánh sáng và sức lực của Thần Khí,
   2.  ý thức về ảnh hưởng bất lợi của những phản ứng và suy luận tiêu cực sẵn có từ bao nhiêu năm cho mình hay cho người khác, mà chúng ta cần xét lại,
   3.  thông cảm với những đau khổ, nhu cầu và tâm tư của rất nhiều người đang đau khổ hơn mình,
   4.  khiêm nhường phó thác đời sống mình trong bàn tay Thiên Chúa.
Nhờ sức tình yêu của Thần Khí, những ảnh hưởng tiêu cực có thể biến thành tích cực, thay vì đóng cửa tâm hồn và tự cô lập; nhờ nỗi đau khổ, chúng ta có thể đền gần anh em, cảm thông và chia sẻ với họ những tâm tình mới. Nếu cầu nguyện và mở lòng cho Thần Khí, có lẽ lần đầu tiên chúng ta sẽ thực sự hiểu các Mối Phúc Thật: hiểu thế nào là nghèo tinh thần (khiêm nhường), tại sao kẻ nghèo có phúc. Bây giờ chúng ta mới hiểu Đức Giê-su muốn nói gì qua từng mối Phúc. Kết quả sau cùng, khi nhận ra vẻ đẹp của Đức Kitô rõ hơn, khi cảm thấy mến yêu Chúa tha thiết hơn, là lúc chúng ta muốn nhận lãnh tình yêu vô vị lợi và vô điều kiện của Thần Khí Chúa. Bấy giờ, chúng ta mới hiểu thế nào là 'đồng hình đồng dạng' với Đức Kitô và nhờ 'sức mạnh phục sinh? được sống lại từ trong cõi chết'. Một sự biến đổi lạ lùng Thần Khí tình yêu thực hiện nơi chúng ta suốt cuộc sống dương thế.
Thưa anh em, những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Mô-sê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Ki-tô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin.
Tôi chỉ muốn biết Đức Ki-tô, và sức mạnh phục sinh của Người, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng cũng được sống lại từ trong cõi chết. Nói thế, không phải là tôi đã đạt đích, hay đã nên hoàn thiện đâu; nhưng tôi đang cố gắng chạy tới, mong chiếm đoạt, bởi lẽ chính Đức Ki-tô Giê-su đã chiếm đoạt tôi. (Pl 3, 7-12) "Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi" (Gl 2, 19)
Kết luận
Thần Khí hoạt động khắp nơi, trong mọi người và trong mọi tập thể, dưới nhiều hình thức khác nhau. Chúng ta cộng tác với Ngài nhất là khi: 1) Bước qua những cửa và theo những con đường Ngài mở ra cho chúng ta và 2) cầu xin: "Xin Chúa sai Thánh Thần xuống: mọi vật sẽ được tái tạo, vũ trụ sẽ được đổi mới". Tuy nhiên, chúng ta luôn luôn cần chú ý và cảnh giác kẻo bắt đầu bước theo đường lối của Chúa, nhưng từ từ đổi hướng và bước tiếp theo ích lợi và danh vọng riêng. Mọi sinh hoạt và kế hoạch làm vinh danh cho Chúa, cũng có thể làm vinh danh cho chúng ta nếu cái "tôi" thay thế cho Chúa làm tâm điểm và cùng đích.
Các Mối Phúc Thật sẽ giúp chúng ta xác định lại đang bước theo tác động của Thần Khí, theo đường lối của Chúa Cha. Một tâm hồn 'trong sạch' tìm kiếm Nước Chúa trên hết, một tâm hồn 'nghèo' và 'khiêm nhường' đặt Thiên Chúa là tâm điểm, phục vụ anh em là cùng đích sẽ luôn luôn lựa chọn những cửa và đường hướng đúng theo Thần Khí. Thần Khí sẽ thôi thúc chúng ta ước muốn làm vinh danh cho Chúa và được biến đổi nên giống Đức Kitô.
Câu hỏi gợi ý cầu nguyện và trao đổi
1.- Tôi có những kinh nghiệm nào về các tác động của Thần Khí:
     -  ban bình an vượt quá sự hiểu biết,
     -  chỉ dẫn và soi sáng,
     -  biến đổi tận gốc?
2.- Hồng ân nào của Thần Khí tôi quý trọng nhất?
3.- Những gì đã giúp tôi hiểu biết và mở lòng cho Thần Khí?
 • • •
Phân biệt Thần Loại - Mở trái tim cho Thần Khí (Phần tiếp theo)
 "Thần", khí (spirit, ruah), là một sức lực nội tâm muốn thúc đẩy con người theo hướng nào đó, như luồng gió muốn dìu dắt tàu buồm. Các 'thần' khác với đam mê và các mối tội đầu ở chỗ: 'thần' thì ở ngoài mà quyến rũ, trong khi các đam mê và các tội đầu hành hạ từ bên trong1 . Bao lâu chúng ta không tự do ưng theo, thì các đam mê chỉ có thể hành hạ tâm lý, thể xác, con người xác thịt, mà không vào tận đáy lòng được. Cánh cửa tận đáy lòng mình có chìa khoá và chỉ một mình mới sử dụng được. Nếu đam mê là những năng lực có ở trong mình mà còn không vào tận đáy lòng mình được, phương chi các thần, là những động lực thổi ở ngoài mà thôi. Khi chúng ta đóng cửa lòng mình, các thần lành hay dữ chỉ gõ cửa xin vào hay quyến rũ và đe doạ mình thôi. Nếu khôn ngoan, trước khi mở buồm lòng cho một thần khí nào thúc đẩy, chúng ta nên chú ý và phân biệt xem thần này lành hay dữ. 'Thần lành' thì dễ nhận ra là lành vì bản chất nguồn gốc ngay thẳng và thành thật của nó là Thần Khí Thiên Chúa. Vấn đề là do thần dữ, vì bản chất và nguồn gốc giả dối và ma giáo của nó là kẻ thù của chúng ta - và của Thiên Chúa.
"Thần lành" trong cuộc sống nội tâm là tất cả những tác động muốn thúc đẩy chúng ta theo đường lối của Chúa. Tất cả các 'thần lành' bắt nguồn từ Thần Khí Chúa. Thần Khí ngự trong lòng để kết hợp mật thiết chúng ta với Chúa Cha, với Đúc Giêsu và với anh em hơn. Ngài hay sử dụng muôn vàn sứ giả: người hiền lành, sách vở, phim ảnh, thiên nhiên và các biến cố cuộc sống để tác động chúng ta. Đây là những 'trung gian', là những thiên thần (angels), là những 'hình thánh' (icons), có thể soi sáng, hướng dẫn và khuyến khích chúng ta trên các đường nẻo của Chúa. Thiên Chúa là Đấng vô hình, thì càng thiêng liêng và đơn giản các tác động càng gần Thần Khí. Tác đông vô hình và thiêng liêng nhất là đức tin. Vì lý do đó và trên tất cả, chúng ta nên mong ước và tìm sự hiện diện của Thiên Chúa qua đức tin.
"Thần dữ" bao gồm tất cả những tác động và quyến rũ muốn kéo chúng ta xa Thiên Chúa và các đường nẻo của Ngài. Thủ lãnh là Luxiphe 'kẻ thù của nhân loại'. Đã phản loạn vì bất phục tùng Thiên Chúa, nó tự kiêu, tham vọng, giả dối và tàn nhẫn. Vốn dĩ là thông minh, nó lại nhiều kinh nghiệm và lắm 'cộng tác viên' trong thế giới chung quanh và ngay trong xác thịt chúng ta nên, chúng ta không thể coi thường nó. Tuy nhiên, nó chẳng có quyền trên chúng ta bao lâu chúng ta không mở lòng cho nó. Là thần ma giáo và giả dối, điều rất quan trọng là chúng ta nhận ra nó càng sớm càng hay. Theo I-nhã có hai trình độ và hai bộ nguyên tắc phân biệt thần loại:
  • trình độ một (Tuần 1), là khi chúng ta chưa dứt khoát với những ước muốn bất chính của mình. Đây có thể là tình trạng chưa quả quyết theo Chúa, hay là đã theo Chúa nhưng, trong một phạm vi lệch lạc nào đó, chưa dám dứt khoát (đánh bài, uống rượu, mua cổ phần, trả thù, coi TV...). Trong trường hợp này
    phân biệt các thần không khó, nhưng sức lôi cuốn của thần dữ lại rất mạnh.
  • trình độ hai (Tuần 2), là khi chúng ta dứt khoát với ước muốn bất chính và quả quyết phục vụ Chúa. Trong trường hợp này 'kẻ thù của nhân loại' sẽ giả dạng thần lành đi vào theo chiều hướng tốt đẹp để rồi kéo ta ra theo đường của nó. Trên các nẻo đường theo Chúa và phục vụ tha nhân, phân biệt thần loại tinh vi hơn và không dễ. Đôi khi, trước khi kết luận đang bị thần dữ ảnh hưởng, phải đợi chờ xem những dấu chỉ của nó.
Quy tắc 1 và 2: Hai quy tắc này mời chúng ta chú ý đến đường hướng của cuộc sống: tôi đang tiến bộ hay thụt lùi trên đường nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Được Chúa Cha mời gọi làm con của Ngài, Thần Khí của Đức Giêsu muốn nhập thể trong tôi. Khi tôi để một đam mê bất chính làm chủ trái tim tôi, nào là đi hoang (mở lòng cho tứ đổ tường là sắc dục, rượu chè, bài bạc và thuốc sái), hay đầu hàng trong một phạm vi đặc biệc thôi, kết quả là các đam mê sẽ làm chủ trái tim ngày càng mạnh mẽ và gây thiệt hại cho tôi và nếp sống chung quanh. Trong tình trạng này, Thần dữ cám dỗ rõ ràng ('thôi thúc làm bậy'), nhưng lại hấp dẫn bày ra những thú vui luôn luôn mới lạ. Nó còn chích vào lương tâm một loại thuốc tê làm cho tội nhân cố chấp, mặc kệ thiệt hại, nước mắt của người thân và mọi hậu quả đáng tiếc khác do hành động của mình.
Lúc đó ảnh hưởng của thần lành ngược lại: làm lương tâm cắn rứt, bối rối, khó chịu và hối hận. Thần lành chỉ muốn tội nhân ăn năn hoán cải. Điều lạ lùng là nếu tội nhân phản ứng rõ ràng và chỗi dậy, cũng chỉ trong tư tưởng thôi, là hai thần đổi chiến thuật ngay: thần lành khuyến khích, an ủi, hứa niềm vui và nhiều hoa quả tích cực cho mình và cho thân nhân, kể cả sự hài lòng của Chúa; Còn thần dữ thì ngược lại: sẽ gợi ý những nghi ngờ về khả năng mình và về ơn trên, những lo sợ vì đòi hỏi quá đáng của cuộc sống mới hoặc những ngăn trở khác, thật hay giả, từ chính mình hay từ kẻ khác.
Quy tắc 3 và 4 nói về cảm tưởng an ủi hay sầu khổ trong liên hệ với Thiên Chúa và những gì thuộc về Ngài. Kinh nghiệm 'an ủi thiêng liêng' vượt xa cảm xúc vui vẻ, mạnh khoẻ hay lòng hăng hái. Là một hồng ân đặc biệt của Thần Khí, là dấu chỉ Thiên Chúa hài lòng và xác định đường hướng mình đang theo. Kinh nghiệm an ủi thiêng liêng có thể kèm theo nhiều cảm xúc (nước mắt chảy ra vì lòng hối hận hay vì tình thương của Chúa). Nhưng, kinh nghiệm au ủi cũng có thể ngầm và nhẹ nhàng như bình an nội tâm, gia tăng lòng tin, cậy, mến làm cho 'linh hồn nghỉ ngơi và an bình trong Đấng Tạo Hóa và Chúa mình'.
Còn 'sầu khổ thiêng liêng', là kinh nghiệm nội tâm khi Thần Khí 'im', không soi sáng, không tác động tâm hồn, để chúng ta một mình (một phần nào, bởi vì Ngài luôn luôn hiện diện và gìn giữ chúng ta). Lúc sầu khổ, đọc Kinh Thánh không thấy ý nghĩa, lãnh các Bí Tích chẳng có cảm xúc nào cả, Thiên Chúa có vẻ vắng mặt, tính lười biếng cùng các cám dỗ trần tục lại nổi lên. Sầu khổ nặng nệ là khi mình cảm thấy xa cách và nghi ngờ tình yêu Chúa. Cả hai kinh nghiệm, an ủi hay sầu khổ, đều cần thiết. Chúng ta cần được Chúa soi sáng và củng cố đều đều trên đường vâng phục Ngài. Những năm đầu lúc mới theo Chúa, chúng ta có thể cần được an ủi và soi sáng, có nhiều cảm xúc và nước mắt hơn. Khi lớn lên về niềm tin yêu, Thần khí có thể an ủi chúng ta qua bình an, niềm tin, cậy và khả năng hiện diện trước mặt Chúa trong Đức Tin. Thường thường kinh nghiệm sầu khổ do Thần Khí "im" không kéo dài lâu.
Quy tắc 5: "Trong thời gian sầu khổ, đừng bao giờ thay đổi". Lý do là vì đặc tính của tình trạng 'sầu khổ' là sự im lặng của Thần Khí. Ngài im lặng, thì cảm xúc mệt mỏi, nản lòng và sầu khổ nổi lên một cách dễ dàng. Đây không phải lúc đổi hướng đi của cuộc sống hoặc quyết định về một chương trình hữu ích. Vì cũng như trong khi được an ủi, phần nhiều là thần lành hướng dẫn khuyên nhủ ta thế nào, thì trong cơn sầu khổ, thần dữ cũng (làm) như vậy, mà theo lời khuyên của nó, ta chẳng thể gặp được con đường đưa tới đích. Hãy nghĩ rằng chẳng bao lâu nữa sẽ được an ủi, nếu hết sức chiến đấu với cơn sầu khổ ấy.
Quy tắc 9: Lý do tại sao bị sầu khổ. Ba lý do chính tại sao chúng ta bị sầu khổ đều đều:
  a)  vì lỗi của chính mình đã không tỉnh thức và quảng đại đáp trả lại hồng ân Chúa. Hoặc thiếu lòng ngay thẳng và thành thật với Chúa, tôi dâng lễ vật và lời nguyện với môi miệng thôi, trong khi tâm hồn để thần tượng nào đó làm chủ rồi (xẻm quy tắc 1).
  b)  Để thanh tẩy lòng mến yêu tôi dành cho Thiên Chúa; tuy vốn dĩ loài người nghèo nàn, trong khi Ngài là chủ trời đất, tôi đi tìm Ngài với lòng vô vị lợi chăng? Tức là, tôi quý trọng chính Ngài và sẵn sàng phụng sự Ngài tới đâu khi không được hưởng những an ủi thiêng liêng của Ngài?
  c)  Đây cũng là cơ hội cảm nhận sự nghèo nàn của chúng ta, không thể tự mình gặp gỡ Thiên Chúa. Mọi an ủi thiêng liêng là hồng ân Chúa ban.
Quy tắc 12: "Kẻ thù xử sự như đàn bà". I-nhã mời chúng ta can đảm đối diện những nỗi sợ hãi (thiệt hay tưởng tượng) với lòng can đảm và biết ơn Chúa. Trước mặt Chúa chúng ta đối diện những thử thách đó (hoặc còn lớn hơn nữa), và xin Ngài ban sức lực và tình yêu để biết chịu đựng và vâng phục Ngài.
Quy tắc 13: "Kẻ thù cũng còn xử sự như kẻ si tình lẳng lơ". Quy tắc này nói về lòng 'khép kín' hay 'mở lòng kể lại cho linh hướng' khi mình bị cám dỗ. Theo kinh nghiệm, lắm khi chúng ta không vượt nổi một tâm tình u buồn, nặng nề, bao lâu chưa mở hết lòng cho vị linh hướng nghe. Trước khi thú thật, chúng ta e ngại hậu quả quá nguy hại cho mình. Nhưng, thú thật với đúng người nghe lại luôn luôn có ích lợi. "Khi thành thật với một người khác, chúng ta thành thật với chính mình và với Thiên Chúa" (Bill Wilson).
Quy tắc 14: "Kẻ thù lại còn xử sự như một tướng quân". 'Yếu điểm của tôi ở đâu?' Tôi đặc biệt nhạy cảm và bị cám dỗ dễ dàng hơn trong phạm vi nào? Tôi hay phạm tội giống nhau, thì trong phạm vi đó tôi có một nhu cầu, một vết thương, một đam mê đặc biệt. I-nhã khuyên tôi nhớ đề phòng, tránh cơ hội và cầu nguyên nhiều hơn về yếu điểm đó, kẻo sa cám dỗ. Tránh cám dỗ cũng là một cách tỏ lòng vâng phục Chúa Cha.
• • •
-------------
1. “Bởi đó tôi khám phá ra luật này: khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa; nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi. Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta! Như vậy, nếu theo lý trí, thì tôi làm nô lệ luật của Thiên Chúa; nhưng theo xác thịt, thì tôi làm nô lệ luật của tội. (Rm 7,21-25)

 Cột trụ năm: Chiêm niệm trong hoạt động

Tìm và nhận ra Thiên Chúa khắp mọi nơi
Hoàn cảnh hiện tại: Trong thế giới hiện nay, mọi thứ khuyến khích chúng ta nghiêng về hoạt động, mong người ta để ý đến mình; càng thực hiện và thành công nhiều, chúng ta càng có thêm giá trị; làm việc phải có kết quả, cho dù chưa chắc chúng ta làm việc kỹ càng. Ai làm như vậy là sống bề ngoài và hay phân tán, bị chi phối bởi nhiều sinh hoạt, khó mà có thể làm mọi sự đến nơi đến chốn. Trong khi đó Thiên Chúa hiện diện và muốn mang một sức lực thống nhất cho cuộc sống chúng ta. Ngài mời chúng ta tránh một cuộc sống chia trí và đi tìm một cuộc sống có sự "chiêm niệm trong hoạt động".
I.- Chiêm niệm trong hoạt động nghĩa là gì? Có ý nghĩa gì đối với tôi?
Theo thánh I-nhã là "Tìm và nhận ra Thiên Chúa khắp mọi nơi"; là hiệp nhất và thông hiệp với Thiên Chúa, không chỉ lúc cầu nguyện mà ở ngoài đời nữa. Thông hiệp, tức là có linh cảm khi mình đang sống theo thánh ý Chúa và cảm nhận niềm vui sâu xa khi suốt ngày chúng ta đẹp lòng Ngài. Linh cảm này là hoa quả của những hồng ân khác, chúng ta cần thiết để biết nhận ra chính Chúa và những gì Ngài mong muốn; là một hồng ân Chúa Thánh Thần ban cho khi chúng ta để Ngài dìu dắt.
Nghĩa là:
  • khám phá ra rằng Thiên Chúa đang hiện diện khắp mọi nơi,
  • không phải là thêm thì giờ cầu nguyện mà là biến đổi cả cuộc sống thành lời cầu nguyện,
  • là một cách sống ở trong thế gian mà không thuộc về thế gian,
  • là giữ niềm hy vọng trong mọi hoàn cảnh; là nhìn mọi sự với cặp mắt của Chúa,
  • là được tất cả phạm vi cuộc sống biến thành đơn giản và hợp nhất.
Do đó, 'chiêm niệm trong hoạt động'cũng là kết quả của một sự lựa chọn: là muốn làm chứng cho Đức Ki-tô trong thế gian bằng lối sống và hoạt động của mình. Chúng ta vẫn sống trong thế gian nhưng muốn sống một cách khác:
  • tìm ý nghĩa trong mọi sự. Do đó thỉnh thoảng chúng ta ngưng và nhìn lại những gì đang làm, những gì mình đang lựa chọn,
  • hiện diện cho chính mình, cho anh em và lắng nghe Thiên Chúa có thể tác động lòng trí chúng ta bất cứ lúc nào,
  • tránh thái độ vô tư lự và để các biến cố cuộc sống trở thành những câu hỏi đánh động mình.
  • hồi tâm về những hành động hàng ngày, tuy bắt buộc phải làm, nhưng chúng ta muốn tìm Thánh Ý của Thiên Chúa trong những hành động đó.
  • tìm những gì Chúa muốn nói với chúng ta ngang qua các biến cố tiêu cực của cuộc sống.
'Chiêm niệm trong hoạt động' giúp ta xã giao khá hơn; là cầu nguyện bằng cách chú ý đến mọi biến cố xảy ra chung quanh; biến đổi mỗi giây phút, mỗi hành động, mỗi người chúng ta gặp, thành một kinh nghiệm quan trọng. 'Chiêm niệm trong hoạt động' giúp chúng ta dâng hiến cho Chúa những cố gắng, những bất mãn hoặc những nghịch cảnh xảy đến cho ta.
'Hoạt động' không chỉ là những gì chúng ta làm, mà là một cách hiện diện trong thế gian khi những gì chúng ta làm có ý nghĩa. Muốn có ý nghĩa, chúng ta nên để Chúa hướng dẫn. Tức là, chúng ta chịu trách nhiệm về cuộc sống, nhưng không đóng vai trò chủ động trong thế gian, mà để Cha Quan Phòng đóng vai trò chủ động. Chúng ta phó thác cuộc sống trong bàn tay của Chúa Cha.
Khi đương đầu với những giây phút căng thẳng và khủng hoảng, người ta mong chờ nhiều nơi chúng ta và chúng ta có thể đóng góp nhiều hơn, nhưng chúng ta không thể sống trong sự căng thẳng luôn mãi. Chúng ta nên tìm những gì chúng ta có thể làm một cách hợp lý. Gặp nghịch cảnh, có lẽ chúng ta tỉnh thức và hoạt động mạnh mẽ hơn, nhưng điều quan trọng là chúng ta không bị những nghịch cảnh này vắt kiệt sức hoặc hủy hoại sức khỏe chúng ta. Càng sớm càng hay chúng ta nên 'bình thường hóa' cuộc sống.
Gặp hoàn cảnh hoặc người khó xử, Người Ki-tô hữu không bao giờ thất vọng. Trong Chúa luôn luôn có hy vọng. Chính niềm hy vọng này thúc đẩy chúng ta hoạt động và cộng tác với người khác, kể cả với những người chưa hoàn thiện. Vì lý do đó, người Ki-tô hữu không thất vọng trước tội lỗi. Trong mỗi người song song với tội lỗi vẫn có hồng ân của Chúa. Nếu Chúa yêu mến chúng ta lúc còn dở dang, thì chúng ta cũng có thể yêu mến nhau ngay bây giờ. Đây cũng là một kết quả khi 'chiêm niệm trong hoạt động'.
Khi 'chiêm niệm trong hoạt động' chúng ta ý thức mình là ai và đối diện với những khuyết điểm mình có vì chúng ta tin chắc rằng Chúa vẫn thương chúng ta. Chúng ta để Thiên Chúa thanh tẩy mình trong khi đang cố gắng điều chỉnh lại những bất chính ở trong và chung quanh chúng ta. Thiên Chúa là Đấng dựng nên và cứu chuộc chúng ta, Ngài muốn dẫn chúng ta đến vinh quang theo kế hoạch Ngài dành cho mỗi người. Suốt đời, chúng ta đang được hoán cải. Chính khi chúng ta đối diện với các vấn đề ở trong và ngoài chúng ta, chúng ta có thể đồng cảm sâu xa hơn với Thiên Chúa. Chưa chắc Thiên Chúa muốn chúng ta giải quyết tất cả các vấn đề của chính chúng ta hoặc của anh em mình đang phục vụ ngay lập tức. Chúng ta, cũng như Thiên Chúa, chỉ 'đồng hành' với anh em ngang qua các vấn đề. Biết Thiên Chúa hiện diện và đồng hành với mình, chúng ta bình tĩnh và can đảm hơn khi đương đầu với nghịch cảnh.
Muốn 'chiêm niệm trong hoạt động' chúng ta cần một tâm hồn ngày càng 'trong sạch', đang thống nhất cuộc sống và đức tin, cầu nguyện và hoạt động. Những động lực muốn làm chúng ta bị chia rẽ thường là:
  • cảm thấy mình giỏi hơn và tốt hơn người khác,
  • tìm trước tiên những thích thú, danh vọng và quyền thế cá nhân,
  • những cảm xúc ghen tương, ganh tỵ và thái độ chỉ trích,
  • tinh thần cạnh tranh hơn là cộng tác,
  • thích chỉ đạo hơn là làm việc đồng đội,
  • mặc cảm bị coi thường và không được quý trọng,
  • sống hời hợt, nản lòng, thất vọng,
  • luôn luôn vội vã bởi vì làm việc nhiều quá hoặc thiếu tổ chức.
Những động lực làm chúng ta hiệp nhất là:
  • tin rằng chỉ có Thiên Chúa mới thực sự cần thiết, không thể thiếu được,
  • cầu nguyện một mình và cầu nguyện trong nhóm,
  • nhận ra Thiên Chúa hiện diện trong anh em,
  • tìm ích lợi chung, tinh thần liên đới, thái độ rộng rãi giúp người khác,
  • các nhân đức thương xót, tha thứ và khiêm nhường,
  • nhận thấy những giới hạn của mình, cần làm việc chung với anh em,
  • liên tưởng cuộc sống thường ngày với những lựa chọn căn bản của mình về cuộc sống,
  • để tình thương và sức lực của Chúa làm tâm điểm cuộc sống.
II.- Ba nguyên tác dọn đường cho hồng ân 'chiêm niệm trong hoạt động'
1.- Thiên Chúa ban cho mỗi người quyền tự do lựa chọn mục tiêu cuộc sống. Mỗi người có quyền định hướng cuộc sống theo ước muốn đích thực của mình. Ý nghĩa sâu xa của những lựa chọn hằng ngày là cách mỗi người đáp lại cho câu hỏi "Tôi sống cho ai?", "Tôi sống để làm gì?". Những ai sống cho chính mình, thì biến thành ích kỷ, sống trong sự thiếu thốn và đói khát nội tâm, bởi vì chẳng ai có thể mang ý nghĩa cho chính mình. Người ích kỷ không bao giờ được mãn nguyện, không màng niềm vui hoặc nước mắt của người khác. Còn ai lựa chọn sống cho Thiên Chúa và cho tha nhân, thì được Ngài ban sức sống dồi dào và chỉ mong chuyển sức sống đó cho anh em. Thật may mắn cho những ai sống cạnh bên, vì người đó sẽ dùng mọi khả năng để nâng đỡ và chuyển sức sống cho họ.
Trên mặt đất chẳng ai hoàn toàn sống ích kỷ cũng như hoàn toàn sống vô vị lợi. Tùy cách lựa chọn, mỗi người thiên về lối sống ích kỷ hay vô vị lợi. Thiên Chúa tôn trọng sự lựa chọn của mỗi người. Quyền tự do con người không bị đe dọa bởi quyền thế Thiên Chúa. Trái lại, chỉ ở trong Thiên Chúa và quyền thế của Ngài mà con người mới thực sự biết mình muốn gì và có thể định hướng cuộc sống theo ước muốn đó.
2.- Mọi biến cố vui buồn trong cuộc sống đều xảy ra trong kế hoạch của Thiên Chúa. Các biến cố xảy ra theo nhiều nguyên do: do luật tự nhiên của trời đất, do rủi ro hay là do lựa chọn của loài người. Thiên Chúa Quan Phòng, tuy có quyền trên mọi sự, nhưng thường thường tôn trọng các luật tự nhiên và luôn luôn tôn trọng quyền tự do của loài người. Tuy nhiên, Ngài biết mọi sự và có quyền trên mọi sự.
Chẳng có gì xảy ra ngoài sự hiểu biết của Thiên Chúa. Thiên Chúa không tùy thuộc thời gian, Ngài sống trong vĩnh viễn. Quá khứ và tương lai hiện diện trong Thiên Chúa. Vì lý do đó mọi sự xảy ra trong thời gian, đều hiện diện trong Thiên Chúa. Ngài biết mọi sự và có quyền 'làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Ngài' (Rm 8,23). Ngài có quyền cứu chữa vết thương và điều chỉnh lại những sai lầm. 'Thiên Chúa biểu lộ quyền năng cách tỏ tường hơn cả, khi Ngài thương xót và thứ tha' (Ch.Nh. 26) 
3.- Thiên Chúa mời chúng ta cộng tác với Ngài trong công trình sáng tạo trời đất và uốn nắn con người theo kế hoạch Ngài dành cho mỗi người. Trời đất hiện tại chưa được hoàn tất, con người còn dở dang. Thiên Chúa muốn con người cộng tác với Ngài với khả năng, sáng kiến và đống góp của mình. Ngài thân mời, gõ cửa trái tim chúng ta (Kh 3,20). Con người có thể làm lơ hoặc đáp lại với lòng quảng đại. Đây là căn bản của ơn gọi và sứ vụ mỗi người. Thiên Chúa tôn kính và tin tưởng loài người, khi mời chúng ta cộng tác với Ngài trong kế hoạch dựng nên trời đất và cứu chuộc nhân loại. Chúng ta có thể nói rằng: 'Ngài muốn hạn chế quyền năng Quan Phòng của Ngài khi mời con người cộng tác với Ngài' vì, một cách nào đó, con người có thể làm Ngài 'thất bại', và cũng có thể đóng góp cho vinh quang của Ngài. Được Thiên Chúa mời cộng tác với Ngài là nhiệm vụ cao đẹp nhất, là vinh dự lớn lao của một người. Mức vinh quang của mỗi người sẽ sáng láng vĩnh viễn trong trời mới đất mới của Ngài.
III.- Chúng ta có thể làm gì để nhận lãnh ơn 'chiêm niệm trong hoạt động'?
1.- Thương yêu mọi sự và mọi người trong Thiên Chúa. Theo thánh I-nhã, muốn nhận ra Thiên Chúa một cách dễ dàng, chúng ta cần một tâm hồn tự do đối với những ước muốn và ích lợi riêng cũng như đối với mọi người; không có thần tượng thay thế cho Chúa; biết phó thác mọi người và mọi sự trong bàn tay của Chúa. Tâm hồn trong sạch như vậy là điều kiện cần thiết để tìm và nhận ra Chúa trong mọi sự.
2.- Sống trong sự hiện diện của Chúa Phục Sinh. Chúng ta được kêu và sai đi không phải một mình nhưng với Chúa: "Vậy dù ăn, dù uống hay làm bất cứ điều gì, anh em hãy làm mọi sự để tôn vinh Chúa"(1Cr 10,31), và tin tưởng rằng: "Thiên chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người" (Rm 8,28). Khi ước muốn sâu xa và đích thực của chúng ta giống ước muốn của Đức Ki-tô, thánh ý Chúa biến thành tâm điểm cuộc sống của chúng ta và Thần Khí soi sáng chúng ta biết lựa chọn theo Thánh Ý Ngài. Sống trong sự hiện diện của Chúa Ki-tô Phục Sinh, thúc đẩy chúng ta đặt Chúa Cha lên trên hết. Bí quyết về đời sống 'chiêm niệm trong cuộc sống' hoàn toàn nằm ở trong tình yêu.
3.- Chiêm niệm để lớn lên trong tình yêu. Trong bài chiêm niệm này (LT 231) thánh I-nhã đề nghị những kiểu khác nhau để chúng ta nghiền ngẫm tình yêu của Chúa trong thế gian và cách đáp trả lại tình yêu với tình yêu. Trong nhận xét của I-nhã, chúng ta có thể tìm được một đường lối phong phú để mở lòng cho ơn Chúa là: 'Chiêm niệm trong hoạt động'.
Câu hỏi gợi ý cầu nguyện và trao đổi
  • Những biến đổi trong cuộc sống: trước đây trong cuộc sống có thời gian dành cho Chúa (đi Lễ, lần chuỗi) và thời gian dành cho gia đình, công ăn việc làm. May ra bây giờ, chúng ta tìm được Thiên Chúa ngay trong gia đình và sở làm. Sự biến đổi này đã xảy như thế nào: có giai đoạn nào, người nào, kinh nghiệm nào đã giúp tôi trên đường nhận ra Thiên Chúa trong cuộc sống của tôi?
  • Nếu có ít thì giờ cầu nguyện, có những điều gì giúp tôi tìm Chúa trong cuộc sống và mang cuộc sống cho Thiên Chúa?
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận