Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng CN XXV – năm A

Đăng lúc: Thứ năm - 18/09/2014 22:09 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng
Chúa Nhật XXV thường niên – năm A
Lời Chúa: 
Is 55, 6-9; Tv 144, 2-3. 8-9. 17-18; Pl 1, 20c-24. 27a; Mt 20, 1-16a
***************

MỤC LỤC
1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: Tự do và lòng nhân lành của Thiên Chúa
2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
3. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt: Dụ ngôn thợ làm vườn nho
4. Chú giải của Noel Quesson: Những người thợ làm vườn nho
5. Cao cả hơn lòng chúng ta (Lm. Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
6. Tất cả đều lãnh mỗi người một đồng (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
7. Lòng tốt của Thiên Chúa (Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
8. Ghen tị (JM. Lam Thy ĐVD.)
9. Lao động Đức Tin (Trầm Thiên Thu)
10. Ghen tị
11. Chiến thắng lòng ghen tị (Lm. Ignatiô Trần Ngà)
12. Ghen tương (Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
13. Ca tụng hay kêu trách (Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ.)
14. Lý lẽ của trái tim (ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)
15. Thợ làm vườn nho (Radio Veritas Asia)
16. Hãy vào làm việc trong vườn nho (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
17. Bài giảng của Lm. Giuse Đinh Tất Quý



A. BẢN VĂN

Bài đọc I (Is 55, 6-9)
Hãy tìm Chúa khi còn tìm được, hãy kêu cầu Người khi Người còn ở gần. Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình, và kẻ bất lương, hãy bỏ những tư tưởng mình, hãy trở về với Chúa, thì Người sẽ thương xót; hãy trở về với Thiên Chúa chúng ta, vì Chúa rộng lòng tha thứ.
Vì tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta, Chúa phán như vậy. Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối Ta vượt trên đường lối các ngươi, và tư tưởng Ta cũng vượt trên tư tưởng các ngươi thế ấy.

Bài đọc II (Pl 1, 20c-24. 27a)
Anh em thân mến, dù tôi sống hay tôi chết, Ðức Kitô sẽ được vẻ vang trong thân xác tôi. Vì đối với tôi, sống là Ðức Kitô, còn chết là một mối lợi. Nhưng nếu sống trong xác thịt này đem lại cho tôi kết quả trong việc làm, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Tôi đang lúng túng trong hai điều này: là ước ao chết để được ở với Ðức Kitô thì tốt hơn bội phần, nhưng cứ ở lại trong xác thịt thì cần thiết cho anh em. Anh em hãy sống xứng đáng với Tin Mừng của Ðức Kitô.

Tin Mừng (Mt 20, 1-16a)
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: “Nước trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông. Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng”. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.
Ðến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: “Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?” Họ thưa rằng: “Vì không có ai thuê chúng tôi”. Ông bảo họ rằng: “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta”.
Ðến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: “Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết.” Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng.
Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn, nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Ðang khi lãnh liền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: “Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao”? Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: “Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao?” Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng? Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết”.



B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI VÀ SUY NIỆM

Bài 1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: TỰ DO VÀ LÒNG NHÂN LÀNH CỦA THIÊN CHÚA
1. Ngữ cảnh
Trong các giáo huấn luân lý, ngay từ đầu Đức Giêsu đã tuyên bố rằng, là những con người, chúng ta không được tỏ ra thụ động, dửng dưng, chúng ta phải cộng tác để có thể thuộc về Nước Trời. Người đã khẳng định rõ ràng rằng chúng ta phải có một sự công chính “dồi dào hơn” (5,20), chúng ta phải làm thánh ý của Chúa Cha (7,21), để được vào Nước Trời. Trong dụ ngôn Kho tàng chôn giấu trong ruộng và Viên ngọc quý, Người cho thấy rằng Nước Trời xứng đáng được yêu cầu người ta dồn hết sức mà theo đuổi (13,44-46). Phêrô đã hỏi: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” (19,27). Đức Giêsu không gạt bỏ câu hỏi về phần thưởng; Người hứa ban cho các môn đệ mộtphần thưởng gấp trăm và sự sống đời đời (19,29). Hành động đúng và dấn thân trọn vẹn là những điều cần thiết, và chúng ta có thể chắc chắn là sẽ được Thiên Chúa quảng đại nhìn nhận và chúc phúc. Bài dụ ngôn Những người thợ vườn nho bổ sung cho nguyên tắc trên đây ở điểm: chúng ta không thể khẳng định mộtquyền gì trước nhan Thiên Chúa. Chính vì thế có liên từ “bởi vì/quả thế” (gar) mở đầu cho bài[1][1].
Bài này được ngỏ với các môn đệ, với người Pharisêu, hay là nhắm đến các tương quan giữa Do Thái và Dân ngoại? Ngữ cảnh gần cho thấy rất rõ là Đức Giêsu nói với các môn đệ: trong các bản văn trước cũng như trong các bản văn tiếp sau, các thính giả là các môn đệ. Và chính là nhân mộtcâu hỏi rõ rệt của Phêrô mà Đức Giêsu kể dụ ngôn này. Có thể Người cũng nghĩ đến người Pharisêu hoặc toàn thể Israel, được tượng trưng bằng “những kẻ đứng đầu” lại thành “chót”? Rất có thể như thế, nhưng không có chi tiết nào trong bản văn bảo đảm như thế cả. Vậy phải giải thích dụ ngôn theo câu hỏi của Phêrô.
Nhân câu hỏi của Phêrô, Đức Giêsu đã nói về phần thưởng dành cho những ai bỏ mọi sự mà theo Người. Rồi Người kể dụ ngôn Những người thợ làm vườn nho. Dường như tâm trí Phêrô là tâm trí tính toán: phải tha mấy lần? Ông sẵn sàng tỏ ra quảng đại tối đa: tới bảy lần (con số chỉ sự hoàn hảo). Đức Giêsu đẩy đi xa hơn: Phải tha tới bảy mươi lần bảy, nghĩa là cứ cố gắng hoàn hảo “hơn”. Trong thực tế, Đức Giêsu cho biết rằng người ta không thể dàn xếp các vấn đề quan hệ liên vị dựa theo kiểu khối lượng được.
Rồi trong hoàn cảnh hiện tại, Phêrô muốn biết những ai đã bỏ mọi sự để phục vụ Đức Kitô thì được thưởng thế nào. Hai vế của phương trình phải cân bằng: phục vụ và hy sinh bao nhiêu thì phần thưởng bấy nhiêu. Đức Giêsu nồng nhiệt trả lời và đảm bảo rằng họ sẽ được ban thưởng bội hậu. Thế nhưng câu hỏi của Phêrô sai chỗ và cho thấy có mộtthái độ sai lạc. Nước Thiên Chúa không dựa trên luật có qua có lại; trong Nước này, không có chuyện các công trạng cá nhân được đánh giá theo số giờ làm việc. Trước tiên, đây là vấn đề đón nhận mộtân huệ.
2. Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Ông chủ vườn nho thuê thợ suốt ngày (20,1-7);
2) Cách trả lương (20,8-12);
3) Ông chủ giải thích (20,13-15);
4) Kết luận (20,16a).
3. Vài điểm chú giải
- Sau khi đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền (2): Một đồng quan là lương thông thường mộtngày làm việc vào thời Đức Giêsu. Ghi nhận về sự thỏa thuận này quan trọng để có thể đưa tới kết luận đầy kịch tính. Sách Mishnah tính là một người cần tối thiểu 200 quan một năm để có thể sống, tức giả thiết là một người làm công có thể tìm ra việc ít nhất 200 ngày một năm. Một quan có thể mua được từ 10 đến 12 ổ bánh mì nhỏ; 3 đến 4 quan thì mua được 12 lít lúa mạch (để làm được 15 ký bánh mì) hoặc một con chiên; 30 quan mua được một bộ quần áo nô lệ; 300 quan mua được một con bò. Theo giá đó, ta biết đời sống của một người làm công cũng khó khăn.
- Khoảng chín giờ sáng (3): Dịch sát là “Giờ thứ ba”. Mặc dù giờ pháp lý bắt đầu vào lúc mặt trời lặn, người ta vẫn tính giờ kể từ khi mặt trời mọc. Do đó, giờ thứ ba, giờ thứ sáu, giờ thứ chín và giờ thứ mười mộttương đương với 9g, 12g, 15g và 17g. Ngày làm việc kết thúc vào khoảng 18g.
- bắt đầu từ những người vào làm sau chót (8): Cách trả lương như thế là bất thường. Nhưng câu truyện được xây dựng sao cho độc giả hiểu được lý do khiến những người thợ đầu tiên phải cằn nhằn.
- Này bạn (hetaire, 13): Hetairos là “người bạn đường”. Người ta thường dùng từ này để xưng hô với kẻ mà người ta không biết tên. Những người thợ làm giờ đầu đã không thưa gửi gì cả với ông chủ, nên ông chủ đã làm họ phải bẽ mặt khi bắt đầu câu trả lời bằng lời này. Ở đây hẳn là lời xưng hô này vừa toát ra sự tốt lành, vừa nhuốm màu trách móc.
- Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức? (15): Dịch sát là “Hay mắt bạn xấu vì tôi tốt lành?”. Câu này là chìa khóa mở ra bài học của dụ ngôn. Đối với người Do Thái, căn cứ của tư tưởng, tức của những tâm trạng tốt và xấu, là trái tim; trái tim thông truyền các phản ứng của nó ra bên ngoài qua con mắt. Do đó, phẩm chất của con mắt cũng chính là phẩm chất của trái tim, hoặc của tâm hồn (x. 6,22; x. Mc 7,22; Cn 22,9; 23,6-7; 28,22).
4. Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu đã tạo ra mộtdụ ngôn với khung cảnh là việc chăm sóc vườn nho. Ông chủ nhà (oikodespotês) đi ra chợ thuê mướn thêm thợ, từ lúc đầu ngày, khi mặt trời mọc, cho đến khi chỉ còn mộtgiờ nữa là chấm dứt ngày làm việc.
* Ông chủ vườn nho thuê thợ suốt ngày (1-7)
Ông chủ mời gọi mọi người ông gặp, những người ông gặp ngay lúc sáng sớm, cũng như những người ông gặp lúc trưa, lúc xế chiều, thậm chí lúc trời đã về chiều. Với những người được mướn đầu tiên, ông đã thỏa thuận với họ tiền lương thông thường một ngày làm việc là mộtquan (c. 2); với những người khác, ông hứa trả cho họ hợp lẽ công bằng, và hẳn họ hiểu là chỉ một phần đồng quan thôi (cc. 4-5); còn những người cuối cùng, ông sai họ đi làm vườn nho mà không nói minh nhiên về phần lương (c. 7). Thời gian làm việc của mỗi nhóm rất khác nhau. Thuê thợ vào hai giờ cuối ngày là chuyện lạ lùng, khiến thính giả chú ý. Có những tác giả, chẳng hạn Jeremias và Flusser, giải thích rằng cần phải thu hoạch nho trước khi những trận mưa thu đến. Nhưng bản văn không xác định là đang thu hoạch nho trong mùa thu; biết đâu thợ đang làm cỏ cho vườn nho vào mùa xuân? Chi tiết này muốn thính giả hay độc giả phải tự hỏi về khả năng lên kế hoạch của ông chủ và chờ đợi xem cách trả lương vào cuối ngày.
Tác giả dành một khoảng thời gian cho những người được mướn vào giờ cuối cùng. Ông chủ hỏi tại sao họ đứng đây không làm gì cả. Họ trả lời câu hỏi “thừa” này là không có ai mướn họ cả. Dĩ nhiên, vì chính ông chủ cũng thấy là họ không có việc (cc. 6-7). Mẩu đối thoại ngắn này nhắm làm cho thính giả cũng phải dừng lại với những người thợ này. Phải chăng họ quá lớn tuổi, hay là đau ốm? Phải chăng họ ngủ quên, nên hụt mất giờ thuê mướn thợ sáng sớm? Tác giả không cung cấp một chi tiết nào để trả lời các câu hỏi này. Ngài chỉ muốn thính giả để ý tới họ thôi.
Thính giả có thể cũng đã quen với hình ảnh ông chủ vườn nho là Thiên Chúa; Ngài kêu gọi dân Ngài làm việc cho Ngài. Nhưng không có chỗ nào trong truyền thống kinh sư nói rằng ông chủ mướn thợ vào các giờ khác nhau. Do đó, dụ ngôn này vẫn giữ được tính độc đáo riêng.
* Cách trả lương (8-12)
Đến chiều (opsias genomenês), người ta trả lương. Đây là truyền thống của Kinh Thánh và Do Thái giáo (x. Lv 19,13; Đnl 24,14-15). Đến c. 8, “chủ nhà” (oikodespotês) đột ngột biến thành “chủ vườn nho” (kyrios tou ampelônos); chi tiết này cũng làm cho người ta nghĩ đến Thiên Chúa. Người quản lý (epitropos) xuất hiện chỉ để thi hành lệnh lạ lùng của ông chủ: trả lương trước cho những người làm giờ cuối cùng. Mục đích hẳn chỉ là để những người làm giờ đầu tiên thấy những người kia được nhận lương thế nào.
Những người đầu tiên đã làm mười hai giờ, “đã làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (c. 12). Những người cuối cùng chỉ làm có mộtgiờ mà thôi. Như thế, những người làm giờ đầu tiên đã phải làm dài giờ mà còn phải chịu cái nóng nực, còn những người làm giờ cuối cùng đã làm ít giờ lại được hưởng cái mát mẻ của buổi chiều. Nếu cứ theo cách tính toán chính xác thông thường, những người cuối cùng hẳn là chỉ được nhận mộtphần mười hai số lương của những người đầu tiên, nghĩa là mộtphần mười hai của mộtquan. Thế nhưng với những người thợ cuối cùng, dù ông chủ không hứa gì cả, ông đã trả cho họ trọn một quan. Đây là điều hoàn toàn bất ngờ, trái với sự tính toán thông thường.
Vậy những người thợ đầu tiên nghĩ rằng họ sẽ được nhận nhiều hơn, và có lẽ các thính giả cũng nghĩ như vậy. Thế nhưng mỗi người cũng chỉ nhận được một quan.
* Ông chủ giải thích (13-15)
Do đó, ông chủ đã khiến những người đầu tiên càm ràm phản đối: dường như là ông chủ đã vị phạm cách võ đoán nguyên tắc căn bản về công bình khi coi những người chỉ làm có một giờ ngang hàng với những người suốt ngày phải chịu nặng nhọc và nắng nôi. Ông chủ đã trả lời trả lời cho người phát ngôn của nhóm thứ nhất, với lời thưa gửi mở đầu là “bạn” (hetaire). Trước tiên, ông bảo vệ cách cư xử của ông dựa trên nền tảng là công bình hình thức, theo những gì đã thỏa thuận (c. 13). Thế thì người phản đối chỉ có thể cầm lấy phần của mình mà về nhà. Ông chủ cũng bảo vệ cách cư xử của mình khi nói đến quyền của người chủ là được tự do định đoạt về của cải của mình (c. 15). Cuối cùng, ông nêu một câu hỏi cho thấy động lực chân thật thúc đẩy ông ứng xử như thế: ông tốt bụng, cho dù ông không buộc phải hành động như thế. Phải chăng sự ghen tức đã thúc đẩy những người thợ đầu tiên phản đối ông?
Như vậy, ông đã trả lời để mở rộng cái nhìn hạn hẹp của họ và nhắc họ nhớ đến mộtloạt những yếu tố khác cũng quan trọng đối với việc lượng định lối xử sự của ông. Ông không nói với đám đông, nhưng nói với riêng mộtngười. Các tôi tớ không được để cho mình bị ảnh hưởng bởi ý kiến của đám đông, nhưng mỗi người phải tự mình cân nhắc quan điểm của ông chủ.
* Kết luận (16a)
Có những tác giả coi câu này như câu cốt yếu của dụ ngôn. Nhưng thật ra những người đầu đâu có trở thành chót (trừ chuyện nhận lương); họ tất cả đều được hưởng mộtđồng lương như nhau. Đối với các người thợ, chỉ tiền bạc mới đáng kể. Câu này không được rút ra từ dụ ngôn, mà chỉ được thêm vào vì tương tự với đề tài. Trong thực tế, câu châm ngôn này nói đến sự đảo ngược các chỗ, còn dụ ngôn thì nói đến sự đối xử đồng đều.
+ Kết luận
Dựa trên c. 15, chúng ta hiểu được chiều hướng của câu truyện: nói đến lòng nhân hậu của Thiên Chúa được biểu hiện cụ thể trong đời sống của Đức Giêsu. Giống như ông chủ vườn nho cư xử với những người thợ cuối cùng, Đức Giêsu cư xử tốt với những người không có một chuẩn mực nào mà đòi hỏi Thiên Chúa. Nhân danh Thiên Chúa, Đức Giêsu bảo vệ những kẻ tội lỗi, những người không tuân giữ Lề Luật; những phụ nữ và những người nghèo, những người vì nhiều lý do, không giữ được trọn Lề Luật; những bệnh nhân bị loại khỏi cộng đồng; những người thuộc đám đông dân chúng, không biết Lề Luật là gì. Vậy bài dụ ngôn không chỉ kể về lòng nhân ái của Thiên Chúa, nhưng còn giải thích lối cư xử của Đức Giêsu đối với dân chúng.
Chúng ta không thể khẳng định mình có mộtquyền hay mộtgiá trị gì trước nhan Thiên Chúa; không thể xác định được mộtsự tương ứng cứng ngắc giữa phần ta đóng góp và phần thưởng từ phía Thiên Chúa. Thiên Chúa không bỏ qua bất cứ nỗ lực nào mà không ban thưởng, nhưng Ngài vẫn giữ lại cho mình quyền tự do tuyệt đối; và trên nền tảng là lòng nhân lành hoàn toàn tự do của Ngài, Ngài có thể ban tặng vượt xa mọi công trạng.
Hành động và các công trạng của con người không bao giờ thiếu ý nghĩa; chúng vẫn luôn có giá trị trước mặt Thiên Chúa, nhưng không thể áp đặt cho Ngài bất cứ quy tắc nào về ban thưởng, cũng không thể giới hạn tự do của Ngài trong lối hành động cũng như lòng nhân lành của Ngài. Với dụ ngôn này, Đức Giêsu lưu ý chúng ta là không được tính toán với Thiên Chúa, và quy định cho Ngài những gì Ngài phải ban cho chúng ta và người khác.
5. Gợi ý suy niệm
1. Nếu tác giả (Đức Giêsu) muốn cống hiến mộtbài học về công bình xã hội, thì hẳn là Người đã thất bại, bởi vì câu truyện không hề tôn trọng các luật lệ sơ đẳng nhất về sự bình đẳng. Thật ra tác giả không có ý giới thiệu mộtông chủ thông thường, ban thưởng theo những đóng góp đã bỏ ra, nhưng là một ông chủ đặc biệt, có lối xử sự vượt quá kiểu tương quan bình đẳng. Giống như nhân vật chính của bài dụ ngôn, Thiên Chúa xử sự như thế trong tương quan với loài người, và theo đường lối Ngài, Đức Kitô cũng xử sự như thế khi ban ơn cứu độ cho loài người.
2. Thiên Chúa gọi mọi người đi vào vườn nho của Ngài, vào các thời điểm khác nhau. Những người Do Thái được gọi trước, nhưng rồi mọi người đều được chiếu cố, dù có lúc đã tưởng mình bị bỏ quên (“Vì không ai mướn chúng tôi”, c. 7). Bài dụ ngôn không nhấn mạnh đến sự quý chuộng riêng ông chủ tỏ ra với mộtai, nhưng nhấn trên những quyền bình đẳng mà mọi người đều có trước lời mời và trước phần lương được ban. Nếu trước đây ông chủ đã hoặc có thể tỏ ra thiên vị, thì từ nay không còn như thế nữa.
3. Chúng ta không được so đo về các ân huệ của Thiên Chúa và than trách Ngài vì tưởng rằng chúng ta được nhận ít. Chúng ta phải chu toàn nhiệm vụ và đón nhận với lòng biết ơn những gì Ngài ban cho chúng ta. Chúng ta phải tôn trọng tự do và lòng nhân lành của Ngài, và vui mừng khi thấy bất cứ dấu chỉ nào cho thấy lòng nhân lành của Ngài, cho dù không liên hệ đến chúng ta mà liên hệ đến người thân cận.
4. Ông chủ không ban phát đồng quan cách ngẫu hứng, cho ai nhiều ai ít tùy hứng. Ông ban cho mọi người điều họ cần, và ông ban phát rộng rãi tùy theo nhu cầu của người ta. Ông không gây thiệt hại cho ai cả, nhưng lòng tốt thúc bách ông ban tặng điều cần thiết để sống, cho cả người không được may mắn. Bài học của dụ ngôn vẫn tiếp diễn trong lòng cộng đoàn các môn đệ Đức Kitô, trong đó vẫn vang lên lời kêu gọi sống khiêm nhường, sống tế nhị, quảng đại, như Đức Giêsu đã nhiều lần ngỏ với các môn đệ Người (x. 18,1tt; 20,22).


Bài 2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này xoay quanh một chủ đề: lòng từ bi, nhân hậu …
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này xoay quanh một chủ đề: lòng từ bi, nhân hậu, rộng lượng và hay tha thứ của Chúa đối với muôn loài mà Ngài đã dựng nên, nhất là con người.
Is 55: 6-9
Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị loan báo cuộc giải thoát sắp đến và kêu mời những người lưu đày ở Ba-by-lon thật lòng hoán cải ngỏ hầu được Thiên Chúa thứ tha và cứu thoát, vì tư tưởng của Thiên Chúa không là tư tưởng của phàm nhân, đường lối của Thiên Chúa không là đường lối của con người.
Tv 145 (144): 2-3, 8-9, 17-18
Trong đoạn trích Thánh Vịnh này, tác giả ca ngợi tấm lòng từ bi nhân hậu của Chúa đối với muôn loài Ngài đã dựng nên, nhất là những ai thành tâm cầu khẩn Ngài.
Pl 1: 20-24, 27
Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô đang sống trong cảnh giam cầm, bị giằng co giữa đôi ngã: hoặc bị tuyên án tử, như thế được ra đi để được ở với Chúa; hay được phóng thích để tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Thánh nhân phó thác số phận của mình vào lòng nhân hậu của Chúa.
Mt 20: 1-16
Qua dụ ngôn “thợ làm vườn nho”, Đức Giê-su viện dẫn tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa vượt quá sự công bằng giao hoán mà con người đòi hỏi. Một lần nữa, Tin Mừng nhấn mạnh rằng tư tưởng của Thiên Chúa không là tư tưởng của phàm nhân, đường lối của Chúa không là đường lối của con người.
BÀI ĐỌC I (Is 55: 6-9)
Đoạn trích dẫn nầy là một trong những sứ điệp sau cùng mà ngôn sứ I-sai-a đệ nhị gởi đến cho những tù nhân ở Ba-by-lon mong chờ ơn giải thoát, nhưng vài người nghi ngờ và nhụt chí vào khoảng những năm 545-540 trước Công Nguyên. Trong bối cảnh như vậy, ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, tác phẩm của ông được gọi “Sách An Ủi” (ch. 40-55), khẩn thiết loan báo những chủ đề hy vọng; ông nhấn mạnh niềm tin vào một vị Thiên Chúa rộng lòng tha thứ, một vị Thiên Chúa toàn năng, Ngài có thể làm bất cứ điều gì mà Ngài muốn.
1. Thiên Chúa rộng lòng tha thứ:
Thời gian cứu độ sắp tới phải là thời gian của cầu nguyện và hoán cải: “Hãy tìm Chúa, khi Người còn cho gặp, kêu cầu đi, lúc Người ở gần bên”. Phải chăng Thiên Chúa vẫn hiện diện bên cạnh dân Ngài trong cảnh lưu đày còn gần gũi hơn khi Ngài còn ngự trị giữa họ trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem? Năm mươi năm đã trôi qua kể từ cuộc phát lưu đầu tiên vào lúc mà ngôn sứ Giê-rê-mi-a viết cho những người lưu đày hầu như theo cùng một cách diễn tả: “Các ngươi sẽ tìm Ta, và các ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi sẽ hết lòng kiếm Ta, Ta sẽ cho các ngươi được gặp. Ta sẽ đổi vận mạng của các ngươi và sẽ thu họp các ngươi về từ khắp các dân, từ mọi nơi Ta đã xua các ngươi đến” (Gr 29: 13-14).
Hoán cải không gì khác hơn là tránh xa khỏi điều gian ác: “Kẻ bất lương, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người gian ác, hãy bỏ tư tưởng mình đang có”. Lời kêu gọi thay lòng đổi dạ là sứ điệp thường hằng của truyền thống ngôn sứ. Đối với ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, cuộc trở về Giê-ru-sa-lem phải cùng chung nhịp bước với cuộc trở về với Thiên Chúa. “Hãy trở về với Chúa, với Thiên Chúa chúng ta, Người sẽ xót thương vì rộng lòng tha thứ. Động từ“tha thứ” nầy “được dùng trong Cựu Ước chỉ với Thiên Chúa là chủ từ”, vì sự tha thứ nầy không có cùng mức độ nào với sự tha thứ của con người.
Động lực tột cùng của niềm tin tưởng nầy mà những người lưu đày phải thấm nhuần đó là“Trời cao hơn đất thấp chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy”. Tư tưởng của Thiên Chúa cao vời trên cõi trời cao thẳm, trong khi tư tưởng của con người ở dưới tận chốn đất thấp. Đường lối của Ngài cao vời khôn ví làm thế nào đầu óc nhỏ bé của phàm nhân có thể hiểu được. Bởi vậy, mỗi khi con người nghĩ rằng tội lỗi của mình quá nặng nề không thể nào được tha thứ, thì Thiên Chúa mặc khải cho họ biết rằng Ngài vô cùng độ lượng, rộng lòng tha thứ và sẵn sàng đón nhận những kẻ tội lỗi khi họ cất bước trở về với Ngài, cũng như Ngài sẵn sàng trả công bội hậu cho con người vượt quá công sức của họ.
2. Thiên Chúa siêu việt và toàn năng.
Ngôn sứ I-sai-a kết thúc sứ điệp của mình bằng cách nhắc nhở rằng Thiên Chúa là Đấng siêu việt và toàn năng. Vị ngôn sứ kết nối sự cao cả của Thiên Chúa với lượng hải hà tha thứ của Ngài. Con người nhỏ bé và mỏng dòn, bởi vì tất cả chúng ta là những tội nhân, còn Thiên Chúa thì cao vời khôn ví, bởi vì Ngài ôm ấp trong lòng những tư tưởng cứu độ. Các tác giả thánh vịnh cũng đã sử dụng hình ảnh về “trời cao đất thấp” để đánh dấu khoảng cách vô tận giữa con người và Thiên Chúa, như Tv 145 (144) mà Phụng Vụ mời gọi chúng ta cất cao lời chúc tụng Đức Chúa hôm nay: “Chúa thật cao cả, xứng muôn lời chúc tụng, Người cao cả khôn dò khôn thấu” (Tv 145: 3). Đây là ‎ý tưởng truyền thống mà Đức Giê-su dạy cho chúng ta trong kinh Lạy Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”.
THÁNH VỊNH 145 (144): 2-3, 8-9, 17-18
Đây là một thánh vịnh cá nhân theo mẫu tự có nhiều điểm nối kết với Tv 111 cũng theo mẫu tự (so sánh 111: 2-4 và 145: 5-8). Thánh vịnh này ca tụng Đức Chúa là vua oai phong vinh hiển (cc. 4-13a), thành tín và nhân hậu (cc. 13b-20). Đoạn trích dẫn của Tv 145 (144) được cấu trúc như sau:
A.Tác giả ước nguyện ca tụng Thiên Chúa suốt cuộc đời mình (cc. 2-3):
2.     “Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa. Và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời”: Theo cùng ý tưởng với Tv 146: 2: “Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng Chúa, sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời”3. “Chúa thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng. Người cao cả khôn dò khôn thấu”: Thánh vịnh 96: 4 cũng đưa ra một mời gọi như vậy:“Chúa thật cao cả, xứng muôn lời chúc tụng, khả tôn khả úy hơn các chư thần”.
Tác giả nêu lên lý do tại sao, bởi vì Chúa là Đấng từ bi nhân hậu với hết mọi loài Ngài đã dựng nên (cc. 8-9) và vì Ngài thân cận với những ai thành khẩn kêu cầu Ngài (cc. 17-18). Đây là hai phẩm tính nổi bật của Thiên Chúa mà tác giả đã nghiệm thấy trong lịch sử của dân Ngài và trong cuộc đời của chính tác giả.
B.Chúa là Đấng từ bi nhân hậu đối với mọi loài Ngài đã dựng nên (cc. 8-9):
8.     “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương”: Ám chỉ đến kinh nghiệm của ông Mô-sê sau những năm tháng được thân cận với Thiên Chúa: “Đức Chúa! Đức Chúa! Thiên Chúa nhân hậu từ và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34: 6). 9. “Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên”: Tác giả sách Khôn Ngoan cho chúng ta một giải thích thật cảm động về tấm lòng nhân hậu giàu lòng xót thương của Chúa như sau: “Trước Thánh Nhan, toàn thể vũ trụ ví tựa hạt cát dính bàn cân, tựa giọt sương mai rơi trên mặt đất. Nhưng Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lối loài người, để họ còn ăn năn sám hối. Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên. Nếu như Ngài không muốn, làm sao một vật tồn tại nổi? Nếu như Ngài không cho hiện hữu, làm sao nó có thể được duy trì? Lạy Chúa Tể là Đấng yêu sự sống, Chúa xử khoan dung với hết mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa” (Kn 11: 22-26).
C.Chúa đặc biệt ở gần bên những ai thành tâm cầu khẩn Ngài (cc. 17-18).
1.     “Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa”: Sách Đệ Nhị Luật đã diễn tả sự công minh của Thiên Chúa: “Người là Núi Đá: sự nghiệp Người hoàn hảo, vì mọi đường lối Người đều thẳng ngay. Chúa tín thành, không mảy may gian dối, Người quả là chính trực công minh” (Đnl 32: 4). 17b. “Đầy yêu thương trong mọi việc Người làm”: Mọi công việc Chúa làm: công trình tạo dựng và công trình cứu độ, đều chan chứa tình yêu thương của Ngài. 18a. “Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa”: Ông Mô-sê đã quả quyết với dân Thiên Chúa: “Phải, thử hỏi có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người?” (Đnl 4: 7). Trong bài đọc I, ngôn sứ I-sai-a đệ nhị cũng lên tiếng kêu mời dân lưu đày: “Hãy tìm kiếm Đức Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người ở gần bên” (Is 55: 6), bởi vì “Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm hồn thất vọng ê chề” (Tv 34: 19). 18b. “Mọi kẻ thành tâm cầu khẩn”: Ngôn sứ Giê-rê-mi-a cũng dạy một chân lý như thế: “Các ngươi sẽ tìm Ta và các ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi sẽ hết lòng kiếm Ta” (Gr 29: 13) và còn đưa ra một hiệu quả tốt đẹp như sau:“Nếu ngươi kêu: ‘Đức Chúa hằng sống’ mà thề cách trung thực, ngay thẳng và công chính, thì chư dân cũng lấy danh Người mà cầu phúc cho nhau; và nơi Người, chư dân cũng sẽ hãnh diện” (Gr 14: 2).
BÀI ĐỌC II (Pl 1: 20-24, 27)
Thành Phi-líp-phê thuộc miền Ma-kê-đô-ni-a là thành phố Châu Âu đầu tiên đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Thánh Phao-lô đã mạo hiểm loan báo Tin Mừng trên lục địa nầy. Ở đây, các cộng đoàn Do thái thì thưa thớt, vì thế một đám thính giả đông đảo lắng nghe thánh nhân chắc hẳn đa số là lương dân. Vào năm 49 hay 50, kể từ khi đặt chân đến thành Phi-líp-phê, thánh nhân luôn luôn dành cho các tín hữu này một ân tình tròn đầy. Như chúng ta biết thánh nhân không muốn đón nhận sự trợ giúp của bất kỳ cộng đoàn tín hữu nào ngỏ hầu Tin Mừng mà thánh nhân rao giảng là một ân ban nhưng không. Tuy nhiên, thánh Phao-lô chỉ đón nhận sự giúp đỡ của các tín hữu Phi-líp-phê, vì thánh nhân muốn bày tỏ lòng ưu ái của Ngài danh cho họ.
1.Hoàn cảnh của thánh Phao-lô khi viết thư gởi tín hữu Phi-líp-phê:
Thư gởi tín hữu Phi-líp-phê – chúng ta sẽ tiếp tục đọc nhiều trích dẫn bức thư nầy trong nhiều Chúa Nhật kế tiếp – chứa đựng một chứng liệu đặc biệt. Hơn bất kỳ thư nào khác, thư gởi tín hữu Phi-líp-phê nầy vén mở cho chúng ta con người nội tâm của thánh Phao-lô, những đức tính và trọn một cuộc đời gắn bó vào Đức Ki-tô. Vốn tính khí bộc trực, ấy vậy những lời khuyên bảo của thánh nhân lại nồng nàn chan chứa những niềm tin tưởng vô bờ.
Khi thánh Phao-lô viết bức thư nầy, ngài đang sống trong cảnh giam cầm, có thể ở Ê-phê-sô, vào năm 55 hay 56. Thánh nhân không biết số phận đang chờ đợi ngài: hoặc bị kết án tử và như thế được ở với Đức Kitô, hay được phóng thích và lại tiếp tục sứ vụ loan báo Tin Mừng của ngài, thánh nhân chỉ còn biết nguyện ước. Sự giằng co đôi đàng, mà thánh nhân trình bày trong đoạn văn nầy, không là thế đôi ngã mà thánh nhân có quyền chọn lựa nhưng là thuận theo thánh ý của Thiên Chúa. Rõ ràng thánh nhân nhắm đến thế đôi ngã nầy ở nơi lời kết luận ngay từ đầu đoạn thư trích dẫn: “Đức Giê-su sẽ bày tỏ quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi sống, hay tôi chết”.
2. Chết là một mối lợi.
Bị giằng co giữa hai giải pháp khả dĩ: chịu chết hay được phóng thích, hiển nhiên thánh nhân thích được chết hơn: “Đối với tôi chết là một mối lợi…ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Kitô, điều nầy tốt hơn bội phần”. Thánh nhân đã xác định rồi mục đích của cuộc đời mình: “sống là Đức Kitô”. Ở bên kia cái chết, thánh nhân được nên một với Đức Kitô cách trọn vẹn hơn.
Nếu thư gởi tín hữu Phi-líp-phê nầy được viết giữa hai bức thư gởi tín hữu Cô-rin-tô, như ngày nay người ta có khuynh hướng nghĩ như vậy, thì thánh Phao-lô hoàn thành tư tưởng của mình trong thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô: “Vậy chúng tôi luôn mạnh dạn, và chúng tôi biết rằng: ở lại trong thân xác nầy là lưu lạc xa Chúa, vì chúng ta tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải nhờ được thấy Chúa…Vậy, chúng tôi luôn mạnh dạn, và điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” (2Cr 5: 6-8).
Trong đoạn trích thư Cô-rin-tô nầy, tư tưởng của thánh Phao-lô rõ ràng nhuốm màu sắc“Nhị Nguyên thuyết” của tư tưởng Hy lạp; tuy nhiên, tất cả các thư khác của thánh nhân đều làm chứng rằng thánh nhân không hoàn toàn chấp nhận khía cạnh tiêu cực của triết lý Hy lạp này, tức là khinh bỉ thân xác. Trái lại, Vị Tông Đồ dân ngoại ca ngợi thân xác nầy là“Đền Thờ của Chúa Thánh Thần” và sẽ được sống lại vào ngày sau hết. Thánh nhân luôn luôn nhắm đến một sự hiệp nhất trọn vẹn với Đức Kitô sau khi chết; tuy thế, thánh nhân cũng không ngừng nói rằng sự hiệp nhất nầy vốn đã khởi sự ngay từ cõi thế nầy rồi. Cuộc sống của người Kitô hữu vốn là đã được Đức Kitô sở hữu rồi, là nơi Chúa Thánh cư ngụ cùng với chúng ta. Thần Học của Giáo Hội tiếp nối thần học của thánh nhân trên lộ trình nầy. Cái chết không tạo nên một sự đứt đoạn cuộc sống của chúng ta trong Đức Kitô.
3. Niềm say mê loan báo Tin Mừng.
Nhưng thánh nhân bị giằng co đôi ngã. Dầu rằng thánh nhân mong ước được ra đi để được ở với Đức Kitô, tuy nhiên thánh nhân nói với các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của ngài: “Ở lại đời nầy thì cần thiết hơn, vì anh em. Vả lại, thánh nhân luôn luôn mang trong lòng mình niềm say mê loan báo Tin Mừng đến mức thánh nhân xem việc loan báo Tin Mừng như một trách nhiệm mà mình buộc phải chu toàn: “Khốn cho tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng”. Vì thế, lời căn dặn đầy tâm huyết sau cùng của thánh nhân gởi đến họ: “Anh em hãy ăn ở xứng đáng với Tin Mừng của Đức Kitô”.
TIN MỪNG (Mt 20: 1-16)
Dụ ngôn “thợ làm vườn nho” nầy khép lại một loạt những dụ ngôn về Nước Trời trong giáo huấn của Đức Giê-su ở miền Ga-li-lê. Một lần nữa Đức Giê-su cố gắng làm cho hiểu rằng điều xảy ra trong Nước Trời không giống chút nào với cách hành xử của con người. Đức Giê-su có chủ ý chọn những ví dụ cực đoan để gây chú ý‎ ngõ hầu truyền đạt một sứ điệp khó khăn. Các dụ ngôn rất thuận tiện cho việc sử dụng lối ngoa ngữ, nhưng luôn luôn được sắp xếp hướng theo chủ điểm của dụ ngôn, để rồi từ đó rút ra một bài học.
Ở đây, điều thú vị của câu chuyện hệ tại ở nơi sự công phẩn của những người thợ được mướn từ sáng sớm. Mới đọc thoáng qua, dụ ngôn nầy như muốn loan báo: “Trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi bấy nhiêu” như lời Đức Chúa phán qua vị ngôn sứ của Ngài trong Bài Đọc I.
1. Thiên Chúa hoàn toàn tự do trong việc ban phát ân lộc của Ngài.
Vì thế, thật là vô l‎ý nếu dụ ngôn nầy được tiếp cận theo nhãn quang trần thế, vì Đức Giê-su rõ ràng dạy rằng Nước Trời không là tiền thù lao, nhưng là ân ban, Thiên Chúa hoàn toàn tự do định liệu, nhưng không là một kẻ chuyên quyền độc đoán; đây là một sự tự do được điều khiển bởi tình yêu. Lòng nhân ái của Thiên Chúa vượt quá sự công bằng giao hoán.
Tuy nhiên, trước tiên chúng ta nên khảo sát cách hành xử của con người với con người trong giao tiếp xã hội. Dụ ngôn nầy làm thương tổn đặc biệt đến độ nhạy bén của con người hiện đại, rất gai góc đối với vấn đề công bằng giao hoán. Tuy nhiên, dụ ngôn nầy xem ra rất gần gũi hơn với thế giới của chúng ta trong thời khủng hoảng công ăn việc làm, một thế giới đang quần quại sống trong nỗi đau của đa số người đang cố bám víu vào bất kỳ một công việc nào để sống cho qua ngày đoạn tháng. Suốt ngày, họ đứng đó mong chờ bất kỳ ai thuê họ bất cứ công việc nào để đổi mồ hôi lấy bát cơm cho gia đình. Ông chủ trong Tin Mừng năm lần bảy lượt ra ngoài phố chợ để mướn thợ vào làm vườn nho của mình, thậm chí cho đến lúc ngày sắp tàn. Đọc đoạn Tin Mừng nầy, chúng ta cảm thấy một sự đắc ý nào đó khi ghi nhận rằng những người thợ bất đắc dĩ được mướn sau cùng đã nhận được đầy đủ tiền công nhật để có thể nuôi sống gia đình trong một ngày nhờ vào tấm lòng rộng lượng nhân ái của ông chủ vườn nho. Tiền công nhật được thỏa thuận là một đồng, đó là giá trị phải chăng để nuôi sống gia đình trong một ngày.
2. Sống trong tư thế sẵn sàng:
“Chủ điểm” của dụ ngôn nầy được định vị ở nơi tư thế sẵn sàng của những người thợ giờ sau chót nầy. Họ chờ đợi suốt ngày trong tâm trạng nôn nao thấp thỏm và chỉ vào lúc xế chiều mới được mướn vào làm vườn nho. Nếu được thuê mướn sớm hơn, chắc chắn họ cũng đã làm việc cho ông trọn ngày như bao nhiêu người khác. Biết bao câu chuyện Tin Mừng theo cùng một hướng nầy: Đức Giê-su tìm kiếm những tấm lòng sẵn sàng nầy. Ngài tỏ mình ra cho người phụ nữ xứ Sa-ma-ri: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây”(Ga 4: 26), không vì công trạng của chị, nhưng vì Ngài đã phát hiện ở nơi chị một tư thế sẵn sàng đón nhận Mặc Khải của Ngài.
3. Nổi bất bình của những thợ đầu tiên.
Những người thợ làm việc ngay từ tảng sáng sớm ngạc nhiên trước tiền công mà ông chủ trả: ông trả công cho những người thợ sau chót chỉ làm có một giờ vào lúc khí trời mát mẽ cũng bằng với những người thợ đã làm việc nặng nhọc suốt ngày trong cái nắng như thiêu như đốt! Dụ ngôn có nhiều điểm tương tự với dụ ngôn của người con hoang đàng trong đó người con cả công phẩn trước cách cư xử của cha anh đối với người con út, kẻ lang bạt vừa mới chân ướt chân ráo trở về nhà cha, sau khi đã sống cho đến tận bùn nhơ của cuộc đời. Người con cả không hiểu cách cư xử của cha anh, bởi vì anh thiếu tấm lòng khoan dung rộng lượng của tình phụ tử.
Ông chủ trả lời với một trong những người bất bình: “Nầy bạn”. Trong Tin Mừng Mát-thêu, Đức Giê-su nhẹ nhàng quở trách Giu-đa, kẻ phản bội Thầy cũng một cách như thế: “Nầy bạn, bạn đến đây làm gì thì cứ làm!” (Mt 26: 50). Vị vua cũng quở trách một trong những khách vào dự tiệc cưới theo cùng một cách như vậy: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?” (Mt 22: 12).
4. Công bình và nhân ái:            
Những người thợ được thuê từ sáng sớm bị quở trách vì thiếu tấm lòng nhân ái: “Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghét tức?”. Không loại trừ rằng dụ ngôn có một hậu cảnh bút chiến nhắm đến nhóm Biệt Phái. Những người nầy tự hào tự phụ là mình được gọi làm vườn nho cho Thiên Chúa trước tiên. Họ đã vất vã nhiều trong việc tuân giữ Lề Luật một cách nghiêm nhặt đến từng chấm từng phết nên khỉnh bỉ những kẻ thu thuế và phường tội lỗi, những người mà Đức Giê-su quan tâm đặc biệt. Văn hào Barnanos đã viết: “Nhân loại tự tách mình ra thành hai loại khác biệt tùy theo quan niệm mà người ta có về công bình. Đối với những người nầy, công bình là một thế cân bằng, một sự thỏa hiệp. Còn những người khác, nó như một sự thăng hoa, một sự đăng quang vinh hiển của lòng nhân ái”.
Dụ ngôn nầy cũng đề cao mầu nhiệm Giáo Hội: Kitô hữu gốc lương dân là những người đến sau lại được gọi gia nhập Nước Trời và được hưởng vô vàn những ân lộc mà Thiên Chúa đã hứa với dân Do thái. Vì thế, dụ ngôn này đem đến một niềm hy vọng tuyệt vời cho những Ki-tô hữu gốc lương dân, những người đã đón nhận lời mời gọi của tôn chủ chỉ sau một thời gian dài dân Ít-ra-en được tuyển chọn.
Nhưng đây cũng là một niềm hy vọng tuyệt vời cho những ai khám phá Thiên Chúa chỉ ở vào những giờ phút cuối cuộc đời mình. Ví dụ cảm động nhất không phải là ví dụ của tên gian phi sám hối đấy sao? Cả một đời gian ác nhưng chỉ một lời nói đầy cảm thương của anh vào giây phút cuối đời đã đem lại cho anh một lời hứa ngay tức khắc của Đức Giê-su: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Nước Trời” (Lc 23: 43).


Bài 3. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt: DỤ NGÔN THỢ LÀM VƯỜN NHO

CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Về Nước Trời thì cũng in như một gia chủ”: Bây giờ ta đã quen với loại công thức này rồi. Thực vậy, Nước Trời không giống như gia chủ, nhưng giống như toàn thể câu chuyện trong đó gia chủ đóng vai trò chính.
“Sau khi đã thuận giá với thợ là một quan tiền”: Quan tiền tương đương với một phật lăng vàng và lượng trưng tiền công bình thường của một ngày làm việc thời Chúa Giêsu. Việc ghi nhận hợp đồng tiên quyết giữa chủ và thợ đây sẽ thấy là quan trọng vào cuối dụ ngôn: khi chỉ nhận một quan tiền, toán thợ đầu tiên không hề bị thiệt thòi gì cả, vì đó là tiền lương đã thỏa thuận với nhau.
“Giờ thứ ba, ông ra.. “: Dù theo qui định, một ngày bắt đầu từ lúc hoàng hôn (xem “việc thánh hóa hưu nhật” bắt đầu từ chiều thứ 6), người ta vẫn chỉ tính giờ kể từ lúc mặt trời mọc. Như thế giờ thứ 3, thứ 6, thứ 9 và thứ 11 tương ứng với 9 giờ, 12 giờ trưa, 15 giờ và 17 giờ; ngày làm việc chấm dứt lối 18 giờ.
“Tôi sẽ tính phải chăng cho các anh”: Qua câu nói đó, các người thợ sau phải hiểu rằng tiền công của họ sẽ là một phần quan tiền.
“Khởi từ cuối hết cho đến đầu hết”: Đây là một việc dị thường đối với tập tục đương thời, nhưng trình thuật cố ý kết cấu như vậy để làm cho ra vẻ thực các lời kêu trách của những người thợ chứng kiến lòng tốt lạ lùng của gia chủ đối với những kẻ lãnh đầu tiên.
“Đã vác nặng cả một ngày trường, với nắng nôi thiêu cháy”: Theo toán thợ giờ thứ nhất, họ đã bị thiệt thòi trong hai chuyện: vất vả suốt 12 giờ, trong lúc các kẻ khác chỉ làm việc có một tiếng, và hơn nữa đã phải hái nho dưới cơn gió nóng cháy trong lúc những kẻ đến sau lại được hưởng khí trời mát mẻ ban chiều. Thời hạn và điều kiện làm việc khó khăn cho họ quyền được trả lương cao hơn.
“Này bạn”: Toán thợ giờ thứ nhất đã chẳng xưng hô với gia chủ bằng tên hay tước hiệu của ông, và đây ông ta làm cho họ hổ ngươi khi bắt đầu câu trả lời của mình như thế (x. Lc 15, 31). Người ta vẫn thường dùng lối gọi này lúc nói với kẻ không biết tên; ở đây nó vừa đầy nhân hậu vừa đầy trách móc: “bồ ơi…”. Trong 3 đoạn Tân ước có lối gọi này (Mt 20,13; 22,12; 26, 50), kẻ mà người ta nói với là kẻ có phạm lỗi gì đó.
“Hay bạn ghen tương (Nguyễn Thế Thuấn: hay mắt bạn lườm nguýtvì tôi tốt lành”: Câu này là kết luận thật sự của dụ ngôn, như ta sẽ thấy dưới đây, do đó phải nặc cho nó tất cả tầm quan trọng. Quả thế, thường thì câu kết luận của dụ ngôn là chìa khóa để hiểu dụ ngôn. Chữ “ghen tương”, nếu dịch cho sát sẽ là: “mắt ác cảm”, “mắt dữ tợn”, một thành ngữ cổ xưa của Kinh Thánh thường xuất hiện trong Châm ngôn và Huấn ca, để diễn tả, như ở đây, cơn tức giận và ghen tương của cả con người. Nếu đặt thành ngữ “mắt dữ tợn” vào lại trong nguyên bản, thì sự tương phản giữa các hạn từ mới nổi bật, và bài học của dụ ngôn trở nên rõ ràng hơn: “Hay mắt bạn dữ lợn vì tôi tốt lành?”. Cách cư xử của gia chủ chẳng phải là hậu quả của một tính khí chướng kỳ, một bất công hữu ý, nhưng chỉ là kết quả của tâm địa tốt lành nơi ông: chính đó mới quan trọng. ông không muốn gây thiệt hại cho người này, ông chỉ muốn làm điều thiện cho người kia.
“Thế đó, những kẻ cuối hết sẽ nên đầu hết, và kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết”. Vài tác giả xem châm ngôn này như một phần tất yếu hay hơn nữa, như mộ phần chủ yếu của dụ ngôn. Nghĩ như thế tất nhiên buộc lòng phải ép lối giải thích dụ ngôn sao cho ăn khớp với câu kết luận đó. Thánh Gioan Kim Khẩu đã tỏ ra sáng suốt hơn khi tuyên bố trong bài giảng thứ 64 của ngài: “Chúa Giêsu không diễn dịch châm ngôn này từ dụ ngôn đâu. Những người đầu tiên chẳng trở thành kẻ cuối hết; trái lại tất cả đều được thướng như nhau” (PG 58,614). Khiếu chú giải của ngài đã chỉ cho ngài giải pháp đích thực: châm ngôn không phát xuất từ dụ ngôn, nhưng đã được thêm vào do loại suy mà thôi.
Thực vậy, nếu thử liên kết câu tục ngữ với dụ ngôn mà nó được coi như là lại giải thích. Ta thất ngay rằng câu tục ngữ không thể nào phát xuất từ dụ ngôn, và cả hai chẳng có thể đi không với nhau được. Theo châm ngôn, thì các kẻ cam kết phải thực sự nên đầu hết và những kẻ đầu hết phải trở nên rốt cùng. Thánh Gioan Kim Khẩu ghi nhận một cách chí lý là bản văn hiện thời không thỏa mãn hai yêu sách ấy. Cùng lắm và theo một nghĩa nào đó, ta có thể chấp nhận rằng các người cuối hết đã nên đầu hết vì họ là những kẻ đầu tiên được gọi đến nhận tiền lương. Nhưng việc xếp hạng này chỉ có tính cách bề ngoài. Kỳ thực, tất cả đám thợ, lãnh cùng một phần thướng, đều ngang hàng như nhau. Đối với họ, chỉ có tiền mới đáng kể. Trẻ em có thể hưởng lợi lộc hơn khi được kêu đầu, nhưng người lớn lại xem việc trả lương trước hay sau cũng chả ăn thua. Vì thế, nếu dụ ngôn xem ra biện minh cho câu tục ngữ, thì đó chỉ là bề ngoài và theo lối chơi chữ mà thôi, chứ thực tế không phải vậy. Tục ngữ nói đến sự đảo ngược vị trí, còn dụ ngôn lại nói về việc đối xử đồng đều.
Chính bản văn giúp ta xác quyết lối giải thích vừa nêu. Các người thợ đầu tiên, khi tỏ ra ghen tương về quyền lợi đến độ căm tức, đã phàn nàn về chuyện gì? Về việc lãnh lương sau cùng ư? hay về chuyện bị đẩy lui vào hàng cuối? Chắc chắn là không! Chẳng thay họ phàn nàn, chống đối gì điểm này. Xin nói lại điều đó không ăn thua gì với họ cả; họ chỉ cần được trả lương đầy đủ, còn trước hay sau đôi chút không quan trọng. Họ phàn nàn ở chỗ là: dù đã lao công nhiều hơn kẻ khác, họ vẫn lãnh cùng một đồng lương như những kẻ đến làm việc sau cùng.
Trước giọng phàn nàn ấy, gia chủ đã đưa ra câu trả lời duy nhất thích hợp: “Này bạn, tôi đâu xử bất công với bạn, bạn đã chẳng thuận giá một quan với tôi sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi. Còn việc cho người cuối hết này bằng bạn, tôi muốn thế. Há tôi lại không được phép làm như tôi muốn về của cải tôi sao?”. Tất cả ý nghĩa của dụ ngôn đều nằm nơi câu nói ấy của ông chủ vườn nho. Thế mà trong đó chẳng có vấn đề ngôi thứ, mà chỉ là sự bình đẳng trong đồng lương. Các chữ dứt khoát thật rõ ràng: “Này bạn, tôi đâu xử bất công với bạn…Việc cho người cuối hết này bằng bạn, tôi muốn thế… Há tôi lại không được phép…. sao?”
Thành thử dụ ngôn không ăn khớp với câu châm ngôn cuối cùng. Câu này chẳng có tương quan nào khác với dụ ngôn ngoài một tương tự (loại suy) có tính cách ngôn từ về đề tài mà thôi. Đó là một câu kết luận bề ngoài. Như trong nhiều trường hợp tương tự, kết luận bề ngoài này hẳn đã được thêm vào câu chuyện, có lẽ do chính Chúa Giêsu, hoặc do chính tác giả Tin Mừng hay do truyền khẩu bằng cách vay mượn câu nói đó ở một văn mạch khác. Dù sao, các câu kết luận bề ngoài phải được giải thích dưới ánh sáng dụ ngôn (chứ không ngược lại?), nhưng với sự tự do uyển chuyển phù hợp với một loại văn thể như thể. Vì đã được gắn vào phần cuối câu chuyện (19, 16), nên có lẽ câu kết luận đó cũng được ghi lại ở đầu (19, 30) để làm khung văn chương cho dụ ngôn và để thay thế cho câu nhập đề lịch sử.
KẾT LUẬN
Mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa thuộc bình diện ân sủng. Đó là đối tượng đích thực, là giáo huấn căn bản của dụ ngôn. Thật vậy, dụ ngôn đưa ra một mặc khải chủ yếu về Thiên Chúa và cách Ngài nhìn xem sự vật, hay như dụ ngôn người mắc nợ bất nhân (18, 23-33). Trong lúc đó, các giáo sĩ thường tính toán phần thưởng mà người ta có quyền lãnh nhận, xác định phần thưởng mà Thiên Chúa ban cho mỗi việc lành. Cách quan niệm sự vật này hoàn toàn bị dụ ngôn đạp đổ. Ta còn có thể hy vọng gì khi phần thưởng tương ứng với công nghiệp của ta? Trái lại, nếu ta chờ đợi tất cả từ lòng tốt của Thiên Chúa và không nại tí gì vào sự công bằng của Ngài, thì đó chẳng phải là niềm hy vọng của ta sao?
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Ta không thể dựa vào trình thuật này để kết luận rằng Thiên Chúa chẳng ân thưởng cho mỗi người tùy theo công việc của họ. Như thế sẽ đi ngược với Thánh Kinh. Nhưng đúng hơn phải kết luận rằng: ngay cả lúc Thiên Chúa ân thưởng mỗi người tùy theo công việc của họ, Ngài cũng chỉ làm vì lòng tốt chứ không vì bất cứ một sự công bình giao hoán nào cả. Mỗi liên hệ của ta với Thiên Chúa chẳng phải là một cái gì khả dĩ đo lường được cũng như giản lược được vào thứ ngôn ngữ công bằng. Hai cái đều là ân sủng.
2) Đó là một sự thật trước tiên có tính cách hạ con người xuống vì nó bảo với con người rằng: ngươi không phải là kẻ có thể thực sự nói tay đôi với Thiên Chúa vĩnh cửu, nhân danh quyền lợi mà ngươi đã chiếm hữu nhờ sức mạnh của riêng ngươi, không phải là kẻ có thể tính sổ với Ngài được. Vì theo sự thật đó, tất cả đều được bao phí bởi lòng nhân ái tự do của Thiên Chúa, bởi những ý định khôn dò của Ngài. Nhưng đối với chúng ta, đó cũng là một sự thật đầy an ủi phấn khích, một sự thật giải phóng ta khỏi một gách vô cùng nặng nề. Vì nếu ta đòi tính sổ với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa cũng sẽ đòi tính sổ với ta, và bấy giờ chắc chắn ta là kẻ thiệt thòi. Tốt nhất là phó mặc tất cả vào lòng nhân ái của Thiên Chúa! Vì nếu như vậy, thì dù bắt đầu phục vụ Thiên Chúa sớm hay muộn, dù khi có cảm tưởng như Giáo Hội đòi hỏi nhiều ở ta, ta vẫn có thể luôn luôn an tâm và nói: Chúa là Thiên Chúa của mọi niềm an ủi và từ bi, Chúa là Thiên Chúa thi ân và trả cho mỗi người một quan tiền mà bản thân họ không thể tự sức mình làm ra được, Chúa là Thiên Chúa ân thưởng chúng con, ngay cả lúc chúng con thực sự chỉ là những tôi tớ mọn hèn và tội nhân nghèo khó.
3) Ta không được phẫn uất nếu, ngay từ đời này, ta nhận thấy những kẻ là la coi như là những đại tội nhân (nhưng ta có được quyền phê phán giá trị thiêng liêng của họ không?) được mạnh khoẻ, thông minh hơn, giàu có hơn ta v.v… Thiên Chúa ban ơn cho những ai Ngài muốn. Ngài thích tỏ ra nhân hậu ngay cả đối với những kẻ vô ơn với Ngài.
4) Chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn toàn yêu thương, tha thứ con người, yêu thương trên hết mọi sự và như thế làm đảo lộn mọi tính toán đê tiện của con người. Ngài là Đấng yêu thương một cách sung sướng vì Ngài chẳng để ý đến các công nghiệp nhỏ bé của ta cho bằng đến tình yêu bao la của Ngài.
5) Nếu nhìn kỹ hơn thì những kẻ được ưu đãi thực sự trong dụ ngôn có lẽ là những người thợ giờ thứ nhất. Dĩ nhiên, họ đã “vác nặng cả một ngày thường với nắng nôi thiêu cháy”, song chủ đã làm họ khỏi nỗi sợ thất nghiệp, khỏi mối lo về cơm bánh là những thứ hẳn từng dày vò các người khác, những kẻ mà buổi chiều mới được mướn làm công. Cũng vậy các tín hữu đã anh dũng trung thành với đức tin suốt đời là những người được ưu đãi so với những kẻ chỉ đến với Chúa vào cuối cuộc sống, những kẻ có lẽ chưa bao giờ kinh nghiêm được sự bình thản nội tâm, kinh nghiệm được niềm vui và sự an lòng vì biết mình ở trong tay Thiên Chúa.


Bài 4. Chú giải của Noel Quesson: NHỮNG NGƯỜI THỢ LÀM VƯỜN NHO

Dụ ngôn “những người thợ làm vườn nho vào giờ sau hết” rất nổi tiếng. Người ta thường phê bình dụ ngôn này, đưa ra những phán đoán chỉ trên bình diện con người theo sự công bằng xã hội và theo kinh tế. Về phương diện này, thái độ của vị Thầy chí thánh ít ra cũng rất kỳ lạ và khác thường. Một ông chủ xí nghiệp sẽ nói với bạn rằng theo gương ông chủ vườn nho chỉ có nước làm phá sản xí nghiệp. Một “công nhân” sẽ nói với bạn rằng không tôn trọng một tháng lương hợp lý căn cứ vào công việc thực tế được hoàn thành là việc không bình thường; và một ông chủ độc đoán như thế thật là bất xứng. Nhưng tất cả những lời giải thích này thì quá phiến diện chưa đạt đến sự thật. Rõ ràng Đức Giêsu không đề cao sự bất công xã hội. Phải có một cách đọc khác trang Tin Mừng nổi tiếng này, xứng đáng là một Tin Mừng!
Chúng ta hãy nhớ rằng “dụ ngôn” là một thể loại văn chương rất xác đáng mà người ta không thể đọc bằng bất cứ cách nào cũng được. Trong một dụ ngôn, khác với lối văn phúng dụ, mọi chi tiết cụ thể không chứa đựng bài học: Phải tìm kiếm cao điểm của câu chuyện, ý nghĩa trung tâm của nó. Những chi tiết còn lại chỉ để tạo ra sự mạch lạc trong câu chuyện, tô điểm cho câu chuyện thêm thú vị đôi khi với sự hóm hỉnh khiến người ta phải chú ý, quan tâm.
Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình.
Giờ đây, mọi sự bắt đầu như một câu chuyện có thật. Chúng ta đang ở Pa-lét-tin trời vừa tảng sáng. Những “thợ làm công nhật” trên quảng trường của ngôi làng chờ đợi người ta đến thuê làm công nhật, ngày này qua ngày khác. Tình trạng sống lây lất qua ngày ấy thật thảm hại. Chúng ta phải ghi nhận điều đó nơi những con người không có việc làm ổn định: tình trạng này vẫn còn là tình trạng của hầu hết các người cha trong gia đình ở các nước thế giới thứ ba.
Tuy nhiên, dù phần mô tả đoạn đầu có thực tế đến đâu thì chúng ta cũng được báo cho biết ở đây điều quan trọng không phải là một bài học xã hội, nhưng là một mạc khải về Nước Trời. Vậy chúng ta hãy coi chừng.
Sau khi đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc Khoảng giờ thứ ba ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. Khoảng giờ mười một ông trở ra và thấy còn có những người khác đang đứng đó, ông nói với họ: “Sao các anh đứng đấy suốt ngày không làm gì hết?”. Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng tôi”. Ông bảo họ: “Cả các anh nữa hãy đi vào vườn nho!”
Nếu tính ra giờ hôm nay ông chủ đi ra tìm thợ từ sáng sớm, rồi lúc 9 giờ sáng lúc giữa trưa, lúc 3 giờ và lúc 5 giờ chiều. Vì thế chúng ta phải đoán ra rằng đây không phải là một ông chủ bình thường: không ai lại đi thuê thợ làm vườn trước lúc nghỉ việc chỉ có một giờ! Đây là một “ông chủ” quan tâm sâu sắc đến bi kịch của những kẻ thất nghiệp ấy: “Tại sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?”. Câu chuyện mà Đức Giêsu kể lại nhắc chúng ta rằng vấn đề thất nghiệp trầm trọng, than ôi, không chỉ là vấn đề của ngày hôm nay. Và nếu chúng ta dừng lại ở phần đầu của dụ ngôn này không để cho các thiên biến của ý thức hệ chi phối, thì chúng ta thấy Đức Giêsu mô tả một người đã nhân từ một cách tuyệt vời rồi: năm lần trong một ngày, ông không mệt mỏi, lo lắng đem lại việc làm, đồng lương, nhân phẩm, cho những người nghèo bị rơi vào cảnh khốn cùng.
Chúng ta không quên ghi nhận điệp khúc được nhắc lại: “Hãy đi vào vườn nho” trong toàn bộ Cựu Ước, và do đó đối với các thính giả đầu tiên của Đức Giêsu, vườn nho là biểu tượng của “Dân Thiên Chúa” (Is 5,1-7; Gr 2,21; Ed 17,6; Hs 10,1; Tv 78, 9-16). Theo nghĩa này, vườn nho là nơi hạnh phúc, nơi Giao ước với Thiên Chúa, nơi mà Thiên Chúa không ngừng mời gọi chúng ta bước vào. “Hãy đi vào vườn nho của tôi… Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (x. Mt 25, 21-23).
Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: “Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất”.
Nói theo kiểu của con người thì chỉ bắt đầu từ lúc này trở đi, câu chuyện xem ra không có thật. Đây là dấu chỉ chúng ta phải đến gần “cao điểm” của dụ ngôn. Một cách rõ ràng hơn, ông chủ rất kỳ lạ này muốn rằng những người có công nhiều nhất với vườn nho phải làm chứng nhân cho điều mà ông sắp làm cho những người vào sau hết: họ sẽ chứng kiến việc ông chủ trả lương cho những người khác. Tại sao? Sẽ rất đơn giản nếu như ông chủ trả công cho người làm nhiều trước và để họ ra về trước.
Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một (5 giờ chiều) tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt!”
Bản văn Hy Lạp dùng một chữ có nghĩa chính xác: “họ lẩm bẩm”. Đó là từ ngữ trong Kinh Thánh nói về những tiếng lẩm bẩm, cằn nhằn của dân Israel trong sa mạc (Xh 16,9; Tv l06,25), nó diễn tả thái độ rất thường gặp của chúng ta khi chúng ta không hiểu những thử thách đang ập xuống chúng ta; khi chúng ta phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt; khi chúng ta lên án Thiên Chúa. Những kẻ lẩm bẩm, cằn nhằn ấy trong dụ ngôn này vào thời Đức Giêsu, rõ ràng là các kinh sư và biệt phái
Họ không ngừng lẩm bẩm chống lại Đức Giêsu khi Người tiếp đón những “kẻ thu thuế, kẻ tội lỗi và gái điếm”. Vào thời của Matthêu, những người “sau cùng” được đặt ngang hàng với những người “đầu tiên”, đó là những dân ngoại được đưa vào trong Giáo hội ngang hàng với những người Do Thái bản địa. Ngày nay cũng thế, chúng ta còn nghe Đức Giêsu nói lại với chúng ta một cách mạnh mẽ rằng với Thiên Chúa, không có những người được ưu đãi, có đặc quyền. Những “người thợ của giờ sau cùng” được đối xử bình đẳng với những người đầu tiên hưởng nhờ vườn nho của Thiên Chúa. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu thường đề cao giá trị của những người nghèo, những kẻ bị loại trừ, những người sau hết, những người tội lỗi! Đối với những người cảm thấy khó chịu, lẩm bẩm, Đức Giêsu nói rằng đó chính là thái độ của Thiên Chúa “giàu lòng thương xót” ‘dives in miséricordia’ theo một tước hiệu đẹp của một Thông điệp của Đức Gioan Phaolô II.
Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”
Không, chúng ta không còn ở trong một hoàn cảnh bình thường để rút ra những nguyên tắc về công bình xã hội chúng ta lắng nghe một ‘mạc khải thần học về những thái độ của Thiên Chúa’. Đây là một chân dung tuyệt vời mà Đức Giêsu vẽ lại Cha Người cho chúng ta:
Một Thiên Chúa yêu mến mọi người, đặc biệt những người bị bỏ rơi, và muốn đưa họ vào “Vườn nho” của Người, trong hạnh phúc của Người.
Một Thiên Chúa tuôn đổ những ân huệ một cách dồi dào, Người “mời mọc” và “kêu gọi” mọi lúc, mọi tuổi, trong mọi hoàn cảnh.
Một Thiên Chúa mà lòng “nhân từ” không bị giới hạn bởi công nghiệp của chúng ta, và Người cho chúng ta nhiều hơn cái mà chúng ta có được bởi những nỗ lực của riêng mình. Một Thiên Chúa gạt bỏ người nào cho rằng mình đặc quyền và ngăn cản người khác được hưởng những quyền lợi ấy.
Như thế Tin Mừng hôm nay công bố với chúng ta một chân lý chủ yếu của đức tin chúng ta mà Thánh Phaolô đã triển khai rộng ra trong các thư Rôma và Galát: “Tất cả những ai tin đều được như thế… Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không. Vậy thì hãnh diện ở chỗ nào? Chẳng còn gì để hãnh diện… Thật vậy, chúng tôi nghĩ rằng: người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì luật dạy (Rm 3, 22-31).
“Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?”
Dụ ngôn này phải đem lại một niềm hy vọng lớn lao cho biết bao bậc cha mẹ hôm nay nhìn thấy con cái họ từ bỏ đức tin. Đối với Thiên Chúa, không có gì mất đi mãi mãi, Người còn đi ra thuê thợ cho đến phút chót. Không bao giờ Người đến quá muộn. Vả lại, chúng ta, hãy nhớ rằng Đức Giêsu không chỉ bằng lòng với việc “kể lại” câu chuyện này. Người còn áp dụng câu chuyện này vào cuộc sống khi ban Thiên đàng vào giây phút chót cho người trộm bị đóng đinh với Người.
Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót.
Thay vì giữ chặt chúng ta trên vẻ bề ngoài bất công, giờ đây chúng ta được mời gọi hãy vui mừng chỉ vì lòng nhân từ tuyệt vời của Cha chúng ta. “Anh em hãy có lòng thương xót như Cha anh em trên trời là Đấng xót thương”. Từ vài thập kỷ, yêu sách về sự công bình hay công lý trên thế giới đã có nhiều tiến bộ. Dĩ nhiên là không có vấn đề quay lại đàng sau. Nhưng việc thế giới tiến bộ về hướng tình yêu thương và tấm lòng há chẳng cần thiết sao? Đó là một chủ đề mà Đức Giáo Hoàng diễn tả trong một thông điệp của ngài:
“Trong thế giới hiện đại, ý thức về công lý trên bình diện rộng đã trỗi dậy… và Giáo Hội chia sẻ với nhân loại ở thời đại chúng ta ước muốn mãnh hệt, sâu xa và một đời sống công bằng ở mọi phương tiện. Tuy nhiên, người ta dễ dàng nhận ra những chương trình xây dựng trên ý tướng công bằng khi đem ra thực hiện nhiều khi phải chịu sự biến dạng… bởi lòng oán hận, thù nghịch mà cả sự tàn ác. Kinh nghiệm của quá khứ và của thời đại chúng ta chứng tỏ chỉ có công lý mà thôi không đủ, nếu người ta không cho phép một sức mạnh sâu xa hơn là tình yêu thương xây dựng đời sống con người.
Thế thì, chúng ta được trả về với sự chiêm ngắm lòng thương xót của Thiên Chúa: “Lòng nhân hậu là một sức mạnh đặc biệt của tình yêu còn mạnh hơn tội lỗi và sự bất trung. Trong một nghĩa nào đó, lòng nhân hậu ở vị trí đối lập với công lý của Người, và trong nhiều trường hợp tỏ ra mạnh hơn, căn bản hơn công lý” (Gioan Phaolô II).


Bài 5. CAO CẢ HƠN LÒNG CHÚNG TA
Lm. Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Suốt thời gian sống ở trần gian, Chúa Giêsu đã không ngừng giảng dạy, giải đáp thắc mắc của nhiều người, kể cả các môn đệ, các tông đồ là những người thân tín của Chúa Giêsu, và đưa ra các quan điểm làm thay đổi giá trị nhân sinh: một trong dụ ngôn hôm nay chúng ta được đọc cho thấy quan điểm khác lạc,tuyệt vời của Chúa Giêsu “Ông Chủ Vườn Nho”. Ở đây, chúng ta có thể xem đó là câu trả lời của Chúa Giêsu cho thánh Phêrô về câu hỏi phần thưởng cho những kẻ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Chính vì vậy,dụ ngôn này hình như có lý để nói với các tông đồ trước khi trải rộng đến các người Pharisêu, Biệt phái, Kinh sư, Luật sĩ, những kẻ thu thuế, người tội lỗi, Dân Do Thái và dân ngoại v.v…
Như ông chủ vườn nho quảng đại, rộng rãi thương xót mọi người, đã ra các ngã đường mời gọi họ vào làm vườn nho, và trả lương rộng lượng với người này mà vẫn công bằng với người khác. Thiên Chúa cũng thế luôn trải rộng tình thương đến với mọi người mà không đếm xỉa đến sự suy tính theo kiểu người đời vì Chúa rất mực khoan dung, nhân hậu. Đây là một dụ ngôn, chứ không phải là ngụ ngôn. Do đó, ý tưởng nhắm vào ông chủ là Thiên Chúa hơn là các nhóm thợ làm vườn, và các chi tiết khác vốn được hiểu nhiều cách rất khác nhau. Thiên Chúa dùng hình ảnh vườn nho là hình ảnh rất thông dụng trong Kinh Thánh, chỉ về công việc của Thiên Chúa trong thế giới, trong thế gian, và đặc biệt nói về dân Do Thái. Một quan tiền mà ông chủ trả cho mỗi người làm việc trong một ngày. Người Do Thái xưa tính giờ: giờ thứ nhất 3, 6, 9, 11 tương đương với 6, 9 giờ sáng, 12 giờ trưa, 15 và 17 giờ chiều.Nên, ngày làm việc của một người chấm dứt vào lúc 18 giờ chiều. Ông chủ rất rộng lượng, công bằng vì ông chủ đã thỏa thuận với tất cả những người làm việc trong vườn nho. Bởi vì ông và những người làm việc đã thỏa thuận sòng phẳng, tiền công là một quan tiền dẫu làm việc từ sáng hay làm vào buổi chiều. Ông chủ luôn xử công bằng với mọi người vì ông và những nhóm thợ đã thỏa thuận, giao kèo, giao ước với nhau là công nhật một ngày là một đồng. Ông chủ không xử bất công với thợ. Ông đã gọi họ làm đã giao kết, hứa, thỏa thuận với thợ là một quan tiền. Ông chủ rất công bằng trả lương để thợ có tiền nuôi sống bản thân và gia đình. Đây là ông chủ công bằng, rộng rãi không gây thiệt hại cho ai mà vẫn quảng đại với nhiều người. Đây cũng là câu trả lời cho thánh Phêrô và các bạn khi ông hỏi Chúa Giêsu rằng các ông đã bỏ mọi sự mà theo Ngài, các ông sẽ được gì? Thực tế, công việc của con người chỉ là gợi ý, việc trả công của Thiên Chúa vượt quá sự suy tính của con người. Nước Thiên Chúa không giống như sự hạch toán kinh tế, làm ăn của con người, mà là rộng lượng, quảng đại ‘công chính, bình an và hoan lạc trong Chúa Thánh Thần’ (Rm 14, 17).
Bài Tin Mừng và các bài đọc hôm nay làm đảo lộn cái nhìn của con người: vị kỷ, ghen tương, tính toán, so đo v.v… Do đó, nó đòi hỏi con người phải thay đổi tư duy, cách làm, cách nghĩ, đổi mới từ ngữ, cách cư xử của ta đối với Thiên Chúa và tha nhân. Thiên Chúa là Đấng nhân hậu, từ bi, thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Thiên Chúa luôn đối xử với con người, với mọi người với tấm lòng yêu mến thiết tha. Nên, chúng ta phải đối xử với anh em, với tha nhân trong tương quan tình yêu chứ không phải ganh tị chỉ muốn hơn kém người. Tương quan của chúng ta đối với Thiên Chúa là tương quan siêu nhiên, ân sủng không chỉ dựa vào việc làm, công phúc của con người mà dựa vào tình thương vì Thiên Chúa chính là Tình Thương (1 Ga 4, 8). Chính vì thế, Thiên Chúa muốn chúng ta xử sự với nhau như Thiên Chúa đã xử sự với chúng ta chứ không không chỉ dựa trên kinh tế, giờ làm việc, năng xuất v.v…
Xin mượn lời của Nữ tu Emmanuelle Billoteau, ẩn sĩ Dòng Biển Đức để kết luận bài chia sẻ hôm nay : “Như mọi dụ ngôn, du ngôn Chúa nhật này nhằm mục đích buộc chúng ta có lập trường. Đến phiên chúng ta phải chọn! Hoặc là bám vào những quan điểm đã có sẵn-mà đó nghiễm nhiên là quan điểm của những người thợ của giờ đầu tiên, hoặc là mở lòng ra học đi theo đường lối của Thiên Chúa, mà “tư tưởng và đường lối của Người không phải là tư tưởng và đường lối của chúng ta” (Is 55, 8). Một lối hành xử lạ thường đáng cho chúng ta lo ngại, nếu trong đức tin, chúng ta không biết động cơ nơi Thiên Chúa là lòng nhân ái chứ không phải là ý chí võ đoán: “Chẳng lẽ vì tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?” Không phải để bóp nghẹt nơi chúng ta trực cảm bẩm sinh về lẽ công bình. Vì chẳng phải nhờ nó mà trong lịch sử nhân loại đã có những bước tiến đầy ý nghĩa tới một thế giới công bình hơn đó sao? Đức công bình chẳng phải là một trong những thuộc tính của Thiên Chúa, như chúng ta nghe nhắc tới trong các câu cho thấy vị chủ vườn nho tôn trọng hợp đồng trả lương công nhật là một quan tiền đó sao? Thế nhưng trực cảm về công bình cũng có thể là một cạm bẫy nếu nó trở thành điểm qui chiếu duy nhất, khiến chúng ta cứ đem so sánh, ganh đua-liếc mắt ghen ghét-, đóng cửa lòng mình lại với tha nhân, thậm chí muốn khai trừ họ khỏi gia nghiệp Thiên Chúa hứa ban, Đấng “cao cả hơn lòng chúng ta”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con một đức tin mạnh mẽ để chúng con biết nhìn ra Đấng luôn yêu thương, quảng đại đối với chúng con. Xin cho chúng con có cái nhìn rộng mở đối với Thiên Chúa và có sự suy nghĩ, có cái nhìn yêu thương đối với tha nhân. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1. Ông chủ có công bằng đối với bốn nhóm thợ làm vườn nho không?Tại sao?
2. Ông chủ ám chỉ ai?
3. Tại sao Thiên Chúa lại quảng đại rộng lòng?
4. Trong một thế giới đầy bất công, người môn đệ Chúa phải làm sao?  


Bài 6. Tất cả đều lãnh mỗi người một đồng
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hôm nay chúng ta bắt đầu chu kỳ ba dụ ngôn về vườn nho của Chúa Giêsu. Chúa nhật 25,những người thợ sẽ vào làm vườn nho. Chúa nhật 26, hai người con trai được cha sai đi làm vườn nho, và Chúa nhật 27, những người tá điền muốn giết con ông chủ vườn nho.
Bước vào trong sự thân tình của Chúa
Trong Kinh Thánh, cây nho có một ý nghĩa sâu sắc. Nó là biểu tượng của giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài (Is 5, 1-7 ; Gr 2, 21 ; Ez 15, 4). Câu “hãy đi làm vườn nho ta” (Mt 20, 4) được Chúa Giêsu lặp đi lặp lại trong ba dụ ngôn, theo truyền thống câu này muốn nói : “Hãy đi vào trong Giao ước… Hãy đến chia sẻ Giao ước với ta“.
Chúa Giêsu tự khẳng định mình là cây nho : “Thầy là cây nho thật” (Ga 15, 1-5). Chúng ta được mời gọi vào làm vườn nho của Chúa, được sẻ chia công việc với Chúa, có ý nói, chúng ta dù sớm hay muộn cũng bước vào trong thân tình với Chúa, sống với Chúa. “Hãy đi làm vườn nho ta” còn có nghĩa là “Hãy vào hưởng niềm vui của chủ ngươi” (Mt 25, 21). Từ đây chúng ta mới hiểu được một đồng mà ông chủ trả cho người đến trước cũng như người đến sau là đồng nào.
Đồng lương yêu thương
Dụ ngôn những người làm thuê được mướn làm việc trong vườn nho qua những giờ khác nhau, tất cả lãnh lương giống như nhau là một đồng bạc, đã gây nên một khó khăn cho những người đọc Tin Mừng. Chúa nói với những người làm công : “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng” (Mt 20, 4). Có người hỏi : Xứng đáng ở đây là xứng với cái gì ? Khi có hai cái bằng nhau, hoặc cái này xứng với cái kia được coi là xứng đáng. Vậy đâu là tiêu chuẩn để Chúa Giêsu trả công xứng đáng? Nhiều người không khỏi ngạc nhiên, nhất là những người đến làm việc trước hết vì tiêu chuẩn trả công của ông chủ. Cách hành xử của ông chủ có chấp nhận được không? Không xúc phạm đến nguyên tắc đền bù xứng đáng sao ?
Khó khăn phát xuất từ một sự sai lầm. Vấn đề đền bù được qui chiếu về sự đời đời, Thiên Chúa “sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm” (Rm 2, 6). Thiên Chúa nhân lành, Ngài có cách tính không giống chúng ta : “Tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55, 8). Thiên Chúa ban cho con người cái mà Ngài cho là tốt nhất. Tiêu chuẩn của Ngài là tấm lòng, tiêu chuẩn của chúng ta thường là lý trí, và dĩ nhiên không luôn luôn đúng.
Trong dụ ngôn, mức lương được trả là một đồng. Đây là đồng đracmơ; hay đồng đờ-nhê, là thuế mà mỗi Người Do Thái phải nộp vào Đền Thờ Giêrusalem mỗi năm cho việc bảo trì, hoặc đồng “xtate” tiền cổ Hy-lạp là đồng được thánh Phêrô dùng để nộp thuế Đền thờ, phần của ngài và của Chúa Giêsu. Mỗi người nhận được một đồng, có ý nói đến mức lương của một ngày làm việc, một cái gì đó để sống trong ngày như bánh mì chẳng hạn.
Để nhận ra “điểm chính” trong dụ ngôn, chúng ta phải để ý đến qui chiếu của Chúa Giêsu ở đây về một tình huống cụ thể. Đồng bạc duy nhất được trả cho tất cả là nước Chúa, Chúa Giêsu đã mang xuống thế vì yêu thương thế gian. Dụ ngôn bắt đầu : “Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình” (Mt 20, 1). Như vậy, Nước Trời là chủ đề chính và là bối cảnh của dụ ngôn.
Đồng lương ơn cứu độ phổ quát
Một lần nữa, vấn đề về ơn cứu độ của người Do thái và dân ngoại, hay của kẻ lành và những người tội lỗi được đặt ra, trước ơn cứu rỗi do Chúa Giêsu mang đến. Mặc dầu chỉ vì nghe huấn giáo của Chúa Giêsu mà người dân ngoại (những kẻ tội lỗi, những người thu thuế, những người đĩ điếm, v.v…) quyết định theo Chúa, trong khi trước lúc đó họ còn đứng đàng xa (nhàn rỗi). Vì ý định theo Chúa mà họ sẽ không có chỗ bậc hai trong vương quốc. Họ cũng sẽ ngồi cùng một bàn như những người khác và hưởng đầy đủ những của cải thời cứu thế.
Chúa Giêsu không cung cấp chúng ta một bài học về đạo đức xã hội, nhưng là bài học về tình yêu của Thiên Chúa với hết mọi người : “Từ sáng sớm, cho đến giờ thứ ba, giờ thứ sáu và thứ chín“.
Không có ai là quá muộn để vào Nước Trời. Tất cả những ai chưa khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa vẫn được Ngài mời gọi mọi người nam nữ trong mọi giờ và ở mọi lứa tuổi đi làm vườn nho của Chúa! Đây là lời kêu gọi phổ quát. Đó là vấn đề kêu gọi hơn là vấn đề thưởng. Chúng ta đừng bao giờ thất vọng về ơn cứu độ đời đời của chúng ta.
Có nhiều người cần cù, chịu khó, luôn sẵn sàng làm việc nhưng “không ai thuê“; họ nhàn rỗi vì thiếu việc làm và không có người mướn, lòng nhiệt thành đang có sẵn, có tiếng gọi thuê, họ lên đường mà không có sự mặc cả giá tiền như những người trước. Ông chủ đánh giá công việc của họ cách khôn ngoan và trả công cho họ bằng những người khác. Ý muốn nói, dù hoán cải vào “buổi sáng, giờ thứ ba … và thứ mười một giờ” đi chăng nữa, thì hết thảy mọi người đều được đón nhận … anh trộm lành được lên Thiên đàng ” vào giờ thứ mười một” anh thực sự là người được mời gọi vào giờ sau hết và trở thành người đầu tiền vào Nước Trời : “Thật hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng với ta” (Lc 23, 43). Chúa không kết án kẻ trộm, Chúa bày tỏ lòng nhân lành của mình ; họ đi làm, nhưng “không ai thuê” (Mt 20, 7), nếu người ta không thuê anh, anh “hãy đi làm vườn nho ta” (Mt 20, 4).
Điều mà chúng ta gán cho Thiên Chúa là không xứng đáng với Thiên Chúa, và điều Thiên Chúa ban cho chúng ta vượt quá công trạng của chúng ta : “từ người đến sau hết tới người đến trước hết đều lãnh mỗi người một đồng“. Chúng ta không thể trách lòng tốt của ông chủ, vì không thấy gì sai trái trong cách ông hành xử. Ông trả cho mỗi người theo như thỏa thuận và thể hiện lòng thương xót như ông muốn : “Nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao?
Một huấn giáo khác có thể rút ra từ dụ ngôn. Ông chủ biết rằng những người làm thuê giờ cuối cũng có những nhu cầu như bao người khác, họ cũng có con cái phải nuôi ăn, như những nguời làm thuê giờ thứ nhất. Khi trả cho mọi người đồng lương y nhau, ông chủ chứng tỏ rằng ông không xét theo công trạng cho bằng theo nhu cầu. Ông chứng tỏ rằng ông không những công bằng, mà còn “tốt lành,” quảng đại và nhân đạo.


Bài 7. LÒNG TỐT CỦA THIÊN CHÚA
Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Thánh Gioan Phaolô II đã viết trong Tông huấn “Christi Fideles Laici” về ơn gọi và và sứ vụ của người giáo dân trong Giáo Hội và trong thế giới : “Những thành phần giáo dân trong dân tín hữu Chúa Kitô… hình thành nên Dân Chúa có thể được so sánh với những người làm trong vườn nho được nhắc tới trong Tin Mừng Matthêu…“Anh cũng đi vào vườn nho”… Tiếng gọi là một quan tâm không những cho các Mục tử, các giáo sĩ, những người nam và nữ tu sĩ. Tiếng gọi được gởi tới mọi người; những người giáo dân thường cũng được Chúa kêu gọi đích danh, từ Người họ nhận lãnh một sứ vụ vì Giáo Hội và vì thế giới” (số 1-2).
Dụ ngôn “ thợ làm vườn nho” với hình ảnh ông chủ vườn nho năm lần đi kiếm người làm vườn vào những thời điểm khác nhau chứa đựng một huấn giáo thiêng liêng: lòng quảng đại vượt trên lẽ công bình,Thiên Chúa kêu gọi mọi người vào hưởng hạnh phúc là do lòng tốt của Ngài.
Quả thế, về Nước Trời thì cũng như một gia chủ kia, ngay vừa tảng sáng, đã ra thuê thợ cho vườn nho của ông …”. Giữa một “chợ người” ít việc nhiều người, các ông chủ ra thuê thợ làm việc và trả công nhật.
Chúa Giêsu đã quan sát và lấy hình ảnh cụ thể này ở Do thái để mạc khải mầu nhiệm Nước Trời. Người kể dụ ngôn ông chủ vườn nho với các thợ làm việc các giờ khác nhau trong ngày.
Tiền công nhật là 1 đồng, giá thỏa thuận đôi bên.Gia chủ thuê thợ làm vườn nho vào các giờ giấc khác nhau.
Ở Do thái một ngày bắt đầu từ lúc 6 giờ chiều :
- 3 giờ là 9 giờ sáng
- 6 giờ là 12 giờ trưa
- 9 giờ là 3 giờ chiều
- 11 giờ là 5 giờ chiều
1. Lòng ghen tị
Theo lệ thường, công nhật sẽ chấm dứt lúc 12 giờ tức là 6 giờ chiều. 5 giờ chiều ông chủ còn ra thuê nhân công. Những người làm từ giờ 11, họ chỉ làm việc 1 giờ là nghĩ. Trong khi đó người làm từ sáng, lao động 12 giờ. Vậy mà cuối ngày khi trả lương, ông chủ lại trả bắt đầu từ người sau hết là 1 đồng. Những người làm trước tưởng là được nhiều hơn, nhưng cũng chỉ 1 đồng mà thôi. Họ phản đối, họ trách móc vì họ bị hai thiệt thòi: kẻ khác làm 1 giờ mà họ 12 giờ, kẻ khác làm lúc trời đã mát mẻ, họ làm cả ngày dưới trời nắng gió nóng của miền Địa Trung Hải. Họ hụt hẫng và khó chịu với chủ. Nếu ông chủ trả lương cho người làm sau ít hơn, chắc họ chẳng hề tỏ vẻ khó chịu. Nếu họ không hay biết số tiền mà ông chủ trả cho người làm sau chắc là họ vui vẻ và biết ơn khi trở về nhà. Nhưng vì biết được nên họ giận dữ và ghen tị. Rõ ràng người ghen tị không vui được với người vui, vì họ không biết yêu thương. Họ coi người kia là kẻ thù, chứ không là bạn. Vì vậy, sự thành công của ai đó đã trở thành mối đe dọa, ghen tức.
Lòng ghen tị đã xuất hiện từ khởi thuỷ loài người. Cain ghen tị với em trai là Aben chỉ vì lễ vật của Aben được Chúa thương chấp nhận, còn lễ vật của Cain bị khước từ. Lòng ghen tị đã xui khiến Cain giết em. Đavít là vị anh hùng tài hoa trẻ tuổi đã lập được chiến công oanh liệt, cứu nguy cho dân quân Ítraen bằng cách giao chiến một chọi một với tên Gôliát khổng lồ thuộc phe Philitinh, hạ gục y chỉ bằng một phát ná bắn đá và dùng chính thanh gươm của y mà chặt đầu y. Thế rồi quân Ítraen thừa thắng xông lên như nước vỡ bờ, tràn lên giết hại rất nhiều quân Philitinh thù nghịch. “Khi Đavít thắng trận trở về, phụ nữ từ hết mọi thành của Ítraen kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Saun, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ ca hát rằng: “Vua Saun hạ được hàng ngàn, ông Đavít hàng vạn”. Thế là từ lúc ấy, lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Saun, khiến nhà vua phóng giáo vào Đavít đang khi Đavít gảy đàn cho vua nghe. May thay Đavít kịp né mình thoát chết trong gang tấc. Rồi sau đó, vua lùng sục Đavít tận thâm sơn cùng cốc, quyết hạ sát cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy. (1Sam 17-18).
Lòng ghen tị làm xấu đi những tương quan tốt đẹp vốn có giữa anh em bạn bè. Lòng ghen tị còn xui khiến người ta làm hại nhau, làm cho xã hội chậm tiến và kém phát triển.
1. Lòng tốt
Ông chủ trả lương như vậy có bất công không? Chắc chắn là không vì ông trả đủ số tiền đã thỏa thuận là 1 đồng. Vì người ghen tị lầm bầm than phiền nên ông trả lời: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn, bạn chẳng thỏa thuận với tôi là 1 đồng hay sao? Cầm lấy phần bạn mà về đi, còn tôi, tôi muốn cho ai là tùy tôi, chẳng lẽ tôi không có quyền tùy ý định đoạt là những gì của tôi sao? Hay vì tôi tốt bụng mà bạn ghen tức ?
Đây là điểm chính của dụ ngôn. Hành động của ông chủ không phải là do ông bất thường, bất công, nhưng do ông chủ tốt lành.Tốt ở chỗ là không muốn ai phải thua thiệt sút kém. Ông muốn ai cũng may mắn, ai cũng có tiền về nuôi gia đình. 1 đồng ông phát cho người làm giờ 11 không phải là do công bình. Đồng bạc ấy là do lòng tốt của ông ban tặng.
Gia chủ là Thiên Chúa. Các tay thợ là loài người nhận ra Thiên Chúa qua nhiều thời kỳ khác nhau. Thợ làm giờ thứ 11 là người tội lỗi. Làm vườn nho là vào Nước Trời và thực thi luật pháp Nước Trời. Các thợ cằn nhằn là nhóm Pharisiêu, Luật sĩ. Họ ghen tương vì Chúa Giêsu đối xử khoan dung với người tội lỗi, yêu thương dân ngoại. Các thợ làm ít lãnh nhiều là các người ngày hôm qua sống trong tội lỗi, ngày hôm nay là công dân Nước Trời.
1 đồng là vé vào Nước Trời. Kẻ làm trước người làm sau, tất cả đều được Thiên Chúa ban cho Nước Trời. Thiên Chúa ban cho ai là do lòng tốt của Ngài. Yếu tố chính Đức Giêsu nhấn mạnh là Thiên Chúa rộng rãi vô cùng. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót đối xử rất nhân từ với mọi người. Đặc biệt đối với dân ngoại là những người được gọi vào Giáo hội qua những giờ sau hết. Đối với những người này, Thiên Chúa cũng ban cho mọi quyền lợi và đặc ân như người Do thái là những kẻ được gọi từ đầu. Thiên Chúa nhìn nhận sự việc theo lòng lân tuất của Ngài. Con người nhìn theo quyền lợi, tính toán hơn thiệt. Thiên Chúa ân thưởng, trả công cho ai tùy theo lòng tốt của Ngài. Thiên Chúa trả công không làm thiệt hại ai, luôn công bằng.
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn minh chứng rằng: trong cách thức hành động của mình, Thiên Chúa không đi theo những qui tắc lề luật của sự công bình hạn hẹp, cứng nhắc. Ngài chỉ thực thi theo sự tốt lành của mình, theo thúc đẩy bởi tình yêu của mình. Ngài hào phóng trong tình thương xót và hoàn toàn tự do trong các việc thiện hảo.
2. Sứ điệp
Dụ ngôn “thợ làm vườn nho”, cho thấy rõ sự trái ngược giữa lòng tốt của gia chủ và lòng ghen tị của những người thợ vào vườn nho từ sáng sớm. Thiên Chúa mở rộng vòng tay đón nhận mọi người, còn chúng ta thì khép chặt lại không muốn tiếp nhận ai. Thiên Chúa nhìn thấy sự đáng thương của những người chưa được làm con cái Ngài, còn chúng ta chỉ nhìn những người anh chị em này một cách tiêu cực và vênh vang cho rằng mình tốt hơn họ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đối xử nhân hậu với người khác. Hãy tránh xa lối nhìn thiển cận theo cảm tính, theo tính vị kỷ, theo quyền lợi cá nhân. Không nên ghen tị khi người khác có tài đức hơn, giàu có hơn, xinh đẹp hơn. Hãy bằng lòng với cái mình đang có và cố gắng phát triển nó lên. Ai cũng được Chúa ban cho những khả năng khác nhau. Người 5 nén, người 2 nén, người 1 nén. Ngày ra trước mặt Chúa, Chúa không hỏi: con đã làm những gì, làm ông này hay bà nọ. Chúa chỉ hỏi về lòng mến, mến Chúa và yêu thương tha nhân. Con đã yêu mến Thầy và tha nhân không ? Chính tình yêu trong công việc là thước đo mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta. Đó là cung cách sống đạo đền đáp hồng ân.
Hồng ân là một ơn ban dựa vào lòng tốt của người ban ơn. Hồng ân làm cho người lãnh nhận tràn đầy lòng biết ơn. Công lao là tính toán dựa trên công sức người làm việc. Công lao thì cần phải đòi lại điều gì tương xứng bằng tiền lương, bằng đền bù, bằng trả lại theo lẽ công bằng.
Như thế, có một sự khác biệt lớn giữa kiểu sống đạo dựa trên hồng ân và kiểu giữ đạo nhằm vào công trạng. Người ta có thể chấp nhận “giữ đạo” để được “lên thiên đàng”. Nhưng người ta cũng có thể “sống đạo” chỉ vì muốn đền đáp một chút nào hồng ân bao la của Thiên Chúa. Kiểu giữ đạo theo công trạng sẽ làm cho người Kitô hữư trở thành “nô lệ”, thành “kẻ làm công”. Cách sống đạo như một hồng ân làm cho người Kitô hữu trở thành con cái hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha yêu thương. Nhờ đó Kitô hữu sẽ nhận ra hồng ân của Chúa nơi mọi sự, khắp mọi nơi, trong mọi lúc, tràn ngập cuộc đời, để biết hân hoan ca tụng Chúa, biết vui mừng vì hồng ân Chúa nơi anh chị em của mình.
Những người thợ được thuê làm vườn nho vào những giờ khác nhau, đó là hình ảnh những người được mời vào Giáo hội qua Bí Tích Rửa Tội vào những tuổi đời khác nhau. Sống trong Giáo hội, mọi người đều là con cái của Chúa, không phân biệt giàu nghèo sang hèn. Ai cũng được Thiên Chúa yêu thương. Đã là yêu thương thì không còn đứng trong ranh giới công bình.Thiên Chúa thưởng công cho ai là tùy lòng tốt của Ngài. Cùng nhau làm việc Tông Đồ Truyền Giáo là bổn phận mỗi người Kitô hữu. Phần thưởng là do lòng tốt Chúa ban. Như thế chúng ta sẽ xây dựng được Nước Trời giữa trần gian.


Bài 8. GHEN TỊ
JM. Lam Thy ĐVD.

Ðồng lương (công xá, lương bổng) là động lực quan trọng giúp con người có thể làm việc hiệu quả. Ðồng lương thì thường được tính bằng đồng tiền, mà “Đồng tiền nó liền với khúc ruột” (tục ngữ Việt Nam), nên vấn đề trở nên rất nhiêu khê. Chức càng lớn thì bổng càng to, cấp càng to thì lương càng bự… để rồi từ đó nảy sinh ra giai cấp và vấn đề mua quan bán tước, chạy chức chạy quyền ì xèo. Tâm lý chung của con người là thế. Người ta không muốn cho kẻ khác có tài hơn mình hoặc được ưu đãi hơn mình, thậm chí còn không muốn cho người khác bằng mình nữa. Ai cũng muốn mình mới là người nổi trội hơn, đáng được ưu đãi và tôn vinh hơn. Lòng ghen tị che mờ lý trí, khiến con người nhiều khi trở thành lố bịch, chỉ thấy mình là “number one”, còn tất cả chỉ là “number ten” không đáng một xu teng. Ấy là chưa kể nhiều khi ghen tị trở thành ghen tức, rồi ghen tức trở thành ghen ghét, hận thù cũng chẳng bao xa.
Dụ ngôn “Thợ làm vườn nho” trong bài Tin Mừng hôm nay (CN.XXV/TN-A – Mt 20, 1-16a) trình thuật:Tất cả những người thợ vào làm vườn nho từ tảng sáng tới những người vào làm giờ thứ ba, thứ sáu hay thứ mười một, đều lãnh tiền công bằng nhau (một quan tiền). Những người vào làm trước nhất đã “vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.” (Mt 20, 11-12). Suy đi nghĩ lại, thấy quả thực con người là thế, nếu không thế thì đã chẳng là con người. “Ghen tuông âu cũng thế gian thường tình” (Kiều). C’est la vie! Đời mà! Ghen tuông cũng có nhiều dạng (ghen tuông, ghen tị, ghen ghét, ghen tức) và ở nhiều lãnh vực khác nhau (tình, tiền, danh vọng, bổng lộc…): Từ tình cảm trai gái đến vợ chồng, rồi giữa cha mẹ và con cái, anh em với nhau trong gia đình, đến làng xóm, công tư sở, đến quốc gia, thậm chí còn có cả trường hợp giữa những quốc gia trên thế giới với nhau nữa.
Cựu Ước nói về chuyện ghen tuông rất nhiều: Câu chuyện ghen tức giữa Ca-in và A-ben đưa đến cảnh Ca-in đánh chết em ruột mình chỉ vì lễ vật của A-ben được Thiên Chúa chấp nhận, còn Ca-in thì bị khước từ (St 4, 1-8). Cảnh vua Sa-un ghen tức với Đa-vít chỉ vì Đa-vit chiến thắng vang dội quân Phi-li-tinh, được cả triều đình khâm phục. Một nhà vua quyền thế còn ghen tị với cả con của triều thần dưới quyền mình (Sa-un hỏi, Đa-vít trả lời: “Con là con của tôi tớ ngài là Gie-sê, người Bê-lem.” – Sm 17, 58)! Từ ghen tị nhỏ nhen (“vua Sa-un nhìn Đa-vít với con mắt ghen tị” – 1Sm 18, 10), đi tới chỗ “Vua Sa-un phóng cây giáo và nói: “Ta phải đâm Đa-vít, ghim nó vào tường mới được.” Nhưng cả hai lần Đa-vít đều tránh được.” Cuối cùng, “vua Sa-un trở thành kẻ thù của ông Đa-vít suốt đời” – Sm 18, 11.29). Rồi thì chuyện Ep-ra-in ghen với Giu-đa (Is 11, 11-13)…, nhiều, nhiều lắm!
Cựu Ước thì như vậy, sang đến Tân Ước thì sao? Ngay trong nội bộ các môn đệ đầu tiên của Chúa cũng có cảnh ghen tức. Vẫn còn đó chuyện 2 người con ông Dê-bê-đê xin ngồi bên tả và bên hữu Chúa Giê-su, khiến cho “Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Gia-cô-bê và ông Gio-an” (Mc 10, 41). Đám thượng tế, kinh sư cũng vì ghen tị với Đức Giê-su mà nộp Người (“Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tỵ mà các thượng tế nộp Người.” – Mc 15, 10). Sau này, họ còn ghen với Thánh Phê-rô và tìm cách hại các Tông đồ (“Bấy giờ, vị thượng tế cùng tất cả những người theo ông -tức là phái Xa-đốc- ra tay hành động. Đầy lòng ghen tức, họ bắt các Tông Đồ, nhốt vào nhà tù công cộng.” (Cv 5, 17); “Nhưng người Do-thái sinh ghen tức, họ quy tụ một số du đãng đầu đường xó chợ, họp thành đám đông, gây náo động trong thành. Họ kéo đến nhà ông Gia-xon, tìm ông Phao-lô và ông Xi-la để đưa hai ông ra trước đại hội toàn dân.” (Cv 17, 5).
Cũng chẳng cần nói tới xa xưa làm gì, bởi chuyện ghen tức đố kị ở xã hội ngày nay thì đầy rẫy, không bút mực nào có thể kể cho hết được! Viết tới đây, tôi lại nhớ tới câu chuyện “ngồi gần, ngồi xa Chúa” mà đã hơn một lần tôi nhắc tới trong những bài chia sẻ của mình. Đó là lời khuyên của một giảng viên trong một lớp học: “Hãy yêu Chúa thật nhiều và càng yêu nhiều thì sau này lên thiên đàng càng được ngồi gần Chúa nhiều hơn”. Tôi đã phản bác: Đó chỉ là những cảm nghĩ, suy tư của con người (khi yêu ai càng nhiều thì càng cảm thấy gần gũi người ấy nhiều hơn). Còn đến khi được hưởng phúc trên quê trời, thì tất cả mọi người đều bình đẳng, không phân biệt giai cấp cao hay thấp, không căn cứ vào phẩm trật lớn hay nhỏ, cũng chẳng còn ranh giới giữa yêu nhiều yêu ít. Khi đó, Chúa sẽ ở với và ở trong mỗi con người (“Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” – Ga 17, 20-21), vậy thì còn sợ gì ngồi gần hay ngồi xa?
Trở lại với bài Tin Mừng hôm nay, đặt giả thử nếu ông chủ vườn nho cứ kêu thợ tới làm việc, mà không có một giao ước nào, thì không thể phiền trách những người tới làm từ sáng sớm ghen tức với những người chỉ làm có một giờ sau chót. Tuy nhiên, ông chủ đã có giao ước từ trước và thực hiện đúng với giao ước là mỗi người làm vườn sẽ được trả công một quan tiền. Và chính câu trả lời của ông chủ đã cho thấy lòng ghen tị hẹp hòi của con người đã khiến họ không nhìn thấy tấm lòng bao dung của ông chủ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt 20, 13-15). Vâng, đừng thấy chủ tốt bụng mà ghen tức với anh em. Còn điều quan trọng hơn là hãy nhìn lại mình, xem mình tới trước mà có làm việc bằng (chớ đừng nói là hơn) người đến sau không?
Hoá cho nên chẳng cần phải suy tư cũng hiểu ngay ông chủ trong dụ ngôn “thợ làm vuờn nho” đích thị là Thiên Chúa, và tiền công một quan tiền chính là Nước Trời vậy. Được gọi trước hay được gọi sau không thành vấn đề, mà vấn đề đặt ra ở đây là anh có đáp ứng đúng với ơn gọi ấy hay không. Đừng vội cho mình là người quan trọng vì được gọi trước, rồi sinh lòng ghen tức với những người đến sau, bởi chính thái độ ghen tức ấy bộc lộ rõ ràng bản chất con người vừa ích kỷ, vừa kiêu căng tự phụ. Đó phải chăng là tội thứ nhất (kiêu ngạo), tội thứ sáu (ghen ghét), kể cả tội thứ tư (hờn giận) trong 7 mối tội đầu? Khi đã phạm cùng lúc đến 3 trong 7 mối tội đầu thì dù cho có được gọi đầu tiên, hậu quả tất yếu cũng vẫn là “xuống hàng chót” và biết đâu, kẻ đứng chót sẽ “lên hàng đầu” vì họ đã sống đúng với ơn gọi của mình. Ấy cũng bởi “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.” (Mt 20, 16).
Tóm lại, bài học người Ki-tô hữu rút ra được phải là: Hãy khiêm tốn nhìn lại bản thân hơn là nhìn vào người khác để phân bì đố kỵ. Hãy “Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!” (Lc 6, 42). Ghen tị không những làm mất tình yêu thương, gây nên những gương mù gương xấu, mà còn hơn thế nữa, ghen tị có thể làm cho người ta mù quáng, đi tới chỗ hận thù hãm hại lẫn nhau. “Đừng làm chỉ vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su.” (Pl 2, 3-5). Ước được như vậy.
Ôi, lạy Chúa! Ngay từ những ngày đầu Chúa mới dựng nên chúng con, thì Nguyên tổ chúng con đã phạm sai lầm (dù cho sai lầm đó là do quỷ dữ cám dỗ, nhưng nếu không kiêu ngạo muốn được ngang bằng với chính Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên bản thân mình, thì Nguyên tổ đâu có sa ngã!). Cúi xin Chúa ban Thần Khí soi sáng cho chúng con, để chúng con hiểu được rằng “ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa.” (Gc 3, 16). Đồng thời thêm sức cho chúng con có đủ dũng khí, kiên quyết “từ bỏ mọi thứ gian ác, mọi điều xảo trá, giả hình và ghen tương cùng mọi lời nói xấu gièm pha.” (1Pr 2, 1). Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.


Bài 9. Lao động Đức Tin
Trầm Thiên Thu 

Lao động chân chính là dùng sức mình để làm việc có mục đích (tốt) và có ý thức. Lao động không chỉ là cách mưu sinh mà còn là cách trau dồi (giồi) sức khỏe, đặc biệt là tránh dịp tội: “Nhàn cư vi bất thiện”. Lao động chân tay hoặc lao động trí óc đều cần thiết, có giá trị nhất định, không ai hơn ai. Chỉ có lòng người xấu chứ không có nghề nào xấu.
Người chịu khó lao động là người biết tự trọng, không ỷ lại vào người khác, tức là không ích kỷ, là một dạng phục vụ, và cũng là một cách giúp đỡ người khác. Đối với những người lười biếng, Thánh Phaolô nói thẳng: “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn” (2 Tx 3:10).
Nhân dịp kỷ niệm 90 năm ban hành Thông điệp “Rerum Novarum” (Tân Sự) của Đức Lêô XIII (1810-1903), ban hành ngày 15-5-1891, Đức Gioan Phaolô II (1920-2005) đã có Thông điệp “Laborem Exercens” (Lao Động của Con Người), ban hành ngày 14-9-1981, nói về Tin Mừng trong sự lao động, trong công việc. Điều đó cho thấy sự lao động là hoạt động quan trọng, cả thể lý và tâm linh. Thật vậy, Thiên Chúa đã dạy chúng ta qua cách hoạt động của Ngài: Lao động 6 ngày, chỉ nghỉ 1 ngày cuối tuần (x. St 1:1-31 – 2:1-3).
Khi lao động, chúng ta tự hoàn thiện mình bằng cách đi tìm Chân-Thiện-Mỹ, tức là đi tìm chính Thiên Chúa, vì chỉ có Thiên Chúa là Đấng chí thiện (x. Mc 10:18). Thật vậy, ngôn sứ Êdêkien đã từng nhắn nhủ: “Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người ở kề bên” (Is 55:6). Ở dưới bầu trời này, cái gì cũng chỉ có một thời mà thôi (x. Gv 3:1-8). Vì thế, đừng lần lữa kẻo lỡ cơ hội: “Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa, và Người sẽ xót thương, về với Thiên Chúa chúng ta, vì Người sẽ rộng lòng tha thứ” (Is 55:7). Đừng đợi nước đến chân mới nhảy, nếu không thì sẽ không kịp, ngay cả “Giờ Thương Xót” cũng đang dần thu ngắn lại, nghĩa là sắp hết rồi đấy!
Đừng chần chừ, đừng ngần ngại, đừng sợ hãi, vì Thiên Chúa hứa: “Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại, lúc ngặt nghèo, có Ta ở kề bên. Ta giải cứu và ban nhiều vinh dự, cho sống lâu, tuổi thọ dư đầy và hưởng ơn cứu độ Ta ban” (Tv 91:15-16). Ngài không chỉ lắng nghe và đáp lại, mà Ngài còn ban cho chúng ta hơn cả điều chúng ta mong đợi. Thật là trên cả tuyệt vời, chắc chắn chẳng có thần linh nào ngoài Thiên Chúa chúng ta tôn thờ!
Phàm nhân chúng ta không thề nào hiểu hết lòng thương xót của Thiên Chúa, ngay cả tình mẫu tử của người mẹ trần gian mà chúng ta còn chưa hiểu hết thì làm sao có thể hiểu Thiên Chúa: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55:8-9).
Ngày xưa, người ta so sánh điều không tưởng với chuyện lên cung trăng, tức là chuyện không thể có. Thế mà ngày nay, người ta đã có thể lên cung trăng, có thể “lên trời”, nhưng đó chỉ là một góc nhỏ của trời mà thôi. Khoa học tiến bộ vượt mức, người ta tìm mọi cách để “khám phá” bầu trời, nhưng càng khám phá thì người ta càng thấy thăm thẳm, còn biết bao nơi người ta không biết là gì nên chỉ biết mô tả là “lỗ đen” (black holes).
Thiên Chúa siêu hơn cả siêu việt, tuyệt hơn cả trác tuyệt, hơn cả tuyệt luân. Chúng ta chỉ còn biết xưng tụng Thiên Chúa: “Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Chúa thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng. Người cao cả khôn dò khôn thấu” (Tv 145:2-3). Càng tìm hiểu vũ trụ, người ta càng nhận biết Thiên Chúa. Càng tìm hiểu Thiên Chúa, chúng ta càng kính thờ và tạ ơn Thiên Chúa. Đó chính là hành trình Đức Tin, là quá trình lao động Đức Tin, hoặc lao động tâm linh.
Thiên Chúa cao vời khôn ví, nhưng Ngài lại giàu lòng xót thương với mọi người, ai càng yếu thì Ngài càng thương: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên” (Tv 145:8-9). Đúng như Thánh Phaolô đã xác định: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5:20). Hãy vững lòng tin tưởng và mau mắn đứng dậy ngay!
Thiên Chúa vô tiền khoáng hậu, vô thủy vô chung, và yêu thương vô bờ bến, nhưng Ngài cũng rất thẳng thắn: “Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người” (Tv 145:17-18). Vấn đề không phải là tội nhiều hay tội ít, vì ai cũng chỉ là tội nhân mà thôi, chẳng ai hơn ai, nhưng vấn đề là có chân thành sám hối hay không: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi (Mt 9:13). Ngài thực sự chỉ muốn tình yêu chứ không muốn hy lễ (x. Hs 6:6). Ước gì không ai trong chúng ta phải nghe lời “nói nặng” của Chúa: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mt 15:8; Mc 7:6).
Người Pháp có câu châm ngôn khá độc đáo: “Đừng vì yêu mến Chúa mà chống đối người khác”. Vào thời Thánh Phaolô, có những kẻ rao giảng về Đức Kitô chỉ vì lòng ganh tị vàtranh chấp, những cũng có những người làm công việc đó vì ý ngay lành, họ làm vì bác áivà bênh vực Tin Mừng. Lại có những người loan báo Đức Kitô vì tính ưa tranh giành,không có lòng ngay. Nhưng Thánh Phaolô vẫn bảo là “không sao”, chỉ cần Đức Kitô được rao giảng. Thánh Phaolô mừng bởi vì điều ấy sẽ giúp ngài đạt được ơn cứu độ nhờ Thần Khí của Đức Giêsu Kitô phù trợ.
Cuối cùng, Thánh Phaolô nói: “Đó là điều tôi đợi chờ và hy vọng. Sẽ không có gì làm cho tôi phải hổ thẹn, trái lại tôi hoàn toàn vững tin. Bây giờ cũng như mọi lúc, Đức Kitô sẽ tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi sống hay tôi chết: vì đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1:20-21). Ngài lý giải: “Nếu sống ở đời này mà công việc của tôi được sinh hoa kết quả thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Vì tôi bịgiằng co giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Kitô, điều này tốt hơn bội phần: nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em” (Pl 1:22-24). Vấn đề cốt lõi là miễn sao có lợi cho Thiên Chúa, tức là để tuân phục Thánh Ý Chúa và vinh danh Chúa” mà thôi. Cũng vì thế mà Thánh Augustinô đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con – Domine, noverim Te, noverim me”. Biết Chúa là chân nhận Thiên Chúa là Đấng duy nhất và giàu lòng thương xót để mà tôn thờ Ngài hết linh hồn và hết sức lực, biết mình là ý thức mình yếu đuối và đầy tội lỗi để mà sống khiêm nhường hơn.
Danh nhân Mahatma Gandhi rất thích Tám Mối Phúc của Chúa Giêsu, ông gọi đó là Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên của nhân loại. Ông có công giành độc lập cho Ấn Độ bằng con đường bất bạo động theo tinh thần của Đức Kitô. Ông đã từng xác nhận thẳng thắn:“Tôi yêu mến Đức Kitô nhưng tôi không phục các Kitô hữu”. Tại sao? Có lần ông vào một nhà thờ Công giáo, ngoài cửa có ghi: “Cấm người da đen vào nhà thờ”. Thấy vậy, ông quay ra ngay. Là Kitô hữu, là môn đệ Chúa Giêsu và là con cái Thiên Chúa, chúng ta cảm thấy thật là xấu hổ, vì chúng ta bảo người ta yêu thương mà mình lại kỳ thị người khác, chỉ lẻo mép nói hay mà không thực hiện. Nước Chúa chưa rộng mở là lỗi tại tôi mọi đàng!
Thánh Phaolô nhắn nhủ với cộng đoàn Phi-líp: “Chỉ có một điều là anh em phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Kitô. Như thế, dù tôi có đến thăm anh em hay vắng mặt đi nữa, tôi vẫn muốn được nghe người ta nói về anh em là anh em luôn đứng vững, cùng chung MỘT tinh thần, MỘT lòng MỘT dạ cùng nhau chiến đấu vì đức tin mà Tin Mừng mang lại cho anh em” (Pl 1:27). Và chắc chắn đó cũng là lời khuyên dành cho mỗi chúng ta hôm nay.
Trên hành trình Đức Tin, ai cũng là người lao động Đức Tin vì mỗi chúng ta đều là “người thợ làm vườn nho” cho Chúa. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là đừng so đo hoặc ganh tị mà nhìn nhau bằng nửa con mắt hoặc với “ánh mắt mang hình viên đạn”.
Một hôm, sau khi nói về phần thưởng dành cho ai bỏ mọi sự mà theo Ngài, Đức Giêsu kết luận: “Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu” (Mt 19:30). Thật là đáng “giật mình” lắm! Rồi Ngài kể chuyện này: Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. Khoảng giờ thứ ba, giờ thứ sáu, giờ thứ chín, rồi giờ mười một, ông trở ra và thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Với ai ông cũng bảo: “Hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng” (Mt 20:4).
Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất. Những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn ông chủ bất công, họ so kè việc họ đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, nắng nôi thiêu đốt, thế mà chẳng hơn gì người vào làm muộn.
Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt 20:13-15). Trong cuộc sống, ngay cả trong vấn đề tâm linh và bác ái, chúng ta cũng vẫn thường so đo đủ thứ, ý muốn nói mình “ngon” hơn người khác. Và nếu Chúa Giêsu đặt vấn đề như vậy với chúng ta về vấn đề này, chắc chắn chúng ta cũng chỉ còn nước là “câm như hến” mà thôi!
Há miệng mắc quai nón. Càng nói càng dở, càng lý luận càng đuối lý. Thấy họ im như thóc thối, Chúa Giêsu lặp lại và nhấn mạnh: “Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít” (Mt 20:16). Không khéo thì rồi sức lao động trở thành công cốc!
Chúa Giêsu đã mời gọi mọi người tin vào Ngài là Đấng Cứu Độ để được sống đời đời, nhưng chỉ ít người được chọn. Động từ “chọn” ở đây không là “thích ai thì chọn”, mà “chọn” ở đây là tùy vào quyết định riêng của người được gọi với đầy đủ quyền tự do. Sự tự do này là chính Thiên Chúa ban cho chúng ta, nhưng có thể có lợi, và cũng có thể bất lợi cho chúng ta. Vì đó là ý muốn của mỗi người, Thiên Chúa hoàn toàn tôn trọng quyền tự do này.
Phải chăng không nhiều người được vào Nước Trời? Rất có thể, và đó là lỗi của chúng ta chứ Thiên Chúa muốn mọi người được hưởng phúc trường sinh với Ngài, không muốn bất cứ một ai phải hư mất. Mối nguy là chúng ta ỷ lại, tự cho mình là “ngon” hơn người khác, nhận mình là đạo đức, thánh thiện và công chính, để rồi “liếc xéo” và cho rằng họ là những người tội lỗi, nào ngờ họ lại có Visa Nước Trời trước chúng ta (x. Mt 21:31-32). Khốn thật!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết miệt mài và cần cù sống Đức Tin một cách cụ thể, luôn biết khiêm nhường, luôn hết lòng yêu thương và chân thành tha thứ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Bài . Đeo mặt nạ
Sự giả dối dường như mỗi ngày một gia tăng và con người dường như thích đeo mặt nạ trong cuộc sống. Thực vậy, mặt nạ là cái mà người ta dùng để che dấu bộ mặt đích thực của mình.
Vậy thì công dụng của nó như thế nào? Với mặt nạ, trước hết người ta muốn lừa gạt kẻ khác. Đúng thế, bề trong có khi thù oán, tức tối, nhưng bề ngoài lại tỏ ra hòa nhã, dễ chịu. Mặt nạ của chúng ta thường thì không xấu, nhưng có những nét đẹp và lôi cuốn, để nhờ đó tìm được những cảm tình và lợi lộc nào đó. Người đeo mặt nạ đạo đức để dối gạt kẻ khác, thì tư tưởng không đi đôi với lời nói và lời nói lại không đi đôi với việc làm. Nói một đàng làm một nẻo như tục ngữ vốn diễn tả: Miệng nam mô bụng bồ dao găm. Khẩu phật tâm xà. Bề ngoài thì thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không gươm. Trong khi đó Chúa đòi chúng ta phải thành thực: có nói có, không nói không, thêm ra bớt vào là do ma quỉ.
Tiếp đến, với mặt nạ, chúng ta lừa dối chính bản thân chúng ta. Thực vậy, chúng ta cố gắng tạo ra cho mình những ảo tưởng. Chúng ta bao quanh mình những huyền thoại, tưởng rằng mình có nhân đức này, nhân đức kia như một đám mây rực rỡ bao phủ. Để rồi từ đó, chúng ta lên mặt kênh kiệu. Chúng ta tưởng rằng mình kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, nhưng vào giây phút cuối cùng ta sẽ vô cùng sửng sốt khi thấy sự thật không phải là như thế. Chúng ta tô vẽ cho Thiên Chúa theo như những ý tưởng và ước muốn riêng tư của chúng ta. Và lúc đó Thiên Chúa trở nên một tượng thần nhảm nhí do tay người phàm làm nên như Kinh Thánh đã trách cứ. Đang khi chúng ta phải trở nên giống Ngài thì chúng ta lại bắt Ngài trở nên giống chúng ta. Miệng chúng ta không ngừng đọc lời kinh Chúa dạy: Vâng ý Cha dưới đất cũng như trên trời, nhưng trong thực tế, chúng ta lại luôn tìm thỏa mãn cho những ước muốn và dục vọng riêng tư. Chúng ta bằng lòng với những dáng bộ đạo đức bên ngoài, nhưng một khi chiếc mặt nạ bị rớt xuống, chúng ta sẽ phải bẽ bàng như lời Chúa phán với bọn biệt phái: chúng giống như mồ mả, bên ngoài thì quét vôi trắng toát, nhưng bên trong thì lại đầy dòi bọ cùng mọi thứ hôi thối. Nhưng nguy hiểm hơn là chúng ta lại muốn dùng chiếc mặt nạ ấy để dối gạt chính Thiên Chúa. Đây quả thực là một việc làm điên khùng và dại dột, đây cũng là một việc làm xưa như trái đất mà con người luôn cố gắng thực hiện.
Adong Eva ngay sau khi phản bội cùng Thiên Chúa, liền ẩn náu nơi bụi rậm. Ngày nay chúng ta cũng ẩn náu dưới nhiều danh hiệu khác nhau. Nào là vẻ hào nhoáng bề ngoài, nào là những ý thức hệ đạo đức, nào là những hành động khua chiêng gõ mõ ầm ỉ. Phải chăng đó cũng là cái moden của thời đại. Tuy nhiên chúng ta cần phải nhớ rằng, có một cặp mắt thấu suốt mọi điều bí ân, đó là cặp mắt của Thiên Chúa. Ngài đòi chúng ta phải chịu trách nhiệm về những hành động của mình. Mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm dù bí ẩn đến đâu cũng không thể qua khỏi tầm mắt của Ngài. Trong ngày thẩm phán cuộc đời chúng ta như một trang sách mở rộng trước tôn nhan Ngài. Hãy chấm dứt trò chơi đeo mặt nạ để lừa gạt kẻ khác, bản thân và Thiên Chúa. Hãy sống thành thực, kẻo chúng ta phải bẻ bàng, khi cuộc sống giả tạo ấy bị phanh phui…


Bài 10. Ghen tị

Câu chuyện dụ ngôn thuê mướn thợ làm vườn nho hình như có vấn đề gây thắc mắc: làm sao ông chủ có thể trả công đồng đều cho tất cả những người thợ làm việc ở các thời điểm khác nhau? Ông chủ có công bằng chăng khi đối xử với những người chỉ làm một giờ ngang bằng với những người làm vất vả cả ngày?
Thật ra ông chủ đã đối xử sòng phẳng với những người làm việc từ sáng sớm. Ông ta đã trả mỗi người một đồng đúng như đã thoả thuận. Ông ta không bóc lột sức lao động của ai cả: có làm có trả lương tương xứng, nếu ông ta không gọi thêm thợ thì mọi chuyện bình thường, chẳng có vấn đề gì, nhưng vì có nhóm thợ làm ít giờ hơn cũng được trả lương bằng mình, nên có việc ganh tị, và nhất là đánh giá tiêu cực về ông chủ.
Câu chuyện này chúng ta thấy nổi bật hai vấn đề: Cách đối xử của ông chủ và phản ứng của những người thợ. Ông chủ vườn nho đây là hình ảnh Thiên Chúa, Ngài tốt lành vô cùng, lòng nhân từ của Ngài vượt lên trên tất cả những thứ trả công mà người đời sử dụng với nhau trong cuộc sống, Ngài rất công bằng và thương yêu vô tận. Vì vậy, ngoài sự công bằng, Ngài còn yêu thương chúng ta theo tự do và tình yêu của Ngài. Trước lời phàn nàn của những người thợ làm từ sáng sớm mà cũng lãnh công như những người làm sau, Ngài đã khẳng định quan điểm của Ngài, Ngài hoàn toàn tự do làm theo ý định của mình, Ngài muốn làm cách nào, lúc nào, chọn ai đều tuỳ ý Ngài mà không phải lệ thuộc ai cả. Tuy có quyền tự do của mình, nhưng Thiên Chúa không dùng tự do đó mà làm thiệt hại cho người khác: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn”. Thiên Chúa luôn công bằng, chỉ có con người mới đối xử bất công với nhau vì thiếu lòng nhân từ, vì cách nhìn ghen tị của mình. Quả thật, ông chủ vườn nho được tự do dùng tiền của mình, thì tại sao Thiên Chúa lại không được tự do trong việc yêu thương? Ông chủ trả lương rộng rãi với nhóm người này mà vẫn giữ công bằng với nhóm kia, thì Thiên Chúa trải rộng tình thương của Ngài đến mọi người mà không cần theo tính toán của người đời. Cách xử sự của Thiên Chúa khác xa với cách xử sự của mọi người. Có lẽ khó gặp được chuyện này trong cuộc sống hằng ngày, nhưng lại xảy ra hằng ngày trong đời sống thiêng liêng: Thiên Chúa ban ơn nhiều hơn lòng mong đợi của con người.
Thiên Chúa rất nhân từ và tốt lành, Ngài ban ơn cho mỗi người và mọi người mà không tính toán thời điểm, tuổi tác. Chỉ có con người là hẹp hòi, ích kỷ đối với nhau qua hình ảnh những người thợ làm vườn nho. Những người làm từ đầu, làm nhiều giờ hơn, không vui mừng khi thấy ông chủ trả lương cho những người vào làm sau, làm ít giờ hơn cũng bằng họ, họ đã ghen tị đến đấu tranh với ông chủ, đó là tâm trạng chung của con người chúng ta: hay so đo, tính toán, thắc mắc, phân bì, ghen tị, ganh ghét.
Chúng ta hãy nhớ: ghen tị là một trong bảy mối tội đầu, là tội nặng. Kẻ ghen tị là người không muốn ai hơn mình, mà nếu có ai hơn mình thì tỏ ra khó chịu, buồn sầu, tức bực và oán ghét với những thành công của người khác. Người ta ghen tị về đủ mặt: của cải, tài ba, nhan sắc, thành công, nhân đức. Người ta ghen tị nhau vì không lượng đúng giá trị những gì mình có, không thoả mãn với hiện trạng của mình, không nhận ra vị thế của mình, lúc nào cũng thấy núi khác cao hơn. Người ta ghen tị nhau vì kiêu ngạo, vì ích kỷ, không muốn ai thành công hơn mình, đạo đức hơn mình, phục vụ hơn mình. Càng liên hệ thân thiết với nhau người ta càng ghen tị nhau. Thường thường những người ở trong cùng hoàn cảnh, cùng gia tộc, cùng một tình thân như bạn bè mới ghen tị nhau, chẳng hạn chị em ghen tị nhau, nhà giáo, nghệ sĩ, hàng thịt, hàng cá… ghen tị nhau. Chúng ta có thể cười người khác khi thấy họ ghen tị và chúng ta cho đó là thái độ trẻ con, nhưng chính chúng ta cũng nên phản tỉnh lại xem: chúng ta có hơn trẻ con không? Khi thấy người khác đau khổ, chúng ta dễ chạnh lòng thương, an ủi, giúp đỡ họ. Cho nên, thường chúng ta hay đi chia buồn hơn là đi chia vui. Có ai vui một cách thành thực khi anh em mình được may mắn, thành công chăng? Hay là chúng ta tủi thân, rồi mỉa mai, bôi bác họ?
Chúng ta hãy nhớ: ghen tị sinh ra nhiều tai hại: ghen tị sinh ra ghen ghét, ghen ghét sinh ra oán thù. Ghen tị thường đi đến chỗ nói xấu, nói hành, dèm pha, bôi nhọ, xét đoán bừa bãi. Ghen tị làm mất tình bác ái và gây nên bao gương mù gương xấu. Vì thế, chúng ta phải tốp ngay, phải ngưng ngay cái tật xấu ghen tị này. Chúng ta phải biết đánh giá trị đúng của anh em mà vui cùng kẻ vui. Chúng ta phải tránh sự ghen tị như tránh rắn độc.
Tóm lại. Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, chúng ta phải luôn khiêm nhường nhìn nhận mình không là gì cả, lúc nào cũng phải nương nhờ vào ơn Chúa, vì tất cả những gì chúng ta đã có, đang có hay sẽ có đều là do Chúa ban, Chúa là Đấng tốt lành vô cùng. Thứ hai, mỗi người hãy bằng lòng với hiện trạng của mình, bằng lòng với những gì mình đang có, đừng nhìn vào người khác mà phân bì ghen tị. Ghen tị làm mất tình yêu thương và gây nên những gương mù gương xấu. Xin Chúa cho chúng ta biết đánh giá trị đúng về mình và về anh em, để chúng ta không phân bì, kể công với ai và cũng không phân bì, ghen tương ai.


Bài 11. Chiến thắng lòng ghen tị
Lm. Ignatiô Trần Ngà

Cuối ngày, những người thợ vườn nho đi làm từ sáng sớm, đã được lãnh tiền công đúng như đã thoả thuận với chủ từ đầu, thế nhưng họ vẫn không hài lòng, lại còn lẩm bẩm kêu trách chủ vườn đã cho những người đến làm sau được hưởng đồng lương bằng họ. Họ tỏ ra bất bình và ghen tị với các đồng nghiệp chỉ vì những người nầy ít tốn mồ hôi hơn mà cũng được hưởng tiền lương bằng mình.
Lòng ghen tị đã xuất hiện từ khởi thuỷ loài người. Cain ghen tị với Aben là người em yêu quý của anh chỉ vì lễ vật của Aben được Chúa thương chấp nhận, còn lễ vật của anh thì bị Thiên Chúa khước từ. Lòng ghen tị đã xui khiến Ca-in đánh chết em.
Theo sách Samuen, Đavít là vị anh hùng tài hoa trẻ tuổi đã lập được chiến công oanh liệt, cứu nguy cho dân quân Israel bằng cách giao chiến một-chọi-một với tên Gô-li-át khổng lồ thuộc phe Phi-li-tinh, hạ gục y chỉ bằng một phát ná bắn đá và dùng chính thanh gươm của y mà chặt đầu y. Thế rồi quân Israel thừa thắng xông lên như nước vỡ bờ, tràn lên giết hại rất nhiều quân Phi-li-tinh thù nghịch.
“Khi Đavít thắng trận trở về, phụ nữ từ hết mọi thành của Israel kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Sa-un, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ ca hát rằng: “Vua Sa-un hạ được hàng ngàn, ông Đavít hàng vạn”.
Thế là từ lúc ấy, lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Sa-un, khiến nhà vua phóng giáo vào Đavít đang khi Đavít gảy đàn cho vua nghe. May thay Đavít kịp né mình thoát chết trong gang tấc. Rồi sau đó, vua lùng sục Đavít tận thâm sơn cùng cốc, quyết hạ sát cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy. (Samuen I, chương 17-18)
Qua trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu ám chỉ đến lòng ghen tị của những người biệt phái đối với những người thu thuế và tội lỗi vì những người nầy được Chúa Giêsu yêu thương và tiếp đón.
Người ta không muốn cho người khác trội hơn mình và thậm chí không muốn cho người khác được bằng mình. Ai cũng muốn mình nổi bật hơn, chói sáng hơn, vinh quang hơn người khác. Khi khát vọng nầy không được thoả mãn, và nhất là khi thấy người khác thành công, thắng lợi hơn mình, thì lòng ghen tị phát sinh.
Lòng ghen tị làm xấu đi những tương quan tốt đẹp vốn có giữa anh em bạn bè. Lòng ghen tị còn xui khiến người ta làm hại nhau, làm cho xã hội chậm tiến và kém phát triển.
Làm sao dập tắt được lòng ghen tị? Nó vẫn chế ngự và tiếp tục khống chế con người cho tới khi nhắm mắt tắt hơi.
Muốn thoát ra khỏi sự khống chế của lòng ghen tị, chúng ta cần sáng suốt nhận thức hai điều nầy:
1. Sự may lành của người, sự thành công của người khác luôn mang lại lợi ích cho chúng ta.
Thế giới nầy cần phải có nhiều người tài giỏi hơn bạn và tôi, càng nhiều càng tốt. Nếu ai cũng chỉ có khả năng bằng bạn và tôi thôi thì làm gì có máy bay, có TV, có điện thoại di động và máy tính!…
Xã hội nầy cần phải có nhiều người giàu có hơn bạn và tôi. Nếu ai cũng nghèo như bạn và tôi thì lấy đâu ra vốn để đầu tư và phát triển và thế là quốc gia còn lâu mới thoát cảnh lạc hậu nghèo nàn.
Đất nước nầy cần có nhiều người trí thức hơn, thông thái hơn, khôn ngoan hơn bạn và tôi. Nếu ai cũng nông cạn và thiển cận như tôi thì làm gì có văn minh và tiến bộ.
Vậy thì hãy cầu mong cho có nhiều người trỗi vượt hơn ta về nhiều phương diện chứ đừng cầu mong người khác thua ta hoặc bằng ta, bởi vì: “con hơn cha thì nhà có phúc; sau hơn trước thì nước văn minh”.
2. Tất cả mọi người làm nên một thân thể.
Qua Thánh Phaolô, Thiên Chúa bày tỏ cho nhân loại biết rằng muôn người trên thế gian cũng chỉ là một:
“Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể” I Cr 12, 12-13)
“Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (I Cr 10, 17)
“Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người biết mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.” (Ep 3, 5-6)
Xin cho mọi người hiểu rằng mỗi người là một tế bào trong cùng một thân thể lớn lao là nhân loại. Nói khác đi, mỗi người chúng ta là một bộ phận trong thân mình nhân loại. Người nầy là tim, người khác là gan, người kia là phổi… Nếu trong thân thể nầy, quả tim mạnh lên thì các bộ phận khác phải mừng cho tim và mừng cho toàn thân, hà cớ gì phải buồn, vì nhờ tim mạnh mà toàn thân được khoẻ. Tim suy yếu hay ngừng đập thì toàn thân còn gì?
Tương tự, nếu như phổi mạnh lên thì toàn thân phải mừng cho phổi, sao lại ghét ghen, vì nhờ thế mà cả cơ thể khoẻ mạnh an lành; chứ nếu phổi lủng, phổi nám thì toàn thân cũng phải liên quan.
Vì thế, thay vì ghen tị trước những thành công của người khác, ta hãy vui mừng hân hoan, vì sự thành công của họ đem lại nhiều lợi ích cho ta và cho toàn thể mọi người;
Vì thế, thay vì buồn phiền khi có nhiều anh chị em bè bạn chung quanh vượt lên khỏi ta mà tiến tới, ta hãy thành thật chúc mừng vì nhờ thế đất nước nầy sẽ được tiến bộ, văn minh hơn.


Bài 12. Ghen tương
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Ca dao Việt Nam có câu:
“Ớt nào mà ớt chẳng cay
Gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng”
Ghen tương, tị hiềm là một mầm giống bệnh tật nằm trong bản tính con người. Từ nguyên thủy đã có ghen tị. Cain vì ghen mà giết Aben, bởi em cậu đẹp lòng Thiên Chúa. Các anh em con của Giacob ghen với Giuse vì em được cha thương nên bán em qua Ai cập làm nô lệ. Vua Saolê ghen với Đavít vì dân chúng tín nhiệm Đavít, nên Saolê hai lần lấy đao phóng đâm vào Đavít. Đavít ghen với Uria. Vì ông có vợ đẹp nên Đavít đã hãm hại Uria để chiếm đoạt vợ của ông.
Có nhiều người ghen và cũng có nhiều chuyện để ghen. Ghen tương thường đi đến kết thúc thật bi thảm. Thù oán, giận hờn và đôi khi giết hại lẫn nhau mà vẫn không áy náy lương tâm.
Chắc hẳn chúng ta còn nhớ vụ kiện hai bà mẹ giành nhau đứa con trước tòa của Salômôn. Một bà nói: Hai chúng tôi ở cùng một nhà, nhưng con của bà ta bị chết vì bà nằm đè phải đứa con nên nó bị chết. Nửa đêm bà này thức dậy đánh tráo con tôi”. Nhà vua vung gươm sáng loáng ra lệnh chặt đôi bé còn sống để chia cho mỗi bà một nửa. Nghe vậy, người mẹ thứ hai thưa rằng: “Xin bệ hạ trả cháu nhỏ cho bà kia, đừng giết cháu tội nghiệp”. Bà thứ nhất thưa: “Cháu bé không phải của chị cũng không phải của tôi. Cứ phân đôi là công bằng”. Nhà vua liền trao cho người mẹ xin đừng giết đứa bé, vì đó là người mẹ thật.
Quả thực lòng ghen đánh mất tính người: “Không ăn thì hắt đổ đi”. Lòng ghen tương cũng mất tình liên đới với tha nhân, không chấp nhận người khác hơn mình. Và càng không chấp nhận người khác có mà mình lại không có.”Trâu buộc ghét trâu ăn” là thế. Kẻ ghen tị không hề nghĩ tới trách nhiệm về lời mình nói, việc mình làm có tổn hại đến tha nhân hay không? Kẻ ghen tị càng không có công lý và tình thương, họ chỉ mưu toan hạ bệ, chà đạp và làm hại người khác. Với cá nhân, ghen tị biến thành kẻ ác nhân, nơi đoàn thể biến thành kẻ giả hình. Bề ngoài niềm nở tay bắt mặt mừng… nhưng trong lòng lại “một bồ dao găm”, chỉ toan tính hại người.
Ở Ấn Độ có dụ ngôn như sau: Trong triều đình có hai vị quan. Một người thì ganh tị, một người tham lam.
Để chữa trị những tật xấu ấy, vua cho triệu vời cả hai vào triều đình. Nhà vua loan báo sẽ thưởng công xứng đáng cho cả hai người vì đã có công phục vụ nhà vua nhiều năm qua. Họ xin gì được nấy. Tuy nhiên người nào mở miệng trước thì sẽ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.
Cả hai viên sĩ quan lặng thinh ngẫm nghĩ. Kẻ tham lam thầm nghĩ rằng. Nếu tôi nói trước thì sẽ được ít hơn, còn người ganh tị thì lý luận, tội vạ gì mà mình xin trước để tên kia lãnh gấp đôi. Cứ như thế chẳng ai dám xin trước. Cuối cùng nhà vua phải yêu cầu người ganh tị nói trước. Hắn bèn dõng dạc tuyên bố: “Nếu thế thì xin vua cho tôi được chặt đứt một cánh tay để tên kia bị gấp đôi”. Sự ganh tị đã đánh mất tình người. Con người dễ dàng trở thành kẻ thù của nhau chỉ một miếng ăn, một chén gạo…
Dụ ngôn hôm nay muốn nói với chúng ta rằng đừng có ganh tị tham lam ích kỷ. Hãy tập “có sao chịu vậy” và tốt nhất là hãy vui mừng vì sự thành công của tha nhân. Đây là cách chiến thắng lòng tham lam, bất mãn, càm ràm than phiền vô cớ. Hãy tập nhìn đời, nhìn người một cách lạc quan, vui tươi hơn là soi mói, tọc mạch chuyện người khác, rồi bất mãn đời, bất mãn người mà nguyên nhân chính chỉ vì ghen tương.
Hãy coi người thợ làm từ đầu giờ và người thợ được mời vào giờ cuối cùng ai xứng đáng được thưởng một quan tiền. Người thợ từ giờ đầu chịu nắng nôi vất vả, cực nhọc, còn người được gọi vào giờ cuối thì âu lo thất nghiệp, vợ con cằn nhằn. Ai cũng có nỗi khổ riêng. “Thuyền càng to sóng càng lớn”. Mỗi người đều có mối lo lắng riêng. Điều quan yếu Chúa muốn chúng ta là hãy nhìn vào tình thương của Chúa đang dành cho bạn, cho tôi. Mỗi người Chúa ban một khả năng. Mỗi người một hoàn cảnh. Mỗi người một cuộc sống khác nhau hãy biết nhận ra ân huệ và tình thương của Chúa đang che phủ trên cuộc đời chúng ta. Amen.


Bài 13. Ca tụng hay kêu trách
Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ.

Dụ ngôn của Đức Giêsu, về những nhóm thợ khác nhau được mời gọi đi vào làm việc trong vườn nho, mặc khải cho chúng ta một cách tuyệt vời về cung cách hành động của Thiên Chúa, và về khó khăn sâu xa có nơi mỗi người chúng ta, khi đối diện với cung cách hành động này.
1. “Nước Trời giống như chuyện chủ nhà kia…”
Trước hết, Thiên Chúa được ví như ông chủ vườn nho, hành động giống như bao ông chủ vườn nho khác: sáng sớm ra khỏi nhà để đi tìm thợ, thỏa thuận về thời gian và tiền công (mỗi ngày một quan tiền) và sai họ đi vào làm việc trong vườn nho của mình. Ở bước này, cho dù là tương quan giữa ông chủ vườn và người làm công xem ra rất bình thường và công bằng, nhưng những người làm công vẫn được mời gọi nhận ra việc làm của mình là một điều may mắn, thậm chí là một ơn huệ, và nhất là nhận ra lòng tốt của ông, khi ông đich thân ra khỏi nhà để đi tìm người thợ, thay vì người thợ đi tìm ông chủ đề “xin việc”.
Chúng ta có nhận ra hiện hữu, cuộc đời, ơn gọi gia đình hay tu trì của chúng ta là một ơn huệ không? Chúng ta có nhận ra lòng tốt của Chúa để luôn tạ ơn và ca tụng Ngài không? Và để sống và làm việc trong tâm tình tạ ơn và ca tụng không? Hay chúng ta coi tất cả những ơn huệ nhưng không này như một thứ “quyền lợi”, để đòi hỏi Thiên Chúa, để so bì và ganh tị với nhau? Nhưng khi đòi hỏi và ganh tị, chúng ta dựa vào điều gì, phải chẳng là công lao hay thành tích của chính chúng ta?
2. “Cả các anh nữa hãy đi vào vườn nho” (c. 3-7)
Thực vậy, phần tiếp theo của dụ ngôn, mỗi lúc một mạnh mẽ và vượt quá cách hành động thông thường của một người chủ, có thể có trong kinh nghiệm sống của chúng ta, nhấn mạnh đặc biệt đến chiều kích ơn huệ và lòng tốt khác thường của ông chủ: giờ thứ ba (9 giờ sáng), ông lại ra khỏi nhà đi tìm thợ; giờ thứ 6 (12 giờ trưa), ông lại đi nữa; rồi giờ thứ 9 (3 giờ chiều), ông lại đi nữa; và đây là tột đỉnh của sự khác thường, vào giờ thứ 11 (5g chiều), ông vẫn ra khỏi nhà đi tìm thợ làm việc!
Nếu trong những trường hợp trước, ông chủ chỉ hứa trả công một cách hợp lí: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng”, thì trong trường hợp sau cùng, ông chỉ mời gọi đi làm việc: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho”. Như thế, được hiện diện trong vườn nho là một ơn huệ hoàn toàn nhưng không, diễn tả lòng tốt của ông chủ; và điều này cũng đúng với những trường hợp trước và phải được nhận ra và được ngợi khen bởi những người thợ đi vào trước, và kể cả những người vào làm việc đầu tiên nữa.
Tuy nhiên, câu chuyện của dụ ngôn, vốn diễn tả sự thật về chính chúng ta, lại diễn biến theo hướng lòng ghen tị và lời kêu trách, thay vì theo hướng chúc mừng và ca tụng. Dân Chúa đã kêu trách và ghen tị trong sa mạc (x. Ds 21,4-9, bài đọc I của ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá); và loài người và mỗi người chúng ta được mời gọi nhận ra bản thân mình nơi Dân Chúa.
Như thế, đúng ra những trường hợp trước phải được hiểu dưới ánh sáng của trường hợp sau cùng, để nhận ra lòng tốt của ông chủ được thể hiện từ đầu đến cuối. Vì, nếu hiểu ngược lại, nghĩa là các trường hợp sau được hiểu dưới ánh sáng của trường hợp đầu tiên, người ta sẽ hiểu lệch lạc về ông chủ và về người khác: từ đó, phát sinh thái độ kêu trách và ganh tị.
3. “Bắt đầu từ những người vào làm sau chót…”
Và dường như ông chủ cố ý làm cho lòng ghen tị và lời kêu trách lộ diện, khi ông trả công, đúng hơn là ban phát, cách quảng đại cho người đến làm việc sau cùng, trước mắt mọi người:
Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất.
Bởi vì, làm cho cái xấu lộ diện, chính là cách tốt nhất để chữa lành. Thực vậy, khi đến lượt nhóm thợ đầu tiên đến lãnh tiền công, họ được nhận đúng với lời thỏa thuận của ông chủ và của họ và điều này làm bật lên sự khác biệt giữa họ và những người khác. Nhưng thay vì họ chúc mừng những người đến sau (vì họ làm ít hơn mình, nhưng lại nhận được nhiều như mình) và ca ngợi lòng tốt của ông chủ (ông chủ không chỉ trà công sòng phẳng, nhưng còn ban phát rộng rãi cho người khác, theo lòng tốt của mình), họ vừa lãnh công và vừa cằn nhằn:
Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.
Trong lời này, hàm chứa hai thái độ: so sánh mình với người khác: “mấy người sau chót này”, và kêu trách ông chủ: “thế mà ông lại…”. Lời kêu trách của họ dựa trên những sự kiện rất khách quan và rất đúng: họ làm việc nhiều hơn và vất vả hơn người khác; nhưng người khác lại được hưởng bằng họ! Nhưng rất tiếc, những điều rất đúng và rất khách quan này lại được nhìn bằng con mắt ghen tị! Và vì ghen tị, nên trở nên mù quáng, không mở ra để nhận ra những sự kiện lớn hơn và đúng hơn: người khác thật may mắn và ông chủ thật tốt lành, để chúc mừng họ và ca ngợi ông chủ, đê đi vào trong niềm vui của người ban phát và của người lãnh nhận. Và vì ghen tị, nên cũng mù quáng với chính những gì mình đang có, bởi lẽ điều mình dang có không phải là quyền lợi, nhưng là ân huệ, và vì người lãnh nhận không chỉ là người khác, nhưng cũng là chính bản thân mình. Mình có niềm vui, nhưng lại tự biến niềm vui của mình thành nỗi buồn, gây chết chóc, cho mình và cho người khác.
Xin cho Lời Chúa, là Lời sẽ dẫn chúng ta đến “Lời Thập Giá” (x. 1Cr 1,18) chữa lành đôi mắt của chúng ta, khi chúng ta “nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19,37); bởi vì nơi Thập Giá, chúng ta vừa nhìn thấy hệ quả khủng khiếp của thái độ ghen ghét (nhìn thấy để được chữa lành), và vừa nhận ra tình yêu đến cùng của Chúa dành cho loài người và từng người chúng ta (để ca tụng Chúa, thay vì kêu trách).


Bài 14. Lý lẽ của trái tim
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Khi nghe dụ ngôn này có nhiều người thắc mắc: Chúa có công bằng không khi ban thưởng cho người làm ít cũng bằng người làm nhiều? Hỏi như thế là chưa hiểu rằng đây chỉ là một dụ ngôn. Dụ ngôn không phải là một chuyện có thật. Nhưng chỉ là một câu chuyện dùng làm hình ảnh để giải nghĩa giáo lý của Chúa. Trong dụ ngôn, Chúa không có ý dạy về những kiến thức trần gian, nhưng muốn nói về những chân lý Nước Trời. Những bài học mà Chúa muốn dạy ta qua dụ ngôn ‘Người thợ làm vườn nho giờ thứ mười một’ này là:
1) Chúa yêu thương hết mọi người và mong muốn mọi người được ơn cứu độ. Vườn nho tượng trưng cho Nước Chúa. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Người được thuê là người được mời gọi vào Nước Chúa. Tiền lương là sự sống trong Nước Chúa. Hình ảnh ông chủ ngày ngày ra chợ tìm thuê thợ là hình ảnh của Chúa yêu thương. Không phải ta đi tìm Chúa, nhưng chính Chúa đi tìm ta. Không phải tìm một lần mà tìm suốt ngày, từ giờ này sang giờ khác. Nếu những người được thuê vào buổi sáng sớm tượng trưng cho những người có số phận may mắn, có khả năng hơn người, thì những người được thuê vào cuối ngày tượng trưng cho những người kém may mắn, kém khả năng, bị thiệt thòi trong xã hội. Việc Chúa thuê hết mọi người từ sáng sớm cho đến chiều tà, từ người sang đến kẻ hèn, từ người tài giỏi đến những người kém cỏi, từ người khỏe mạnh đến người yếu kém, tất cả nói lên lòng yêu thương của Chúa. Chúa muốn mời gọi hết mọi người, mong muốn hết mọi người được ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa.
2) Hạnh phúc Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Nếu Chúa không kêu gọi thì không ai có thể được vào vườn nho của Chúa, được vào Nước Chúa. Nếu Chúa không ban hạnh phúc Nước Trời thì chẳng ai có thể tự mình chiếm lấy được. Việc Chúa ban thưởng cho những người được thuê mướn cuối cùng trước những người được thuê mướn đầu tiên làm nổi bật chân lý này: Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Ân huệ phát xuất từ tình thương của Chúa chứ không do công đức của ta. Vì thế chẳng ai có quyền đòi hỏi. Hơn nữa, ơn Chúa ban vượt quá sức, quá lòng mong ước của ta. Hiểu biết điều này, ta sẽ không ngừng tạ ơn Chúa.
3) Chúa yêu thương và mong ta biết yêu thương như Chúa. Những người thợ làm từ sáng sớm không có gì để kêu trách Chúa về tiền lương, vì đã được thỏa thuận từ trước. Họ chỉ kêu trách vì thấy người làm ít cũng được như mình. Họ kêu trách lòng nhân từ của Chúa. Đó là điều vô lý. Và Chúa đã nêu rõ điểm vô lý đó: Tại sao kêu trách vì tôi tốt bụng? Phần mình đã được rồi, tại sao không vui mừng vì những anh em kém cỏi, kém may mắn cũng được ân huệ vào phút chót. Qua điều này Chúa muốn dạy ta hãy biết yêu thương những người kém cỏi, bé nhỏ, nghèo hèn. Một xã hội muốn tốt đẹp phải biết giúp đỡ những người bé nhỏ. Một xã hội chỉ thực sự văn minh khi biết quan tâm tới những người kém may mắn. Nếu chỉ nghĩ đến bản thân mình ta sẽ thấy cuộc đời chỉ toàn bất công. Nếu biết nghĩ đến người khác, ta sẽ thấy cuộc đời thật đẹp đẽ vì chan chứa tình người.
Qua dụ ngôn này ta thấy tư tưởng của Chúa khác hẳn tư tưởng của con người. Cách cư xử của Nước Trời khác hẳn cách cư xử của nước trần gian. Lý luận của Chúa khác hẳn lý luận của người đời. Không tìm lợi lộc cho bản thân nhưng lo tìm hạnh phúc cho người khác. Không trọng sang khinh hèn, nhưng để ý yêu thương giúp đỡ những người kém may mắn, bị bỏ rơi trong xã hội. Không dùng lý lẽ của lý trí nhưng dùng lý lẽ của con tim, một con tim luôn yêu thương, luôn mong muốn hạnh phúc cho mọi người. Chúa mong con cái Chúa cũng hãy có tư tưởng của Chúa, cư xử như Chúa và yêu thương như Chúa. Như thế mới có thể làm cho Nước Chúa mau lan rộng.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu được đường lối Chúa và cho con luôn đi trong đường lối của Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Công bình tuyệt đối có làm cho con người hạnh phúc không, hay là còn cần tới bác ái nữa?
2) Qua dụ ngôn này, Chúa muốn dạy tôi điều gì?
3) Nếu bạn là người tàn tật, yếu ớt, thất bại, bạn mong chờ điều gì nơi xã hội: công bình hay bác ái?


Bài 15. Thợ làm vườn nho
Radio Veritas Asia

Kể từ ngày Mẹ Têrêsa Calcutta qua đời, chúng ta đã biết không đầy hai năm sau khi Mẹ qua đời, hồ sơ phong chân phước cho Mẹ đã được khởi sự. Đây quả là một kỷ lục trong Giáo Hội, nhưng Mẹ Têrêsa Calcutta không chỉ là một vị thánh của Giáo Hội mà còn là một vĩ nhân của thế giới. Mẹ không chỉ là một mẫu gương thánh thiện cho các tín hữu Kitô, nhưng Mẹ còn để lại một gia sản tinh thần chung cho cả thế giới, gia sản đó là người ta không thể giải quyết mọi vấn đề đau khổ của nhân loại chỉ bằng tiền của vật chất, kỹ thuật, mà bằng trái tim rộng mỡ, bằng tấm lòng quảng đại.
Trước dư luận cho rằng, Mẹ Têrêsa không chủ trương giải quyết vấn đề nghèo đói tại Ấn Độ một cách tận căn. Mẹ đã trả lời:
“Tôi cảm thấy mình là người Ấn Độ cho đến tận đáy tâm hồn tôi. Những chiếc aó dòng cho phép các nữ tu cảm thấy mình nghèo với những người nghèo, được đồng hóa với những người tàn tật, những trẻ em, những người già cả và những người kém may mắn. Với cách ăn mặc như thế, các nữ tu thừa sai bác ái đã chia sẻ cuộc sống của những người nghèo khổ nhất trên thế giới. Dĩ nhiên, Ấn Độ cần có các chuyên viên, những nhà chuyên môn, các kinh tế gia, các y sĩ, các y tá để phát triển. Ấn Độ cần có một chương trình hoạt động rộng rãi được phối hợp chặt chẽ, nhưng chúng ta phải chờ đợi cho đến bao giờ các chương trình ấy được thực hiện? Chúng tôi không biết, nhưng trong khi chờ đợi thì dân chúng cần phải sống, cần phải có của để ăn, cần phải được săn sóc. Địa bàn hoạt động của chúng tôi tại Ấn Độ hiện nay là, bao lâu người dân còn cần những nhu cầu ấy thì chúng tôi còn tiếp tục công việc của mình”.
Quả thực, trong trái tim đơn thành, khiêm tốn, trong sạch của Mẹ Têrêsa Calcutta không hề có những chương trình vĩ đại, Mẹ chỉ thấy sự cần thiết trước mắt là sự nghèo đói khốn khổ của người đồng loại. Nhưng tấm lòng cảm thông và thông cảm ấy không chỉ thấy người dân đói khổ về vật chất, nhưng đôi mắt từ ái của Mẹ Têrêsa còn nhìn thấy một nỗi khổ khủng khiếp hơn của người đồng loại, đó là nỗi khát khao được yêu thương. Mẹ Têrêsa không chỉ trao ban một miếng bánh, một chén cơm, không chỉ trùm trên thân xác đói lạnh một tấm chăn, không chỉ băng bó một vết thương trên thân xác, nhưng món quà quí giá nhất mẹ ban chính là tình thương.
Đây vốn là nhu cầu cơ bản và thiết yếu nhất của mỗi con người, dù con người ấy sống trong một nước nghèo khổ như Ấn Độ hay trong một đất nước phồn thịnh như Hoa Kỳ. Mẹ đã tóm tắt chương trình hành động của Mẹ trong câu nói: “Tôi không bao giờ săn sóc cho các đám đông, tôi chỉ săn sóc cho một người mà thôi”. Quả thực, trong ánh mắt từ ái của Mẹ không có đám đông vô danh, không có con số trong đám đông mà chỉ có từng cá nhân trước mắt cần được yêu thương mà thôi. Trong trái tim đầy yêu thương của Mẹ không có chương trình hành động vĩ đại, mà chỉ có những cử chỉ cụ thể mà con người có thể làm cho từng đồng loại của mình mà thôi.
Thế giới ngày càng làm ra nhiều của cải vật chất, thế giới ngày càng có nhiều chuyên viên kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý. Dĩ nhiên, thế giới ngày càng có nhiều chương trình vĩ đại hơn, xóa bỏ bất công và xóa đói giảm nghèo, thế nhưng bất công và đói khổ vẫn còn đó. Như vậy, trong lịch sử nhân loại, chương trình vĩ đại nhất để xóa bỏ bất công, san bằng xã hội, hẳn phải là một số chế độ độc tài. Kết quả của chương trình hành động vĩ đại này thật là thảm khốc, người ta xóa bỏ một bất công để tạo nên những bất công mới, người ta đạp đổ một nhà tù để xây thêm nhiều nhà tù mới, người ta nại đến nhân quyền để chà đạp nhân quyền.
Thật ra, loài người muốn xóa bỏ mọi thứ bất công bằng tiền của và các phương tiện kỹ thuật, xét cho cùng trong sự tính toán của loài người thì tiền của vẫn là điểm quy chiếu tối hậu, đó là tư tưởng và cách giải quyết của loài người chúng ta. Còn tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa như chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất (x.Is 55,6-9), đường lối và cách giải quyết của Thiên Chúa thì hoàn toàn khác với loài người. Thiên Chúa mời gọi chúng ta đi vào tư tưởng, đi vào sự tính toán và cách giải quyết của Ngài. Thiên Chúa dựa trên một tiêu chuẩn khác với tiêu chuẩn và các phương tiện kỹ thuật, tiêu chuẩn đó là tình yêu, lòng độ lượng khoan dung, sự tha thứ cách quảng đại, tinh thần phục vụ dấn thân cách đắc lực. Đây là việc làm mà Chúa Giêsu luôn mời gọi mọi người thực hành đức công bình bác ái với mọi người: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Đây là tiêu chuẩn mà Chúa Giêsu muốn làm nổi bật qua dụ ngôn được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, chúng ta sẽ ngạc nhiên về cách giải quyết của Thiên Chúa, là người thợ chỉ làm có một giờ cũng lãnh bằng những người thợ làm quần quật suốt ngày. Với cách cư xử của ông chủ vườn nho, Thiên Chúa muốn cho chúng ta thấy cách cư xử độ lượng của Thiên Chúa đối với tất cả mọi người. Ngài cho chúng ta thấy rằng, bất công trong xã hội và tất cả mọi khổ đau của con người chỉ có thể giải quyết được bằng tình thương mà thôi. Sự thật hiển nhiên là thế giới không bao giờ thiếu của cải, có thiếu chăng chỉ là thiếu tình thương, thiếu lòng quảng đại, thiếu sự chia sẻ mà thôi. Thiếu tình thương thì không những người nghèo quằn quại trong đói khổ và cả người giàu cũng héo hắt trong vỏ ốc ích kỷ của mình.
Chúng ta được diễm phúc dự phần vào bàn tiệc Thánh Thể, Tấm Bánh được bẻ ra để chia cho tất cả mọi người. Chúa Giêsu đến với chúng ta qua dấu chỉ ấy để mời gọi chúng ta quảng đại chia sẻ với mọi người. Xã hội sẽ không bao giờ hết những bất công và đau khổ, nhưng bất công và đau khổ sẽ vơi đi biết bao nếu mỗi người biết lấy tình thương, lòng quảng đại và sự chia sẻ đối với nhau. Đó phải là niềm xác tín của chúng ta trong cuộc sống mỗi ngày.


Bài 16. HÃY VÀO LÀM VIỆC TRONG VƯỜN NHO
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Cây nho, vuờn nho là những thực tại rất gần gũi, thân thiết với dân Ítraen xưa. Vì thế mà cây nho, vườn nho, ông chủ vườn nho và thợ làm vườn nho được nhắc đến nhiều lần trong Thánh Kinh Hípri (hay Do thái giáo) và Kitô giáo. Theo quan điểm của Thánh Kinh Kitô giáo, thế giới này là vườn nho của Thiên Chúa, một vườn nho khổng lồ, mà mọi người lớn/bé, già/trẻ, nam/nữ, tài ba/vụng về, trí thức/ít học, giầu/nghèo, lương/giáo… đều được Thiên Chúa là Chủ vườn nho mời vào làm việc trong vườn nho ấy.
Đã làm thì đương nhiên sẽ được trả công «hợp lẽ công bằng». Với một ông chủ giầu có và hào phóng như Thiên Chúa thì chắc chắn những người thợ siêng năng cần mẫn sẽ được hưởng nhiều hơn công sức họ bỏ ra.
Vậy điều quan trọng là mỗi người hãy lao động với tất cả khả năng, nhiệt huyết và thời gian của mình cho Vườn Nho của Thiên Chúa để thế giới này và xã hội của chúng ta trở nên công bình và bác ái hơn.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Is 55,6-9): Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi.
2.2 Trong bài đọc 2 (Pl 1,20-24.27a): Đối với tôi sống là Đức Kitô.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 20,1-16a): Phải chăng vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
- Là Đấng vô cùng cao siêu, tuyệt đối và khôn lường đối với khả năng trí tuệ của loài người, vì chính Người đã phán dậy rằng «tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi» và «đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta.»
- Là Chúa Giê-su, Đấng đã dùng dụ ngôn thợ làm vườn nho để mời gọi hết mọi người không phân biệt sắc tộc/ngôn ngữ, lớn/bé, già/trẻ, nam/nữ, sớm/muộn, lương/giáo vào làm trong vườn nho của Thiên Chúa là thế giới này. Kế hoạch của Thiên Chúa là giao cho con người quyền bá chủ vũ trụ vạn vật để con người tổ chức điều hành theo Ý Thiên Chúa: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất.” (St 1, 28).
- Là Chúa Thánh Thần, Thần Khí Khôn Ngoan của Thiên Chúa, Đấng đã cùng với Chúa Cha tạo dựng vũ trụ vạn vật, đã cùng với Chúa Con cứu nhân độ thế. Chính Chúa Thánh Thần là Đấng đang thúc đẩy và hướng dẫn mọi người làm việc cho Vườn Nho của Thiên Chúa.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?):  Qua ba bài Sách Thánh, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho.”
Làm việc cho/trong vườn nho là xây dựng các mối tương quan giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng và giữa cộng đồng này với cộng đồng kia. Mối tương quan ấy phải đậm tính nhân đạo, tôn trọng, tương thân tương ái và hổ trợ lẫn nhau. Mục đích là xây dựng một môi trường, một xã hội và một thế giới đầy tính nhân văn, công bình và văn minh giống như những người thợ chăm sóc vườn nho để cây nho cho trái ngọt và rượu ngon vậy.
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, nhất là ơn được làm hòa, được xóa tội và thứ tha và ơn được tham gia vào việc xây dựng thế giới tốt đẹp cho loài người. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và biết ơn sâu sắc.
4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa là mỗi người chúng ta kiểm điểm xem mình đã dấn thân vào công trình xây dựng Vườn Nho của Thiên Chúa là thế giới hôm nay, là xã hội Việt Nam hiện giờ như thế nào. Cụ thể là mỗi người hãy tự hỏi:
(a) Tôi đã dành bao nhiêu thời gian, tiền của, công sức và tài năng, [mà Thiên Chúa đã ban cho tôi] cho Vườn Nho của Thiên Chúa là môi trường và xã hội trong đó tôi đang sống?
(b) Tôi đã và đang làm những gì để Giáo hội tốt lành, thánh thiện hơn?
(c) Tôi đã và đang làm những gì để thế giới và xã hội hiện nay bớt bất công và tội ác?
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 «Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các dân tộc trên thế giới hôm nay, để họ sớm nhận ra Thiên Chúa là Đấng cao sang, thánh thiện và siêu việt, vượt trên mọi trí khôn của loài người.
X. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Đ. Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 «Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho”  Chúng ta hãy cầu nguyện cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng y, Giám mục, Linh mục và Tu sĩ nam nữ và   mọi tín hữu, để mọi người hăng say nhiệt thành với việc làm cho vườn nho của Thiên Chúa.
5.3 “Chỉ có một điều là anh em phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Ki-tô.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các tín hữu trong giáo xứ/cộng đoàn chúng ta, để mọi người biết sống xứng đáng với Tin Mừng của Chúa Kitô mà họ đã được Thiên Chúa ban tặng cách nhưng không.
5.4 «Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người vi phạm nhân quyền, coi thường sự thật và chà đạp công lý để họ nhận ra tội lỗi của mình mà cải tà quy chính.


Bài 17. Bài giảng của Lm. Giuse Đinh Tất Quý

“Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn.
Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi
là một quan tiền sao?”
(Mt 20,14)
Anh chị em thân mến,
Bài Tin Mừng chúng vừa nghe nói về lòng quảng đại trong việc phụng sự Thiên Chúa cũng như đối xử với nhau.
Bài học này, Chúa dùng một dụ ngôn đặc biệt để dạy chúng ta.
I. Bài dụ ngôn
1. Một người kia có một vườn nho.
- Ông ta là chủ của vườn nho đó cho nên ông ta có quyền canh tác trên vườn nho đó để thu hoa lợi
- Diện tích vườn nho có lẽ phải lớn cho nên ông phải thuê người làm cho ông.
- Ở đây chúng ta nên lưu ý một chút về cách tính giờ của người Do Thái:
Ngày làm việc của người Do Thái bắt đầu từ lúc mặt trời mọc và kết thúc vào lúc mặt trời lặn. Và căn cứ vào đó thì chúng ta sẽ có một thời biểu tương ứng như thế này:
Giờ thứ 1, thứ 3, thứ 6, thứ 9 và thứ 11, tương đương với 6 giờ, 9 giờ, 12 giờ, 15 giờ, 17 giờ, và kết thúc lúc 18 giờ.
- Có 5 đợt thuê thợ tất cả.
Đợt đầu có sự mặc cả rõ ràng về giá cả 1 đồng/một ngày công.
Các đợt sau thì không có sự mặc cả gì.
- Chiều đến: trả lương.
- Cách thức trả lương có khác thường… bắt đầu từ người đến làm việc sau cùng đến người làm đầu tiên.
- Chính cách thức trả lương như thế đã làm nảy sinh ra vấn đề phân bì giữa những người thợ được thuê làm trong cùng một vườn nho.
- Người cuối cùng vui vì thái độ đầy lòng yêu thương và quảng đại của chủ.
- Những người đến làm trước buồn vì cảm thấy mình như bị thua thiệt.
2. Vấn đề đặt ra ở đây là ông chủ làm như thế có công bằng không. Ta phải trả lời là có.
- “Này bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi một đồng sao?” (Mt 20,13)
- Ông đã đối xử với họ theo lẽ công bằng thương mại. Luật pháp gọi là công bằng giao hoán.
- Về phương diện này thì ông chủ hợp lý và hợp pháp
- Việc ông chủ đối xử khác, khác hơn lẽ công bằng giao hoán thì lại là vấn đề khác. Nó đã vượt ra ngoài phạm vi công bằng. Nó đã vươn lên tới một bình diện cao hơn… đó là lòng Bác ái và ông ta có quyền làm như thế.
Đó là nội dung bài dụ ngôn hôm nay. Thế nhưng khi đưa ra bài dụ ngôn này Chúa muốn dạy chúng ta điều gì.
II. Bài học
1. Muốn hiểu được bài học Chúa muốn dạy qua bài dụ ngôn hôm nay, chúng ta lại phải trở về với những hoàn cảnh của nó.
Tin Mừng kể lại trước khi nói dụ ngôn này thì có một người thanh niên đến gặp Chúa và muốn xin được làm môn đệ của Ngài. Chúa bảo anh ta hãy trở về bán tất cả những gì anh có rồi phân phát cho những người nghèo khó và Chúa coi đó như một điều kiện phải có để Ngài chấp nhận anh ta. Sự đòi hỏi của Chúa làm cho anh ta chùn bước. Lý do là vì anh có nhiều của cải. Của cải đã níu kéo quá mạnh, thành thử anh ta đã bỏ cuộc. Nhưng câu chuyện chưa chấm dứt tại đấy.
Sau khi người thanh niên bỏ đi thì ông Phêrô… lại ông Phêrô. Ông Phêrô đứng ra đặt vấn đề với Chúa. Ông nói như sau “Thưa Thầy, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, chúng con sẽ được gì?” (Mt 19,27)
Câu hỏi của Phêrô sặc mùi thương mại trần thế. Ông muốn Chúa phải nói rõ cho các ông biết Chúa sẽ đối xử với các ông thế nào trước những hy sinh từ bỏ của họ. “Chúng con sẽ được gì?”
Chúa không để cho các ông ấy phải thất vọng. Chúa đã trả lời. Chúa không lẩn tránh vấn đề. Và câu trả lời của Chúa thật là tuyệt diệu. Tuyệt diệu ở chỗ nó vừa thỏa mãn được vấn đề các tông đồ đặt ra với Chúa, lại vừa có sức nâng tầm nhìn của các môn đệ lên tới một bình diện cao hơn.
“Ai vì danh Ta mà từ bỏ Cha Mẹ, anh em, con cái, nhà cửa, ruộng đất thì sẽ được gấp trăm ở đời này và… [tiếng và thật quan trọng (ghi chú của tác giả)]… và được sự sống đời đời.” (Mt 19,29)
Sự sống đời đời. Đó là một phần thưởng vô cùng quý giá mà không có một giá trị trần thế nào có thể đổi chác được. Phần thưởng đó là do ơn lộc của Chúa cũng như do lòng quảng đại vô bờ vô bến của Ngài.
Trong nước của Thiên Chúa sẽ không có giao hoán đổi chác, phần thưởng sẽ không dựa vào lao động như thước đo.
Phần thưởng trong nước Thiên Chúa không được tính theo số lượng giờ giấc nhưng trước hết phải căn cứ vào niềm tin: Tin vào sự quảng đại và tình thương bao la của Thiên Chúa và sau là trung thành với niềm tin đó.
Vì thế dù chỉ được Chúa kêu gọi một phút giây trước giờ tàn của cuộc sống thì sự trung thành cũng vẫn cần thiết.
Con người không có quyền ghen tị với sự quảng đại của Thiên Chúa. Nếu một ai đó thấy cuộc đời của mình không được Chúa đối xử lại một cách quảng đại, thì lý do không phải tại Chúa, mà họ phải hồi tâm trở lại với lòng mình xem mình đã sống với Chúa như thế nào:
Ông chủ trong dụ ngôn đã tính toán với những ai đã muốn tính toán với ông. Nhưng ông lại rất quảng đại đối với những ai tin tưởng vào ông.
Để minh họa điều này tôi xin mời anh chị em nghe một câu truyện. Câu truyện này do văn hào Tagore viết ra. Ông là một người không có đạo nhưng những gì ông viết rất phù hợp với những Lời của Chúa trong Phúc Âm.
Câu truyện có tựa đề là “Người ăn xin”
Con đi ăn xin từng nhà trên con đường làng. Bỗng con thấy một cỗ xe bằng vàng đang từ xa đi tới… như một giấc mơ, giấc mơ huy hoàng. Con tự hỏi ông vua nào mà lại lộng lẫy như thế? Lòng hy vọng trào lên trong lòng con. Con tự nghĩ: “Thế là từ nay đời mình sẽ hết khổ!” Và con chuẩn bị sẵn sàng chờ Ngài đến… tay Ngài bung những đồng tiền vàng vung vãi trong đám bụi bên đường.
Và cỗ xe dừng lại nơi con đang đứng. Cái nhìn của đức vua đậu lại trên con… rồi Ngài bước xuống, miệng mỉm cười. Con cảm thấy như cơ may của đời mình đã tới.
Bỗng dưng con thấy đức vua chìa tay ra và hỏi “Con có gì cho ta không?”
Con bối rối ngỡ ngàng… Con từ từ thò tay vào trong bị rút ra một hạt lúa mì và dâng cho Ngài. Nhận hạt lúa mì xong, Ngài lên xe và tiếp tục đi.
Chiều đến… khi dốc những hạt lúa trong bị ra… thì thật là ngỡ ngàng biết bao.
Một hạt vàng óng ánh nằm giữa những hạt lúa mì khác.
Con nức nở khóc và tiếc rẻ. Con tự nguyền rủa chính mình “Tại sao mình đã không dâng cả cho đức vua tất cả những hạt lúa mì mình có.”
Có lẽ cuộc sống của chúng ta mỗi người nhiều khi cũng giống như thế. Chúng ta rất hẹp hòi với Chúa và với anh em. Rồi nhiều khi chúng ta thấy người nọ người kia được Chúa đối xử hơn chúng ta, thay vì chúng ta bình tâm xét lại xem chúng ta đã sống cho Chúa như thế nào, chúng ta lại đâm ra ghen tương phen bì với anh em và cả với Chúa nữa.
Lạy Chúa, giờ đây, xin Chúa điều chỉnh lại cách sống của chúng con, sao cho những ngày tháng chúng con sống trên đời là những ngày tháng tràn ngập niềm vui. Vì đó là những ngày chúng con sống chan hòa với Chúa và với anh chị em chúng con. Amen.
 
[1][1] Xem Bản dịch của Lm Nguyễn Thế Thuấn.

Bài 18: Đố kỵ và ghen ghét


Sau khi thỏa thuận “một đồng” theo lẽ cồng bằng, một số người trong số những người thợ làm vườn nho lại tỵ nạnh nhau, thậm chí còn nói chủ này nọ. Ông chủ bảo: “Phải chăng vì thấy tôi TỐT BỤNG mà bạn đâm ra GHEN TỨC?” (Mt 20:15). Nhưng với lòng thương xót, Chúa Giêsu vẫn nhẹ nhàng khuyên nhủ và răn dạy, đồng thời như một mệnh lệnh: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng HIỀN HẬU và KHIÊM NHƯỜNG. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:29). Lòng đố kỵ và tính ghen ghét không chỉ có ở cuộc sống đời thường mà có cả trong cuộc sống tâm linh, ở mọi tầng lớp,…
Cuộc sống luôn cần phải tự vươn lên để càng ngày càng khá hơn, dù đời thường hoặc đời sống tâm linh. Và dù mặc nhiên hoặc minh nhiên, cuộc đời vẫn luôn có những “cuộc thi”, đa dạng và với nhiều mức độ khác nhau. Thi đua hoặc ganh đua thì tốt, nhưng nếu ganh tị, ghen tị hoặc đố kỵ thì thật nguy hiểm! Cổ nhân có câu: “Tâm phẫn xí tắc bất đắc kỳ chính”. Ngay cả cơn giận cũng có thể khiến người ta hành động bất chính!
Lòng đố kỵ là do ghen. Ghen thường đi liền với ghét. Vì “ghen” mà “tức”, rồi “ghét” người khác. Đó là một trạng thái tâm lý của con người phản ánh những suy nghĩ tiêu cực được biểu hiện bằng cảm giác bất an, sợ hãi, lo lắng về một sự mất mát hoặc thua kém nào đó. Trong đó, cảm xúc chủ yếu là sự đố kỵ hoặc ganh tị vì cảm thấy thua kém người khác về kết quả, thành tích, hoạt động, hạnh phúc, thành công,… của mình so với người khác, do đó mà cảm thấy không vui, ấm ức, hậm hực, khó chịu, tức tối, bực bội, bất mãn,… Trong tình yêu, hôn nhân và gia đình thì trạng thái này gọi là ghen tuông (có người gọi là ghen tương).
Ghen tuông là một trạng thái tâm lý phổ quát trong mọi nền văn hóa biểu hiện qua những mối quan hệ xã hội, gia đình, tình yêu đôi lứa. Nguyên nhân chung vì thiếu tự tin nên có phản ứng phòng vệ, muốn chứng tỏ “đẳng cấp” của mình nhưng lại vẫn có cảm giác lo sợ, đầy ích kỷ và hóa mù quáng.
Ghen là do yêu chính bản thân mình chứ không yêu người khác. Động thái ghen ghét gây tức giận, ảnh hưởng cả tâm sinh lý. Ghen cũng là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại thể bệnh như bệnh tim, tiểu đường, cao huyết áp, ung nhọt,… Thể bệnh và tâm bệnh đều có liên quan với nhau, bị cái này cũng kéo theo cái kia. Ngoài ra nó còn là nguyên nhân dẫn đến nhiều nghịch cảnh, oái ăm, gây tan vỡ trong tình yêu, hôn nhân và gia đình, thậm chí còn dẫn đến những kết quả thảm khốc, sát nhân. Tội lại chồng lên tội!
Trong tiếng Việt, ghen còn có các thuật ngữ thông dụng tùy từng hoàn cảnh cụ thể mà có những từ ngữ khác nhau. Trong tình yêu, quan hệ vợ chồng thì có ghen tuông, nói văn vẻ là “nổi máu Hoạn Thư”, nổi cơn ghen hoặc nổi máu ghen thì có thể dẫn tới đánh ghen. Đúng là “tâm phẫn xí tắc bất đắc kỳ chính”! Trong các mối quan hệ khác, người ta dùng các từ ngữ như ghen tị, ganh tị, ghen ghét, ghen tức, ghen ăn tức ở, so kè, đố kỵ, tị nạnh, tị hiềm,…
Nói chung, con người với nhau cũng có lòng ghen tị về một hoặc nhiều lĩnh vực nào đó. Khi đó, người ta sẽ tự hành hạ và tự làm khổ mình, giống như có con rắn độc trong lòng, nó không bao giờ chịu “nằm yên” để tận hưởng cuộc sống. Lòng ghen tị là một đức tính rất xấu, nó khiến người ta không thể tiến bộ, không thể thanh thản.
Nói chung, phụ nữ có máu ghen nhiều hơn nam giới, họ đặc biệt sợ sự phản bội tình cảm và đau khổ hơn là sự không chung thủy về mặt tình dục, đó là cảm giác “sợ bị bỏ rơi”. Khi hiện tượng ghen xuất hiện, người ta thường nghĩ đàn ông hoặc phụ nữ đều như nhau, nhưng thường thì đàn ông ghen khi bị đối tác phản bội về tình dục, còn phụ nữ lại ghen và đau đớn khi chồng gian dối tình cảm.
Về diễn biến, quá trình ngoại tình của đàn ông thường diễn ra nhanh hơn phụ nữ, có khi chỉ vì lý do tình dục. Họ có thể “ngẫu hứng” rất nhanh, nếu được bên kia chấp thuận và có cơ hội. Họ sẵn sàng quan hệ tình dục mà không cần cân nhắc. Về sinh lý, đàn ông có thể đạt cực khoái cảm cả với người đàn bà mà họ không yêu, thậm chí không biết tên là gì, hoặc thua kém vợ mình về nhiều phương diện, ngay cả lúc họ đang có hạnh phúc gia đình. Chính vì đặc điểm này mà phụ nữ luôn lo lắng và ghen tuông vì họ không thể kiểm soát được đối tượng của mình. Còn phụ nữ chỉ khoái cảm tình dục với người đàn ông họ thích.
Đối với các phụ nữ ngoại tình, nguyên nhân chính do tình cảm, và quá trình ngoại tình của phụ nữ cũng lâu hơn, nhiều công phu hò hẹn, gặp gỡ, do đó có những dấu hiệu dễ bị phát hiện hơn, và khi họ đã ngoại tình với ai thì thường là họ yêu người đó, đa số phụ nữ chỉ ngoại tình khi họ không có tình yêu trong hôn nhân. Vì thế, một khi đàn bà đã ngoại tình, họ bị cuốn hút cả về tinh thần lẫn thể xác. Chính vì đặc điểm này, đàn ông ghen và có cảm giác bất lực khi không thể níu kéo một mối quan hệ đang đổ vỡ.
Khi yêu, cơn ghen của người đàn ông thường biểu hiện tính chiếm hữu, đồng thời sự ghen tuông này cũng thường xuất phát từ việc cảm thấy không chắc chắn, không yên tâm về tình cảm của phụ nữ dành cho mình, nhất là khi họ chưa phải là vợ chồng chính thức. Do đó, đàn ông thường có tâm lý thiếu tự tin và chưa tin tưởng cô bạn gái của họ. Sự ghen tuông mù quáng của người yêu khiến đối tượng trở nên mệt mỏi, tình yêu bị đe dọa. Đặc điểm chung là đàn ông khi ghen tuông dễ bạo lực mù quáng, họ khó kiểm soát cơn ghen của mình, chính sự thất vọng hoặc thiếu tự tin như đổ thêm dầu vào lửa, vì thế có những người chồng thiêu chết vợ, chém vợ chết, giết cả nhà vợ chỉ vì quá ghen, thậm chí ném cả con nhỏ chết vì ghen với vợ,…
Máu ghen có thể nổi lên ở nam hoặc nữ, trẻ hoặc già, bất kỳ lúc nào. Máu ghen nổi lên thì chỉ có nước “bó tay”!
Lòng đố tỵ có sức công phá cực mạnh, làm xói mòn mọi mối quan hệ. Người ganh tỵ luôn cảm thấy ghen ghét tất cả với những ai xinh đẹp hơn, giỏi giang hơn, tài ba hơn, giàu có hơn, được người khác quý mến hơn,… Vì thế họ luôn bất an, cảm thấy khổ sở vì xung quanh có những người hơn họ, về phương diện này hoặc phương diện nọ. Họ luôn muốn mình hơn người khác không bằng cách tự vươn lên mà chỉ tìm cách “đè bẹp” người khác, sẵn sàng dùng thủ đoạn để kéo người khác xuống, lòng họ chứa đầy những ý đồ đen tối, có dịp là họ buông lời gièm pha, không ngần ngại “ngậm máu phun người” – dù có thể họ vẫn biết rằng “hàm huyết phún nhân, tiên ô tự khẩu”.
Làm quân tử hoặc sống cao thượng không dễ chút nào. Muốn làm quân tử phải biết Tu Thân (sửa mình), Tu Tánh (sửa tính nết), Tu Hạnh (sửa cho có nhân đức), Tu Ngôn (sửa lời nói). Quân tử phải cao thượng, vừa khiêm nhường vừa tha thứ. Quân tử trái ngược với tiểu nhân: QUÂN TỬ DỤ Ư NGHĨA, TIỂU NHÂN DỤ Ư LỢI – nghĩa là “quân tử hiểu rõ cái nghĩa, tiểu nhân hiểu rõ cái lợi”; QUÂN TỬ CẦU CHƯ KỶ, TIỂU NHÂN CẦU CHƯ NHÂN – nghĩa là “quân tử cầu ở mình, tiểu nhân cầu ở người”.
Tục ngữ Việt Nam cũng có câu: “Đấng trượng phu đừng thù mới đáng, đấng anh hùngđừng oán mới hay”. Danh nhân W. Goethe nghiêm túc nhận định: “Ai thẳng thắn với bản thân và thẳng thắn với người khác thì bao giờ cũng có phẩm chất vô cùng quý báu của những tài năng vĩ đại”.
Trình thuật Lc 10:28-42 kể rằng, khi Đức Giêsu và các đệ tử vào một làng kia thì có một phụ nữ tên là Mác-ta đon đả đón chào và mời Thầy trò cùng ghé vào tệ xá của mình. Mác-ta có người em gái tên là Maria. Cô em điềm tĩnh và trầm lặng, chỉ thích ngồi nghe Chúa nói chuyện đời và những lời hay ý đẹp. Chắc hẳn Chúa Giêsu nói chuyện vừa hay vừa có duyên, chẳng thế mà cả chục ngàn người nghe Ngài giảng dạy đến quên cả đói bụng, quên cả trời tối (x. Mt 14:13-21; Mc 6:30-44; Lc 9:10-17; Ga 6:1-14). Còn Mác-ta thì lăng xăng và tất bật cơm bưng nước rót. Cô chị thấy em gái “vô tư” quá, mà cả Chúa Giêsu cũng “vô tâm” luôn, còn mình thì không ngơi tay, lặt rau chưa xong mà nước đã sôi, tối cả mặt mày, thế nên cô chị ấm ức nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!” (Lc 10:40). Có thể giọng nói của Mác-ta lúc đó không “êm tai” lắm đâu. Đó cũng chính là một dạng ganh tị!
Chúa Giêsu không quở trách Mác-ta mà Ngài chỉ ôn tồn: “Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyệnquá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10:41-42). Lời Ngài nhẹ nhàng mà có thể gây đau điếng!
Cuộc đời cũng cần những người chu đáo và hoạt bát, nhưng vấn đề là “đừng nhiều chuyện”. Nội tại luôn quan trọng hơn ngoại tại. Chú trọng bề ngoài là chứng tỏ nội tâm nông cạn. Chỉ vì cảm thấy nội tâm nông cạn mà người ta muốn dùng ngoại tại để khỏa lấp khoảng trống nội tại. Từ đó, lòng đố kỵ có thể dễ dàng nổi lên!
Trong truyện “Bạch Tuyết và Bảy Chú Lùn”, mụ phù thủy chỉ vì đố kỵ và ghen về sắc đẹp mà mụ tìm cách hại nàng Bạch Tuyết. Trong truyện Tấm Cám, mẹ con Cám chỉ vì đố kỵ và ghen tức mà hại nàng Tấm đủ cách. Tranh dân gian Đông Hồ cũng có tranh vẽ cảnh đánh ghen.
Lòng đố kỵ khiến người ta ghen tức, sẵn sàng manh động hoặc bạo động với bất kỳ ai – ngay cả với người thân thiết nhất. Quả thật, lòng đố kỵ và ghen ghét vô cùng nguy hiểm! Quả thật, “tâm phẫn xí tắc bất đắc kỳ chính”.
Kinh Thánh cũng ghi lại nhiều chuyện liên quan lòng đố kỵ và ghen ghét. Trong dụ ngôn “Người Thợ Làm Vườn Nho” do Chúa Giêsu kể, ông chủ đã đặt vấn đề với những người thợ bép xép: “Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt 20:15).
Người Do-thái vì ghen tức mà phản đối và nhục mạ Thánh Phaolô (Cv 13:45). Và cũng vì ghen tức mà “họ quy tụ một số du đãng đầu đường xó chợ, họp thành đám đông, gây náo động trong thành. Họ kéo đến nhà ông Gia-xon, tìm ông Phaolô và ông Xila để đưa hai ông ra trước đại hội toàn dân” (Cv 17:5).
Sách Châm Ngôn dạy: “Tâm hồn bình an là nguồn sống cho thể xác, nhưng lòng ghen ghét tựa chứng bệnh mục xương” (Cn 14:30). Lòng đố kỵ thật đáng sợ! Với những người có tính đố kỵ và ghen ghét, Thiên Chúa đã thẳng thắn cảnh cáo: “Ta sẽ xử sự theo cơn giận và lòng ghen ghét của ngươi như ngươi đã xử sự khi ngươi ghét chúng” (Ed 35:11).
Thánh Phaolô nhắc nhở Thánh Titô: “Anh hãy nhắc nhở cho ai nấy phải phục tùng và tuân lệnh các nhà chức trách, các người cầm quyền, phải sẵn sàng làm mọi việc tốt, và đừng chửi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hoà, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi người. Thật vậy, cả chúng ta nữa, xưa kia chúng ta cũng ngu xuẩn, không vâng lời, lầm lạc, làm nô lệ cho đủ thứ đam mê và khoái lạc, sống trong gian ác và ganh tị, đáng ghét vàghen ghét lẫn nhau” (Tt 3:1-3).
Ai có Chúa trong lòng thì biết sống yêu thương, sẵn sàng thể hiện lòng thương xót, và không có ý đố kỵ hoặc ghen ghét tha nhân. Nếu họ bị ghen ghét thì cũng được Thiên Chúa giải cứu: : “Chúa cứu họ khỏi tay người ghen ghét, giải thoát họ khỏi tay địch thù” (Tv 106:10).
Thật vậy, khi được đầy Thánh Thần, Thánh Dacaria đã cất tiếng ca tụng trong Bài ca Chúc Tụng (Benedictus): “Chúa sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù, thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét” (Lc 1:71).
Lạy Thiên Chúa, Đấng yêu thương và thương xót, xin giúp chúng con biết triệt hạ tính đố kỵ và ghen ghét để mặc lấy chiếc áo nhân hậu của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ chúng con. Amen.
Trầm Thiên Thu
 
 
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận